Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4A (2021): 82-92
DOI:10.22144/ctu.jvn.2021.116
HIỆU QUẢ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT PHỤC VỤ SẢN XUẤT NÔNG
NGHIỆP VÀ NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA XÂM NHẬP
MẶN TẠI TỈNH BẾN TRE
Nguyễn Thị Thuý Vy1, Nguyễn Minh Tuấn2, Trần Hoàng Hiểu3, Lê Tấn Lợi1 và Văn Phạm Đăng Trí1*
1
Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên, Trường Đại học Cần Thơ
2
Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Châu Thành, Hậu Giang
3
Học viện Chính trị Khu vực IV
*Người chịu trách nhiệm về bài viết: Văn Phạm Đăng Trí (email: vpdtri@.ctu.edu.vn)
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 31/12/2020
Ngày nhận bài sửa: 11/05/2021
Ngày duyệt đăng: 20/08/2021
Title:
Effectiveness of surface water
resources management for
agriculture and aquaculture in
the context of saline intrusion
in Ben Tre province
Từ khóa:
Hiệu quả quản lý, nông nghiệp,
nuôi trồng thủy sản, vùng ven
biển, xâm nhập mặn
Keywords:
Agriculture, aquaculture,
coastal zones, effectiveness of
management, saline intrusion
ABSTRACT
The increasing saline intrusion in coastal areas of the Vietnamese Mekong
Delta has affected the management of surface water resources for agriculture
and aquaculture. This study evaluated the effectiveness in dealing with saline
intrusion during the dry season from late 2019 to early 2020 in Ben Tre, based
on the principle of clear roles and responsibilities of stakeholders in the
OECD (Organization for Economic Co-operation and Development) water
resources governance framework. The data were collected through interviews
with relevant staff from district authorities and analyzed by descriptive
statistics, and GIS tools were used to edit and publish maps. The duration of
salinity intrusion in the dry season from 2019 to 2020 was longer, and the
spatial range of saline intrusion was wider than the 40-year average,
resulting in severe freshwater scarcity and significant agricultural and
aquaculture losses. The promulgation of guiding documents to cope with
saline intrusion in agriculture and aquaculture was promptly implemented to
eliminate saline intrusion driven damages. However, horizontal coordination
among local stakeholders could still be limited.
TÓM TẮT
Xâm nhập mặn tại các vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long ngày càng
gia tăng, đã ảnh hưởng đến công tác quản lý nguồn tài nguyên nước mặt phục
vụ cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Nghiên cứu đánh giá tính
hiệu quả trong công tác ứng phó xâm nhập mặn vào mùa khô 2019 – 2020 tại
tỉnh Bến Tre, dựa trên nguyên tắc về vai trò và trách nhiệm rõ ràng của các
bên liên quan về quản trị tài nguyên nước của OECD (Tổ chức hợp tác và
phát triển kinh tế). Các số liệu được thu thập thông qua các cuộc phỏng vấn
cán bộ địa phương và được xử lý bằng phương pháp thống kê mô tả và công
cụ GIS được sử dụng để biên tập bản đồ. Thời gian xâm nhập mặn mùa khô
năm 2019 – 2020 kéo dài và có phạm vi ảnh hưởng rộng hơn so với trung
bình 40 năm trở lại đây, điều này đã dẫn đến việc thiếu nguồn nước ngọt trầm
trọng gây thiệt hại đáng kể đến sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản.
Việc ban hành các văn bản chỉ đạo công tác ứng phó xâm nhập mặn trong
sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản đã được thực hiện kịp thời. Tuy
nhiên, sự phối hợp theo chiều ngang giữa các bên tham gia tại địa phương
còn gặp hạn chế.
82
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4A (2021): 82-92
cơ cấu thể chế cho quản lý tài nguyên nước đã được
Luật Tài nguyên nước (2012) quy định rõ, thế nhưng
để tất cả các bên liên quan ở cấp ngành và cấp địa
phương làm việc cùng nhau còn là một thách thức
lớn (Jakob & Khemka, 2017)1, theo đó, để giảm mức
độ căng thẳng về nước trong một lưu vực, cần có 24
biện pháp từ 7 Bộ, 6 Hội đồng cấp Tỉnh/Thành, các
công ty thủy lợi và các doanh nghiệp tư nhân, cùng
hàng triệu nông dân và cư dân thành phố (Jakob &
Khemka, 2017).
1. GIỚI THIỆU
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được xem
là vùng sản xuất nông nghiệp (SXNN) và nuôi trồng
thuỷ sản (NTTS) lớn nhất Việt Nam và cùng với xu
thế phát triển, nhu cầu sử dụng nước cho ngành nông
nghiệp và NTTS ngày càng gia tăng. Được đánh giá
là một trong ba đồng bằng lớn của thế giới bị đe dọa
nghiêm trọng nhất bởi biến đổi khí hậu
(Intergovernmental Panel on Climate Change,
2014), các tỉnh ven biển ĐBSCL đang phải đối mặt
với tình trạng thiếu nguồn nước ngọt phục vụ cho
hoạt động SXNN và NTTS vào mùa khô. Trong
những năm gần đây, tình hình xâm nhập mặn tại các
vùng ven biển diễn biến ngày càng gây gắt, gây
nhiều khó khăn trong công tác quản lý nguồn tài
nguyên nước mặt. Khung pháp lý về tài nguyên
nước tại Việt Nam đã được xây dựng trong hơn hai
thập kỷ qua và từng bước được hoàn chỉnh nhằm đáp
ứng nhu cầu thực tiễn ngày càng đa dạng và biến
động. Công tác quản lý tài nguyên nước tại Việt
Nam đang được thực thi dựa trên Luật Tài nguyên
nước (Luật số 17/2012/QH13) với các quy định về
việc quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên
nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do
nước gây ra trên lưu vực sông. Trước những ảnh
hưởng của biến đổi khí hậu, đặc biệt là hạn – mặn
đã làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và chất
lượng cuộc sống của người dân, Quốc hội đã ban
hành Luật Phòng, chống thiên tai (33/2013/QH13)
với các quy định về hoạt động phòng, chống thiên
tai, quản lý nhà nước, quyền và nghĩa vụ của các bên
liên quan trong việc tham gia hoạt động phòng,
chống thiên tai. Nhằm hỗ trợ cho việc thực thi các
Luật, Chính phủ đã ban hành các văn bản như: Nghị
định số 201/2013/NĐ-CP (ngày 21/11/2013) về Quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài
nguyên nước; Nghị định số 66/2014/NĐ-CP (ngày
04/07/2014) về Quy định chi tiết, hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Phòng, chống thiên tai;
Nghị quyết số 76/NQ-CP (ngày 18/06/2018) về
công tác phòng, chống thiên tai nhằm nâng cao năng
lực, chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với
biến đổi khí hậu trước tình hình thiên tai ngày càng
diễn biến phức tạp. Tuy nhiên, quản trị nước tại Việt
Nam hiện vẫn chưa đáp ứng các tiêu chuẩn cần thiết
để có thể triển khai công tác quản lý nước tổng hợp
và bền vững (World Bank, 2019). Thực tế cho thấy
Hiện nay, các khung đánh giá trong lĩnh vực
quản trị tài nguyên nước đã được sử dụng ở một số
quốc gia với mục tiêu cung cấp một số tiêu chí đánh
giá, điển hình như: (i) mười khối thành phần xây
dựng hệ thống quản trị tài nguyên nước bền vững
(van Rijswick et al., 2014); (ii) các phương pháp tiếp
cận bền vững FIETS (Finance: tài chính; Institution:
thể chế; Environment: môi trường; Technology:
công nghệ; và Society: xã hội) (Dutch WASH
Alliance, 2014); và (iii) các nguyên tắc của tổ chức
hợp tác và phát triển kinh tế (Organization
Economic Co-operation and Development – OECD)
về quản trị tài nguyên nước (OECD, 2015). Từ năm
2010, OECD đã cung cấp các nghiên cứu về những
lỗ hổng quản trị cản trở việc thiết kế và thực thi
chính sách về tài nguyên nước, đồng thời đề xuất
một số các giải pháp chính sách và thực tiễn tốt để
khắc phục về vấn đề trên (OECD, 2015). Theo
OECD (2015), không có giải pháp quản trị chung
nào phù hợp cho tất cả các thách thức về nước trên
toàn thế giới do sự đa dạng của các tình huống trong
và trên khắp các quốc gia. Các nguyên tắc của
OECD cung cấp một khuôn khổ để đánh giá sự hoàn
chỉnh của hệ thống quản trị tài nguyên nước. Bên
cạnh đó, các nguyên tắc của OECD về quản trị nước
được xây dựng dựa trên các thách thức về nước trên
toàn thế giới; vì thế tùy thuộc vào mục đích và điều
kiện nghiên cứu mà các nguyên tắc cần được lựa
chọn phù hợp (OECD, 2015). Nguyên tắc của
OECD được chia làm 12 nguyên tắc thuộc 3 nhóm
(Hình 1): Hiệu quả, Hiệu suất và Niềm tin và sự
tham gia. Cụ thể, để thực hiện được các giải pháp
cần phải xác định, triển khai các mục tiêu chính sách
rõ ràng về sử dụng nước bền vững ở các cấp chính
quyền, và đạt được các mục tiêu đã đề ra (hiệu quả).
Ngoài ra, các lợi ích của việc quản lý nước bền vững
và phúc lợi cần phải được mở rộng tối đa với chi phí
thấp nhất cho xã hội (hiệu suất). Cuối cùng, cần phải
vững cho sự phát triển kinh tế xã hội lâu dài của quốc
gia. Nhóm 2030 WRG được công bố thành lập vào năm
2008 tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới, được Tổ chức Tài
chính Quốc tế (IFC) chủ trì từ năm 2012.
Nhóm Tài nguyên Nước 2030 là một đối tác đặc biệt
giữa nhà nước – khối tư nhân – các tổ chức xã hội dân
sự nhằm giúp các chính phủ thúc đẩy những cải cách
nhằm đảm bảo quản lý tài nguyên nước một cách bền
1
83
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4A (2021): 82-92
ngòi dày đặc, bao gồm bốn con sông chính là sông
Tiền Giang, Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên. Mạng
lưới sông ngòi dày đặc đã tạo điều kiện thuận lợi cho
việc cung cấp nguồn nước tưới cho SXNN; tuy vậy,
đây cũng là trở ngại đáng kể khi vào mùa khô lưu
lượng từ thượng nguồn đổ về giảm kết hợp với thủy
triều dẫn đến việc mặn xâm nhập sâu vào trong các
kênh nội đồng. Từ cuối năm 2019 đến đầu năm
2020, Bến Tre là một trong những tỉnh chịu tác động
nặng nề từ tình hình xâm nhập mặn. Trước tình hình
xâm nhập mặn ngày càng gia tăng, việc đề xuất các
giải pháp quản lý nhà nước về ứng phó với xâm nhập
mặn của một số ngành và địa phương còn mang tính
tạm thời ngắn hạn; do đó, nghiên cứu được thực hiện
với mục tiêu đánh giá tác động của xâm nhập mặn
đến hiện trạng hệ thống SXNN và NTTS tại tỉnh Bến
Tre cũng như đánh giá hiệu quả công tác ứng phó
xâm nhập mặn trong SXNN và NTTS giai đoạn mùa
khô 2019 – 2020.
xây dựng niềm tin trong cộng đồng, đồng thời cần
đảm bảo sự tham gia của tất cả các bên liên quan
thông qua sự công khai dân chủ và công bằng cho
toàn xã hội (niềm tin và sự tham gia). Trong nhóm
thứ nhất (hiệu quả) bao gồm bốn nguyên tắc Hình 1,
nguyên tắc thứ nhất là “vai trò và trách nhiệm rõ
ràng của các bên liên quan” là bước đầu tiên dùng
để kiểm tra vai trò và trách nhiệm của các tổ chức
quản lý đã được quy định rõ ràng, đó là cơ sở để
đánh giá việc thực thi hiệu quả các chính sách được
đề ra.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại các huyện Châu
Thành, Giồng Trôm và Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre
(Hình 2); đây là 03 huyện đại diện cho 03 vùng sinh
thái (ngọt – lợ – mặn) nằm trong định hướng phân
vùng sử dụng đất đai đến năm 2020 của tỉnh Bến Tre
với các loại hình SXNN khác nhau (cây lâu năm, cây
ăn trái, cây lúa) và NTTS. Nghiên cứu thực hiện
trong giai đoạn từ tháng 11 năm 2019 đến tháng 6
năm 2020 và đối tượng nghiên cứu là tình trạng xâm
nhập mặn đối với nguồn tài nguyên nước mặt,
SXNN và NTTS tại vùng nghiên cứu.
Hình 1. Các nguyên tắc của OECD về quản trị
nước (OECD, 2015)
Bến Tre là một trong những tỉnh hạ lưu sông
Mekong, giáp với biển Đông và có hệ thống sông
Hình 2. Phạm vi nghiên cứu
84
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4A (2021): 82-92
Bên cạnh đó, các số liệu còn được thể hiện dưới
dạng bản đồ, sơ đồ và biểu bảng để phục vụ cho việc
đánh giá ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến SXNN
và NTTS và tính kịp thời trong công tác ứng phó
xâm nhập mặn tại địa phương.
2.4. Phương pháp đánh giá hiệu quả công tác
ứng phó xâm nhập mặn
2.2. Phương pháp thu thập số liệu
2.2.1. Thu thập số liệu thứ cấp
Các số liệu thứ cấp được phục vụ cho nghiên
cứu bao gồm:
- Các dự báo, báo cáo tổng quan về tình hình
xâm nhập mặn và dữ liệu mặn tại các trạm quan trắc
trên địa bàn tỉnh Bến Tre từ tháng 11/2019 đến tháng
06/2020 được thu thập tại Đài Khí tượng Thuỷ văn
tỉnh Bến Tre.
- Bản đồ điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đai
tỉnh Bến Tre giai đoạn 2016 – 2020, Báo cáo kế
hoạch sử dụng đất đai tỉnh Bến Tre giai đoạn 2016
– 2020 và bản đồ ranh mặn tỉnh Bến Tre mùa khô
năm 2019 – 2020 được thu thập tại Sở Tài nguyên
và Môi trường (TN&MT) tỉnh Bến Tre.
Trong nghiên cứu này, nguyên tắc thứ nhất của
OECD là “vai trò và trách nhiệm của các bên liên
quan” thuộc nhóm thứ nhất (Hiệu quả) được sử
dụng để đánh giá hiệu quả của công tác ứng phó xâm
nhập mặn trong SXNN và NTTS (OECD, 2015).
Nguyên tắc này nêu lên việc phân chia và nhận định
vai trò và trách nhiệm trong việc hoạch định chính
sách về nguồn nước, thực thi chính sách, quản lý
việc vận hành và thúc đẩy sự hợp tác giữa các bên
có trách nhiệm. Tiêu chí được đặt ra để đánh giá tính
hiệu quả của công tác quản lý tài nguyên nước mặt
trong nguyên tắc này là sự tồn tại và mức độ thực thi
luật và các quy định nhà nước có liên quan đến quản
lý tài nguyên nước nhằm ứng phó với xâm nhập mặn
tại địa phương bao gồm:
- Báo cáo kiểm kê đất đai năm 2019 được thu
thập từ Phòng TN&MT các huyện Châu Thành,
Giồng Trôm và Thạnh Phú.
- Báo cáo kết quả phòng, chống và ứng phó
xâm nhập mặn mùa khô năm 2019 – 2020 được thu
thập từ Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
(NN&PTNT) tại các huyện Châu Thành, Giồng
Trôm và Thạnh Phú.
- Các văn bản chỉ đạo phòng, chống và ứng
phó xâm nhập mặn mùa khô năm 2019 – 2020 thu
thập tại Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bến Tre và
UBND các huyện Châu Thành, Giồng Trôm và
Thạnh Phú.
2.2.2. Thu thập số liệu sơ cấp
Xác định sự tồn tại của các văn bản quy định về
vai trò và trách nhiệm của các bên liên quan trong
công tác ứng phó xâm nhập mặn tại địa phương
được đánh giá thông qua việc các văn bản chỉ đạo
ứng phó xâm nhập mặn được ban hành từ Trung
ương đến địa phương;
Đánh giá mức độ thực thi các văn bản chỉ đạo tại
địa phương trên cơ sở xem xét thực trạng sự phối
hợp giữa các bên liên quan tại địa phương thông qua
sự phối hợp trong việc ban hành các văn bản chỉ đạo
ứng phó xâm nhập mặn từ Trung ương đến địa
phương và sự phối hợp giữa các Sở/ban/ngành (cấp
tỉnh), các phòng/ban (cấp huyện) trong việc thực thi
văn bản nhằm đánh giá tính kịp thời trong công tác
ứng phó xâm nhập mặn tại địa phương (dựa vào thời
gian ban hành văn bản theo Tiêu chuẩn Việt Nam
9001:2015 về Quy trình xử lý văn bản (Ủy ban Dân
tộc, 2019).
Nghiên cứu thu thập các số liệu sơ cấp từ 06
cuộc phỏng vấn trực tiếp cán bộ chuyên trách
đại diện Phòng TN&MT và Phòng NN&PTNT
theo phương pháp phỏng vấn người am hiểu
(Ryan et al., 2009) với nội dung: (i) thực trạng
diễn biến xâm nhập mặn trên các sông chính tại
địa phương cuối năm 2019 và 06 tháng đầu năm
2020; (ii) tác động của xâm nhập mặn đến việc
SXNN và NTTS tại địa phương; và (iii) công
tác ứng phó xâm nhập mặn tại các huyện bao
gồm: các giải pháp ứng phó và kết quả ứng phó
với xâm nhập mặn tại địa phương.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tác động của xâm nhập mặn mùa khô
năm 2019 – 2020 đến hiện trạng SXNN
và NTTS trên địa bàn tỉnh Bến Tre
2.3. Xử lý số liệu
Tình trạng xâm nhập mặn vào mùa khô hàng
năm tại các vùng ven biển ĐBSCL phụ thuộc vào
hai yếu tố chính là lưu lượng thượng nguồn đổ về
ĐBSCL và thuỷ triều từ Biển Đông (Giáp Văn Vinh,
2020). Theo dữ liệu thuỷ văn từ Uỷ hội sông
Mekong Việt Nam, dòng chảy trên sông Mekong đổ
về ĐBSCL mùa khô năm 2019 – 2020 thiếu hụt so
Các số liệu sơ cấp và thứ cấp sau khi thu thập
được xử lý bằng phương pháp thống kê mô tả các
tác động của xâm nhập mặn mùa khô năm 2019 –
2020 đến SXNN và NTTS, sự phối hợp giữa các bên
liên quan trong công tác ứng phó xâm nhập mặn.
Công cụ GIS được sử dụng để biên tập các bản đồ.
85
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4A (2021): 82-92
phạm vi xâm nhập mặn sâu nhất trên các sông chính
tương đương xâm nhập mặn tháng 02/2016. Đến
tháng 02/2020, hệ thống sông chính trên địa bàn
Tỉnh đã hoàn toàn nhiễm mặn với khoảng cách từ 64
– 86 km tính từ cửa sông, độ mặn và mức độ xâm
nhập của nước mặn đã cao hơn năm 2015 – 2016.
Mặn xâm nhập sâu và duy trì qua các tháng cùng với
hệ thống công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh Bến
Tre chưa hoàn toàn khép kín dẫn đến việc mặn xâm
nhập sâu vào trong các kênh nội đồng, gây thiếu
nguồn nước ngọt phục vụ cho SXNN và sinh hoạt
của người dân tại địa phương. Mặn đã tràn qua các
kênh rạch xâm nhập vào sâu nội đồng gây nhiều
thiệt hại đến SXNN và NTTS tại địa phương.
với trung bình nhiều năm thời kỳ từ năm 1980 –
2020 (Viện Khoa học Thuỷ lợi miền Nam 2019) vì
thế xâm nhập mặn xuất hiện từ rất sớm tại các cửa
sông. Phạm vi xâm nhập mặn cao nhất của các tháng
với nồng độ từ 4g/L trở lên trên các sông chính tỉnh
Bến Tre (Hình 3) cho thấy xâm nhập mặn đã xuất
hiện từ giữa tháng 11/2019 với phạm vi khoảng 24
– 34 km tính từ cửa sông. Theo báo cáo từ Đài Khí
tượng Thuỷ văn tỉnh Bến Tre, đến tháng 12/2019
mặn xâm nhập diễn ra nhanh và tiến sâu vào nội
đồng, sang tuần thứ 3 của tháng 12/2019 phạm vi
xâm nhập mặn trên sông Hàm Luông (khoảng 60
km) ở mức sâu hơn tháng 02 năm 2016 và trên sông
Cửa Đại (khoảng 45 km) ở mức tương đương cùng
kỳ năm 2015. Vào tuần đầu tiên tháng 01/2020,
Hình 3. Phạm vi xâm nhập mặn cao nhất với nồng độ ≥ 4g/L từ tháng 11/2019 – 06/2020 tại các
sông trên địa bàn tỉnh Bến Tre
(Nguồn: Đài Khí tượng Thủy văn tỉnh Bến Tre, 2020)
ngọt, vùng lợ và vùng mặn. Vùng ngọt gồm toàn bộ
diện tích huyện Chợ Lách và các xã phía Tây huyện
Châu Thành và huyện Mỏ Cày Bắc với đặc trưng
các loại cây ăn trái; đây là khu vực trọng điểm phát
triển nghề trồng hoa kiểng, sản xuất giống cây ăn
trái. Vùng lợ gồm các xã phía Đông huyện Châu
Thành, Mỏ Cày Bắc, toàn bộ thành phố Bến Tre,
Nội dung chủ động ứng phó biến đổi khí hậu,
nước biển dâng theo định hướng phát triển bền vững
được chú trọng trong báo cáo điều chỉnh quy hoạch
sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất
kỳ cuối (2016 – 2020) trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
Toàn tỉnh được định hướng phân vùng theo đặc tính
tài nguyên nước (ngọt – lợ – mặn), bao gồm vùng
86
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4A (2021): 82-92
nhập mặn. Do hệ thống công trình thủy lợi huyện
chưa hoàn toàn khép kín nên mặn vẫn xâm nhập qua
các kênh, tràn qua các mương ảnh hưởng đến nông
nghiệp của huyện. Xâm nhập mặn mùa khô năm
2019 – 2020 đã ảnh hưởng đến lúa vụ 3 tại huyện.
Theo báo cáo từ Hội nghị tổng kết công tác phòng
chống hạn mặn năm 2019 – 2020 của huyện Giồng
Trôm thống kê tình hình thiệt hại trên các loại cây
trồng, khoảng 958 ha lúa bị thiệt hại với mức độ thiệt
hại trên 70%; cây ăn trái thiệt hại từ 30 đến 70%
khoảng 1.803 ha, thiệt hại trên 70% khoảng 2.033
ha; diện tích rau màu thiệt hại trên 70% khoảng 60
ha; diện tích nuôi cá da trơn thâm canh bị thiệt hại
30% đến 70% khoảng 18 ha.
huyện Giồng Trôm, Mỏ Cày Nam, các xã phía Tây
huyện Bình Đại, một phần diện tích thuộc huyện Ba
Tri và Thạnh Phú; đây là vùng phát triển kinh tế
nông nghiệp đa dạng, trong đó chủ yếu phát triển
vườn dừa và kết hợp cây ăn trái NTTS xen canh
trong vườn. Vùng mặn tập trung ở 3 huyện ven biển
Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú; đây là vùng tập
trung chuyên canh và luân canh tôm nước lợ – mặn,
luân canh lúa – tôm bên cạnh việc phát triển mô hình
nuôi nghêu, sò ở một số khu vực bãi triều kết hợp
với khai thác muối (Hình 4).
Huyện Châu Thành là vùng chuyên trồng các
loại cây ăn trái của tỉnh Bến Tre, với khả năng cung
cấp nước ngọt gần như quanh năm. Mô hình canh
tác chủ yếu của huyện năm 2020 là cây ăn trái (sầu
riêng, chôm chôm, bưởi da xanh) và cây dừa. Mặc
dù nằm trong vùng sinh thái nước ngọt nhưng xâm
nhập mặn mùa khô năm 2019 – 2020 vẫn gây ảnh
hưởng đến nông nghiệp trên địa bàn huyện, có
khoảng 7.995 ha dừa bị ảnh hưởng về năng suất,
trong đó mức thiệt hại từ 30 – 70% khoảng 954,4 ha.
Diện tích cây ăn trái trên địa bàn huyện là 7.831 ha;
trong đó, thiệt hại từ 30 – 70% diện tích 2.917,55 ha
và thiệt hại trên 70% diện tích 1.212,49 ha. Diện tích
NTTS từ tháng 02/2020 bị ảnh hưởng từ độ mặn và
phạm vi xâm nhập mặn tăng cao, nên người dân
không phát triển diện tích nuôi cá, diện tích nuôi
thủy sản đến nay là 26,5 ha. Đa số các diện tích nuôi
cá theo hộ gia đình đều bị ảnh hưởng thiệt hại, nhất
là khu vực các xã phía đông và các xã vùng ven sông
Hàm Luông do độ mặn cao.
Huyện Thạnh Phú có vị trí nằm giáp biển Đông
thuộc vùng sinh thái nước mặn với thời gian nước
mặn duy trì từ 08 tháng đến 12 tháng, huyện được
chia thành 03 tiểu vùng phát triển kinh tế. Tiểu vùng
1 (vùng ngọt) bao gồm các xã nằm giáp với huyện
Mỏ Cày Nam, hiện tại tập trung nuôi tôm nước ngọt
và chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ lúa sang cây lâu
năm (chủ yếu là cây dừa) và cây ăn trái. Tuy nhiên,
theo quy hoạch vùng này vẫn còn trồng lúa nhưng
thực tế còn rất ít hộ dân trồng lúa tại xã Nghĩa An,
Thị trấn Thạnh Phú và xã Mỹ Hưng (xã Quới Điền
và Hoà Lợi canh tác lúa 2 vụ), nguyên nhân dẫn đến
việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng là do lợi nhuận
kinh tế và cây lâu năm có khả năng chịu mặn cao
hơn cây lúa. Tiểu vùng 2 (vùng lợ) có loại hình canh
tác chính là xen canh 1 vụ nuôi tôm và 1 vụ lúa trên
năm nằm ở các xã Mỹ An và An Thuận và một phần
cây ăn trái. Tiểu vùng 3 (vùng mặn) chuyên về
NTTS là các xã còn lại của vùng nằm giáp biển
Đông. Với vị trí địa lý tiếp giáp biển, huyện Thạnh
Phú bị ảnh hưởng xâm nhập mặn từ rất sớm, làm ảnh
hưởng lớn đến SXNN và NTTS trên địa bàn huyện.
Diện tích nuôi tôm càng xanh bị thiệt hại trên 70%
khoảng 2.374 ha, tình hình thiệt hại tập trung chủ
yếu vào tháng 02 – 03/2020; diện tích nuôi cá bị ảnh
hưởng (chủ yếu cá nước ngọt) thiệt hại trên 70% là
83 ha. Thiệt hại trên các loại cây trồng, trong đó diện
tích thiệt hại trên 70% là 19,05 ha; diện tích thiệt hại
từ 30 – 70% là 2.994,02 ha chủ yếu là diện tích rau
màu, cây ăn quả và cây dừa.
Huyện Giồng Trôm là huyện nằm giữa sông
Hàm Luông và sông Ba Lai nằm trong vùng sinh
thái nước lợ với 06 tháng nước ngọt và 06 tháng
nước mặn. Các loại hình canh tác chủ yếu của huyện
theo thứ tự là cây lâu năm (chủ yếu là dừa) và diện
tích cây ăn trái (cây có múi: bưởi, chanh, quýt, cam)
và diện tích lúa. Vùng trồng lúa bao gồm các xã:
Bình Thành, Bình Hoà và Tân Thạnh giáp với huyện
Ba Tri là vùng chuyên sản xuất lúa của huyện. Các
xã còn lại của huyện là vùng trồng cây ăn trái và cây
lâu năm. Riêng hai khu vực cồn Phước Long và cồn
Hưng Long đã chuyển đổi mô hình canh tác từ năm
2017 từ trồng dừa sang NTTS do tác động từ xâm
87
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4A (2021): 82-92
Hình 4. Bản đồ quy hoạch sử dụng đất đai giai đoạn 2016 – 2020 tỉnh Bến Tre (điều chỉnh năm 2016)
(Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre, 2018)
nuôi trồng thủy sản tại các cù lao; huyện Châu
Các huyện tại khu vực nghiên cứu đều chịu ảnh
Thành đã chuyển đổi dần đất trồng lúa từ năm 2015
hưởng của xâm nhập mặn mùa khô năm 2019 –
sang cây lâu năm và các loại cây có múi chịu được
2020, làm thiệt hại nghiêm trọng đến nông nghiệp
hạn – mặn nhằm thích ứng với tình hình biến đổi khí
và NTTS. Trước những tác động từ xâm nhập mặn
hậu ngày càng tăng. Nhìn chung, các mô hình
gây khó khăn về nguồn nước ngọt phục vụ cho hoạt
SXNN và NTTS đã chịu nhiều ảnh hưởng từ tác
động canh tác, việc sử dụng đất đai tại địa phương
động của xâm nhập mặn (Phan Thanh Vũ và ctv.,
đã có sự thay đổi từ năm 2015 đến năm 2020 (Bảng
2016). Theo (Le et al., 2018), xâm nhập mặn đã tác
1), các huyện đã dần chuyển đổi mô hình canh tác
động đến hoạt động canh tác lúa dẫn đến việc phải
như huyện Thạnh Phú đã giảm diện tích trồng lúa
thay đổi mô hình canh tác để thích ứng với xâm nhập
chuyển sang trồng các loại cây có múi chịu được độ
mặn cao hơn; huyện Giồng Trôm bên cạnh việc
mặn. Xâm nhập mặn không chỉ tác động đến các loại
giảm diện tích đất trồng lúa chuyển sang trồng cây
hình canh tác vùng sinh thái nước ngọt mà còn gây
chịu được hạn – mặn, huyện đã bắt đầu phát triển
thiệt hại đến NTTS ở vùng sinh thái nước lợ, mặn.
Bảng 1. Diện tích đất trồng lúa thay đổi qua các năm tại khu vực nghiên cứu (ĐVT: ha)
Năm
Huyện
Châu Thành
Giồng Trôm
Thạnh Phú
2014
2015
2016
2017
2019
705
9.225
10.659
1.215
8.766
9.111
179
2.757
7.295
117
7.284
8.505
0
954
6.330
(Nguồn: Phòng TN&MT huyện Châu Thành, huyện Giồng Trôm và huyện Thạnh Phú, 2019)
88
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4A (2021): 82-92
hán, xâm nhập mặn mùa khô năm 2019 – 2020,
nhằm chủ động ứng phó và đảm bảo đủ nước ngọt
phục vụ nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của người
dân, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Theo văn bản
này, UBND Tỉnh đã giao nhiệm vụ Sở NN&PTNT,
UBND các huyện và thành phố đảm bảo thực hiện
tốt công tác cảnh báo và dự báo diễn biến xâm nhập
mặn, hướng dẫn người dân các biện pháp phòng,
chống và ứng phó trong các lĩnh vực trồng trọt, chăn
nuôi và NTTS. Đưa ra lịch thời vụ phù hợp với từng
vùng và theo dõi tình hình xâm nhập mặn để chủ
động lấy nước ngọt phục vụ sản xuất; UBND các
huyện phối hợp với Sở NN&PTNT, Công ty trách
nhiệm hữu hạn Một thành viên Khai thác Công trình
Thủy lợi tổ chức kiểm tra, rà soát hệ thống công
trình thủy lợi tại địa phương, đắp đập thời vụ ngăn
mặn cục bộ. Ngoài các văn bản chỉ đạo được ban
hành, thông qua cuộc Hội nghị phòng, chống hạn
hán, xâm nhập mặn đảm bảo sản xuất nông nghiệp
và dân sinh khu vực ĐBSCL mùa khô năm 2019 –
2020, UBND tỉnh Bến Tre ban hành công văn số
496/UBND-KT (ngày 06/02/2020) gửi đến các sở
ban ngành và UBND các huyện về việc tổ chức tổ
chức thực hiện chỉ đạo của Trung ương về công tác
phòng, chống hạn – mặn. Bên cạnh các văn bản chỉ
đạo được ban hành từ UBND tỉnh Bến Tre, Đài Khí
tượng Thuỷ văn tỉnh Bến Tre đã chủ động trình lên
UBND tỉnh Bến Tre kế hoạch số 38/KH-ĐBT ngày
07/11/2019 về việc tăng cường đo đạc khí tượng
thủy văn trong công tác phòng, chống thiên tai ứng
phó biến đổi khí hậu năm 2020 nhằm chủ động trong
công tác ứng phó xâm nhập mặn tại địa phương.
3.2. Đánh giá hiệu quả công tác quản lý
nguồn tài nguyên nước mặt khu vực
nghiên cứu
3.2.1. Sự tồn tại của các văn bản quản lý nhà
nước trong công tác ứng phó xâm nhập
mặn
Tại Việt Nam, công tác quản lý nhà nước về ứng
phó thiên tai đang được thực thi dựa trên Luật
Phòng, chống thiên tai (2013) và các văn bản dưới
hướng dẫn thi hành luật. Căn cứ vào Luật và các văn
bản dưới luật đã được ban hành, các văn bản về ứng
phó xâm nhập mặn mùa khô năm 2019 – 2020 đã
được ban hành từ cấp Trung ương đến địa phương
(Hình 5). Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Thông
báo số 247/TB-VPCP (ngày 16/07/2019) giao
nhiệm vụ về phòng, chống xâm nhập mặn cho các
bộ, ngành, cơ quan trung trương và chính quyền các
cấp ở địa phương. Đến tháng 01/2020, tình hình xâm
nhập mặn diễn ra gay gắt hơn so với những dự báo,
Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 04/CTTTg (ngày 22/01/2020) giao nhiệm vụ cho các Bộ
và UBND các tỉnh phối hợp với nhau triển khai các
giải pháp cấp bách phòng, chống hạn hán, thiếu
nước, xâm nhập mặn để đảm bảo nguồn nước ngọt
phục vụ cho sản xuất và dân sinh. Ban Chỉ đạo
Trung ương về phòng, chống thiên tai là cơ quan chỉ
đạo, chỉ huy về phòng, chống thiên tai (được quy
định tại Điều 44, Luật Phòng, chống thiên tai) ban
hành công văn số 98/TTPCTT triển khai nội dung
trong văn bản chỉ đạo từ Thủ tướng Chính phủ.
Ngoài ra, Bộ NN&PTNT là cơ quan thường trực của
Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai
đã ban hành một số văn bản như: Công văn số
6708/BNN/TCTL (ngày 12/09/2019) giao nhiệm vụ
cho UBND các tỉnh về việc chuẩn bị triển khai công
tác phòng, chống xâm nhập mặn mùa khô năm 2019
– 2020; Chỉ thị số 8008/CT-BNN-TCTL (ngày
25/10/2019) giao nhiệm vụ cho UBND các tỉnh, các
cơ quan trực thuộc Bộ NN&PTNT tổ chức thực hiện
các giải pháp cụ thể được nêu trong chỉ thị nhằm
đảm bảo nguồn nước phục vụ cho sản xuất; Công
văn số 741/BNN-TCTL (ngày 03/02/2020) nhằm
triển khai thực hiện Chỉ thị 04/CT-TTg của Thủ
tướng Chính phủ. Bên cạnh đó, các tổng cục, các
viện trực thuộc Bộ NN&PTNT cũng đã có các văn
bản dự báo và cảnh báo về nguồn nước và tình hình
xâm nhập mặn mùa khô năm 2019 – 2020.
Kết quả tổng hợp các văn bản cho thấy UBND
các huyện đã ban hành các kế hoạch phòng, chống
và ứng phó xâm nhập mặn theo điều kiện thực tế của
từng huyện. Cụ thể, Phòng NN&PTNT có nhiệm vụ
bảo trì, nâng cấp các công trình thủy lợi và phối hợp
với Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
Khai thác Công trình Thủy lợi tỉnh Bến Tre đưa ra
các giải pháp về việc vận hành các công trình thủy
lợi. Đồng thời Phòng NN&PTNT cũng phối hợp với
UBND các xã đưa ra các kế hoạch điều tiết nguồn
nước phục vụ cho SXNN, theo dõi tình hình xâm
nhập mặn thường xuyên để kịp thời để thông tin đến
người dân địa phương; đưa ra các lịch thời vụ và
hướng dẫn người dân các biện pháp kỹ thuật nhằm
hạn chế thiệt hại trong SXNN và NTTS. UBND các
xã có nhiệm vụ thực hiện các biện pháp phòng,
chống xâm nhập mặn được chỉ đạo, theo dõi tình
hình xâm nhập mặn tại địa phương để tham mưu cho
việc chỉ đạo điều hành công tác ứng phó xâm nhập
mặn có hiệu quả; tuyên truyền và vận động người
dân chủ động thực hiện các biện pháp như đắp đập
Nhiệm vụ của các bên liên quan trong công tác
ứng phó xâm nhập mặn mùa khô năm 2019 – 2020
tại tỉnh Bến Tre đã được UBND tỉnh Bến Tre quy
định tại Kế hoạch số 4741/KH-UBND (ngày
29/09/2019) về việc phòng chống thiếu nước, hạn
89
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4A (2021): 82-92
tạm, đê bao cục bộ, tự trang bị máy đo mặn; chỉ đạo
Đài truyền thanh của các xã tuyên truyền công tác
phòng, chống và ứng phó xâm nhập mặn và thông
tin tình hình xâm nhập mặn cho người dân.
Hình 5. Sơ đồ văn bản chỉ đạo phòng, chống và ứng phó xâm nhập mặn mùa khô năm 2019 – 2020
(Nguồn: Kết quả tổng hợp các văn bản năm 2020)
90
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4A (2021): 82-92
tác ứng phó xâm nhập mặn. Các cơ quan đã thực
hiện theo đúng nhiệm vụ được giao trong các văn
bản chỉ đạo. Tuy nhiên, Kế hoạch phòng, chống và
ứng phó xâm nhập mặn mùa khô năm 2019 – 2020
từ UBND huyện Thạnh Phú được ban hành vào
tháng 01/2020 chưa đạt được kịp thời so với Kế
hoạch số 4741/KH-UBND (ngày 29/09/2019) từ
UBND tỉnh Bến Tre theo TCVN ISSO 9001:2015
về mặt thời gian ban hành văn bản (văn bản phải
được ban hành trước 45 ngày kể từ khi có văn bản
chỉ đạo từ cấp trên) và chưa đạt được kịp thời về mặt
thực tế khi xâm nhập mặn đã diễn ra trên địa bàn
huyện từ tháng 11/2019.
3.2.2. Đánh giá thực trạng phối hợp của các
bên trong công tác ứng phó xâm nhập
mặn
Trong công tác ứng phó xâm nhập mặn mùa khô
năm 2019 – 2020 tại tỉnh Bến Tre, Sở TN&MT đã
phối hợp với Đài Khí tượng Thuỷ văn tỉnh Bến Tre
đã đưa ra các bản tin dự báo độ mặn, tóm tắt tình
hình xâm nhập mặn trên địa bản tỉnh Bến Tre hàng
tuần trên trang thông tin điện tử giúp các cơ quan và
người dân theo dõi tình hình diễn biến xâm nhập
mặn một cách dễ dàng hơn. Nhằm hạn chế những
thiệt hại và để người dân nắm bắt thông tin kịp
thời cũng như thích ứng với biến đổi khí hậu, Đài
Khí tượng Thuỷ văn tỉnh Bến Tre đã kết hợp với
Chi cục Thủy lợi tỉnh Bến Tre và Sở Khoa học và
Công nghệ tỉnh Bến Tre xây dựng trang web
(https://thuyloibentre.com/) quản lý thông tin về
công trình thủy lợi, dữ liệu thủy văn và cảnh báo, dự
báo xâm nhập mặn trên địa bàn tỉnh nhằm cảnh báo
tình hình xâm nhập mặn một cách liên tục và kịp
thời, nhằm hỗ trợ người dân dễ dàng tiếp cận tin tức,
chủ động trong việc lấy nước ngọt phục vụ cho việc
SXNN và sinh hoạt. Sở NN&PTNT được giao
nhiệm vụ phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ
triển khai ứng dụng khoa học công nghệ trong sản
xuất như: tưới tiêu tiết kiệm hiệu quả, tăng khả năng
thích ứng và chống chịu mặn ở cây trồng – vật nuôi;
đồng thời Sở NN&PTNT cũng phối hợp với Công
ty cổ phần cấp thoát nước Bến Tre cấp nước cho
người dân địa phương. Bên cạnh đó, Sở NN&PTNT
còn phối hợp với Công ty trách nhiệm hữu hạn Một
thành viên Khai thác Công trình Thủy lợi thực hiện
giải pháp về công trình trên địa bàn tỉnh.
Các bên liên quan đã có sự phối hợp với nhau
trong công tác ứng phó xâm nhập mặn như văn bản
được giao. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các bên liên
quan ở cùng cấp tại các huyện còn nhiều hạn chế do
nhiệm vụ của các bên liên quan được giao trong các
văn bản chỉ đạo ứng xâm nhập mặn mặn tại các
huyện còn độc lập (Kế hoạch số 2972/KH-UBND
huyện Giồng Trôm, Kế hoạch số 83/KH-UBND
huyện Thạnh Phú). Các cơ quan chức năng chỉ phối
hợp khi có văn bản chỉ đạo từ cấp trên do đó chưa
thấy được sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị cùng
cấp huyện, đặc biệt là giữa Phòng NN&PTNT và
Phòng TN&MT. Các kế hoạch được ban hành vẫn
chưa quy định rõ ràng sự phối hợp ở các đơn vị cùng
cấp huyện, văn bản chỉ nêu lên việc một cơ quan
phối hợp với các cơ quan có liên quan mà chưa nêu
cụ thể phối hợp với cơ quan nào (Kế hoạch số
83/KH-UBND huyện Thạnh Phú). Bên cạnh đó,
nghiên cứu của Nguyen et al., (2021) tại Bến Tre
cũng cho thấy rằng vai trò và trách nhiệm của các
bên trong công tác ứng phó với xâm nhập mặn vẫn
còn gây nhầm lẫn và chưa rõ ràng, điều này có thể
dẫn đến việc thực thi công tác ứng phó xâm nhập
mặn không hiệu quả trong các trường hợp khẩn cấp.
Phòng NN&PTNT các huyện đã phối hợp với
UBND các xã khảo sát, đắp đập ngăn mặn cục bộ;
đồng thời Phòng cũng phối hợp với Trạm Khuyến
nông và Trạm Bảo vệ thực vật triển khai các giải
pháp nhằm nâng cao khả năng thích ứng cho cây
trồng như kỹ thuật tưới tiết kiệm, kỹ thuật chăm sóc
cây thích ứng hạn mặn tại địa phương, cũng như
phối hợp Trạm Thủy nông quan trắc độ mặn tại các
cống đầu mối và đưa ra lịch vận hành cống phù hợp,
thông tin kịp thời đến các cơ quan chức năng và
người dân địa phương (Kết quả khảo sát, 2020).
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Qua kết quả nghiên cứu, xâm nhập mặn mùa khô
năm 2019 – 2020 diễn ra gay gắt hơn xâm nhập mặn
mùa khô năm 2015 – 2016 về mặt không gian, gây
nhiều thiệt hại đến SXNN và NTTS tại địa phương.
Trước tác động từ các đợt xâm nhập mặn cực đoan
mùa khô năm 2015 – 2016 và năm 2019 – 2020, việc
sử dụng đất đai tại khu vực nghiên cứu đã có sự
chuyển dịch nhằm thích ứng với xâm nhập mặn.
Công tác chỉ đạo phòng, chống và ứng phó xâm
nhập mặn mùa khô năm 2019 – 2020 được kịp thời
từ cấp Trung ương đến địa phương giúp người dân
chủ động trong việc ứng phó xâm nhập mặn. Sự phối
hợp giữa các bên liên quan trong công tác ứng phó
xâm nhập mặn tại địa phương được quy định rõ ràng
Thông qua nội dung và thời gian ban hành các
văn bản chỉ đạo công tác ứng phó xâm nhập mặn
mùa khô năm 2019 – 2020 theo trình tự từ Trung
ương đến địa phương cho thấy, các văn bản dự báo,
cảnh báo về xâm nhập mặn và các văn bản chỉ đạo
công tác ứng phó xâm nhập mặn đã được ban hành
kịp thời trước khi xâm nhập mặn diễn ra tại địa
phương, giúp các cơ quan chủ động được trong công
91
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4A (2021): 82-92
Sector Challenges. 2030 Water Resources
Group. World Bank.
Le, T. N., Bregt, A. K., van Halsema, G. E.,
Hellegers, P. J., & Nguyen, L. D. (2018).
Interplay between land-use dynamics and
changes in hydrological regime in the
Vietnamese Mekong Delta. Land Use Policy, 73,
269-280.
Nguyen, M. N., Nguyen, P. T., Van, T. P., Phan, V.
H., Nguyen, B. T., Pham, V. T., & Nguyen, T. H.
(2021). An understanding of water governance
systems in responding to extreme droughts in the
Vietnamese Mekong Delta. International
Journal of Water Resources Development, 37(2),
256-277.
OECD. (2015). OECD Principles on Water
Governance.
Phan Hoàng Vũ, Phạm Thanh Vũ & Văn Phạm Đăng
Trí. (2016). Phân Vùng Rủi Ro Trong Sản Xuất
Nông Nghiệp Dưới Tác Động Của Xâm Nhập
Mặn ở Tỉnh Bạc Liêu. Tạp chí Khoa học Trường
Đại Học Cần Thơ, 42, 70–80.
Van Rijswick, M., Edelenbos, J., Hellegers, P., Kok,
M., & Kuks, S. (2014). Ten building blocks for
sustainable water governance: an integrated
method to assess the governance of water. Water
international, 39(5), 725-742.
Ryan, F., Coughlan, M., & Cronin, P. (2009).
Interviewing in qualitative research: The one-toone interview. International Journal of Therapy
and Rehabilitation, 16(6), 309-314.
Ủy ban Dân tộc. (2019). Quyết Định về áp dụng tài
liệu hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn
quốc gia TCVN ISO 9001:2015 tại Cơ quan Ủy
ban Dân tộc (Số 887/QĐ-UBDT).
Viện Khoa học Thuỷ lợi miền Nam. (2019). Báo cáo
dự báo nguồn nước, xâm nhập mặn mùa khô năm
2019 – 2020 vùng Đồng bằng sông Cửu Long và
đề xuất giải pháp chống hạn.
World Bank. (2019). Vietnam: Toward a safe, clean,
and resilient water system. World Bank.
Washington, DC.
và thực hiện theo chiều dọc (từ trung ương đến địa
phương). Tuy nhiên, sự phối hợp theo chiều ngang
giữa các bên còn gặp nhiều hạn chế khi sự phối hợp
giữa các cơ quan cùng cấp chưa được quy định rõ
ràng trong các văn bản chỉ đạo ứng phó xâm nhập
mặn tại địa phương.
Nghiên cứu là bước đầu đánh giá hiệu quả công
tác ứng phó với xâm nhập mặn trong điều kiện thời
tiết cực đoan tại vùng ven biển ĐBSCL. Nghiên cứu
chỉ tập trung đánh giá công tác ứng phó trước và
trong khi xảy ra xâm nhập mặn mà chưa xem xét đến
các giải pháp làm giảm thiệt hại sau khi đợt xâm
nhập mặn diễn ra và nghiên cứu chưa đánh giá được
hết các nguyên tắc trong nhóm hiệu quả của OECD,
còn hạn chế trong việc đánh giá cơ chế phối hợp theo
chiều ngang ở cấp Tỉnh và cấp Trung ương. Vì thế
nhóm tác giả đề xuất cần có các nghiên cứu đánh giá
toàn diện hơn về hiệu quả của công tác ứng phó xâm
nhập mặn, nhằm hỗ trợ việc quy hoạch và phát triển
bền vững tài nguyên nước, đặc biệt trong điều kiện
thời tiết ngày càng bất thường.
5. LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Dự án Nâng cấp
Trường Đại học Cần Thơ VN14-P6 bằng nguồn vốn
vay ODA từ Chính phủ Nhật Bản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Dutch WASH Alliance. (2014). FIETS Sustainability
Approach.
Giáp Văn Vinh. (2020). Tình Hình Thủy Văn và
Xâm Nhập Mặn Năm 2020 ở ĐBSCL. Hội Thảo
về Hạn - Mặn Năm 2020 ở Đồng Bằng Sông
Cửu Long, ngày 17 tháng 06 năm 2020, Viện
Nghiên Cứu Biến Đổi Khí Hậu, Trường Đại học
Cần Thơ.
Intergovernmental Panel on Climate Change. (2014).
Climate Change 2014 Part A: Global and
Sectoral Aspects.
Jakob, C., & Khemka, R. (2017). Vietnam: HydroEconomic Framework for Assessing Water
92