Tạp chí Khoa học và Công nghệ 53 (1) (2015) 64-74
BƯỚC ĐẦU XÁC ĐỊNH HÀM LƯỢNG MỘT SỐ KIM LOẠI NẶNG
TRONG MÔI TRƯỜNG NƯỚC SÔNG HỒNG
Nguyễn Thị Bích Ngọc1, Lê Thị Phương Quỳnh1, *, Nguyễn Thị Mai Hương1,
Nguyễn Bích Thủy1, Vũ Duy An1, Dương Thị Thủy2, Hồ Tú Cường2,
Trần Thị Bích Nga3
1
Viện Hóa học các Hợp chất thiên nhiên, Viện HLKHCNVN, 18 Hoàng Quốc Việt, Hà Nội
2
Viện Công nghệ môi trường, Viện HLKHCNVN, 18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội
3
Cục Khí tượng thuỷ văn và Biến đổi khí hậu, 8 Pháo Đài Láng, Hà Nội
*
Email: quynhltp@yahoo.com
Đến Tòa soạn: 23/4/2014; Chấp nhận đăng: 17/9/2014
TÓM TẮT
Chất lượng môi trường, đặc biệt là môi trường nước đang ngày càng được quan tâm. Bài
báo trình bày kết quả quan trắc hàng tháng về hàm lượng kim loại nặng hòa tan trong nước sông
Hồng tại Yên Bái, Hà Nội, Hòa Bình và Vụ Quang trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 10 năm
2012. Kết quả quan trắc cho thấy hàm lượng một số kim loại nặng dạng hòa tan trong nước sông
Hồng thay đổi trong khoảng rộng: Cu: 10 – 80 µg/l; Zn: 2 – 88 µg/l; Cr: 0,2 – 5,1 µg/l; Pb: 2 107 µg/l; Cd: : 2 – 12 µg/l; Mn: 2 - 35 µg/l; Fe: 160 – 950 µg/l. Hàm lượng của hầu hết các kim
loại nặng tại 4 vị trí quan trắc đều nằm trong giới hạn cho phép của Quy chuẩn Việt Nam đối với
chất lượng nước mặt QCVN 08:2008/BTNMT. Tuy nhiên, tại một số thời điểm quan trắc, hàm
lượng của một số kim loại như Fe, Cd và Pb đã vượt quá giới hạn cho phép của Quy chuẩn Việt
Nam. Các kết quả này chỉ ra rằng cần phải liên tục giám sát chất lượng nước sông để giảm thiểu
những tác động bất lợi đến sức khỏe con người, cũng như tới hệ thủy sinh thái.
Từ khóa: ô nhiễm, chất lượng nước, kim loại nặng, sông Hồng.
1. MỞ ĐẦU
Lưu vực sông Hồng có vị trí địa lí đặc biệt, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh
tế - xã hội của miền Bắc Việt Nam. Sông Hồng cung cấp nước cho các hoạt động sản xuất công
nghiệp, nông nghiệp trong lưu vực, và đồng thời cung cấp nước sinh hoạt cho một số cộng đồng
dân cư ven sông, bao gồm một số tỉnh đồng bằng. Tuy nhiên, song song với sự phát triển kinh tế
trong lưu vực, ô nhiễm môi trường nước trong lưu vực là vấn đề cần quan tâm.
Kim loại nặng (KLN) là một trong những thông số ô nhiễm môi trường đáng được chú ý.
Hàm lượng cao KLN trong môi trường đất và nước, theo chuỗi thức ăn, sẽ có ảnh hưởng đáng kể
tới đời sống động, thực vật và con người. Một số KLN đóng vai trò là nguyên tố vi lượng cung
cấp cho cơ thể con người và theo tiêu chuẩn WHO quy định trong nước uống như sau: Cr ≤ 50
µg/l; Cd ≤ 5 µg/l; Mn ≤ 50 µg/l; Pb ≤ 25 µg/l [1]. Nếu vượt quá ngưỡng quy định chúng sẽ được
Bước đầu xác định hàm lượng một số kim loại nặng trong môi trường nước sông Hồng
tích lũy và gây ảnh hưởng đến hệ thần kinh, gây độc cho các cơ quan trong cơ thể và đặc biệt với
một số KLN có độc tính cao, chúng có thể gây độc ở mức vi lượng (như Pb, Cd, ..) [1].
Hàm lượng KLN trong nước sông chịu ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố tự nhiên và/hoặc
do con người tạo ra. Các nguồn tự nhiên chính được kể đến như chế độ khí hậu – thủy văn, địa
chất, địa mạo lưu vực liên quan đến khoáng chất và rửa trôi đất góp phần gia tăng hàm lượng
KLN trong nước sông. Các nguồn cung cấp KLN do con người tạo ra chủ yếu có liên quan với
nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt, nước từ bãi rác, khai thác khoáng sản, rửa trôi
phân bón hóa học … (Hình 1) [2, 3]. Với mục đích sử dụng nước sông Hồng như hiện nay, vấn
đề đặt ra là cần có các quan trắc, đánh giá chất lượng nước, đặc biệt là hàm lượng các kim loại
trong môi trường nước sông.
.
Hóa chất phân
bón và thuốc
BVTV
Nước
tưới
Chất thải
và bã bùn
cống
ĐẤT
Chất thải
công
nghiệp
Kĩ nghệ, khai
khoáng và
giao thông
Xói mòn đất
Lắng
đọng từ
khí quyển
NƯỚC MẶT
NƯỚC NGẦM
Hình 1. Ô nhiễm kim loại nặng do tác động của con người đối với đất và nước [4].
Bài báo này trình bày các kết quả bước đầu khảo sát hàm lượng một số KLN (Pb, Cd, Zn,
Mn, Cr, Fe, Cu) trong môi trường nước hệ thống sông Hồng, đoạn chảy từ Yên Bái đến Hà Nội,
trong giai đoạn 1/2012 – 10/2012. Kết quả đạt được góp phần đánh giá chất lượng nước sông
nhằm sử dụng nguồn nước an toàn và hiệu quả cho các mục đích công - nông - ngư nghiệp và
dân sinh.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Sông Hồng là một trong chín hệ thống sông lớn ở Việt Nam có tổng diện tích lưu vực đạt
156.451 km2. Ba nhánh chính (Đà, Lô, Thao) ở phần thượng nguồn gặp nhau tại Việt Trì, tạo
nên châu thổ sông Hồng. Lưu vực sông Hồng chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa với
đặc trưng khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều. Lượng mưa bình quân hàng năm dao động trong khoảng
1500 – 2000 mm. Lưu lượng nước hệ thống sông Hồng vào mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 10)
cao hơn so với mùa khô. Số liệu đo đạc lưu lượng nước hàng ngày trong năm 2012 của Viện Khí
tượng, Thủy văn và Môi trường cho thấy lưu lượng nước trung bình tại các trạm thủy văn Yên
Bái, Hòa Bình, Vụ Quang và Hà nội năm 2012 lần lượt là 560 m3/s; 1453 m3/s; 1160 m3/s; và
2019 m3/s.
65
Nguyễn Thị Bích Ngọc và NNK
Trong lưu vực sông Hồng, dân số phân bố không đều với mật độ dân cư nhỏ hơn 100
người/km2 ở vùng thượng nguồn và lớn hơn 1000 người/km2 ở vùng đồng bằng [5]. Theo các tài
liệu thống kê, trong vùng lưu vực, đất xám và đất phù sa chiếm chủ yếu 70 %; các loại đất khác
như đất mặn, đất phèn, đất nâu đỏ, đất đá bột… có tỉ lệ nhỏ (<5 %). Về mặt sử dụng đất, đất
rừng và đất đồng cỏ chiếm phần lớn ở vùng thượng nguồn lưu vực (34 % và 24 % tương ứng),
đất trồng cây công nghiệp chiếm 10 %, đất trồng lúa chiếm 8 % và đất đô thị chỉ chiếm phần rất
nhỏ (< 1 %). Sản xuất công nghiệp được phát triển trong thời gian gần đây với 6 ngành công
nghiệp chính: cơ khí điện tử (15 %); chế biến lương thực- thực phẩm (20 %); dệt nhuộm (12 %);
giấy – gỗ (13 %); hóa chất (10 %) và vật liệu xây dựng (29 %) [6]. Nguồn nước sông Hồng chịu
tác động bởi các hoạt động sản xuất công - nông nghiệp cũng như khai thác khoáng sản trong
lưu vực ngày một gia tăng, làm cho chất lượng nước sông Hồng ngày càng xấu đi theo không
gian và thời gian [7].
Yên Bái
Vụ Quang
Hoà Bình
Hà Nội
Ba Lạt
Hình 2. Sơ đồ các vị trí lấy mẫu trên hệ thống sông Hồng.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thời gian và vị trí lấy mẫu: Các mẫu nghiên cứu được lấy hàng tháng trong thời gian từ
tháng 1/2012 – 10/2012 tại 4 vị trí: trạm thuỷ văn Hòa Bình (sông Đà); trạm Vụ Quang (sông
Lô); trạm Yên Bái (sông Thao) và trạm Hà Nội, trên nhánh chính sông Hồng (Hình 2).
Phương pháp lấy mẫu và bảo quản mẫu: Các mẫu nước mặt ở giữa dòng sông, được lấy
theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 6663-6: 2008. Các mẫu nước được lọc qua giấy lọc GF/F có
kích thước lỗ 0,45 µm để phân tích hàm lượng các KLN và được bảo quản trong chai thủy tinh
tối màu, trữ lạnh ở 4 0C, trong môi trường axit.
Phương pháp xác định: Các chỉ tiêu pH, DO, độ dẫn điện và độ đục được đo đạc trực tiếp
tại hiện trường bằng máy đo nhanh đa chỉ tiêu WQC-22A (TOA, Nhật Bản). Hàm lượng các
KLN được xác định bằng phương pháp so màu theo tiêu chuẩn Việt Nam trên máy DRELL 2800
(HACH, Mĩ) như sau: Cu: TCVN 4572 – 88; Zn: TCVN 4575 – 88; Cr: TCVN 6658 – 2000;
Cd: TCVN 2664 – 78; Pb: TCVN 4573 – 88; Mn: TCVN 6002 – 1995 và Fe: TCVN 6177 1996. Các phép đo được lặp lại 3 lần và kết quả là giá trị trung bình.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Chỉ tiêu hóa lí
66
Bước đầu xác định hàm lượng một số kim loại nặng trong môi trường nước sông Hồng
Giá trị pH trung bình của các mẫu nước sông Hồng tại các điểm quan trắc dao động từ 6,7 –
8,4; hàm lượng oxy hòa tan dao động từ 3,42 – 6,06 mg/l. Độ dẫn điện trung bình trạm thủy văn
Yên Bái, Vụ Quang, Hòa Bình và Hà Nội đạt 166; 172; 164 và 176 µS/cm tương ứng. Độ đục
giữa các trạm quan trắc có sự chênh lệch nhau khá lớn từ 1 – 309 NTU, trạm Hòa Bình có độ
đục thấp nhất so với các trạm khác do sự vận hành của các hồ chứa Hòa Bình và Sơn La trên
sông Đà.
3.2. Hàm lượng một số kim loại nặng
Kết quả quan trắc hàm lượng các KLN trong thời gian từ tháng 1 – tháng 10 năm 2012 tại 4
trạm thủy văn Yên Bái, Hòa Bình, Vụ Quang và Hà Nội được trình bày trong bảng 1. Bảng 1
cho thấy, đa số hàm lượng các KLN (Pb, Cd, Zn, Mn, Cr, Fe, Cu) nằm trong giới hạn cho phép
cột A1 của QCVN 08:2008/BTNMT, ngoại trừ một số KLN như Cd, Pb, và đặc biệt là Fe ở một
vài thời điểm tại các trạm quan trắc đã vượt quá ngưỡng cho phép của quy chuẩn trên, được trình
bày cụ thể dưới đây:
Bảng 1. Hàm lượng một số KLN dạng hòa tan (µg/l) (giá trị trung bình; (giá trị nhỏ nhất – lớn nhất)
và giá trị median) trong nước hệ thống sông Hồng giai đoạn 1/2012 – 10/2012.
Các chỉ
tiêu
Trạm Yên Bái
Trạm Vụ
Quang
Trạm Hoà
Bình
Trạm Hà
Nội
QCVN
08:2008/BTNMT
(Cột A1 *)
34
43
34
31
(20 –40)
(24 –80)
(10 –60)
(20 –50)
100
33,5
39,0
35,0
30,0
29
31
25
31
Zn
(3 –62)
(2 –87)
(5 –88)
(5 –88)
500
18,6
23,4
13,8
13,4
1,6
1,6
1,4
2,0
Cr
(0,5 –5,1)
(0,4 –4,1)
(0,2 –4,2)
(0,2 –5,0)
10
1,1
1,5
0,9
1,3
8,0
8,0
12
15
Pb
(2 –13)
(3 –17)
(2 –68)
(2 –107)
20
8,5
7,3
6,1
6,3
6
5
6
6
Cd
(4 –8)
(4 –7)
(4 –7)
(2 –12)
5
5,0
4,8
5,2
6,0
13
10
10
11
Mn
(5 –35)
(5 –19)
(2 –19)
(7 –18)
8,0
10,0
9,1
9,6
720
530
530
950
Fe
(250 – 2760)
(170 –750)
(170– 2100)
(160 – 2370)
500
495
250
280
535
*: Quy chuẩn 08:2008/BTNMT cột A1 quy định cho nguồn nước “Sử dụng tốt cho mục đích cấp nước
sinh hoạt và các mục đích khác”.
Cu
67
Nguyễn Thị Bích Ngọc và NNK
Hàm lượng Cu: tại 4 vị trí quan trắc biến đổi trong khoảng từ 10 – 80 µg/l, trung bình đạt
35,5 µg/l, hoàn toàn nằm trong giới hạn cho phép QCVN 08:2008/BTNMT, cột A1 (<100 µg/l).
Hàm lượng Cu trung bình cao nhất ghi nhận được tại trạm Vụ Quang và thấp nhất tại trạm Hà
Nội. Hàm lượng Cu tại 4 trạm quan trắc trên sông Hồng gần với một số sông khác ở miền Bắc
như sông Tô Lịch tại Nghĩa Đô (10 µg/l), tại cửa sông Đáy (38 µg/l), sông Sét (10 µg/l) [8], và
nhỏ hơn so với sông Nhuệ (151 µg/l) [9]. Hàm lượng Cu tại 4 trạm thủy văn có sự khác biệt theo
mùa, mùa khô có xu hướng cao hơn mùa mưa (Hình 3a), gợi ý rằng Cu có thể có nguồn gốc từ
các nguồn thải điểm (mỏ khai thác khoáng sản, nước thải công nghiệp… ) trong lưu vực.
Hàm lượng Zn: biến đổi trong khoảng từ 2 –88 µg/l, trung bình đạt 29 µg/l, luôn nằm trong
giới hạn cho phép của QCVN 08:2008/BTNMT, cột A1 (<500 µg/l). Các giá trị cao nhất đạt
được vào tháng 8/2012 và thấp nhất vào tháng 4/2012 tại tất cả các vị trí quan trắc, ngoại trừ
trạm Vụ Quang (Hình 3b). Các giá trị trung bình tại các trạm Yên Bái, Vụ Quang, Hòa Bình và
Hà Nội lần lượt là 29; 31; 25 và 31 µg/l. Các giá trị này của sông Hồng so với một số sông khác
không có sự khác biệt nhiều: sông Nhuệ (cầu Hà Đông) 20 µg/l; sông Sét (cầu Sét) 30 µg/l; cửa
sông Đáy 50 µg/l [8]. Tuy nhiên, so với giá trị trung bình của sông Nhuệ (440 µg/l) thì nhỏ hơn
rất nhiều lần [9]. Quan sát thấy gia tăng hàm lượng Zn trong nước sông Hồng vào các tháng 8, 9
và 10 năm 2012, gợi ý rằng nguồn cung cấp chính Zn cho nước sông Hồng đến từ nguồn thải
phát tán (xói mòn đất đá trong lưu vực, rửa trôi từ canh tác đất nông nghiệp…) (Hình 3b).
Hàm lượng Cr: Trong nước sông Hồng, hàm lượng Cr thay đổi trong khoảng từ 0,2 –5,1
µg/l, trung bình đạt 1,7 µg/l. Giá trị cao nhất được ghi nhận tại trạm Hà Nội (5,1 µg/l) vào tháng
2. Các giá trị quan trắc đều nằm trong giá trị cho phép của quy chuẩn Việt Nam (< 10 µg/l). Tuy
vậy, các giá trị này lớn hơn nhiều so với sông Nhuệ tại địa phận Cầu Diễn (0,16 µg/l), nhưng
nhỏ hơn sông Tô Lịch đoạn chảy từ Hoàng Quốc Việt đến Ngã Tư Sở (6,9 µg/l) [8]. Hàm lượng
Cr trong sông Hồng có sự khác biệt không đáng kể theo mùa, cao vào các tháng 1, 2, 7 và 8,
thấp vào các tháng 3 ÷ 6. (Hình 3c). Các nguồn cung cấp Cr cho nước sông Hồng có thể từ
nguồn thải điểm như nước thải công nghiệp (như sản xuất sơn, thuộc da, bột màu, thuốc nhuộm,
khai thác và chế biến các kim loại …), chất thải đô thị, hóa chất tẩy rửa...
Hàm lượng Pb: dao động trong khoảng từ 2,0 –107 µg/l tại 4 vị trí quan trắc, trung bình đạt
10,8 µg/l. Giá trị trung bình Pb của sông Hồng gần với giá trị Pb của sông Hoàng Long tại bến
Đế (11,5 µg/l), tại cửa sông Đáy (8,1 mg/l) [8], sông Tô Lịch đoạn chảy từ Hoàng Quốc Việt đến
Ngã Tư Sở (4,4 µg/l), nhưng cao hơn sông Lừ tại Phương Liệt (0,44 µg/l) [8] và nhỏ hơn sông
Nhuệ (31 µg/l) [9]. Mặc dù hàm lượng trung bình Pb trong nước sông Hồng nhỏ hơn giá trị cho
phép của quy chuẩn Việt nam (< 20 µg/l), nhưng trong quá trình quan trắc, tại một số thời điểm,
hàm lượng Pb vượt quá tiêu chuẩn cho phép 2 ÷ 5 lần, trạm Hòa Bình vào tháng 1 (68 µg/l), và
trạm Hà Nội vào tháng 3 (107 µg/l) (hình 3d). Ô nhiễm Pb trong nước sông Hồng có thể có
nguyên nhân do nước thải sản xuất công nghiệp (ví dụ do nước thải của một số nhà máy sản xuất
pin, hóa chất tại Việt Trì, nước thải sinh hoạt, các hoạt động của phương tiện giao thông vận tải
sử dụng xăng pha chì, khai thác khoáng sản, lắng đọng khí quyển ...
Hàm lượng Mn: dao động trong khoảng 2 – 35 µg/l, trung bình đạt 11 µg/l. Quy chuẩn Việt
nam 08:2008/BTNMT chưa quy định giá trị cho hàm lượng Mn trong nước mặt. Hàm lượng Mn
cao nhất đạt được vào tháng 4/2012 tại trạm Yên Bái (Hình 3e). Mn đi vào môi trường nước
sông có thể do quá trình rửa trôi, xói mòn, do các chất thải công nghiệp luyện kim, acqui hoặc
rửa trôi phân bón hoá học từ đất nông nghiệp.
68
Bước đầu xác định hàm lượng một số kim loại nặng trong môi trường nước sông Hồng
100
Hàm lượng Zn, µ g /l
Vụ Quang
Hòa Bình
Yên Bái
17/10/2012
16/09/2012
16/08/2012
16/07/2012
15/06/2012
12/01/2012
Yên Bái
60
40
20
0
40
17/10/2012
17/10/2012
16/09/2012
16/08/2012
16/07/2012
15/06/2012
15/05/2012
Hà Nội
Hà Nội
Vụ Quang
Hòa Bình
Yên Bái
f)
30
9
20
17/10/2012
16/09/2012
16/08/2012
16/07/2012
15/06/2012
15/05/2012
0
14/04/2012
17/10/2012
16/09/2012
16/08/2012
16/07/2012
15/06/2012
15/05/2012
14/04/2012
14/03/2012
12/02/2012
0
10
14/03/2012
e)
12/02/2012
3
12/01/2012
6
12/01/2012
Hàm lượng Cd, µ g/l
12
14/04/2012
14/03/2012
12/02/2012
12/01/2012
0
Hòa Bình
16/09/2012
1
80
16/08/2012
2
Vụ Quang
16/07/2012
3
Hà Nội
100
14/04/2012
c)
15
d)
120
14/03/2012
4
0
12/02/2012
Yên Bái
20
17/10/2012
16/09/2012
16/08/2012
16/07/2012
15/06/2012
15/05/2012
Vụ Quang
Hòa Bình
Hàm lượng Cr, µ g/l
5
Hà Nội
40
12/01/2012
6
14/04/2012
14/03/2012
12/02/2012
12/01/2012
0
b)
60
15/06/2012
20
Yên Bái
15/05/2012
40
Vụ Quang
Hòa Bình
15/05/2012
a)
60
80
Hàm lượng Pb, µ g/l
Hàm lượng Cu, µ g/l
80
Hà Nội
14/04/2012
Yên Bái
14/03/2012
Vụ Quang
Hòa Bình
12/02/2012
Hà Nội
Hàm lượng Mn, µ g/l
100
Hình 3. Hàm lượng một số kim loại nặng dạng hòa tan tại các trạm thủy văn lưu vực sông Hồng:
a) Hàm lượng Cu; b) Hàm lượng Zn; c) Hàm lượng Cr; d) Hàm lượng Pb; e) Hàm lượng Cd;
f) Hàm lượng Mn.
Hàm lượng Cd: trong khoảng từ 2,0 – 12,0 µg/l, trung bình đạt 5,8 µg/l tại 4 vị trí quan
trắc. Giá trị trung bình của 4 trạm thủy văn hầu như không có sự khác biệt (5 – 6 µg/l) theo các
tháng quan trắc, đồng thời ít biến đổi tại hai trạm Hòa Bình và Vụ Quang, có sự biến đổi đồng
điệu giữa hai trạm Yên Bái và Hà Nội (Hình 3e). Hàm lượng Cd trung bình và tại một số thời
điểm ở các trạm vượt quá quy chuẩn cho phép (5 µg/l): trạm Hòa Bình (7 µg/l) vào tháng 1 và
tháng 10; trạm Vụ Quang (7 µg/l) vào tháng 6 và tháng 10; trạm Yên Bái (7 và 8 µg/l) vào tháng
69
Nguyễn Thị Bích Ngọc và NNK
5 và tháng 10; và tại trạm Hà Nội (12 và 7 µg/l) vào tháng 5 và tháng 10. Sự ô nhiễm này có thể
gây ra do nước thải công nghiệp (ví dụ: ngành sản xuất thuốc nhuộm và các chất màu sơn, bột
màu, men thủy tinh..,),do nước thải sinh hoạt, do rửa trôi, xói mòn từ đất canh tác nông nghiệp
có phân bón dư thừa, do quá trình khai thác các mỏ kim loại hoặc do lắng đọng bụi khí quyển
trong lưu vực sông Hồng. Tuy nhiên, các giá trị quan trắc trên sông Hồng trong nghiên cứu này
vẫn nhỏ hơn so với hàm lượng Cd trên sông Nhuệ tại địa phận Cầu Diễn (31 µg/l) [9].
Hàm lượng Fe: dao động trong khoảng từ 160 – 2760 µg/l, trung bình đạt 680 µg/l. Hàm
lượng trung bình Fe toàn hệ thống sông Hồng, cũng như trung bình tại trạm Hà Nội (720 µg/l),
Yên Bái (950 µg/l) và tại một số thời điểm ở các trạm quan trắc đã vượt tiêu chuẩn cho phép
QCVN 08:2008/BTNMT, cột A1 (<500 µg/l) từ 1-5 lần. Hàm lượng Fe có xu hướng tăng cao
trong mùa mưa, điều này cho thấy liên quan đến nguồn thải điểm và nguồn thải phát tán từ khai
khoáng, phân bón dư thừa, nước thải sinh hoạt, do xói mòn cơ học từ địa chất tự nhiên trên toàn
bộ lưu vực sông. Kết quả quan trắc này cũng phù hợp với báo cáo kết quả phân tích của Trung
tâm Quan trắc môi trường và Cục Kiểm soát ô nhiễm Lào Cai [10]: nước sông Hồng tại Lào Cai
bị ô nhiễm Fe
y = -6.3447Ln(x) + 79.396
R2 = 0.1376
80
80
60
60
20
20
0
2000
4000
0
6000
4000
6000
y = -3.0809Ln(x) + 32.209
R2 = 0.0195
40
20
0
4000
Lưu lượng nước, m3/s
6000
2000
4000
6000
3
Lưu lượng nước, m /s
y = -1.8338Ln(x) + 23.743
R2 = 0.0598
20
10
0
2000
0
14
12
10
8
6
4
2
0
y = 0.3209Ln(x) + 3.2954
R2 = 0.0281
C d, µg/l
30
M n , µ g /l
40
100
80
Pb, µg /l
2000
Lưu lượng nước, m /s
120
0
2
1
3
3
Lưu lượng nước, m /s
60
3
0
0
0
y = -0.4764Ln(x) + 4.9309
R2 = 0.0917
5
4
C r, µg/l
40
40
6
y = 11.346Ln(x) - 49.323
R2 = 0.1495
100
Zn , µ g/l
C u, µg/l
100
0
2000
4000
6000
3
Lưu lượng nước, m /s
0
2000
4000
6000
3
Lưu lượng nước, m /s
Hình 4. Mối quan hệ giữa hàm lượng một số kim loại nặng và lưu lượng nước của hệ thống sông
Hồng giai đoạn 1/2012 – 10/2012.
Hình 4 biểu diễn mối quan hệ giữa hàm lượng các kim loại quan trắc với lưu lượng nước
sông Hồng tại 4 trạm thủy văn. Có thể thấy hàm lượng các KLN được quan trắc không có xu
hướng biến đổi rõ rệt theo lưu lượng nước sông, phản ánh nguồn gốc đa dạng của KLN trong
nước sông, bao gồm cả nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc từ các hoạt động của con người trong
lưu vực.
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu về hàm lượng các KLN dạng hòa tan trong nước sông
(Bảng 2). Bảng 2 cho thấy hàm lượng trung bình của một số KLN dạng hòa tan trong nước sông
Hồng thấp hơn nhiều so với sông Kasardi (Mumbai, Ấn Độ), nơi chảy qua vùng sản xuất công
70
Bước đầu xác định hàm lượng một số kim loại nặng trong môi trường nước sông Hồng
nghiệp. Các giá trị KLN của sông Hồng rất gần với một số sông trên thế giới như sông Han
(Trung Quốc), sông Lerma (Mexico) nhưng vẫn lớn hơn so với hàm lượng trung bình KLN được
tìm thấy trong các dòng sông trên thế giới [11]. Hàm lượng một số KLN như Cd, Pb, Fe trong
nước sông Hồng tại một số thời điểm ở các trạm quan trắc vượt quá giới hạn cho phép của
QCVN 08-2008/ BTNMT cột A1. Sự ô nhiễm này có thể gây ra do chất thải và nước thải từ các
khu công nghiệp, canh tác nông nghiệp, chăn nuôi và các làng nghề, khai thác khoáng sản…
trong lưu vực và do các yếu tố tự nhiên của lưu vực (địa chất, chế độ khí hậu – thủy văn…).
Bảng 2. Hàm lượng trung bình một số kim loại nặng dạng hòa tan trong một số sông trên thế giới.
Tên sông
(Tên nước)
Hàm lượng một số kim loại nặng, µg/l
Tác giả
Cu
Zn
Cr
Pb
Cd
Mn
Fe
2,3
0,39
-
0,0168
0,0131
1,04
1,12
Guieu & cs,
1998 [12]
0,9090,0
16,2168,7
0,61 –
2,94
0,8 80,7
0,60 0,73
5,3 583,8
-
Guéguen &
Dominik
[2003] [13]
Lerma
(Mexico)
10 - 40
-
5 - 19
3 - 14
-
9 - 298
98 984
Zarazua &
cs., 2006 [3]
Asunle
(Nigeria)
130 390
430 1000
-
5 - 17
3-6
300 1390
-
Ogunfowokan
& cs., 2013
[14]
Sabarmati
(Ấn Độ)
0,7-14,2
5,0146,0
1,014,98
0,311,65
0,0050,042
-
-
Gandhi, 2013
[15]
Kasardi (Ấn
Độ)
8100 44300
1290016700
15200
-19100
8600 33900
12200 18400
-
7800 13700
Lokhande &
cs., 2011 [16]
Han (Trung
Quốc)
13,4
-
8,14
9,26
2,34
30,7
30,64
Li & Zhang,
2010 [17]
Sông Hồng*
31
31
2,0
15
6
11
950
Nghiên cứu
này
Trung bình
sông thế giới
1,48
0,60
0,70
0,08
0,08
34
66
Viersa & cs,
2009 [11]
Danube
(Rumani)
Upper
Vistula
Lan)
(Ba
*: giá trị trung bình tại trạm Hà Nội, trên nhánh chính sông Hồng, sau hợp lưu của các sông Thao – Đà – Lô, giai đoạn
1/2012 – 10/2012.
Trong lưu vực sông Hồng, phát triển sản xuất công nghiệp (CN) thời gian gần đây đã và
đang có ảnh hưởng xấu đến chất lượng nước sông, trong đó có hàm lượng các KLN [18]. Vùng
thượng nguồn phát triển ngành CN khai khoáng, trong đó phải kể đến một số mỏ khai thác
khoáng sản ở vùng thượng nguồn Trung Quốc và mỏ Apatit ở Lào Cai. Các khu công nghiệp tập
trung, trong đó có khu CN Việt Trì, có khối lượng nước thải lớn vào sông Hồng (chỉ tính khối
lượng nước thải CN của 28 nhà máy, doanh nghiệp có nguy cơ gây ô nhiễm đã là 102.000
m3/ngày). Bảy tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng (Hà Nội, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Hải
Phòng, Hải Dương và Hưng Yên) có tổng lượng nước thải công nghiệp đạt 155.055 m3/ngày
[18]... Và như vậy, nếu nước thải không được xử lí triệt để, sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng nước sông. Vấn đề quản lí và xử lí nước thải không chặt chẽ của các cơ quan chức
67
Nguyễn Thị Bích Ngọc và NNK
năng liên quan cũng gián tiếp góp phần làm gia tăng hàm lượng kim loại trong môi trường nước.
Nguồn gây ô nhiễm KLN khác có thể kể tới trong lưu vực sông Hồng là gia tăng sử dụng phân
bón hóa học trong nông nghiệp. Với diện tích đất canh tác lớn trong lưu vực, khối lượng phân
bón hóa học đã và đang được sử dụng là lớn. Hiện nay, lượng phân bón hóa học sử dụng trên 1
ha lên tới 120-180 kg/năm, tăng gấp 4 lần so với hai thập niên trước đây trên cả hai địa phận
Trung Quốc và Việt Nam [7]... Như đã đề cập ở trên, sự tích lũy của các KLN trong môi trường
đất canh tác nông nghiệp và qua quá trình rửa trôi, ảnh hưởng tới nước mặt, không chỉ ảnh
hưởng tới sự phát triển của các loại cây trồng mà nghiêm trọng hơn, nó ảnh hưởng tới sức khỏe
của con người cũng như các loài động vật thông qua chuỗi thức ăn. Canh tác nông nghiệp gây ô
nhiễm KLN trong môi trường đất và nước đã được quan trắc trong nhiều nghiên cứu trước đây
[2, 19, 20, 21].
4. KẾT LUẬN
Các kết quả quan trắc bước đầu hàm lượng một số KLN trong nước sông Hồng tại 4 trạm
thủy văn trong giai đoạn tháng 1/2012 – 10/2012 đã cho thấy đa số hàm lượng các KLN (Cu, Zn,
Cr, Mn, Pb, Fe) trong nước sông Hồng có sự biến đổi theo mùa không rõ rệt. Hàm lượng các
KLN trong nước sông Hồng biến đổi trong khoảng rộng: Cu: 10 – 80 µg/l; Zn: 2 – 88 µg/l; Cr:
0,2 – 5,1 µg/l; hàm lượng Pb: 2 - 107 µg/l; Cd: 2 – 12 µg/l; hàm lượng Mn: 2 - 35 µg/l; hàm
lượng Fe: 160 – 950 µg/l. Hàm lượng trung bình KLN trong nước sông Hồng tại 4 điểm quan
trắc chủ yếu nằm trong giới hạn cho phép của Quy chuẩn QCVN 08:2008/BTNMT cột A1. Tuy
nhiên, tại một số thời điểm quan trắc, hàm lượng kim loại như Fe, Cd và Pb đã vượt quá giá trị
cho phép. Kết quả của nghiên cứu bước đầu cũng chỉ ra KLN trong nước sông Hồng có nguồn
gốc đa dạng bao gồm cả nguồn gốc tự nhiên và do các hoạt động của con người trong lưu vực.
Bên cạnh các yếu tố tự nhiên như đia chất, chế độ khí hậu –thủy văn, các hoạt động của con
người như gia tăng sản xuất công nghiệp, đô thị hóa mà không có các hệ thống xử lí hoặc hệ
thống xử lí nước thải hoạt động không hiệu quả, gia tăng phân bón trong canh tác nông nghiệp,
khai thác khoáng sản, các hoạt động của các phương tiện giao thông… đã và đang có ảnh hưởng
tới chất lượng nước sông, trong đó có các KLN.
Do quan trắc thấy sự gia tăng hàm lượng một số KLN (Cd, Pb, Fe) dạng hòa tan trong nước
sông, và với nhu cầu sử dụng nước sông như hiện nay, cần phải liên tục giám sát chất lượng
nước sông để giảm thiểu những tác động bất lợi đến sức khỏe con người, cũng như tới hệ thủy
sinh thái. Đồng thời cần có các biện pháp tích cực ngăn chặn các nguồn gây ô nhiễm KLN cho
nước sông Hồng.
Lời cảm ơn. Nghiên cứu này được hoàn thành trong khuôn khổ đề tài IFS W4210-2 và đề tài
ARCP2013_06CMY_Quynh. Tập thể tác giả chân thành cảm ơn Quỹ Khoa học Quốc tế (IFS) và tổ chức
Mạng lưới Châu Á – Thái Bình Dương nghiên cứu những biến đổi toàn cầu (APN - NSF) đã tài trợ kinh
phí thực hiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
WHO.
- Guidelines
for
drinking
water
quality.
The
4th
edition.
www.who.int/water_sanitation_health/publications/2011/dwq_guidelines/en/index.h
tml , 2011.
2.
Sinha S., Gupta A. K., Bhatt K., Pandey K., Rai U. N., and Singh K. P. - Distribution of
metals in the edible plants grown at Jajman, Kanpur (Indian) receiving treated tannery
68
Bước đầu xác định hàm lượng một số kim loại nặng trong môi trường nước sông Hồng
wastewater: relation with physico-chemical properties of the soil, Environmental
Monitoring and Assessment 115 (2006) 1-22.
3.
Zarazua G., Ávila-Pérez P., Tejeda S., Barcelo-Quintal I., Martínez T. - Analysis of total
and dissolved heavy metals in surface water of a Mexican polluted river by total reflection
X-ray fluorescence spectrometry. Spectrochimica Acta Part B 61 (2006) 1180–1184.
4.
Singh B. R. and Steinnes E. - Soil and water contamination by heavy metals. In Soil
Process and Water Quality (Lal R. and Stewart B.A. eds.) , Lewis Publisher, Boca Raton,
FL, USA, 1994, pp. 233–270.
5.
Le Thi Phuong Quynh, Billen G., Garnier J. Théry S., Ruelland D., Nghiem X. A., Chau
V. M. - Nutrient (N, P, Si) transfers in the subtropical Red River system (China and
Vietnam): Modelling and budget of nutrient sources and sinks. Journal of Asian Earth
Sciences 37 (2010) 259-274.
6.
Vũ Hữu Hiếu, Lê Thị Phương Quỳnh, Dương Thị Thuỷ và Hồ Tú Cường - Bước đầu xác
định hàm lượng silic hoà tan trong nước thải sản xuất công nghiệp trong lưu vực sông
Hồng, Tạp chí Khoa học và Công nghệ 49 (3A) (2011) 99-105.
7.
Le Thi Phuong Quynh, Gilles B., Garnier J., Chau Van Minh - Long-term biogeochemical
functioning of the Red River (Vietnam): past and present situations, Regional
Environmental Change 15 (2015) 329-339.
8.
Nguyen Thai Lai & cs. - Day/Nhue River Basin Pollution Sources Study: Improving
Water Quality in the Day/Nhue River Basin, Vietnam: Capacity Building and Pollution
Sources Inventory. The report prepared by ICEM - the International Centre for
Environmental Management, 2007, tr. 155.
9.
Trung tâm quan trắc môi trường, Tổng cục Môi trường - Quan trắc môi trường nước lưu
vực sông Nhuệ Đáy năm 2010, 2010, tr.89.
10. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lào Cai - Quan trắc, đánh giá hiện trạng nước sông
Hồng đoạn chảy vào Lào Cai, 2011.
11. Viersa J., Dupré B. and Gaillardet J. - Chemical composition of suspended sediments in
World Rivers: New insights from a new database. Science of total environment 407
(2009) 853-868.
12. Guieu C., Martin J. M., Tankéré S. P. C., Mousty F., Trincherini P., Bazot M. and Dai M.
H. - On trace metal geochemistry in the Danube River and Western, Estuarine, Coastal
and Shelf Science 4 (47) (1998) 471-485.
13. Guéguen C. and Dominik J. - Partitioning of trace metals between particulate, colloidal
and truly dissolved fractions in a polluted river: the Upper Vistula River (Poland).
Applied Geochemistry 18 (2003) 457–470.
14. Ogunfowokan A. O., Oyekunle J. A. O., Olutona G. O., Atoyebi A. O., and Lawal A. Speciation Study of Heavy Metals in Water and Sediments from Asunle River of the
Obafemi Awolowo University, Ile-Ife, NigeriaInternational, Journal of Environmental
Protection 3 (3) (2013) 6-16.
15. Gandhi T. K. - A study of dissolved heavy metals in Sabarmati River, Gujarat, India. Gra
Global research analysis 2 (5) (2013) 10-11.
16. Lokhande R. S., Singare P. U., Pimple D. S. - Pollution in Water of Kasardi River
Flowing along Taloja Industrial Area of Mumbai, India, World Environment 1 (1) (2011)
6-13.
69
Nguyễn Thị Bích Ngọc và NNK
17. Li S and Zhang Q. - Spatial characterization of dissolved trace elements and heavy metals
in the upper Han River (China) using multivariate statistical techniques, Journal of
Hazardous Materials 176 (2010) 579–588.
18. Bộ Tài nguyên và Môi trường - Báo cáo Môi trường quốc gia 2009. Môi trường khu công
nghiệp Việt Nam, 2009, tr.106.
19. Maqsud N. M. - Ô nhiễm môi trường nước ở vùng nội và ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh
nhận biết qua lượng kim loại nặng tích tụ trong nước và bùn của các kênh mương, Tạp chí
Khoa học đất 10 (1998)162-168.
20. Mwegoha W. J. S. and Kihampa C. - Heavy metal contamination in agricultural soils and
water in Dar es Salaam city, Tanzania, African Journal of Environmental Science and
Technology 4 (11) (2010) 763-769.
ABSTRACT
PRELIMINARY RESULTS ON SOME HEAVY METAL CONTENTS IN THE RED RIVER
SYSTEM
Nguyen Thi Bich Ngoc1, Le Thi Phuong Quynh1, *, Nguyen Thi Mai Huong1,
Nguyen Bich Thuy1, Vu Duy An1, Duong Thi Thuy2, Ho Tu Cuong2,
Tran Thi Bich Nga3
1
Institute of Natural Products Chemistry, VAST,18 Hoang Quoc Viet, Hanoi
2
Institute of Environmental Technology, VAST, 18 Hoang Quoc Viet, Hanoi
3
Department of Meteorology, Hydrology and Climate Change,
Ministry of Natural Resources and Environment, 8 Phao Dai Lang, Hanoi
*
Email: quynhltp@yahoo.com
Environment quality, especially aquatic environment is increasingly being interested. This
paper presents the initial results of dissolved heavy metal of the monthly observations for the
period from January to October 2012 at Yen Bai, Ha Noi, Hoa Binh and Vu Quang stations in
the Red River system. The monitoring results showed that the heavy metal concentrations in the
Red River water varied in a high range: Cu: 10 – 80 µg/l; Zn: 2 – 88 µg/l; Cr: 0.2 – 5.1 µg/l; Pb:
2 - 107 µg/l; Cd: : 2 – 12 µg/l; Mn: 2 - 35 µg/l; Fe: 160 – 950 µg/l. Most of the mean values of
heavy metal contents at the four monitoring sites were lower than the ones of the Vietnamese
standard limits for surface water quality, QCVN 08:2008/BTNMT. However, at several time
during the observation period, the contents of some heavy metals such as Fe, Cd and Pb
exceeded the Vietnamese standard limits. The results showed that the water quality of the Red
River needs more be frequently and systhematically observed.
Keywords: pollution, water quality, heavy metals, Red River.
70