Academia.eduAcademia.edu
Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận Bởi: Nguyễn Thị Nga lợi nhuận của doanh nghiệp khái niệm một nền sản xuất chỉ có thể tồn tại và phát triển khi có tích luỹ. mà xét về mặt bản chất, tích luỹ là sử dụng một phần của cải xã hội tạo ra để tái đầu tư vào các yếu tố sản xuất nhằm tăng quy mô và năng lực của nền kinh tế. muốn tích luỹ thì phải có lợi nhuận. thực tế một thời chúng ta đã không coi trọng lợi nhuận thậm chí coi nó là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản xấu xa. lợi nhuận của doanh nghiệp luôn là một đề tài nghiên cứu, tranh luận của nhiều trường phái kinh tế và nhiều nhà kinh tế. vì vậy, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về lợi nhuận: • chủ nghĩa trọng thương cho rằng: “lợi nhuận được tạo ra trong lĩnh vực lưu thông, lợi nhuận thương nghiệp là kết quả của sự trao đổi không ngang giá, là sự lừa gạt”. • chủ nghĩa trọng nông cho rằng: “ngồn gốc của sự giàu có của xã hội lại là thu nhập trong sản xuất nông nghiệp”. • kinh tế chính trị học tư sản cổ điển anh mà đại diện là adam smith cho rằng: “lợi nhuận trong phần lớn trường hợp chỉ là món tiền thưởng cho việc mạo hiểm và cho lao động khi đầu tư tư bản”. vì vậy, ông ta không nhận thấy được sự khác nhau giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư nên ông đã đưa ra quan điểm: “lợi nhuận là hình thái khác của giá trị thăng dư”. • kế thừa có chọn lọc các nhân tố khoa học của kinh tế chính trị tư sản cổ điển kết hợp với những phương pháp biện chứng duy vật, c.mác đã xây dựng thành công lý luận về hàng hoá, sức lao động, đây là cơ sở để xây dựng học thuyết giá trị thặng dư và ông đã kết luận rằng: “giá trị thặng dư được quan điểm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra mang hình thái biến tướng là lợi nhuận”. như vậy bản chất của lợi nhuận là hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư, là kết quả lao động không được trả công do nhả tư bản chiếm lấy. tư bản thương nghiệp thuần tuý mặc dù không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư nhưng vẫn thu được lợi 1/19 Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận nhuận, sở dĩ tư bản thương nghiệp vẫn thu được lợi nhuận là vì được tư bản công nghiệp nhường cho một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong quá trình sản xuất để tư bản thương nghiệp thực hiện giá trị hàng hoá cho tư bản công nghiệp. • kinh tế học hiện đại dựa trên các quan điểm của các trường phái và sự phân tích thực tế thì kết luận rằng nguồn gốc của lợi nhuận trong doanh nghiệp là: “thu nhập mặc nhiên từ các nguồn lực mà doanh nghiệp đã đầu tư cho kinh doanh, phần thưởng cho sự mạo hiểm sáng tạo, đổi mới cho doanh nghiệp và thu nhập độc quyền”. nhưng từ khi chúng ta chuyển đổi nền kinh tế từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, lợi nhuận được coi là một tiêu chí quan trọng mà mỗi doanh nghiệp đều phải hướng tới trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. khi tiến hành bất cứ một hoạt đông kinh doanh nào chúng ta đều phải hướng tới lợi nhuận của doanh nghiệp mà mình có thể thu được từ hoạt động đó. ngày 12/ 06/1999 luật doanh nghiệp đã được nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/ 01/2000, điều 3 của luật doanh nghiệp ghi nhận: “doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. cũng theo luật doanh nghiệp, “kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời”. như vậy, doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện một hoặc một số khâu của quá trình đầu tư từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ với mục tiêu chủ yếu là sinh lời. còn cái mà một thời mà chúng ta coi trọng, lợi nhuận đã được pháp luật ngày nay thừa nhận là mục tiêu chủ yếu và là động cơ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. vậy lợi nhuận là gì? lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh, là một chỉ tiêu chất lượng để đánh giá hiệu quả kinh tế của các hoạt động của doanh nghiệp. từ góc độ của doanh nghiệp, có thể thấy rằng: lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí từ các hoạt động của doanh nghiệp đưa lại. từ khái niệm trên, xác định lợi nhuận cho một thời kỳ nhất định, người ta căn cứ vào hai yếu tố: thứ nhất: thu nhập phát sinh trong một thời kỳ nhất định. thứ hai : chi phí phát sinh nhằm đem lại thu nhập trong thời kỳ đó hay nói cách khác chỉ những chi phí phân bổ cho các hoạt động, các nghiệp vụ kinh doanh đã thực hiện được trong kỳ. 2/19 Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận công thức chung để xác định lợi nhuận như sau: lợi nhuận = doanh thu - chi phí doanh thu là toàn bộ những khoản tiền thu được do các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đem lại. doanh thu của doanh nghiệp bao gồm: doanh thu về tiêu thụ sản phẩm, doanh thu từ hoạt động tài chính và doanh thu từ các hoạt động bất thường. chi phí là những khoản chi mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được donah thu đó. những khoản chi phí đó bao gồm: • chi phí vật liệu đã tiêu hao trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm như chi pghí nguyên vật liệu, khấu hao máy móc thiết bị. • chi phí để trả lương cho người lao động nhằm bù đắp chi phí lao động sống cần thiết mà họ bỏ ra trobng quá trình sản xuất. • các khoản để làm nghĩa vụ với nhà nước, đó là thuế và các khoản phải nộp khác cho nhà nước như thuế tài nguyên, thuế tiêu thu đặc biệt…các khoản này nhà nước sẽ sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế xã hội như xây dựng cơ sở hạ tầng, bệnh viện, trường học… lợi nhuận của doanh nghiệp là phần doanh thu còn lại sau khi bù đắp các chi phí nói trên. trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm các chi phí bỏ ra. để hoạt động có hiệu quả, doanh nghiệp cần có biện pháp tăng doanh thu hợp lý bên cạnh đó phải không ngừng phấn đấu giảm chi phi, xác định đúng đắn các loại chi phí hợp lý, hợp lệ và loại bỏ các chi phí không hợp lệ trên cơ sở đó giúp doanh nghiệp xác định được giá bán hợp lý và có lãi. kết cấu lợi nhuận trong doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường rất đa dạng và phong phú nhưng bao gồm ba hoạt động chính như sau: thứ nhất -hoạt động sản xuất kinh doanh: đây là hoạt động sản xuất tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của các ngành sản xuất kinh doanh chính và sản xuất kinh doanh phụ. thứ hai -hoạt động tài chính: đây là hoạt động đầu tư về vốn và đầu tư về tài chính ngắn hạn, dài hạn với mục đích kiếm lời như đầu tư chứng khoán, cho thuê tài sản, mua bán ngoại tệ… 3/19 Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận thứ ba -hoạt động bất thường: đây là hoạt động diễn ra không thường xuyên, không dự tính trước hoặc có dự tính trước nhưng ít khả năng thực hiện như giải quyết vấn đề xử lý tài sản thừa, thiếu chưa rõ nguyên nhân… xuất phát từ các hoạt động chính , lợi nhuận của doanh nghiệp thông thường đựơc cấu thành bởi ba bộ phân sau: lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh: là khoản chênh lệch giữa doanh thu của hoạt động sản xuất kinh doanh và chi phí của hoạt động đó bao gồm toàn bộ sản phẩm, hàng hoá dich vụ đã thực hiện và thuế phải nộp theo quy định ( trừ thuế thu nhập doanh nghiệp). doanh thu thuần: là toàn bộ số tiền bán thành phẩm, hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thi trường sau khi trừ đi các khoản giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại(nếu có chứng từ hợp lệ). ngoài ra, trong doanh thu còn bao gồm các khoản trợ giá, phụ thu theo quy định của nhà nước, giá trị sản phẩm, hàng hoá đem biếu tặng hoặc tiêu dùng nội bộ. các chi phí của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ bao gồm: * giá vốn hàng bán: phản ánh trị giá vốn của thành phẩm, hàng hoá, lao vụ dịch vụ xuất bán trong kỳ ( với doanh nghiệp thương mại, nó chính là trị giá mua + chi phí mua của hàng hoá bán ra ). * chi phí bán hàng: là toàn bộ các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ dịch vụ. đó là các chi phí như: chi phí bao gói sản phẩm, bảo quản hàng hoá, chi phí vận chuyển, tiếp thị, quảng cáo… * chi phí quản lý doanh nghiệp: là những khoản chi phí cho việc quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và phục vụ chung khác liên quan đến toàn hoạt động của doanh nghiệp. ta có thể khái quát lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo công thức: lợi nhuận từ hoạt động doanh thu thuần sản xuất kinh doanh = - trị giá vốn hàng bán - chi phí bán hàng - chi phí quản lý doanh nghiệp trong đó: 4/19 Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận doanh thu thuần = tổng doanh thu bán hàng - các khoản giảm giá hàng bán - trị giá hàng bán bị trả lại - thuế gián thu lợi nhuận từ hoạt động tài chính lợi nhuận từ hoạt động tài chính: là số chênh lệch giữa thu nhập hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính của doanh nghiệp trong thời kỳ xác định. công thức xác định: lợi nhuận hoạt động tài chính = doanh thu hoạt động tài chính - chi phí hoạt động tài chính - thuế gián thu (nếu có) thu nhập hoạt động tài chính: là khoản thu do doanh nghiệp tiến hành các hoạt động đầu tư tài chính hoặc kinh doanh vốn đem lại bao gồm hoạt động góp vốn liên doanh liên kết, đầu tư chứng khoán, thu nhập từ việc cho thuê tài sản, thu lãi tiền gửi… chi phí hoạt động tài chính: là các khoản chi phí cho các hoạt động đầu tư tài chính và các chi phí liên quan đến hoạt động về vốn gồm chi phí về liên doanh không tính vào giá trị vốn góp, lỗ liên doanh, lỗ do bán chứng khoán, chi phí đầu tư tài chính, chi phí liên quan đến vay vốn, chi phí liên quan đến việc mua bán ngoại tệ, chi phí khấu hao tài sản cố định, thuê tài chính… lợi nhuận từ hoạt động bất thường lợi nhuận từ hoạt động bất thường: là số chênh lệch giữa thu nhập bất thường và chi phí hoạt động bất thường. công thức xác định: lợi nhuận bất thường = doanh thu từ hoạt động bất thường - chi phí hoạt động bất thường doanh thu hoạt động bất thường: là những khoản thu mà doanh nghiệp không dự tính trước và không xẩy ra một cách thường xuyên: thu về thanh lý tài sản cố định, nhượng bán tài sản cố định. thu tiền phạt khách hàng do vi phạm hợp đồng. thu tiền bảo hiểm được bồi thường. thu được các khoản nợ phải thu đã xoá sổ tính vào chi phí kỳ trước. khoản nợ phải trả nay mất chủ được ghi tăng thu nhập. 5/19 Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận thu các khoản thuế được giảm, được hoàn lại. các khoản thu khác. chi phí hoạt động bất thường: là những khoản chi phí hoạt động do nguyên nhân khách quan xảy ra như tiền bị phạt do vi phạm hợp đồng, các khoản ghi nhầm sổ sách kế toán… sau khi đã xác định lợi nhuận của các hoạt động, tổng hợp lại ta được lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp như sau: lợi nhuận trước thuế tndn = lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh + lợi nhuận hoạt động tài chính + lợi nhuận hoạt động bất thường. lợi nhuận sau thuế tndn được xác định như sau: lợi nhuận sau thuế tndn = lợi nhuận trước thuế tndn - thuế tndn tuy nhiên, tỷ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận có sự khác nhau giữa các doanh nghiệp do các lĩnh vực kinh doanh khác nhau cũng như môi trường kinh doanh khác nhau. điều này được thể hiện như sau: * có sự khác nhau giữa cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thông thường với doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tài chính tín dụng: với doanh nghiệp thông thường, hoạt động sản xuất kinh doanh tách biệt với hoạt động tài chính. do đó, cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp thông thường gồm ba bộ phận: lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi nhuận hoạt động tài chính và lợi nhuận hoạt động bất thường. trong ba bộ phận trên thì lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn nhất. trong khi đó, khác với các doanh nghiệp thông thường, cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tài chính thì bao gồm hai bộ phận là lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. ở các doanh nghiệp này, lợi nhuận từ hoạt động tài chính chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng lợi nhuận do họ thực hiện chức năng kinh doanh hàng hoá đặc biệt là kinh doanh tiền tệ nên hoạt động tài chính cũng là hoạt động sản xuất kinh doanh. * trong các môi trường kinh doanh khác nhau các doanh nghiệp cùng loại có sự khác biệt về tỷ trọng các bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận của mình, chẳng hạn trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thông thường cơ cấu bao gồm ba bộ phận. khi nền kinh tế thị trường phát triển đến trình độ cao, hoạt động tài chính, hoạt động thị trường chứng khoán diễn ra sôi nổi, hiệu quả thì tất nhiên hoạt động tài chính của doanh nghiệp cũng được phát triển. lúc này lợi nhuận từ hoạt động tài chính cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể không kém gì lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. ngược lại, khi nền kinh tế thị trường còn ở trình độ thấp, hoạt động tài chính, chứng khoán chưa phát triển nên hoạt động tài chính của doanh nghiệp sẽ rất hạn chế. 6/19 Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận vì vậy, lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận doanh nghiệp, nó đóng vai trò quyết định đến mọi hoạt động của doanh nghiệp. tóm lại, thông qua phân tích cơ cấu lợi nhuận giúp doanh nghiệp xác định được phần lợi nhuận nào chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp, từ đó tập trung tìm ra nguyên nhân để xây dựng các biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. trong điều kiện các doanh nghiệp ở việt nam hiện nay, hoạt động tài chính còn rất hạn chế, hoạt động bất thường xảy ra không thường xuyên và cũng không quan trọng như bản chất của nó do vậy hoạt động sản xuất kinh doanh là hoạt động chính tạo ra hầu hết lợi nhuận cho doanh nghiệp. chính vì vậy, mục đích của đề tài này là tập trung nghiên cứu và tìm ra các giải pháp nâng cao lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. các chỉ tiêu phản ánh lợi nhuận trong doanh nghiệp lợi nhuận được xác định ở trên, cho chúng ta biết tổng quan về kết quả hoạt động kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp hay đây là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. tuy nhiên, việc sử dụng chỉ tiêu này để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì nó còn một số hạn chế là: * lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp, là kết quả tài chính cuối cùng, lợi nhuận hàm chứa trong nó ảnh hưởng của cả nhân tố khách quan và chủ quan đã có sự bù trừ lẫn nhau. chính sự bù trừ lẫn nhau giữa các nhân tố này đã che lấp kết quả cuối cùng, không thể phản ánh đúng hết và không thấy được sự tác động của từng yếu tố đến lợi nhuận thu được của doanh nghiệp cũng như sự nỗ lực chủ quan của doanh nghiệp. * sẽ là rất khập khiễng nếu đem so sánh lợi nhuận tuyệt đối của doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác trong khi bản thân các doanh nghiệp không giống nhau về điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện vận chuyển, thị trường tiêu thụ, không giống nhau cả về quy mô sản xuất lẫn trình độ trang bị kỹ thuật của ngành sản xuất… vì những lý do nêu trên, để đánh giá chính xác kết quả kinh doanh của doanh nghiệp cũng như xem xét một cách toàn diện hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp từ những góc độ khác nhau, chủ doanh nghiệp khi đầu tư vốn vào kinh doanh hoặc lựa chọn dự án đầu tư có hiệu quả, họ thường quan tâm tới các tỷ suất lợi nhuận hay còn gọi là doanh lợi và những biến động của nó trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tương đối phản ánh mối quan hệ so sánh giữa lợi nhuận thu được trong kỳ với các yếu tố có liên quan đến việc tạo ra lợi nhuận. có nhiều cách xác định tỷ suất lợi nhuận, song chúng đều có chung mục đích là dưa các doanh nghiệp có những điều kiện sản xuất không giống nhau về cùng một mặt bằng so sánh. bên cạnh đó chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận còn cho phép ta so sánh hiệu quả hoạt động 7/19 Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận sản xuất kinh doanh giữa các thời kỳ khác nhau trong cùng một doanh nghiệp. dưới đây là một số chỉ tiêu doanh lợi thường được sử dụng: tỷ suất lợi nhuận vốn(doanh lợi vốn) tỷ suất lợi nhuận vốn là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế đạt được với số vốn bình quân sử dụng trong kỳ(gồm vốn cố định và vốn lưu động) hoặc vốn chủ sở hữu. trong đó: tsv : tỷ suất lợi nhuận vốn. p : lợi nhuận trước(hoặc sau) thuế đạt được trong kỳ. vbq : tổng số vốn sản xuất được sử dụng bình quân trong kỳ. tỷ suất lợi nhuận vốn chỉ ra rằng: cứ 100 đồng vốn bình quân trong kỳ tham gia vào quá trình sản xuất thì góp phần tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế. đây là chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh hiệu quả sử dụng tổng số vốn đầu tư vào doanh nghiệp, nó liên quan tới hiệu quả hoạt động quản lý kinh doanh trong kỳ. vốn đầu tư của doanh nghiệp được chia thành: vốn cố định, vốn lưu động và vốn chủ sở hữu do đó khi xác định doanh lợi vốn người ta cũng xác định riêng cho từng loại vốn trên. * tỷ suất lợi nhuận vốn cố định trong đó : vốn cố định được xác định bằng nguyên giá tài sản cố định trừ đi số tiền khấu hao luỹ kế đã thu hồi. chỉ tiêu này cho biết: hiệu quả sử dụng của một đồng vốn cố định, đặc biệt là vốn sử dụng máy móc, thiết bị và phương tiện kỹ thuật. do đó khuyên doanh nghiệp sử dụng máy móc, thiết bị công nghệ có hiệu quả. * tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động = lợi nhuận ròng / vốn lưu động . 100% 8/19 Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận trong đó : vốn lưu động gồm vốn dự trữ sản xuất, vốn sản phẩm dở dang, bán thành phẩm tự chế, vốn thành phẩm. chỉ tiêu này cho ta thấy: hiệu quả sử dụng của một đồng vốn lưu động, đặc biệt là vốn nguyên vật liệu. điều đó khuyến khích doanh nghiệp tiêt kiệm vốn lưu động và sử dụng một cách đầy đủ, hợp lý. * tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu = lợi nhuận sau thuế / vốn chủ sở hữu bình quân . 100%. chỉ tiêu này phản ánh : một đồng vốn chủ sở hữu tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế, qua đó thấy được hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp và phục vụ cho việc phân tích tài chính doanh nghiệp. tỷ suất lợi nhuận giá thành (doanh lợi giá thành) tỷ suất lợi nhuận giá thành là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm trong kỳ với giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ. công thức xác định: tsg = p / zt . 100% trong đó: tsg : tỷ suất lợi nhuận giá thành. p : lợi nhuận tiêu thụ trong kỳ. zt : giá thành toàn bộ sản phẩm, hàng hoá tiêu thụ trong kỳ. tỷ suất lợi nhuận giá thành chỉ ra rằng: cứ bỏ ra 100 đồng chi phí cho việc sản xuất tiêu thụ sản phẩm trong kỳ sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận hay nói một cách khác đây là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả của những chi phí bỏ ra cho việc sản xuất kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. từ đó giúp doanh nghiệp định hướng sản xuất loại mặt hàng có mức doanh lợi cao, đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả tối đa. chỉ tiêu này có thể tính chung cho toàn bộ sản phẩm tiêu thụ hay từng loại sản phẩm tiêu thụ. tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng(doanh lợi doanh thu tiêu thụ sản phẩm) tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm với doanh thu bán hàng trong kỳ. 9/19 Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận công thức xác định: tst = p / t . 100% trong đó: tst : tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng. p : lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm trong kỳ. t : doanh thu tiêu thụ trong kỳ. tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng chỉ ra rằng: cứ trong 100 đồng doanh thu tiêu thụ trong kỳ thì đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. thực tế trong công tác quản lý, chỉ tiêu này còn để đánh giá chất lượng từng hoạt động công tác khác nhau. nếu tỷ suất này thấp hơn tỷ suất chung của toàn ngành chứng tỏ doanh nghiệp bán hàng với giá thấp hoặc giá thành sản phẩm của doanh nghiệp cao hơn các ngành khác. tóm lại, thông qua các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên đây ta có thể đánh giá một cách tương đối đầy đủ, chính xác tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời so sánh được chất lượng của các hoạt động giữa các doanh nghiệp với nhau một cách hoàn chỉnh. có thể coi doanh nghiệp là một hệ thống mà việc vận hành của nó đòi hỏi phải tiến hành hàng loạt các giải pháp kinh tế - kỹ thuật và tổ chức. do đó, để đánh giá một cách toàn diện hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là một việc không hề đơn giản. chính vì vậy, sẽ là thiếu sót nếu không kết hợp cả hai chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối với các chỉ tiêu lợi nhuận tương đối, trong phân tích kinh tế chúng sẽ bổ trợ cho nhau và là công cụ đắc lực giúp các nhà quản lý có được quyết định đúng đắn nhất. trong những năm gần đây, nền kinh tế thị trường ở nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt. để tồn tại và phát triển mạnh mẽ trong cơ chế thị trường đòi hỏi cac doanh nghiệp phải đặt vấn đề lợi nhuận lên vị trí hàng đầu. do đó, việc phấn đấu tăng lợi nhuận của các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay là hết sức cần thiết. sự cần thiết phấn đấu tăng lợi nhuận của doanh nghiệp trong điều kiện kinh doanh hiện nay xuất phát từ vai trò của lợi nhuận đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp lợi nhuận là chỉ tiêu tổng quát có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp và nhà nước, nó là chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp. nếu kinh doanh có lãi chứng tỏ doanh nghiệp tổ chức sản xuất kinh doanh một cách hợp lý, chất lượng sản phẩm tốt, giá cả hợp lý, đầu tư đúng hướng vào 10/19 Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận thị trường mục tiêu. điều đó tạo điều kiện củng cố được uy tín, huy động được nhiều vốn đầu tư kinh doanh để phát triển sản xuất. mặt khác, nó tạo điều kiện tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên, doanh nghiệp có điều kiện để tái sản xuất mở rộng và thực hiện nghĩa vụ đóng góp cho ngân sách nhà nước nhằm thúc đẩy quá trình tăng trưởng ổn định và bền vững của nền kinh tế quốc dân. ngược lại, nếu kinh doanh thua lỗ sẽ làm giảm thu nhập của người lao động, doanh nghiệp không duy trì được sản xuất, do đó ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế quốc dân là điều khó tránh khỏi. thông qua kết quả kinh doanh, nhà nước nắm được hiệu quả sản xuất kinh doanh ở các đơn vị từ đó có chính sách kinh tế hợp lý để điều chỉnh cơ chế quản lý, bổ sung các chính sách xã hội có liên quan đồng thời nhà nước cũng xem xét các nguồn thu, tính khấu hao tài sản cố định, thu các loại thuế… do vậy, lợi nhuận có một vai trò quan trọng không thể phủ nhận đối với sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp nói riêng và sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nóichung cũng như đối với người lao động và bên thứ ba. cụ thể như sau: đối với doanh nghiệp thứ nhất: lợi nhuận là chỉ tiêu tổng quát phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. bởi vì, dựa vào đó doanh nghiệp có thể biết được hoạt động kinh doanh của mình có hiệu quả hay không, để có được sự cung cấp hàng hoá và dịch vụ phục vụ nhu cầu thị trường các doanh nghiệp phải bỏ ra một khoản chi phí nhất định, chi phí đó có thể là tiền thuê đất đai, thuê lao động, tiền vốn…trong quá trình kinh doanh để sản xuất và tiêu thụ hàng hoá đó. ngoài việc phải bù đắp được chi phí bỏ ra họ mong muốn có phần dôi ra để mở rộng sản xuất, trả lãi tiền vay. thứ hai: lợi nhuận là mục tiêu, là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao năng suất, là một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng tác động đến việc hoàn thiện các mặt hoạt động của doanh nghiệp. đó là nguồn thu để cải thiện điều kiện sản xuất, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người lao động, góp phần khơi dậy tiềm năng của người lao động vì sự phát triển vững chắc của doanh nghiệp trong tương lai. lợi nhuận còn là nguồn để doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ của mình đối với nhà nước, thông qua đó góp phần vào sự phát triển kinh tế quốc dân. nền kinh tế như một cơ thể sống, các doanh nghiệp chính là những tế bào, cơ thể - nền kinh tế - muốn phát triển lành mạnh, vững chắc thì mỗi tế bào của nó - các doanh nghiệp - phải lớn mạnh, phải làm ăn có lãi. bằng việc trích lập một khoản lợi nhuận vào ngân sách nhà nước dưới hình thức thuế, các doanh nghiệp có thể đóng góp một phần đáng kể cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. thứ ba: lợi nhuận là nguồn tài chính quan trọng để doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất nhằm tiết kiệm chi phí nguyên nhiên vật liệu, tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ. từ đó giúp doanh nghiệp có điều kiện tạo dựng và nâng cao uy tín trên thị trường, thu hút vốn đầu tư, bổ sung vốn kinh doanh, tăng thêm vốn chủ hở hữu và trả các khoản nợ, tạo sự vững chắc về tài chính cho doanh nghiệp. không những thế lợi nhuận còn là nguồn tài chính 11/19 Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận để doanh nghiệp bù đắp các khoản chi phí không được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh như các khoản lỗ năm trước, những khoản chi phí vượt định mức… thư tư: lợi nhuận cao cho thấy được triển vọng phát triển của doanh nghiệp đó trong tương lai đó là doanh nghiệp sẽ rất thuận lợi trong các mối quan hệ kinh tế như có thể huy động thêm vốn dễ dàng, mua chịu hàng hoá với khối lượng lớn... doanh nghiệp còn có điều kiện trích lập các quỹ(quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ khen thưởng phúc lợi...) để phục vụ cho việc tái sản xuất giản đơn, tái sản xuất mở rộng, phục vụ cho công tác phúc lợi. thứ năm: lợi nhuận còn là thước đo trình độ tổ chức quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. một doanh nghiệp đạt được lợi nhuận cao khi tăng đựơc doanh thu và đảm bảo tốc độ tăng của doanh thu lớn hơn tốc độ tăng của chi phí. tức là doanh nghiệp sẽ tăng được lợi nhuận khi công tác quản lý kinh doanh có hiệu quả. điều này được thể hiện trên tất cả các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. khi lợi nhuận giảm sút, nếu loại trừ nhân tố khách quan, có thể đánh giá rằng doanh nghiệp chưa thực hiện tốt công tác quản lý kinh doanh. như vậy, lợi nhuận không chỉ là vấn đề sống còn đối với bản thân mỗi doanh nghiệp mà còn là là uy tín của doanh nghiệp đối với nhà nước và các đối tác, là trách nhiệm của doanh nghiệp đối với cán bộ nhân viên, đồng thời là nguồn tạo nên sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, doanh nghiệp không những có thể tái sản xuất giản đơn mà còn có thể tái sản xuất mở rộng. ngoài ra doanh nghiệp có thể làm tròn nghĩa vụ với nhà nước và các đối tác, có điều kiện quan tâm nhiều hơn đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của người lao động. do đó, đối với mỗi doanh nghiệp nâng cao lợi nhuận luôn là vấn đề trăn trở. đối với xã hội doanh nghiệp là đơn vị kinh tế cơ bản quyết định đến sự thành bại của thị trường do vậy lợi nhuận phản ánh hiệu quả của nền kinh tế. lợi nhuận là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước, lợi nhuận của doanh nghiệp một phần sẽ được chuyển vào ngân sách nhà nước thông qua các sắc thuế và nghĩa vụ đóng góp của mỗi doanh nghiệp với nhà nước. nếu doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, lợi nhuận cao thì ngân sách nhà nước sẽ có khoản thu lớn từ thuế thu nhập doanh nghiệp. và ngược lại, nếu doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, lợi nhuận giảm thì khoản thu này sẽ giảm xuống. với khoản đóng góp ngày càng lớn từ thuế thu nhập doanh nghiệp vào ngân sách nhà nước sẽ góp phần thoả mãn nhu cầu chi tiêu của nền kinh tế quốc dân, củng cố và tăng cường lực lượng quốc phòng, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá, tinh thần cho nhân dân. nền kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi về môi trường kinh doanh, tài chính, đầu tư…cho doanh nghiệp. từ đó doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi và nó có tác động trở lại thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. lợi nhuận không 12/19 Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận những có vai trò quan trọng đối với bản thân doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa với toàn xã hội. lợi nhuận còn có vai trò quan trọng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của nền kinh tế, việc tăng lợi nhuận sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. bởi nền kinh tế phát triển nhanh hay chậm phụ thuộc rất lớn vào tích luỹ, quy mô của tích luỹ quyết định quy mô tăng trưởng. doanh nghiệp muốn tăng trưởng nhanh thì phải làm ăn đạt lợi nhuận cao. có được lợi nhuận doanh nghiệp sẽ tăng được quy mô tích luỹ, một khi đã có tích luỹ đủ lớn thi doanh nghiệp có thể tái sản xuất mở rộng, đây là tiền đề thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. ngược lại, nền kinh tế tăng trưởng sẽ tác đông trở lại doanh nghiệp , tạo môi trường thuận lợi và động lực cho doanh nghiệp phát triển. trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay để thích nghi với giai đoạn mới của nền kinh tế, nhà nước ban hành chính sách mới nhằm từng bước cải thiện môi trương kinh doanh, buộc các doanh nghiệp thực hiện hạch toán theo cơ chế thị trường lấy thu bù chi và cuối cùng phải có lãi. qua thực tiễn cho thấy đã có nhiều doanh nghiệp nhà nước rất năng động, linh hoạt thích nghi với môi trường kinh doanh, các nhà doanh nghiệp luôn quan tâm đến việc tìm kiếm lợi nhuận, lấy lợi nhuận làm mục tiêu phấn đấu. kết quả là các doanh nghiệp này đã phát triển vững mạnh và có sức cạnh tranh trên thị trường. tuy nhiên cũng không ít doanh nghiệp còn rất lúng túng chậm thích nghi với cơ chế thị trường, vẫn còn mang phong cách kinh doanh cũ, tâm lý ỷ lại trông chờ nhà nước dẫn tới kết quả làm ăn kém hiệu quả, lợi nhuận thu được thấp, thậm trí thua lỗ kéo dài dẫn tới phải ngừng sản xuất kinh doanh, giải thể doanh nghiệp tác động tiêu cực cho xã hội…. bởi vậy trong điều kiện cơ chế thị trường việc nâng cao lợi nhuận không chỉ là mục tiêu hàng đầu mà còn là điều kiện để quyết định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước. đối với người lao động lao đông là một trong ba yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất kinh doanh. để tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì doanh nghiệp phải quan tâm thoả đáng đến lao động, cả về vật chất lẫn tinh thần. nếu doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, lợi nhuận cao thì sẽ có điều kiện trích lập các quỹ như quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm... là cơ sở để từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. lợi nhuận còn là đòn bẩy kích thích người lao động đẩy mạnh sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hăng say sáng tạo trong công việc. từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động trong doanh nghiệp, tăng tích luỹ để mở rộng sản xuất kinh doanh. đối với bên thứ ba 13/19 Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận bên thứ ba là những người có quan hệ với doanh nghiệp như các nhà cung cấp, ngân hàng, các nhà đầu tư…. nếu doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có lợi nhuận và tăng được lợi nhuận thì doanh nghiệp dễ dàng vay thêm vốn từ các ngân hàng, thu hút vốn của các nhà đầu tư, tạo lập tín dụng thương mại với các nhà cung cấp. xuất phát từ cơ chế thị trường trước đây, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. các doanh nghiệp sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch nhà nước giao, sản phẩm sản xuất ra do nhà nước bao tiêu toàn bộ, mọi nhu cầu về vốn kinh doanh, về vật tư, tài sản… đều do nhà nước cấp. nếu doanh nghiệp làm ăn có lãi thì nhà nước thu, nếu lỗ thì nhà nước chịu. chính vì vậy mà vấn đề lãi , lỗ trong kinh doanh không được doanh nghiệp quan tâm hàng đầu. doanh nghiệp chỉ quan tâm đến việc làm sao hoàn thành được các chỉ tiêu mà nhà nước đã giao phó. chính với tâm lý đó đã làm cho các doanh nghiệp suy yếu về tính độc lập tự chủ, tính linh hoạt sáng tạo trong sản xuất kinh doanh và ngày càng bị động, phụ thuộc hoàn toàn vào nhà nước. chuyển sang nền kinh tế thị trường, cơ chế quản lý đã có những thay đổi tích cực. nhà nước từng bước giao quyền tự chủ về sản xuất kinh doanh, tự chủ về tài chính cho các doanh nghiệp, doanh nghiệp không còn phụ thuộc hoàn toàn vào nhà nước như trước nữa. thực hiện hạch toán kinh doanh là yêu cầu bắt buộc trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự hạch toán theo phương thức “ lời ăn lỗ chịu”. xuất phát từ yêu cầu tự hạch toán kinh doanh, các doanh nghiệp không còn đường nào khác là phải đổi mới, phải vươn lên tự khẳng định mình. để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tự bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh. muốn vậy các doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi, nếu không có lợi nhuận thì doanh nghiệp không thể đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, không có điều kiện đổi mới công nghệ, ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất. như vậy, doanh nghiệp sẽ khó đứng vững trên thị trường nhất là trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt như hiện nay và trong tương lai. trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp chịu sự chi phối bởi các quy luật khắc nghiệt của thị trường như quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị… tới hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. điều đó đòi hỏi mọi quyết định kinh doanh của doanh nghiệp đều phải gắn liền với thị trường, xuất phát từ nhu cầu thị trường, doanh nghiệp phải không ngừng nghiên cứu và nắm bắt nhu cầu thị trường. doanh nghiệp chỉ có thể đạt được lợi nhuận cao nếu sản xuất và cung ứng những mặt hàng phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, giá cả phù hợp với thu nhập của họ và có chính sách tiêu thụ hợp lý. như vậy, lợi nhuận không những là mục tiêu cuối cùng mà còn là động lực trực tiếp đối với các doanh nghiệp. trong khi lựa chọn các phương án kinh doanh, doanh nghiệp luôn 14/19 Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận lấy lợi nhuận làm mục tiêu hàng đầu, đồng thời làm thước đo hiệu quả và định hướng cho mọi hành vi của doanh nghiệp. vì thế, việc phấn đấu tăng lợi nhuận trong các doanh nghiệp là vấn đề vô cùng cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. tóm lại, lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. phấn đấu tăng lợi nhuận là mục tiêu cơ bản và lâu dài của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. tuy nhiên lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp chịu sự ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác nhau. các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến lợi nhuận doanh nghiệp lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm ba bộ phận là lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. trong đó lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là bộ phận chủ yếu, thường chiếm tỷ trọng lớn và là trọng tâm quản lý của doanh nghiệp. do đó, muốn tăng được lợi nhuận, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận, ta tập trung đi sâu vào nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh. lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh được xác định theo công thức: lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh = doanh thu thuần - giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ trong kỳ như vậy, lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào hai nhân tố là doanh thu tiêu thụ sản phẩm và giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ. tuy nhiên doanh thu tiêu thụ sản phẩm và giá thành toàn bộ của hàng hoá tiêu thụ lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau. nhóm nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm. doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của các nhân tố như khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ, chất lượng sản phẩm tiêu thụ, kết cấu mặt hàng, giá bán sản phẩm, thị trường tiêu thụ và phương thức tiêu thụ, thanh toán tiền hàng. nhân tố khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ khối lượng sản phẩm sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng sản phẩm tiêu thụ. sản phẩm sản xuất ra càng nhiều thì có khả năng tiêu thụ càng lớn, khả năng tiêu thụ lớn thì doanh thu tiêu thụ càng cao. song nếu sản phẩm sản xuất ra mà vượt nhu cầu thị trường thì dẫn tới cung vượt cầu, sản phẩm không tiêu thụ hết, hàmg hoá bị ứ đọng, gây hậu quả xấu cho sản xuất kinh doanh điều này ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh 15/19 Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận nghiệp. ngược lại, nếu khối lượng sản phẩm sản xuất ra nhỏ hơn nhu cầu thị trường thì doanh thu sẽ giảm và gây ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của doanh nghiệp. do đó, doanh nghiệp cần nắm rõ nhu cầu thị trường, khả năng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm để xác định khối lượng sản xuất cho phù hợp. đây được coi là nhân tố mang tính chủ quan thuộc về doanh nghiệp, nó phản ánh những cố gắng của doanh nghiệp trong công tác tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. nhân tố chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ chất lượng sản phẩm thường thể hiện ở phẩm cấp, kiểu dáng mẩu mã, màu sắc, khả năng thoả mãn thị hiếu người tiêu dùng…. chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ có ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa, dịch vụ, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm. nếu sản phẩm có chất lượng cao giá bán sẽ cao hơn và ngược lại, chất lượng thấp giá sẽ hạ. chất lượng sản phẩm cao là một trong những điều kiện quyết định mức độ tín nhiệm đối với người tiêu dùng, nó là một trong ba yếu tố cơ bản tạo ra lợi thế trong cạnh tranh, là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. mặt khác, nâng cao chất lượng sản phẩm còn tạo điều kiện để sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ dễ dàng hơn và nhanh chóng thu được tiền hàng. ngược lại, những sản phẩm chất lượng thấp, không đúng quy cách sẽ rất khó tiêu thụ hoặc tiêu thụ được nhưng giá rẻ, từ đó làm giảm doanh thu tiêu thụ dẫn tới giảm lợi nhuận. đây là nhân tố chủ quan thuộc về doanh nghiệp, thể hiện trình độ tay nghề của người lao động và khả năng ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật, các kinh nghiệm quản lý vào sản xuất kinh doanh . nhân tố kết cấu mặt hàng tiêu thụ trong nền kinh tế thị trường nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng đa dạng và phong phú. mỗi doanh nghiệp đều có thể tiến hành sản xuất kinh doanh và tiêu thụ nhiều mặt hàng với kết cấu khác nhau. kết cấu mặt hàng là tỷ trọng về giá trị của mặt hàng đó so với tổng giá trị các mặt hàng của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. trong thực tế, nếu tăng tỷ trọng mặt hàng có mức sinh lời cao, giảm tỷ trọng bán ra những mặt hàng có mức sinh lời thấp dù mức lợi nhuận cá biệt của từng mặt hàng không thay đổi thì tổng lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng lên và ngược lại, tăng tỷ trọng mặt hàng có mức sinh lời thấp, giảm tỷ trọng những mặt hàng có mức sinh lời cao sẽ làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm đi. như vậy, thay đổi kết cấu mặt hàng tiêu thụ sẽ làm cho doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp thay đổi. tuy nhiên, trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt việc giữ “chữ tín” với khách hàng là đặc biệt quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. vì vậy, một mặt doanh nghiệp có thể thay đổi kết cấu mặt hàng để tăng doanh thu nhưng phải luôn đảm bảo thực hiện đầy đủ những đơn đặt hàng theo yêu cầu của khách hàng, hạn chế chạy theo lợi nhuận trước mắt mà ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp . 16/19 Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận nhân tố giá bán sản phẩm hàng hoá, dịch vụ giá cả là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu bán hàng. trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, giá bán sản phẩm hàng hoá dịch vụ tăng lên thì doanh thu bán hàng sẽ tăng lên và ngược lại, giá giảm sẽ làm doanh thu giảm đi. tuy nhiên, thông thường khi tăng giá bán sản phẩm thì khối lượng tiêu thụ lại có xu hướng giảm xuống và ngược lại, khi giảm giá thì khối lượng tiêu thụ lại có xu hướng tăng lên. vì vậy, trong nhiều trường hợp tăng giá không phải là biện pháp thích hợp để tăng doanh thu, nếu việc tăng giá bán không hợp lý sẽ làm cho việc tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn, gây nên tình trạng ứ đọng hàng hoá và sẽ làm cho doanh thu giảm xuống. như vậy, giá bán tăng hay giảm một phần quan trọng là do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định. do vậy, để đảm bảo được doanh thu và lợi nhuận, doanh nghiệp cần phải có một chính sách giá bán hợp lý. nhân tố thị trường tiêu thụ và chính sách bán hàng hợp lý thị trường tiêu thụ có ảnh hưởng rất lớn đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. nếu sản phẩm của doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu thị trường và được thị trường chấp nhận thì việc tiêu thụ sẽ dễ dàng hơn, nếu thị trường tiêu thụ rộng lớn không chỉ bó hẹp trong nước mà còn mở rộng ra thị trường quốc tế thì doanh nghiệp sẽ dễ dàng tăng khối lượng tiêu thụ để tăng doanh thu. mặt khác, việc vận dụng các phương thức thanh toán khác nhau luôn ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ. do vậy, muốn nâng cao doanh thu bán hàng, một mặt phải biết vận dụng các phương thức thanh toán hợp lý, có chính sách tín dụng thương mại phù hợp, mặt khác phải thực hiện đầy đủ các nguyên tắc kiểm nhập xuất giao hàng hóa. đặc biệt là trong thanh toán quốc tế, để đảm bảo thu hồi tiền hàng một cách đầy đủ và an toàn, doanh nghiệp phải tuân thủ một cách đầy đủ các điều kiện về tiền tệ, về địa điểm , về thời gian và phương thức thanh toán. nhóm nhân tố ảnh hưởng đến chi phí thực chất ảnh hưởng của nhân tố này là ảnh hưởng của giá thành sản phẩm tiêu thụ và nó tác động ngược chiều đến lợi nhuận. giá thành sản phẩm cao hay thấp, tăng hay giảm là tuỳ thuộc vào kết quả của việc quản lý và sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp. do đó, nó là tác động của các nhân tố chủ quan trong công tác quản lý của doanh nghiệp, nhóm nhân tố này bao gồm các nhân tố sau: nhân tố chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là những khoản chi phí liên quan tới việc sử dụng nguyên liêu, vật liêu phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp. đối với các doanh nghiệp sản xuất, chi phí nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí, do vậy, nếu tiết 17/19 Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận kiệm được khoản chi phí này sẽ góp phần làm giảm giá thành và tăng lợi nhuận. chi phí nguyên vật liệu được xác định như sau: chi phí nguyên vật liệu = định mức tiêu hao nguyên vật liệu x giá đơn vị nguyên vật liệu định mức tiêu hao nguyên vật liệu: nhân tố này có quan hệ tỷ lệ thuận với khoản chi vật liệu. việc thay đổi mức tiêu hao có thể do thay đổi mẫu mã, do công tác quản lý sử dụng nguyên vật liệu và đặc biệt do quy trình công nghệ. trong điều kiện hiện nay cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển hết sức mạnh mẽ, nhiều phát minh mới, nhiều công nghệ hiện đại mới ra đời, nhiều vật liệu mới ra đời thay thế vật liệu cũ…. nếu doanh nghiệp có khả năng ứng dụng được những thánh tựu khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất kinh doanh thì sẽ không ngừng nâng cao được năng suất lao động, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, giảm chi phí, hạ giá thành, từ đó làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. việc ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất còn nâng cao được chất lương sản phẩm, hạ giá thành, công tác tiêu thụ sẽ thuận lợi hơn và doanh thu sẽ tăng lên. vì vậy, các nhà quản lý phải xây dựng kế hoạch sản xuất, đổi mới công nghệ và kiểm tra thường xuyên nhằm sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu cho sản xuất. giá đơn vị nguyên vật liệu xuất dùng: nhân tố này tỷ lệ thuận với khoản chi phí nguyên vật liệu. việc thay đổi giá nguyên vật liệu xuất dùng lại tuỳ thuộc vào giá mua trên thị trường và các chi phí bỏ ra liên quan tới quá trình thu mua vật tư. do đó, đây là nhân tố ảnh hưởng vừa khách quan vừa chủ quan đến giá thành sản phẩm nên khi xem xét ảnh hưởng của nó phải dựa vào điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp, từng nguồn hàng cụ thể để có kết luận chính xác về tác động của giá nguyên vật liệu xuất dùng đến khoản chi nguyên vật liệu trong giá thành sản phẩm. như vậy, các nhân tố định mức tiêu hao nguyên vật liệu, giá mua nguyên vật liệu, chi phí thu mua đều ảnh hưởng tới tổng chi phí và tác động tới lợi nhuận của doanh nghiệp. đòi hỏi các doanh nghiệp không những tìm các biện pháp để giảm thiểu các khoản chi phí trên mà còn phải xác định mức ảnh hưởng của từng nhân tố đến khoản chi nguyên vật liệu để có biện pháp thích hợp. nhân tố chi phí nhân công trực tiếp là chi phí để trả lương và các khoản trích theo lương cho công nhân sản xuất trực tiếp. các doanh nghiệp việt nam hiện nay do cơ sở vật chất trang thiết bị kỹ thuật còn lạc hậu, năng suất lao động chưa cao, còn sử dụng nhiều lao động trực tiếp vào sản xuất. do đó chi phí nhân công trực tiếp còn chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng chi phí sản xuất. để giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm biện pháp để giảm chi phí tiền lương công nhân trực tiếp trên một đơn 18/19 Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận vị sản phẩm. tuy nhiên, việc hạ thấp chi phí tiền lương phải hợp lý bởi vì tiền lương là một hình thức trả thù lao cho người lao động. cùng với sự phát triển của xã hội đời sống ngày càng được cải thiện đòi hỏi tiền lương cũng phải được tăng cao. do đó doanh nghiệp phải tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ, nâng cao trình độ quản lý, tăng năng suất lao động, có một chính sách sử dụng lao động hợp lý, có nhiều biện pháp khuyến khích như tạo điều kiện để người lao động học tập nâng cao trình độ, quan tâm đến đời sống và điều kiện làm việc của công nhân, khuyến khích bằng vật chất và tinh thần cho người lao động thì sẽ kích thích được người lao động làm việc nhiệt tình, sáng tạo, cống hiến hết mình cho sự phát triển của doanh nghiệp nhân tố chi phí sản xuất chung là các chi phí cho hoạt động của phân xưởng trực tiếp tạo ra hàng hoá dịch vụ, bao gồm các chi phí: chi phí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, khấu hao tài sản cố định phân xưởng, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền phát sinh ở phạm vi phân xưởng…. các doanh nghiệp cần có kế hoạch đào tạo nâng cao trình độ quản lý sản xuất liên quan đến nhiều khâu như nâng cao trang thiết bị máy móc, trình độ kỹ thuật công nhân viên, tăng hiệu suất làm việc điều đó sẽ góp phần giảm chi phí cho doanh nghiệp. nhân tố chi phí bán hàng là những khoản chi phí bỏ ra để đảm bảo cho quá trình tiêu thụ hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp được thực hiện. đó là những khoản chi phí về tiền lương, các khoản phụ cấp phải trả cho nhân viên bán hàng, chi phí đóng gói vận chuyển bảo quản, khấu hao tài sản cố định …. chi phí bán hàng phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh, điều kiện tự nhiên, tình hình thị trường tiêu thụ nếu biết tiết kiệm chi phí tiêu thụ sản phẩm sẽ góp phần làm hạ giá thành sản phẩm và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. tuy nhiên phải phấn đấu giảm chi phí một cách hợp lý để không làm giảm uy tín của doanh nghiệp. nhân tố chi phí quản lý doanh nghiệp gồm các chi phí quản lý doanh nghiệp, quản lý hành chính và các chi phí chung khác có liên quan đến toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp như tiền lương, các khoản phụ cấp phải trả cho ban giám đốc và nhân viên quản lý ở các phòng ban, lãi vay vốn kinh doanh, dự phòng phải thu khó đòi, chi phí tiếp tân…. các khoản chi phí này là nhỏ nhất trong tổng giá thành nhưng càng tiết kiệm thì càng giảm giá thành và tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. 19/19