« Home « Kết quả tìm kiếm

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC HƯỚNG NĂNG LỰC 1


Tóm tắt Xem thử

- PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC HƯỚNG NĂNG LỰC1 Nguyễn Xuân Lạc2 1.
- ĐẶT VẤN ĐỀ Tìm phương pháp dạy và học hiệu quả, thích hợp nhất với người học và môi trường dạy học mà mình đảm nhiệm, là điều mà nhà giáo nào cũng quan tâm, thậm chí, trăn trở [4].
- Phương pháp, nói chung, thường được định nghĩa là con đường, cách thức để tiến hành hoạt động nhằm đạt mục đích nhất định, do đó phương pháp dạy học thường được hiểu là con đường, cách thức tiến hành hoạt động dạy học [5, t.145] hay cụ thể hơn, là tổng hợp các cách thức hoạt động của người dạy và người học trong quá trình dạy học, nhằm thực hiện được nội dung dạy học [5,t.147] hoặc nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học [2,t.120].
- công nghệ (ví dụ: công nghệ cao, công nghệ 4.0, taxi “công nghệ.
- tương tác (ví dụ: với điện thoại thông minh, thực tế ảo, bảng tương tác.
- 1 Competency-oriented teaching/learning method – dạy học ở đây nói chung được hiểu là dạy và học, 2 GS.TS.NGND Viện Sư phạm Kĩ thuật, ĐHBKHN 3 hoặc kinh nghiệm, nếu chưa được đúc kết thành lí luận hoàn chỉnh 1 Sở dĩ thế là vì thời đại ngày nay là thời đại của nền kinh tế tri thức dựa trên nền tảng công nghệ cao (công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ thông tin và truyền thông – CNTT&TT) là tinh hoa tri thức của nhân loại.
- Kinh tế tri thức lấy tri thức làm nội dung cơ bản của sản xuất, phân phối và tiêu thụ, lấy thị trường toàn cầu làm hướng hoạt động chính, vì thế giao tiếp và tương tác đa dạng qua mạng trở thành tất yếu và phổ biến.
- Theo kiến giải của tác giả, với những đặc trưng trên đây của thời đại, có thể đề cập hai LLDH và PTDH tương ứng: 1) theo tiếp cận công nghệ, 2) theo tiếp cận tương tác.
- DẠY HỌC THEO TIẾP CẬN CÔNG NGHỆ Những khái niệm cơ bản như: công nghệ, quan điểm công nghệ, v.v… và nội dung cơ bản của lí luận dạy học theo tiếp cận công nghệ đã được định nghĩa chặt chẽ và trình bày tường tận trong [3], ở đây chỉ giới thiệu tóm tắt những gì có liên quan trực tiếp tới chủ đề của bài này.
- Công nghệ Công nghệ là một hệ thống phương tiện, phương pháp và kỹ năng nhằm vận dụng quy luật khách quan, tác động vào một đối tượng cụ thể, tạo ra một thành quả xác định cho con người [3,t.40].
- Công nghệ dạy học Với nội hàm nêu trên của khái niệm (2.1) thì dạy học cũng như sản xuất, tiếp thị,…đều thuộc ngoại diên của khái niệm công nghệ.
- Vì thế: Công nghệ dạy học là một hệ thống phương tiện dạy học, phương pháp dạy học và kỹ năng dạy học nhằm vận dụng quy luật khách quan (như: khoa học thần kinh 4 đáp ứng khả dụng (available response) là những đáp ứng thích hợp có ngay hoặc tiềm năng có thể huy động (potentially mobilizable) với loại hình, độ trễ, độ chính xác và độ tin cậy.
- 5 so sánh với định nghĩa của năng lực (4.1) để thấy kĩ năng là một thành tố tất yếu của năng lực.
- Quan điểm công nghệ Mỗi phương án công nghệ thực hiện được trong giới hạn cho phép của bộ ba phương tiện, phương pháp và kỹ năng, được gọi là một phương án khả thi 6.
- Khả thi và hiệu quả là hai tính chất tiêu biểu thể hiện ý nghĩa thực tiễn của một giải pháp công nghệ, là cơ sở đáng tin cậy cho việc lựa chọn giải pháp đó và vì thế được coi là hai giác độ nhìn nhận, xem xét về công nghệ, tức là hai giác độ của quan điểm công nghệ.
- Như vậy, quan điểm công nghệ là quan điểm có thuộc tính [3, t.43]: 1) Hướng làm (doing-oriented), chứ không chỉ hướng đích (target-oriented), 2) Phân biệt làm được (khả thi) với làm tốt (hiệu quả), 3) Luôn hướng tới làm tốt nhất mỗi khi có thể, trên cơ sở sử dụng hợp lí phương tiện, phuơng pháp và kỹ năng hiện có (xem mục 2.5, tư duy tối ưu hóa).
- Tiếp cận công nghệ Tiếp cận theo quan điểm công nghệ, hay cụ thể hơn, tiếp cận từ hai giác độ khả thi và hiệu quả trên cơ sở phương tiện, phương pháp và kỹ năng thực hiện, được gọi là tiếp cận công nghệ [3,t.46].
- Gặp một vấn đề nào đó, người xử lí theo tiếp cận công nghệ thường quan tâm trước hết tính hướng đích (hay ý nghĩa thực tiễn) của việc giải quyết vấn đề, sau đó là tính khả thi của giải pháp, nghĩa là với những thuận lợi và những khó khăn (khách quan cũng như chủ quan) trước mắt, có hay không một phương án phối hợp phương tiện, phương pháp và kĩ năng cần thiết, cho phép giải quyết được vấn đề.
- Cũng như tiếp cận hệ thống, hiện nay tiếp cận công nghệ là một trong những cách tiếp cận quan trọng hàng đầu trong cả khoa học tự nhiên và công nghệ lẫn khoa học xã hội và nhân văn, trong thực tiễn tổ chức, vận hành và quản lí sản xuất, kinh doanh, giáo dục đào tạo, v.v…mỗi khi cần giải quyết vấn đề (problem solving) và ra quyết định (decision making) cũng tức là đề xuất và lựa chọn phương án, hoặc kiểm định và đánh giá chất lượng, theo những chuẩn mực xác định.
- Tiếp cận công nghệ và tối ưu hóa Bài toán tối ưu hóa [3,t.46], là bài toán tìm giá trị cực đại (hoặc cực tiểu) của một hàm mục tiêu trong miền giới hạn bởi những điều kiện ràng buộc cho trước (gọi là miền ràng buộc).
- Từ cách đặt vấn đề theo tiếp cận công nghệ và cách phát biểu bài toán tối ưu hóa không khó nhận ra sự tương đồng giữa các khái niệm hàm mục tiêu với tiêu chí hiệu quả, điều kiện ràng buộc với điều kiện công nghệ (hay năng lực công nghệ, do giới hạn cụ thể của phương tiện, phương pháp và kĩ năng quyết định), phương án chấp nhận được với phương án khả thi, giá trị tối ưu (phương án tối ưu) với hiệu quả cao nhất.
- Khi mục tiêu lượng hóa được, cách đặt vấn đề theo tiếp cận công nghệ có thể phát biểu dưới dạng bài toán tối ưu.
- Khi mục tiêu không lượng hóa được, có thể xem cách đặt vấn đề theo tiếp cận công nghệ nói chung là sự “suy rộng” bài toán tối ưu hóa cho những trường hợp định tính.
- Như vậy, có thể nói tiếp cận công nghệ, nói chung, là tiếp cận “theo tư duy” tối ưu hóa, có cơ sở toán học hiện đại và vì thế, mỗi khi cần đặt vấn đề nâng cao hiệu quả của một hoạt động thực tiễn nào đó, hướng tiếp cận công nghệ là một hướng tư duy hợp lí, hiện đại.
- Quá trình dạy học theo tiếp cận công nghệ Quá trình dạy học theo tiếp cận công nghệ [3,t.50] là quá trình dạy và học hướng làm (doing-oriented learning/teaching), nhằm đạt hiệu qủa tốt nhất theo tiêu chí xác định, nhờ sử dụng hợp lý phương tiện, phương pháp và kĩ năng cho phép.
- Không khó nhận ra hàm ý học hướng làm theo tư duy tối ưu hóa trong định nghĩa trên đây, từ đó có thể thấy ngay những đặc điểm của dạy học theo tiếp cận công nghệ.
- về kĩ năng, đảm bảo cả người dạy cũng như người học đều không những làm được mà còn làm tốt theo tiêu chí (hoặc tiêu chuẩn) xác định và luôn hướng tới làm tốt nhất mỗi khi có thể, cụ thể là có kĩ năng lựa chọn, sử dụng hợp lý các phương tiện và phương pháp có thể có cho mỗi công việc, thể hiện qua nội dung dạy học và hình thức (tổ chức) thích hợp, các quy trình dạy học được thiết kế hợp lý và được tuân thủ nghiêm túc khi thực hiện.
- Nguyên tắc dạy học theo tiếp cận công nghệ [3,t.51] 1) Đảm bảo sự thống nhất, cân đối giữa hai mặt năng lực và phẩm chất (hay tài và đức) của mục tiêu nhân cách trong quá trình dạy học.
- 2) Đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính công nghệ: thể hiện bản chất của quan hệ giữa lí luận khoa học và thực tiễn công nghệ, giữa biết và làm, giữa tư duy khoa học (có tính tổng hợp, trừu tượng, khái quát, qua suy luận logic) và tư duy công nghệ (có tính chuyên ngành, cụ thể, phân biệt khả thi và hiệu quả, dựa trên trải nghiệm lịch sử), giữa kiến thức lí luận và kĩ năng thực hành.
- 3) Đảm bảo sự thống nhất giữa mục tiêu công nghệ (trong dạy học, mục tiêu thường đòi hỏi đa dạng, linh hoạt, theo người học hay môi trường xã hội cụ thể.
- và năng lực công nghệ, thường là hữu hạn, không thể thay đổi ngay một sớm một chiều.
- trong đó cần chú trọng sự thống nhất giữa khối lượng cũng như chất lượng kiến thức và kĩ năng luôn tăng không ngừng theo sự phát triển của khoa học, công nghệ, với thời gian học tập có hạn trong khuôn khổ của chương trình và kế hoạch dạy học.
- cần nhận thức rõ khoảng cách giữa làm được và làm tốt, để không dừng lại ở làm được mà luôn cố gắng làm tốt nhất mỗi khi có thể, theo nghĩa đáp ứng yêu cầu trong giới hạn của năng lực công nghệ.
- Nguyên tắc này thể hiện rõ nét nhất quan điểm công nghệ và tư duy tối ưu hóa trong dạy học, vì thế cũng có thể gọi chung là nguyên tắc dạy học với tư duy công nghệ hay tư duy tối ưu hóa.
- 4) Đảm bảo sự thống nhất giữa tính tuân thủ nguyên tắc (trong quy trình công nghệ với mục tiêu, phương tiện và phương pháp qui định,…theo khuôn khổ chung) và tính độc lập sáng tạo (tự do phát huy ý tưởng, kĩ năng cá nhân trong thực hiện.
- Dạy học theo tiếp cận công nghệ thích hợp với bất kì môn học nào có liên quan tới ứng dụng thực tiễn mà khi kiểm định và đánh giá kết quả ứng dụng, cần quan tâm tới sự khác biệt giữa khoa học và công nghệ, cũng tức là giữa biết và biết làm, làm được và làm tốt, bằng phương tiện, phương pháp và kỹ năng thích hợp.
- DẠY HỌC THEO TIẾP CẬN TƯƠNG TÁC Lí luận dạy học tương tác [3,t.62] là lí luận dạy học theo tiếp cận sư phạm tương tác Roy-Denommé – một tiếp cận khoa học thần kinh về học và dạy – coi quá trình dạy học là quá trình tương tác đặc thù (tương tác xoay quanh bộ máy học) giữa bộ ba tác nhân – người học, người dạy và môi trường – trong đó, người học là trung tâm, người dạy là người hướng dẫn, giúp đỡ và môi trường có ảnh hưởng tất yếu.
- Quá trình dạy học tương tác Quá trình dạy học (theo tiếp cận) tương tác được mô hình hóa dưới dạng hệ thống gồm 3 phần tử, gọi là bộ ba tác nhân, có lược đồ như hình 1, trong đó các chức năng và các quan hệ được thể hiện qua bộ ba thao tác và bộ ba tương tác dưới đây.
- Bộ ba thao tác (operation) chính là bộ ba chức năng của mỗi tác nhân trong hệ thống dạy học, cũng thường Hình 1 gọi là bộ ba hoạt động sư phạm: 1) Học – kiến thức và kỹ năng sinh sôi ở người học nhờ bộ máy học vốn có, qua tương tác với người dạy và môi trường.
- Bộ ba tương tác (interaction) là bộ ba quan hệ qua lại giữa từng cặp tác nhân trong hệ thống dạy học, thường gọi là bộ ba quan hệ (hay tương tác) sư phạm.
- Trong quá trình dạy học, tương tác giữa người với người (như giữa những người học với nhau, với người dạy hoặc thủ thư của thư viện, v.v.
- Vậy bộ ba tương tác Roy-Denommé (R-D) khác với bộ ba tương tác trong dạy học truyền thống ở chỗ nào? Đó là hai khác biệt cơ bản sau: 1) định hướng tương tác hiện đại Bộ ba tương tác R-D là bộ ba tương tác có tính hướng đích – tất cả vì người học, hay lấy người học làm trung tâm – trên cơ sở khoa học tự nhiên hiện đại được thiết lập từ những kết quả nghiên cứu mới nhất về bộ máy học của khoa học thần kinh nhận thức và kết quả về sự ra đời của khoa học học tập [3,t.62].
- Những tương tác trên đây đều là do và vì bộ máy học, cho nên đều là tương tác trên cơ sở bộ máy học, và cũng vì thế, được gọi là bộ ba tương tác xoay quanh bộ máy học, giống như trường hợp bộ ba thao tác trên đây.
- Như vậy, bộ ba tương tác R-D là bộ ba có định hướng hiện đại, khác với bộ ba 7 tương tác truyền thống ở chỗ: hoặc định hướng sai (lấy người dạy làm trung tâm), hoặc định hướng đúng nhưng chỉ dựa vào những giả thuyết tâm lí học nhận thức, như thuyết kiến tạo Piaget chẳng hạn, chưa thực sự có cơ sở khoa học.
- 2) điều kiện tương tác hiện đại (hay môi trường tương tác hiện đại) Lí luận dạy học tương tác ra đời vào lúc khái niệm tương tác đã có thêm một nghĩa mới, sau bước “phát triển xoáy trôn ốc”, đó là không những tương tác thực mà còn tương tác ảo trong môi trường ảo – là môi trường mô phỏng do máy tính và mạng tạo ra.
- Tương tác đã là một từ quen thuộc với cả trẻ em ở tuổi mẫu giáo.
- Hai đặc trưng trên chứng tỏ bộ ba tương tác R-D xuất hiện đúng thời thế.
- Ngoài tương tác giữa bộ ba tác nhân nói trên (bộ ba tương tác hướng ngoại), tương tác giữa các phần tử trong một tác nhân (bộ ba tương tác hướng nội) vốn có trong dạy học truyền thống (hình 1), hiện nay cũng được phát triển mạnh ở tầm cao hơn : giữa những người học với nhau như hợp tác nhóm (giáp mặt hoặc qua mạng), giữa những người dạy với nhau như cộng tác đội.
- giữa những bộ phận trong một môi trường hay giữa các môi trường với nhau như các hình thức đào tạo gắn với thị trường lao động, liên kết đào tạo giữa nhà trường với doanh nghiệp, dạy học giáp mặt với trực tuyến.
- Trong lí luận dạy học tương tác, có thể xem qui luật thống nhất các hoạt động cơ bản của ba tác nhân trong mối liên hệ với bộ máy học của người học, là qui luật cơ bản, vì nó phản ánh mối liên hệ bản chất (do đó, tất yếu và bền vững) của bộ ba tác nhân.
- Qui luật này được thể hiện qua bộ ba nguyên lí cơ bản của tiếp cận khoa học thần kinh về học và dạy [3,t.67]: 1) Nguyên lí thứ nhất : người học là trung tâm, là tác nhân chính của hoạt động học, nói cách khác, theo qui luật hoạt động của bộ máy học vốn có, người học tự huy động mọi tiềm lực (vốn hiểu biết và trải nghiệm, năng lực thể chất và tinh thần, sự hỗ trợ của người dạy và môi trường.
- 2) Nguyên lí thứ hai : người dạy là người tổ chức, hướng dẫn và giúp đỡ người học, nói cách khác, người dạy là người can thiệp chính vào quá trình học với tinh thần tôn trọng sứ mệnh tác nhân chính và qui luật hoạt động của bộ máy học, để cùng người học hoàn thành nhiệm vụ dạy học.
- 3) Nguyên lí thứ ba : môi trường tác động tất yếu tới hoạt động dạy và học, nói cách khác, môi trường can dự vào hoạt động sư phạm (nhất là môi trường sinh thái, môi trường xã hội và môi trường CNTT&TT), luôn đòi hỏi ở các tác nhân những hoạt động điều chỉnh và tự điều chỉnh để thích nghi, đảm bảo thành công của quá trình dạy học.
- 8 Quá trình dạy học, hay là quá trình thực hiện các bộ ba thao tác và tương tác xoay quanh bộ máy học như đã nói ở trên, đòi hỏi tất yếu ở bộ ba tác nhân một số thái độ tiên quyết và đồng bộ, có tính nguyên tắc, được gọi là bộ ba nguyên tắc ứng xử.
- Đây chính là các nguyên tắc dạy và học đảm bảo tính khả thi và tính hiệu quả của quá trình dạy học [3,t.68].
- ý thức trách nhiệm về mọi lựa chọn sư phạm với tư cách là chủ thể của hoạt động dạy, trước hết trong việc “chuyển thể” chương trình học tập (đã được quy định) thành các mục tiêu và quy trình dạy học sát hợp nhất có thể được với người học cụ thể và môi trường dạy học tương ứng.
- sau đó là trong hiệu quả thực hiện tiến trình dạy học.
- Các ứng xử trên đây tuy vốn có ở mỗi tác nhân nhưng cần được khơi dậy và phát huy một cách có hướng dẫn và có tổ chức, mới có thể thực sự trở thành những nguyên tắc đảm bảo quá trình dạy học thực sự khả thi và hiệu quả.
- Công nghệ dạy học tương tác Công nghệ dạy học tương tác là một hệ thống phương tiện, phương pháp và kĩ năng dạy học theo Lí luận dạy học tương tác (R-D), tác động vào người học, tạo thành một nhân cách của xã hội hiện đại.
- 9 Như vậy, công nghệ dạy học tương tác vẫn bao gồm tất cả những gì vốn có về phương tiện, phương pháp và kỹ năng tương tác trong công nghệ dạy học truyền thống, nhưng có thêm những phát triển cả về nội dung, hình thức, và nhất là về chất lượng, do định hướng tương tác hiện đại và môi trường tương tác hiện đại (mục 3.1.3) dẫn đến, như học hướng làm, cả làm thực và làm ảo, vào mọi lúc, ở mọi chỗ, với mọi mức độ, nhằm đáp ứng nhu cầu của một xã hội học tập hiện đại.
- Lí luận và công nghệ dạy học tương tác in đậm dấu ấn của thời đại ngày nay (xem mục 1, t.1: công nghệ, tương tác, môi trường.
- Tương tác không chỉ là phương thức dạy học mà còn là mục đích của dạy học vì “nhân cách – bản sắc và giá trị xã hội của cá nhân – chỉ hình thành và phát triển trong hoạt động và giao tiếp” (Từ điển Bách khoa Việt Nam), nghĩa là trong các quá trình tương tác có ý thức.
- Phương tiện dạy học tương tác Như đã biết, cùng với lí luận dạy học, phương tiện dạy học hiện đại là cơ sở tất yếu của phương pháp dạy học hiện đại.
- Bên cạnh các phương tiện truyền thống vẫn tiếp tục phát huy tác dụng tích cực, là những phương tiện mới – sản phẩm của thời đại công nghệ cao, của nền kinh tế tri thức – trong đó phương tiện tương tác ảo, giáp mặt cũng như qua mạng, có vị thế đặc biệt.
- Các phần mềm dạy học tương tác, bảng tương tác, hệ thống eLearning [3.
- ở đây, tương tác ảo là những tương tác tùy biến (thể chất hoặc/và trí tuệ) trong môi trường ảo.
- Hiện nay, đã đến lúc cả người dạy và người học đều phải sử dụng tốt ít nhất một phần mềm dạy học tương tác thông dụng (như Powerpoint + iSpring add-in [1,mục 5.2.6], CourseLab 2.4 [3,ch.5]) và một phần mềm dạy học tương tác chuyên biệt của ngành sở trường (như GeoGebra 5.0 cho Toán học phổ thông.
- Phương pháp dạy học tương tác Phương pháp dạy học tương tác [3,t.84] là phương pháp vận dụng bộ ba nguyên lý và bộ ba ứng xử (lí luận dạy học tương tác) với sự lựa chọn phương tiện tương tác và hình thức tổ chức dạy học thích hợp sao cho quá trình dạy học, về cơ bản, 10 là quá trình học hướng làm của người học.
- dạy học với người học là trung tâm và các tác nhân tham gia có văn hóa ứng xử tương ứng (bộ ba ứng xử.
- dạy học theo tiếp cận công nghệ tích hợp lý thuyết với thực hành, học hướng làm, ở đây thực hành và làm đều có thể là về thể chất, về trí tuệ, thật hoặc ảo, tùy điều kiện cụ thể cho phép.
- dạy học hướng nghiên cứu [3, mục 2.3] với mức độ và hình thức tổ chức thích hợp theo tiến trình dạy học cụ thể.
- Một trong những hình thức tổ chức dạy học tương tác thích hợp với giai đoạn hiện nay là dạy học hợp tác, theo tiếp cận năng lực, trong môi trường tương tác b-learning (kết hợp giáp mặt với qua mạng) cho phép phát huy cao độ tiềm lực tương tác của cơ sở dạy học và người học, nâng cao hiệu quả dạy học.
- Kĩ năng dạy học tương tác Kỹ năng dạy học tương tác là kỹ năng sử dụng một cách hiệu quả các phương pháp và phương tiện dạy học tương tác đã nói ở trên.
- Qui trình dạy học tương tác [3,t.89] là qui trình tích hợp lí thuyết với thực hành, dạy học hướng nghiên cứu (research-oriented learning/teaching), có phân đoạn kiểm tra-điều khiển, cho nên người dạy phải có những kỹ năng tương ứng với các mức độ dạy học sau.
- DẠY HỌC THEO TIẾP CẬN NĂNG LỰC “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học.
- 11 Thực ra thì mục tiêu và kết quả của mọi quá trình dạy học đúng nghĩa (hình 2) Hình 2 bao giờ cũng là nhân cách – với hai thành phần cấu trúc: năng lực và phẩm chất – của người học, trong đó năng lực luôn là mối quan tâm đầu tiên của cơ sở tuyển dụng nhân lực, nhất là nhân lực trong nền kinh tế thị trường.
- Ví dụ: năng lực học tập của sinh viên X, năng lực công nghệ của nhà máy Y.
- Trong các cơ sở đào tạo nhân lực, năng lực còn được hiểu một cách chặt chẽ hơn theo ngôn ngữ của tiếp cận công nghệ: Năng lực là tổng thể những đáp ứng khả dụng của chủ thể khi cần sử dụng phương 7 được gợi ý từ định nghĩa “a competency is a set of behaviours that describes excellent performance in a particular work context” trong http://www.schoonover.com/faq (Competency Model Building).
- và năng lực chuyên biệt (như: năng lực tư duy kĩ thuật/công nghệ.
- Theo lĩnh vực hoạt động, như: năng lực nghề nghiệp, năng lực học tập, v.v.
- Theo cấu trúc của năng lực.
- Năng lực chuyên môn (khoa học, công nghệ, nghệ thuật.
- Năng lực xã hội (giao tiếp, ứng xử.
- Các năng lực này ở mỗi người một khác, về trình độ đạt được, về phương pháp và nhất là về phong cách trong quá trình hình thành, phát triển và vận dụng.
- Điều này là lẽ tự nhiên, vì học tập là để hình thành và phát triển năng lực.
- Năng lực học tập và năng lực công nghệ Trong lĩnh vực dạy học nhằm hình thành và phát triển năng lực, nhất là với các ngành khoa học tự nhiên và công nghệ, thì những mục tiêu đầu tiên cần được quan tâm đương nhiên là năng lực học tập và năng lực công nghệ của người học.
- Năng lực công nghệ nói chung được hiểu là năng lực đáp ứng về mặt công nghệ của một chủ thể nào đó .
- Chung lại, có thể coi năng lực công nghệ là năng lực CDIO+C.
- Dạy học hướng phát triển năng lực Quá trình dạy học theo tiếp cận công nghệ hoặc theo tiếp cận tương tác, được mô hình hóa như hình 2, với mục tiêu năng lực (một thành tố nhân cách đang được cả nước quan tâm nghiên cứu và phát triển), được gọi là dạy học theo tiếp cận năng lực, dạy học định hướng phát triển năng lực, hoặc ngắn gọn, là dạy học hướng năng lực (competency-based or competency-oriented learning/teaching).
- Có thể thấy ngay lí luận dạy học theo tiếp cận công nghệ cũng như tiếp cận tương tác, là cơ sở lí luận của phương pháp dạy học hướng năng lực.
- Với phương tiện dạy học hiện đại, đó cũng là cơ sở lí luận của học bằng làm (cả làm thật và làm ảo để chuẩn bị thích hợp cho làm thật) là xu thế chung của dạy học hiện đại.
- Dạy học hướng năng lực nhằm đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của thị trường lao động.
- Do đó tìm chiến lược dạy học hiệu quả để tạo lợi thế cạnh tranh bền vững cho học viên của mình trong thị trường tuyển dụng, là vấn đề mà nhà giáo nào cũng nên quan tâm.
- Học bằng làm, như đã thấy ở trên, chính là một chiến lược dạy học thích hợp.
- 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Trần Khánh Đức (chủ biên), Năng lực học tập và đánh giá năng lực học tập, NXB BKHN tr.
- [2] Đặng Vũ Hoạt (chủ biên), Lí luận dạy học đại học, NXB ĐHSP tr.
- [3] Nguyễn Xuân Lạc, Nhập môn lí luận và công nghệ dạy học hiện đại, NXB GDVN tr.
- [4] Lê Nguyên Long, Thử đi tìm những phương pháp dạy học hiệu quả, NXB GD tr.
- [5] Phan Trọng Ngọ, Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường, NXB ĐHSP tr.
- [6] Cao Văn Sâm (chủ biên), Công nghệ giáo dục nghề nghiệp, Tổng cục Dạy nghề Việt Nam tr