Academia.eduAcademia.edu
Đề tài: Hoạt động tín dụng tại việt nam Nhóm 5: Hoàng Thu Trang Nguyễn Thị Hương Trang ( Nhóm Trưởng) Nguyễn Vũ Anh Thư Trương Thị Trang Phạm Thị Trang Đỗ Đức Thịnh Nguyễn Thị Huyền Trang I. một số quy định chung về hoạt động tín dụng ở VIỆT NAM 1. Khái niệm . 1.1. Khái niệm. “Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao một lượng giá trị sang cho bên kia được sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận được phải cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận.” 1.2. Đặc trưng của tín dụng. a.Tín dụng là có lòng tin. Ta thấy tín dụng là sự cho vay có hứa hẹn thời gian hoàn trả. Sự hứa hẹn biểu hiện “mức tín nhiệm” hay “lòng tin” của người cho vay vào người đi vay. Yếu tố lòng tin tuy vô hình nhưng không thể thiếu trong quan hệ tín dụng, đây là yếu tố bao trùm trong hoạt động tín dụng, là điều liện cần cho quan hệ tín dụng phát sinh. b. Tín dụng là có tính thời hạn . Khác với các quan hệ mua bán thông thường khác (sau khi trả tiền người mua trở thành chủ sở hữu của vật mua hay còn gọi là “mua đứt bán đoạn”), quan hệ tín dụng chỉ trao đổi quyền sử dụng giá trị khoản vay chứ không trao đổi quyền sở hữu khoản vay. c. Tín dụng là có tính hoàn trả .  Đây là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của tín dụng và là dấu ấn để phân biệt phạm trù tín dụng với các phạm trù kinh tế khác. Sau khi kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng, hoàn thành một chu kỳ sản xuất trở về trạng thái tiền tệ, vốn tín dụng được người đi vay hoàn trả cho người cho vay kèm theo một phần lãi như đã thoả thuận. 1.3. Bản chất và chức năng của tín dụng . Tín dụng là một phạm trù của nền kinh tế hàng hoá, bản chất của tín dụng là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất định, quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn và là quan hệ bình đẳng hai bên cùng có lợi. Tín dụng nói chung và tín dụng ngân hàng nói riêng đều có hai đặc điểm đó là : - Huy động vốn và cho vay vốn tiền tệ trên nguyên tắc hoàn trả có lãi. Chức năng này gồm hai loại nghiệp vụ được tách hẳn ra là huy động vốn tạm thời nhàn rỗi và cho vay vốn đối với các nhu cầu cần thiết của nền kinh tế. - Kiểm soát các hoạt động kinh tế thông qua các quan hệ tín dụng đối với các tổ chức và cá nhân. 2. Một số quy định chung về hoạt động tín dụng . 2.1. Phạm vi hoạt động được phép của tổ chức tín dụng Theo Điều 90 Luật các tổ chức tín dụng : 1. Ngân hàng Nhà nước quy định cụ thể phạm vi, loại hình, nội dung hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác của tổ chức tín dụng trong Giấy phép cấp cho từng tổ chức tín dụng. 2. Tổ chức tín dụng không được tiến hành bất kỳ hoạt động kinh doanh nào ngoài các hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác ghi trong Giấy phép được Ngân hàng Nhà nước cấp cho tổ chức tín dụng. 3. Các hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác của tổ chức tín dụng quy định tại Luật này thực hiện theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước. 2.2. Lãi suất, phí trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng Theo Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng : 1. Tổ chức tín dụng được quyền ấn định và phải niêm yết công khai mức lãi suất huy động vốn, mức phí cung ứng dịch vụ trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng. 2. Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật. 3. Trong trường hợp hoạt động ngân hàng có diễn biến bất thường, để bảo đảm an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước có quyền quy định cơ chế xác định phí, lãi suất trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng. 2.3. Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu của tổ chức tín dụng Theo Điều 92 Luật các tổ chức tín dụng : 1. Tổ chức tín dụng được phát hành chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu để huy động vốn theo quy định của Luật này và quy định của Ngân hàng Nhà nước. 2. Căn cứ Luật này và Luật chứng khoán, Chính phủ quy định việc phát hành trái phiếu, trừ trái phiếu chuyển đổi để huy động vốn của tổ chức tín dụng. 2.4. Quy định nội bộ Theo Điều 93 Luật các tổ chức tín dụng : 1. Căn cứ vào quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan, tổ chức tín dụng phải xây dựng và ban hành các quy định nội bộ đối với các hoạt động nghiệp vụ của tổ chức tín dụng, bảo đảm có cơ chế kiểm soát, kiểm toán nội bộ, quản lý rủi ro gắn với từng quy trình nghiệp vụ kinh doanh, phương án xử lý các trường hợp khẩn cấp. 2. Tổ chức tín dụng phải ban hành các quy định nội bộ sau đây: a) Quy định về cấp tín dụng, quản lý tiền vay để bảo đảm việc sử dụng vốn vay đúng mục đích; b) Quy định về phân loại tài sản có, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro; c) Quy định về đánh giá chất lượng tài sản có và tuân thủ tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu; d) Quy định về quản lý thanh khoản, trong đó có các thủ tục và các giới hạn quản lý thanh khoản; đ) Quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ và cơ chế kiểm toán nội bộ phù hợp với tính chất và quy mô hoạt động của tổ chức tín dụng; e) Quy định về hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ; g) Quy định về quản trị rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng; h) Quy định về quy trình, thủ tục, bao gồm cả nguyên tắc nhận biết khách hàng để bảo đảm ngăn ngừa việc tổ chức tín dụng bị lạm dụng cho các mục đích rửa tiền, tài trợ khủng bố và tội phạm khác; i) Quy định về phương án xử lý các trường hợp khẩn cấp. 3. Tổ chức tín dụng phải gửi cho Ngân hàng Nhà nước các quy định nội bộ tại khoản 2 Điều này ngay sau khi ban hành. 2.5. Xét duyệt cấp tín dụng, kiểm tra sử dụng tiền vay Theo Điều 94 Luật các tổ chức tín dụng : 1. Tổ chức tín dụng phải yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh phương án sử dụng vốn khả thi, khả năng tài chính của mình, mục đích sử dụng vốn hợp pháp, biện pháp bảo đảm tiền vay trước khi quyết định cấp tín dụng. 2. Tổ chức tín dụng phải tổ chức xét duyệt cấp tín dụng theo nguyên tắc phân định trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định cấp tín dụng. 3. Tổ chức tín dụng có quyền, nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng. 4. Tổ chức tín dụng có quyền yêu cầu khách hàng vay báo cáo việc sử dụng vốn vay và chứng minh vốn vay được sử dụng đúng mục đích vay vốn. 2.6. Chấm dứt cấp tín dụng, xử lý nợ, miễn, giảm lãi suất Theo Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng : 1. Tổ chức tín dụng có quyền chấm dứt việc cấp tín dụng, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm các quy định trong hợp đồng cấp tín dụng. 2. Trong trường hợp khách hàng không trả được nợ đến hạn, nếu các bên không có thỏa thuận khác thì tổ chức tín dụng có quyền xử lý nợ, tài sản bảo đảm tiền vay theo hợp đồng cấp tín dụng, hợp đồng bảo đảm và quy định của pháp luật. Việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, mua bán nợ của tổ chức tín dụng thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. 3. Trong trường hợp khách hàng vay hoặc người bảo đảm không trả được nợ do bị phá sản, việc thu hồi nợ của tổ chức tín dụng được thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản. 4. Tổ chức tín dụng có quyền quyết định miễn, giảm lãi suất, phí cho khách hàng theo quy định nội bộ của tổ chức tín dụng. 2.7. Lưu giữ hồ sơ tín dụng Theo Điều 96 Luật các tổ chức tín dụng : 1. Tổ chức tín dụng phải lưu giữ hồ sơ tín dụng, bao gồm: a) Hợp đồng cấp tín dụng và tài liệu ghi rõ mục đích sử dụng vốn; hồ sơ về biện pháp bảo đảm; b) Báo cáo thực trạng tài chính của khách hàng; c) Quyết định cấp tín dụng có chữ ký của người có thẩm quyền; trường hợp quyết định tập thể, phải có biên bản ghi rõ quyết định được thông qua; d) Những tài liệu phát sinh trong quá trình sử dụng khoản vay liên quan đến hợp đồng cấp tín dụng. 2. Thời hạn lưu trữ hồ sơ tín dụng thực hiện theo quy định của pháp luật. 2.8. Hoạt động ngân hàng điện tử Theo Điều 97 Luật các tổ chức tín dụng : “Tổ chức tín dụng được thực hiện các hoạt động kinh doanh qua việc sử dụng các phương tiện điện tử theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước về quản lý rủi ro và quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.” II.CÁC HÌNH THỨC TÍN DỤNG 1. Tín dụng thương mại - Khái niệm: Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa. Đây là quan hệ tín dụng giữa các nhà sản xuất - kinh doanh được thực hiện dưới hình thức mua bán, bán chịu hàng hóa. Hành vi mua bán chịu hàng hóa được xem là hình thức tín dụng - người bán chuyển giao cho người mua quyền sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định, và khi đến thời hạn đã được thỏa thuận, người mua phải hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi cho người bán chịu. - Đặc điểm: Tín dụng thương mại vốn cho vay dưới dạng hàng hóa hay một bộ phận của vốn sản xuất chuẩn bị chuyển hóa thành tiền, chưa phải là tiền nhàn rỗi. cho vay (chủ nợ) và người đi vay (con nợ) đều là những doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Khối lượng tín dụng lớn hay nhỏ phụ thuộc vào tổng giá trị của khối lượng hàng hóa được đưa ra mua bán chịu. - Công cụ lưu thông của tín dụng thương mại • Thương phiếu Cơ sở pháp lý xác định quan hệ nợ nần của tín dụng thương mại là giấy nhận nợ, được gọi là kỳ phiếu thương mại hay gọi tắt là thương phiếu. Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định. • Đặc điểm của thương phiếu Thương phiếu mang tính trừu tượng; Thương phiếu mang tính bắt buộc; Thương phiếu mang tính lưu thông. • Phân loại thương phiếu + Dựa trên cơ sở người lập: Thương phiếu do người mua chịu lập ra gọi là lệnh phiếu; Thương phiếu do người bán chịu lập ra gọi là hối phiếu. + Dựa trên phương thức ký chuyển nhượng: Thương phiếu vô danh; Thương phiếu đích danh; Thương phiếu ký danh. - Ưu điểm của tín dụng thương mại • Tín dụng thương mại góp phần đẩy nhanh quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa, làm cho chu kỳ sản xuất rút ngắn lại; • Tín dụng thương mại tham gia vào quá trình điều tiết vốn giữa các doanh nghiệp một cách trực tiếp mà không thông qua bất kỳ cơ quan trung gian nào; • Tín dụng thương mại góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, làm giảm chi phí lưu thông xã hội. - Nhược điểm của tín dụng thương mại • Về quy mô: lượng giá trị cho vay bị hạn chế, chỉ giới hạn trong khả năng vốn hàng hoá mà họ có. • Về thời gian: ngắn thường là dưới 1 năm; • Về điều kiện kinh doanh, chu kỳ sản xuất: Thời gian doanh nghiệp muốn bán chịu không phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp cần mua chịu thì tín dụng thương mại cũng không xảy ra. • Về phạm vi: bị hạn chế chỉ xảy ra giữa các doanh nghiệp với nhau, và phải quen biết và tin tưởng nhau. • Về sự phù hợp: Được cấp dưới hình thức hàng hoá, vì vậy doanh nghiệp bán chịu chỉ có thể cung cấp cho một số doanh nghiệp nhất định - những doanh nghiệp có nhu cầu đúng thứ hàng hoá đó để phục vụ sản xuất hoặc kinh doanh. 2. Tín dụng ngân hàng: - Khái niệm: Tín dụng ngân hàng là giao dịch tài sản giữa Ngân hàng (TCTD) với bên đi vay (là các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nền kinh tế) trong đó Ngân hàng (TCTD) chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả vốn gốc và lãi cho Ngân hàng (TCTD) khi đến hạn thanh toán. - Đặc điểm: • Huy động vốn và cho vay vốn đều thực hiện dưới hình thức tiền tệ; • Ngân hàng đóng vai trò trung gian trong quá trình huy động vốn và cho vay; • Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn toàn phù hợp với quy mô phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa; • Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung và điều hòa vốn giữa các chủ thể trong nền kinh tế. - Công cụ lưu thông: • Công cụ lưu thông của tín dụng ngân hàng là kỳ phiếu ngân hàng; là một loại chứng từ có giá của ngân hàng hay là một giấy nhận nợ của ngân hàng phát hành cho các pháp nhân và thể nhân, nó được lưu hành không thời hạn trên thị trường. • Kỳ phiếu ngân hàng do ngân hàng phát hành dựa trên quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với doanh nghiệp, cư dân và nhà nước. Nó được ra đời trên hai cơ sở bảo đảm bằng vàng và tín dụng. Kỳ phiếu ngân hàng còn được gọi là giấy bạc ngân hàng và trở thành tiền tệ. - Ưu điểm của tín dụng ngân hàng • Thời hạn cho vay linh hoạt - ngắn hạn, trung hạn, dài hạn đáp ứng mọi nhu cầu vay vốn của khách hàng; • Về khối lượng tín dụng lớn; • Về phạm vi được mở rộng với mọi ngành, mọi lĩnh vực. - Nhược điểm của tín dụng ngân hàng Tín dụng ngân hàng có độ rủi ro cao - gắn liền với chính ưu điểm do việc ngân hàng có thể cho vay số tiền lớn hơn nhiều so với số vốn tự có, hoặc có sự chuyển đổi thời hạn và phạm vi tín dụng rộng. 3. Tín dụng nhà nước: - Khái niệm: Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa nhà nước với doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội và các cá nhân. Tín dụng nhà nước xuất hiện nhằm thỏa mãn những nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước trong điều kiện nguồn thu không đủ để đáp ứng; nó còn là công cụ để nhà nước hỗ trợ cho các ngành kinh tế yếu kém, ngành mũi nhọn và khu vực kinh tế kém phát triển, và là công cụ quan trọng để nhà nước quản lý, điều hành vĩ mô. - Đặc điểm: • Chủ thể là nhà nước, các pháp nhân và thể nhân; • Hình thức đa dạng, phong phú; • Tín dụng nhà nước chủ yếu là loại hình trực tiếp, không thông qua tổ chức trung gian. - Công cụ lưu thông: • Khi nhà nước vay + Tín phiếu kho bạc; + Trái phiếu kho bạc; + Trái phiếu đầu tư: + Trái phiếu huy động vốn cho từng công trình; + Trái phiếu huy động vốn cho Quỹ hỗ trợ phát triển; + Công trái; + Trái phiếu chính phủ quốc tế. • Khi nhà nước cho vay + Cho vay đầu tư; + Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư; + Bảo lãnh tín dụng. - Ưu điểm của tín dụng nhà nước • Duy trì hoạt động thường ngày của nhà nước; • Góp phần xây dựng cơ sở vật chất hiện đại; • Góp phần vào nghĩa vụ quốc tế, vì quan hệ ngày càng phát triển, đôi khi nhà nước không thể từ chối nghĩa vụ cho vay đối với nước ngoài; • Tạo điều kiện phát triển tín dụng ngân hàng. - Nhược điểm của tín dụng nhà nước Rủi ro là vỡ nợ của nhà nước, do tính toán kỹ nhu cầu vay và sử dụng vốn vay không hiệu quả; 4. Tín dụng tiêu dùng: - Khái niệm: Tín dụng tiêu dùng là quan hệ tín dụng giữa dân cư với doanh nghiệp, ngân hàng và các công ty cho thuê tài chính. - Đặc điểm: • Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho dân cư; • Hình thức là hàng hóa hoặc tiền tệ; • Dân cư là người vay; ngân hàng, công ty cho thuê tài chính, doanh nghiệp là người cho vay. - Công cụ lưu thông: • Ngân hàng cấp tín dụng tiêu dùng bằng tiền; • Doanh nghiệp cho vay dưới hình thức bán chịu, trả góp; • Công ty cho thuê tài chính cho vay dưới dạng cho thuê tài sản. - Ưu điểm của tín dụng tiêu dùng • Thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, nhất là hàng hóa ứ đọng; • Góp phần nâng cao, cải thiện đời sống dân cư, cho phép sử dụng trước khả năng mua. - Nhược điểm của tín dụng tiêu dùng • Khối lượng tín dụng bị hạn chế; • Hình thức tín dụng bị hạn chế. 5. Tín dụng thuê mua: - Khái niệm: Tín dụng thuê mua là quan hệ phát sinh giữa các công ty cho thuê tài chính với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân dưới hình thức cho thuê tài chính. Nó thuộc thị trường vốn - Đặc điểm: • Đối tượng là tài sản; • Chủ thể là công ty cho thuê tài chính (người cho thuê), và doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân (người đi thuê). - Công cụ lưu thông của tín dụng thuê mua Công cụ lưu thông của tín dụng thuê mua là các hợp đồng thuê mua giữa công ty cho thuê tài chính và bên đi thuê. - Hình thức của tín dụng thuê muaThuê mua tài trợ trực tiếp; • Thuê mua liên kết; • Thuê mua bắc cầu; • Bán và tái thuê; • Thuê mua giáp lưng; • Thuê mua trả góp. - Ưu điểm của tín dụng thuê mua Tạo điều kiện cho doanh nghiệp hiện đại hóa sản xuất, áp dụng công nghệ mới trong khi nguồn vốn chủ sở hữu còn có hạn. - Nhược điểm của tín dụng thuê mua • Khối lượng tín dụng hạn hẹp theo công dụng của sản phẩm đi thuê; • Phạm vi tín dụng hạn hẹp theo công dụng của sản phẩm đi thuê. 6. Tín dụng quốc tế: - Khái niệm: Tín dụng quốc tế là mối quan hệ giữa các nhà nước, giữa các cơ quan nhà nước với nhau, hoặc với ngân hàng quốc tế và các tổ chức quốc tế, các cá nhân người nước ngoài và giữa các doanh nghiệp của các nước với nhau. - Đặc điểm của tín dụng quốc tế • Phản ánh mối quan hệ tín dụng giữa các chủ thể kinh tế của một quốc gia với các chủ thể kinh tế của các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế; • Đối tượng tín dụng quốc tế là hàng hóa hoặc tiền tệ; • Chủ thể tham gia là chính phủ, cơ quan nhà nước, ngân hàng quốc tế, tổ chức quốc tế, doanh nghiệp và cá nhân. - Ưu điểm của tín dụng quốc tế Đáp ứng được nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế - xã hội khi mà các nguồn vốn trong nước còn hạn chế. - Nhược điểm của tín dụng quốc tế Tín dụng quốc tế có rủi ro do bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của tỷ giá hối đoái quốc tế. III. Những hạn chế, vướng mắc chính trong hoạt động tín dụng tại Việt Nam và hướng giải quyết. Với quyết tâm cao của ngành ngân hàng, lãi suất cho vay bình quân của hệ thống ngân hàng thương mại giảm nhanh từ 18,2% năm 2011, xuống dưới 9% năm 2014. Cùng với việc giảm lãi suất, chính phủ và NHNN có nhiều chính sách tích cực để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, do những bất ổn về kinh tế vĩ mô trong những năm gần đây, nên tăng trưởng dư nợ tín dụng ngành ngân hàng đạt ở mức khiêm tốn, phản ánh đúng thực trạng sức khỏe của nền kinh tế. Dư nợ tín dụng từ năm 2011 đến 2014 tăng lần lượt là 14,2%, 8,85%, 12,51% và 12%, thấp hơn so với những năm trước đó1. Kết thúc năm 2014, phần lớn các chỉ tiêu kinh tế - xã hội lớn đều đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch, trong đó tăng trưởng GDP đạt 5,98%, vượt chỉ tiêu kế hoạch do quốc hội đề ra. Kết quả tích cực của năm 2014 mở ra nhiều triển vọng tốt cho khơi tăng dư nợ tín dụng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong năm 2015- năm về đích của kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015. Tuy triển vọng của năm 2015 là khả quan, nhưng vẫn còn đó những gam màu tối, những điểm nghẽn trong hoạt động tín dụng, mà nó sẽ là rào cản cho cung ứng vốn tín dụng ngân hàng cho tăng trưởng kinh tế. Những thách thức lớn cho tăng trưởng tín dụng ngân hàng năm 2015 *Về phía doanh nghiệp 1. Hàng hóa tồn kho cao, tiêu thụ chậm Doanh nghiệp không thể tiếp tục đẩy mạnh sản xuất khi hàng sản xuất ra không bán được. Đây là điểm nghẽn lớn nhất khiến cho tăng trưởng kinh tế nói chung, tín dụng nói riêng không đạt kỳ vọng trong những năm qua. Điển hình cho hàng tồn kho cao là tồn đọng bất động sản. Lượng cung bất động sản vượt xa lượng cầu thực trong các năm, trong khi đây là loại hàng hóa có giá trị quá cao, gây ảnh hưởng trực tiếp cho nền kinh tế. Từ đầu năm 2014 đến nay, thị trường bất động sản tuy đã khởi sắc, tuy nhiên, tồn kho của ngành này còn là câu chuyện của nhiều năm tới. Theo báo cáo của Bộ Xây dựng, tồn đọng bất động sản hàng hóa cuối quí 3/2014 trên địa bàn thành phố Hà Nội khoản 85 ngàn tỷ đồng, con số thực có thể cao hơn nhiều. Trong khi đó, hàng hoạt dự án bất động sản khác tiếp tục chào hàng ra thị trường, đẩy hàng tồn đọng tăng cao. Bất động sản ở Thành phố Hồ Chí Minh và nhiều thành phố khác của cả nước cung trong hoàn cảnh tương tự. Tồn kho bất động sản kéo theo sự ế hàng của nhiều ngành có liên quan như xi măng, sắt thép, vật liệu, thiết bị điện, nội thất, nhân công xây dựng vv. Các mặt hàng nông sản thực phẩm như cao su, cà phê, mía đường, hạt điều, tôm, cá da trơn cũng đối diện với sự khó khăn về thị trường đầu ra và giá cá. Điểm sáng cho cho sản xuất và tiêu thụ trong những năm qua thuộc về ngành điện tử, công nghiệp ôtô, xe máy của khối nhà đầu tư nước ngoài. 2. Thiếu các dự án đầu tư có hiệu quả Cái khó bó cái khôn, trong điều kiện hàng tồn kho cao, muốn có dự án đầu tư có hiệu quả, phải giải quyết đồng thời bài toán sản xuất và tiêu thụ. Về sản xuất, chúng ta đang gặp phải với năng suất lao động và chất lượng sản phẩm thiếu khả năng canh tranh. Về tiêu thụ, sức mua trong nước thấp, chưa khai thác được thị trường xuất khẩu mới trong khi một số thị trường xuất khẩu truyền thống đang có vấn đề. Điểm lại các ngành kinh tế được xem là thế mạnh, đóng góp lớn cho tăng trưởng kinh tế và có nhu cầu hấp thu lớn vốn tín dụng, thì phần lớn là đang gặp khó khăn. Đó là ngành xây dựng, vận tải, bất động sản, ngành cao su, cà phê, cây ăn trái, cá da trơn, tôm,vv… đang có mức giá thấp và gặp khó khăn thật sự về đầu ra. Chỉ riêng mặt hàng cao su, xuất khẩu 11 tháng đầu năm 2014 đạt 954 nghìn tấn với giá trị đạt 1,62 tỷ USD, tăng 0,5% về khối lượng nhưng lại giảm 27% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. 3. Các doanh nghiệp nợ nần dây dưa, nợ xấu ngân hàng vẫn đang ở mức cao Hàng tồn kho cao không tiêu thụ được dẫn đến các doanh nghiệp nợ nần lẫn nhau không thể thanh toán, không thể trả nợ ngân hàng đúng hạn. Nếu như trước 2011, phần lớn các hợp đồng kinh tế giữa các doanh nghiệp đối tác của nhau đều khá dễ chịu về điều khoản thanh toán, thì từ đầu năm 2012 đến nay, chủ yếu là phải “tiền trao cháo múc”. Khi lòng tin lẫn nhau suy giảm, thì khả năng bán hàng lại càng trở khó khăn. Tương tự, nợ xấu cao, lòng tin lẫn nhau giữa ngân hàng và doanh nghiệp giảm thấp. Doanh nghiệp muốn vay vốn ngân hàng phải có tài sản thế chấp, trong khi tài sản của doanh nghiệp lại đang được bảo đảm cho những khoản nợ xấu chưa thể trả nợ cho ngân hàng. Nợ xấu và tăng trưởng tín dụng đang trong vòng luẩn quẩn chưa có lối ra sáng sủa. Ba điểm nghẽn lớn về tăng trưởng tín dụng nêu trên, cũng chính là điểm nghẽn của nền kinh tế nước ta. Vì vậy, để tăng trưởng tín dụng, trước hết phải quyết các vấn đề của nền kinh tế. Nói cách khác là phải giải quyết các vấn đề của kinh tế vĩ mô cùng với các vấn đề cơ bản của tín dụng ngân hàng cho bài toán tăng trưởng tín dụng ngân hàng trong năm 2015 và những năm tới. *Về phía ngân hàng Thứ nhất, do cách phân loại nợ.  Hiện nay, quản trị rủi ro tín dụng tại mỗi ngân hàng thường theo những khẩu vị rủi ro riêng. Vấn đề này đã dẫn đến một số bất cập trong việc so sánh, đánh giá cùng một đối tượng khách hàng nhưng lại có kết quả khác nhau, nhiều khi xung đột (cùng 1 khách hàng, có ngân hàng phân loại vào nhóm nợ cao, có ngân hàng lại phân loại vào nhóm nợ thấp). Mặt khác, việc triển khai xếp hạng khách hàng đòi hỏi đội ngũ chuyên gia nhiều kinh nghiệm thực tiễn cũng như am hiểu sau sắc mô hình xếp hạng tín dụng (modelling), trong khi thị trường nhân lực hiện tại của Việt Nam còn rất thiếu. Thứ hai, thông tin về khách hàng vừa thiếu, vừa không chuẩn xác. Điều này gây không ít khó khăn cho ngân hàng trong việc thiết lập quan hệ tín dụng. Ở Việt Nam, trên 90% là DN nhỏ và vừa, không ít DN có báo cáo tài chính không chuẩn xác, lại không qua kiểm toán. Ngay cả đối với các DN lớn được kiểm toán thì sự chậm trễ trong công bố báo cáo tài chính cũng như chất lượng kiểm toán chưa cao cũng gây nhiều khó khăn cho các ngân hàng. Vì thế, việc dựa vào một số thông tin đầu vào để cấp tín dụng, đã dẫn đến một số khoản vay  vừa ra khỏi  ngân hàng đã khó có khả năng thu hồi. Đặc biệt, khi ngân hàng và DN lại có mối quan hệ “mật thiết”, phụ thuộc lẫn nhau (sở hữu chéo) thì nguồn lực dễ bị phân bổ sai lệch, bất hợp lý, cho vay bất chấp các quy định về an toàn vốn, nợ xấu tất yếu sẽ tăng lên. Thứ ba, hoạt động thâu tóm, mua bán, sáp nhập, các công ty sân sau, sở hữu chéo trong ngân hàng... đã tạo ra những vòng luẩn quẩn của dòng tiền. Đây cũng là những hoạt động tiềm ẩn nhiều nợ xấu nhưng rất khó chỉ ra để xử lý, khi tính minh bạch và giải trình còn hạn chế. Tổng phương tiện thanh toán (M2) của 9 tháng đầu năm tăng 12,21%, nhưng tín dụng chỉ tăng 2,5%, trong khi chứng khoán cũng không phải là kênh được các ngân hàng quan tâm kể từ khi có văn bản hạn chế cho vay chứng khoán của NHNN; bất động sản cũng đóng băng; vay tiêu dùng không được xem là kênh ưu tiên trong thời gian qua. Như vậy, phải chăng nợ xấu đang chạy òng vòng giữa ngân hàng và các Doanh nghiệp có quan hệ mật thiết. Nếu thế, nợ xấu sẽ ngày một phình to và càng khó xác định, lãi suất sẽ tiếp tục bị đẩy lên cao, DN sản xuất kinh doanh càng khó tiếp cận được vốn. Thứ tư, nợ xấu còn có nguyên nhân sâu xa từ đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ ngân hàng và khách hàng. Kinh doanh ngân hàng dựa trên sự tin cậy và mức độ tín nhiệm thì đạo làm nghề ngân hàng không chỉ cần thiết mà còn mang tính bắt buộc. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân mà một số cán bộ ngân hàng đã cấu kết với khách hàng để che giấu sự thật, gian lận, cố ý làm trái quy định của NHNN, của NHTM. Mặc dù chưa có số liệu công bố nhưng trong tổng số nợ xấu đó, một tỷ lệ không nhỏ nảy sinh từ vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Tóm lại, những bất cập trong phân loại nợ, vấn đề sở hữu chéo, vấn đề đạo đức nghệ nghiệp... đã làm nảy sinh nợ xấu tại các ngân hàng và có chiều hướng ngày càng tăng. Cho dù nợ xấu ở mức nào thì hiện tại đã và đang tác động tiêu cực đến điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, đến việc lưu thông dòng vốn vào nền kinh tế và tính an toàn, hiệu quả kinh doanh của chính các ngân hàng. Chừng nào chưa xử lý được vấn đề này thì việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ không đạt hiệu quả. Giải pháp Mục tiêu tăng trưởng dư nợ tín dụng của ngành ngân hàng năm 2015 là từ 13 đến 15%. Theo quan điểm của chúng tôi, nếu các điều kiện thuận lợi cho phép tăng trưởng GDP ở mức trên 6,5%, thì dư nợ tín dụng ngân hàng cần phải tăng trưởng cao hơn kế hoạch trên để hỗ trợ vốn cho nền kinh tế. Trong bối cảnh hiện nay, Chính phủ, NHNN và các Bộ, ngành có liên quan cần phải có các giải pháp đồng bộ cả về chính sách kinh tế vĩ mô và chính sách tiền tệ, tín dụng ngân hàng 1. Về chính sách hỗ trợ tăng trưởng kinh tế vĩ mô Kích cầu tiêu dùng trong nước Chính sách hỗ trợ lãi suất vay tiêu dùng hay giảm thuế thu nhập cá nhân lúc này là không còn phù hợp. Vì hiện tại, mặt bằng lãi suất đã ở mức hợp lý và ngân sách nhà nước đang mất cân đối về nguồn thu. Để kích cầu tiêu dùng trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước và doanh nghiệp cần tập trung giải quyết tốt 3 vấn đề. Thứ nhất, tạo lập và cũng cố lòng tin của người lao động về sự ổn định của kinh tế vĩ mô và cải thiện khả năng tăng trưởng kinh tế; thứ hai, cam kết chắc chắn rằng việc làm và thu nhập của người lao động sẽ ổn định; thứ ba, giảm giá bán và đa dạng hóa các hình thức bán hàng. Hiện tại, một bộ phận lớn dân cư có tích lũy đáng kể, nhưng họ chưa mạnh dạn mua sắm, vì họ còn lo sợ về sự không ổn định về việc làm và thu nhập trong tương lai. Thứ tư, điều chỉnh chỉnh chính sách thuế theo hướng vừa kích cầu tiêu dùng, vừa phù hợp với xu hướng hội nhập và bảo đảm an toàn, an sinh xã hội. Thuế tiêu thu đặc biệt về ôtô, xe máy đang quá cao, vừa không kích thích được nhu cầu tiêu dùng chính đáng của người dân, gây thất thu cho ngân sách, vừa hạn chế quá trình thực hiện lộ trình giảm thuế đã cam kết với WTO. Ngược lại, cần phải tăng thuế đối với những mặt hàng gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân cũng như an toàn, an sinh xã hội như rượu, bia, thuốc lá. Việc tăng lương cơ bản của người lao động kể từ năm 2015 sẽ tăng sức mua trong nước. Tuy nhiên, tăng lương cơ bản phải gắn liền với tăng năng suất lao động của xã hội. Nếu không, lợi thế cạnh tranh của Việt Nam sẽ bị suy giảm. Giáo sư Kenichi Ohno của Viện nghiên cứu chính sách phát triển Quốc gia Nhật Bản cho rằng, việc tốc độ tăng năng suất lao động thấp hơn tốc độ tăng tiền lương danh nghĩa đang đánh mất đi lợi thế cạnh tranh của Việt Nam. Giai đoạn 2009-2012, năng suất lao động chung của toàn nền kinh tế Việt Nam tăng 3,2%/năm và 5,1%/năm cho khu vực sản xuất.Trong khi đó, tiền lương danh nghĩa tăng 25,9%/năm cho toàn bộ nền kinh tế và 23,4%/năm cho khu vực sản xuất. Cùng với tăng niềm tin và sức mua của người tiêu dùng, cần làm tốt hơn nữa hoạt động truyền thông người Việt ưu tiên sử dụng hàng Việt. Sau sự cố giàn khoan 981 của Trung quốc hạ đặt trái phép trong vùng biển của Việt Nam hồi tháng 5/2014, phong trào này đã phát huy vai trò to lớn. Các con số thông kê về tỷ lệ hàng Việt tiêu thụ tại các siêu thị không ngừng tăng là những tín hiệu đáng mừng. Cần phải có chương trình quốc gia về vận động, tuyên truyền, giáo dục để thói quen người Việt dùng hàng Việt trở thành tập quán văn hóa của người Việt Nam. Nhiều quốc gia châu Á như Thái Lan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản rất thành công trong vấn đề này. b) Tiết giảm chi phí sản xuất, tăng năng xuất lao động, chất lượng sản phẩm Giá cả và chất lượng sản phẩm quyết định sự lựa cho của người tiêu dùng. Nếu hàng nội có giá cả cao và chất lượng sản phẩm quá kém so với hàng ngoại, thì mọi tuyên truyền về người Việt dùng hàng Việt cũng chỉ là khẩu hiệu. Bài toán cho giá cả và chất lượng sản phẩm luôn khó. Nhưng nó quyết định thành công của mọi doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh cũng như của các quốc gia. Với nước ta, để tăng chất lượng sản phẩm, giảm giá bán, phải giải quyết tốt các vấn đề về công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực, tổ chức sản xuất và tiêu thụ. Đồng thời, điều quan trọng và cấp thiết nhất lúc này là khâu quản lý và chống tham nhũng. Chi phí bôi trơn và khả năng quản lý làm cho giá thành sản phẩm tăng cao, năng lực cạnh tranh suy giảm. Vấn đề là không phải ai cũng có thể tham nhũng và ai có thể chống được nó. Điều này phụ thuộc rất lớn vào quyết tâm và khả năng chống tham nhũng của bộ máy bảo vệ pháp luật của nhà nước. Bên cạnh đó, hệ thống truyền thông và sự hợp tác của người dân cũng đóng vai trò quan trọng cho việc giải quyết vấn nạn này. c) Khai thác thị trường xuất khẩu mới Tích cực triển khai các chương trình xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư, tìm kiếm, mở rộng thị trường ra nước ngoài. Cục diện thế giới đã có sự biến đổi lớn trong những năm gần cả về kinh tế, chính trị và quân sự. Kéo theo nó là sự thay đổi khá rõ nét về trật tự kinh tế và thị trường. Từ diễn biến chính trường Ukraina, kéo theo các lệnh trừng phạt và trả đũa kinh tế lẫn nhau, các nước thuộc EU và Nga mới thấy được mức độ nghiêm trọng của việc lệ thuộc vào thị trường lớn. Sự cố Trung Quốc đặt giàn khoan 981 trái phép vào vùng biển Việt Nam hồi tháng 5/2014 cũng là bài học lớn cho Việt Nam về xuất khẩu chính ngạch và tiểu ngạch vào thị trường này. Hoạt động ngoại giao của lãnh đạo Đảng, Chính phủ thời gian gần đây đã mở ra nhiều cơ hội hợp tác, mở rộng thị trường của hàng Việt Nam. Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội các doanh nghiệp Việt Nam, các Bộ/ngành cần đẩy mạnh hơn nữa việc khai thác thị trường mới. Thị trường Nga, Châu Âu, Hoa kỳ, Châu Á được đánh giá đầy tiềm năng cho hàng Việt Nam, nhất là các mặt hàng nông sản thực phẩm, gia công, chế biến. Cùng với khai thác thị trường mới, việc xây dựng thương hiệu và uy tín của nhà sản xuất và bán hàng cũng cần phải được chú trọng đúng mức. Cần phải chú trọng công tác xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển các sản phẩm, ngành hàng cụ thể gắn kết với chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu có chiều sâu, hiệu quả và bền vững. Đồng thời, thực hiện tốt công tác cảnh báo sớm về các biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ doanh nghiệp và sản phẩm của Việt Nam trong thương mại quốc tế. Tăng cường đầu tư công có hiệu quả Vốn ngân sách nhà nước được xem như là vốn mồi để định hướng phát triển kinh tế - xã hội của mọi quốc gia. Nhiệm vụ của vốn đầu tư công là tạo ra được sự lan tỏa trong nền kinh tế. Trong điều kiện ngân sách hạn hẹp, việc phân bổ và quản lý đầu tư công như thế nào để đạt hiệu quả cao đã được nhiều nhà khoa học đề xuất. Chỉ số ICOR của Việt Nam đang ở mức cao so với các nước Châu Á thờ kỳ công nghiệp hóa (xem bảng 1). Điều này cho thấy hiệu quả đầu tư thấp, trong đó, có sự kém hiệu quả của đầu tư công. Vốn ngân sách cần tập trung cho phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế nông thôn theo hướng chuyên đó đầu tư cho nông nghiệp-nông thôn chiếm 41,7%. 2. Về chính sách tiền tệ - tín dụng ngân hàng môn hóa có trọng tâm trong điểm, các khu công nghiệp,ngành công nghệ có gia trị gia tăng cao. Đồng thời, tăng cường chống tham nhũng, lãng phí trong đầu tư công. Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP của nước ta cao hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực thời kỳ công nghiệp hóa (bảng1) là một thành công lớn của nước ta. Tuy nhiên, tỷ lệ vốn đầu tư/GDP có xu hướng giảm nhanh từ 2011 đến nay. Trong bối cảnh đó, Chính phủ vẫn duy trì được tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội (xấp xỉ 40%) là một kết quả đáng khích lệ. Theo kế hoạch tài khóa năm 2014 ngân sách Nhà nước dành 163 ngàn tỷ đồng cho đầu tư phát triển, trong a) Có chính sách đột phá về hoạt động cấp và xử lý tín dụng Thứ nhất, có cơ chế chính sách cấp tín dụng mới đối với những khách hàng có nợ xấu, nhưng có có phương án sản xuất - kinh doanh có hiệu quả. Đối với những khoản cấp tín dụng mới này, cần có cơ chế phù hợp về điều kiện vay vốn. Trong đó, lưu ý về điều kiện về khả năng tài chính và điều kiện về tài sản bảo đảm tiền vay. Theo qui định hiện hành (Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN của NHNN) về điều kiện cho vay, thì khách hàng phải có khả năng tài chính để trả nợ vay và phải có tài sản bảo đảm tiền vay. Rõ ràng, với khách hàng có nợ xấu thì tại thời điểm vay vốn khách hàng không có khả năng tài chính để trả nợ vay (nếu có khả năng, thì đã không bị nợ xấu). Khách hàng cũng không thể có tài sản bảo đảm tiền vay. Vì tài sản của doanh nghiệp lại đang được bảo đảm cho những khoản nợ xấu chưa thể trả nợ cho ngân hàng. Theo chúng tôi, về điều kiện bảo đảm khả năng tài chính, cần qui định theo hướng là khách hàng phải chứng minh được nguồn tiền có được để trả nợ khi đến hạn. Về tài sản bảo đảm tiền vay, cần hướng dẫn các TCTD áp dụng việc sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay. Nếu giải quyết được 2 vấn đề cơ bản này, thì mới có thể thúc đẩy tăng trưởng tín dụng có kết quả. Tuy nhiên, với các tổ chức tín dụng cho vay, cần phải thẩm định và bảo đảm rằng dự án, phương án sản xuất - kinh doanh có hiệu quả; đồng thời, kiểm soát được dòng tiền của khách hàng vay để thu nợ. Nếu không, bẫy cấp tín dụng dưới chuẩn và bài toán xử lý nợ xấu lại lặp lại. Thứ hai, có chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn mới phù hợp để khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng gia tăng chuỗi giá trị sản phẩm, hàng hóa có nguồn gốc từ nông sản, thực phẩm. Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định mới về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn thay thế cho Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010. Nghị định số 41/2010/NĐ-CP mà tiền thân của nó là Quyết định 67/1999/QĐ-TTg, Nghị định số 14/CP (1993) của Chính phủ, Chỉ thị 202/CT-HĐBT (1991) của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng CP), cùng với chính sách giao đất đến hộ sản suất (khoán 10) đã giúp nước ta từ một nước nhận viện trợ lương thực, thực phẩm, thành một trong những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo, cà phê, hồ tiêu, điều, cao su, các da trơn vv...Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, Nghị định này tỏ ra không còn phù hợp. Nghị định mới cần tăng mức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư chế biến các mặt hàng có nguyên liệu đầu vào là các sản phẩm nông nghiệp để gia tăng chuỗi giá trị sản phẩm, hàng hóa có nguồn gốc từ nông sản, thực phẩm. Ngành cao su của nước ta đang đứng trước khó khăn chồng chất về thị trường là minh chứng rõ nhất cho việc chỉ sản xuất và sơ chế thô mủ cao su để tiêu thụ..   b) Xử lý nợ xấu quyết liệt, đồng bộ, đúng lộ trình Một là, hoàn thành việc xây dựng phương án, mục tiêu, lộ trình và giải pháp xử lý nợ đối với từng khách hàng thuộc nhóm “khách hàng nhạy cảm”. Nhóm khách hàng nhạy cảm ở đây bao gồm khách hàng là sân sau của các ông chủ, lãnh đạo các TCTD, các chủ sở hữu chéo ngân hàng, các tập đoàn, tổng công ty. Với nhóm khách hàng này, nếu để ung nhọt nợ xấu phát tán, nguy cơ dẫn đến đỗ bể các NHTM chủ nợ là rất lớn. Vì thế, cần xây dựng các kịch bản xử lý nợ cho từng khách hàng riêng biệt. Đây là vấn đề hết sức lớn và phức tạp, phải đặc biệt lưu tâm lựa chọn phương án tôi ưu, không chủ quan nóng vội, nhưng phải cương quyết, đúng lộ trình. Hai là, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động mua, bán nợ xấu cho Công ty VAMC. Với những khách hàng có nợ xấu bán cho VAMC, cần tạo cơ chế thuận lợi để khách hàng được xem xét cấp tín dụng mới. Theo qui định tại Điều 19 Thông tư 19/2013/TT-NHNN thì khách hàng vay có khoản nợ xấu bán cho VAMC và có phương án sản xuất, kinh doanh, dự án đầu tư có hiệu quả được TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài xem xét, cấp tín dụng theo thỏa thuận và quy định của pháp luật. Với qui định qui định này thì trong 5 điều kiện vay vốn qui định tại Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN của NHNN, khách hàng vay vốn sẽ không bảo đảm ít nhất 2 điều kiện. Đó là điều kiện về năng lực tài chính và bảo đảm tiền vay (như đã nêu ở kiến nghị cơ chế xử lý tín dụng nêu trên). Ba là, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia mua nợ xấu của các TCTD. Quyết định 59/2006/QĐ-NHNN là cơ sở pháp lý cho việc bán nợ các TCTD Việt Nam cho người nước ngoài. Nếu người nước ngoài tham gia mua bán nợ xấu, giá trị thực của các khoản nợ sẽ được đánh giá xác thực, tính minh bạch cao, điều cần thiết cho việc xác định chính xác mặt bằng giá nợ xấu của các TCTD. Nhưng quan trọng hơn, việc có được tiền từ nước ngoài để đẩy nhanh xử lý nợ xấu các TCTD Việt Nam, là giải pháp hữu hiệu lúc này. Bốn là, khẩn trương đánh giá, nghiên cứu và kiến nghị việc kiện toàn hành lang pháp lý đủ thông thoáng cho quá trình xử lý nợ. Hiện tại, qui chế về mua bán nợ, xử lý tài sản bảo đảm tiền vay đối với các khoản nợ bán cho VAMC đang từng được hoàn thiện, phù hợp với thực tiễn. Nhưng qui chế mua bán nợ giữa các TCTD, tổ chức với tổ chức và cá nhân khác, qui định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay đang là điểm nghẽn trong hoạt động thu hồi nợ của TCTD. Thực tế xử lý nợ của các TCTD cho thấy rằng, trong trường hợp khách hàng không đồng thuận, một TCTD phải mất không dưới 2 năm để xử lý bảo đảm tiền vay là bất động sản để thu hồi nợ. Nếu tình trạng này không được cải thiện, thì việc đẩy nhanh thu hồi nợ là rất khó thực hiện. c) Tiếp tục đẩy mạnh quá trình mua bán, sáp nhập (M&A) các TCTD. Ưu tiên bán, sáp nhập các TCTD yếu kém vào TCTD tốt để bảo đảm có đủ năng lực tài chính xử lý nợ xấu. Bởi, với những ngân hàng yếu kém, năng lực tài chính đã suy kiệt, thì càng để lâu, nợ xấu càng trầm trọng. Hơn nữa, với năng lực quản trị rủi ro của những TCTD yếu kém, nếu không được M&A vào TCTD tốt, thì có được trợ giúp xử lý nợ xấu, nguy cơ tái lập nợ xấu mới là hiện hữu. Mặt khác, thông quan M&A ngân hàng, những ung nhọt của nợ xấu, nợ nhóm khách hàng nhạy cảm, sở hữu chéo sẽ lộ diện, qua đó ngân hàng sau mua bán, sáp nhập sẽ có phương án xử lý tối ưu vớn sự trợ giúp của NHNN. Tăng trưởng tín dụng với chất lượng tốt chỉ có được khi nền kinh tế trở lại quỹ đạo tăng trưởng lành mạnh và thực hiện có hiệu quả quá trình tái cấu trúc hệ thống các TCTD. Cuối cùng, duy trì lạm phát ổn định ở mức thấp để tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất. Mặt bằng lãi xuất cho vay bình quân từ trên 20% năm, giảm nhanh xuống dưới 9% là thành quả tuyệt vời của ngành ngân hàng và sự hỗ trợ cao của Quốc hội, Chính phủ, Bộ tài chính trong việc chỉ đạo, phối hợp đồng bộ với các chính sách tài chính vĩ mô khác. Việc giảm sâu lãi suất vay vốn giúp doanh nghiệp tiết giảm chi phí, hạ giá thành sản xuất, tăng năng lực canh tranh. Tuy nhiên, mặt bằng lãi xuất cho vay của nước ta vẫn còn cao so với mặt bằng lãi xuất cho vay của các nước trong khu vực và trên thế giới. Theo hiệu ứng Fisher thì muốn giảm mặt bằng lãi suất chung của nền kinh tế xuống x%, thì phải tỷ lệ lạm phát phải giảm tương ứng. Tuy nhiên, muốn giảm thấp và duy trì ổn định lạm pháp, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế mở của nước ta, lạm phát còn chịu ảnh hưởng bởi các vấn đề của kinh tế thế giới. Lưu ý, giá máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu của nước ta trong những năm qua giảm đáng kể, mà điển hình là giá dầu trong thời gian gần đây đóng vai trò tích cực trong việc giảm thấp chỉ số CPI của nước ta. Khi mà diễn biến giá các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu tăng, thì duy trì chỉ số CPI ở mức thấp của Việt Nam sẽ gặp khó khăn, kéo theo mặt bằng lãi suất tăng ./. IV. Vấn đề về tài sản đảm bảo trong hoạt động tín dụng ở Việt Nam. 1.Định nghĩa: Theo quyết định 217/ QĐ – NH1: Thế chấp tài sản vay vốn Ngân hàng là việc bên vay vốn (gọi là bên thế chấp) dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ (bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt lãi quá hạn) đối với bên cho vay (gọi là bên nhận thế chấp).  Cầm cố tài sản vay vốn Ngân hàng là việc bên vay vốn (bên cầm cố) có nghĩa vụ giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên cho vay vốn (gọi là bên nhận cầm cố) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ (bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt lãi quá hạn); Nếu tài sản mà pháp luật có quy định đăng ký quyền sở hữu hoặc có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu thì các bên có thể thoả thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố và giao bản gốc giấy tờ quyền sở hữu tài sản cho bên nhận cầm cố giữ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với bên nhận cầm cố. 2.Vấn đề thẩm định, đánh giá tài sản đảm bảo: Dựa vào lý thuyết ngân hàng hiện đại về thẩm định cho vay theo nguyên tắc 6C chúng tôi chia điều kiện cấp tín dụng có tài sản bảo đảm (TSBĐ) thành 2 nhóm: - Nhóm điều kiện cần: khách hàng cũng như phương án vay đã được Ngân hàng cho vay (NHCV) thẩm định và đánh giá là đáp ứng được các điều kiện về: tính cách người vay; năng lực tài chính, khả năng trả nợ; dòng tiền ; điều kiện môi trường. - Nhóm điều kiện đủ: tài sản thế chấp món vay và sự kiểm soát. Trong tình hình kinh tế nước ta hiện nay, môi trường pháp lý về chế độ kế toán, kiểm toán tài chính đang trong quá trình hoàn thiện, vì thế tính minh bạch, trung thực của báo cáo tài chính, các thông tin của khách hàng cung cấp nhiều khi chưa đủ tin cậy theo đúng qui chế cho vay. Ví dụ: Thực tế đã có trường hợp khách hàng có lịch sử tín dụng tốt, Ngân hàng tiếp cận cho vay, thẩm định số liệu báo cáo tài chính, xác định mức cho vay vốn theo nhu cầu thực tế thấp hơn so với mức cho vay tối đa tính trên giá trị nghĩa vụ được bảo đảm của tài sản thế chấp thì khách hàng bỏ đi vay ngân hàng khác. Đó là một thách thức giữa việc tuân thủ quy chế nghiệp vụ và yêu cầu phát triển thị phần tín dụng mà nguyên nhân là do môi trường pháp lý về kế toán, kiểm toán chưa hoàn thiện, sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng thương mại (NHTM) trong việc tìm kiếm khách hàng tốt. Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay khi các căn cứ thẩm định món vay như đã nói trên chưa thật sự yên tâm đối với NHCV thì thiết nghĩ điều kiện tài sản thế chấp lại chuyển sang nhóm điều kiện cần để bảo đảm an toàn. Và như vậy, hơn lúc nào hết NHCV càng phải đề cao vai trò của TSBĐ từ việc tuân thủ tỷ lệ xác định cho vay tối đa do Trụ sở chính (TSC) qui định, chẳng hạn như: thẩm định vị trí, tính thanh khoản của quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất, hạn chế hoặc từ chối TSBĐ là hàng hóa, máy móc thiết bị khó quản lý, thanh khoản thấp,... Trước thực trạng bức tranh kinh tế hiện nay, các chủ trương lớn của Chính phủ về tái cơ cấu ngành, doanh nghiệp nhà nước, tái cơ cấu NHTM, chính sách tài chính tiền tệ thận trọng… sẽ tác động đến hoạt động tín dụng của các NHTM. Dẫu trong tình huống nào thì các biện pháp an toàn và nâng cao chất lượng tín dụng vẫn là tiêu chí quan trọng để tăng năng lực tài chính của NHTM. Với nhận thức đó, biện pháp TSBĐ trong cho vay hiện nay cần được coi trọng và đánh giá đúng mức để phòng ngừa rủi ro tín dụng./. 3.Tình hình thực hiện cho vay có bảo đảm bằng tài sản Đối với cho vay có bảo đảm bằng tài sản của khách hàng và bên thứ ba, các TCTD tuân thủ quy định chung của pháp luật về điều kiện của tài sản bảo đảm: tài sản thuộc sở hữu của khách hàng vay, bên bảo lãnh; tài sản phải được phép giao dịch mua bán; tài sản không thuộc diện tranh chấp và phải mua bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp bảo lãnh, phần lớn các TCTD chủ yếu chỉ chấp nhận bên bảo lãnh là các tổng công ty nhà nước. Vay tiêu dùng hiện nay còn chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng dư nợ cho vay của các TCTD tại Hà Nội, các TCTD thường không mặn mà với các khoản cho vay này do giá trị khoản vay thấp, thời gian thu hồi vốn lâu, chi phí bỏ ra để tìm hiều về khách hàng và thu hồi vốn thường lớn. Hầu hết các cá nhân và hộ gia đình chưa có hồ sơ tín dụng tại các TCTD nên thông tin về họ rất ít ( thông tin về tình trạng sức khoẻ, về công việc hiện có và mức độ ổn định của công việc). Vì vậy đối với các khoản vay này TCTD luôn yêu cầu khách hàng vay phải có tài sản bảo đảm, ngoại trừ trường hợp cán bộ công nhân viên vay tín chấp có sự xác nhận của người sử dụng lao động. Các TCTD không áp dụng biện pháp cho khách hàng vay tín chấp với mục đích kinh doanh mà thời gian giao dịch với ngân hàng của khách hàng chưa đủ dài, số lần phát sinh các giao dịch vay nợ và thanh toán chưa nhiều để bảo đảm uy tín với ngân hàng. Những thông tin về đối tượng khách hàng này chủ yếu do chính khách hàng cung cấp, TCTD khó xác định khả năng tài chính thực của khách hàng cũng như hiệu quả của dự án vay vốn. Chính vì thế cách chắc chắn nhất là yêu cầu khách hàng vay thế chấp hoặc cầm cố tài sản. Tài sản bảo đảm của khách hàng vay vốn thường là quyền sử dụng đất, phương tiện vận tải, nhà ở. Không ít trường hợp chủ sở hữu doanh nghiệp sử dụng tài sản của cá nhân làm vật thế chấp, cầm cố để vay vốn kinh doanh cho doanh nghiệp do các tài sản tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh không đủ giấy tờ chứng minh quyền sở hữu thuộc về doanh nghiệp. 4.Giá trị của tài sản bảo đảm Việc xác định giá trị tài sản bảo đảm trước khi cho vay tuỳ theo giá trị mức xin vay mà các TCTD có các hình thức và biện pháp thẩm định, mức cho vay tối đa thông thường bằng 70% giá trị tài sản bảo đảm, đối với tài sản là vàng, đá quý tối đa 90%, tài sản cầm cố là trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm và các giấy tờ có giá khác do Chính phủ, TCTD nhà nước phát hành thì các TCTD quyết định trên cơ sở nguyên tắc thu đủ nợ gốc, lãi và phí. Trên thực tế là khi nhận thế chấp tài sản quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở, các tổ chức tín dụng thường áp dụng tính theo khung giá quy định của UBND cấp tỉnh, thành phố ban hành vào ngày 01/01 hàng năm để xác định mức cho vay. Chính vì vậy, giá trị tài sản bảo đảm của khách hàng thường không tương xứng với giá trị thực, nhất là quyền sử dụng đất ở. Bởi giá trị quyền sử dụng đất ở mà UBND các tỉnh, thành phố ban hành chỉ để áp dụng tính thu thuế chứ không phải để bán và trao đổi trên thị trường. Để khắc phục được vấn đề này, nên chăng UBND các tỉnh, thành phố cần tính toán lại cho phù hợp hơn để đưa ra mức quy định về giá trị đất, nhà ở cho sát với giá thị trường. Được biết Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định về giá đất, có hiệu lực từ ngày 01/7/2014 sẽ là cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc xác định giá đất, sẽ giúp các ngân hàng thương mại có cơ sở đầu tư, mà người dân cũng có cơ hội vay được nhiều vốn hơn, không phải đi vay bên ngoài.  Theo thông lệ, hầu hết các ngân hàng cho vay (có tài sản đảm bảo) tối đa là 75% giá trị tài sản đảm bảo. Tuy nhiên, mới đây, Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) đưa ra chương trình cho vay kinh doanh đảm bảo bằng bất động sản dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tối đa đến 90% trên giá trị tài sản bảo đảm. Tổng hạn mức vay là 20 tỷ đồng trong vòng 25 năm. Trước đó, một nhà băng khác là Ngân hàng TMCP Kỹ thương VN (Techcombank) cũng đẩy mạnh tín dụng khi công bố áp dụng chương trình cho vay lên đến 95% giá trị định giá của tài sản đảm bảo là bất động sản cho riêng doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu. Không chỉ ưu ái với bất động sản, doanh nghiệp còn có thể sử dụng hàng hóa và quyền đòi nợ làm tài sản đảm bảo khoản vay tại VPBank với tỷ lệ cho vay tối đa lên tới 100%. 5.Xử lý tài sản bảo đảm vẫn nan giải Xử lý tài sản đảm bảo hiện phụ thuộc nhiều vào độ hợp tác của khách hàng Hành lang pháp lý cho hoạt động xử lý nợ, thu hồi nợ xấu tiếp tục là rào cản đối với các TCTD, đặc biệt là trình tự, thủ tục liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm do có quá nhiều cơ quan tham gia gây kéo dài thời gian xử lý và chi phí để xử lý nợ. Hiện nay, tỷ lệ thu hồi nợ thông qua khởi kiện và thi hành án của NH đang ở mức độ rất thấp (khoảng 1%/tổng số thu hồi). Theo đại diện Maritime Bank, vấn đề bán tài sản thế chấp để thu hồi nợ theo quy định hiện hành đã có các văn bản tạo điều kiện cho bên xử lý tài sản. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện lại có những vấn đề nảy sinh. Đơn cử bên thế chấp tài sản không chịu bàn giao tài sản cho NH để xử lý món nợ đã quá hạn. Có một số trường hợp khách hàng đã ký biên bản bàn giao nhưng không chịu giao tài sản. Thực tế là dù rất muốn xử lý nợ xấu, nhưng các NH cũng ngại khởi kiện khách hàng ra tòa án. Vì việc này sẽ lôi NH vào “ma trận” các thủ tục pháp lý với thời gian khó xác định, có thể là 3 năm, 5 năm sau NH vẫn chưa thể kết thúc vụ kiện. Không những thế, ngay cả khi tòa đã tuyên án thì quá trình xử lý tài sản bảo đảm cũng rất rắc rối. Do đó, các NH kiến nghị NHNN phối hợp với các ban, ngành liên quan ra các văn bản cụ thể hơn, nhất là các TCTD cần được trao nhiều quyền hơn trong việc xử lý nợ xấu. Ví dụ như, khi tài sản bảo đảm cần được thu hồi thì NH chủ động xử lý không phải qua nhiều đơn vị trung gian khác, hay phải khởi kiện ra tòa mới xử lý được. Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Giám đốc Vietcombank Hà Nội cho biết, trên thực tế thì cơ chế pháp luật và thực thi pháp luật chưa đồng bộ, đặc biệt là trong lĩnh vực xử lý tài sản bảo đảm. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho các NH. Việc xử lý tài sản thế chấp hiện phụ thuộc nhiều vào độ hợp tác của khách hàng. Nếu khách hàng không có thiện chí thì chỉ có một con đường là khởi kiện. Hiện nhiều TCTD đã bán nợ xấu cho VAMC, nhưng ông Nguyễn Quốc Hùng, Chủ tịch VAMC cho biết, ngay cả đơn vị này cũng đang gặp vướng mắc ở nhiều khoản nợ xấu đã mua, dù bản án của tòa đã có hiệu lực song cơ quan thi hành án không thể thu hồi. Sau thời gian thí điểm hiệu quả tại TP. Hồ Chí Minh, chế định Thừa phát lại được triển khai thí điểm tại Hà Nội và một số địa phương đang nhận được nhiều sự ủng hộ do hiệu quả trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý. Cụ thể, Thừa phát lại thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của toà án hoặc cơ quan thi hành án dân sự; lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự; trực tiếp tổ chức thi hành án các bản án, quyết định của Toà án theo yêu cầu của đương sự… Ông Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, nếu áp dụng rộng hơn chế định này sẽ hỗ trợ các TCTD giải quyết được các vướng mắc, đẩy nhanh tiến trình giải quyết nợ xấu. Việc giảm nợ xấu sẽ khó thực hiện triệt để nếu chỉ có sự cố gắng của các NH. Do đó các NH cho rằng rất cần sự chia sẻ của toàn bộ nền kinh tế, từ bản thân DN cũng như các bộ, ngành có liên quan.