Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449
Di sản văn hóa trong thang bậc giá trị toàn cầu qua góc nhìn
của Michael Herzfeld
Đinh Hồng Hải*
Tóm tắt: Trong bản thuyết trình về “Di sản văn hóa cho tương lai: Công ước UNESCO
2003 về Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể”, Frank Proschan (một cựu chuyên gia
UNESCO) cho biết: UNESCO không vinh danh, công nhận di sản văn hóa phi vật thể.
Việc dùng từ “công nhận” di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, di sản văn hóa phi vật
thể nhân loại là chưa hiểu đúng tinh thần Công ước 2003. Bài viết tìm hiểu về hiện tượng
loạn danh hiệu và cấp bằng di sản không chỉ có ở Việt Nam mà còn diễn ra sôi động từ thế
kỷ trước ở Hy Lạp qua một nghiên cứu đặc sắc của Michael Herzfeld, Đại học Harvard,
Hoa Kỳ: Tạo vật vụng về: Nghệ nhân và kỹ xảo trong thang bậc giá trị toàn cầu. Đây là
một nghiên cứu quan trọng của ông về ứng xử với di sản truyền thống của Hy Lạp, chúng
không đơn thuần là những vật trưng bày mà còn thể hiện mặt trái đời sống của nghệ nhân,
những người đã tạo ra các sản phẩm đó. Qua đây, ông chỉ trích việc tạo tác một cách khuôn
sáo (theo mẫu có sẵn) khiến cho các nghệ nhân tại đảo Cret (Hy Lạp) bị mất đi các kỹ xảo
truyền thống nếu đặt trong một “hệ thống phân cấp giá trị toàn cầu”. Quan sát của ông
mang đến cho chúng ta một cách hiểu sâu sắc về các tác động của toàn cầu hóa với ngành
công nghiệp di sản và đời sống xã hội ở Hy Lạp, từ đó soi chiếu vào thực trạng của Việt
Nam hiện nay.
Từ khóa: di sản văn hóa; thang bậc toàn cầu; trục lợi di sản; tạo vật vụng về.
Ngày nhận 22/4/2020; ngày chỉnh sửa 28/7/2020; ngày chấp nhận đăng 28/8/2020
DOI: https://doi.org/10.33100/tckhxhnv6.4.DinhHongHai
nhiên nêu trong Điều 1 và 2 nằm trên lãnh
thổ, là trách nhiệm trước tiên của mình.
Quốc gia này phải nỗ lực hành động tối đa
cho mục đích trên bằng những nguồn lực
sẵn có và nếu có, thì bằng cả sự viện trợ và
hợp tác quốc tế mà nó có thể có được
hưởng, nhất là về mặt tài chính, nghệ thuật,
khoa học và kỹ thuật” (trích Điều 4).
Công ước tiếp theo của UNESCO về Bảo
vệ văn hóa phi vật thể được ban hành ngày
17 tháng 10 năm 2003 (gọi tắt là Công ước
2003). Từ 2003 đến 2019, lần lượt 14 di sản
văn hóa phi vật thể của Việt Nam được ghi
danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật
thể đại diện của nhân loại và Danh sách di
1. Mở đầu
Công ước về Bảo vệ Di sản Văn hóa và
Thiên nhiên thế giới được Đại hội đồng Tổ
chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của
Liên Hợp Quốc (UNESCO) thông qua năm
1972, có hiệu lực từ ngày 17/12/1975 (Việt
Nam chính thức gia nhập Công ước này
ngày 19/10/1987). Công ước xây dựng một
danh sách các di sản văn hoá và thiên nhiên
có giá trị toàn cầu nổi bật “bảo đảm việc xác
định, bảo vệ, bảo tồn, tôn tạo và truyền lại
cho các thế hệ tương lai di sản văn hoá và tự
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG
Hà Nội; email: haidinh@vnu.edu.vn
439
Đinh Hồng Hải / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449
sản văn hoá phi vật thể cần được bảo vệ
khẩn cấp theo Công ước 2003. Các “danh
hiệu di sản” nói trên được cập nhật liên tục
trên các phương tiện truyền thông như
“UNESCO công nhận, UNESCO vinh
danh” (Lan Ngọc 2019; Thơ Phạm 2019),
khiến cho nhiều người Việt Nam cảm thấy
vô cùng tự hào.
Nhưng cũng có những người lo lắng cho
di sản khi chúng bị trùng tu và khai thác
không đúng cách “biến di tích 400 tuổi
thành... 1 ngày tuổi” (Đỗ Doãn Hoàng
2010). Thậm chí biến thành “những di tích 0
tuổi” (Thành Cao 2020) do những sự trục lợi
từ danh hiệu di sản. Liên quan đến cách thức
ứng xử với di sản và sự hiểu biết về di sản ở
Việt Nam, chúng ta cần phải tìm hiểu kinh
nghiệm từ các quốc gia đi trước, mà Hy Lạp
là một trong những quốc gia “giàu” di sản
nhất trên thế giới. Trục lợi từ danh hiệu di
sản chính là những gì đã được trình bày
trong công trình nghiên cứu đặc sắc Tạo vật
vụng về: Nghệ nhân và kỹ xảo trong thang
bậc giá trị toàn cầu của Michael Herzfeld.
Qua đây, chúng ta có thể nhìn thấy một góc
tối của vấn đề bảo tồn di sản của Hy Lạp thế
kỷ XX qua một góc nhìn đối sánh với Việt
Nam trong thế kỷ XXI.
2. Từ body politic đến body impolitic
Body politic1 là một ẩn dụ cổ xưa về một
nhà nước theo quan điểm chính trị (hay tôn
giáo) phương Tây, chỉ một cơ cấu xã hội
hoặc tôn giáo với các bộ phận của nó được
hình thành như cơ thể sinh học của con
người, ngụ ý một sự lãnh đạo có thứ bậc và
sự phân công lao động mang một ý nghĩa
Thuật ngữ này có thể gọi là cơ thể chính trị (hay chính trị cơ
thể) gần giống như cơ chế chính trị hay chính thể ở Việt Nam
hay Trung Quốc trong khoa học chính trị, tuy nhiên, ở đây
chúng tôi không bàn đến khía cạnh này.
1
440
chuyên chế2. Từ quan niệm này, Herzfeld
(2004) sử dụng thuật ngữ body impolitic
nhưng không hướng đến khoa học chính trị
mà là khoa học nhân văn. Nghiên cứu của
ông bàn sâu đến những vấn đề của con
người qua một cộng đồng cư dân ở
Rethemnos thuộc đảo Crete (Hy Lạp). Đại
diện cho cộng đồng này là những thợ thủ
công (craftsman) hay nghệ nhân (artisans),
những người góp phần bảo lưu cái gọi là
“truyền thống Hy Lạp” thông qua kỹ xảo
(artifice) tạo tác các sản phẩm mỹ nghệ. Vấn
đề ông đặt ra là, trong cái “cơ thể chính trị”
của Hy Lạp thập niên 90 của thế kỷ XX,
những sản phẩm đó có thực sự đại diện cho
văn hóa nguyên gốc (genesis) Hy Lạp hay
không? Và cái body impolitic đó, theo cách
ẩn dụ của ông, chính là “tạo vật vụng về” đã
được tạo ra trong bối cảnh đó.
Bằng những chứng cứ xác đáng từ kết
quả điền dã dân tộc học điều tra thực địa tại
Hy Lạp, với một thao tác nhân học hết sức
chuyên nghiệp, ông đã đưa ra những nhận
xét tinh tế, sâu sắc cùng với những cảnh báo
về thực tiễn đời sống của một tầng lớp bên
lề (marginal) được gọi là nghệ nhân bao
gồm cả những người bỏ học hoặc bị đuổi
học (Herzfeld 2004: 13). Họ bị bóc lột bởi
những mánh khóe (crafty) của những kẻ
nắm trong tay sự bá quyền (hegemony) về di
sản để trục lợi bằng việc sản xuất ra những
“tạo vật vụng về”. Những “tạo vật vụng về”
đó được khoác lên mình danh xưng “truyền
thống Hy Lạp”, “di sản cổ đại hay văn minh
2 Kinh Rigveda của Ấn Độ giải thích chính trị bằng cách so sánh
chức tư tế với miệng, binh lính với cánh tay, người chăn cừu đến
đùi và nông dân với đôi chân của loài người. Trong huyền thoại
Aesop của Hy Lạp, các thành viên khác của cơ thể nổi dậy
chống lại cái bụng, mà họ nghĩ là không làm gì trong khi lấy tất
cả thức ăn. Tay, miệng, răng và chân bắt đầu một cuộc đình
công, nhưng sau vài ngày họ nhận ra rằng họ trở nên ốm yếu.
Do đó, họ học được rằng sự hợp tác giữa tất cả các thành viên
của cơ thể, bao gồm cả bụng trở nên rất quan trọng đối với sức
khỏe của cơ thể. Cơ thể chính trị giống như một cơ thể sống, chỉ
hoạt động tốt hơn khi tất cả thực hiện nhiệm vụ được giao và
làm việc cùng nhau. Các thuật ngữ tiếng Anh ở đây là cách dùng
riêng của Michael Herzfeld.
441
Đinh Hồng Hải / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449
châu Âu” với sự đảm bảo của những tổ chức
do nhà nước lập ra như: Hiệp hội doanh
nghiệp nhỏ, vừa và nghề thủ công quốc gia
(National Organization of Small and
Midium Businesses and Handicrafts, viết
tắt: NOSMBH).
Mang trên vai gánh nặng là những người
gìn giữ di sản truyền thống, nhưng trên thực
tế những nghệ nhân này được sử dụng như
những cỗ máy để biến sự nổi tiếng của “xứ
sở các vị thần” Hy Lạp thành sản phẩm du
lịch thương mại. Họ luôn được tán dương
như những “báu vật sống” cho đến lúc hiểu
ra rằng “truyền thống” chính là chiếc cột neo
(tethering post) chặn hy vọng vươn lên của
họ vào cái bệ (pedestal) di sản, để rồi chính
họ cũng trở thành một phần di sản “sống”
của quốc gia (Chương 1). Cái ách vì lợi ích
“quốc gia” tròng vào cổ họ không hề nhẹ
nhưng cũng chẳng hề ngẫu nhiên, đó chính
là sự trục lợi của tầng lớp bá quyền trên sự
ngu muội hóa tầng lớp bần cùng như một
dạng nô lệ thời hiện đại. Dễ dàng nhận thấy,
sự tẻ nhạt trong công việc của những “con
người công cụ” trong ngành “công nghiệp
phục vụ du lịch” đã cho ra đời những tạo vật
vô hồn và vụng về bởi chúng thường được
sao chép từ các mẫu có sẵn (stereotype).
Mặc dù chúng có vẻ ngoài hào nhoáng và
cũng có vẻ hoàn thiện (về kỹ thuật) nhưng
yếu tố nghệ thuật của các sản phẩm phi cảm
hứng này dường như đã bị triệt tiêu
(Chương 2-4).
Không chỉ trục lợi sức lao động của
những người thợ thủ công được gọi bằng
những danh xưng mỹ miều là nghệ nhân hay
thậm chí là bậc thầy (mastora, tiếng Hy
Lạp), giới chủ (elite) ở đây còn trục lợi từ
việc bán rẻ những giá trị cổ truyền huy
hoàng một thời của nền văn minh Hy Lạp
bằng một sự đánh tráo lén lút (stealth) và thủ
đoạn (guile). Chẳng hạn, những trường nghề
hay những triển lãm mỹ nghệ được
NOSMBH tổ chức hàng năm không nhằm
nâng cao giá trị nghệ thuật của sản phẩm
hay tay nghề của nghệ nhân mà thực chất
chỉ để đánh bóng tên tuổi một số người luôn
tỏ ra quan tâm đến cái gọi là truyền thống.
Còn các nhà tổ chức, đứng đầu là
NOSMBH, thì nhận được những khoản giải
ngân vừa nhanh vừa nhiều từ ngân khố của
quốc gia để bày ra những “tạo vật vụng về”
nhưng có lợi cho các nhà chính trị và cho
chính họ(Chương 5-6).
Có thể thấy, từ body politic đến body
impolitic là một ẩn dụ tài tình của Michael
Herzfeld, nó mang đến cho người đọc một
góc nhìn sinh động về thiết chế xã hội Hy
Lạp thập niên 90 của thế kỷ XX qua những
“tạo vật vụng về”. Trong xã hội đó nổi lên
các nhóm lợi ích trục lợi các giá trị truyền
thống nhờ vào sự bá quyền di sản. Bên cạnh
đó, ông mô tả cặn kẽ về những mánh khóe
lừa dối cùng sự đánh tráo các khái niệm như
“di sản” hay “truyền thống” để làm giàu cho
nhóm lợi ích (Chương 7-8). Ba thập niên đã
trôi qua, xã hội Hy Lạp giờ đây đã đổi khác
nhưng những gì là hiện thân của một xã hội
Hy Lạp những năm 90 lại đang trỗi dậy
trong xã hội Việt Nam những thập niên đầu
thế kỷ XXI với vô số vấn đề vừa cũ lại vừa
mới. Có khác chăng chỉ là “truyền thống Hy
Lạp” đã được thay thế bằng “truyền thống
Việt Nam” như một “phiên bản châu Á” với
những vấn đề có liên quan đến di sản, truyền
thống, UNESCO, vinh danh, “cấp bằng”,
v.v...
3. Từ “tạo vật vụng về” ở Hy Lạp đến
“sáng tạo truyền thống” ở Việt Nam
Trong nghiên cứu của mình Herzfeld
(2004) đề cập đến 8 nội dung (i. Bệ đỡ và
cột neo; ii. Đào tạo nghề; iii. Thù nghịch và
liên kết; iv. Sự tham gia của nhà nước; v.
Nhàm chán và lén lút; vi. Liên kết nhà nước;
vii. Nghệ nhân trong thể chế nhà nước và
quốc gia; viii. Giá trị hiện thân). Mỗi nội
Đinh Hồng Hải / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449
dung này đề cập một số khía cạnh hay vấn
đề có liên quan đến thể chế với các mối
quan hệ chằng chịt đến chính trị và kinh tế.
Chẳng hạn như những mánh khóe trong
công việc (crafty at work), quan hệ tạo lợi
thế (engendering power ralations), tạo dựng
ê-kíp (forming association),v.v... từ đó dựng
nên cái gọi là triển lãm truyền thống
(exhibiting tradition). Qua các nội dung trên,
ông giúp người đọc nhận biết giá trị hiện
thân (embodying value) của những tạo vật
vụng về đã hình thành ở Hy Lạp thập niên
90 cùng những con người và nền tảng xã hội
đã tạo ra chúng.
Nghiên cứu của Herzfeld (2004) cũng
nhắc tới khái niệm sáng tạo truyền thống
(invented tradition) trong cuốn sách do Eric
Hosbawm và Terence Ranger chủ biên
(1983). Nhưng có vẻ như sáng tạo truyền
thống của Hy Lạp cuối thế kỷ XX (như
Herzfeld mô tả) còn thua xa sức sáng tạo
truyền thống của Việt Nam những thập niên
đầu thế kỷ XXI với sự đóng góp của nhiều
hội, nhóm có liên quan. Liên hiệp các hội
UNESCO Việt Nam là một trường hợp khá
điển hình, giống với NOSMBH ở Hy Lạp
nhưng tầm ảnh hưởng thì lớn hơn rất nhiều.
Đặc biệt, Liên hiệp này còn “vượt mặt” cấp
quản lý cao nhất để “cấp bằng chứng nhận:
Đền thiêng linh ứng đạt tiêu chuẩn văn hoá
đền thờ Tam, Tứ phủ theo nghi lễ văn hoá
truyền thống Việt Nam” (Minh Tú 2017).
Có thể thấy, việc phong tặng cho các “đền
thiêng” trước đây chỉ nhà vua mới có thẩm
quyền (gọi là sắc phong). Vì vậy, những
chiếc bằng chứng nhận này rõ ràng là một
“tạo vật vụng về” giữa vô số sản phẩm sáng
tạo truyền thống ở Việt Nam.
Cùng với cơn khát “vinh danh” và
“phong tặng”, cơn sốt “kinh doanh tâm linh”
sau hơn nửa thế kỷ vô thần đã khiến nhiều
người Việt Nam bị mê hoặc với các loại
“đền thiêng linh ứng” hay “chùa khủng”
trong khi trên thực tế thì “chiếc áo cà sa
442
không làm nên thầy tu” (Hoàng Hương
2019). Đứng trước nhu cầu ngày càng tăng
của “kinh doanh tâm linh”, hoạt động sáng
tạo truyền thống được dịp phát huy cao độ
với vô số hình thức như kịch bản hóa lễ hội,
du lịch hóa đền chùa, công nghiệp hóa ấnsớ, v.v... Tất cả đều được đáp ứng nhanh
chóng trong một “thị trường tâm linh” tấp
nập nhờ nguồn đầu tư của tầng lớp “elite
nội” (đây là tầng lớp người giàu mới nổi ở
Việt Nam thường được gọi là trọc phú vì
giàu có nhưng lại thiếu “tinh hoa” như tầng
lớp tư sản ở châu Âu).
Dễ dàng nhận thấy, những “tạo vật vụng
về” ở Hy Lạp hơn ba thập niên trước trong
nghiên cứu của Herzfeld (2004), có nhiều
điểm tương đồng kỳ lạ với những sản phẩm
ra đời trong quá trình sáng tạo truyền thống
ở Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ
XXI. Đó là những sản phẩm nhanh - nhiều giá rẻ được tạo ra trong một giai đoạn hỗn
độn về hệ giá trị (do phải đáp ứng cho số
đông). Để nhận diện chúng, thông qua
nghiên cứu của ông, chúng ta có một gợi ý
quan trọng, đó là đánh giá các tạo vật đó
trong thang bậc giá trị toàn cầu (global
hierarchy of value). Nó đóng khung cái gọi
là truyền thống dân tộc (hay quốc gia) và
sản phẩm thủ công truyền thống như những
chứng cứ về một sự “lạc hậu” khó thay đổi
(incurable “backwardness”). Rõ ràng, nếu
không nhìn nhận mỗi tạo vật như vậy trong
một hệ giá trị hay trong thang bậc giá trị
toàn cầu, chúng ta có thể bị rối loạn bởi
những “tạo vật vụng về” và cả những sản
phẩm “không vụng về” nhưng ra đời trong
quá trình sáng tạo truyền thống.
4. Di sản: Bằng cấp, danh hiệu và hiện
trạng của Việt Nam
Trên cơ sở Công ước về Bảo vệ Di sản
Văn hóa và Thiên nhiên thế giới được
UNESCO thông qua năm 1972 và Công ước
Đinh Hồng Hải / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449
443
2003 của UNESCO về Bảo vệ văn hóa Phi
vật thể, cho tới nay, Việt Nam sở hữu một
danh sách di sản bao gồm nhiều thể loại từ
thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển, di sản
vật thể đến di sản phi vật thể như sau:
Bảng: Danh sách di sản của Việt Nam tính đến năm 2019
TT
1
Tên di sản
Vịnh Hạ Long
Năm công nhận
Ngày 17/12/1994
Ngày 02/12/2000
2
3
Vườn Quốc gia Ngày 03/07/ 2003
Phong Nha - Kẻ
Bàng
Khu đền tháp Ngày 01/12/1999
Mỹ Sơn
4
Đô thị Hội An
5
Quần thể di tích Ngày 11/12/1993
Cố đô Huế
6
Khu Di tích Ngày 31/07/2010
Trung
tâm
Hoàng
thành
Thăng Long Hà Nội
7
Thành nhà Hồ
8
Di sản hỗn hợp: Ngày 23/6/2014
Quần thể danh
Ngày 4/12/1999
Ngày 27/06/2011
Phân loại di sản
Vịnh Hạ Long là Di sản thiên nhiên thế giới với giá trị
ngoại hạng về mặt thẩm mỹ.
Vịnh Hạ Long tiếp tục được công nhận là Di sản thiên
nhiên thế giới theo tiêu chuẩn về giá trị địa chất, địa
mạo.
Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng là Di sản thiên
nhiên thế giới với giá trị về địa chất, là một tập hợp
bằng chứng ấn tượng về lịch sử trái đất.
Khu Di tích Chăm Mỹ Sơn là Di sản văn hóa thế giới
với giá trị điển hình nổi bật về sự giao lưu văn hóa với
sự hội nhập vào văn hóa bản địa, những ảnh hưởng bên
ngoài đặc biệt là nghệ thuật kiến trúc Ấn Độ giáo, và
tiêu chí phản ánh sinh động tiến trình phát triển của
văn hóa Chămpa trong lịch sử văn hóa Đông Nam Á.
Đô thị cổ Hội An là Di sản văn hóa thế giới với giá trị
di sản nổi bật của sự kết hợp các nền văn hóa qua các
thời kỳ tại một thương cảng quốc tế và là điển hình
tiêu biểu về một cảng thị châu Á truyền thống được
bảo tồn trọn vẹn.
Khu Di tích Cố đô Huế là Di sản văn hóa thế giới với
giá trị là một bằng chứng nổi bật của quyền lực phong
kiến Việt Nam đã mất đỉnh cao của nó vào đầu thế kỉ
XIX, và là một ví dụ nổi bật của một kinh đô phong
kiến phương Đông.
Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là
Di sản văn hóa thế giới với giá trịlà minh chứng cho sự
giao lưu ảnh hưởng chủ yếu đến từ Trung Quốc ở phía
Bắc và Vương quốc Champa ở phía Nam và tiêu chí
minh chứng cho truyền thống văn hóa lâu đời của
người dân Việt được thành lập ở đồng bằng sông
Hồng, đó là trung tâm quyền lực từ thế kỉ VII cho đến
tận ngày nay, và tiêu chí: liên quan trực tiếp tới nhiều
sự kiện văn hóa - lịch sử quan trọng.
Thành nhà Hồ vào danh mục Di sản văn hóa và thiên
nhiên thế giới với giá trị là biểu hiện rõ rệt của sự giao
thoa, trao đổi quan trọng các giá trị nhân văn giữa Việt
Nam và các quốc gia Đông Á, Đông Nam Á vào cuối
thế kỉ XIV- đầu thế kỉ XX, và tiêu chí là ví dụ nổi bật
về một kiểu kiến trúc hoàng thành biểu hiện cho quyền
lực hoàng gia tiêu biểu ở phương Đông, vừa là một
pháo đài quân sự bề thế, chắc chắn, uy nghiêm.
Tràng An đã trở thành Di sản văn hóa và thiên nhiên
thế giới với giá trị về văn hóa, thẩm mỹ và các giá trị
Đinh Hồng Hải / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449
thắng Tràng An
9
10
Di sản văn hóa Ngày 07/11/2003
phi vật thể: Nhã
nhạc cung đình
Huế
Không gian văn Ngày 15/11/2005
hóa cồng chiêng
Tây Nguyên
11
Dân ca Quan họ Ngày 30/9/2009
Bắc Ninh
12
Ca trù
Ngày 01/10/2009
13
Hội Gióng
Ngày 16/11/2010
14
Hát xoan
Ngày 24/11/2011
15
Tín ngưỡng thờ Ngày 06/12/2012
cúng
Hùng
Vương
Đờn ca tài tử Ngày 5/12/2013
Nam Bộ
16
17
Di sản tư liệu: Ngày 31/7/2009
Mộc bản triều
Nguyễn
18
Bia đá các khoa Ngày 9/3/2010
thi tiến sĩ triều
Lê và Mạc
444
đại chất, địa mạo. Như vậy, Tràng An là di sản hỗn
hợp đầu tiên của Việt Nam được công nhận.
Nhã nhạc cung đình Huế vào danh mục Kiệt tác phi vật
thể và truyền khẩu của nhân loại. Huế song hành một
lúc hai di sản văn hóa vật thể và phi vật thể - đánh dấu
bước ngoặt về giá trị văn hóa vùng đất này.
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là Kiệt
tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại vào. Cồng
chiêng Tây Nguyên rất đa dạng, phong phú, đã đi vào
sử thi Tây Nguyên để khẳng định tính trường tồn của
loại nhạc cụ này.
Dân ca Quan họ là Di sản văn hóa phi vật thể và truyền
khẩu của nhân loại với giá trị là những làn điệu dân ca
của vùng đồng bằng Bắc Bộ, tập trung chủ yếu ở vùng
Kinh Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang) và là thể loại dân
ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong kho tàng dân
ca Việt Nam và được lưu truyền từ đời này sang đời
khác qua phương thức truyền khẩu.
Ca trù là Di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân
loại cần bảo vệ khẩn cấp với giá trị là di sản văn hóa
thế giới có vùng ảnh hưởng lớn nhất ở Việt Nam, có
phạm vi tới 15 tỉnh, thành ở phía Bắc.
Hội Gióng là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại
vào với giá trị là lễ hội truyền thống tưởng nhớ và ca
ngợi chiến công của người anh hùng Thánh Gióng,
một trong Tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt
Nam.
Hát xoan - Phú Thọ là Di sản văn hóa phi vật thể và
truyền khẩu của nhân loại vào với những giá trị cộng
đồng trong việc sáng tạo và truyền dạy từ đời này qua
đời khác. Hát Xoan đã tồn tại hơn 2.000 năm, là di sản
văn hóa dân gian hết sức quý báu.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ là Di
sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại với giá
trị giáo dục đạo lý truyền thống dân tộc.
Nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ là Di sản văn hóa phi
vật thể của nhân loại với giá trị được trao truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác và liên tục được tái tạo thông
qua trao đổi văn hóa, thể hiện sự hòa hợp văn hóa và
tôn trọng văn hóa riêng của các cộng đồng, dân tộc.
Mộc bản triều Nguyễn là di sản tư liệu thế giới đầu tiên
của Việt Nam, gồm 34.618 tấm, là những văn bản chữ
Hán - Nôm được khắc ngược trên gỗ để in ra các sách
tại Việt Nam vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
82 tấm bia tiến sĩ của các khoa thi dưới triều Lê - Mạc
(1442-1779) tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) là
Di sản tư liệu thế giới. Đây là những tấm bia tiến sĩ
duy nhất trên thế giới có bài ký (văn bia) không chỉ lưu
danh những tiến sĩ đã thi đỗ trong các kỳ thi trải dài
suốt gần 300 năm (từ 1442 đến 1779) mà còn ghi lại
445
Đinh Hồng Hải / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449
19
Mộc bản chùa Ngày 16/5/2012
Vĩnh Nghiêm
20
Châu bản triều Ngày 14/5/2014
Nguyễn
21
Công viên Địa Ngày 3/10/2010
chất toàn cầu:
Công viên đá
Đồng Văn (Cao
nguyên đá Đồng
Văn)
Dân ca ví, giặm Ngày 27/11/2014
Nghệ Tĩnh
22
23
Nghi lễ Kéo co Ngày 02/12/2015
ở Việt Nam
24
Tín ngưỡng thờ Ngày 1/12/2016
Mẫu Tam phủ
25
Nghệ thuật Bài Ngày 7/12/2017
chòi Trung Bộ
26
Nghi lễ then Ngày 12/12/2019
Tày, Nùng, Thái
lịch sử các khoa thi và triết lý của triều đại về nền giáo
dục và đào tạo, sử dụng nhân tài, do đó có tác động to
lớn đối với xã hội đương thời và hậu thế.
Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm là Di sản tư liệu Ký ức thế
giới khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Chùa Vĩnh
Nghiêm hiện lưu giữ và bảo tồn nhiều bộ ván kinh
Phật, kho Mộc bản còn lưu hơn 10 đầu sách với 3.050
bản khắc.
Châu bản triều Nguyễn là Di sản tư liệu Chương trình
Ký ức thế giới khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của
UNESCO.
Cao nguyên đá Đồng Văn là Công viên Địa chất toàn
cầu với hàng loạt di sản về địa chất, địa tầng, kiến trúc
cùng những nét văn hóa độc đáo của đồng bào vùng
cao3
Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh của Việt Nam là Di sản văn
hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Phạm vi di sản
gồm 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
Nghi lễ và Trò chơi kéo co ở Việt Nam, Campuchia,
Hàn Quốc, Philippines là Di sản văn hóa phi vật thể
của nhân loại. Di sản này ở Việt Nam thuộc sở hữu của
các công đồng Kinh, Tày, Nùng, Giáy, Thái, v.v. ở
nhiều địa phương như Vĩnh Phúc, Lào Cai, Hà Nội,
Bắc Ninh, v.v..
Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người
Việt là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân
loại. Phạm vi di sản gồm 21 tỉnh: Nam Định, Hà Nam,
Ninh Bình, Hà Nội, Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên,
Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Phú Thọ, Lạng
Sơn, Hòa Bình, Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang,
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế và
Thành phố Hồ Chí Minh.
Nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ Việt Nam là Di sản văn
hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Phạm vi di sản
gồm 9 tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế,
Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
Yên, Khánh Hòa.
Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt
Nam là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân
loại. Phạm vi di sản gồm 11 tỉnh: Lạng Sơn, Hà Giang,
Cao Bằng, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc
Giang, Quảng Ninh, Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu.
(Thơ Phạm 2019)
Bản danh sách 21 di sản được Quỹ Hỗ trợ bảo tồn Di sản văn hóa Việt Nam liệt kê. Tuy nhiên, tính tới hết năm 2019,
danh sách này cần bổ sung thêm 5 di sản (từ số thứ tự 22 đến 27).
3
Đinh Hồng Hải / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449
Nhìn vào danh sách trên, dễ dàng nhận thấy,
di sản ở Việt Nam vô cùng phong phú với nhiều
thể loại và được phân bố ở nhiều tỉnh và thành
phố. Có thể nói, các di sản đó chính là tài sản to
lớn của quốc gia đã được thiên nhiên ban tặng,
đó cũng là tài sản của nhiều thế hệ cha ông xây
dựng và gìn giữ. Trước khi được đưa vào danh
sách di sản của UNESCO, các di sản đó vẫn tồn
tại “tự nhiên” trong đời sống cộng đồng. Nhưng
sau khi được UNESCO “công nhận,” nhiều tổ
chức xã hội nghề nghiệp ở Việt Nam nhận ra có
rất nhiều người say mê các danh hiệu và bằng
cấp. Họ đã nắm bắt thời cơ này để “cấp các loại
bằng” có liên quan đến di sản và văn hóa, đáp
ứng nhu cầu của một “bộ phận không nhỏ”
trong xã hội: Hội Nghệ nhân và Thương hiệu
cấp bằng Nữ hoàng văn hóa tâm linh cho một
“cô đồng” và hơn 20 loại “Nữ hoàng” khác...4;
Hội Kỷ lục gia Việt Nam cấp bằng cho các thứ
không chỉ là “dài nhất, to nhất” (Hà Đình
Nguyên 2013); Hội Văn nghệ Dân gian Việt
Nam cấp bằng Nghệ nhân dân gian,v.v... Vượt
lên trên nhiều hội và hiệp hội khác, Liên hiệp
các hội UNESCO Việt Nam cấp bằng cho nhiều
loại, từ con người (như nghệ nhân, nhà khoa
học, v.v...) đến sinh vật (như cây cối - cây cảnh,
cây “di sản”!) và cả đồ vật (như cổ vật, v.v.).5
Đúng như Bà Nguyễn Thị Yên (Viện Nghiên
cứu Văn hóa, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội
Việt Nam) nhận xét: “Đó là tình trạng loạn danh
hiệu, loạn hình thức tôn vinh. Nhiều đơn vị
không hề có chuyên môn hay hoạt động nghiên
cứu liên quan đến Tín ngưỡng thờ Mẫu vẫn tự
tổ chức các chương trình vinh danh, liên hoan
tại nước ngoài. Đặc biệt, gây bức xúc trong dư
luận xã hội là hiện tượng loạn bằng chứng nhận,
4 Như Nữ hoàng ngoại giao, Nữ hoàng thương hiệu ngành may
mặc, Nữ hoàng mỹ phẩm, Nữ hoàng thực phẩm, Nữ hoàng
ngành than, Nữ hoàng sản xuất nội thất, Nữ hoàng thủy sản, Nữ
hoàng khoáng sản, Nữ hoàng nhiếp ảnh, Nữ hoàng vận tải, Nữ
hoàng dệt may, Nữ hoàng xây dựng, Nữ hoàng kim hoàn đá quý,
v.v. (Minh Tuấn 2019).
5 Dường như việc bao quát cả ba lĩnh vực Văn hóa - Khoa học Giáo dục dành cho Văn phòng UNESCO Hà Nội là quá lớn. Vì
vậy Hiệp hội Câu lạc bộ UNESCO Việt Nam (ra đời ngày
3/8/1993, nay là Liên hiệp các hội UNESCO Việt Nam) với
hàng nghìn thành viên lấn át Văn phòng UNESCO Hà Nội ở
nhiều lĩnh vực (V. V. Tuân 2017).
446
loạn nghệ nhân. Mặc dù Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch giữ quyền cấp Bằng xếp hạng các di
tích Tín ngưỡng thờ Mẫu nhưng vẫn có nơi tự ý
cấp bằng chứng nhận” (Linh Tâm 2020).
Trong một bài giảng cuối năm 2019, Frank
Proschan, một nhà Việt Nam học có thâm niên
hơn 30 năm, từng là điều phối viên văn hóa phi
vật thể của UNESCO, khẳng định rằng
UNESCO không hề “phân cấp”, “công nhận”
hay “cấp bằng” cho di sản mà chỉ là sự “xác
nhận” hay “ghi danh” giá trị văn hóa của chính
cộng đồng sở hữu di sản đó (Vương Anh 2019).
Ông khẳng định: “Không có di sản văn hóa phi
vật thể của quốc gia hay của nhân loại mà chỉ có
di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng một
nhóm người tại một quốc gia nào đó” và cũng
“không có điều khoản nào của Công ước 2003
quy định về việc xếp hạng di sản văn hóa phi
vật thể. Chính vì thế, cái cách xếp hạng di sản
văn hóa phi vật thể theo cấp tỉnh, cấp quốc gia
hay cấp thế giới (nhân loại) chỉ là sự sáng tạo
(Bình Thanh 2020). Vậy sự ghi nhận của
UNESCO đối với di sản là gì? Các di sản do ai
sở hữu? Ai có quyền khai thác di sản? Bảo tồn
và khai thác di sản như thế nào để hướng tới
phát triển bền vững? Đây là những vấn đề cần
được nhìn nhận lại để hướng tới phát triển bền
vững như Mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp
quốc đã đề ra (United Nations Development
Programme - UNDP 2015). Trước khi những
vấn đề nói trên diễn ra ở Việt Nam, với một góc
nhìn đa diện và mang tính toàn cầu Michael
Herzfeld đã đề cập đến thực trạng của Hy Lạp
hơn ba thập niên trước. Những vấn đề diễn ra
trong xã hội Hy Lạp từ thế kỷ trước nhưng lại
có sự tương đồng kỳ lạ với những gì đang diễn
ra ở Việt Nam. Học hỏi từ những gì mà Hy Lạp
từng trải qua chính là cách tốt nhất để chúng ta
rút ra bài học cho Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.
5. Hướng đi nào cho bảo tồn di sản và
phát triển bền vững?
Trong một cuốn sách xuất bản gần đây,
đề cập đến vấn đề bảo tồn các giá trị văn hóa
bản địa ở Việt Nam và Đông Nam Á, Gabor
447
Đinh Hồng Hải / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449
Vargyas (Đại học Pecs, Cộng hòa Hungary,
từng là một chuyên gia của UNESCO
nghiên cứu về Lào và Việt Nam) cho rằng
“nếu chúng ta muốn bảo tồn được các giá trị
văn hóa phi vật thể, ta sẽ phải lưu giữ cả
những con người tạo ra nó và có khả năng sẽ
tiếp tục phát huy nó” (2018: 13). Điều này
không chỉ đúng với văn hóa phi vật thể mà
còn đúng với nhiều loại hình di sản văn hóa
khác đang được con người lưu giữ. Vì vậy,
nếu một quốc gia không có các nghệ nhân
nối nghiệp thì nhiều di sản của quốc gia đó
sẽ không được bảo tồn. Nhưng nếu các nghệ
nhân được đào tạo một cách “lén lút” và
“xảo trá” (stealth & guile, như Herzfeld
(2004) đã đề cập) thì tình trạng nhàm chán
của họ chắc chắn chỉ sản xuất ra các “tạo vật
vụng về”, chúng sẽ trở thành những tạo vật
mất giá hay vô giá trị (bodies devalued). Để
tìm một hướng đi cho vấn đề bảo tồn di sản
trong giai đoạn hiện nay, không riêng Hy
Lạp mà Việt Nam cũng đang vật lộn để tìm
cách bảo vệ các “giá trị đích thực” của di
sản trong bối cảnh toàn cầu hóa. Một trong
những bước đi đầu tiên (và cũng là cách làm
phổ biến nhất hiện nay) là lập hồ sơ đệ trình
UNESCO ghi danh vào danh sách di sản.
Nhưng cho dù có được ghi danh vào danh
sách này thì điều đó cũng sẽ không giúp ích
gì cho việc bảo tồn di sản nếu như cộng
đồng (hay quốc gia) sở hữu lại hiểu sai về di
sản hoặc hiểu nhầm mục đích của
UNESCO. Quá trình sáng tạo truyền thống
luôn tạo ra những “tạo vật vụng về” vì kỹ
xảo của các “nghệ nhân” đã trở thành mánh
khóe (crafty), không còn giống như những
kỹ xảo đích thực mà cha ông họ đã làm. Vì
vậy, muốn bảo vệ các “giá trị đích thực” của
di sản, trước hết chúng ta cần phải hiểu rõ về
chúng trong thang bậc giá trị toàn cầu mà
Michael Herzfeld đã đề cập. Đúng như ông
đã nhận định, di sản chính là những truyền
thống địa phương thẩm thấu trong văn hóa ở
mọi nơi, nhưng biểu hiện của chúng rất khác
nhau (do chúng đã địa phương hóa). Đối
sánh với chúng là các giá trị mang tính toàn
cầu như hiệu quả (efficiency), xã hội dân sự
(civil society), nhân quyền (human right),
minh bạch (transparency), bao dung
(tolerance), v.v.. Trong hệ giá trị của di sản
thì sự đa dạng (diversity) chính là một giá trị
toàn cầu quan trọng nhất, tính chất ngày
càng đồng nhất của ngôn ngữ văn hóa và
đạo đức tạo thành thang bậc giá trị toàn cầu
(Herzfeld 2004: 2). Dễ dàng nhận thấy, sự
đa dạng ở đây chính là một đặc tính đối lập
với các mẫu có sẵn (stereotype) đang được
sao chép tràn lan ở Việt Nam hay ở Hy Lạp
thập niên 90 như ông đã chỉ ra trong nghiên
cứu của mình.
Cùng với bảo tồn di sản thì phát triển bền
vững là một cụm từ luôn được nhắc đến
trong nhiều văn kiện của Liên Hợp Quốc và
các quốc gia thành viên trong những thập
niên qua. Theo đó, bảo tồn di sản để phát
triển bền vững là một mục tiêu quan trọng
không chỉ của Hy Lạp hay Việt Nam mà của
cả thế giới. Nhưng dường như vấn đề “bá
quyền di sản” (như Herzfeld (2004) đã
dùng) lại chưa được nhiều người biết tới.
Rất khó để các quốc gia sở hữu nhiều di sản
như Hy Lạp và Việt Nam có thể phát triển
bền vững nếu như di sản luôn nằm trong tay
một nhóm lợi ích nắm trong tay bá quyền, vì
sự trục lợi di sản là điều hiển nhiên sẽ xảy
ra. Từ sự đối sánh giữa các nghệ nhân những người bên lề (marginality) với nhóm
bá quyền, Michael Herzfeld cho chúng ta
thấy giá trị hiện thân của những “tạo vật
vụng về” đã được tạo ra trong một bối cảnh
xã hội thập niên 90 của Hy Lạp (2004: 204).
So với Hy Lạp, Việt Nam có may mắn hơn
là nhiều nghệ nhân ở các làng nghề hiện nay
vẫn giữ được niềm đam mê, sự hào hứng đối
với việc tạo ra các sản phẩm như cha ông họ
từng làm ra với nhiều làng nghề thủ công
truyền thống vẫn tồn tại mà không cần đến
các tổ chức bảo trợ (như NOSMBH ở Hy
Lạp). Cho dù các sản phẩm đó có được đưa
Đinh Hồng Hải / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449
vào danh sách di sản hay không thì đối với
họ không quá quan trọng. Điều quan trọng
hơn (và đơn giản là) những nghệ nhân vẫn
luôn muốn giữ gìn nghề nghiệp của cha ông
trao lại như một sinh kế mà chẳng quan tâm
nhiều đến danh hiệu của các hiệp hội phong
tặng.
Trở lại với những câu hỏi đã đặt ra ở
phần mở đầu, có thể thấy UNESCO ghi
danh các di sản (vào danh sách) để các quốc
gia sở hữu có trách nhiệm hơn với chính di
sản của họ “nhằm bảo vệ, phát triển và phát
huy di sản văn hóa” (Điều 13, Công ước
2003). Nhưng với các câu hỏi: Các di sản do
ai sở hữu? Ai có quyền khai thác di sản?
Khai thác di sản như thế nào? và Bảo tồn di
sản như thế nào để hướng tới phát triển bền
vững?, v.v. phải do chính các quốc gia sở tại
trả lời. Bởi vì đó là tài sản của người dân tại
quốc gia của họ. Những di sản này trở thành
những “tạo vật vụng về” hay những “tạo vật
có giá trị” trong thang bậc toàn cầu sẽ tùy
thuộc vào quy trình quản lý các di sản đó.
Liệu UNESCO có nên tạm dừng ghi nhận di
sản của Việt Nam cho đến khi chính chúng
ta nhận thức được giá trị đích thực của di
sản? Câu trả lời xin nhường lại cho Văn
phòng UNESCO Hà Nội và các cơ quan có
liên quan. Hy vọng, Việt Nam không “giẫm
vào vết xe đổ” của Hy Lạp hơn ba thập niên
về trước với những “tạo vật vụng về”.
Tài liệu trích dẫn
Bình Thanh. 2020. “Bé cái nhầm” phân hạng di
sản văn hóa phi vật thể? Báo Giáo dục & thời
đại (https://giaoducthoidai.vn/van-hoa/be-cainham-phan-hang-di-san-van-hoa-phi-vat-the4056125-b.html). Truy cập 12/2/2020.
Đỗ Doãn Hoàng. 2010. “Biến di tích 400 tuổi
thành... 1 ngày tuổi”. Báo Dân trí
(https://dantri.com.vn/xa-hoi/bien-di-tich-400tuoi-thanh-1-ngay-tuoi-1285508401.htm). Truy
cập 20/12/2020.
448
Hà Đình Nguyên. 2013. “Kỷ lục không chỉ là “dài
nhất,
to
nhất”.
Báo
Thanh
niên
(https://thanhnien.vn/van-hoa/ky-luc-khongchi-la-dai-nhat-to-nhat-36634.html). Truy cập
12/2/2020.
Herzfeld Michael. 2004. The body Impolitic:
Artisans and Artifice in the Global Hierarchy
of Value (Tạo vật vụng về: Nghệ nhân và kỹ
xảo trong thang bậc giá trị toàn cầu). Chicago
and London: The University of Chicago Press.
Hoàng Hương 2019. “GS-TS. Trần Ngọc Vương:
Xây chùa thu tiền khủng là kinh doanh tài sản
quốc
gia”.
Người
đô
thị
https://nguoidothi.net.vn/gs-ts-tran-ngocvuong-xay-chua-thu-tien-khung-la-kinh-doanhtai-san-quoc-gia-20258.html.
Truy
cập
12/9/2020.
Hobsbawm Erich, Ranger, Terence. eds. 1983.
The Invention of Tradition (Sáng tạo truyền
thống).
Cambridge
University
Press
(http://psi424.cankaya.edu.tr/uploads/files/Hob
sbawm_and_Ranger_eds_The_Invention_of_Tr
adition.pdf). Truy cập 12/9/2020.
Lan Ngọc. 2019. “Việt Nam có bao nhiêu di sản
văn hóa thế giới được UNESCO công nhận?”,
Infonet
(https://www.24h.com.vn/du-lich24h/viet-nam-co-bao-nhieu-di-san-van-hoathe-gioi-duoc-unesco-cong-nhanc76a1027477.html). Truy cập 28/7/2020.
Linh Tâm. 2020. “Ngăn chặn những hệ lụy, biến
tướng”.
Báo
Hà
Nội
mới
(http://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Vanhoa/961553/ngan-chan-nhung-he-luy-bientuong?fbclid=IwAR1FeqKDCwLUIbMdlT_21a
UUBG2bDOeY0MhjshfhdWoGSXja2CBJmJSQWY). Truy cập 21/3/2020.
Minh Tú. 2017. “Sau lùm xùm ca sĩ Ngọc Sơn
được 'phong' Giáo sư, kiến nghị Thủ tướng
chấn chỉnh việc tự phát phong danh hiệu”. Báo
Phụ nữ (https://www.phunuonline.com.vn/saulum-xum-ca-si-ngoc-son-duoc-phong-giao-sukien-nghi-thu-tuong-chan-chinh-viec-tu-phatphong-dan-a50682.html). Truy cập 9/2/2020).
Minh Tuấn. 2019. “Hơn 20 người được Hội Nghệ
nhân và Thương hiệu phong 'Nữ hoàng'”. Báo
Lao động (https://cungcau.vn/hon-20-ca-nhanduoc-hoi-nghe-nhan-va-thuong-hieu-viet-namphong-nu-hoang-d178467.html). Truy cập
12/2/2020.
449
Đinh Hồng Hải / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449
Thành Cao. 2020. “Những di tích 0 tuổi”. Trí thức
Việt
Nam
(https://trithucvn.net/blog/xaluan/nhung-di-tich-0-tuoi.html). Truy cập
20/2/2020.
Thơ Phạm. 2019. “Những di sản văn hóa ở Việt
Nam được UNESCO vinh danh”. Quỹ Hỗ trợ
bảo tồn Di sản văn hóa Việt Nam
(https://quydisan.org.vn/nhung-di-san-vanhoa-viet-nam-duoc-unesco-vinh-danh.html).
Truy cập 19/12/2019.
UNESCO. 1972. Công ước về Bảo vệ Di sản văn
hóa và Thiên nhiên thế giới (Công ước Di sản
Thế giới 1972). Đại hội đồng Tổ chức Giáo
dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc
thông
qua
ngày
27/11/1972
(https://thuvienphapluat.vn/van-ban/van-hoaxa-hoi/Cong-uoc-bao-ve-di-san-van-hoa-va-tunhien-the-gioi-UNESCO-Paris-16-11-197268509.aspx). Truy cập 20/2/2020.
UNESCO. 2003. Công ước Bảo vệ văn hóa Phi
vật thể. Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa
học và Văn hóa của Liên Hợp quốc thông qua
ngày
17/10/2003
(http://www.unesco.org/new/fileadmin/MULTI
MEDIA/FIELD/Hanoi/pdf/Convention_2003.p
df). Truy cập 20/2/2020.
UNDP. 2015. Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ
(Millennium
Development
Goals),
(https://www.vn.undp.org/content/vietnam/vi/h
ome/library/mdg.html). Truy cập 20/2/2020.
V. V. Tuân. 2017. “UNESCO Việt Nam phản ứng
kiến nghị 'dẹp loạn' danh hiệu”. Báo Tuổi trẻ,
(https://tuoitre.vn/lien-hiep-cac-hoi-unesco-vnphan-ung-ve-kien-nghi-dep-loan-danh-hieu2017091017175906.htm). Truy cập 12/2/2020.
Vargyas Gabor. 2018. Bất chấp định mệnh: Văn
hóa và phong tục, tập quán của người Bru-Vân
Kiều, (Giáp Thị Minh Trang dịch). Hà Nội:
Nhà xuất bản Dân trí.
Vương Anh. 2019. “Hiểu đúng các khái niệm về
di sản văn hóa phi vật thể”. Báo Thời nay
(https://nhandan.com.vn/baothoinay/baothoina
y-xahoi/baothoinay-xahoivande/item/42696402-hieu-dung-cac-khainiem-ve-di-san-van-hoa-phi-vatthe.html?PageSpeed=noscript).
Truy
cập
2/2/2020.