« Home « Kết quả tìm kiếm

NGÀNH SƠN VIỆT NAM


Tóm tắt Xem thử

- NGÀNH SƠN VIỆT NAM 1.
- Giới thiệu chung Sơn (hoặc có thể gọi là chất phủ bề mặt) đƣợc dùng để trang trí mỹ thuật hoặc bảo vệ các bề mặt vật liệu cần sơn.
- Ai Cập đã biết chế tạo sơn mỹ thuật từ năm trƣớc công nguyên Hy Lạp và La Mã đã chế tạo sơn dầu béo vừa cò tác dụng trang trí vừa có tính chất bảo vệ các bề mặt cần sơn trong thời kỳ năm 600 trƣớc công nguyên đến năm 400 sau công nguyên và mãi đến thế kỷ 13 sau công nguyên các nƣớc khác của Châu Âu mới biết đến công nghệ sơn này và đến cuối thế kỷ 18 mới bắt đầu có các nhà sản xuất sơn chuyên nghiệp do yêu cầu về sơn tăng mạnh.
- Cuộc cách mạng kỹ thuật của thế giới đã tác động thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp sơn từ thế kỷ 18 nhƣng chất lƣợng sơn bảo vệ và trang trí vẫn chƣa cao vì nguyên liệu chế tạo sơn đi từ các loại dầu nhựa thiên nhiên và các loại bột màu vô cơ có chất lƣợng thấp Ngành công nghiệp sơn chỉ có thể phát triển nhảy vọt khi xuất hiện trên thị trƣờng các loại nhựa tổng hợp tạo màng sơn cùng với các loại bột màu hữu cơ chất lƣợng cao và nhất là sự xuất hiện của sản phẩm bột màu trắng đioxit titan (TiO2) là loại bột màu chủ đạo, phản ánh sự phát triển của công nghiệp sơn màu Các mốc phát triển công nghiệp sơn (đƣợc khởi đầu từ thế kỷ 20 đến cuối thế kỷ 20) có thể đƣợc phản ánh nhƣ sau.
- Năm 1923: nhựa Nitrocellulose, alkyd  Năm 1924: Bột màu TiO2  Năm 1928: Nhựa Phenol tan trong dầu béo  Năm 1930: Nhựa Amino Urea Formaldehyde  Năm 1933: Nhựa Vinyl Clorua đồng trùng hợp  Năm 1934: Nhựa nhũ tƣơng trong gốc dầu  Năm 1936: Nhựa Acrylic nhiệt rắn  Năm 1937: Nhựa Polyurethan  Năm 1939: Nhựa Amino melamin Formaldehyde  Năm 1944: Sơn gốc Silicone 1  Năm 1947: Nhựa Epoxy  Năm 1950: Nhựa PVA và Acrylic laquer  Năm 1955: Sơn bột tĩnh điện  Năm 1958: Sơn xe hơi gốc Acrylic laquer Sơn nhà gốc nhựa latex  Năm 1960: Sơn công nghiệp gốc nƣớc  Năm 1962: Sơn điện di kiểu Anode  Năm 1963: Sơn đóng rắn bằng tia EB và UV  Năm 1971: Sơn điện di kiểu catode Trong tƣơng lai, thách thức của ngành công nghiệp sơn toàn cầu phải giải quyết bài toán quen thuộc là tìm đƣợc giải pháp cân bằng giữa một bên là sức ép về chi phí của năng lƣợng, nguyên liệu và đáp ứng quy định luật an toàn môi trƣờng của chính phủ với một bên là yêu cầu của thị trƣờng là chất sơn phải hoàn hảo với giá cả tốt nhất.
- Các thách thức này sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho ngành sơn công nghiệp thế giới nghiên cứu và triển khai các giải pháp công nghệ mới, nguyên liệu mới và sản phẩm mới đó chắc chắn cũng là tác động tích cực đối với sự phát triển hơn nữa của ngành công nghiệp này Ở Việt Nam, cha ông ta từ gần 400 năm trƣớc đã biết dùng sơn ta từ cây sơn mọc tự nhiên chế biến thành sơn trang trí và bảo vệ cho chất lƣợng gỗ của các pho tƣợng thờ, các tấm hoành phi câu đối “sơn son thiếp vàng”, lớp sơn bảo vệ này chất lƣợng hầu nhƣ không thay đổi sau hàng trăm năm sử dụng, sơn ta đến nay vẫn đƣợc coi là nguyên liệu chất lƣợng cao dùng cho ngành tranh sơn mài đƣợc ƣa chuộng cả trong và ngoài nƣớc hoặc một số loại dầu béo nhƣ: dầu chẩu và dầu lai hoặc nhựa thông từ cây thông ba lá mọc tự nhiên tại Việt Nam, từ lâu đã đƣợc ngƣời dân chế biến thành dầu bóng (clear – varnish) gọi nôm na là “quang dầu” dùng trang trí và bảo vệ cho “nón lá” hoặc “đồ gỗ”, nội ngoại thất.
- Tuy nhiên, việc sử dụng sơn nói trên chỉ mang tính chất tự phát từ nhu cầu đời sống thƣờng ngày, đến năm ở Việt Nam mới xuất hiện một xƣởng sơn dầu ở Hải Phòng do ngƣời Pháp mở mang nhãn hiệu TESTUDO , tiếp sau đó vài năm hãng sơn Việt Nam đầu tiên “Công ty sơn Nguyễn Sơn Hà” đƣợc thành lập và tiếp theo có các hãng sơn ở Hà Nội là Thăng Long, Gecko.
- Trong đó cần chú ý là loại sơn RESISTANCO của hãng sơn Nguyễn Sơn Hà rất đƣợc ngƣời tiêu dùng trong và ngoài nƣớc ƣa chuộng, đây có thể nói là hãng sơn đầu tiên lớn nhất tại Việt Nam lúc ấy và còn để lại giấu ấn lịch sử tới ngày nay là Công ty cổ phần sơn Hải Phòng phát triển từ mảnh đất mang tên Xí nghiệp sơn Phú Hà (hậu duệ sau này của ông Nguyễn Sơn Hà).
- Vì vậy có thể nói rằng: ông Nguyễn Sơn Hà chính là ông tổ ngành sơn Việt Nam 2.
- Lịch sử phát triển ngành sơn Việt Nam 2 Ngành công nghiệp sơn Việt Nam có thể lấy điểm khởi đầu phát triển là năm với sự xuất hiện của một số xƣởng sơn dầu tại Việt Nam, trong đó nổi bật nhất là công ty sơn của ông Nguyễn Sơn Hà – ông tổ ngành sơn Việt Nam.
- Tuy nhiên do bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam mãi đến năm 1975 mới thực sự là một quốc gia độc lập và thống nhất lãnh thổ và có đầy đủ điều kiện phát triển kinh tế xã hội và từng bƣớc phát triển ngành sơn Việt Nam có thể chia thành các giai đoạn sau.
- Giai đoạn có 3 hãng sơn lớn của ngƣời Việt Nam tại 3 khu vực thành phố lớn là.
- Hà Nội: Công ty sơn Thái Bình – Cầu Diễn, Hà Nội (sau này Công ty Hóa chất sơn Hà Nội và hiện nay là Công ty cổ phần Hóa chất Sơn Hà Nội.
- Hải Phòng: Công ty Sơn Nguyễn Sơn Hà – sau này đổi tên là Công ty Sơn Phú Hà (hậu duệ của ông Nguyễn Sơn Hà) và hiện nay là Công ty cổ phần sơn Hải Phòng.
- Sài Gòn (sau này là Thành phố Hồ Chí Minh): Công ty sơn Bạch Tuyết do ông Bùi Duy Cận (một cộng tác viên của ông Nguyễn Sơn Hà) vào Nam sáng lập, hiện nay là Công ty cồ phần sơn Bạch Tuyết.
- Giai đoạn này, sản phẩm chủ yếu là sơn dầu, sơn alkyd gốc dung môi với công nghệ đơn giản, chất lƣợng sơn không cao chủ yếu phục vụ cho yêu cầu sơn trang trí xây dựng, các loại sơn công nghiệp chất lƣợng cao đều nhập khẩu.
- Ngoài ra trong vùng tự do thời kháng chiến chống Pháp cũng có cơ sở sản xuất sơn của Việt Nam nhƣng sản phẩm chủ yếu là sơn dầu từ nguyên liệu thiên nhiên sẵn có ở Việt Nam nhƣ: nhựa thông, dầu chẩu.
- Giai đoạn Bối cảnh lịch sử đất nƣớc tạm thời chia cắt 2 miền Bắc – Nam với chế độ chính trị khác nhau và do đó điều kiện phát triển kinh tế (trong đó bao gồm cả phát triển ngành sơn) khác nhau, cụ thể là: Miền Bắc: có 3 nhà máy sơn Nhà nƣớc quy mô sản xuất công nghiệp là.
- Nhà máy Sơn Tổng Hợp Hà Nội (mới thành lập) do Tổng cục hóa chất quản lý  Nhà máy Hóa chất Sơn Hà Nội (trƣớc đây là Công ty Sơn Thái Bình – Cầu Diễn) do sở công nghiệp Hà Nội quản lý.
- Nhà máy Sơn Hải Phòng (trƣớc đây là xí nghiệp sơn Phú Hà) do Sở Công nghiệp Hải Phòng quản lý.
- Sản phẩm chính là sơn dầu nhựa thiên nhiên trong nƣớc sơn Alkyd (nhập cảng nguyên liệu nhựa alkyd) ứng dụng chủ yếu cho công nghiệp dân dụng và trang trí, chất lƣợng chƣa cao, công nghệ lạc 3 hậu, số lƣợng sản xuất còn thấp không đáp ứng đủ yêu cầu (do hạn chế nhập khẩu nguyên liệu vì nguồn ngoại tệ không đủ đáp ứng) Miền Nam: Có 16 hãng sơn lớn nhỏ sản xuất đủ các loại sơn tổng sản lƣợng # 7.000 tấn/năm (theo số liệu của Tổng Cục Hóa Chất Các nguyên liệu sản xuất phần lớn đều nhập khẩu có chất lƣợng cao, công nghệ hiện đại theo thời điểm 1960, có thể kể các nhà máy lớn và các sản phẩm tiêu biểu.
- Nhà máy sơn Bạch Tuyết và Huệ Phát (nay là Công ty sơn Bạch Tuyết): sản phẩm chủ yếu là sơn alkyd dùng cho ngành xây dựng và 1 lƣợng không lớn sơn Epoxy.
- Nhà máy sơn Á Đông, Á Châu, Việt Điểu, Vĩnh Phát: Sau năm 1975, các nhà máy này có công ty sơn chất dẻo Tổng cục Hóa chất quản lý sát nhập lại gọi là Xí nghiệp sơn Á Đông và hiện nay là Công ty cổ phần Sơn Á Đông, sản phẩm chủ yếu là sơn dầu, sơn alkyd và sơn nƣớc cho ngành sơn trang trí xây dựng.
- Một số nhà máy sơn khác chuyên sản xuất các loại sơn công nghiệp chất lƣợng cao là sơn gỗ khô nhanh gốc N/C (nitrocellose), sơn tân trang xe hơi, sơn tàu biển…trong các hãng sơn này còn một hãng sơn tuy nhỏ nhƣng vẫn còn tồn tại đến nay là Công ty sơn Tứ Tƣợng, còn lại từ sau 1980 các hãng sơn nhỏ có tiếng tăm về sơn nhƣ: Laphale`ne, Durico, Tân Chánh Hƣng đều giải thể.
- Giai đoạn Đặc điểm phát triển của ngành sơn giai đoạn này mang dấu ấn khó khăn chung của nền kinh tế sau chiến tranh thống nhất đất nƣớc.
- Đó là thời kỳ kinh tế bao cấp, mặc dầu đến năm 1986 nền kinh tế đã bắt đầu khởi động phát triển với mức đột phá “đổi mới” nhƣng ngành công nghiệp sơn vẫn còn phát triển trì trệ mãi đến năm 1989.
- Sản phẩm sơn tiêu thụ trong nƣớc chỉ có sơn dầu, hoàn toàn không có sơn nƣớc, nhà cửa và công trình xây dựng chỉ đƣợc trang trí bằng quét nƣớc vôi màu.
- Các loại sơn nhựa tổng hợp có chất lƣợng cao và tốt dùng cho ngành công nghiệp gốc Alkyd, Epoxy…chỉ đƣợc sản xuất số lƣợng ít theo hạn mức ngoại tệ nhập khẩu nguyên liệu.
- Các loại sơn gốc dầu nhựa thiên nhiên có chất lƣợng thấp đƣợc sản xuất với số lƣợng nhiều hơn sơn nhựa tổng hợp vì nguồn cung cấp nhựa tạo màng có sẵn trong nƣớc khá dối dào và rẻ tiền nhƣ: nhựa thông, chai cục.Tuy nhiên sản lƣợng sơn sản xuất ra cũng bị hạn chế vì không đủ đáp ứng số nguyên liệu quan trọng khác của ngành sơn nhƣ dung môi, bột màu…cần nhập khẩu bằng ngoại tệ.
- Tóm lại đặc điểm phát triển của công nghiệp sơn trong giai đoạn này là.
- Tổng sản lƣợng sơn chỉ đạt mức dƣới 10.000 tấn/năm cung không đủ cầu, những loại sơn có chất lƣợng tốt đều phân phối theo chỉ tiêu và giá bao cấp do Nhà nƣớc quản lý, những loại sơn có chất lƣợng 4 không cao (kiểu sơn dầu) cũng đƣợc phân phối “nới” rộng hơn, nhƣng nghiêng về cơ chế hành chính “xin và cho” với cả nhà sản xuất và ngƣời tiêu dùng từ cơ quan quản lý và phân phối của Nhà nƣớc.
- Số lƣợng công ty, xí nghiệp sản xuất sơn đều thuộc quyền sở hữu Nhà nƣớc: Ở miền Bắc vẫn có 3 công ty sơn (2 ở Hà Nội và 1 ở Hải Phòng) nhƣ giai đoạn có thêm 1 xƣởng nhỏ sản xuất sơn của hải quân.
- Ở miền Trung có một xí nghiệp sơn nhỏ của Công ty kỹ thuật hóa chất Đà Nẵng thuộc Tổng Cục Hóa Chất.
- Ở miền Nam có một Công ty sơn Đồng Nai (cải tạo từ hãng sơn tƣ nhân Hồng Phát lập từ đầu năm 1975 chƣa kịp sản xuất) do Sở công nghiệp Đồng Nai sở hữu.
- Bốn xí nghiệp sơn lớn thuộc sở hữu Nhà nƣớc là Công ty Sơn chất dẻo: Á Đông, Vĩnh Phát, Việt Điểu (sau này sát nhập lại lấy tên chung là Nhà máy sơn Á Đông.
- Một xí nghiệp sơn lớn và có thƣơng hiệu uy tín nhất Sài Gòn và Tp.
- Hồ Chí Minh sau này là Bạch Tuyết thuộc sở hữu Sở Công Nghiệp Tp.Hồ Chí Minh  Xí nghiệp sơn nhỏ của Công ty kỹ thuật hóa chất Tp.
- Hồ Chí Minh thuộc Tổng Cục Hóa Chất (mang tên Nam Sơn từ trƣớc năm 1975 sau 1990 là thƣơng hiệu “Liksho”) Tổng cộng giai đoạn toàn quốc có 12 công ty – xí nghiệp sản xuất sơn lớn nhỏ thuộc sở hữu nhà nƣớc.
- Các nhà máy có công suất lớn chỉ sản xuất cầm chừng do không đủ nguyên liệu (phụ thuộc nhập khẩu phần lớn gia công cho Bộ vật tƣ nhà nƣớc theo chất lƣợng cam kết, theo phần nguyên liệu đƣợc phân phối, sản phẩm giao cho ngƣời tiêu dùng theo lệnh phân phối của Bộ vật tƣ.
- Trong khi đó với sự nhạy cảm của một số ngƣời “khéo xoay sở “ trong thị trƣờng sơn lúc này hàng loạt tổ hợp và cơ sở tƣ nhân sản xuất sơn ra đời đáp ứng hầu nhƣ tất cả các loại sơn dầu chất lƣợng thấp cho ngƣời tiêu dùng, và đáp lại ngƣời tiêu dùng sẵn sàng mua để “xài”, bất chấp chất lƣợng tới đâu vì khi sơn xong phải mất 3 -6 tháng sau mới biết rõ tốt xấu.
- Tình hình này nếu còn kéo dài thêm ít năm nữa chắc ngành công nghiệp sơn Việt Nam sẽ bị tụt dốc nghiêm trọng về chất lƣợng sản phẩm – công nghệ, số lƣợng nhà sản xuất sơn có uy tín ở thị trƣờng và v.v..
- Từ 1986 với chính sách “đổi mới” toàn bộ cơ cấu kinh tế và xã hội, Việt Nam đã có những cải cách quan trọng về phát triển kinh tế, ngành sơn Việt Nam đã thực sự chuyển mình phát triển mới từ giai đoạn 1990  Giai đoạn Năm 1986, kinh tế Việt Nam bắt đầu bƣớc vào thời kỳ “đổi mới” với đặc tính của nền kinh tế thị trƣờng, nhƣng sự chuyển biến tích cực của nền kinh tế thị trƣờng, nhƣng sự chuyển biến tích cực của ngành sơn chỉ bắt đầu khởi đầu từ năm 1990 để bƣớc vào quá trình hội nhập phát triển với khu vực quốc tế và dần dần ổn định phát triển liên tục tới nay (2008) 5 Có thể tóm tắt đặc điểm lịch sử phát triển của ngành sơn Việt Nam trong giai đoạn nhƣ sau: a- Quá trình hội nhập Mức tiêu thụ (chủ yếu sơn trang trí) trung bình # 10.000 tấn/ năm.
- Sản phẩm chủ yếu do trong nƣớc sản xuất: sơn dầu alkyd chất lƣợng sản phẩm và công nghệ: không cao, không đáp ứng đƣợc yêu cầu về số lƣợng - chất lƣợng và chủng loại sơn (nhất là sơn trang trí gốc nƣớc và sơn công nghiệp) Xuất hiện thƣơng hiệu của các hãng sơn có tên tuổi trong khu vực và quốc tế nhƣ: ICI, Nippon, Akzonobel, Jotun, Interpaint, Toa Thái Lan, Uraiphanich… Các thƣơng hiệu Việt Nam: do 9 công ty và xí nghiệp sơn có trong giai đoạn trong đó giảm đi 3 xí nghiệp sơn của công ty sơn chất dẻo giải thể và sát nhập vào sơn Á Đông) b- Bƣớc đột phá về đầu tƣ Thuận lợi.
- GDP trung bình tăng trƣởng 8,8%/ năm  Ngành xây dựng tốc độ gia tăng mạnh là các yếu tố tích cực cho ngành sơn phát triển.
- Mức tiêu thụ: tăng vọt qua các năm: 10.000 tấn tấn tấn – 1997 Sơn trang trí chiếm tỉ lệ: 80% mức tiêu thụ Sơn tàu biển và bảo vệ chiếm tỉ lệ 20% mức tiêu thụ Mức độ đầu tƣ nƣớc ngoài về sơn đạt mức khoảng 90 triệu USD: có 20 công ty sơn nƣớc ngoài lập nhà máy liên doanh với Việt Nam hoặc 100% vốn nƣớc ngoài, đặc biệt là các công ty có tên tuổi lớn về sơn quốc tế đã nói trên đều có mặt.
- Mức độ đầu tƣ của các nhà làm sơn trong nƣớc: cũng đạt mức đáng khích lệ, ngoài các đơn vị Việt Nam bỏ vốn theo tỉ lệ liên doanh với các công ty sơn nƣớc ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đầu tƣ số vốn khoảng 5 triệu USD để lập nhà máy mới mở rộng xƣởng sản xuất, lắp đặt trang thiết bị mới, sản xuất sản phẩm mới (nhiều nhất là sơn nƣớc), mua công nghệ nƣớc ngoài (ví dụ sơn tàu biển và bảo vệ) Kết quả với dòng đầu tƣ đột phá này từ nƣớc ngoài kéo theo sự chuyển đổi mạnh mẽ của đầu tƣ trong nƣớc, chất lƣợng công nghệ sơn tại Việt Nam đã đƣợc “thay da đổi thịt” và tạo ra các dòng sản 6 phẩm có chất lƣợng theo yêu cầu thị trƣờng.
- Từ đó làm cơ sở hết sức quan trọng cho bƣớc phát triển nhảy vọt và ổn định cho các năm kế tiếp nhất là từ năm 2000 về sau.
- c- Quá trình phát triển ổn định trƣớc thách thức .
- Thách thức phát triển kinh tế Việt Nam: khủng hoảng tài chính khu vực Đông Nam Á Việt Nam tuy ít chịu ảnh hƣởng nhƣng cũng tăng trƣởng chậm lại qua các chỉ tiêu phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn này là.
- Vốn FDI (đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vào Việt Nam) (Năm 1996: vốn FDI đăng ký : 10,164 tỉ USD Năm Nguồn số liệu: Niên giám của Tổng cục Thống kê Việt Nam.
- Trong bối cảnh đó ngành sơn Việt Nam vẫn đạt tốc độ phát triển 15 - 20% năm và đến hết năm 1999, ngành sơn Việt Nam đã hồi phục sức phát triển với tốc độ cao bắt đầu từ năm 2000 và các năm kế tiếp.
- d- Quá trình phát triển với tốc độ cao .
- Bối cảnh lịch sử: Các nƣớc Đông Nam Á đã vƣợt qua giai đoạn khủng hoảng tài chính và nền kinh tế bắt đầu hồi phục và phát triển ổn định.
- Kinh tế Việt Nam ít bị ảnh hƣởng của khủng hoảng này, tuy có tăng trƣởng chậm lại nhƣng rất ổn định và ngày càng phát triển mạnh hơn – thể hiện qua các chỉ tiêu phát triển kinh tế sau đây.
- Nguồn số liệu: Niên giám của Tổng cục Thống kê Việt Nam.
- Ngành sơn Việt Nam sau khi đạt đƣợc sự phát triển ổn định trong giai đoạn thách thức khủng hoảng tài chính khu vực Đông Nam Á với tốc độ tăng trƣởng dao động 15 – 20%/năm thì bắt đầu từ năm 2000 đến năm 2007 là quá trình phát triển với tốc độ cao cùng với sự tăng trƣởng không ngừng của nền kinh tế Việt Nam với các đặc điểm phát triển nhƣ sau.
- Phát triển mạnh về sản lƣợng và chủng loại sơn: Sơn trang trí chiếm tỉ trọng lớn, tăng trƣởng trung bình 25%/năm, sơn tàu biển, bảo vệ, sơn công nghiệp ngày càng phát triển theo yêu cầu thị trƣờng (xem bảng số liệu các năm 1995 đến 2007 về phát triển thị trƣờng sơn VIệt Nam do Hiệp hội sơn và mực in Việt Nam – VPIA công bố.
- Đến năm 2007 đã có mặt tại Việt Nam hầu hết các hãng sơn lớn của thế giới dƣới hình thức đầu tƣ 100% vốn nƣớc ngoài hoặc gia công hợp tác sản xuất với các công ty Sơn Việt Nam.
- Bên cạnh đó, nhiều công ty Sơn Việt Nam (dạng cổ phần hoặc tƣ nhân 100% vốn Việt Nam cũng mạnh dạn mở rộng hoặc xây mới nhà máy, đầu tƣ thiết bị công nghệ mới, nâng cao chất lƣợng sản phẩm sơn cạnh tranh thị trƣờng theo yêu cầu ngƣời tiêu thụ.
- Có thể nói sự phát triển với tốc độ cao về sản lƣợng công nghệ mới và nâng cao chất lƣợng sản phẩm đã tạo ra bức tranh ngoạn mục của phát triển ngành sơn Việt Nam trong giai đoạn này.
- Sự phân chia thị trƣờng các loại sơn tại Việt Nam đến năm 2007 đã đạt mức quân bình kiểu “tám lạng nửa cân” giữa các thƣơng hiệu lớn không phân biệt “nƣớc ngoài” hay “nội địa” có thể kể ra nhƣ sau.
- Về sơn trang trí: 4 ORANGES - AKZO (ICI) DECORATIVE – NIPPON – KOVA – TISON BẠCH TUYẾT – SƠN TỔNG HỢP… 8  Về sơn tàu biển và bảo vệ: INTERPAINTS – SƠN HẢI PHÒNG – SƠN JOTUN – SƠN Á ĐÔNG – SƠN HẢI ÂU.
- Về sơn bột: AKZO CHANG CHENG – JOTUN- ĐẠI PHÚ – TÂN NAM PHÁT – Á ĐÔNG – SƠN TỔNG HỢP HÀ NỘI  Về sơn coil (tấm lợp): Á ĐÔNG – AKZO INDUSTRY COATINGS – PPG COATINGS – BECKER – KCC YUNGCHI.
- Về các loại sơn khác (ví dụ: Sơn ô tô OEM, sơn sàn, sơn kẻ đƣờng, sơn can, sơn plastic…) các thƣơng hiệu: Sơn tổng hợp Hà Nội, Nippon, PPG, KOVA, Sơn Hải Phòng.
- Dòng sản phẩm với công nghệ mới nhất của thế giới và khu vực là sơn trang trí gốc nƣớc sử dụng bột dioxit titan (TiO2) nano chất lƣợng cao đã đƣợc nhiều hãng sơn tại Việt Nam sản xuất bán ở thị trƣờng hoặc các loại sơn công nghiệp gốc nƣớc từ Epoxy, Polyurethan chất lƣợng cao cũng đã đƣợc sản xuất bán ra thị trƣờng theo xu hƣớng sản phẩm thân thiện môi trƣờng.
- Tuy nhiên, số lƣợng yêu cầu sử dụng chƣa nhiều do giá sản phẩm còn cao.
- Số lƣợng nhà sản xuất sơn bắt đầu tăng trƣởng mạnh: năm 2002 có 60 doanh nghiệp – năm 2004: 120 doanh nghiệp – năm 2006: 168 doanh nghiệp – năm 2008: 187 doanh nghiệp – năm 2009 (theo số thống kê cập nhật chƣa đƣợc kiểm tra): khoảng 250 doanh nghiệp.
- Nhận xét chung về thị phần và phân chia thị phần sơn Việt Nam thấy rằng.
- Cho đến năm 2008 các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài (khoảng hơn 30 doang nghiệp) vẫn chiếm 60% thị phần, 40% còn lại là phần các doanh nghiệp Việt Nam.
- Sơn trang trí chiếm tỉ trọng lớn về thể tích tổng sản lƣợng nhƣng lại có giá trị thấp, ứng với về trị giá.
- Với đặc điểm phát triển tốc độ cao trong giai đoạn này có mức tăng trƣởng trung bình 15 – 20% năm, số lƣợng Doanh nghiệp sản xuất sơn ngày càng gia tăng Việt Nam trở thành “điểm nóng” thu hút đầu tƣ của các nƣớc trong khu vực và quốc tế vào ngành công nghiệp sơn.
- Trong hoàn cảnh lịch sử đó, Hiệp hội ngành nghề sơn - mực in Việt Nam (tên giao dịch VPIA) đƣợc thành lập 25/4/2008 từ tổ chức tiền thân là phân hội sơn - mực in thuộc Hội 9 hóa học – Tp.Hồ Chí Minh.
- Ngay năm đầu tiên thành lập, tính đến 21/4/2009 VPIA đã quy tụ 112 Hội viên Doanh nghiệp có liên quan đến ngành nghề (trong số 71 Hội viên là doanh nghiệp sản xuất có: 54 doanh nghiệp sản xuất sơn, 10 doanh nghiệp sản xuất mực in, 7 doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu và thiết bị sản xuất sơn) VPIA là thành viên chính thức của tổ chức APIC (Hội đồng quốc tế sơn Châu Á) gồm 17 Hiệp hội sơn các nƣớc trong khu vực.
- VPIA là một Hiệp hội ngành nghề còn non trẻ, tập hợp số lƣợng Hội viên chƣa lớn (64 Hội viên sản xuất sơn – mực in so với tổng số năm 2009 khoảng 280 doanh nghiệp sản xuất sơn - mực in trong cả nƣớc.
- Hiện nay, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu VPIA đang bƣớc đầu hội nhập vào con đƣờng hoạt động chuyên nghiệp, với nhận định của các chuyên gia kinh tế có uy tín của thế giới, nền kinh tế Việt Nam sẽ sớm phục hồi và có thể gữ mức tăng trƣởng trên 3% năm 2009, riêng ngành công nghiệp sơn vẫn đạt mức tăng trƣởng mạnh về sơn bảo vệ và tàu biển, sơn trang trí…VPIA hy vọng sẽ hoạt động có hiệu quả trong quá trình bảo vệ lợi ích của Hội viên và đƣa ngành sơn mực in Việt Nam hội nhập tốt vào các nƣớc khu vực và quốc tế.
- 10 BẢNG TỔNG HỢP MỨC TĂNG TRƢỞNG CỦA THỊ TRƢỜNG SƠN VIỆT NAM SỐ THỨ LOẠI SƠN MỨC TIÊU THỤ NĂM TỰ Triệu (Triệu (Triệu (Tấn ) (Tấn) (Tấn) (Tấn) lít) lít) lít.
- Sơn tàu biển và bảo vệ Sơn công .
- nghiệp Sơn đồ gỗ Sơn bột - Sơn coil (tấm lợp) Sơn khác Sơn can .
- Hội nghị thị trƣờng sơn Châu Á – ACM – Singapore 2005.
- Báo cáo phân tích thị trƣờng Sơn và chất phủ toàn cầu.
- Ðể biết thêm chi tiết có thể truy cập vào ðịa chỉ trang web :www- paint.org/pubs/global-anlysis.cfm CAPCJ tháng 2/2009 – trang 6 ).CAPCJ tháng 2/2009 – trang 6.
- Thị trường sơn Nano công nghiệp.
- Dự đoán sẽ tăng trƣởng mạnh đến 2013 ,toàn cầu sẽ đạt giá trị hơn 5 tỉ USD.
- Ðánh giá mức ðộ sử dụng sơn Nano công nghiệp ở những thị trƣờng Châu âu nhƣ sau .(báo cáo ngày 1/5/2009.
- Sơn trang trí ,sơn trên kính : cấp độ >3 · Sơn bảo vệ va tàu biển : cấp độ # 2 · Sơn coil , sơn can : cấp độ >1