VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRONG CÁC BÀI HÁT LƯỢN CỦA
NGƯỜI NÙNG Ở HUYỆN XÍN MẦN, TỈNH HÀ GIANG*
Nguyễn Thu Quỳnha
Sùng Seo Lítb
Đại học Sư phạm Thái Nguyên
a
Email: nguyenthuquynh@dhsptn.edu.vn
b
Email: sunglit89@gmail.com
Ngày nhận bài: 25/5/2019
Ngày phản biện: 2/6/2019
Ngày tác giả sửa: 7/6/2019
Ngày duyệt đăng: 12/6/2019
Ngày phát hành: 21/6/2019
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/312
ũng như tất cả các dân tộc anh em trên đất nước Việt
Nam, người Nùng có những nét văn hóa, văn nghệ đặc
sắc riêng làm nên sắc màu đa dạng cho 54 dân tộc Việt Nam.
Trong vốn văn nghệ truyền thống của dân tộc Nùng, hát lượn
chính là một trong những di sản văn hóa mà người Nùng đã
dày công xây dựng từ thời “trời làm nạn hồng thủy/ gây mưa to
nước lớn” và truyền qua các thế hệ cho đến ngày nay. Nội dung
chính của bài viết tập trung vào việc tìm hiểu đặc điểm ngôn
ngữ trong các bài hát lượn của người Nùng ở phương diện hình
thức và ngữ nghĩa. Tư liệu của bài viết là 17 bài hát lượn của
người Nùng do cộng tác viên Sùng Seo Chỉ và Sùng Già Sang
ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang cung cấp. Các tư liệu này đã
được nhóm tác giả ghi âm, phiên âm, dịch nghĩa, dịch văn học
và văn bản hóa để phục vụ cho việc nghiên cứu.
Từ khóa: Hát lượn; Người Nùng; Đặc điểm ngôn ngữ;
Huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang.
C
1. Đặt vấn đề
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, trong đó
có 53 dân tộc thiểu số, chiếm khoảng 13% dân số
cả nước. Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ, văn hóa
và phong tục tập quán riêng tạo nên bức tranh đa
sắc màu cho cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Trong đó, dân tộc Nùng có số dân là 968.800 người
(2009), đứng thứ 7 về dân số trong 54 dân tộc ở
Việt Nam. Đây là dân tộc có vốn văn hóa, văn nghệ
truyền thống phong phú, giàu bản sắc. Một trong
những điểm làm nên nét đặc sắc trong văn hóa
của người Nùng chính là những làn điệu hát lượn
truyền thống. Từ việc tìm hiểu về đặc điểm ngôn
ngữ trong các bài hát lượn của người Nùng ở huyện
Xín Mần, tỉnh Hà Giang, bài viết phân tích rõ giá
trị nghệ thuật của các bài hát lượn của người Nùng;
từ đó góp phần tôn vinh những nét đặc sắc về mặt
văn học nghệ thuật của dân tộc Nùng ở huyện Xín
Mần, tỉnh Hà Giang nói riêng và đồng bào dân tộc
Nùng trên lãnh thổ Việt Nam nói chung. Kết quả
nghiên cứu của bài viết sẽ cung cấp những tư liệu
bổ ích cho việc tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc
Nùng; phục vụ cho việc xây dựng chương trình và
nội dung giảng dạy môn học tự chọn Tiếng dân
tộc; cung cấp ngữ liệu phục vụ cho việc biên soạn
chương trình văn học địa phương ở khu vực miền
núi phía Bắc, nhằm đáp ứng được yêu cầu của
chương trình giáo dục phổ thông mới thực hiện
từ năm 2020.
2. Hát lượn của người Nùng ở huyện Xín
Mần, tỉnh Hà Giang.
2.1. Vài nét về lượn, hát lượn của người Nùng
ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang
Lượn là tên gọi các làn điệu dân ca của người Thái,
Tày và một số ngành Tày, Nùng. Theo nhà nghiên
cứu Vương Toàn, “lượn” mang hai nghĩa. Nghĩa
rộng: lượn chỉ toàn bộ kho tàng dân ca người Tày
- Nùng, bao gồm cả then (lượn then), hát đám cưới
(lượn quan làng), phuốc pác (lượn phuốc pác) và
phong slư (lượn phong slư)… Nghĩa hẹp: lượn là
những điệu hát giao duyên chỉ riêng của người Tày,
Nùng, người Thái. Phổ biến hơn cả là cách gọi tên
lượn theo nghĩa hẹp, tức là bộ phận hát giao duyên
đối đáp.
Người Nùng ở Xín Mần gọi loại hình dân ca
trữ tình của họ là lượn, một điệu hát tương tự như
hát ví, hát quan họ của người Kinh. Nội dung của
những điệu hát lượn thường đề cập đến mọi mặt
của đời sống sinh hoạt; ca ngợi cảnh giàu đẹp
của quê hương; ca ngợi cuộc sống lao động, sản
xuất; bộc lộ tình cảm nam nữ… Trong quá trình
tồn tại và phát triển, hát lượn luôn có mặt trong
đời sống của người Nùng, không chỉ như một nét
* Bài viết là sản phẩm của đề tài khoa học cấp Nhà nước: “Nghiên cứu chính sách và giải pháp bảo tồn những ngôn ngữ dân
tộc thiểu số có nguy cơ mai một”, mã số: ĐTĐLXH – 01/18
Volume 8, Issue 2
123
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
văn hóa mà còn mang tính chất tâm linh, nghi lễ
như: hát mừng đám cưới, lên nhà mới, hát giao
duyên, hát trong các lễ hội cầu mùa đầu xuân
của người Nùng… Lời ca tạo không khí phấn
khởi, sảng khoái, giúp cho con người có được
niềm vui, thêm tin yêu cuộc sống. Người ta có thể
hát bất cứ lúc nào, chỗ nào, miễn là có đối tượng
hát. Trước khi hát, họ phải bắt chuyện với nhau,
nếu thấy hợp, ăn ý thì sẽ hỏi thăm nhau qua những
câu lượn. Chính vì vậy, tiếng hát lượn vẫn được lưu
truyền mãi cho đến hôm nay.
Từ lâu, huyện Xín Mần vẫn được biết đến là nơi
có phong trào hát lượn sôi nổi nhất so với các địa
bàn khác trong tỉnh. Trước đây, hầu hết người Nùng
sinh sống trên địa bàn huyện Xín Mần ai cũng biết
hát lượn. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác
nhau, phong trào hát lượn ở đây ngày càng bị mai
một và đang rất cần được phục dựng, bảo tồn. Hiện
nay, chỉ còn một số ít người Nùng ở Xín Mần lưu
giữ được trong trí nhớ những bài “lượn” cổ. Phần
lớn các nghệ nhân tuổi đã cao, chỉ còn một số ít
đủ minh mẫn và có khả năng truyền dạy. Những
văn bản liên quan đến các bài lượn cũng còn lại rất
hiếm, chủ yếu là những bản chép tay đã nhàu nát
theo thời gian.
2.2. Đặc điểm ngôn ngữ trong các bài hát lượn
của người Nùng ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang
xét về mặt hình thức
2.2.1. Kết cấu của một bài hát lượn
a. Đặc điểm về tính liên kết và mạch lạc trong
các bài hát lượn
Về hình thức, hát lượn chủ yếu được sáng tác
theo thể văn vần, dựa trên đó người hát có thể hát.
Lời thơ dùng để hát và giai điệu lời hát được căn cứ
vào từng thể thơ, còn nhạc đệm thì phụ thuộc vào
từng giai điệu hát. Như vậy, lời là thành phần quan
trọng tạo nên nghệ thuật biểu diễn âm nhạc trong
hát lượn. Điều đầu tiên dễ nhận thấy nhất là đa số
các bài hát lượn đều được viết theo thể 5 chữ, mỗi
bài hát thường có rất nhiều câu. Nhìn khái quát, rõ
ràng tính chất “không ngắn gọn” là một đặc điểm dễ
nhận thấy nhất và bao trùm trong hát lượn. Có bài lên
đến hàng trăm câu, mỗi câu hát lại có sự ngắt nhịp,
ngân nga rất dài.
Trong kết cấu các bài hát lượn, một số bài có
cấu trúc tựa như một câu chuyện, có đầu có cuối,
có những tình tiết của sự kiện (có thể gọi là “cốt
truyện”). Câu chuyện ấy được thuật qua lời thoại
của người hát, đây chính là một yếu tố tạo nên tính
liên kết trong văn bản hát lượn. Đó là những tích
truyện gắn liền với đời sống văn hóa, tín ngưỡng
của người Nùng.
Thông qua bài hát lượn dưới đây, chúng ta thấy
yếu tố cốt truyện được thể hiện một cách rõ nét. Đó
là một câu chuyện có mở đầu – diễn biến – kết thúc.
Mỗi một phần đều được miêu tả chi tiết, rõ ràng.
124
Chẳng hạn, trong bài Tẳng rân (Lượn làm nhà),
ở phần mở đầu đã nói:
Rọt shuông máy này
Từ khi đó trở về
ma
Shiêng rao bộ ẩu ha
Không lấy cỏ lợp nhà
Cha ran bộ ẩu thọc
Không lấy lạt buộc nữa
Thời xa xưa, người Nùng làm nhà lợp bằng cỏ,
bằng lá và dùng những dây lạt để buộc chúng lại
với nhau. Trong ba câu mở đầu của bài hát lượn về
làm nhà đã có hai từ bộ ẩu (không lấy) được lặp lại
trong câu Shiêng rao bộ ẩu ha và câu Cha ran bộ ẩu
thọc. Đó là một lời khẳng định cuộc sống từ đó trở
về sau đã có sự thay đổi, không còn lấy những vật
liệu trước kia để làm nhà nữa. Mở đầu bằng cách
liên tưởng, so sánh, kể lại về quá khứ góp phần làm
cho người nghe cảm thấy tò mò, hứng thú để nghe,
để biết diễn biến về sau như thế nào.
Một đặc tính khác cũng dễ nhận thấy trong các
bài hát lượn là sự lặp lại (còn gọi là “trùng điệp”).
Tính lặp lại trong văn bản hát lượn cũng được xem
như một phương tiện quan trọng để liên kết văn
bản. Tính lặp ở đây biểu biểu hiện ở cả ba thành tố
trong văn bản: Lặp từ, lặp ngữ và lặp cấu trúc.
Mỗi bài hát lượn đều có lặp từ, số lượng từ được
lặp lại phụ thuộc vào nội dung mà bài hát lượn đề
cập đến, nếu nội dung càng phong phú và đa dạng
thì các từ được lặp ở trong bài hát sẽ nhiều hơn và
đa dạng hơn. Chẳng hạn trong bài Lứn cha chỉn
(Lượn làm ăn):
Con hóc shac chảng
sủng
Dạng lìu lủng cháng
nghin
Con cha chỉn chảng rảo
Dạng bạch sủng lìu pổ
Con cha chỉn lìu pả
Người đi lính cầm súng
Người đi chơi cầm đàn
Người đi làm cầm cụ
Người vác súng đi săn
Người làm ăn lên
nương
Đây là bài lượn kể về cảnh làm ăn của người
Nùng. Lặp lại ở đầu các câu là các từ: “con”
(người), “dạng” (người) tạo cho câu ca và văn bản
có sự liên kết chặt chẽ với nhau, đồng thời tạo nên
nhịp điệu cho lời hát. Sự lặp lại đó khiến cho người
ta cảm thấy dễ nhớ hơn, lời ca dễ đi vào lòng hơn.
Người nghe cũng dễ dàng hiểu rõ hơn nội dung bài
hát đang được nói đến; đó là niềm hăng say, sự tất
bật của những con người lao động đang say mê với
công việc của mình.
Như vậy, có thể thấy, các yếu tố tạo nên sự liên
kết và mạch lạc trong văn bản hát lượn chính là yếu
tố cốt truyện, sự diễn đạt, tính lặp lại. Nhờ những
yếu tố này mà lời ca thêm mượt mà, uyển chuyển,
dễ thuộc, dễ nhớ và có sức lôi cuốn đặc biệt.
b. Các dạng kết cấu trong các bài hát lượn
JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
Kết quả khảo sát các dạng kết cấu trong 17 bài
hát lượn thu được như sau:
Bảng 1: Phân loại các bài hát lượn theo kết cấu
STT
1
Loại kết cấu
Số lượng bài
Kết cấu một chiều
5
2
Kết cấu trung gian
3
Kết cấu trùng điệp
4
23,5
4
Kết cấu đối đáp
3
17,65
17
100
Tổng
5
Tỉ lệ (%)
29,41
29,41
Từ bảng số liệu trên, có thể thấy, trong hát lượn
thường gặp nhiều nhất là kết cấu một chiều (chiếm
29,41%) và kết cấu trung gian (chiếm 29,41%).
Kết cấu một chiều là dạng kết cấu liên kết một
lượt lời ca do một chủ thể phát ngôn diễn xướng.
Trong hát lượn, kết cấu một chiều được sử dụng
để liên kết những lời ca, không có đối đáp, đó là
những lời tự sự kể về cuộc sống trong quá khứ
và hiện tại. Loại kết cấu này được thể hiện rõ nét
ở trong các bài hát lượn về chủ đề tình yêu đôi lứa,
phù hợp để con người giãi bày những cảm xúc, tâm
tư chất chứa ở sâu trong lòng. Người hát có thể tự
hát cho mình nghe, không cần có đối tượng nên rất
thoải mái trong việc bộc lộ những nỗi niềm, ưu tư.
Nếu có đối tượng nghe thì người hát cũng rất tự
nhiên trong việc thể hiện tình cảm của mình, bởi vì
đối tượng chỉ nghe chứ không đối đáp lại.
Kết cấu trung gian là loại kết cấu không phải kết
cấu một chiều và cũng không hoàn toàn là kết cấu
đối đáp. Ở đây, người hát vừa đóng vai trò là người
kể, vừa là người đối thoại, có lời khi thì một mình
nói, có khi lại có lời đáp chính mình. Đây là loại kết
cấu khó phân biệt nhất, người hát vừa là nhân vật
chính ở trong câu chuyện, kể lể về câu chuyện của
mình (có thể có đối tượng nghe hoặc không). Người
hát lại vừa đóng vai là người đối thoại trả lời chính
những câu hỏi mà mình đã đưa ra.
Kết cấu trùng điệp chiếm 23,5%. Đây là loại
kết cấu mà từng đoạn, câu, cụm từ, từ được lặp đi
lặp lại trong một văn bản, góp phần nhấn mạnh thể
hiện nội dung được đề cập trong bài hát lượn. Qua
khảo sát tư liệu, có thể thấy rằng hầu hết các bài
hát lượn đều sử dụng kết cấu này ở mức độ đậm
đặc, tạo nên đặc trưng riêng trong lối diễn tả. Cũng
nhờ lối kết cấu này đã làm cho các bài hát lượn
trở nên dễ nhớ dễ thuộc và phổ biến với mọi đối
tượng, ai cũng có thể nghe một lần rồi nhớ, tạo
nên một âm hưởng ngân nga vang dài khi người
ta cất lên tiếng hát với sự luyến láy, đồng thời,
nhấn mạnh được các chủ đề, nội dung mà người
hát muốn thể hiện. Lối kết cấu này phù hợp để
cho tác giả dân gian kể về những công việc thường
nhật tất bật, hối hả, lặp đi lặp lại hàng ngày hay để
nhấn mạnh một cảm xúc dâng trào muốn cho đối
tượng lắng đọng lại trong tâm trí cuả mình. Cũng có
thể là những điều người ta muốn khẳng định, chắc
chắn như “đinh đóng cột” mong cho người khác tin
tưởng, thấu hiểu hay đồng cảm.
Volume 8, Issue 2
Bên cạnh kết cấu trùng điệp cả khổ, đoạn thơ,
từ, hát lượn còn sử dụng kết cấu trùng điệp dòng,
có thể điệp hai dòng đầu, hai dòng giữa cũng có thể
điệp hai dòng cuối. Sự xuất hiện của kết cấu trùng
điệp thể hiện được những cung bậc tình cảm của
nhân vật trữ tình, đồng thời làm tăng nội dung thông
tin muốn đề cập, làm cho câu ca thêm mạch lạc,
hình tượng nhân vật trữ tình được nổi bật hơn. Việc
sử dụng kết cấu trùng điệp là một trong những đặc
trưng nổi bật của hát lượn đặc biệt đối với mảng đề
tài tình yêu. Việc sử dụng kết cấu trùng điệp đã làm
cho bài ca trở nên dễ học, dễ thuộc và dễ nhớ hơn.
Điều này đã làm cho hát lượn khác với dân ca các
dân tộc khác. Ngoài ra, các bài hát lượn còn phản
ánh rõ nét tâm lý của người Nùng: thật thà, chất
phác, ưa cụ thể, cần sự chính xác để khắc họa được
hình ảnh tạo ấn tượng mạnh mẽ và có sức thuyết
phục cao.
Kết cấu đối đáp chiếm 17,65%. Đây là dạng kết
cấu được sử dụng trong các bài hát giao duyên. Kết
cấu đối đáp là dạng kết cấu gồm những lời thoại,
gồm hai hay nhiều lời lượt trao đáp, tương tác với
nhau, do hai chủ thể cùng thực hiện hành động.
Đây là loại kết cấu được sử dụng phổ biến trong các
bài hát lượn về tình yêu; các chàng trai, cô gái có
tình cảm với nhau có làm quen nhau họ sẽ hát đối
đáp để giao duyên với nhau. Hát đối đáp có thể giữa
hai người đối với nhau hoặc có thể hai bên, một bên
nam, một bên nữ họ đối nhau qua từng lượt lời.
Như vậy, có thể thấy, trong các bài hát lượn của
người Nùng ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang phổ
biến nhất vẫn là những bài dân ca có kết cấu một
chiều, ở mức ít hơn là kết cấu trùng điệp, kết cấu đối
đáp và ít phổ biến hơn cả là kết cấu đối đáp.
2.2.2. Thể, vần, nhịp điệu trong các bài hát lượn
a. Thể trong các bài hát lượn
Kết quả khảo sát 17 bài hát lượn cho thấy các bài
hát lượn đều được viết theo thể thơ 5 chữ. Có thể
nói đây là thể thơ đặc trưng trong hát lượn.
Lứn bảo shao
Noc yển ray tuồng các
Noc bác ray tuồng shổi
Lăm tap pẳn păn sội
Và pảu ôi păn púc
Tình yêu
Chim én đậu cột rào
Chim sẻ đậu vườn rau
Gió thổi mưa theo lối
Thổi từng hàng từng
hàng
...
...
păn pắt bộ long na
thành vịt không thích
nước
păn pả bộ long rải
thành cá không xuống
ao
pả sình nháu hên rải
dù đang ở trên bờ
bộ vải na long văng
vẫn ngoảnh mặt làm
ngơ
Từ kết quả sưu tầm điền dã, nhóm nghiên cứu
125
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
nhận thấy số tiếng trong mỗi câu là đều là 5. Thể 5
chữ này đã tạo cho lời ca thêm uyển chuyển, đồng
thời bày tỏ được sự tình trong lời ca, giúp người
nghe hiểu một cách thấu đáo sự việc được nói tới.
Một đặc điểm dễ nhận thấy trong hát lượn đó là tính
chất kể lể, giãi bày tâm tư tình cảm để tương xứng
với điều này thì thể 5 chữ có thể xem là thể thơ phù
hợp nhất.
b. Vần trong các bài hát lượn
Dựa vào tư liệu khảo sát có thể nhận xét chung
là số tiếng của các câu ca trong hát lượn là 5 tiếng.
Do đó cách gieo vần và cách hợp vần chủ yếu là
ở cuối mỗi câu, tuy nhiên vẫn có cách gieo vần ở
giữa các câu và đầu câu.
Chúng tôi tổng hợp về vần trong các bài hát
lượn theo vị trí hiệp vần và mức độ hiệp vần như
sau:
Bảng 2: Bảng tổng hợp phân loại vần theo vị trí hiệp vần
trong các bài hát lượn
STT
Kiểu
Số lượng (âm
tiết hiệp vần)
Tỉ lệ (%)
1
Vần giãn cách
163
80,69
2
Vần liền
39
19,31
Tổng
202
100
Bảng 3. Bảng tổng hợp phân loại vần theo mức độ hiệp
vần trong các bài hát lượn
1
Vần thông
Số lượng (âm
tiết hiệp vần)
170
2
Vần chính
132
43,7
Tổng
302
100 %
STT
Kiểu
Tỉ lệ (%)
56,3
Từ số liệu ở các bảng trên cho thấy, theo vị trí
hiệp vần, có 163 âm tiết hiệp vần giãn cách (chiếm
80,69%); theo mức độ hiệp vần, có 170 âm tiết hiệp
vần thông (chiếm 56,3%). Một điều dễ nhận thấy
nữa là, gieo vần trong hát lượn chủ yếu là cách gieo
vần lặp lại tiếng, gieo vần âm chính, cấu trúc đã tạo
cho lời ca trở nên hài hòa, nhịp nhàng, có giá trị
tạo nên tiết tấu cho lời ca; làm cho lời ca dễ nhớ,
dễ thuộc. Hiện tượng gieo vần trên đã liên kết các
tiếng trong câu hát với nhau tạo thành một chỉnh
thể hoàn chỉnh. Cách gieo vần và hiệp vần như vậy
rất linh hoạt tạo nên độ mềm dẻo phù hợp với cách
nói, cách diễn đạt, vừa mang yếu tố tín ngưỡng tâm
linh của then vừa có sự pha trộn nhiều thể, vừa hát
vừa kể, lại vừa mang những đặc điểm của hát lượn.
c. Nhịp trong các bài hát lượn
Cùng với vần, nhịp điệu (còn gọi là nhịp)
cũng là yếu tố góp phần làm nên tính nhạc điệu
của lời hát lượn. Nhịp điệu là sự nối tiếp của các
tiếng sắp xếp thành từng khung đều đặn của giọng
nói và theo thời gian. Nhịp của hát lượn rất phong
phú với những chỗ ngắt giọng đặc trưng, phù
hợp với thời gian và không gian hay những nghi
126
thức riêng. Các hình thức nhịp điệu này thường xuất
hiện trên cơ sở nhịp điệu của lao động, nhịp điệu
của hơi thở của con người. Nhóm nghiên cứu đã
thống kê được các loại nhịp trong 17 bài hát lượn
Nùng ở Xín Mần các loại nhịp như sau:
- Nhịp 3/2: Đây là kiểu ngắt nhịp được sử
dụng phổ biến nhất trong các bài hát lượn.
...
Shôn năm lung /phủi lì
Năm lung út/ thủ tặng
Nạo tải nằng/ thủ chuông
- Nhịp 2/3: Đây là kiểu ngắt nhịp cũng khá phổ
biến, thể hiện được sự đi lên cao dần của câu hát,
từ chậm cho đến nhanh. Tiếng đầu tiên trầm lắng, 4
tiếng sau đó cao vút lên.
...
Cha na/ ca chứ vảng
Lạ rau /rú shuc chăm
Lin rau/ rú shuc rủ
- Nhịp 3/1/1: là kiểu ngắt nhịp được sử dụng khá
ít trong các bài hát lượn. Hát nhanh ở 3 tiếng trước,
2 tiếng sau ngân dài ra và hát chậm lại.
Chứ cha chỉn/ hồi/ đủ (3/1/1)
...
Pay pổ chỉm/ máy/ pẹch (3/1/1)
- Nhịp 2/1/1/1: Là kiểu ngắt nhịp được sử dụng
ít ở trong các bài hát lượn, bởi mỗi một câu hát
lượn chỉ có 5 tiếng nên cách ngắt nhịp này vừa ngắt
quãng dài, người hát vừa phải mất rất nhiều hơi và
mỗi lần hát đều phải lấy hơi dài thì khó để hát được
những bài dài. Kiểu ngắt nhịp này chỉ có từ 7 đến 8
câu trong một bài dài hơn 50 câu.
Đuổng hóc/ châu/ mảy /shẹt
...
Đuống hóc/ con/ thẳn/ khảo
Kiểu ngắt nhịp này thường rơi vào các câu mở
đầu hoặc ở giữa bài hát nhằm tạo ra độ ngân nga
kéo dài, làm chậm lại quá trình hát để người nghe
kịp lắng đọng những câu gần như là chủ đề của bài
hát lượn đề cập đến. Người hát cũng có dịp để thể
hiện khả năng lấy hơi, lên giọng của mình, càng kéo
dài và lên giọng cao thì bài hát nghe càng hay.
- Nhịp 1/2/2: Đây là kiểu ngắt nhịp cũng khá phổ
biến trong bài hát lượn, thể hiện sự đi lên cao dần
của câu hát, từ chậm cho đến nhanh. Tiếng đầu tiên
trầm lắng, 4 tiếng sau đó cao vút lên.
Bẩu /mục shum /pặc cả (1/2/2)
Bẩu/ ha liềm/ pặc sọc (1/2/2)
...
Noc/ dủ đòng/ ròn chì (1/2/2)
- Nhịp 2/1/2: Kiểu ngắt nhịp này cũng được
xuất hiện khá nhiều trong các bài hát lượn.
JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
Đấn nghì/ đọc/ pẳn rân (2/1/2)
Nắm mưng/kháo /đọc /quạt (2/1/2)
Thủ lủng/ shot/ pắc sỉn (2/1/2)
Sự ngắt nhịp trong hát lượn phần nhiều đem lại
kết quả của sự chia tách ở những cụm từ, những
chỗ lặp lại và ngắt giọng với số tiếng trước và sau
nó tạo nên nhịp điệu đặc biệt. Lời ca lúc trầm, lúc
bổng, lúc nhanh, lúc chậm, lúc nghe như lời kể, lúc
thì trầm ngâm, lúc thì nài nỉ… Điều này đã giúp cho
làn điệu hát lượn thêm sinh động, hấp dẫn.
2.3. Đặc điểm ngôn ngữ trong các bài hát
lượn của người Nùng ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà
Giang xét về mặt ngữ nghĩa
Do giới hạn trong dung lượng của một bài viết
nên khi tìm hiểu về đặc điểm ngôn ngữ trong các
bài hát lượn của người Nùng ở huyện Xín Mần,
tỉnh Hà Giang xét về mặt ngữ nghĩa, nhóm nghiên
cứu tập trung vào việc tìm hiểu các trường từ vựng
- ngữ nghĩa xuất hiện trong các bài hát lượn này.
Quá trình khảo sát và phân loại các từ ngữ xuất hiện
trong các bài hát lượn cho thấy có các trường từ
vựng - ngữ nghĩa sau xuất hiện: Trường từ vựng
ngữ nghĩa chỉ sự vật, trường từ vựng ngữ nghĩa chỉ
không gian - thời gian, trường từ vựng ngữ nghĩa
chỉ trạng thái tâm sinh lý.
2.3.1. Đặc điểm của trường từ vựng - ngữ
nghĩa chỉ sự vật
a. Đặc điểm của trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ
con người
Kết quả thống kê trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ
con người trong các bài hát lượn như sau:
Bảng 4: Trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ con người
trong các bài hát lượn
STT
Từ ngữ
Nghĩa
Lượt xuất
Tỉ lệ (%)
hiện
19
17,6
tên hay xưng tên rõ ràng, nên chúng ta gặp rất ít các
từ ngữ chỉ người bằng các tên gọi cụ thể. Họ kiêng
gọi tên cụ thể vì như vậy được cho là thiếu lịch sự
và tránh các từ xưng hô thiếu tôn trọng. Đặc biệt,
trong các bài hát lượn điều đó lại càng kiêng kị hơn,
bởi hát lượn là nơi con người ta bày tỏ những tâm
tình, nói về những điều tốt đẹp, những điều hay lẽ
phải. Cụ thể, qua khảo sát tư liệu nhóm nghiên cứu
nhận thấy, các bài hát lượn thường xuất hiện các từ
ngữ chỉ người chung chung hay những từ thể hiện
sắc thái thân mật. Vì vậy, thường chỉ gặp những
từ ngữ tiêu biểu như: rau (ta/chúng ta), chịu (anh/
bạn)...
Một điều đặc biệt, cũng là đặc trưng rất riêng
trong hát lượn đó là các từ chỉ người như: rau (ta/
chúng ta), đuổng (anh/ bạn), chịu (anh), lung (anh/
bạn) chiếm phần lớn, nhất là trong nhóm các bài hát
lượn về tình yêu đôi lứa. Người Nùng quan niệm
rằng, tiếng hát tình yêu là tiếng hát từ trái tim mình,
thể hiện được sâu sắc thế giới nội tâm phong phú
và tâm hồn khao khát yêu đương, là nơi sâu thẳm
trái tim để họ gửi gắm những tiếng lòng chất chứa
của mình.
Cách xưng hô đặc biệt được người ta chú trọng
trong các vai vế, độ tuổi, sự quen biết và các mối
quan hệ văn hóa, đặc biệt là trong tình yêu, cách
xưng hô lại càng cần ý nhị, lịch sự. Từ việc sử dụng
các từ ngữ chỉ người trong một bài hát lượn, ở đó là
những mã văn hóa và phần nào thấy được đặc trưng
tư duy của dân tộc Nùng.
b. Đặc điểm của trường từ vựng – ngữ nghĩa chỉ
động, thực vật
Trong hát lượn, trường từ vựng – ngữ nghĩa chỉ
động, thực vật rất phong phú. Kết quả thống kê về
trường từ vựng - ngữ nghĩa này như sau:
Bảng 5: Trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ động vật trong
các bài hát lượn
1
rau
ta/ chúng ta
2
đuổng
anh/ bạn
16
14,8
TT
3
chịu
anh
14
12,9
4
5
lung
lục
anh/bạn
con/ cái
13
7
12,1
6,1
6
pồ mề
bố mẹ
6
5,5
1
2
3
4
5
6
7
8
9
7
ra
tôi
6
5,5
8
lin
con
5
4,7
9
pì
anh
5
4,6
10
shay
cán bộ
4
3,8
11
con
người
4
3,8
12
lạ
con
4
3,8
13
dạng
người
3
2,8
14
châu rân
chủ nhà
1
0,9
15
pu Nong
người Nùng
1
0,9
108
100
Tổng
Trong đời sống sinh hoạt người Nùng ít khi gọi
Volume 8, Issue 2
10
Lượt xuất
hiện
chim
5
noc
chim én
5
noc yển
ngựa
3
má
cá
2
pả
1
miêng màu chuồn chuồn
trâu
1
vai
ve
1
nhồi
vịt
1
pắt
quạ đen
1
noc ả
chim diều
1
noc bác
hâu
Tổng
21
Từ ngữ
Nghĩa
Tỉ lệ (%)
23,9
23,9
14,4
9,6
4,7
4,7
4,7
4,7
4,7
4,7
100
Các từ ngữ chỉ động vật trong các bài hát lượn
thường là chỉ những vật nuôi gần gũi với cuộc sống
của con người; đó cũng có thể là muông thú trong
rừng sâu, núi thẳm. Những con vật được thuần hóa
và nuôi dưỡng hay những con vật hoang dã sống ở
ngoài tự nhiên, trong tâm thức của người Nùng, đều
gắn liền với một quan niệm, một biểu tượng riêng.
127
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
Bảng 6: Trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ thực vật trong
các bài hát lượn
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Từ ngữ
Nghĩa
thóc/ lúa
khâu
cây
máy
lá cỏ
bẩu ha
đọc pẳn
hoa trắng
đọc quạt
hoa lê
cây cỏ dại
lục siu
máy thảng cây trúc
máy dăm cây thông
cây vạc
máy vạc
Tổng
Lượt
Tỉ lệ (%)
xuất hiện
8
42,1
4
21,0
1
5,3
1
5,3
1
5,3
1
5,3
1
5,3
1
5,2
1
5,2
19
100
Kết quả thống kê cho thấy giới thực vật trong
hát lượn xuất hiện tương đối đa dạng. Xuất hiện
nhiều nhất là khâu (thóc/ lúa), thứ hai là máy (cây).
Sở dĩ khâu (thóc/lúa) lại chiếm một vị trí xuất hiện
ở trong các bài hát lượn bởi nó là lương thực nuôi
sống con người, nó gắn bó với cuộc sống lao động
của những người nông dân. Cuộc sống của họ dựa
mọi thứ vào khâu, khâu còn được coi như một vị
thần, năm nào mất mùa người ta sẽ phải cúng bái
thần lúa, thần mưa hay có cả lễ hội Lồng Tồng đầu
xuân để mong một năm mới sức khỏe và bội thu.
Mỗi một gia đình đều có một cái thúng rất to để
chứa thóc và ngày lễ tết làm bánh trái đặt lên trên
thúng để cúng mong mùa màng bội thu, thóc luôn
đầy thúng.
2.3.2. Đặc điểm của trường từ vựng – ngữ
nghĩa chỉ không gian – thời gian
a. Đặc điểm của trường từ vựng – ngữ nghĩa chỉ
không gian
Kết quả thống kê về trường từ vựng - ngữ nghĩa
này như sau:
Bảng 7: Trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ không gian
trong các bài hát lượn
Lượt xuất
Tỉ lệ (%)
hiện
STT
Từ ngữ
Nghĩa
1
nắm mưng
Đất nước
5
45,4
2
lủng
Bản làng
3
27,3
1
9,1
3
Mưng Hạc Trung Quốc
4
Mưng Chịu
Việt Nam
1
9,1
5
Xỉn Mần
Xín Mần
1
9,1
11
100
Tổng
Quan niệm của người Nùng về không gian tương
đối đơn giản. Nắm mưng (đất nước) được xuất hiện
khá nhiều trong bài hát lượn, bởi người Nùng nhận
thức được rằng một quốc gia độc lập, tự do, có chủ
quyền là cơ sở để mình có thể tồn tại, được sống
một cuộc sống bình yên. Vì thế mà nắm mưng cũng
128
gắn liền với các bài lượn vừa như để khẳng định
người Nùng là công dân của một nước, vừa thể
hiện lòng tự tôn, tự hào về dân tộc, đất nước mà
cộng đồng dân tộc Nùng đang sống. Cộng đồng
người Nùng biết được giá trị truyền thống, lịch sử
của dân tộc mình gắn liền với mỗi thời đại, mỗi
giai đoạn lịch sử chung của đất nước.
b. Đặc điểm của trường từ vựng – ngữ nghĩa chỉ
thời gian
Kết quả thống kê về trường từ vựng – ngữ nghĩa
này như sau:
Bảng 8: Trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ thời gian trong
các bài hát lượn
STT
Lượt xuất Tỉ lệ
hiện
(%)
sớm
2
15,5
chấu
đân chỉnh
mùa xuân
1
7,6
đân nghì
tháng 2
1
7,6
đân sham
tháng 3
1
7,6
đân shi
tháng 4
1
7,6
shai
muộn
1
7,6
từ khi
1
7,6
rọt
1
7,6
năm thăng chư đến bây giờ
13 ngày
1
7,6
ship sham văn
Từ ngữ
Nghĩa
10
ship ha văn
15 ngày
1
7,6
11
12
khụp này
miu này
Tổng
bây giờ
mùa này
1
1
13
7,6
7,6
100
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Qua bảng thống kê trên, có thể thấy trong 17
bài hát lượn, nội dung phản ánh thời gian là 12
đơn vị từ ngữ với số lượt xuất hiện là 13. Các từ
ngữ chỉ thời gian đều xuất hiện với tần số thấp,
tuy nhiên nội dung phản ánh của trường từ vựng
– ngữ nghĩa chỉ thời gian trong các bài hát lượn
khá phong phú. Mỗi từ ngữ đều phản ánh được
một quan niệm, một biểu tượng riêng về thời
gian trong văn hóa của người Nùng. Thời gian
được người Nùng quan niệm tương đối rõ ràng
và nó cũng được đưa vào các bài hát lượn với
biểu tượng tiêu biểu là biểu tượng đân chỉnh (mùa
xuân). Trong tâm thức của người Nùng, đân chỉnh
(mùa xuân) là mùa đẹp nhất, mùa được mong đợi
nhất. Đối với người Nùng thì đây là mùa được nghỉ
ngơi, vui chơi sau một năm vất vả. Đó là mùa mà
con người tổ chức ăn uống, vui chơi, là ngày Tết
chung của cả cộng đồng. Tết cổ truyền của người
Nùng cũng có những nét riêng biệt, với những món
ăn hay bánh trái và các nghi lễ đón tết đều khác với
dân tộc khác.
2.3.3. Đặc điểm của trường từ vựng – ngữ
nghĩa chỉ trạng thái tâm sinh lý
Trong hát lượn các từ ngữ liên quan đến trường
từ vựng ngữ nghĩa tâm sinh lí tương đối phong phú.
Kết quả thống kê thu được như sau:
JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
Bảng 9: Trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ trạng thái tâm
sinh lí trong các bài hát lượn
STT
Từ ngữ
Nghĩa
1
2
3
4
5
6
shai rỉ
bẳn
nê
lỉ ving
nừ
dai
trái tim
vui
ngủ
vui vẻ
nhớ
lừa
Lượt xuất
hiện
1
1
1
1
1
1
7
tàu map
phản bội
1
11,1
8
bộ shin
không tin
1
11,1
9
pàu
vội
1
11,2
9
100%
Tổng
Tỉ lệ (%)
11,1
11,1
11,1
11,1
11,1
11,1
Qua bảng thống kê, có thể thấy xuất hiện nhiều từ
ngữ thuộc trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ trạng thái
tâm sinh lý. Các từ ngữ này cũng gắn với một số biểu
tượng để con người gửi gắm tâm tư, tình cảm, phổ
biến hơn cả có lẽ là biểu tượng shai ri (trái tim). Từ
xa xưa, người Nùng vẫn tin rằng trái tim là trung tâm
của mọi cảm xúc. Vì vậy, trái tim luôn được người
Nùng quan niệm đó là biểu tượng của tình yêu. Trải
qua thời gian, đến nay, trái tim vẫn là biểu tượng của
một tình yêu vĩnh hằng. Do quan niệm của người
Nùng như vậy nên trong các bài lượn về tình yêu
luôn xuất hiện hình ảnh trái tim, để người Nùng
chứng tỏ sự chân thành của tình cảm và mong ước
có được một tình yêu viễn mãn, tràn đầy hạnh phúc.
Trái tim còn lại biểu tượng cho sự nhiệt huyết của
con người trong công việc trong cuộc sống hay tình
thương giữa con người với con người.
Như vậy, có thể thấy, xét về mặt ngữ nghĩa,
các từ ngữ được dùng trong hát lượn có thể được
phân biệt thành nhiều trường từ vựng - ngữ nghĩa
phong phú, đa dạng và phản ánh một phần đời sống
văn hóa tinh thần cũng như đời sống sinh hoạt của
người Nùng, phản ánh tư duy nhận thức của họ. Đó
là trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ sự vật (con vật,
thực vật, thiên nhiên…); trường từ vựng - ngữ nghĩa
chỉ không gian - thời gian; trường từ vựng - ngữ
nghĩa chỉ trạng thái tâm sinh lý… Đó đều là các
từ ngữ quen thuộc trong đời sống sinh hoạt hàng
ngày của người Nùng, phản ánh nhu cầu giao tiếp
và bộc lộ tâm tư tình cảm, mong muốn gắn kết nhau
trong lao động cũng như trong mọi hoạt động của
đời sống của đồng bào dân tộc Nùng.
3. Kết luận
Nếu như ngôn từ là những đường nét, họa tiết hoa
văn đủ màu sắc tô điểm cho chiếc cầu hát lượn nối
liền cõi thực với cõi thiêng trong đời sống tâm linh
của người Nùng thì có thể thấy hát lượn Nùng giống
như một bảo tàng thu nhỏ lưu giữ những giá trị văn
hóa bền vững, đặc biệt là đối với ngôn ngữ Nùng. Kết
quả thu thập tư liệu và nghiên cứu của bài viết cũng
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc làm tư liệu/
Volume 8, Issue 2
ngữ liệu cho việc biên soạn chương trình, tài liệu dạy
học môn Tiếng dân tộc và Văn học địa phương trong
chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ được thực
hiện từ năm 2020.
Hát lượn Nùng tuân thủ theo mô thức nhất định.
Sự góp mặt của các yếu tố cốt truyện, sự lặp lại, làm
cho nhiều bài hát mang tính “liền mạch”, có vần
điệu, đồng thời giống như câu chuyện kể hấp dẫn,
li kì, đã góp phần làm nên tính trình tự của các tình
tiết trong khi hát. Các kết cấu đặc trưng trong hát
lượn Nùng là: kết cấu một chiều, kết cấu đối đáp,
kết cấu trùng điệp và kết cấu trung gian được sử
dụng linh hoạt (trong đó kết cấu một chiều là phổ
biến hơn cả). Điều này đã khiến cho hát lượn mang
dáng vẻ một loại hình nghệ thuật mang tính nguyên
hợp và thiên hướng kể lể. Trong hát lượn Nùng, các
tác giả dân gian đã linh hoạt dùng cách lặp từ, lặp
ngữ và lặp cấu trúc để tạo nên vần điệu và sự gắn
kết trong lời ca. Số tiếng của các câu ca của bài ca
phổ biến hơn cả là thể 5 chữ. Do đó, cách gieo vần
và cách hợp vần cũng vô cùng đa dạng và tương đối
phức tạp, do có những bài thuộc thể này là sự kết
hợp giữa hát và tụng niệm, có bài là những vần thơ,
bởi thế cách gieo vần khá linh hoạt.
Xét về mặt ngữ nghĩa, các từ ngữ được dùng
trong hát lượn có thể được phân biệt thành nhiều
nhóm từ vựng, phản ánh một phần đời sống văn hóa
tinh thần cũng như đời sống sinh hoạt của dân tộc
Nùng. Đó là các từ ngữ chỉ sự vật hiện tượng tự
nhiên (con vật, thực vật, thiên nhiên); đồ vật; không
gian thời gian; con người… Các từ ngữ chỉ động
vật và thực vật trong hát lượn Nùng đã phản ánh
môi trường sống của người Nùng, một miền rừng
núi hoang sơ, trù phú với đặc trưng nền kinh tế tiểu
nông tự cung tự cấp. Các từ ngữ chỉ đồ vật trong
hát lượn đã tái hiện cuộc sống sinh hoạt của người
Nùng trong quá khứ với tên gọi những đồ vật truyền
thống, mang chất riêng của người Nùng, có thể xem
như một bảo tàng dân tộc thu nhỏ đặc biệt có giá
trị, cung cấp cho thế hệ sau muốn tìm hiểu về người
Nùng, về phong tục tập quán của một dân tộc có
nền văn hóa đặc sắc và độc đáo. Các từ ngữ chỉ
trạng thái tâm sinh lý và con người đã phần nào
phản ánh được thế giới tâm hồn, tình cảm phong
phú và một số đặc thù trong hát lượn Nùng, đồng
thời cũng cho thấy một thế giới tràn ngập sắc màu,
với nhiều cung bậc tình cảm và sự độc đáo trong
nhân sinh quan của họ. Trong hát lượn của người
Nùng cũng có thể gặp một số biểu tượng qua các
từ ngữ – kết quả của quá trình chuyển nghĩa, vốn
dùng để biểu thị các sự vật hiện tượng cụ thể, lại
được dùng để chỉ các sự vật hiện tượng khái quát
trừu tượng khác.
129
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
Tài liệu tham khảo
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
(2009), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội
Nguyễn Quang Hồng, Phan Diễm Phương
(2016), Âm tiết tiếng Việt và ngôn từ thi ca,
Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ
ca, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội
Nguyễn Văn Lộc (chủ biên, 2010), Nghiên cứu
bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, văn hóa một
số dân tộc thiểu số ở Việt Bắc, Nxb. Đại học
Thái Nguyên, Thái Nguyên.
Nguyễn Đức Hiểu – Nguyễn Huệ Chi – Nguyễn
Văn Tửu – Trần Hữu Tá (chủ biên, 2004), Từ
điển văn học (bộ mới), Nxb. Thế giới, Hà Nội.
Hoàng Nam (chủ biên, 2013), Đặc trưng văn
hóa truyền thống 54 dân tộc Việt Nam, Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội
Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng văn hóa dân
tộc của ngôn ngữ và tư duy, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Thị Việt Thanh – Vương Toàn (chủ
biên) (2016), Từ điển văn hóa truyền thống
các dân tộc, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Phạm Ngọc Thưởng (1999), Cách xưng hô
trong tiếng Nùng, Luận án Tiến sĩ bảo vệ tại
Trường Đại học Sư phạm, Hà Nội.
Vương Toàn (2012), Sự khác biệt giữa các
ngành Nùng Việt Nam và câu chuyện còn
bỏ ngỏ, Báo cáo trình bày ngày 06/6/2012
tại Hội nghị Thái học Việt Nam lần thứ tư
VI, TP Thanh Hóa. In trong: Cộng đồng các
tộc người ngữ hệ Thái - Kadai ở Việt Nam
Truyền thống, hội nhập và phát triển, Nxb
Thế giới.
Vương Toàn (2017), Văn học dân gian các
dân tộc Nùng và Tày: Tình hình sưu tầm và
khảo cứu. Trong: Phát huy vai trò, bản sắc
cộng đồng các dân tộc Thái – Kadai trong
hội nhập và phát triển bền vững. Hội nghị
quốc gia Thái học lần 8 tại Nghệ An, Nxb
Thế giới, 2017, tr.529-540, ISBN: 978-60477-3899-3. Hà Nội.
LINGUISTIC FEATURES IN LUON SONGS BY THE NUNG PEOPLE
IN XIN MAN DISTRICT OF HA GIANG PROVINCE
Nguyen Thu Quynha
Sung Seo Litb
Thai Nguyen University of Education
a
Email: nguyenthuquynh@dhsptn.edu.vn
b
Email: sunglit89@gmail.com
Received: 25/5/2019
Reviewed: 2/6/2019
Revised: 7/6/2019
Accepted: 12/6/2019
Released: 21/6/2019
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/312
130
Abstract: Like all other ethnic minorities in Vietnam,
the Nung people have their own unique cultural and artistic
features that contribute to the diversity created by 54 ethnic
minorities in Vietnam. In the traditional culture of the Nung
people, singing luon is one of the cultural heritages that they
have developed since the primitive period when “there was
catastrophic flood and heavy rain”, and it has been transmitted
through generations. Today, this article focuses on studying the
linguistic features of luon songs of the Nung people in terms of
form and semantics. The material of the article is 17 luon songs
of Nung people (provided by collaborators Sung Seo Chi and
Sung Gia Sang in Xin Man district, Ha Giang province). These
songs have been recorded, transcribed, translated, literarily
translated and textualized by the authors for the purpose of the
research.
Keywords: Luon singing; Nung people; Linguistic features;
Xin Man, Ha Giang province
JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH