Academia.eduAcademia.edu
QUÁ TRÌNH T NHÂN HÓA GIÁO DỤC Đ I H C VÀ SỰ PHÁT TRIỂN HỆ TH NG GIÁO DỤC Đ I H C T THỤC VIỆT NAM Tác giả: Châu Dương Quang1 TÓM T T Hiện nay, giới học giả ngành giáo dục đại học thường nghiên cứu về sự phát triển của các trường đại học tư thục và về quá trình tư nhân hóa giáo dục đại học một cách tách biệt nhau. Tuy nhiên, đây là hai quá trình liên quan chặt chẽ, và thông thường cùng diễn ra đồng thời. Bài viết sẽ phân tích mối quan hệ của hai quá trình này. Một vài học giả cho rằng sự phát triển của các trường đại học tư thục là một phần của quá trình tư nhân hóa giáo dục. Tuy nhiên, bài viết sẽ chỉ ra rằng chính quá trình tư nhân hóa giáo dục cũng góp phần vào sự suy thoái của các trường tư thục hiện nay. Tiếp đó, bài viết sẽ phân tích sự suy yếu của hệ thống đại học tư thục Việt Nam từ góc độ này. Từ khóa: Giáo dục đại học, tư nhân hóa, đại học tư thục, Việt Nam, suy thoái ABTRACT Nowadays, higher education privatisation and the evolution of private higher education institutions are in many cases separately studied. However, both 1 Học viên cao học, ngành Giáo dục đại học & chuyên nghiệp, Viện giáo dục London. Master student, Higher & Professional Education Program, UCL Institute of Education Email: chauquang789@gmail.com phenomena are closely intertwined. This interdependence will be analysed in the paper. Some higher education scholars presume the development of private universities to be an integral part of higher education privatisation. However, as this paper will point out, the opposite also holds true: the latter hampers the formers. This inverse relationship will then be vividly illustrated through the case of Vietnam’s private universities. Key words: Higher education, private universitie, privatization, Vietnam, crisis T NHÂN HÓA GIÁO DỤC Đ I H C Tư nhân hóa giáo dục đại học là một khái niệm đa nghĩa. Theo nghĩa hẹp nhất, tư nhân hóa giáo dục đại học là việc chuyển giao quyền sở hữu các cơ sở giáo dục đại học từ công hữu sang tư hữu (Belfield & Levin, 2002). Tuy nhiên, Glade (1986) cho rằng trên thế giới, hình thức chuyển giao đó hầu như không diễn ra. Theo nghĩa rộng hơn, tư nhân hóa giáo dục đại học là quá trình làm cho các cơ sở giáo dục đại học công lập mang thêm nhiều tính chất của thành phần tư nhân (Wang, 2014). Các tính chất tư nhân thường được nhắc đến ở đây là: chú ý đến nhu cầu thị trường và người tiêu dùng (doanh nghiệp sử dụng lao động và sinh viên), chú ý đến tính hiệu quả trong hoạt động, và ít phụ thuộc vào sự hỗ trợ tài chính từ nhà nước. Quá trình tư nhân hóa được thể hiện rõ nét nhất là việc tăng phần đóng góp tài chính và quản lí của thành phần tư nhân trong các trường công lập. Đây là hiện tượng phổ biến khắp thế giới. Hiện tại, các trường đại học công lập ở rất nhiều nước đã bắt đầu thu học phí. Ví dụ, từ năm 1997, mức học phí tượng trưng £1,000/ năm đã xuất hiện tại các trường công lập ở Anh, và sau đó tăng lên rất nhanh, hiện ở mức £9,000/ năm. Ngay cả các nước Bắc Âu nổi tiếng với hệ thống phúc lợi xã hội tốt nhất thế giới, nơi mà ngay cả sinh viên quốc tế cũng được miễn học phí, cũng đã bắt đầu thảo luận liệu có nên thu học phí hay không. Tại các nước trong khối Liên Xô trước đây, sinh viên cũng đang phải đóng học phí. Theo một nghiên cứu, tại 9 trong số 28 nước trong nhóm OECD, hơn 30% nguồn thu của các đại học là từ học phí từ sinh viên (Vincent-Lancrin, 2007). Nhìn chung, học phí hiện nay đang là một nguồn thu ngày càng quan trọng của các trường đại học công trên thế giới. Trong tình trạng nguồn hỗ trợ tài chính từ nhà nước đang có xu hướng giảm sút, thì các trường công lập đã phải bắt đầu tự cân đối và xoay sở với nguồn học phí từ sinh viên. Vì vậy, một mặt, họ cố gắng hoạt động có hiệu quả hơn, mặt khác, họ tìm cách thu hút thêm học phí của sinh viên (bằng cách nâng chất lượng đào tạo, và nâng học phí), hoặc thu hút thêm nhiều sinh viên mới (mở rộng quy mô). Để làm được điều này, nhìn chung, họ phải chú ý đến nhu cầu của sinh viên hơn. T NHÂN HÓA GIÁO DỤC Đ I H C VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CÁC Đ I H C T THỤC Đôi khi, khái niệm tư nhân hóa giáo dục đại học, ngoài ý nghĩa là quá trình tăng tính chất tư nhân trong các cơ sở giáo dục công lập, còn có nghĩa là khuyến khích xây dựng thêm các cơ sở giáo dục ngoài công lập. Thoạt đầu, mối quan hệ này có xu hướng tỉ lệ thuận: trong quá trình tư nhân hóa giáo dục đại học, các trường đại học tư thục được khuyến khích phát triển, vì đây là những đại học do tư nhân lập nên, và hoạt động bằng nguồn tài chính của thành phần tư nhân, phần lớn là từ học phí của sinh viên. Altbach (1999) cho rằng, căn cứ chính yếu để phân biệt trường đại học công lập và tư thục là cơ cấu nguồn tài chính. Theo đó, đại học tư thục hoạt động chủ yếu dựa trên các nguồn tài chính từ thành phần tư nhân, trong khi các trường công lập nhận được phần lớn hoặc toàn bộ nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước, và chính vì thế, trước đây, rất nhiều trường công lập không thu học phí. Một khi quá trình tư nhân hóa được đẩy mạnh, các trường đại học công lập bắt đầu thu học phí, thì mức độ “cạnh tranh” của các trường này so với các trường tư thục giảm dần. Ví dụ, trường Buckingham được nâng cấp lên thành đại học tư thục đầu tiên tại Anh năm 1983, trong bối cảnh giáo dục đại học tại Anh được Chính phủ tài trợ hoàn toàn. Đại học này phải thừa nhận rằng: “rất khó để khiến người ta mua một thứ gì mà họ đang được cung cấp miễn phí hoặc đang có thể mua với giá thấp hơn!” (trích trong Geiger, 1987: 13). Tuy nhiên, cơ hội đến với đại học này từ thập niên 90, khi các trường công bắt đầu thu học phí của sinh viên. Một khi học phí của các trường công ngày càng tăng lên, khoảng cách học phí giữa các trường này và đại học Buckingham ngày càng thu hẹp lại. Nói cách khác, các trường công, về mặt học phí, đang ngày càng kém hấp dẫn sinh viên so với các trường tư thục. Và ví thế, đúng là quá trình tư nhân hóa có khả năng thúc đẩy sự phát triển của các trường đại học tư thục. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý điều ngược lại: quá trình tư nhân hóa giáo dục đại học cũng gây ra nhiều khó khăn cho sự phát triển của các đại học tư thục. Như đã phân tích ở phần trên, một khi các trường đại học công lập được tư nhân hóa, chúng sẽ nhận các đóng góp tài chính và quản lí từ phía khu vực tư nhân. Đồng thời, cùng với việc giảm các khoản trợ cấp, quyền quản lí của khối công lập đối với các trường công sẽ được nới lỏng ra. Kết quả của sự dịch chuyển này là các trường đại học công lập phải có trách nhiệm hơn với khu vực tư nhân, bao gồm sinh viên, phụ huynh, doanh nghiệp v.v. Hay nói khác đi, các trường này phải chú ý đến nhu cầu của khu vực tư nhân. Trong khi đó, các trường đại học tư thục được lập ra bởi các thành phần ngoài công lập, từ lâu, đã chú ý phục vụ nhu cầu của khu vực tư nhân. Lí do là vì sự sống còn của các trường tư thục, trước giờ, phụ thuộc rất nhiều vào mức độ hài lòng của sinh viên, phụ huynh và các doanh nghiệp. Tóm lại, khi các trường công lập được tư nhân hóa, họ chuyển sự tập trung từ khu vực công sang khu vực tư, và có xu hướng đang cạnh tranh trực tiếp với các trường tư thục. Vậy, một khi cả trường công và trường tư cùng phụ thuộc tài chính vào sinh viên và doanh nghiệp, họ rất dễ bị buộc phải cạnh tranh với nhau. Mối quan hệ ngược chiều giữa quá trình tư nhân hóa và sự phát triển của các đại học tư thục đang thể hiện rất rõ nét tại Trung Quốc và Malaysia. Các tr ng đ i h c độc l p t i Trung Qu c Từ khi Đặng Tiểu Bình tuyên bố kế hoạch Đổi Mới năm 1978, vài năm sau, các trường ngoài công lập đã được thành lập tại Trung Quốc và phát triển không ngừng. Đến năm 1999, khi Trung Quốc công bố kế hoạch đại chúng hóa giáo dục đại học nhằm tăng nhanh số sinh viên lên, họ cho ra đời một loại trường mới: Các đại học độc lập (Independent colleges). Các trường này được thành lập giữa một bên là các trường đại học công lập danh tiếng, và một bên là các tổ chức tư nhân (Yu, Stith, Liu & Chen, 2012). Phía đại học công đóng góp chuyên môn, xây dựng giáo trình, và quan trọng là, trên danh nghĩa, vẫn nắm hầu hết quyền quản lí. Phía tư nhân chủ yếu là góp vốn. Nhà nước không trợ cấp cho các trường này. “Lợi nhuận” từ quá trình hoạt động được chia sẻ cho các trường công lập và tổ chức tư nhân góp vốn theo tỉ lệ thỏa thuận. Tóm lại, các trường đại học độc lập này, mặc dù do các trường công quản lí, nhưng mang rất nhiều tính chất tư nhân. Các trường này có lợi thế là được phép cấp bằng đại học, trong khi đa số các trường tư thục tại Trung Quốc chỉ được cấp bằng cao đẳng. Ngoài ra, bằng tốt nghiệp từ các trường đại học độc lập này được công nhận, hoặc được trực tiếp cấp bởi phía các trường công lập danh tiếng. Trong khi đó, yêu cầu đầu vào của các trường này thấp hơn nhiều so với các trường công danh tiếng. Chính vì thế, các trường này thu hút một lượng rất lớn sinh viên từ các trường tư thục. Trong vòng 4 năm kể từ khi xuất hiện (2000-2004), hơn 300 trường đại học độc lập được ra đời tại Trung Quốc (Mok, 2006). Từ năm 2007, số lượng trường và số sinh viên theo học của các trường đại học độc lập vượt qua các trường đại học tư thục, mặc dù hệ thống đại học tư thục ra đời sớm hơn hệ thống đại học độc lập đến gần 20 năm. Có thể thấy, hiện nay, hệ thống đại học tư thục tại Trung Quốc đang phải chịu sự cạnh tranh rất lớn từ các trường đại học độc lập này. T nhân hóa các tr ng đ i h c công l p Malaysia Hệ thống đại học của Malaysia bắt đầu từ năm 1962, khi đại học Malaya được thành lập. Đến những năm 1980, vài cơ sở giáo dục đại học tư thục bắt đầu xuất hiện. Năm 1992, hệ thống giáo dục đại học tư thục phát triển lên thành 156 cơ sở, rồi tăng vọt lên trên 700 cơ sở vào năm 2001. Tại thời điểm năm 1998, hệ thống đại học công lập của Malaysia có tổng cộng 16 đại học, và 33 trường sư phạm; trong khi hệ thống tư thục lúc đó gồm 7 đại học và trên 450 cơ sở dưới đại họci (Lee, 1999). Đến năm 2004, trong tổng số 576 cơ sở giáo dục đại học khắp cả nước, có đến 559 cơ sở thuộc hệ thống tư thục. Nhìn chung, số lượng cơ sở giáo dục đại học tư thục của Malaysia tăng rất nhanh, và rất lớn, vượt xa số lượng cơ sở giáo dục đại học công lập. Quá trình tư nhân hóa giáo dục đại học ở Malaysia bắt đầu năm 1998 tại 5 trường đại học công lập (Lee, 1999). Các trường này được vận hành giống các doanh nghiệp: hội đồng quản trị nhà trường được thay bằng ban giám đốc; trường được vay mượn tiền từ ngân hàng và lập các công ty con hoặc đầu tư ở các dự án và doanh nghiệp khác. Mặc dù nhà nước trên danh nghĩa vẫn là chủ sở hữu của các trường này, nhưng chỉ cung cấp thêm tài chính cho những dự án đặc biệt. Còn chi phí hoạt động, trường phải tự xoay sở từ nhiều nguồn khác nhau. Từ đó, các trường này phụ thuộc vào học phí của sinh viên và lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh nhiều hơn. Họ cũng nỗ lực hợp tác với các trường nước ngoài để đào tạo các chương trình liên kết quốc tế với mức học phí cao để có thêm nguồn tài chính. Một ví dụ khác là đại học Mở Malaysia. Đại học này được thành lập như một công ty, bởi sự liên kết của 11 trường đại học công lập tại Malaysia. Bảng 1: Số sinh viên các trường công lập và tư thục tại Malaysia (Marimuthu, 2008) 2000 2005 2010 Số sinh viên các trường công lập 329.364 390.388 853.590 Số sinh viên các trường tư thục 261.047 341.310 472.750 Tổng số sinh viên 575421 731.698 1.326.340 Có thể thấy từ bảng 1 rằng mặc dù hệ thống giáo dục đại học tư thục của Malaysia ngày càng lớn mạnh, nhưng điều này không có nghĩa là hệ thống giáo dục đại học công lập co lại. Trái lại, các trường công lập cũng có tăng trưởng khá tốt. Trong giai đoạn 2000-2005, tốc độ tăng trưởng của các trường công thấp hơn các trường tư (18% so với 30%). Tuy nhiên, trong khoảng 2005-2010, các trường công phát triển ở mức 118%, trong khi các trường tư chỉ phát triển ở mức khoảng 30%. Nhìn chung, ở Malaysia, quá trình tư nhân hóa giáo dục đại học đã làm các trường công, mặc dù số lượng rất ít, mở rộng quy mô ra, và gián tiếp cạnh tranh với các cơ sở đại học tư thục với số lượng rất lớn. Tóm lại, tư nhân hóa giáo dục đại học và sự phát triển của các cơ sở giáo dục đại học đôi khi là mối quan hệ nghịch. Hiện nay, tại nhiều quốc gia có dân số trẻ và nhu cầu học đại học lớn, chính phủ không thể nào trợ cấp hết cho sinh viên được, nên tìm cách tư nhân hóa các trường công lập. Hình thức tư nhân hóa phổ biến nhất là thu và tăng học phí. Đi kèm với sự phụ thuộc vào nguồn tài chính từ sinh viên là các nỗ lực thu hút càng nhiều sinh viên nhập học. Chính vì thế, đôi khi các trường công được tư nhân hóa này bắt đầu quay sang cạnh tranh với các trường tư thục để thu hút thêm sinh viên. Levy (2013) kết luận rằng sự cạnh tranh này là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự suy thoái của hệ thống giáo dục đại học tư thục trên thế giới hiện nay. Ông cũng cho rằng khi áp dụng các chính sách tư nhân hóa giáo dục đại học, đôi khi các chính phủ cũng chưa lường đến kết quả là hệ thống giáo dục đại học tư thục sẽ bị cạnh tranh đến như thế. QUÁ TRÌNH T NHÂN HÓA GIÁO DỤC Đ I H C T I VIỆT NAM Tại Việt Nam, khái niệm tư nhân hóa không phổ biến. Thay vào đó, khái niệm xã hội hóa được sử dụng rộng rãi hơn. Một trong những văn bản đầu tiên về xã hội hóa giáo dục là nghị định 73/1999/NĐ-CP được ban hành năm 1999. Theo đó, xã hội hóa giáo dục là vận động sự tham gia của nhiều thành phần xã hội để phát triển giáo dục (Điều 1). Xã hội hóa, theo điều 2 của nghị định này, còn có nghĩa là khuyến khích phát triển thêm các cơ sở ngoài công lập, hoạt động không dựa trên ngân sách nhà nước. Tóm lại, định nghĩa này rất tương đồng với khái niệm tư nhân hóa được nhắc đến ở phần đầu. Vì thế, có thể kết luận rằng tại Việt Nam, xã hội hóa bao gồm tư nhân hóa. Nghị định 73 nêu trên lần đầu tiên định rõ các loại hình trường ngoài công lập, gồm có tư thục, dân lập và bán công. Căn cứ theo nghị định này, trường đại học dân lập là trường do một tổ chức đứng ra thành lập; trường đại học bán công được thành lập trên cơ sở hợp tác giữa 1 tổ chức nhà nước và 1 tổ chức ngoài công lập; trường đại học tư thục do cá nhân hay công ty tư nhân lập nên. Cả 3 loại trường này đều hoạt động không dựa vào ngân sách nhà nước. Sau nghị định 73, các nghị quyết 05/2005/NĐ-CP và nghị định 69/2008/NĐ-CP tiếp tục khẳng định và đẩy mạnh các chính sách xã hội hóa trong giáo dục. Tuy nhiên, quá trình xã hội hóa giáo dục tại Việt Nam, cụ thể là việc thu học phí, đã diễn ra khá lâu trước khi nghị định 73 ra đời. Ngay trước khi chủ trương Đổi Mới được công bố vào tháng 12 năm 1986, trường đại học Tổng hợp TP.HCM đã đề xuất xin thu nhận một số sinh viên diện ngoài ngân sách, nghĩa là các sinh viên này sẽ phải chi trả học phí. Đề xuất này được Bộ GD&ĐT chấp thuận cho thí điểm vào tháng 9 năm 1986. Đến năm 1987, mô hình thí điểm này được nghiệm thu và đánh giá là thành công. Kể từ đó, số lượng trường đại học được phép tuyển các sinh viên hệ ngoài ngân sách (nghĩa là các sinh viên này phải trả học phí) tăng lên thành 7 trường vào năm 1987 và 30 trường vào năm 1988. Đến năm 1993, Nghị quyết 04 của Đảng thông qua quan điểm: “Người đi học phải đóng học phí, người sử dụng lao động qua đào tạo phải đóng góp chi phí đào tạo” Ngoài ra, bắt nguồn từ kết quả của quá trình tư nhân hóa giáo dục đại học ở Việt Nam, các trường công lập hiện nay đang cố gắng nắm bắt nhu cầu của người học. Hơn nữa, các trường cũng đang phải bắt đầu xoay sở cân đối giữa nguồn đầu tư và mức học phí. Những điều này thể hiện rõ ở việc hầu hết các trường công lập ngày nay, kể cả các trường chuyên ngành về kĩ thuật, đều có rất nhiều chương trình về kinh doanh, tài chính, marketing. Đây là những ngành thu hút được nhiều sinh viên, hay nói cách khác là rất được lòng “người tiêu dùng”. Đây cũng là những ngành có mức đầu tư vào chương trình học thấp, và vì thế, mức chênh lệch giữa học phí và mức đầu tư sẽ cao. Các trường công lập ngày này còn đẩy mạnh tư nhân hóa thông qua các chương trình hợp tác quốc tế. Sinh viên theo học các chương trình này sẽ được cấp bằng từ những trường đối tác nước ngoài, vì thế, khả năng xin việc sẽ cao hơn. Chính vì thế, họ sẵn sàng chi trả cao hơn cho các chương trình liên kết này. Theo thống kê từ Cục đào tạo với nước ngoài (VIED), trên 75% các chương trình liên kết quốc tế hiện nay nằm trong 3 ngành: quản lí, kinh tế và tài chính. Tóm lại, hiện nay, tại Việt Nam, quá trình tư nhân hóa các trường công lập đã và đang diễn ra, và cũng như trên thế giới, biểu hiện rõ nhất của quá trình này là việc thu học phí, mở ra các chương trình được sinh viên ưa chuộng, và liên kết với các đối tác nước ngoài. NH H NG CỦA QUÁ TRÌNH T NHÂN HÓA GIÁO DỤC Đ I H C ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN HỆ TH NG Đ I H C T THỤC T I VIỆT NAM Số học sinh bậc ĐH-CĐ 2,000,000 1,500,000 1,000,000 500,000 - Công lập Tư thục Biểu đồ 1: Tổng số sinh viên tại các trường ĐH-CĐ công lập và tư thục (1999-2012) Nguồn: Bộ GD&ĐT (2011) Biểu đồ 1 thể hiện tổng số sinh viên hiện đang theo học tại các trường công lập và tư thục trong giai đoạn 1999-2012. Trong khoảng thời gian này, tổng số sinh viên toàn hệ thống giáo dục đại học cả nước tăng lên đáng kể, từ gần 900,000 lên xấp xỉ 2,2 triệu, mức tăng khoảng 2,5 lần. Tuy khối tư thục (cả đại học và cao đẳng) cũng có tăng, nhưng vẫn còn đóng một tỉ trọng nhỏ trong toàn hệ thống. Năm 2012, khối tư thục này có trên 312,000 sinh viên, chiếm khoảng 14% tổng số sinh viên cả nước. Năm 1999, tỉ lệ này là 12%. Như vậy, trong suốt hơn 10 năm, tỉ lệ sinh viên của khối tư thục tăng lên không đáng kể. Hơn nữa, tỉ lệ tăng trưởng này không đều nhau qua các năm. Ví dụ, năm 2004, tỉ lệ này giảm xuống còn 10%, rồi tăng lên 15% trong năm 2010, sau đó giảm xuống 14% vào năm 2012. Đáng lưu ý hơn, theo số liệu từ Bộ GD-ĐT, trong bối cảnh tăng trưởng kém của toàn hệ thống tư thục, hệ cao đẳng có mức tăng trưởng mạnh hơn hệ đại học trong những năm gần đây. Mức tăng trưởng mạnh nhất được ghi nhận là năm 2010, khi sinh viên các trường cao đẳng tư thục chiếm gần 20% tổng số sinh viên cao đẳng cả nước. Trong khi hệ thống tư thục phát triển không mạnh mẽ trong suốt thời gian này, thì hệ thống các trường công lập (đã được tư nhân hóa một phần) lại phát triển rất nhanh. Số lượng các trường ĐH-CĐ Công lập & Tư thục 400 300 200 100 0 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Công lập 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Tư thục Biểu đồ 2: Số lượng các cơ sở giáo dục đại học công lập và tư thục tại Việt Nam Nguồn: Bộ GD&ĐT (2011) Biểu đồ 2 trên thể hiện số lượng các trường ĐH-CĐ trên cả nước trong khoảng thời gian 1999-2012. Theo biểu đồ, trong suốt thời kì này, số lượng các trường công lập luôn cao hơn các trường tư thục. Đặc biệt là từ năm 2004 trở đi, khoảng cách về số lượng này đang ngày càng lớn thêm. Về chương trình đào tạo, hiện nay, tại các trường công lập lẫn tư thục, số lượng các chương trình trong nhóm ngành kinh tế chiếm đa số. Nhóm ngành này vốn là thế mạnh của các trường tư thục, vì các trường này hoạt động theo nhu cầu thị trường, và luôn chú ý đến mức lợi nhuận đầu tư cho các chương trình học. Rất nhiều trường công lập chuyên ngành kĩ thuật cũng đã bắt đầu mở thêm nhiều chương trình trong nhóm ngành kinh tế. Tóm lại, có thể thấy, các trường công lập hiện nay đang cạnh tranh trực tiếp với các trường tư thục trong các chương trình đào tạo. Ngoài tư nhân hóa bằng học phí, tại nhiều nước, ví dụ như trường hợp của Malaysia, các trường công lập còn có xu hướng tư nhân hóa thông qua các chương trình liên kết nước ngoài. Theo thống kê của Cục đào tạo với nước ngoài (VIED), tính đến đầu năm 2015, cả nước có tổng cộng 262 chương trình liên kết với nước ngoài tại 79 cơ sở giáo dục bậc ĐH-CĐ. Tuy nhiên, chỉ có 24 cơ sở tư thục tham gia liên kết 62 chương trình đào tạo. Phần lớn còn lại là các chương trình đang hoạt động ở các trường công lập. Tóm lại, mặc dù tại Việt Nam, quá trình tư nhân hóa các trường công, tuy chưa thật sự làm khối tư thục suy yếu đi, nhưng cũng tạo ra nhiều khó khăn cho khối này, nhất là về mặt tuyển sinh. Có thể thấy rõ, hai hệ thống trường công lập và tư thục hiện nay đang cạnh tranh với nhau thay vì bổ trợ cho nhau. TRIỂN V NG CỦA CÁC Đ I H C T THỤC T I VIỆT NAM Số học sinh-sinh viên 12,000,000 10,000,000 8,000,000 6,000,000 4,000,000 2,000,000 - Tiểu học THCS THPT ĐH-CĐ Biểu đồ 3: Số học sinh, sinh viên trong toàn hệ thống giáo dục chính quy Nguồn: Bộ GD&ĐT (2011) Biểu đồ 3 thể hiện số lượng học sinh-sinh viên trong toàn hệ thống giáo dục Việt Nam trong giai đoạn 1999-2012. Theo đó, số lượng học sinh tiểu học và THCS giảm sút khá mạnh, trong khi ở bậc THPT, số học sinh gần như ít thay đổi trong những năm gần đây. Riêng bậc ĐH-CĐ thì số sinh viên tăng khá rõ rệt. Trong vòng 10 năm (2002-2012), số sinh viên của bậc học này tăng gấp đôi, đạt mức gần 2,2 triệu tại thời điểm 2012. Tuy nhiên, trong thời gian tới, có nhiều khả năng quy mô của hệ thống ĐH-CĐ sẽ không còn tiếp tục tăng như hiện nay. Bởi vì như biểu đồ trên, khoảng cách giữa số học sinh bậc THPT và số sinh viên bậc ĐH-CĐ hiện nay không chênh lệch nhiều. Ngoài ra, trong quyết định 37/2013/QĐ-TTg về việc quy hoạch mạng lưới các trường đại học – cao đẳng đến năm 2020, tổng số lượng sinh viên được dự đoán đến năm 2020 là 2,2 triệu, trong khi tại thời điểm năm 2012, con số này đã xấp xỉ 2,2 triệu. Trong bản định hướng cải cách toàn diện giáo dục đại học Việt Nam được ban hành năm 2005, tỉ lệ sinh viên trên 10,000 dân được đặt ra cho năm 2020 là 400. Tỉ lệ này được điều chỉnh xuống còn 256 trong quyết định 37/2013/QĐ-TTg. Ngoài ra, theo quyết định 37/2013/QĐ-TTg, đến năm 2020, toàn hệ thống giáo dục đại học Việt Nam sẽ có 224 trường đại học và 236 trường cao đẳng. Trong khi đó, số trường đại học và cao đẳng năm học 2012-2013 đã lần lượt là 207 và 214. Nghĩa là trong vòng 8 năm (2012-2020), theo quy hoạch của Chính phủ, sẽ chỉ có 17 trường đại học và 22 trường cao đẳng, cả công lập lẫn tư thục, được cấp phép. Tóm lại, trong tương lai, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam sẽ không mở rộng ra như dự đoán ban đầu, mà nhiều khả năng sẽ tăng trưởng rất chậm. Trong bối cảnh hệ thống giáo dục đại học Việt Nam không tăng trưởng tốt trong những năm sắp đến, và các trường công lập tiếp tục mở rộng ra như hiện nay, thì các trường tư thục sẽ bị buộc phải cạnh tranh gay gắt hơn với khối công lập. Trong khi đó, Chính phủ ngày càng thể hiện rõ các chính sách đẩy mạnh quá trình tư nhân hóa các cơ sở giáo dục công lập. Nghị định 43/2006/NĐ/CP quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp, trong đó có các trường đại học công lập. Theo đó, các trường càng bị buộc phải ít phụ thuộc vào nguồn ngân sách nhà nước, mà phải vận hành theo cơ chế tự chủ về tài chính, phải tự cân đối thu chi tài chính. Mới đây, tháng 10 năm 2014, theo nghị quyết 47/2014/NQ/-CP, các trường công lập được trao quyền tự chủ hoàn toàn về tài chính, được tự quyết định mức học phí theo mức trần do nhà nước quy định. Điều này sẽ làm cho các trường công lập càng quyết tâm cạnh tranh với không những khối tư thục mà còn với các trường công lập khác để thu hút sinh viên, bảo đảm cho nguồn tài chính của mình. Về mặt kinh tế, ngân hàng phát triển châu Á (ADB) thống kê mức tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2014 đạt mức 6%, cao nhất kể từ năm 2011. Cả Ngân hàng thế giới và ADB đều dự đoán kinh tế Việt Nam sẽ tăng ở mức 6,1% năm 2015 và 6,2% năm 2016. Nhìn chung, theo các tổ chức quốc tế, kinh tế Việt Nam đang hồi phục và tăng trưởng tốt trong những năm sắp đến. Triển vọng này sẽ làm tăng khả năng chi trả học phí đại học của người dân, và đây là cơ sở tốt để các trường tiếp tục đẩy mạnh quá trình tư nhân hóa. Nhìn chung, các phân tích về bối cảnh trong thời gian tới đều chỉ ra những bất lợi và khó khăn của khối đại học tư thục tại Việt Nam. Khối này đang đứng trước một cuộc cạnh tranh ngày càng rõ nét với các trường đại học công lập trong quá trình quốc tế hóa. VAY M ỢN CHÍNH SÁCH Như Levy (2013) đã nêu ra, trong nhiều trường hợp, chính phủ các nước không nhận thức rõ kết quả của quá trình tư nhân hóa giáo dục đại học. Một phần là vì quá trình tư nhân hóa này được đề xuất và cổ vũ mạnh mẽ bởi các tổ chức quốc tế, nhất là Ngân hàng thế giới. Từ năm 1975, tổ chức này đã đưa ra các bản định hướng khuyến nghị cho các nước đối tác. Bản định hướng năm 1980 khuyến khích sự phát triển của các trường tư thục ngay bên cạnh hệ thống công lập để bổ trợ cho hệ thống công lập. Tuy nhiên, bản định hướng năm 1999 liên tục nhắc đến cụm từ “hợp tác công-tư” (Public-Private Partnership). Mô hình mà bản định hướng này đề xuất xoay quanh khái niệm tư nhân hóa các dịch vụ công cộng, trong đó có giáo dục. Bản định hướng công bố năm 2011 khuyến khích phát triển thêm mô hình tư nhân hóa giáo dục này. Việt Nam là một đối tác vay vốn của Ngân hàng thế giới. Tổ chức này đã thực hiện các dự án hỗ trợ giáo dục Việt Nam từ năm 1993. Đổi lại các khoản vay vốn, Việt Nam đã thực hiện rất nhiều chính sách được khuyến nghị bởi Ngân hàng này, trong đó có các chính sách phát triển khối tư thục, và đẩy mạnh quá trình tư nhân hóa khu vực công lập (The World Bank, 2010, trích trong Phuong and Marginson, 2014). Tuy nhiên, không may là trong suốt hơn nửa thế kỉ hoạt động giáo dục, các chính sách và định hướng của Ngân hàng thế giới liên tục thay đổi, và đôi khi rất mâu thuẫn với nhau (Harrison, 2005). Chính vì thế, Chính phủ các nước đối tác vay vốn, trong đó có Việt Nam, nên tiếp nhận các chính sách này một cách có chọn lọc. TÀI LIỆU THAM KH O Altbach P. G. (1999) Comparative perspectives on private HE. Philip G. Altbach (ed) Private Prometheus: Private higher education and development in the 21st Century. Westport: Greenwood Belfield C. & Levin H. (2002) Education privatization: Causes, Consequences, and planning implications, Fundamentals of educational planning, No 74, UNESCO Geiger R. L. (1987) Patterns of public-private differentiation in higher education: An international comparison. Public and Private sectors in Asian higher education systems: Issues and Prospects. Research Institute for Higher education Hiroshima University. Glade W. (1986) State Shrinking: A comparative inquiry into Privatisation. Austin: TX: Institute of Latin American Studies. Harrison G. (2005) Economic faith, Social project and misreading of African society: The travails of Neoliberalism in Africa. Third World Quarterly, 26 (8), 1303-1320 Lee M. N. N. (1999) Corporatisation, Privatisation and Internationalisation of higher education in Malaysia. Philip G. Altbach (ed) Private Prometheus: Private higher education and development in the 21 st Century. Westport: Greenwood Levy D. C. (2013). The Decline of private higher education. Higher Education policy, 2013, 26, pp. 25-42 Marimuthu T. (2008) The role of the Private sector in higher education in Malaysia. D. Johnson, R. Maclean (eds) Teaching: Professionalisation, Development & Leadership. The Netherlands: Springer Mok K. H. (2006) Education reform and education policy in East Asia. Oxon: Routledge Phuong V. T. P. & Marginson S. (2014) Policy Borrowing. Ly Thi Tran, Simon Marginson, Hoang Minh Do, Quyen Thi Ngoc Do, Truc Thi Thanh Le, Nhai Thi Nguyen, Thao Thi Phuong Vu, Thach Ngoc Pham, Huong Thi Lan Nguyen (eds) Higher education in Vietnam: Flexibility, Mobility and Practicality in the Global Knowledge Economy. UK: Palgrave. Vincent-Lancrin S. (2007) Building future scenarios for universities and higher education. Simon Marginson (ed) Prospects of higher education. Rotterdam: Sense Publishers Wang L. (2014) The road to Privatisation of Higher education in China: A new cultural revolution? London: Springer Yu K., Stith A. L., Liu L. & Chen H. (2012). Tertiary Education at a glance: China. Rotterdam: Sense i Hệ thống giáo dục đại học (higher education) bao gồm cả các đại học (university) và các cơ sở giáo dục dưới đại học (non-university higher education institutions).