Academia.eduAcademia.edu
Trường Đại học Cần Thơ Tạp chí Khoa học 2012:22b 71-79 NÂNG CAO TÍNH CH Đ NG C A SINH VIÊN – GI I PHÁP QUAN TR NG Đ NÂNG CAO CH T L NG TRONG ĐÀO T O THEO H C CH TÍN CH Đào Ngọc Cảnh và Huỳnh Văn Đà1 ABSTRACT Training by credit-based system is a progressive modality of training in the world. The essence of this modality training is enhancing activeness and self-motivated of students. This study presents the nature of training by credit-based system, advantages and disadvantages of this system, contemporary situation and solution to raise self-motivated of students. The research data was collected from 500 students in regular majors of Cantho University. In addition, we refer some opinions and research data of specialists and lectures in some other universities. The result showed that the imperative problem of training by credit-based system was how to raise self-motivated of students. This is one of the important solutions to increase quality of training by credit-based system. Keywords: credit, credit-based education, self-motivated of students, study plan Title: Increase self-motivated of students – the important solution to enhance quality of training by credit-based system TÓM T T Đào tạo theo học chế tín chỉ là một phương thức đào tạo tiên tiến trên thế giới. Bản chất của phương thức đào tạo này là phát huy tính tích cực, chủ động của sinh viên (SV). Bài nghiên cứu này đề cập đến thực chất của đào tạo theo học chế tín chỉ, những ưu điểm và hạn chế của nó, thực trạng và giải pháp nâng cao tính chủ động của sinh viên. Các số liệu nghiên cứu được thu thập từ 500 sinh viên các ngành đào tạo chính quy của Trường Đại học Cần Thơ. Ngoài ra, chúng tôi cũng tham khảo ý kiến và kết quả nghiên cứu của các chuyên gia và giảng viên ở một số trường đại học khác. Kết quả nghiên cứu cho thấy vấn đề cấp thiết đặt ra trong đào tạo theo học chế tín chỉ là phải tăng cường tính chủ động của sinh viên trong mọi khâu của quá trình đào tạo. Đây là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo theo học chế tín chỉ. Từ khóa: tín chỉ, đào tạo theo tín chỉ, tính chủ động của sinh viên, kế hoạch học tập 1 ĐẶT V N Đ Đào tạo theo học chế tín chỉ (TC) là một phương thức đào tạo tiên tiến trên thế giới. Phương thức đào tạo này ra đ i từ năm 1872 tại Đại học Harvard (Hoa Kỳ). Tiếp sau đó, học chế TC đã được áp dụng ngày càng rộng rãi trong các trư ng đại học nhiều nước trên thế giới như các nước Bắc Mỹ, Liên minh Châu Âu, Nhật 1 Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trư ng Đại học Cần Thơ 71 Tạp chí Khoa học 2012:22b 71-79 Trường Đại học Cần Thơ B n, Philippin, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaisia, Indonesia, Senegal, Mozambic, Nigeria, Uganda, Camơrun, Trung Quốc, v.v… n Độ, Việt Nam, Nghị quyết của Chính phủ số 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 về đổi mới cơ b n và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020 đã nêu rõ: "Xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển sang chế độ đào tạo theo hệ thống TC, tạo điều kiện thuận lợi để người học tích lũy kiến thức, chuyển đổi ngành nghề, liên thông, chuyển tiếp tới các cấp học tiếp theo ở trong nước và ở nước ngoài". Hiện nay, hầu hết các trư ng đại học nước ta đã áp dụng phương thức đào tạo theo học chế TC với những mức độ khác nhau. Năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành “Quy chế Đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống TC” (Ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007 của Bộ trư ng Bộ Giáo dục và Đào tạo). Theo chủ trương của Bộ, năm 2011 là hạn cuối cùng để các trư ng liên quan ph i chuyển đổi sang hệ thống đào tạo mới này. Cùng với tiến trình chung của c nước, trư ng Đại học Cần Thơ đã tr i qua hai giai đoạn áp dụng phương thức đào tạo theo TC: (1) Giai đoạn chuyển đổi được tiến hành từ năm học 1995-1996; (2) Giai đoạn thực hiện TC hóa triệt để từ năm học 2007-2008. Khác với nhiều trư ng đại học trong c nước, Trư ng Đại học Cần Thơ áp dụng đào tạo theo TC triệt để cho t t c các ngành học, khóa học và các hệ đào tạo. Bên cạnh việc thay đổi về cơ chế qu n lý đào tạo, Trư ng còn đẩy mạnh việc gi m số TC trong chương trình đào tạo. Với chương trình đào tạo 4 năm, Trư ng đã gi m từ 210 TC (năm học 1995-1996) xuống còn 138 TC (năm học 2007-2008), 136 TC (năm học 2008-2009) và 120 TC (năm học 2010-2011). Qua quá trình thực hiện đào tạo theo học chế TC, một v n đề đặt ra là ph i nâng cao tính chủ động của sinh viên - nhân vật trung tâm của hệ thống đào tạo. Xu t phát từ nhu cầu thực tế, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao tính chủ động của SV trong đào tạo theo học chế TC ở Trường Đại học Cần Thơ” nhằm góp phần nâng cao ch t lượng trong đào tạo theo TC của Trư ng Đại học Cần Thơ nói riêng và hệ thống giáo dục đại học c nước nói chung. 2 PH NG PHÁP NGHIÊN C U Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được chúng tôi thực hiện trong đề tài này là kh o sát ý kiến SV về đào tạo theo học chế TC. Cụ thể, nhóm nghiên cứu đã tiến hành kh o sát 500 SV các ngành đào tạo khác nhau thuộc hệ đào tạo chính quy của trư ng Đại học Cần Thơ bằng b ng hỏi. C u trúc b ng hỏi gồm 31 câu hỏi với 182 tiêu chí theo ba dạng ý kiến: ý kiến đánh giá theo 5 mức độ (5- r t cao, 4- cao, 3- trung bình, 2- th p, 1- r t th p); ý kiến lựa chọn các phương án; ý kiến cung c p thông tin. Các đối tượng kh o sát được áp dụng theo phương thức chọn mẫu ngẫu nhiên. T t c các phiếu kh o sát được nhập và phân tích bằng phần mềm SPSS. 72 Trường Đại học Cần Thơ Tạp chí Khoa học 2012:22b 71-79 3 K T QU NGHIÊN C U VÀ TH O LU N B n ch t của phương thức đào tạo theo học chế TC là cá thể hóa việc học tập của ngư i học. Nếu như trong đào tạo theo niên chế, mọi SV trong một ngành học và một khóa học đều học tập các môn học như nhau theo một th i khóa biểu chung do nhà trư ng sắp xếp, thì trong đào tạo theo học chế TC, SV được quyền quyết định kế hoạch học tập toàn khóa cũng như kế hoạch học tập trong từng học kỳ phù hợp với năng lực học tập và hoàn c nh cụ thể của mình, tức là mỗi SV có một th i khóa biểu riêng. Điều này được các nhà nghiên cứu gọi là nguyên lý “tiệc buffet”, tức là SV được tự chọn các học phần để học trong mỗi học kỳ, mỗi năm học. Cách tổ chức hoạt động theo nguyên lý mới này đ m b o cho quá trình đào tạo trong các trư ng đại học tr nên mềm dẻo hơn, đồng th i cũng tạo kh năng cho việc thiết kế chương trình liên thông giữa các c p đào tạo đại học và giữa các ngành đào tạo khác nhau. Kết qu kh o sát của chúng tôi về ý kiến SV đối với các ưu điểm của đào tạo theo học chế TC như sau: B ng 1: Ý ki n SV v những u đi m c a đào t o theo h c ch TC Đơn vị tính: % Tiêu chí M cđ R t th p Th p Trung bình Cao R t cao Tổng Cá th hóa vi c h c SV ch đ ng l p KHHT Ch ng trình m m dẻo SV năng đ ng Có th h c2 ngành Có th h c v t Có thời gian r nh Tăng c ờng sự giao l u 0,2 1.4 0,2 2.6 1.0 9.7 0.6 4.0 0,2 7.6 0,4 5.0 1.0 8.9 1.6 12.3 19.4 13.0 45.9 27.1 18.8 15.8 26.0 33.8 52.7 26.3 100.0 40.6 43.6 100.0 34.8 8.7 100.0 49.2 19.1 100.0 37.7 46.3 35.7 32.5 100.0 100.0 41.7 22.4 100.0 36.2 16.1 100.0 Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp năm 2011, % trên tổng số 500 mẫu. Phương thức đào tạo theo học chế TC tạo điều kiện cho SV năng động hơn và có kh năng thích ứng tốt hơn những biến đổi nhanh chóng trong xã hội hiện đại. Nếu như trong phương thức đào tạo theo niên chế, SV hoàn toàn thụ động và tuân thủ theo kế hoạch học tập của nhà trư ng, thì trong phương thức đào tạo theo TC đòi hỏi SV ph i chủ động tích cực để xây dựng cho mình một kế hoạch và phương pháp học tập thích hợp và có hiệu qu cao nh t cho b n thân. Với học chế TC, kết qu học tập của SV được tính theo quá trình tích lũy từng học phần chứ không ph i theo năm học, do đó việc hỏng một học phần nào đó không c n tr quá trình học tiếp tục, SV chỉ học lại các học phần không đạt yêu cầu mà không ph i lại lớp như trong đào tạo theo niên chế. Vì vậy, đào tạo theo học chế TC có chi phí th p hơn và hiệu qu cao hơn so với đào tạo theo niên chế. Đào tạo theo học chế TC tạo ra một loại hình lớp học mới gọi là “lớp học phần”, tức là lớp học tập hợp các SV đăng ký học chung một học phần. Lớp học phần sẽ bao gồm SV nhiều khóa học và nhiều ngành học khác nhau. Đây là cơ hội tốt cho 73 Trường Đại học Cần Thơ Tạp chí Khoa học 2012:22b 71-79 SV giao lưu, học hỏi lẫn nhau và m rộng các mối quan hệ xã hội. Dân gian Việt Nam có câu: “Học thầy không tày học bạn”. Qua kh o sát của chúng tôi về cơ hội giao lưu học hỏi giữa các khóa học, ngành học trong đào tạo theo học chế TC thì có tới 33,8% đồng ý mức độ trung bình; 36,2% đồng ý mức độ cao; 16,1% đồng ý mức độ r t cao. Như vậy, số ý kiến đồng ý tính chung c ba mức độ là 86,1%. Như trên đã cho th y, học chế TC cho phép SV quyết định tiến độ đào tạo tùy kh năng và điều kiện của b n thân SV. Vì vậy, những SV học vượt tiến độ để có thể rút ngắn th i gian đào tạo. Thông thư ng th i gian đào tạo là 4 năm thì SV có thể hoàn thành trong 3,5 năm hoặc 3 năm. Việc rút ngắn th i gian đào tạo của SV không chỉ tiết kiệm th i gian và chi phí cho b n thân và gia đình SV mà còn tạo cho họ nhiều cơ hội về việc làm và tổ chức cuộc sống. Đồng th i, nhà trư ng và xã hội cũng gi m bớt được nhiều chi phí đào tạo và các chi phí khác nếu SV rút ngắn th i gian đào tạo. Tuy nhiên, trên thực tế, việc rút ngắn th i gian trong đào tạo theo học chế TC lại không đơn gi n. Trong đào tạo theo học chế TC, do mỗi SV có một kế hoạch học tập khác nhau nên có thể x y ra tình trạng SV bị trùng th i khóa biểu giữa một số học phần nên buộc ph i gi m bớt số học phần hoặc ph i điều chỉnh kế hoạch học tập để chuyển sang học học phần khác. Điều này cũng có thể làm cho SV khó rút ngắn th i gian đào tạo. Mặt khác, việc tổ chức thực tập thực tế ngoài trư ng r t khó TC hóa, tức là khó dựa theo sự đăng ký của SV, mà thư ng ph i theo kế hoạch của nhà trư ng và của các khoa (kiểu đào tạo theo niên chế). Ví dụ, SV ngành sư phạm được tổ chức đi thực tập sư phạm theo 2 đợt trong một khóa học (vào học kỳ 2 năm thứ ba và năm thứ tư). Vì vậy, có thể x y ra tình trạng SV đã hoàn thành các học phần lý thuyết nhưng ph i ch để đi thực tập sư phạm nên không thể tốt nghiệp sớm. B ng 2: Ý ki n SV v những h n ch c a đào t o theo TC Đơn vị tính: % Tiêu chí M cđ R t th p Tổ ch c đi u hành r t ph c t p Ki n Nhi u th c b tình chia huống b t c t th ờng 3.2 1.8 5.8 Khó tổ ch c sinh ho t 3.2 Khó đổi l ch, bù giờ M t nhi u thời gian cho các th t c 4.0 1.8 Th p 19.6 11.0 23.2 13.0 6.4 9.4 Trung bình 36.8 31.0 33.0 18.6 27.1 28.5 Cao 27.0 37.6 28.2 39.9 36.3 34.3 R t cao 13.4 18.6 9.8 25.3 26.1 26.1 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 Tổng Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp năm 2011 Một đặc điểm đáng quan tâm là công tác điều hành qu n lý trong đào tạo theo học chế TC r t phức tạp. Như trên đã nêu, trong đào tạo theo niên chế SV học theo một kế hoạch chung theo sự sắp xếp của nhà trư ng nên việc điều hành r t đơn gi n và dễ dàng. Còn trong đào tạo theo học chế TC mỗi SV có một kế hoạch học tập riêng 74 Tạp chí Khoa học 2012:22b 71-79 Trường Đại học Cần Thơ nên việc tổ chức điều hành qu n lý đào tạo vô cùng phức tạp. SV ph i m t nhiều th i gian để nhập kế hoạch học tập, đăng ký học phần, điều chỉnh kế hoạch và đăng ký bổ sung… Một hạn chế cũng được nêu ra trong đào tạo theo học chế TC , đó là phần lớn các môđun trong học chế TC được quy định tương đối nhỏ, do đó không đủ th i gian để trình bày kiến thức thật sự hoàn chỉnh và có hệ thống, từ đó gây n tượng kiến thức bị cắt vụn. Đây thật sự là một nhược điểm, và ngư i ta thư ng khắc phục nhược điểm này bằng cách không thiết kế các môđun quá nhỏ, và trong những năm cuối ngư i ta thư ng thiết kế các môn học hoặc tổ chức các kỳ thi có tính tổng hợp để SV có cơ hội liên kết, tổng hợp các kiến thức đã học. Một đặc điểm đáng chú ý là đào tạo theo học chế TC khó tạo nên sự gắn kết trong SV của một lớp học chuyên ngành. Do mỗi SV học theo một th i khóa biểu riêng của mình nên các lớp học phần sẽ r t lỏng lẻo và do SV thay đổi thư ng xuyên giữa các học phần nên việc tổ chức sinh hoạt lớp chuyên ngành và sinh hoạt đoàn thể của SV gặp nhiều khó khăn. Để khắc phục khó khăn này, ngư i ta ph i tổ chức các hoạt động đoàn thể linh hoạt hơn theo hướng đoàn viên sẽ đăng ký tham gia các hoạt động tình nguyện và sử dụng các phiếu xác nhận để tính điểm khi phân loại đoàn viên trong các chi đoàn. Ngoài ra, nhà trư ng ph i dành một số buổi xác định không bố trí th i khóa biểu học tập để SV có thể cùng tham gia các sinh hoạt đoàn thể và sinh hoạt lớp theo khóa học (lớp theo khóa học được thành lập từ năm thứ nh t và có một giáo viên làm cố v n học tập để hỗ trợ SV). Trên cơ s phát huy tính tích cực nhận thức của ngư i học, đào tạo theo TC cho phép gi m bớt số gi lên lớp và tăng cư ng th i gian tự học, tự nghiên cứu của SV. Về nguyên tắc, tương ứng với 1 gi học trên lớp thì SV ph i có ít nh t 2 gi chuẩn bị cá nhân hay trung bình cho mỗi TC, SV ph i dành kho ng 30 gi tự học, tự nghiên cứu. Như vậy, nếu như trong đào tạo theo niên chế gi ng viên có nhiệm vụ truyền đạt kiến thức còn SV hoàn toàn thụ động tiếp thu kiến thức được thầy truyền đạt, thì trong đào tạo theo TC ngư i thầy chủ yếu là ngư i hướng dẫn và tổ chức để ngư i học tự lực tham gia các hoạt động nhận thức và tự mình nắm l y tri thức. Điều này cho th y v n đề m u chốt để nâng cao ch t lượng trong đào tạo theo học chế TC là ph i đổi mới phương pháp dạy-học c hai phía: ngư i dạy và ngư i học. Nếu cách dạy và cách học không thay đổi thì có thể x y ra nguy cơ là đào tạo theo học chế TC có ch t lượng kém hơn đào tạo theo niên chế b i vì th i gian lên lớp trong đào tạo theo học chế TC ít hơn. Tuy nhiên, không vì lý do này mà cho rằng không nên thực hiện đào tạo theo học chế TC. Thực tế đã khẳng định trong th i kỳ bùng nổ thông tin hiện nay, kiến thức sẽ nhanh chóng tr nên lạc hậu. Những kiến thức SV tiếp thu trong những năm đầu trư ng đại học thì khi ra trư ng có thể đã lạc hậu và nếu SV chỉ dừng lại việc tiếp thu kiến thức từ ngư i thầy thì sẽ hoàn toàn bị động trước sự biến đổi kiến thức của th i đại và không có kh năng tự phát triển. Như vậy, nhiệm vụ chính của nhà trư ng đại học không ph i là cung c p kiến thức mà là trang bị cho SV phương pháp học tập, phương pháp tư duy, phương pháp nghiên cứu. Đây chính là sự thay đổi căn b n về cách dạy và cách học mà đào tạo theo học chế TC cần hướng tới. Với việc gi m th i gian lên lớp và tăng th i gian tự học thì SV sẽ có th i gian tự chủ nhiều hơn. Đây là cơ hội cho SV có thể học 2 ngành song song, học thêm 75 Trường Đại học Cần Thơ Tạp chí Khoa học 2012:22b 71-79 ngoại ngữ, tin học hoặc đi làm thêm để có kinh phí học tập và trang tr i cuộc sống. Tuy nhiên, đặc điểm này cũng có thể dẫn đến tình trạng SV không sử dụng tốt th i gian ngoài gi lên lớp và ch t lượng học tập kém. B ng 3: Ý ki n SV v thời gian dành cho tự h c cần thi t ng với 1 giờ lên lớp Đơn vị tính: % Thời gian tự h c 1 giờ 2 giờ 3 giờ 4 giờ 5 giờ trở lên Tổng c ng Ti lệ SV lựa chọn 8.8 45.9 29.8 11.5 4.0 100.0 Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp năm 2011 Qua kh o sát của chúng tôi về th i gian tự học của SV tương ứng với 1 gi học trên lớp, thì số ý kiến cho rằng cần 2 gi tự học có tỉ lệ cao nh t nhưng cũng chỉ đạt 45,9%. Nếu tính c các ý kiến cho rằng cần th i gian tự học từ 2 gi tr lên thì tỉ lệ đạt 91,2%. Như vậy, phần lớn ý kiến SV phù hợp với quy định đã nêu trên. Tuy nhiên, về th i gian thực tế SV dành cho tự học mỗi thì ngày thì lại không đám b o nguyên tắc trên. Tỷ lệ SV sử dụng th i gian cho tự học trên 6 gi /ngày là 0,2%; từ 5-6 gi /ngày là 5,5%; từ 4-5 gi /ngày tự học là 12,6%; từ 3-4 gi /ngày là 48,0%; từ 1-2 gi /ngày là 30,0%; dưới 1 gi /ngày là 3,8%. Theo chúng tôi, hiện nay trung bình mỗi ngày SV chỉ có 2-3 tiết lên lớp, như vậy nếu theo nguyên tắc thì SV ph i tự học 4-6 gi /ngày. Nhưng theo kết qu kh o sát trên thì chỉ có 18,3% sinh viên sử dụng từ 4-6 gi /ngày để tự học. Về nơi tự học của SV, phần lớn các ý kiến cho rằng nơi tự học thích hợp là nhà hoặc nhà trọ, kí túc xá (91,1%). Ngoài ra, một số nơi tự học được SV lựa chọn là gi ng đư ng, phòng học của trư ng (80,5%); tại thư viện (84,0%); tại nhà sách, phòng máy tính hoặc nhà bạn bè (70,0%). Những nơi khác được lựa chọn ít hơn như: tại công viên (33,0%); tại quán cà phê - Internet (39,6%). Chúng ta đều biết rằng: muốn nâng cao ch t lượng đào tạo theo học chế TC thì ph i tăng cư ng tính chủ động của SV. Tuy nhiên, phần lớn SV vẫn r t thụ động trong học tập. Nhiều SV tỏ ra lúng túng trong việc lập kế hoạch học tập và đăng ký học phần. Theo kh o sát của chúng tôi, tình trạng SV không nắm được quy trình, thủ tục trong đào tạo theo TC theo 5 mức độ như sau: mức độ r t th p 1,3%; mức độ th p 4,6%; mức độ trung bình 27,3%; mức độ cao 47,0%; mức độ r t cao 19,8%. Như vậy có nghĩa là 94,1% SV không nắm được quy trình, thủ tục trong đào tạo theo TC từ mức độ trung bình đến r t cao. Tình trạng trên cho th y cần nâng cao nhận thức và tăng cư ng tư v n cho SV qua cố v n học tập. Có thể ví đào tạo theo TC như “nền kinh tế thị trư ng” còn đào tạo theo niên chế như “nền kinh tế kế hoạch hóa”. Cái mạnh của đào tạo theo TC thì đã rõ nhưng vận hành cơ chế đào tạo theo TC không hề đơn gi n. Nếu như trong đào tạo theo niên chế, kế hoạch được thực hiện thống nh t, chặt chẽ thì trong đào tạo theo TC, nhà trư ng lại ph i thích ứng “chiến lược, chiến thuật” của từng SV. Theo chúng tôi, nếu hệ thống đào tạo theo học chế TC hoàn toàn vận hành theo yêu cầu của SV thì sẽ có 2 khó khăn lớn: 1) Nhà trư ng không đủ nguồn lực để đáp ứng mọi yêu cầu của SV (ví dụ: quỹ phòng học, đội ngũ giáo viên, quỹ th i gian…); 2) SV vẫn 76 Tạp chí Khoa học 2012:22b 71-79 Trường Đại học Cần Thơ còn nhiều hạn chế để lập kế hoạch học tập hợp lý cho b n thân (mặc dù có sự tư v n của CVHT). Từ 2 khó khăn đó sẽ dẫn đến việc lập kế hoạch của SV không hiệu qu hoặc ph i điều chỉnh một cách bị động khi nhà trư ng không đáp ứng được. Xu t phát từ thực tế nêu trên, chúng tôi đề xu t một số gi i pháp như sau: 3.1 K t h p u đi m c a đào t o theo TC với u đi m c a đào t o theo niên ch Theo chúng tôi, có thể áp dụng mô hình “Phát triển kinh tế thị trư ng có định hướng của nhà nước” trong đào tạo theo TC và tạm gọi là: “Phát huy tính tích cực của SV có sự định hướng của nhà trư ng”, có nghĩa là nhà trư ng cần xác lập một hành lang hợp lý để SV được lựa chọn trong khuôn khổ nào đó khi lập kế hoạch học tập mà không hoàn toàn giao phó cho sự “ngẫu hứng” của SV. Cụ thể, chúng tôi cho rằng mỗi ngành học nên thiết kế một số “kế hoạch khung” có tính ch t gợi ý để SV tham kh o khi lập kế hoạch học tập của mình. Các kế hoạch khung này cần bao gồm một số phương án: học đúng tiến độ, học vượt tiến độ, học trễ tiến độ… để SV cân nhắc, lựa chọn. 3.2 Tăng c ờng cung c p thông tin đ SV ch đ ng l p k ho ch h c t p Thực tế hiện nay SV thư ng nắm được r t ít thông tin, nh t là thông tin về kế hoạch học tập của những SV khác trong cùng ngành đào tạo. Vì vậy, có thể x y ra tình trạng một vài SV chọn môn học A, một vài SV khác lại chọn môn học B. Kết qu là một sự “rối loạn” về kế hoạch học tập mà nhà trư ng không thể đáp ứng được. Như vậy thì tại sao không cung c p thông tin cho SV biết là học kỳ này có bao nhiêu SV lựa chọn môn học A, bao nhiêu SV lựa chọn môn học B, v.v… Giống như thông tin trên thị trư ng chứng khoán, thông tin về kế hoạch học tập của SV theo ngành học sẽ giúp cho SV theo dõi để điều chỉnh kế hoạch học tập của mình một cách chủ động, hợp lý và kh thi hơn. Nhà trư ng sẽ bớt đi r t nhiều những trư ng hợp đặc biệt ph i xem xét gi i quyết. 3.3 Đổi mới quan đi m và ph ng pháp d y h c c a gi ng viên Việc thực hiện đào tạo theo học chế TC chỉ có hiệu qu khi gi ng viên thay đổi quan điểm và phương pháp dạy học. T t nhiên, nói như vậy không ph i là đào tạo theo niên chế không cần đổi mới phương pháp, nhưng yêu cầu đặt ra của đào tạo theo TC là bức thiết. Nếu đào tạo theo học chế TC mà ngư i dạy vẫn nặng về cung c p thông tin, nhẹ về gợi ý hướng dẫn và tổ chức cho ngư i học tự nhận thức thì ch t lượng đào tạo sẽ kém hơn đào tạo theo niên chế. B i vì, đào tạo theo học chế TC đã gi m số gi lên lớp của gi ng viên. Hiện nay nhiều gi ng viên đang bối rối với việc đổi mới phương pháp gi ng dạy l y ngư i học là trung tâm - yêu cầu bắt buộc trong đào tạo theo học chế TC. Gi ng viên Vũ Đình B y, Trư ng Đại học Huế, nêu những khó khăn đến từ phía nhiều gi ng viên như dạy theo quán tính cũ với các phương pháp dạy học truyền thống; chưa tiếp cận với phương pháp dạy học tích cực phù hợp với đặc trưng từng bộ môn; một số lạm dụng và lệ thuộc quá nhiều vào phương tiện dạy học hiện đại nhưng không mang lại hiệu qu thực ch t trong gi ng dạy [Vũ Đình B y, 2010, tr.74]. TS Trần Văn Dũng, Trư ng Đại học Tây Nguyên, cũng cho biết trư ng này áp dụng đào tạo TC từ năm 2009 nhưng gặp tr ngại là SV không quen làm việc độc 77 Tạp chí Khoa học 2012:22b 71-79 Trường Đại học Cần Thơ lập, vẫn giữ tư duy dựa vào đội ngũ cố v n học tập, đội ngũ cán bộ lớp để nắm bắt thông tin của nhà trư ng, vì vậy mà nhiều SV phàn nàn là không biết trư ng tổ chức những môn học nào, kế hoạch học tập ra sao... Theo kết qu điều tra một số trư ng đại học thì tính chủ động của SV trong quá trình học tập là r t th p [Trần Văn Dũng, 2010, tr.123]. Chúng tôi cho rằng, v n đề bức thiết đang đặt ra là ph i chú trọng đào tạo, tập hu n và cung c p thông tin cho đội ngũ gi ng viên. Nếu gi ng viên không hiểu đầy đủ về đào tạo theo TC thì không thể có sự chuyển biến căn b n về ch t lượng đào tạo. Chỉ có trên cơ s ngư i dạy hiểu đúng về đào tạo theo TC thì họ mới chủ động thay đổi phương pháp dạy học theo TC cho phù hợp và có hiệu qu . 3.4 Thay đổi cách nghĩ, cách h c c a SV Trong công trình nghiên cứu về thực trạng học tập theo TC tại Trư ng Đại học Sư phạm Hà Nội của PGS.TS Nguyễn Công Khanh, có tới hơn 54% SV được hỏi cho rằng không có hứng thú học tập, 64% cho rằng chưa tìm được phương pháp học phù hợp...[ Dẫn theo Vũ Đình B y, 2010, tr.73]. Kh o sát của chúng tôi trên cũng cho th y hiện nay SV sử dụng th i gian cho tự học còn ít, SV vẫn còn thói quen thầy dạy gì thì học n y. PGS.TS Trần Thanh Ái, Trư ng Đại học Cần Thơ, cho biết: “Đào tạo theo TC đòi hỏi SV phải có kỹ năng tự học và tự nghiên cứu, thế mà thói quen học vẹt và chỉ học theo giáo trình hoặc bài vở của thầy cô hình thành khi còn học phổ thông đã khiến không ít SV gặp khó khăn hoặc cảm thấy mất phương hướng. Nhiều SV sử dụng thời gian tự học để làm việc riêng như đi làm thêm, học văn bằng hai...” [Trần Thanh Ái, 2010, tr.48]. Để thay đổi phương pháp học tập của SV, vai trò của ngư i thầy r t quan trọng. Thực ra, dạy và học là hai mặt của một quá trình thống nh t. Chúng tôi cho rằng, ngư i thầy ph i tự đổi mới mình trước. Nếu nói theo ngôn ngữ bóng đá thì trước đây thầy đóng vai trò là “cầu thủ” trên sân, bây gi thầy ph i chuyển sang vai trò là “hu n luyện viên” cho đội bóng. Nhiệm vụ chính của gi ng viên đại học không ph i là truyền đạt kiến thức mà là định hướng và tổ chức cho SV tự tìm kiến thức và phát triển trí tuệ b n thân. Ngư i thầy ph i có chức năng giao nhiệm vụ tự học cho SV (bài về nhà) và kiểm tra đánh giá kết qu tự học của SV. Điều đó có nghĩa là cần tạo ra sự kết nối giữa dạy học trên lớp với tự học nhà. Cần tạo cho SV phong cách học tập mới: thầy giới thiệu sách và ra yêu cầu còn SV ph i tự tìm sách, tự nghiên cứu để nắm kiến thức. Ngay trong quá trình đào tạo trong nhà trư ng SV ph i tự phát huy nội lực b n thân để có thể phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu. Có như vậy, kiến thức mà SV tiếp thu được sẽ không mang tính giáo điều, không bị lạc hậu trước sự biến đổi và phát triển nhanh chóng của th i đại. Đó cũng chính là mục tiêu đặt ra cho đào tạo theo học chế TC. 4 K T LU N Đào tạo theo học chế TC tuy được coi là phương thức đào tạo mới nhưng đã có lịch sử hàng trăm năm và đã khẳng định ưu thế của nó tại nhiều trư ng đại học danh tiếng trên thế giới. Đối với các trư ng đại học Việt Nam, nhìn chung 78 Trường Đại học Cần Thơ Tạp chí Khoa học 2012:22b 71-79 phương thức đào tạo theo học chế TC còn khá mới mẻ. Hơn nữa các nguồn lực đ m b o cho đào tạo theo học chế TC còn nhiều hạn chế. Vì vậy, việc thực hiện còn gặp không ít khó khăn, tr ngại. Trong phương thức đào tạo theo học chế TC, cùng với việc tổ chức qu n lý đào tạo một cách mềm déo, linh hoạt theo sự vận hành mang tính cá thể hóa dựa trên kế hoạch học tập của ngư i học thì việc áp dụng đúng đắn các phương pháp dạy học tích cực và trao quyền chủ động cho ngư i học là một trong những v n đề cốt yếu để đ m b o sự thành công cho phương thức đào tạo mới này. Qua kết qu kh o sát ý kiến SV về đào tạo theo TC nói chung và đặc biệt là những gi i pháp để nâng cao tính chủ động của SV, chúng tôi hi vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao ch t lượng đào tạo Trư ng Đại học Cần Thơ cũng như các trư ng đại học trong c nước, từng bước đưa nền giáo dục đại học của nước ta tiếp cận với nền giáo dục đại học trên thế giới. TÀI LI U THAM KH O Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống TC (Ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007 của Bộ trư ng Bộ Giáo dục và Đào tạo). Đào Ngọc C nh (2010), Một số vấn đề đang đặt ra qua thực tế giảng dạy theo hệ thống TC ở Trường Đại học Cần Thơ, Kỷ yếu hội th o khoa học toàn quốc “Đổi mới phương pháp giảng dạy đại học theo TC”, Chuyên san của Tạp chí đại học Sài Gòn. Elis Mazuz & Phạm Thị Ly (2006), Mục tiêu sư phạm của hệ thống đào tạo theo TC Mỹ và những gợi ý cho cải cách cho giáo dục Việt Nam, (đăng trên trang web http://lypham.net/joomla /index). Lâm Quang Thiệp (2010), Về phương pháp dạy, học và đánh giá kết quả học tập trong hệ thống TC, Kỷ yếu Hội th o khoa học toàn quốc “Đổi mới phương pháp gi ng dạy đại học theo hệ thống TC”, Chuyên san của Tạp chí đại học Sài Gòn. Thanh Tùng (2011), Đào tạo TC và dạy và học kiểu... đối phó, (đăng trên trang web http://ctat8.vn/News/66/514/dao-tao-tin-chi-day-va-hoc-kieu-doi-pho.aspx). Trần Thanh Ái (2010), Đào tạo theo hệ thống TC- Các nguyên lý, thực trạng và giải pháp, Kỷ yếu Hội th o khoa học toàn quốc “Đổi mới phương pháp gi ng dạy đại học theo hệ thống TC”, Chuyên san của Tạp chí đại học Sài Gòn. Trexler C.J. (2008), Hệ thống TC tại các trư ng đại học Hoa Kỳ : Lịch sử phát triển, Định nghĩa và cơ chế hoạt động, trong Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 11/2008 (đăng lại trên trang web http://ceea.ier.edu.vn/toa-dam-hoi-thao/). Trư ng Đại học Cần Thơ (2010), Sổ tay giảng viên (Tài liệu hướng dẫn giảng viên thực hiện học chế TC), NXB Đại học Cần Thơ. 79