Professional Documents
Culture Documents
com
Khôûi nguoàn vaø nuoâi döôõng ñam meâ
Tháng 01/2011
Baûn Tin Vaät Lyù
Bản tin tổng hợp hàng tháng, phát hành tại thuvienvatly.com
27
g
an
Tr
ình
g h
n
g tà
n
Cổ
14
g
an
Tr
tra 2
Trang
i ểm
ộ tk
21
am 18 g
t qu ang Tr
an
ư ợ Tr i n
ạ i v ọng ữ sp
l r r h
ử nt t lịc
10
t
g ua u n
ã c ấp
n n lư o
ợ q ẫ h
ể âng ăn
t lư ệm d t h
yế hi
g b án có a n ua s
u C cử đ
Th ực n nhớ LH ng hạy on
th b ộ đó ể c os
c đ b
Cá tìm igg 28
s
Trang 16
Trong bản tin có sử dụng hình ảnh và các bài dịch từ các tạp chí nổi tiếng
Physics World, Nature Physics, New Scientist, cùng một số tạp chí khác.
Nội dung
10 thành tựu vật lí nổi bật năm 2010 .............................................................. 1
Ảnh đẹp vật lí trong năm 2010 ....................................................................... 6
Hướng đến năm 2011 .................................................................................... 14
Thuyết lượng tử lại vượt qua một kiểm tra
thực nghiệm quan trọng ............................................................................... 18
Các bộ nhớ bán dẫn lưu trữ spin ..................................................................`21
Tìm thấy bằng chứng đầu tiên của đa vũ trụ ................................................. 22
NASA theo dõi các cơn bão di chuyển trên khắp mặt trời ............................ 25
Cổng tàng hình ............................................................................................. 27
LHC có thể hoãn lịch đóng cửa nâng cấp để
chạy đua săn tìm boson Higgs ......................................................................28
Va chạm giữa các hạt nhân chì tại CERN tạo
ra plasma quark-gluon đặc nhất, nóng nhất ................................................30
Nghi vấn tăng thêm về hiệu ứng áp trở khổng lồ .......................................... 32
M107 mở đường cho việc nghiên cứu sự tiến hóa sao và thiên hà ............... 34
Nghiên cứu tiên đoán sự phân bố của các
nguồn phát sóng hấp dẫn ............................................................................. 36
Tạm biệt kilogram ........................................................................................38
V ới sự chuyển mình ngoạn mục
của nền vật lí học trong năm
2010, việc lọc ra 10 thành tựu
nổi bật nhất là công việc chẳng dễ dàng
phá quan trọng hướng đến việc tạo ra
một chùm phản hydrogen thích hợp
cho các nghiên cứu quang phổ. Chúng
tôi xin chúc mừng cả hai đội.
gì. Tạp chí Physics World đã quyết định
trao giải thưởng Đột phá của năm 2010
cho hai đội nghiên cứu quốc tế tại
CERN, những người đã tạo ra những
phương pháp mới điều khiển các phản
nguyên tử của hydrogen.
Cận cảnh nàng thơ nổi tiếng của danh họa Leonardo. (Ảnh: Walter Philippe)
Tại sao bức họa nổi tiếng vẽ nàng Mona Lisa của Leonardo lại có vẻ uyển chuyển tự nhiên
như vậy? Câu trả lời có thể đến từ nghiên cứu quang phổ huỳnh quang tia X này tại Louvre.
Đỉnh Matterhorn
nano. (Ảnh: IBM
Research, Zurich)
Việc tạo ra một mô
hình của đỉnh
Matterhorn [một
ngọn núi ở Thụy Sĩ]
chỉ cao 25 nm phải
được xếp vào một
trong những điều kì
lạ nực cười nhất mới
phải. Nhưng đó
chính là cái mà
Armin Knoll và các
đồng nghiệp tại IBM
ở Thụy Sĩ và ở Mĩ đã
làm, với kĩ thuật in li
tô khảo sát quét mới
của họ.
Liệu các nhà thiên văn học có tìm thấy một hành tinh hệt như Trái đất vào năm 2011?
Cũng sẽ được phóng lên vào năm tới là tàu Juno của NASA với đích đến là Thổ tinh, được
chờ đợi sẽ cất cánh vào tháng Tám nhằm trả lời các nghi vấn về cấu tạo chất, trường hấp dẫn
và từ trường của nó. NASA còn phóng lên vệ tinh Thành tựu để quan sát Trái đất vào tháng 11
nhằm mục đích nghiên cứu bầu khí quyển ở cả thang nhìn được và thang hồng ngoại của hành
tinh chúng ta.
Ở nơi khác trong hệ mặt trời của chúng ta, các nhà thiên văn học cũng đang chờ đợi phi
thuyền Messenger của NASA sẽ đến đích vào tháng Ba, và bắt đầu chuyển sang chế độ quay
quanh Thủy tinh sau 6 năm rưỡi hành trình. Phi thuyền này cũng đã hoàn tất ba vòng bay để
chụp ảnh bề mặt của hành tinh này chỉ trong vài giờ. Tàu này sẽ đi vào quỹ đạo quỹ đạo quanh
hành tinh này để nghiên cứu cấu tạo chất, lịch sử địa chất và từ trường của nó trong một năm
với độ chi tiết cao hơn nhiều lần. Nhà khoa học Louise Proctor sẽ ghi lại nhiệm vụ của chuyến
hành trình vào tháng Hai trong ấn phẩm của tạp chí Physics World.
Hướng tầm nhìn lên cao đến những người hàng xóm của chúng ta, nhiệm vụ Kepler, được
NASA phóng lên vào năm 2009 để khám phá những hành tinh kiểu Trái đất nằm ở đâu đó
trong vũ trụ, sẽ tiếp tục mang về nhiều kết quả hơn nữa những ngoại hành tinh kiểu này và
vượt xa con số 350 mà nhiệm vụ này đã mang lại. Đông đảo các nhà thiên văn chờ đợi những
thông tin chi tiết hơn nữa về các hành tinh mà Kepler đã thông báo vào năm nay. Năm 2011 là
năm mà các nhà thiên văn sẽ khám phá ra một ngoại hành tinh hệt như Trái đất?
Năm tới đây cũng đánh dấu lần bay cuối của Tàu không gian US lên Trạm không gian quốc tế.
Lần phóng tàu con thoi cuối cùng này được dự kiến sẽ là vào cuối năm nay nhưng bị chậm lại
do một lỗ hỗng khí gây ra bởi chuyến bay của Endeavour để lại vào tháng Sáu. Endeavour
cũng là một nhiệm vụ với nhiều chờ đợi: nó mang Máy đo phổ từ Alpha(AMS), một thiết bị
dò tia vũ trụ giúp phân biệt một lượng lớn các loại tia vũ trụ bao gồm cả các chùm hạt positron
năng lượng cao có thể được tạo ra bởi các hạt vật chất tối trong Dải Ngân hà. Những kết quả
đầu tiên từ AMS được mong đợi sẽ đến vào cuối năm sau. Trong khi đó, Quốc hội Mỹ sẽ
quyết định vào đầu năm sau sẽ đầu tư cho tàu con thoi trong tương lai, được phóng lên vào
tháng 11, và đánh dấu chuyến bay cuối cùng của loại tàu không gian này.
Trở lại mặt đất, kính thiên văn tổng quan Năng lượng tối, được điều hành bởi trung tâm vật lý
hạt Fermilab ở Batavia, Illinois, được chờ đợi sẽ đi vào hoạt động vào tháng Mười. Nó sẽ là
chiếc camera lớn nhất dùng để quan sát năng lượng tối, loại vật chất bí ẩn được cho là nguyên
nhân gây ra chuyển động có gia tốc của vũ trụ. Chiếc kính này đã được chế tạo và sẽ bắt đầu
di chuyển đến Chile vào đầu năm sau, ở đây camera 570 megapixel(đơn vị đo độ nét của ảnh
chụp, chiếc điện thoại của bạn cầm trên tay có camera vào khoảng 1,3 đến 5 megapixel.ND)
để quan sát hơn 300 triệu thiên hà ở bầu trời nam để đo tốc độ của chúng.
Tiệc mừng
Dĩ nhiên không chỉ các nhà thiên văn mới hướng tới năm mới với cái nhìn triển vọng, nhiều
nghành chủ chốt khác cũng đang trên tiến trình này. Thực tế, năm 2011 được Liên hiệp quốc
chọn là Năm hóa học thế giới(IYC) và nhận được sự đồng thuận của UNESCO, tổ chức quốc
tế chuyên trách về giáo dục, khoa học và văn hóa. IYC đánh dấu 100 năm trao giải Nobel hóa
học cho Marie Curie, tức là vào năm 1911 cho “việc phát hiện ra nguyên tố ra-đi và pô-lô-ni”.
Với chủ đề “hóa học-cuộc sống của chúng ta, tương lai của chúng ta”, IYC 2011 sẽ khởi động
vào ngày 27-28 tháng Hai tới tại trụ sở của UNESCO tại Pari với màn mở đầu là cuộc nói
chuyện của người giành giải Nobel hóa học năm 2009 Ada Yonath và giám đốc của Bội thẩm
đoàn liên chính phủ về biến đổi khí hậu Rajendra Pachauri. Năm 2011 cũng đánh dấu 100 năm
ngày thành lập Hội liên hiệp hóa học thế giới và 100 năm Hội nghị Solvay (Đây là hội nghị
quốc tế về hóa học và vật lý được sáng lập bởi nhà công nghiệp người Bỉ Ernest Solvay vào
năm 1911.ND). 2011 còn là kỉ niệm 100 năm Ernest Rutherford đề xuất mô hình nguyên tử.
Một hội nghị về vật lý hạt nhân với tên gọi Hội nghị Một trăm năm Rutherford cũng được tổ
chức tại Đại học Manchester vào tháng Tám năm 2011.
Sơ đồ thí nghiệm do Sonja Franke-Arnold và các đồng nghiệp thực hiện. Khung hình nhỏ ở
góc dưới bên trái là biểu diễn của các trạng thái xung lượng góc quỹ đạo. (Ảnh: Sonja
Franke-Arnold)
Những sự kì lạ này đã được nhà vật lí John Bell biểu diễn bằng toán học thành bất đẳng thức
nổi tiếng mang tên ông. Bell chứng minh rằng một sự kết hợp đặc biệt của các phép đo thực
hiện trên các cặp hạt giống hệt nhau được chuẩn bị sẵn sẽ tạo ra một liên kết số (hay bất đẳng
thức) được thỏa mãn bởi mọi lí thuyết vật lí tuân theo tính thực tại và tính định xứ. Tuy nhiên,
ông còn chứng minh rằng liên kết này bị vi phạm bởi các tiên đoán của cơ học lượng tử về các
cặp hạt bị vướng víu.
Trong các thí nghiệm Bell, hai nhà quan sát ở xa nhau, chẳng hạn, đo sự phân cực của các hạt
bị vướng víu theo những hướng khác nhau và tính ra các tương quan giữa chúng. Yêu cầu này
đã được thực hiện hồi thập niên 1970 bởi Stuart Freedman và John Clauser, và hồi thập niên
1980 bởi Alain Aspect, người đã sử dụng các photon vướng víu để xác nhận thuyết lượng tử.
Vật lí học thường chấp nhận rằng thế giới lượng tử không xem trọng “thực tại định xứ”, nhưng
vào năm 2003, Anthony Leggett thuộc trường đại học Illinois tại Urbana-Champaign đã thử
hồi sinh thuyết thực tại bằng cách từ bỏ tính định xứ. Nếu hai thực thể có thể sắp xếp các
tương quan của chúng qua sự truyền thông tức thời, thì có lẽ vẫn có khả năng là mỗi thực thể
trong số chúng có những tính chất rạch ròi. Kịch bản thực tiễn nhưng phi định xứ của Leggett
vượt qua được phép kiểm tra Bell, nhưng liệu nó có thể thật sự mô tả được thế giới lượng tử
hay không?
Kết luận này nay được hồi sinh trở lại bởi Sonja Franke-Arnold cùng các đồng nghiệp tại
trường Đại học Glasgow và Đại học Strathclyde, họ đã thực hiện một thí nghiệm khác chứng
tỏ rằng các photon vướng víu biểu hiện những tính chất rạch ròi – ngay cả khi chúng được
phép truyền thông tin tức thời. Nhưng thay cho sự phân cực, họ nghiên cứu tính chất của xung
lượng góc quỹ đạo của từng photon.
Trong các photon, xung lượng góc quỹ đạo có thể hiểu được bằng cách tưởng tượng rằng sóng
ánh sáng xoắn xung quanh trục của chùm tia sáng. Có thể minh họa nó bằng một hình ảnh
xoắn ốc đơn giản, một chuỗi xoắn kép hoặc những xoắn phức tạp hơn với xung lượng góc tăng
dần. Franke-Arnold và đội của bà tập trung vào kiểu xoắn kép.
Chàng sinh viên Glasgow, Jacquie Romero, thực hiện thí nghiệm bằng cách chiếu một laser tử
ngoại vào một quang tinh thể được thiết kế để phân tách các photon năng lượng cao thành các
cặp photon hồng ngoại vướng víu. Những photon này tiếp tục đi đến một máy tạo ảnh ba chiều
do máy tính điều khiển, bộ phận này sẽ lọc thô các trạng thái xung lượng góc quỹ đạo bổ sung.
Các photon đi qua máy tạo ảnh ba chiều khi đó được đếm bằng một máy dò photon độc thân.
Sự tương quan giữa hai photon vướng víu, một photon có xung lượng góc quỹ đạo theo chiều
đồng hồ còn photon kia xoắn ngược chiều kim đồng hồ, được tiên đoán bởi các đề xuất của
Bell và Leggett cũng như thuyết lượng tử. “Chúng tôi canh lệch có chủ ý máy tạo ảnh ba chiều
của mình khỏi các trạng thái bổ sung và đo lấy các tương quan thu được”, Franke-Arnold giải
thích. Các số đếm ngẫu nhiên trong máy dò xuất hiện khá thường xuyên phù hợp với lí thuyết
của Leggett. Tuy nhiên, chúng thật sự khớp với các tiên đoán lượng tử.
“Kết quả chủ yếu trên thật ra là một kết quả mang tính triết lí”, Franke-Arnold nói. Các hạt bị
vướng víu không thể mô tả như những thực thể đơn lẻ, cũng không thể mô tả với một kết nối
ngoại cảm với các đối tác của chúng.
Simon Gröblacher ở trường Đại học Vienna thì cho rằng những thí nghiệm này bác bỏ tính
thực tiễn chỉ cho một họ rộng các lí thuyết phi định xứ - tuy nhiên, những lí thuyết thì không
được mô tả bởi bất đẳng thức Leggett. Đội của ông trước đây là đội đầu tiên chứng minh được
sự vi phạm bất đẳng thức Leggett qua sự phân cực photon, và ông cho biết sẽ thật là đẹp nếu
như sự vi phạm đó được xác nhận với một tính chất khác nữa của các photon. “Các thí nghiệm
dường như có vẻ đơn giản hơn”, ông nói, xung lượng góc quỹ đạo mang lại các cơ hội kiểm
tra sự chồng chất của nhiều hơn hai trạng thái.
Nguồn: physicsworld.com
Các nhà khoa học ở Mĩ và Anh đã tìm ra nhân và sau đó đọc nó nhưng khả năng
một phương pháp lưu trữ và đọc dữ liệu thành công khá thấp. Câu trả lời đến từ
dựa vào spin nguyên tử khi sử dụng các nhóm của McCamey là phân cực tất cả các
xung điện tử. Đột phá này có thể giúp đẩy điện tử dẫn trong SiP để cho chúng có cùng
nhanh sự phát triển của các hệ thống trạng thái spin. Điều này được thực hiện
spintronic, là các quá trình thông tin sử bằng cách làm lạnh vật liệu xuống vài độ
dụng spin và có thể dùng vào kỉ thuật tính trên không độ tuyệt đôú và đặt vào một từ
toán lượng tử. trường cỡ 8,5T. Khi đó, họ có thể gửi một
xung điện từ với tần số vài Tera-Héc
Spintronic là một lĩnh vực nổi bật của vật (1012Hz) để ghi một spin lên hoặc xuống
lý chất rắn, nổ lực sử dụng spin như điện vào các điện tử đang quay quanh nguyên tử
tích của điện tử để tăng hiệu quả của các photpho(P), trước khi gửi một sóng vô
quá trình xử lý thông tin. Nhưng một vấn tuyến làm chuyển spin này vào trong hạt
đề với spin điện tử là chúng có thời gian nhân.
sống quá ngắn, dễ dẫn tới mất hoặc làm
hỏng dữ liệu. Vì nguyên nhân này, các nhà Nhóm nghiên cứu thấy rằng, hạt nhân
khoa học hiện đang tìm kiếm những cách nguyên tử có thể lưu trữ spin lâu gấp 300
mới tốt hơn để lưu trữ và khôi phục dữ liệu 000 lần so với thời gian sống của spin điện
từ các hệ spin. tử. Để đọc thông tin spin, các nhà nghiên
cứu đơn giản chỉ thực hiện quá trình ngược
Một cách để lưu trữ thông tin dựa trên spin lại: gửi một sóng vô tuyến để chuyển lại
là sử dụng khuyết điểm của vùng cấm ni-tơ spin từ hạt nhân ra các điện tử và khi đó,
của tinh thể kim cương, và trong những gửi một xung nữa, cỡ Tera-Héc với cường
năm gần đây đã cho thấy nhiều hứa hẹn. độ lớn hơn dành cho spin lên.
Nhưng lo ngại trong việc sử dụng kim
cương là khó có thể cạnh tranh được với
các thiết bị điện tử sử dụng sillicon thông
thường, mà một số đã được tích hợp vào
các máy tính.
Trong nghiên cứu mới nhất về khoa học tiền-Big Bang đăng tại trang web chia sẻ bản thảo
arXiv.org, một đội gồm các nhà nghiên cứu đến từ Anh, Canada, và Mĩ, Stephen M. Feeney,
và nhiều người khác, tiết lộ rằng họ đã phát hiện ra bốn vân tròn không có khả năng xảy ra về
mặt thống kê trong phông nền vi sóng vũ trụ (CMB). Các nhà nghiên cứu nghĩ rằng những dấu
vết này có thể là “vết thâm” mà vũ trụ của chúng ta phải hứng chịu sau bốn lần đụng độ với
những vũ trụ khác. Nếu quan điểm của họ là đúng, thì nó sẽ là bằng chứng đầu tiên rằng thật
sự tồn tại những vũ trụ khác ngoài vũ trụ của chúng ta.
Quan điểm cho rằng có nhiều vũ trụ khác hiện trong CMB. Các nhà khoa học đã phát
nữa ở ngoài kia chẳng có gì mới mẻ, vì các triển một thuật toán tìm kiếm các va chạm
nhà khoa học trước đây đã cho rằng chúng bọt trong CMB với những tính chất đặc
ta sống trông một “đa vũ trụ” gồm một số biệt, cái đưa họ đến chỗ tìm thấy bốn vân
vô hạn các vũ trụ. Khái niệm đa vũ trụ phát tròn trên.
sinh từ quan điểm lạm phát vĩnh viễn, theo
đó thời kì lạm phát mà vũ trụ của chúng ta Tuy nhiên, các nhà khoa học biết rõ rằng
đã trải qua ngay sau Big Bang chỉ là một khá dễ tìm thấy nhiều tính chất không có
trong nhiều thời kì lạm phát mà những khả năng xảy ra về mặt thống kê trong một
phần khác nhau của không gian vũ trụ đã bộ dữ liệu lớn như CMB. Các nhà nghiên
và đang trải qua. Khi một phần của không cứu nhấn mạnh rằng cần có thêm nhiều
gian trải qua một trong những cú bộc phát nghiên cứu nữa để xác nhận khẳng định
tăng trưởng ngoạn mục này, thì nó phồng này, chúng có thể xuất hiện trong thời gian
to thành vũ trụ của riêng nó với những tính ngắn thôi từ vệ tinh Planck, thiết bị có độ
chất vật lí của riêng nó. Như tên gọi của nó phân giải tốt hơn ba lần so với WMAP (nơi
cho thấy, sự lạm phát vĩnh viễn xảy ra một dữ liệu hiện nay khai thác), đồng thời có độ
số vô hạn lần, tạo ra một số vô hạn các vũ nhạy lớn hơn một bậc độ lớn. Tuy nhiên,
trụ, mang lại đa vũ trụ. họ hi vọng rằng việc tìm kiếm các va chạm
bọt có thể mang lại một số kiến thức sâu
Vô số những vũ trụ này thỉnh thoảng được sắc về lịch sử của vũ trụ của chúng ta, cho
gọi là bọt vũ trụ mặc dù hình dạng của dù các va chạm là có thật hay không.
chúng bất thường, chứ không tròn. Các bọt
vũ trụ có thể chuyển động ra xung quanh “Việc không phát hiện ra một cách thuyết
và thỉnh thoảng va chạm với các bọt vũ trụ phục của một bọt vũ trụ có thể dùng để đặt
khác. Như Feeney, và những người khác, ra các giới hạn nghiêm ngặt lên các lí
giải thích trong bài báo của họ, những va thuyết gây ra sự lạm phát vĩnh viễn; tuy
chạm này tạo ra tính không đồng nhất cho nhiên, nếu một va chạm bọt được xác nhận
vũ trụ học bên-trong-bọt, cái có thể xuất bởi dữ liệu trong tương lai, thì chúng ta sẽ
Bề mặt Mặt trời là một môi trường vô cùng bất ổn định, thường xuyên phun trào bức xạ có
cường độ và năng lượng lớn vào không gian. Các bức xạ này đe dọa nghiêm trọng đến các nhà
du hành vũ trụ và nếu đến được trái đất, chúng sẽ tàn phá các vệ tinh viễn thông.
Các nhà nghiên cứu tập trung vào việc phân tích các sự kiện xảy ra vào ngày 1 tháng 8 năm
2010 khi mà toàn bộ phần bề mặt đối diện với trái đất đều ở trạng thái hoạt động mạnh, phun
trào các tia lửa và các vòng nhật hoa(CMEs). Sự kiện này được thu lại bởi các thiết bị đặt trên
SDO, được phóng lên quỹ đạo từ tháng Hai để nghiên cứu nguyên nhân của sự biến đối trên
Mặt trời và điều này tác động đến thời tiết trong không gian như thế nào.
Các hiện tượng liên kết nghiên cứu địa vật lý, Schriver và Title
chia các hoạt động này thành 12 sự kiện
Trong nhiệm vụ trước đó gửi về các dữ liệu chính với chu kỳ 28 giờ trải khắp miền 180
từ các miền hoạt động độc lập trên Mặt trời, độ kinh tuyến Mặt trời. “Sự kiện ngày 1
SDO và tàu song hành với nó STEREO tháng Tám mở ra trước mắt chúng ta,”
được thiết kế đặc biệt để nghiên cứu hoạt Schrijver cho biết. “Chúng ta có thể nhìn
động từ trường hầu như toàn bộ ngôi sao thấy các cơn bão Mặt trời là các sự kiện
này. Điều này giúp cho Karel Schrijver và toàn cục, diễn ra trên những khu vực rộng
Alan Title làm việc tại Phòng thí nghiệm lớn mà ta chưa hề nghĩ đến trước đây.”
Vật lý thiên văn và LMsS(Lockheed
Martin's Solar) xây dựng lại các hoạt động Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng thừa
xảy ra vào ngày 1 tháng Tám nhằm tìm nhận rằng còn nhiều việc phải làm để
thấy mối liên kết giữa nhiều hiện tượng khẳng định nguyên nhân và những hệ quả
khác nhau có liên quan. xảy đến trong những quá trình động lực
này, và để làm được điều đó, cần phải
Đột phá xảy đến khi các nhà nghiên cứu nghiên cứu nhiều sự kiện hơn nữa. “Không
phát hiện ra các vụ nổ trên Mặt trời xuất phải tất cả các vụ phun trào đều có tính
hiện có liên hệ với một hệ thống các miền toàn cầu,” Title lưu ý. “Nhưng đặc trưng
từ khuyết được biết đến với tên gọi toàn cục của hoạt động Mặt trời là không
separatrices(tạm dịch: những dấu phẩy). thể bỏ qua như trước đây.”
Trong một bài báo đăng trên Tạp chí
Tọa lạc ở gần Geneva, Thụy Sĩ, LHC là cỗ máy va chạm hạt mạnh nhất mà loài người từng
xây dựng, được thiết kế để tạo ra những va chạm ở những năng lượng lên tới 14 nghìn tỉ
electron volt (TeV). Nó được xây dựng để tìm kiếm hạt Higgs, hạt giả thuyết đã mang lại khối
lượng cho các hạt hạ nguyên tử khác, thí dụ như electron.
Nhưng việc tăng tốc của LHC lên mức năng lượng trọn vẹn đã diễn ra chậm hơn dự kiến. Một
sự cố xảy ra hồi tháng 9 năm 2008 đã làm hoãn ngày khởi động cỗ máy đi hơn một năm trời,
và để tránh sự thiệt hại có thể có, các nhà điều hành cỗ máy đã và đang cho nó chạy ở mức chỉ
7 TeV, tức mới một nửa mức năng lượng thiết kế của nó. Kế hoạch là thu thập dữ liệu ở mức
năng lượng này cho đến cuối năm 2011, sau đó cho cỗ máy dừng hoạt động trong 15 tháng để
thực hiện các công đoạn sửa chữa cần thiết để đạt tới 14 TeV.
Nhiệt độ cao nhất có thể đạt đến trong các chỉ khoảng vài micrô giây sau Vụ nổ lớn,
lò luyện kim, vài ngàn độ, thật quá bé nhỏ về mật độ năng lượng và nhiệt độ.
so với nhiệt độ đạt được khi cho các hạt Schukraft cũng đại diện cho một nhóm dò
chuyển động gần với vận tốc ánh sáng va tìm khác tại CERN gọi là Alice.
chạm với nhau.
Năng lượng lớn chưa từng thấy trước đây,
Vào ngày 2 tháng 12, một số nhà khoa học vài TeV, được tập trung trong một miền thể
tại phòng thí nghiệm CERN ở Geneva, tích bằng với kích cở của vài proton.
Thụy Sỹ đã báo cáo những kết quả đầu tiên Proton là thành phân cấu thành hạt nhân
của thí nghiệm cho va chạm các hạt nhân nguyên tử, và nhỏ hơn nguyên tử khoảng
của nguyên tử chì sau khi hoàn tất những một vạn lần. Các nhà khoa học làm việc tại
"vòng đua 17 dặm" nổi tiếng gọi là LHC. các máy gia tốc thường sử dụng eV làm
Khi đó, chúng vỡ thành nhiều mảnh và tạo đơn vị năng lượng, là lượng công cần cung
thành những đốm vật chất đạt đến hàng cấp để gia tốc một electron bằng lực điện
nghìn tỉ độ chỉ trong chốc lát. tạo bởi hiệu điện thế 1V.
"Tôi thích gọi nó là Vụ nổ bé" Juergen Điều gì xảy ra khi hai nguyên tử chì chứa
Schukraft cho biết ở hội thảo chuyên đề hàng trăm prôton và nơ-trôn(gọi chung là
mới đây tại CERN. Ông cho rằng, các vụ nucleon) mang năng lượng 1,4TeV va
va chạm khủng khiếp giữa các ion nặng tại chạm trực diện vào nhau? Khi chúng gặp
LHC là con cháu của Vụ nổ lớn được cho nhau và tương tác, các nucleon bị vở ra
là xảy ra ở 14 tỉ năm trước đây. Hơn nữa, thành các thành phần cơ bản hơn, là các
điều kiện mà đốm lửa siêu nóng được tạo quark và gluon. Những gì mà chúng ta thu
ra ở LHC tương tự với vũ trụ lúc sơ khai, được là một mớ hổ lốn với cường độ tương
Cụm tinh hình cầu Messier 107, được biết đến với tên gọi NGC 6171, là một hệ thống các sao
đặc và lâu đời nằm cách chúng ta khoảng 21 000 năm ánh sáng. Messier 107 là một trung tâm
đông đúc: hàng ngàn ngôi sao trong cụm tinh hình cầu như vậy chỉ tập trung trong miền không
gian chật hẹp, có kích thước vào khoảng 20 lần khoảng cách từ Mặt trời chúng ta đến thiên thể
gần nhất là Alpha Centauri. Một số các sao đã đi vào giai đoạn sao khổng lồ đỏ, một trong
những cảnh cuối cùng trong đời sống của một ngôi sao, và có màu vàng như ảnh chụp trên đây.
Các cụm tinh hình cầu là một trong các đối tượng già nhất trong vũ trụ. Khi đó, các sao trong
một cụm tinh hình cầu hình thành từ các đám mây vật chất tại các thời điểm gần nhau, khoảng
10 tỉ năm trước. Chúng gồm những sao có khối lượng nhỏ, do đó, năng suất tiêu thụ hi-đrô là
chậm hơn nhiều so với các thiên thể nặng hơn. Các cụm tinh hình cầu hình thành trong suốt
giai đoạn sớm nhất của quá trình hình thành các thiên hà nóng và do đó việc nghiên cứu các
thiên thể này có thể mang lại những hiểu biết sâu rộng về cách mà các thiên hà và các sao của
chúng tiến hóa.
Messier 107 bị "soi" khá kỉ, là một trong 160 miền thiên thể được phân chia bởi hệ thống Pre-
FLAMES, một trong những hệ thống tiên phong được bắt đầu từ năm 1999 đến năm 2002 sử
dụng kính thiên văn 2,2m tại đài quan sát ESO's La Silla ở Chilê, để tìm kiếm những ngôi sao
phù hợp cho việc quan sát của quang phổ kế FLAMES của VLT. Dùng FLAMES có thể quan
sát được 130 mục tiêu cùng lúc, thích hợp cho việc nghiên cứu những cộng đồng sao dày đặc
như các cụm tinh hình cầu.
M107 không thể nhìn thấy bằng mắt thường, nhưng với độ trưng (apparent magnitude, là giá
trị đặc trưng cho độ sáng của thiên thể nhìn từ trái đất) vào khoảng 8, nó có thể dễ dàng được
nhìn thấy trên nền tối nhờ vào một kính thiên văn cỡ nhỏ hoặc ống nhòm. Cụm tinh hình cầu
có bề rộng 13 phút góc, tương ứng với khoảng cách 80 năm ánh sáng, và được tìm thấy trong
quầng tinh Ophiuchus, ngay phía bắc chiếc càng của Scorpius(chòm Bọ cạp). Khoảng một nữa
các cụm tinh hình cầu được quan sát thấy từ Ngân hà được tìm thấy trong các chòm sao
Sagittarius, Scorpius and Ophiuchus theo hướng trực chỉ tâm của Ngân hà. Sở dĩ vì vậy là bởi
vì các quỹ đạo của chúng xếp dọc theo hướng nhìn này của chúng ta và quay quanh một miền
trung tâm chung.
Messier 107 được phát hiện bởi Pierre Méchain vào tháng Tư năm 1782, và được thêm vào hệ
thống Bảy đối tượng Messier bổ sung. Vào ngày 12 tháng 5 năm 1793, nó được phát hiện một
cách độc lập bởi William Herschel, người đầu tiên giải mã cụm tinh hình cầu này là hệ sao.
Nhưng mãi cho tới năm 1947, cụm tinh hình cầu này mới được đặt vào hệ thống Messier với
tên M107, và là cụm sao gần đây nhất được thêm vào hệ thống nổi tiếng này. (Hệ thống
Messier được Charles Messier lập ra vào năm 1771 nhằm mục đích ban đầu là đánh dấu các
sao chổi, theo cách nhìn thời đó.ND).
Bức ảnh này là sự kết hợp từ việc phơi sáng với ba màu xanh dương, xanh da trời và gần hồng
ngoại của Camera trường rộng của kính MPG/ESO 2,2m đặt tại đài quan sát La Silla ở Chilê.
Theo Physorg.com
Một cặp sao nơ-trôn đang chuyển động Luke Zoltan Kelley, sinh viên năm cuối
theo quỹ đạo xoáy ốc quanh khối tâm của của UCSC cùng làm việc với Ruiz, là tác
hệ cho đến khi chúng thâm nhập vào nhau giả đứng tên của bài báo mô tả phát kiến
bởi một vụ nổ khủng khiếp, sẽ tạo ra các mới, được xuất bản ngày 10 tháng 12 trong
luồn sóng hấp dẫn có thể dò thấy được. ấn phẩm của Astrophysical Journal Letters
Một nghiên cứu mới được lãnh đạo bởi và hiện đang được đăng tải online.
một sinh viên năm cuối tại phân nhánh
Santa Cruz của trường Đại học California Chìa khóa của tiên đoán này là thuyết
(viết tắt UCSC-giống như phân nhánh đại tương đối tổng quát của Einstein, sóng hấp
học Bách khoa của Đại học Quốc gia ở dẫn là những gợn sóng của bộ khung
VN), lần đầu tiên tiên đoán được nơi mà không thời gian khi có sự chuyển động của
một vụ xâm nhập như vậy xảy ra ở thiên hà các vật nặng trong nó. Các nhà khoa học
địa phương hàng xóm của chúng ta. vẫn chưa dò được sóng hấp dẫn một cách
trực tiếp vì chúng quá yếu và bị phân hủy
rất nhanh, nhưng một kế hoạch vừa được
nâng cấp cho LIGO được chờ đợi sẽ tăng
đáng kể độ nhạy của thiết bị. Những hệ đôi
liên kết như các cặp sao nơ-trôn, 2 lỗ đen
hoặc cả hai loại này tạo thành một cặp là
những ứng cử viên khả dĩ nhất bức xạ sóng
hấp dẫn có thể được dò thấy bởi LIGO
hoặc các thí nghiệm hiện nay.
Tác giả tại nhà vòm chứa bình trụ platinum – iridium định nghĩa kilogram. (Ảnh: BIPM)
Mỗi năm một lần, một nghi thức trang trọng đã một thế kỉ tuổi lại diễn ra tại Cục Cân nặng và
Đo lường Quốc tế (BIPM) ở ngoại ô Paris. Nghi thức diễn ra trong tầng hầm của tòa nhà thí
nghiệm chính thuộc BIPM, nơi có một nhà vòm được bảo vệ bởi ba tầng khóa. Ba chiếc chìa
khóa kiểu cổ, do công dân thuộc ba quốc gia khác nhau nắm giữ, sẽ mở những tầng khóa này.
Nghi thức của năm nay, hôm 13 tháng 10, diễn ra không bình thường. Không phải chỉ giám
đốc BIPM Andrew Wallard (người Anh) và chủ tịch CIPM Ernst Göbel (người Đức) về hưu,
mà đây còn là năm cuối cùng họ là người giữ khóa. Không phải vì người giữ khóa thứ ba,
Claire Béchu thuộc Cục Lưu trữ Pháp, đến trễ một giờ do kẹt xe. Bầu không khí khác đi vì
một sự thay đổi lớn sắp diễn ra: khối trụ kilogram có thể bị gỡ đi và kết thúc sứ mệnh lịch sử
của mình.
BIPM được thành lập bởi Hiệp định Mét vào năm 1875, một mốc son trong lịch sử đo lường,
toàn cầu hóa và hợp tác quốc tế. Nghi thức kiểm tra bắt đầu diễn ra một vài năm sau đó, khi
hai nguyên mẫu quốc tế của BIPM – nguyên mẫu của mét và kilogram – được đưa vào cất giữ
an toàn. Năm 1960, đơn vị mét được định nghĩa lại theo bước sóng của ánh sáng, vì thế đã
truất phế đi thanh mét chuẩn. (Mét được định nghĩa lại một lần nữa vào năm 1983 theo tốc độ
ánh sáng) Trong đa phần thời gian còn lại của thế kỉ 20, các nhà đo lường học thậm chí không
thể dự báo trước khả năng của một sự thay đổi tương tự đối với đơn vị kilogram bằng một
chuẩn tự nhiên.
Tuy nhiên, các công nghệ đang phát triển hiện giờ không những biến điều này thành có thể mà
còn là tất yếu. Một chủ đề nghị sự tại cuộc họp của CIPM năm nay, cuộc họp lần thứ 99, là
phác thảo một giải pháp để năm sau giải trình trước tổ chức mà CIPM báo cáo – Hội nghị
Toàn thể về Cân nặng và Đo lường (CGPM) – lập ra một kế hoạch định nghĩa lại kilogram và
ba đơn vị SI cơ bản khác. Nếu được thông qua, toàn bộ các đơn vị SI rốt cuộc đã được định
nghĩa theo các hằng số tự nhiên.
Tóm lại, khối trụ platinum–iridium có lẽ không còn chỗ đứng trong nhà vòm bao lâu nữa, vì
nó sẽ không còn định nghĩa kilogram nữa. Trong vòng vài năm tới, Wallard hi vọng đưa nó ra
khỏi nơi an toàn đó, đến một phòng thí nghiệm để thực hiện các phép đo nhằm chuyển tiếp
sang một định nghĩa mới.
18 thành viên CIPM thì bận rộn tranh luận xem nên dùng từ ngữ để định nghĩa lại như thế nào
cho hợp lí. Một số người thì muốn ngôn ngữ sử dụng hướng tới công chúng đông đảo, còn
những người khác thì nghiêng về ngôn ngữ kĩ thuật cho các nhà đo lường học chuyên nghiệp,
trong khi số còn lại thì nghĩ định nghĩa nên mang tính kĩ thuật nhưng đi kèm có giải thích chi
tiết.
Cuối cùng, nhóm làm việc đã thống nhất một “phát biểu khái niệm” để định nghĩa lại bằng các
hằng số cơ bản. Ngoài ra, nhóm làm việc còn thống nhất tuyên truyền nhận thức sự định nghĩa
lại và các hệ quả của nó. Một phần của nỗ lực này sẽ diễn ra tại một phiên họp sắp tới của Hội
Hoàng gia ở London trong tháng sau.
Việc định nghĩa lại sắp tới có nghĩa là có rất nhiều quan khách sẽ sắp hàng dài để xem chuẩn
kilogram mới; không chỉ các thành viên CIPM mà cả nhân viên BIPM và một vài khách mời
Bản tin Vật lý tháng 1/2011 – http://www.thuvienvatly.com (39)
ngoài cuộc nữa, kể cả tôi. Trong 121 năm qua, khối trụ này đã thống lĩnh một mạng lưới quốc
tế gồm các đối trọng và các bàn cân có mặt ở mọi nơi, từ các phòng thí nghiệm cấp quốc gia
và các phòng đo lường địa phương cho đến các cửa hàng tạp hóa, bưu điện và dùng trong nhà.
Khối trụ kilogram vừa là một vật, vừa là một thể chế. Và ngày thống trị của nó chỉ còn đếm
ngược mà thôi.
“Thật là nhỏ quá đi!”, nhiều người chen lấn tại cầu thang hẹp dẫn vào căn phòng nhỏ xíu chứa
khối trụ kilogram đã thốt lên như vậy. Thật ra thì khối trụ này chỉ có 39 mm chiều cao thôi.
Một bất ngờ nữa đối với nhiều khán giả - trong đó có tôi – là mặc dù khối trụ được bảo vệ bởi
ba bình hình chuông, nhưng nó không nằm trong chân không. Nguyên mẫu kilogram hóa ra là
bền nhất khi ở trong không khí, và nó có thể phát ra khí thải khi đặt trong chân không. Các vị
quan khách háo hức chụp ảnh bằng camera và điện thoại di động, kiểu công việc họ từng làm
tại bức tranh Mona Lisa trưng trong bảo tàng Louvre bên dòng sông Seine. Không giống như
bức tranh nàng Mona Lisa xinh đẹp, nguyên mẫu kilogram quốc tế không bị ảnh hưởng bởi
đèn flash máy ảnh – mặc dù theo tính toán của tôi, tác phẩm mang tính biểu trưng của danh
họa Leonardo da Vinci ấy, trong một thế kỉ qua, đã chịu nhiều ánh flash máy ảnh hơn nguyên
mẫu kilogram những 15 phút.
Kết luận
Dự thảo của CIPM vẫn phải mang ra tranh luận bởi CGPM tại cuộc họp lần thứ 24 vào tháng
10 năm sau. Nhưng hai công nghệ mới xuất hiện đáp ứng tốt điều kiện bổ sung, và CGPM hi
vọng có những động thái tích cực hướng tới một sự xét lại. “Đó là một bước tiến lớn”, Wallard
nói. “Lần đầu tiên, nó sẽ mang lại một điểm neo cho mọi đơn vị cơ bản thuộc hệ SI gắn liền
với các hằng số cơ bản, từ đó chúng ta có thể xây dựng nên toàn hệ thống”.
Các vị quan khách bắt đầu đi ngược cầu thang ra ngoài, tiến về sảnh tiếp tân phục vụ sâm banh
kiểu truyền thống trong những khu vườn xinh đẹp của BIPM trông ra Paris, với Tháp Eiffel
hiện ra ở đằng xa. Wallard, Göbel và Béchu ghi lại nhiệt độ và độ ẩm tương đối, và kí một văn
bản chứng thực rằng họ đã xác nhận sự có mặt của nguyên mẫu kilogram quốc tế và các bản
sao chính thức của nó. Họ khóa an toàn phòng bảo vệ, đóng và khóa cửa nhà vòm bằng ba
chiếc chìa khóa, bảo vệ tối ưu cho những ngày thống lĩnh cuối cùng của khối trụ kilogram với
vai trò thống soái của mạng lưới cân nặng toàn thế giới, và nó vẫn có một vai trò nhất định
trong việc bổ sung cho một định nghĩa lại trong tương lai.
Khối trụ kilogram có vẻ vẫn ‘trơ gan cùng tuế nguyệt’ theo năm tháng.