VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 27-39
Review Article
Real-life Task in Mathematics Teaching: A Case of Statistics
Teaching in Order to Educate some Economic Knowledge
for Students at High School
Nguyen Tien Trung1,*, Pham Anh Giang2, Phan Thi Tinh3
1
2
Vietnam Journal of Education, No. 4, Trinh Hoai Duc Street, Hanoi, Vietnam
Hong Duc University, 565 Quang Trung Street, Thanh Hoa City, Thanh Hoa, Vietnam
3
Hung Vuong University, Nguyen Tat Thanh Street, Viet Tri City, Phu Tho, Vietnam
Received 27 April 2020
Revised 14 May 2020; Accepted 19 May 2020
Abstract: Real-world connections in mathematics teaching is a requirement and a trend in teaching
mathematics in high schools in Vietnam. The commentary on the “reality” and the exploitation of “reallife task” in mathematics teaching is still not much clear. This research contributes to giving
perspectives on “real-life task” and their exploitation and use in teaching mathematics through a specific
case: teaching statistics in high schools to contribute to educating some economic knowledge for
students. The mathematical task classification and analysis framework proposed the relationship with
the real-life task in the article will give teachers and researchers to have an approach in exploiting reallife tasks in mathematics teaching.
Keywords: Real-life task; mathematical task, real-life context; statistics; economic education.
f*
_______
*
Corresponding author.
E-mail address: nttrung@moet.gov.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4412
27
28
N.T. Trung et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 27-39
Nhiệm vụ thực tiễn trong dạy học môn Toán:
Trường hợp dạy học thống kê góp phần giáo dục kinh tế
cho học sinh trung học phổ thông
Nguyễn Tiến Trung1,*, Phạm Anh Giang2, Phan Thị Tình3
Tạp chí Giáo dục, Số 4, Trịnh Hoài Đức, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam
Trường Đại học Hồng Đức, 565 Quang Trung, Phường Đông Vệ, Thành phố Thanh Hóa, Việt Nam
3
Trường Đại học Hùng Vương, Nguyễn Tất Thành, Nông Trang, Thành phố Việt Trì, Phú Thọ, Việt Nam
1
2
Nhận ngày 27 tháng 04 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 14 tháng 5 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 19 tháng 5 năm 2020
Tóm tắt: Dạy học toán gắn với thực tiễn đang là một yêu cầu, một xu hướng trong dạy học Toán ở
trường phổ thông của Việt Nam. Những luận giải về vấn đề “thực tiễn” và việc khai thác các “nhiệm vụ
thực tiễn” trong dạy học môn Toán hiện còn nhiều điều chưa thực sự rõ ràng. Nghiên cứu này góp phần
đưa ra những quan điểm về “nhiệm vụ thực tiễn” và việc khai thác, sử dụng chúng trong dạy học Toán
thông qua một trường hợp cụ thể: dạy học thống kê ở trường trung học phổ thông góp phần giáo dục
kinh tế cho học sinh. Các khung phân loại và phân tích nhiệm vụ toán học và mối quan hệ với nhiệm vụ
thực tiễn được đề xuất trong bài báo sẽ giúp các giáo viên Toán, các nhà nghiên cứu có một cách tiếp
cận trong việc khai thác các nhiệm vụ thực tiễn trong dạy học.
Từ khóa: Nhiệm vụ thực tiễn; nhiệm vụ toán học; bối cảnh thực tiễn; thống kê; giáo dục kinh tế.
1. Đặt vấn đề *
Trong Chương trình Giáo dục phổ thông môn
Toán mới đã yêu cầu rất rõ về việc dạy học toán
gắn với thực tiễn (ở cả ba cấp Tiểu học, Trung học
cơ sở, Trung học phổ thông), theo định hướng
giáo dục nghề nghiệp (cấp Trung học cơ sở và
Trung học phổ thông): “tăng cường kiến thức về
toán học, kĩ năng vận dụng kiến thức toán vào
thực tiễn, đáp ứng sở thích, nhu cầu và định hướng
nghề nghiệp của học sinh” (Bộ giáo dục và đào
tạo, 2018, pp. 3-4) [1]. Việc "tạo cơ hội để học
sinh được trải nghiệm, vận dụng toán học vào
thực tiễn. Giáo dục toán học tạo lập sự kết
nối giữa các ý tưởng toán học, giữa Toán học
với thực tiễn, giữa Toán học với các môn học
và hoạt động giáo dục khác,..." và "giúp học
sinh "hiểu được vai trò và những ứng dụng của
_______
*
Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: nttrung@moet.gov.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4412
toán học trong thực tiễn, những ngành nghề có
liên quan đến toán học để học sinh có cơ sở
định hướng nghề nghiệp" (Bộ Giáo dục và Đào
tạo, 2018, pp 17)" [2] trong dạy học môn Toán
cần có những nghiên cứu, thử nghiệm cho việc
dạy học những nội dung toán học nào đó, nhằm
đạt hay hướng tới các yêu cầu đó.
Hiện nay, khi tìm kiếm trên mạng internet với
hai từ khóa “thực tiễn”, “môn Toán” có thể tìm
thấy rất nhiều tài liệu (khoảng 426.000 kết quả),
trong đó có những tài liệu về vấn đề dạy học toán
gắn với thực tiễn (Nguyen et al., 2020) [3]. Những
nghiên cứu về việc dạy học môn Toán gắn với
thực tiễn, tăng cường kết nối với thực tiễn,… cũng
được triển khai với nhiều kết quả ý nghĩa (Nguyen
et al., 2020) [3]. Chẳng hạn như nghiên cứu của
Hà Xuân Thành (2017) [4], Đặng Thị Thu Huệ
(2019) [5], (N.T. Trung, 2018; Nguyễn Tiến
Trung và cộng sự, 2019) [6], [7],... bước đầu có
những khuyến nghị biện pháp và ví dụ về việc
khai thác các yếu tố thực tiễn trong dạy học môn
N.T. Trung et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 27-39
Toán ở trường phổ thông. Các nghiên cứu, sách đã
xuất bản cũng có những nội dung trình bày liên
quan đến việc dạy học các nội dung khác nhau của
môn Toán, trong đó có dạy học thống kê, theo
hướng gắn với thực tiễn, dạy học toán theo hướng
gắn với nghề nghiệp. Nhiều nghiên cứu trong và
ngoài nước đã chỉ ra, khuyến nghị rằng, cần tăng
cường, khai thác các yếu tố thực của các bối cảnh
để đưa vào trong nhà trường trong quá trình dạy
học, đồng thời giảm bớt các nhiệm vụ “xác thực”
(authentic task) để thế giới thực được thu nhỏ hơn,
gọn hơn, phù hợp hơn với môi trường giáo dục
nhà trường với những hạn chế của tổ chức hay thể
chế (Vos, 2018). Tuy nhiên, thực tế kết quả khai
thác các nhiệm vụ thực tiễn, nhiệm vụ xác thực
trong thực tiễn dạy học môn Toán trong các
trưởng phổ thông ở Việt Nam vẫn còn ít, hạn chế
(Tien-Trung et al., 2019) [7], (Tien Trung, 2018)
[6], (Trung et al., 2019) [8], (Tran Vui, 2018) [9].
Hơn nữa, các nghiên cứu vẫn chưa làm thật rõ một
số khái niệm quan trọng như “nhiệm vụ thực tiễn”
(real-life task), “nhiệm vụ toán học”
(mathematical task) và mối quan hệ giữa hai khái
niệm này.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ phân tích
lí luận về một khái niệm thường được nhắc tới
trong các nghiên cứu về giáo dục toán học, các
sách đã xuất bản hiện nay đó là “nhiệm vụ thực
tiễn” và mối quan hệ giữa nhiệm vụ thực tiễn với
học sinh với tư cách là chủ thể hoạt động học,
đứng trước những nhiệm vụ toán học (trong lớp
học Toán). Tiếp đó, chúng tôi sẽ đưa ra những ví
dụ về việc phân tích, khai thác một số nhiệm vụ
thực tiễn trong dạy học thống kê ở trường phổ
thông góp phần định hướng nghề nghiệp, giáo dục
kinh tế cho học sinh.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Nhiệm vụ thực tiễn và nhiệm vụ toán học
Các nhiệm vụ trong giáo dục toán học hay
nhiệm vụ toán học (mathematical tasks) thường
được cho bởi một văn bản (cho dù có ngôn ngữ
toán học hay không) và một câu hỏi, hoặc một
chuỗi các câu hỏi (Vos, 2020) [10]. Các câu hỏi
29
trong các nhiệm vụ là để làm cho học sinh thực
hiện các hoạt động toán học (mathematical
activities). Thuật ngữ bối cảnh (context) đề cập
đến một tình huống hoặc sự kiện trong nhiệm vụ
toán học, thường là từ đời thực hoặc từ các tình
huống tưởng tượng (chẳng hạn như truyện cổ
tích). Như vậy, bối cảnh là thành phần, “tập con”
chứa trong nhiệm vụ hiểu theo nghĩa mỗi nhiệm
vụ đều đưa ra một bối cảnh. Hiebert và cộng sự
(2003) [11] và (Mullis et al., 2004) [12] đã chỉ ra
rằng nhiều nhiệm vụ (chứ không phải tất cả) trong
giáo dục toán học Hà Lan (trong sách giáo khoa)
có chứa các trong bối cảnh thực tế (real-life
context).
Pauline Vos giới thiệu, phân loại một số loại
nhiệm vụ toán học và mối quan hệ của chúng với
thực tế (Vos, 2020, pp. 39-40) [10]:
- Nhiệm vụ nhiệm vụ thuần toán học (bare
tasks), được trình bày bằng ngôn ngữ và ký hiệu
toán học. Chẳng hạn như nhiệm vụ “tính giá trị
trung bình của một dãy số liệu: 8; 7,5; 9; 10; 5; 8;
9,5; 9,5; 8; 6; 10; hoặc nhiệm vụ hãy xác định giá
trị Mode của một bảng số liệu.
- Nhiệm vụ “ngụy trang” (dressed-up tasks),
trong đó ẩn một nhiệm vụ toán học; họ có một bối
cảnh nhất định và một câu hỏi ít giá trị (hay“lạc
lõng”); thể loại này bao gồm các nhiệm vụ với bối
cảnh thực tế, trong đó nhu cầu trả lời câu hỏi
không được xác định thông qua bối cảnh. Chẳng
hạn, “Bạn A có điểm các môn như sau: 8; 7,5; 9;
10; 5; 8; 9,5; 8. Hãy tính điểm trung bình của bạn
ấy”. Kiểu nhiệm vụ này tương tự như kiểu nhiệm
vụ đã được “mô hình hoá” từ thực tiễn, trong đó
người giao nhiệm vụ đã lược đi nhiều hay một số
yếu tố thực tiễn, chỉ còn giữ lại một số yếu tố, có
thể nhìn thấy trong văn bản (ngôn ngữ) mô tả
nhiệm vụ, trong một bối cảnh nào đó hoặc từ
nhiệm vụ thuần túy trong môn Toán, giáo viên
hoặc nhà giáo dục Toán học “khoác” cho nó
những “lời văn” để trở thành nhiệm vụ dạng này.
Ngay trong trường hợp này, bối cảnh cũng thường
khá chung chung, mang tính đại diện, chứ không
cụ thể (như ví dụ trên).
- Nhiệm vụ với bối cảnh thực (tasks with a
realistic context) (thực tế hoặc có thể tưởng
tượng), trong đó câu hỏi có ý nghĩa trong bối cảnh
và câu trả lời cho câu hỏi này có giá trị sử dụng
trong bối cảnh. Chẳng hạn, điểm tổng kết các môn
30
N.T. Trung et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 27-39
một bạn học sinh cụ thể (nào đó), và nói chung,
học sinh đều hình dung rằng, đang sắp hết học kì
I, cộng điểm là một nhu cầu có thật, đối với đa số
các bạn, chứ không chỉ đối với bạn Bảo Khánh
(trong ví dụ đó). Chỉ có điểm số của các bạn là
khác nhau, chứ bối cảnh là có thật, thật sự xảy ra,
mỗi năm hai lần hoặc nhiều hơn.
Để làm rõ mối quan hệ giữa thế giới toán học
và thế giới thực, thông qua nhiệm vụ thực tiễn và
nhiệm vụ toán học, chúng tôi mô tả qua sơ đồ sau:
học trong học kì I của bạn Bảo Khánh là: Toán 8;
Vật lý 7,5; Hóa học 9; Sinh học 10; Ngữ văn 5;
Lịch sử 8; Địa lí 9,5; Tiếng Anh 8; Giáo dục công
dân 9. Hãy tính điểm trung bình học kì I của bạn
Minh, biết rằng các môn Toán, Văn và ngoại ngữ
được tính hệ số 2”. Nhiệm vụ thực tế hiểu ở đây là
nhiệm vụ có thật, có ý nghĩa thực tế, và ít nhất nó
thực tế trong trí não của học sinh (Hans
Freudenthal, 2002; Heuvel-Panhuizen, 1996)
[13, 14]. Có thể thấy, bối cảnh ở đây liên quan đến
r
Math world
Real world
Mathematical task (MT)
Real-life task
(Setted by a context)
(Setted by a real-life context)
Bare task
(bare MT)
Dressed-up task
(dressed-up MT)
Task with a realistic context (MT
with a realistic context)
Hình 1. Mối quan hệ giữa nhiệm vụ thực tiễn và nhiệm vụ toán học (nguồn: Tác giả).
Trong sơ đồ nói trên:
+ Nhiệm vụ thực tiễn (real-life task) được
hiểu là những nhiệm vụ có thật trong cuộc sống.
Chẳng hạn như những công việc hàng ngày, tính
toán chi tiêu, đường đi ngắn nhất, tiện lợi nhất tới
cơ quan, tới trường, việc sắp xếp thời gian biểu
học hàng ngày,... là những nhiệm vụ có thật.
Đương nhiên, khả năng khai thác các nhiệm vụ từ
thực tiễn để đưa vào trong dạy học, biến đổi thành
nhiệm vụ toán học, sao cho nó trở nên hấp dẫn, trở
nên “thực” với học sinh và có ý nghĩa sư phạm là
hết sức quan trọng và không đơn giản.
+ Mũi tên biểu thị rằng, nhiệm vụ thuần
toán học có thể được lấy từ nhiệm vụ thực tiễn
hoặc cũng có thể lấy trong nội bộ toán học (do đó
nó không bắt đầu từ nhiệm vụ thực tiễn như hai
mũi tên , ); mũi tên biểu thị rằng, những
nhiệm vụ ngụy trang đã được khai thác, biến đổi,
giản lược,... từ cuộc sống cho phù hợp để ủy thác
(hay giao) cho học sinh trong các nhiệm vụ toán
học; mũi tên biểu thị rằng, từ những nhiệm vụ
thực tiễn với bối cảnh thực tiễn, và khi đó, có thể
nhiệm vụ thực tiễn hoặc bối cảnh thực tiễn hoặc cả
hai đã được biến đổi, giản lược,... để chuyển thành
nhiệm vụ toán học với bối cảnh thực.
+ Nhiệm vụ thực tiễn cần được khai thác, đặt
ra trong bối cảnh thực tiễn (real-life context).
Chẳng hạn, khi học sinh cấp trung học cơ sở được
hỏi về tình huống hoặc bối cảnh nào họ quan tâm,
họ đề cập đến thể thao, điện thoại thông minh, khí
hậu, môi trường và cuộc sống ngoài hành tinh;
trong đó, các bạn nam quan tâm đến kỹ thuật, cơ
N.T. Trung et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 27-39
khí, điện,... còn các bạn nữ cho thấy sự quan tâm
mạnh mẽ hơn đến sức khỏe, y học, sắc đẹp, cơ thể
con người, đạo đức, thẩm mỹ, kỳ quan và huyền bí
(Holtman et al., 2011) [15]. Ngoài ra, Pauline Vos
đã chứng tỏ học sinh có thể trở nên có động lực
cao khi tài nguyên đích thực (authentic resources)
được sử dụng trong các nhiệm vụ toán học
(mathematical tasks) (Vos, 2018) [16]. Một trong
những cách có thể có được “tài nguyên đích thực”
là khai thác các nhiệm vụ thực, hiểu theo nghĩa
nhiệm vụ có thực “real task” trong thực tiễn.
Có thể chỉ ra một khuyến nghị giúp giáo viên
có một cách tiếp cận trong việc khai thác những
nhiệm vụ thực tiễn, để tìm ra những nhiệm vụ toán
học với bối cảnh thực như sau:
i) phù hợp với khả năng, tâm lí, kiến thức đã
học của học sinh
ii) liên quan đến học sinh, đến trường, đến
lớp, đến thầy giáo, cô giáo, bạn học, gia đình,...
u
a)
31
iii) về thời gian, theo thứ tự: Đang xảy ra, sẽ
xảy ra và tiếp theo là đã xảy ra
Để minh họa cho gợi ý này, có thể giáo viên,
trong giờ dạy học Toán 10, phần thống kê, có thể
hướng dẫn học sinh đánh giá vai trò của thống kê,
ý nghĩa của những con số và việc tìm ra những
con số: Những hình ảnh dưới đây con số dưới đây
(đưa ra theo thứ tự a), b), c) và sau đó là d)) cho
các em liên tưởng đến điều gì, có thể đánh giá như
thế nào? Kết luận gì? Có thể tìm thêm thông tin ở
đâu? Có thể vẽ thành sơ đồ không? Mô tả sơ bộ về
quy luật không? Hãy khuyến nghị về hành động
của chúng ta (học sinh, giáo viên, gia đình, nhà
trường). Xa hơn nữa, có thể yêu cầu học sinh tìm
số liệu, lập bảng phân tích (từ các website, các
chương trình thời sự hàng ngày) để đánh giá xu
hướng lây lan, mức độ nguy hiểm, những hệ lụy,
ảnh hưởng,... của đại dịch Covid-19 đối với gia
đình, nhà trường, đất nước, thế giới.
b)
c)
d)
Hình 2. Thống kê về đại dịch COVID-19, số liệu tính đến 5/3/2020, vnexpress.
Tuy vậy, xét về mối liên hệ với học sinh, và
các gợi ý i), ii) và iii) thì có hai trường hợp: nhiệm
vụ thực tiễn có mối liên hệ với học sinh hoặc
không có mối liên hệ với học sinh. Chẳng hạn,
việc đưa ra khuyến nghị về số lượng vé máy bay
cho mỗi chuyến bay không phải là một nhiệm vụ
liên quan đến học sinh (mà là việc của phòng kinh
doanh, chính sách kinh doanh của mỗi hãng hàng
không); thống kê, tính điểm trung bình học kì một
là một nhiệm vụ quan trọng đối với học sinh quan
tâm tới thành tích, sự phấn đấu về kết quả học tập.
Do vậy, và do mỗi nhiệm vụ dù là liên quan hay
không liên quan tới học sinh thì cũng có hai
trường hợp xảy ra là: Học sinh có thể giải quyết
được hoặc không. Từ đó, có thể đưa ra một số gợi
ý cho việc khai thác các nhiệm vụ trong thực tiễn
để biến thành nhiệm vụ toán học (trong quá trình
học toán) cho học sinh.
2.2. Khai thác nhiệm vụ thực tiễn liên quan đến
thống kê nhằm mục đích giáo dục kinh tế cho học
sinh trong dạy học Toán
Về vấn đề giáo dục kinh tế, đã được trình bày
trong Chương trình Giáo dục phổ thông môn Giáo
dục công dân (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018, tr. 6)
32
N.T. Trung et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 27-39
[17]: Một trong những mục tiêu dạy học cấp trung
học phổ thông là “có kiến thức phổ thông, cơ bản
về kinh tế, pháp luật; vận dụng được các kiến thức
đã học để phân tích, đánh giá, xử lí các hiện
tượng, vấn đề, tình huống trong thực tiễn cuộc
sống”. Hơn nữa, trong mô tả về năng lực tham gia
hoạt động kinh tế-xã hội của học sinh trung học
phổ thông có chỉ rõ “Vận dụng được các kiến thức
đã học để phân tích, đánh giá, xử lí các hiện tượng,
vấn đề, tình huống trong thực tiễn cuộc sống; có khả
năng tham gia thảo luận, tranh luậnvề một số vấn đề
trong đời sống xã hội đương đại liên quan đến đạo
đức, pháp luật và kinh tế” (Bộ GD-ĐT, 2018b, tr.
12) [17]. Như vậy, nhiệm vụ giáo dục kinh tế đã
được đánh giá cao trong dạy học, nhằm giúp học
sinh có thể vận dụng các kiến thức môn học, giải
quyết các vấn đề của cuộc sống.
Toán học là môn khoa học cung cấp những
công cụ quan trọng cho đời sống, trong đó có một
phần quan trọng là hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Do vậy, trong quá trình dạy học môn Toán,
giáo viên có thể khai thác một số nhiệm vụ có
thực trong đời sống, trong đó có những nhiệm vụ
liên quan đến sản xuất kinh doanh để chuyển hóa
thành nhiệm vụ thực tiễn đối với học sinh. Việc
này vừa giúp học sinh hiểu các khái niệm, quy luật
toán học; sự tồn tại của nó trong đời sống vừa giúp
phát triển các năng lực người học một cách toàn
diện, trong đó có “năng lực tham gia hoạt động
kinh tế-xã hội” như trình bày trong Bộ Giáo dục
và Đào tạo (2018b, tr. 12) [17].
Về nội dung dạy học phần thống kê ở lớp 10:
Điều này được mô tả trong Chương trình Giáo dục
phổ thông môn Toán (lớp 10) gồm: thu thập và tổ
chức dữ liệu; phân tích và xử lí dữ liệu nhưng
nhiều nhất chỉ là yêu cầu “Nhận biết được mối
liên hệ giữa thống kê với những kiến thức của các
môn học trong Chương trình lớp 10 và trong thực
tiễn”, đồng thời có yêu cầu về việc “sử dụng phần
mềm để hỗ trợ việc học các kiến thức về thống kê”
(Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018, tr. 85-86) [1].
Trong sản xuất kinh doanh, có thể chỉ ra một
số nhiệm vụ cơ bản như trình bày dưới đây (liên
quan tới các kiến thức về thống kê): thu thập số
liệu, xử lí số liệu, đọc hiểu số liệu, phân tích đánh
giá kết quả, tư vấn, ra quyết định. Nhiệm vụ này,
trong doanh nghiệp, tùy ở độ lớn của doanh
nghiệp mà có mức độ đơn giản hay phức tạp khác
nhau. Tuy nhiên, nhiệm vụ này hoàn toàn phù hợp
với một số mô tả trong năng lực tìm hiểu và tham
gia hoạt động kinh tế-xã hội: “giải thích được một
cách đơn giản một số hiện tượng, vấn đề kinh tế”;
“bước đầu đưa ra được quyết định hợp lí nhằm
giải quyết các vấn đề kinh tế của cá nhân, gia đình
và cộng đồng với tư cách là một chủ thể kinh tế”
(Nguyễn Thị Thu Hoài (chủ biên) và cộng sự
(2020; tr 29-30) [18].
Dưới đây, chúng tôi sẽ đưa ra một bảng phân
tích về các kiểu nhiệm vụ liên quan tới thống kê
trong doanh nghiệp nhỏ, đồng thời đưa ra những
khuyến nghị trong việc khai thác các nhiệm vụ đó
vào quá trình dạy học môn Toán. Đương nhiên,
học sinh lớp 10 sẽ được rèn luyện cả các kĩ năng
sử dụng phần mềm Microsoft Excel trong tính
toán, lập sơ đồ, biểu đồ,… liên quan đến các
nhiệm vụ này (ở mức đọ đơn giản) (Bảng 1).
Ví dụ. Dạy học thống kê nhằm rèn luyện kĩ
năng đọc hiểu (thông tin thống kê), góp phần giáo
dục kinh tế cho học sinh
Nội dung dạy học: Khởi nghiệp kinh doanh:
Những khảo sát và ra quyết định ban đầu
Mục tiêu dạy học: Giúp học sinh tìm hiểu về
một số lĩnh vực kinh doanh dựa trên các số liệu
thống kê; giúp học sinh thấy được ý nghĩa của
thống kê trong cuộc sống, trong học tập.
j
Bảng 1. Một số nhiệm vụ liên quan đến thống kê trong thực tiễn (ví dụ cụ thể vào phân tích một số hoạt động của
doanh nghiệp có sử dụng các kiến thức liên quan đến thống kê)
Mã
hoá
T1
T2
T3
Kiểu nhiệm vụ
Đối tượng phù hợp
Khuyến nghị về yêu cầu dạy học
Đọc hiểu (thông tin thống kê)
Thu thập số liệu
Xử lí số liệu mức 1
(sắp xếp, phân loại)
Giám đốc, chuyên gia tư vấn, nhân viên
nhân viên
Rèn luyện kĩ năng
Tập dượt
nhân viên
Tập dượt
N.T. Trung et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 27-39
T4
T5
T6
T7
Xử lí số liệu mức 2
(sử dụng công cụ, phần mềm
để tính, đưa ra các kết quả về
số, bảng, biểu, sơ đồ)
Phân tích, đánh giá kết quả
(ý nghĩa, nguyên nhân,...)
Tư vấn ra quyết định
(nếu có)
Ra quyết định
nhân viên
Tập dượt
nhân viên, chuyên gia
Tập dượt
Chuyên gia, nhân viên
Rèn luyện kĩ năng
Giám đốc
Rèn luyện kĩ năng
33
Trong đó. Xét một doanh nghiệp (chẳng hạn công ti) thì thường có một số vị trí liên quan tới công tác kinh doanh:
Giám đốc kinh doanh (GĐ), chuyên gia tư vấn (về vấn đề thị trường, sản xuất,... nói chung)
(CG), chuyên viên phân tích và xử lí số liệu (CV), và nhân viên bán hàng (NV).
Các hoạt động chủ yếu:
Hoạt động 1. Đọc hiểu, tìm kiếm thông tin, ra
quyết định
Giáo viên: Phát cho học sinh một số bảng
phân tích số hoặc cho học sinh tìm đọc theo nhóm,
trên website: https://vnreview.vn/tin-tuc-kinhdoanh/-/view_content/content/2388908/40-cuahang-online-khong-tang-truong-trong-nam2017/?curpage=42) và yêu cầu học sinh thực hiện
một số nhiệm vụ:
NV1. Hãy trình bày một cách chung nhất về
quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp
(dựa trên những bảng số liệu thống kê đã cho).
NV2. Chỉ ra các lĩnh vực (ngành) kinh doanh
hiện nay. Các lĩnh vực (ngành) chỉ ra, thống kê đã
bao quát hết chưa?
NV3. Lĩnh vực kinh doanh nào đang là xu thế
hiện nay? Lĩnh vực nào có doanh thu tốt, lợi
nhuận cao?
NV4. Có những cách thức bán hàng (kênh bán
hàng nào) và kênh bán hàng (kênh phân phối) nào
là hiệu quả nhất?
NV5. Hình thức thanh toán phổ biến, hiệu quả
nhất theo em là gì?
NV6. Hình thức giao hàng nào là phổ biến?
Em hãy đánh giá về ưu điểm, nhược điểm của
hình thức giao hàng đó?
NV7. Có ý kiến cho rằng, “Học sinh cần tập
trung cho công việc học hành, nên không nên
quan tâm đến, tập dượt kinh doanh. Việc đó nên
để sau khi tốt nghiệp ra trường, học xong đại học”.
Em hãy cho ý kiến về vấn đề này.
NV8. Nếu chọn lĩnh vực kinh doanh, em sẽ
chọn lĩnh vực kinh doanh nào? Ví dụ cụ thể thì
nhóm sẽ làm gì?
NV9. Theo như đánh giá của nhiều trang web
thì có một số ngành hot hiện nay là: Bác sĩ, kĩ sư
phần mềm, du lịch, tư vấn tâm lí,… Do vậy, bạn
An đã quyết tâm học để thi vào trường Đại học
Bách khoa, Khoa Công nghệ thông tin. Theo em,
đó có phải là một quyết định khởi nghiệp không?
Hãy đưa ra ý kiến của mình về quyết định của
bạn An.
Học sinh: Lớp được chia thành các nhóm. Mỗi
nhóm sẽ thực hiện các nhiệm vụ như trên.
Lưu ý: Trong quá trình tổ chức cho học sinh
thực hiện các nhiệm vụ, giáo viên cần tương tác,
hỗ trợ học sinh: Khai thác tài liệu đã có để đánh
giá, phân tích, viết ra giấy các ý kiến của mỗi cá
nhân, để tranh luận, thảo luận; có thể khai thác
thêm các tài liệu trên mạng internet để có thêm
thông tin cho học sinh ra quyết định. Để thực hiện
việc này, giáo viên cần lưu ý việc hướng dẫn học
sinh tìm theo từ khoá. Chẳng hạn như: “khởi
nghiệp”, “nghề hot”, “thống kê về khởi nghiệp”,…
giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh cách sử
dụng tìm kiếm hình ảnh trên internet để có những
kết quả trực quan, nhanh chóng hoặc tìm trên
youtube để có những phân tích sâu sắc và nhiều
chiều. Tuy việc khai thác thông tin trên internet là
rất quan trọng và sẽ giúp học sinh có nhiều thông
tin hơn để phân tích, ra quyết định, nhưng, bước
đầu, giáo viên có thể chỉ hướng dẫn học sinh sử
dụng các thông tin đã có, để huy động khả năng
suy luận dựa trên số liệu đã có. Sau đó, tùy điều
kiện dạy học, giáo viên mới yêu cầu học sinh khai
thác thêm thông tin, trong điều kiện các bảng số
liệu này chưa đủ thông tin để giúp học sinh trả lời.
34
N.T. Trung et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 27-39
F
h
Hình 3. Giới thiệu một số thống kê về lĩnh vực kinh doanh, các kênh bán hàng,
giao hàng, hình thức thanh toán,... (nguồn: vnreview.vn).
35
N.T. Trung et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 27-39
Hơn nữa, có thể tổ chức cho học sinh trả lời
một số câu hỏi, thảo luận theo chủ đề chẳng hạn
như: Nếu là người mua hàng, mua ở đâu?; Nếu là
người muốn bán hàng, bán ở đâu? Nếu bán hàng,
chọn loại nào? Nếu mua hàng, chọn loại nào?.
Kết thúc quá trình thực hiện hoạt động trên,
kết quả mong đợi là học sinh có những tìm hiểu
nhất định về các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh
và cả nghề nghiệp. Học sinh sẽ tìm hiểu (tốt nhất
là theo nhóm) về các lĩnh vực này để trả lời các
câu hỏi đặt ra. Hơn nữa, học sinh sẽ có thể có
những hiểu nhầm về chọn nghề với chọn lĩnh vực
kinh doanh, dẫn đến việc lầm tưởng rằng, chẳng
hạn, chọn nghề bác sĩ (một nghề hot) là một quyết
định khởi nghiệp. Giáo viên sẽ yêu cầu và hỗ trợ học
sinh đánh giá về vai trò của việc thống kê, của các số
liệu trong việc hiểu, đánh giá, ra quyết định.
Giáo viên có thể tiếp tục tổ chức cho học sinh
tìm hiểu về “khởi nghiệp” theo nhiều khía cạnh
khác nữa như: Điều kiện để khởi nghiệp, những
phẩm chất của người làm kinh doanh thường có;
những câu chuyện về khởi nghiệp khi còn trong
ghế nhà trường,… Những hoạt động này giúp học
sinh có những thông tin về khởi nghiệp, đánh giá
năng lực bản thân xem có phù hợp, có thích các
hoạt động kinh doanh hay không,… Quan trọng
nữa, việc đưa ra những đánh giá, quyết định ban
đầu đó cần phải có sự tìm kiếm thông tin, so sánh,
đánh giá,… và dựa trên các số liệu thống kê chứ
không thể dựa trên nhận thức cảm tính được. Đặc
biệt là việc lựa chọn lĩnh vực kinh doanh.
Dưới đây là bảng đối chiếu các nhiệm vụ thực
tiễn và các nhiệm vụ đưa ra trong ví dụ trên
(Bảng 2):
Hoạt động 2. Kinh doanh cửa hàng sách:
Những tìm hiểu ban đầu
Giáo viên: Giao nhiệm vụ cho các nhóm học
sinh: Dưới đây là bảng tổng hợp doanh số của một
cửa hàng sách. Bạn hãy đọc và trả lời một số câu
hỏi, thực hiện một số yêu cầu dưới đây (Bảng 3):
NV1. Theo em, ai là người đã lập nên bảng số
liệu trên?
NV2. Em hãy lập một số biểu đồ về doanh số,
lợi nhuận, bảng đánh giá về doanh số, lợi nhuận cho
từng mặt hàng, theo thời gian,… để báo cáo một
cách ngắn gọn nhất về hoạt động bán hàng của cửa
hàng (sử dụng phần mềm Microsoft Excel).
NV3. Từ bảng trên, em có những kết luận gì?
NV4. Nếu là chủ cửa hàng sách trên, em sẽ có
những kết luận, quyết định gì cho năm tới (về vấn
đề đầu tư, chọn loại mặt hàng,…)?
NV5. Nếu cần bố trí, sắp đặt vị trí các mặt
hàng cho cửa hàng với mặt bằng như dưới đây,
bạn sẽ sắp xếp như thế nào (đưa ra phương án sắp
xếp 6 loại mặt hàng như trong bảng trên, giải thích
lí do)?
NV6. Nhóm bạn đang là học sinh của trường
THPT Phan Đình Giót (thành phố Điện Biên),
muốn xin ý kiến bố mẹ để mở một cửa hàng sách
trên địa bàn. Có một số thông tin về địa điểm, bản
đồ như sau (Hình 5), em hãy phân tích để gợi ý
cho nhóm bạn chọn khu vực tìm thuê cửa hàng
phù hợp. Hãy giải thích vì sao?
Học sinh: Hoạt động nhóm (trên lớp và ngoài lớp)
Giáo viên: Hỗ trợ học sinh trong quá trình
thực hiện các nhiệm vụ. Chẳng hạn với NV1. Đa
số học sinh không cần đến sự hỗ trợ của giáo viên.
Với NV2. Giáo viên cần hỗ trợ học sinh trong
việc sử dụng phần mềm Microsoft Excel để nhập
lại số liệu (nếu được, giáo viên có thể gửi bảng số
liệu dạng file cho các nhóm). Khi đó, học sinh
không cần nhập lại số liệu. Giới thiệu một số dạng
biểu đồ khác nhau.
Với NV3. Giáo viên có thể gợi ý cho học sinh
về những vấn đề liên quan đến kinh doanh cửa
hàng sách (học sinh có thể tìm hiểu) như: doanh
thu, lợi nhuận, tỉ suất lợi nhuận, đánh giá doanh số
bán theo tháng, doanh số bán theo mặt hàng, lợi
nhuận theo mặt hàng,…
f
Bảng 2. Bảng đối chiếu nhiệm vụ thực tiễn với nhiệm vụ trong bài học
Task
Nhiệm vụ
trong bài
T1
T2
NV1→NV8
NV2, NV7, NV8
T3
T4
T5
T6
T7
NV1→NV9
NV7, NV9
NV8
36
N.T. Trung et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 27-39
Bảng 3. Bảng tổng hợp doanh số bán lẻ sách năm 2019
Đơn vị: Nghìn đồng
LOẠI
SÁCH
SÁCH
MẦM
NON
SÁCH
TIỂU
HỌC
SÁCH
GIÁO
KHOA
SÁCH
BỔ TRỢ
VĂN
PHÒNG
PHẨM
ÔN THI
ĐẠI
HỌC
TỔNG
2.520
1.955
210
526
15.031
2.569
22.811
THÁNG 2
2.110
2.000
0
213
14.200
1.500
20.023
THÁNG 3
2.190
2.544
595
456
16.450
6.920
29.155
THÁNG 4
2.090
1.500
1.250
2.223
19.456
4.900
31.419
THÁNG 5
5.960
11.010
5.990
9.100
21.023
1.950
55.033
THÁNG 6
4.650
6.500
4.950
7.400
12.300
1.520
37.320
THÁNG 7
2.520
2.100
2.500
1.230
5.600
655
14.605
THÁNG 8
3.020
2.115
1.203
984
5.890
549
13.761
THÁNG 9
2.500
4.210
1.520
852
18.975
569
28.626
THÁNG 10
2.022
1.899
292
540
15.640
1.998
22.391
THÁNG 11
1.955
1.952
510
462
28.000
3.540
36.419
THÁNG 12
1.990
2.090
450
210
12.065
2.566
19.371
TỔNG CỘNG
33.527
39.875
19.470
24.196
184.630
29.236
330.934
LỢI NHUẬN
14.416
13.956
1.947
6.774
73.852
10.232
121.177
THÁNG
THÁNG 1
GHI
CHÚ
k
Đường
hai
chiều
Cửa hàng
Đường hai chiều
Hình 4.a)
Hình 5. Ảnh chụp Google map khu vực trường
THPT Phan Đình Giót, TP Điện Biên Phủ.
Hình 4.b)
Với NV4. Giáo viên có thể tư vấn về việc
chọn loại mặt hàng cần khai thác (mua về), đánh
giá về lợi nhuận trên mặt hàng, đánh giá về nhu
cầu người dùng trên doanh số và cả những nhu
cầu không phản ánh từ doanh số (Chẳng hạn, nếu
cửa hàng không bán sách giáo khoa, không có
sách bổ trợ, thiếu văn phòng phẩm thì sẽ không
thu hút được khách hàng đến).
Với NV5. Giáo viên có thể tư vấn cho học
sinh tìm hiểu về kinh nghiệm mở cửa hàng sách,
tham quan, khảo sát một số cửa hàng sách
N.T. Trung et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 27-39
(các nhóm khác nhau, cửa hàng khác nhau), khi đó
lưu ý một số vấn đề như: loại mặt hàng thường
xếp theo vị trí, loại bán chạy, loại bán chậm, kinh
nghiệm đặt vị trí thu ngân, đặt vị trí camera
(nếu có), kinh nghiệm sắp đặt giá sách, tủ văn
phòng phẩm, cửa hàng có hai cửa (một cửa vào,
một cửa ra) hay chỉ một cửa vào và ra, cửa của
cửa hàng thường/nên để ở khu vực nào,…
Với NV6. Giáo viên nên gợi ý cho học sinh tự
tìm hiểu, đánh giá xem vị trí đặt cửa hàng ở đâu là
phù hợp để hướng tới: đối tượng khách hàng, sự
thuận lợi cho kiểm tra, … Giáo viên có thể hướng
dẫn hay gợi ý cho học sinh sử dụng bản đồ online
(google map) để các em chủ động khai thác thông
tin, trải nghiệm.
Lưu ý: Mục tiêu của hoạt động này là:
i) Giúp học sinh nắm được các thông tin ban đầu
37
quan trọng về việc triển khai cụ thể khi mở một
cửa hàng bán sách. Việc chọn cửa hàng bán sách
là một cách chọn có dụng ý. Bởi lẽ, sách và văn
phòng phẩm là một phần quan trọng trong cuộc
sống của học sinh. Việc vào cửa hàng sách là một
việc làm bình thường, nhiều bạn đã làm, thường
xuyên làm.ii) Giúp học sinh sử dụng máy tính để
tính toán, đánh giá về một số hoạt động kinh
doanh của một cửa hàng (liên quan đến hàng hoá,
lợi nhuận,…). iii) Giúp học sinh có rèn luyện kĩ
năng sử dụng phần mềm tính toán đơn giản
(Microsoft Excel) để tạo ra các biểu, sơ đồ để
đánh giá và phân tích, ra quyết định. Như vậy, ở
đây học sinh đã được thực hiện các nhiệm vụ T1,
T3, T4, T5, T6, T7 (như đã trình bày ở trên).
Bảng 4. Bảng đối chiếu nhiệm vụ thực tiễn với nhiệm vụ trong bài học
Task
Nhiệm vụ trong bài
T1
NV1
T2
T3
NV2
T4
NV2
T5
NV3
T6
NV4,5,6
T7
NV5,6
Kết quả của học sinh thu được:
g
Từ những sơ đồ, bảng biểu trình bày, thực tiễn
khảo sát và trải nghiệm khảo sát (trên máy tính,
trên địa bàn) học sinh được tìm hiểu về vấn đề
kinh doanh sách, những hoạt động, lưu ý (ban
đầu) trong việc mở một cửa hàng kinh doanh. Học
sinh có thể thảo luận, tranh luận cùng nhau khi đưa
ra quyết định của nhóm, cá nhân với tư cách là người
tư vấn, với tư cách là một người “khởi nghiệp”.
Thông qua đó, học sinh thấy được hình ảnh, ứng
dụng của các kiến thức toán học trong kinh doanh,
trong cuộc sống. Những kiến thức về thống kê trở
nên sinh động và có ý nghĩa, và theo một cách nào
đó, nó “thực” với học sinh, ít nhất là tồn tại thực
trong đời sống, và trong trí não của họ
(H. Freudenthal, 1973; Lerman, 2014, p. 522)
[19, 20].
3. Kết luận
Những trình bày về việc phân tích các nhiệm
vụ thực tiễn và gợi ý khai thác để chuyển hóa
thành các nhiệm vụ toán học (nhiệm vụ toán học
với bối cảnh thực) ở trên sẽ góp phần giúp giáo
viên có một khung phân tích, xác định các nhiệm
vụ thực tiễn trong dạy học các nội dung khác của
38
N.T. Trung et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 27-39
môn Toán. Từ đó, giáo viên sẽ thiết kế các hoạt
động, khai thác các nhiệm vụ, bối cảnh có thực
trong thực tiễn hay ít nhất có thể mô phỏng, mô tả
nó trở nên có ý nghĩa, có thực và vừa sức của học
sinh (như trình bày trong Bảng 1) để giúp học sinh
học toán một cách tích cực, hiệu quả và “thiết
thực” (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018, p. 4) [1].
Từ những trình bày ở trên có thể thấy rằng,
việc khai thác các nhiệm vụ thực tiễn là khả thi và
sẽ giúp giáo viên vừa dạy học các kiến thức thống
kê, vừa giúp giáo dục kính tế cho học sinh. Việc tổ
chức các hoạt động trong và ngoài lớp học, các
hoạt động khai thác, xử lí, phân tích thông tin như
kể trên sẽ góp phần làm cho môn Toán trở nên ý
nghĩa hơn đối với học sinh, “thực” hơn đối với
học sinh.Trong nghiên cứu này, còn hạn chế là
việc dành thời lượng cho việc dạy học các khái
niệm liên quan đến kinh tế như vốn, đầu tư, doanh
thu, lợi nhuận, chi phí, khấu hao,... ít được đề cập
hay trình bày ở trên. Bởi lẽ, một mặt những kiến
thức này khá căn bản, mặt khác chúng tôi dành
những phân tích này trên lớp cho giáo viên để có
điều kiện khai thác, đề cập phù hợp với đối tượng
học sinh của mình.
Lời cảm ơn
Bài báo này là một sản phẩm của đề tài nghiên
cứu “Giáo dục toán học gắn với thực tiễn ở Việt
Nam - Nhu cầu và thách thức” (mã số: 503.012019.301), được tài trợ bởi Quỹ phát triển Khoa
học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED). Nhóm
tác giả trân trọng cảm ơn quỹ NAFOSTED vì sự
tài trợ này.
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]
[10]
Tài liệu tham khảo
[1] Ministry of Education and Training, Mathematics
General curriculum, Circular No. 32/2018/TTBGDĐT, 123.
https://data.moet.gov.vn/index.php/s/m6ztfi7sUII
GQdY#pdfviewer/, 2018 (accessed 22 May 2019)
(in Vietnamese).
[2] Ministry of Education and Training, General
Education curriculum, Circular No. 32/2018/TTBGDĐT, 52.
[11]
https://data.moet.gov.vn/index.php/s/LETzPhj5sG
GnDii#pdfviewer/, 2018 (accessed 22 May 2019)
(in Vietnamese).
T.T. Nguyen, T. Phuong Thi Trinh, H. Thu Vu Ngo,
N.A. Hoang, T. Tran, H.H. Pham, V.N. Bui,
Realistic Mathematics Education in Vietnam: Recent
Policies and Practices, International Journal of
Education and Practice 8(1) (2020) 57-71.
https://doi.org/10.18488/journal.61.2020.81.57.71.
Ha Xuan Thanh, Mathematics teaching in high
school in order to develop realistic problem solving
through explotation and using realistic situations,
Doctorial thesis in Educational science, Vietnam
Institue
of
Educational
Science,
2017
(in Vietnamese).
Dang Thi Thu Hue, Mathematics teaching in order
to develop junior student's creative competency,
Doctorial thesis in Educational science, Vietnam
Institue
of
Educational
Science,
2019
(in Vietnamese).
N.T. Trung, Some suggestions on the application
of the realistic mathematics education and the
didactical situations in mathematics teaching in
Vietnam, Hnue Journal of Science, Educational
Sciences 63(9) (2018) 24-33.
Nguyen Tien Trung, Kim Anh Tuan, Nguyen Bao
Duy, Implememtation of Realistic Mathematics
Education in mathematics teaching, Vietnam
Journal of Education 458 (2019) 37-44
(in Vietnamese).
N.T. Trung, T.P. Thao, T. Trung, Realistic
mathematics education (RME) and didactical
situations in mathematics (DSM) in the context of
education reform in Vietnam, Journal of Physics:
Conference Series 1340(1)
(2019) 0-14.
https://doi.org/10.1088/1742-6596/1340/1/012032.
Tran Vui, Bringing Mathematics Education into
the global orbit to develop thinking, Logic and
creativity in solving realistic problems with
closed-open approach, Vietnam Journal of
Education 5 (2018) 28-33.
P. Vos, Task Contexts in Dutch Mathematics
Education (Chapter 3), in M. Van den HeuvelPanhuizen (ed.), National Reflections on the
Netherlands Didactics ofMathematics, ICME-13
Monographs Springer International Publishing
(2020) 31-53. https://doi.org/10.1007/978-3-03033824-4-3
J. Hiebert, R. Gallimore, H. Garnier, K. Givvin,
H. Hollingsworth, J. Jacobs et al., Teaching
mathematics in seven countries: Results from the
TIMSS 1999 video study, Washington, DC:
National Center for Educational Statistics, 2003.
N.T. Trung et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 27-39
[12] I. Mullis, M. Martin, E. Gonzalez, TIMSS 2003
International Mathematics Report, In TIMSS &
PIRLS International Study Center, Lynch School
of
Education,
Boston
College,
2004.
https://doi.org/10356/15300.
[13] Freudenthal, Hans, Revisiting Mathematics
Education (H. Bauersfeld, J. Kilpatrick, G. Leder,
S. Turnau, G. Vergnaud (eds.); Vol. 9), Kluwer
Academic Publishers, 2002.
[14] Heuvel-Panhuizen, M. Van Den, Assessment and
Realistic Mathematics Education, In Freudenthal
institute, Freudenthal institute, 1996.
[15] L. Holtman, C. Julie, M. Mbekwa, D. Mtetwa, A
comparison of preferences for real-life situations
that could be used in school mathematics in three
SADC countries 38(2) (2011) 120-137.
[16] P. Vos, “How Real People Really Need
Mathematics in the Real World”, Authenticity in
Mathematics Education, Education Sciences
H
h
[17]
[18]
[19]
[20]
39
(MDPI)
8(4)
195
(2018).
https://doi.org/10.3390/educsci8040195.
Ministry of Education and Training, Civic
Education curriculum, Circular No. 32/2018/TTBGDĐT, 123.
https://data.moet.gov.vn/index.php/s/Jf6LwbnDih
Zna46#pdfviewer/, 2018 (accessed 22 May 2019)
(in Vietnamese).
Nguyen Thi Thu Hoai, Phạm Kim Dung, Nguyen
Thi Lien, Dinh Thi Thanh Van, Guide to teach
economic and law education subject according to
the new general education curriculum, University
of
Education
Publishing
house,
2020
(in Vietnamese).
H. Freudenthal, Mathematics as an Educational
Task, D. Reidel Publishing company/DordrechtHolland, 1973. https://doi.org/10.1007/978-94010-2903-2.
S. Lerman, Encyclopedia of and Mathematics and
Education, 2014.