Tạp chí Khoa học Tr ờng Đại học Cần Thơ
Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 36 (2015): 42-49
THI T K CH
NG TRÌNH VÀ CH T L
NG ĐÀO T O: NH NG B T C P
TRONG ĐÀO T O NGÀNH S PH M THEO H C CH TÍN CH HIỆN NAY
Trần Thanh Ái1
1
Khoa S phạm, Tr ờng Đại học Cần Thơ
Thông tin chung:
Ngày nhận: 29/05/2014
Ngày chấp nhận: 27/02/2015
Title:
Curriculum design and
quality of training:
Inconvenience of training by
the credits system in the
branch of pedagogy
Từ khóa:
Thiết kế ch ơng trình, chất
l ợng đào tạo, s phạm, tín
chỉ, tự học
Keywords:
Curriculum design, training
quality, pedagogy, credit, self
learning
ABSTRACT
For several years, many researchers have analyzed the worsened
degradation of education in Vietnam at many levels of training. The
Pedagogy which belong to Higher Education, and are a place to train the
teachers in the school, have a special role in this degradation. If
improving the quality of training of teachers is successful, we will
significantly contribute to improving the situation in secondary education.
On the contrary, if the renewal fails, we will make the educational
situation more severe. Yet training program in 2007 is only based on the
maximum threshold of the number of credits (120 credits for now and 140
credits since the 40th promotion), not on the characteristics of the subjects
of The Pedagogy. Therefore, the quality of teacher training is seriously
affected, and have negative impact on the situation in secondary
education. This article will analyze some negative aspects of the program
applied at The School of Pedagogy (Can Tho University), and propose
some radical measures to overcome.
TÓM T T
Từ nhiều năm nay, nhiều nhà nghiên cứu đã liên lục phân tích tình trạng
suy thoái ngày càng trầm trọng của nền giáo dục Việt Nam ở nhiều cấp
đào tạo. Ngành s phạm vừa thuộc về giáo dục đại học, vừa là nơi đào tạo
ra những thầy cô giáo ở phổ thông, có vai trò đặc biệt trong sự suy thoái
đó. Nếu thành công trong việc cải tiến nâng cao chất l ợng đào tạo của
ngành s phạm thì chúng ta sẽ góp phần đáng kể vào việc cải thiện tình
hình giáo dục ở phổ thông. Ng ợc lại, nếu cải tiến thất bại, chúng ta sẽ
khiến tình hình giáo dục thêm trầm trọng. Thế mà việc xây dựng ch ơng
trình “tín chỉ hóa” vào năm 2007 chỉ máy móc dựa vào ng ỡng tối đa của
số l ợng tín chỉ (hiện nay là 120 TC, và kể từ K40 là 140 TC) chứ không
dựa vào đặc điểm của các chuyên ngành của Khoa S phạm. Vì thế, chất
l ợng đào tạo của ngành s phạm bị ảnh h ởng nghiêm trọng, và đã gián
tiếp tác động xấu đến tình hình giáo dục ở phổ thông. Bài viết này sẽ phân
tích một số khía cạnh bất ổn của ch ơng trình đang áp dụng tại Khoa S
phạm-Tr ờng Đại học Cần Thơ và ch ơng trình vừa chỉnh sửa, đồng thời
cũng đề ra một số biện pháp căn cơ để khắc phục.
Từ nhiều năm nay, các nhà nghiên cứu giáo dục
đã có r t nhiều bài viết phân tích những yếu kém
của nền giáo dục Việt Nam. Trên phương diện vĩ
mô, người ta thường nói đến khủng ho ng giáo
42
Tạp chí Khoa học Tr ờng Đại học Cần Thơ
Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 36 (2015): 42-49
chương trình còn 120 tín chỉ mà chưa có sự chuẩn
bị kỹ càng cho người dạy về việc thiết kế và biên
soạn lại nội dung gi ng dạy, về phương pháp lên
lớp cho phù hợp thì học chế tín chỉ sẽ th t bại. Thế
mà khuynh hướng tự nhiên của mọi người là chọn
cách làm dễ, là cắt xén nội dung gi ng dạy.
Khuynh hướng này sẽ trở thành hiện thực nếu nhà
trường không có những biện pháp hỗ trợ, kiểm
soát và động viên nhóm gi ng viên phụ trách
học phần.
dục, đến “lỗi hệ thống”, đến “nền giáo dục lạc
lối”... Trong lĩnh vực đào tạo giáo viên phổ thông,
cũng có không ít v n đề b t cập tác động trực tiếp
vào ch t lượng đào tạo của các trường/Khoa Sư
phạm của các đại học. Giáo dục phổ thông là nơi
thể hiện ch t lượng của các s n phẩm đào tạo của
các đơn vị này. Vì thế, có thể nhìn vào ch t lượng
giáo dục phổ thông để đánh giá phần nào ch t
lượng đào tạo của các trường sư phạm. y thế mà
theo đánh giá của cựu Bộ trưởng Bộ Giáo dục
Nguyễn Thị Bình thì “một tỉ lệ khá lớn giáo viên
phổ thông đang không đủ sức đáp ứng các yêu cầu
của chương trình giáo dục hiện hành. Sắp tới đây,
ch t lượng giáo viên mới vào nghề còn th p hơn
nữa vì phần lớn học sinh/sinh viên đang học tại các
trường sư phạm [...] vốn chỉ là những học sinh phổ
thông trung bình, mà nội dung và phương pháp đào
tạo thì quá lạc hậu” (Nguyễn Thị Bình, 2012).
Việc tăng giờ tự học của sinh viên là điều kiện
tối quan trọng để ch t lượng đào tạo không gi m
sút khi gi m giờ học trên lớp. Để giúp sinh viên tổ
chức tự học có hiệu qu , cần ph i có nhiều thời
gian chuẩn bị và nhiều biện pháp khác nhau để xây
dựng thói quen tự học, để họ quen dần với học tập
tích cực. Nếu không có biện pháp hiệu qu và thích
hợp cho việc tự học, vô hình trung khiến việc
chuyển đổi sang hệ thống tín chỉ trở thành việc cắt
gi m chương trình đào tạo một cách máy
móc. Thật vậy, nếu sinh viên không tăng giờ tự học
thì ch t lượng đào tạo sẽ chỉ còn một nửa. Những
nỗ lực trong các lần hội th o về 2 giờ tự học chỉ
đưa ra được những kinh nghiệm cá nhân, chưa khái
quát thành những biện pháp đồng bộ và hợp lý
trong nhà trường, khiến tình trạng buông lỏng 2 giờ
tự học của sinh viên chưa được khắc phục.
Thêm vào đó, chế độ đãi ngộ, lương bổng và
điều kiện làm việc của thầy cô giáo hiện nay đã
khiến nhiều người n n lòng: 40-60% giáo viên phổ
thông đã thẳng thắn bày tỏ ý kiến sẽ không làm
nghề dạy học nếu có thể chọn nghề lại. Đối với
việc đào tạo giáo viên, các trường sư phạm phần
lớn chỉ tuyển được học sinh trung bình, vì ấ học
sinh khá, giỏi không thi vào trường sư phạm ».
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ cố gắng chỉ ra
những b t cập trong việc đào tạo theo hệ thống tín
chỉ hiện nay, nh t là của ngành sư phạm, đồng thời
nêu một số kiến nghị về gi i pháp khắc phục.
2 PH
NG PHÁP NGHIÊN C U
Để kh o sát những b t cập trong việc tổ chức
đào tạo hiện nay của ngành sư phạm, chúng tôi
chọn hai khía cạnh then chốt của việc đào tạo theo
học chế tín chỉ là thiết kế chương trình và qu n lý
việc tự học của sinh viên. Về thiết kế chương trình,
chúng tôi sẽ đối chiếu các chương trình ngành sư
phạm với các chương trình ngoài sư phạm tương
ứng để cho th y sự chênh lệch giữa khối kiến thức
nền của các ngành đào tạo. Về việc qu n lý hoạt
động tự học của sinh viên, chúng tôi sử dụng kết
qu của các đánh giá, điều tra được trình bày trong
Hội nghị đánh giá tình hình hai tiết tự học của sinh
viên được tổ chức tại Trường Đại học Cần Thơ
(tháng 1/2011).
1 T NG QUAN V VIỆC CHUYỂN Đ I
THEO HỆ TH NG TÍN CH
Trường Đại học Cần Thơ đã áp dụng hệ thống
tín chỉ ngay từ năm 1995, với thời lượng bình quân
là trên dưới 250 tín chỉ tùy theo chuyên ngành. Đó
là hệ thống ấ tín chỉ chưa đầy đủ » vì tiến độ học
tập của sinh viên vừa được tính bằng tín chỉ và đơn
vị học trình, vừa lại được qu n lý theo năm học. Kể
từ năm 2007, chương trình đào tạo chỉ còn 138 tín
chỉ, và sau đó là 120 tín chỉ cho đến nay. Vừa rồi,
nhà trường đã nâng lên thành 140 tín chỉ áp dụng
cho các khóa 40 trở về sau. Việc chuyển đổi này
dựa trên hai nguyên tắc cơ b n là giảm giờ nh ng
không cắt xén nội dung giảng dạy, và giảm giờ học
trên lớp để tăng giờ tự học của sinh viên. Để b o
đ m ch t lượng đào tạo, trước tiên cần ph i tôn
trọng triệt để hai nguyên tắc này.
3 KH O SÁT TH C T
3.1 Phơn tích ch ng trình đƠo t o đang áp
dụng c a các chuyên ngƠnh thuộc Khoa S ph m
Các ngành đào tạo của các khoa trong Trường
Đại học Cần Thơ gồm 4 khối kiến thức: giáo dục
đại c ơng (GDĐC) là những môn chung mà sinh
viên ngành nào cũng ph i học, kiến thức khoa học
(KTKH) là các kiến thức liên quan đến chuyên
ngành khoa học, nghiệp vụ s phạm (NVSP) là các
Giảm giờ nh ng không cắt xén nội dung giảng
dạy là một nguyên tắc vô cùng khó, đòi hỏi gi ng
viên ph i đầu tư nhiều thời gian trong quá trình
chuẩn bị và c trong giai đoạn gi ng dạy. Gi m t i
43
Tạp chí Khoa học Tr ờng Đại học Cần Thơ
Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 36 (2015): 42-49
học phần liên quan đến kiến thức và kỹ năng sư
ngữ Anh và Pháp. B ng thống kê sau đây cho th y
phạm, kỹ năng ngoại ngữ (KNNN) là các học phần
cụ thể các số lượng kiến thức của các ngành được
nhằm nâng cao kỹ năng sử dụng ngoại ngữ cho
kh o sát.
sinh viên ở các ngành sư phạm ngoại ngữ và ngôn
B ng 1: Kh i l ng ki n th c c a các CTĐT c a Khoa S ph m với các CTĐT t ng ng
1
2
3
4
5
NgƠnh ĐT
SP Toán
Toán D
SP Hóa
Hóa
SP Văn
Ngữ văn
SP Anh
Ngôn ngữ Anh
SP Pháp
Ngôn ngữ Pháp
Khoa
SP
KHTN
SP
KHTN
SP
KHXH-NV
SP
KHXH-NV
SP
KHXH-NV
GDĐC
42 tc
48
45
47
37
35
42
35
37
35
KTKH
NVSP
KNNN
T ng
62 tc
16 tc
0 tc
120 tc
72
0
0
120 tc
59
16
0
120 tc
73
0
0
120 tc
66
17
0
120 tc
85
0
0
120 tc
25
27
26
120 tc
56
0
21
120 tc
28
16
39
120 tc
42
0
43
120 tc
Và kỹ năng giao tiếp bằng ngoại ngữ (đối
với ngành sư phạm tiếng Anh và tiếng Pháp).
Như trình bày trong b ng trên, chương trình
đào tạo của ngành Sư phạm (SP) ph i dạy 3 hoặc 4
khối kiến thức (và/hoặc kỹ năng):
Trong khi đó, những ngành tương ứng thuộc
các khoa khác không có khối kiến thức nghiệp vụ
sư phạm. Vì thế, số lượng tín chỉ thuộc kiến thức
khoa học của các ngành của Khoa Sư phạm gi m
đáng kể.
Kiến thức giáo dục đại cương,
Kiến thức khoa học của ngành (gồm kiến
thức cơ sở ngành và kiến thức chuyên ngành),
Kiến thức nghiệp vụ sư phạm,
Hình 1: T
ng quan kh i l
ng ki n th c khoa h c (KTKH) gi a các ngƠnh SP vƠ không SP
các môn học thuộc kiến thức khoa học của hai
ngành SP Anh và Pháp lại càng gi m sút: so với
các ngành kỹ thuật, kiến thức khoa học của hai
ngành này chỉ bằng kho ng 1/3 mà thôi !
Riêng đối với các chuyên ngành ngoại ngữ Anh
và Pháp, chương trình còn ph i thiết kế những môn
về kỹ năng giao tiếp bằng ngoại ngữ (từ 26 – 39 tín
chỉ), là những học phần không thể thiếu được, để
nâng cao năng lực giao tiếp của sinh viên. Vì thế,
44
Tạp chí Khoa học Tr ờng Đại học Cần Thơ
Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 36 (2015): 42-49
60
50
40
GDĐC
30
KTKH
NVSP
20
KNNN
10
0
Hình 2: T
SP Anh
NN Anh SP Pháp NN Pháp
ng quan kh i ki n th c khoa h c gi a các ngƠnh SP ngo i ng vƠ không SP
kiến thức: kiến thức giáo dục đại cương, kiến thức
khoa học (từ 42 – 66 tín chỉ), và kiến thức/nghiệp
vụ sư phạm (hoặc kỹ năng giao tiếp bằng ngoại
ngữ). Gồm các ngành SP Văn, SP Toán, SP Hóa,
NN Anh, NN Pháp...
Dựa trên số l ợng kiến thức khoa học được
thiết kế trong các chương trình nói trên, chúng tôi
phân loại đào tạo của Trường Đại học Cần Thơ
thành 3 loại cử nhân:
Cử nhân loại 1: là những ngành chỉ dạy 2 khối
kiến thức: kiến thức giáo dục đại cương và kiến
thức khoa học (từ 70 – 80 tín chỉ). Gồm các ngành
khoa học kỹ thuật như Toán ứng dụng, Hóa, Ngữ
văn và nhiều ngành khác thuộc khối kỹ thuật.
Cử nhân loại 3: là những ngành ph i dạy 4
khối kiến thức: kiến thức giáo dục đại cương, kiến
thức khoa học (từ 25 – 28 tín chỉ), kiến thức/nghiệp
vụ sư phạm và kỹ năng giao tiếp bằng ngoại ngữ.
Gồm hai ngành SP tiếng Anh và SP tiếng Pháp.
Cử nhân loại 2: là những ngành dạy 3 khối
C nhơn lo i 1
(từ 72-85 TC
KTKH)
Hình 3: T
C nhơn lo i 2
(từ 42-66 TC
KTKH)
CN lo i 3
(từ 25-28 TC
KTKH)
ng quan gi a các ngƠnh đƠo t o d a trên s l
ng tín ch KTKH
trên lý thuyết, sinh viên tốt nghiệp chỉ có trình độ
tương đương B1 và B1+, nghĩa là còn xa mới đạt
được tiêu chuẩn C1 theo quy định của Bộ. Điều đó
có nghĩa là chúng ta đang đào tạo ra những giáo
viên kiến thức không sâu, nghiệp vụ không tinh.
Điều này đã được th y trước, ngay từ khi đưa vào
áp dụng hệ thống tín chỉ năm 2007, và các đơn vị
Riêng đối với hai ngành SP tiếng Anh và SP
tiếng Pháp, số lượng tín chỉ c i thiện và nâng cao
năng lực giao tiếp bằng ngoại ngữ chỉ là 26 TC và
39 TC (tức 390 tiết và 585 tiết). Nếu trình độ ngoại
ngữ đầu vào của sinh viên hai ngành này tương
đương A2 (sau khi tốt nghiệp phổ thông), thì sau 4
năm học đại học sư phạm ngoại ngữ tại trường ta,
45
Tạp chí Khoa học Tr ờng Đại học Cần Thơ
Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 36 (2015): 42-49
suốt đời. Đây chính là linh hồn của nguyên lý dạy
học tích cực trong thời hiện đại, và cũng là một
trong những nguyên lý nền t ng của học chế tín
chỉ. Vì thế, có thể nói rằng việc đào tạo theo học
chế tín chỉ thành hay bại tùy thuộc r t lớn vào mức
độ thực hiện khâu tự học của sinh viên.
trong Khoa Sư phạm đã kiến nghị nhiều lần nhưng
lãnh đạo nhà trường vẫn b o lưu ý kiến.
Hơn nữa, trong khi Trường Đại học Cần Thơ
vội vã “tín chỉ hóa” ngay từ năm 2007 với chương
trình thống nh t 120 tín chỉ (kể c khối giáo dục
đại cương), thì nhiều trường đại học khác từng
bước nghiên cứu, học tập kinh nghiệm, cân nhắc
xây dựng chương trình đại học dao động từ 140 –
150 TC. Thậm chí, có trường còn xem các học
phần Giáo dục quốc phòng, Giáo dục thể ch t,
Chính trị, Tin học... là các học phần điều kiện.
Điều đó cho th y rằng lãnh đạo trường ta đã quá
nóng vội, chủ quan, dẫn đến khinh su t, xem nhẹ
ch t lượng đào tạo và vô hình trung đã l y sinh
viên ra làm vật thí nghiệm cho mô hình tổ chức dạy
học của mình. Vừa qua, nhà trường có tổ chức điều
chỉnh lại chương trình đào tạo áp dụng cho các
khóa 40 về sau (từ năm học 2014-2015) bằng cách
nâng t t c ngành đào tạo lên thành 140 tín chỉ.
Việc điều chỉnh này chỉ có tác dụng đôi chút đối
với ch t lượng đào tạo, vì số tín chỉ tăng thêm (20
tín chỉ) ph i chia đều cho các khối kiến thức. Điều
đó có nghĩa là kho ng cách giữa khối lượng kiến
thức khoa học của các ngành sư phạm đối với các
ngành khác vẫn không thay đổi.
3.2 Tình hình t h c c a sinh viên
Thế nhưng trên thực tế, tình hình tự học của
sinh viên không có gì sáng sủa. Tháng 1/2011,
Trường Đại học Cần Thơ đã tổ chức Hội nghị đánh
giá tình hình hai tiết tự học của sinh viên để đánh
giá tình hình và tìm biện pháp c i thiện. Nhiều ý
kiến từ các đơn vị đào tạo cho th y rằng sinh viên
chưa quan tâm đến việc tự học:
“Qua các gi i pháp đã thực hiện trong khoa, có
thể nhận xét rằng tính tự giác của sinh viên còn
yếu. Hay nói cụ thể hơn, nếu một yêu cầu của giáo
viên không kèm theo đánh giá, cho điểm thì hầu
hết sinh viên không thực hiện” (Nguyễn Văn Linh,
2010: 10).
Bên cạnh đó, nhiều sinh viên chưa có kỹ năng
tự học, và vẫn giữ thói quen thụ động, lệ thuộc vào
người thầy như nếp dạy và học ở phổ thông, như
ghi nhận sau đây:
“Đa số SV chưa biết và cũng chưa có ý thức
chủ động tìm kiếm kiến thức mới. Gi ng viên (GV)
dạy tới đâu, SV học đến đó, GV dặn điều gì thì SV
học và làm điều y. Một số SV học theo lối thực
dụng: những phần nào gi ng viên cho thi, liên quan
đến điểm số thì mới đầu tư học tập” (Nguyễn Thị
Thu Thủy & Ngô Thị B o Châu, 2010: 29).
Từ xưa đến nay, tự học là một khâu vô cùng
quan trọng trong việc học tập ở trình độ cao như
cao đẳng và đại học, vì nó góp phần hoàn thiện quá
trình đào tạo của nhà trường, và từng bước hướng
sinh viên đi vào nghiên cứu chuyên sâu một lĩnh
vực tri thức nào đó. Nó lại càng quan trọng hơn
khi chương trình đào tạo được thiết kế theo học chế
tín chỉ.
Mặt khác, cũng ph i kể đến tình trạng gi ng
viên “khoán trắng” hai giờ tự học cho sinh viên,
khiến tác dụng đào tạo của chủ trương 2 giờ tự học
trở nên ph n tác dụng:
Tầm quan trọng của việc tự học thể hiện qua
thời lượng mà học chế tín chỉ dành cho nó: về mặt
định lượng, có thể hiểu rằng khi thiết kế chương
trình đào tạo bậc cử nhân chỉ còn 120 tín chỉ, người
ta hy vọng rằng sinh viên sẽ dành kho ng 130 tín
chỉ (là thời lượng bị cắt gi m) để tăng cường việc
tự học. Nói cách khác, ngoài việc tự học cần ph i
có như xưa nay, sinh viên ngày nay còn ph i gia
tăng việc tự học thêm, tương đương khối lượng tín
chỉ nói trên. Vì thế, nếu việc tự học không được
thực hiện đúng mức, chương trình đào tạo sẽ trở
nên sơ sài, hụt hẫng, và ch t lượng đào tạo chắc
chắn sẽ sút kém tệ hại (tối đa chỉ còn phân nửa so
với trước đây, nghĩa là tương đương trình độ
12+2). Về mặt định tính, tự học chính là biện pháp
tích cực hóa việc học hữu hiệu nh t, qua đó, sinh
viên sẽ xây dựng cho mình tinh thần chủ động
trong học tập, và tự hình thành kỹ năng học tập
“Một số gi ng viên hiểu sai về ý nghĩa của 2
tiết tự học nên để cho sinh viên tự nghiên cứu
mà không có sự hướng dẫn đã gây cho sinh viên
không ít những khó khăn và áp lực” (Hồ Thị Hà,
2010: 20).
Bên cạnh việc hiểu sai ý nghĩa của việc tự học
như ghi nhận trên đây, còn ph i kể đến quỹ thời
gian r t hạn chế của các học phần, khiến gi ng viên
không thể qu n lý được việc tự học.
Về phía sinh viên, các em cũng nhìn th y được
những b t cập trong việc thực hiện chế độ tự học:
một sinh viên ngành Công nghệ Hóa K33 cho biết:
“Việc sinh viên có 2 giờ tự học sẽ tạo cho sinh
viên có thể đi làm bán thời gian để có thêm thu
nhập trang tr i chi phí cho việc học, một số th y
46
Tạp chí Khoa học Tr ờng Đại học Cần Thơ
Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 36 (2015): 42-49
học, mà chỉ dựa vào nỗ lực của gi ng viên và ý
thức tự giác của sinh viên. Dãy con cờ đô-mi-nô
này sẽ lật nhào nếu một con nào đó không
đứng vững.
3.3 Ý ki n đánh giá c a các bộ môn c a
Khoa S ph m
“r nh” quá không biết làm gì nên chơi games
online... sinh viên lạm dụng quá nhiều quỹ thời
gian này để làm những việc không đúng với mục
đích của nhà trường, của khoa” (Chu Phạm Thúy
Hằng, 2010: 16).
Tổ chức Đoàn Thanh niên của Trường cũng có
những tổng hợp tương tự:
Về phía các đơn vị trực tiếp đào tạo của Khoa
Sư phạm, qua 5 năm thực hiện chương trình đào
tạo 120 tín chỉ, các bộ môn trong Khoa Sư phạm có
những nhận xét như sau:
“Tuy có nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng đa
phần sinh viên chưa chắc chắn về việc sử dụng 2
tiết tự học của mình, thực tế vẫn còn tồn tại tư
tưởng tranh thủ thời gian không đến lớp để đi làm
thêm, gi i trí… đến khi cần thì học dồn, học qua
loa và sau khi thi thì hầu như không còn nhớ được
kiến thức bài học” (Đoàn Thanh niên, 2010: 23)
C 14 chương trình đào tạo (trên tổng số
14 chương trình) đều chưa phù hợp về số lượng
tín chỉ.
14 chuyên ngành đều đề nghị tăng số tín chỉ
cho chương trình đào tạo: 12 chuyên ngành đề nghị
140 (hoặc 120 + các môn chung như, chính trị, Tư
tưởng HCM...), 01 chuyên ngành đề nghị 150 tín
chỉ, 01 chuyên ngành đề nghị 180 tín chỉ (dựa theo
chương trình cử nhân của Cộng đồng Châu Âu).
3.4 Th o lu n
Điều đó cho th y là việc tự học của sinh viên
không có gì thay đổi so với các phương thức đào
tạo trước năm 2007. Nói cách khác, việc áp dụng
học chế tín chỉ của trường ta vẫn còn dang dở, vì ta
chỉ mới chuyển đổi mang tính cơ học trên phương
diện qu n lý hành chính theo hướng dẫn trong
Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT của Bộ
GD&ĐT mà thôi, còn m ng hoạt động tự đào tạo
của sinh viên vẫn còn bị th nổi. Gần đây, Bộ
GD&ĐT đã nhận ra những b t cập trong việc áp
dụng học chế tín chỉ ở các trường đại học và cao
đẳng theo quy chế ban hành kèm theo quyết định
này, nên ngày 27/12/2012 Bộ đã ký thông tư “điều
chỉnh, bổ sung”.
Khoa Sư Phạm là đơn vị đào tạo đội ngũ giáo
viên phổ thông. Vì thế, trong chương trình đào tạo
của các ngành sư phạm, có một số học phần liên
quan đến kiến thức và rèn luyện kỹ năng nghề
nghiệp mà các ngành đào tạo khác không có học
phần tương ứng. Vì thế, nếu quy định t t c các
ngành ph i thiết kế tổng số tín chỉ như nhau, thì
ch t lượng đào tạo của ngành sư phạm chắc chắn
sẽ kém hơn các ngành khoa học kỹ thuật. Một kinh
nghiệm buồn là trong đợt kiểm tra trình độ của
giáo viên tiếng Anh trên c nước vào tháng 6/2012,
kết qu kiểm tra trình độ của giáo viên tiếng Anh
“đạt chuẩn th p đến mức khó hình dung”:
Người học thì sử dụng sai mục đích giờ tự học
vì nhiều lý do; gi ng viên thì khoán cho sinh viên
vì không thể qu n lý giờ tự học đó do quỹ thời gian
không cho phép (hoặc không hiểu rõ ý nghĩa của
giờ tự học); nhà trường thì chưa có biện pháp hữu
hiệu và thích hợp để ch n chỉnh, kiểm soát việc tự
47
Tạp chí Khoa học Tr ờng Đại học Cần Thơ
Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 36 (2015): 42-49
trọng ý kiến của bộ môn về những việc liên quan
đến chuyên môn, cụ thể là phân quyền quyết định
việc xét duyệt biên soạn giáo trình cho các hội
đồng khoa học của Khoa.
Kết qu này chắc chắn ít nhiều có liên quan đến
việc cơ c u chương trình quá sơ sài. Gần đây, trong
hội th o về c i cách giáo dục do Quỹ hòa bình và
phát triển Việt Nam tổ chức, các chuyên gia đều có
chung một đề xu t là ph i xem công tác xây dựng
đội ngũ giáo viên là gi i pháp cốt lõi, quan trọng
nh t trong việc đổi mới căn b n, toàn diện nền giáo
dục, vì chính đội ngũ này quyết định sự thành bại
của việc đổi mới (Nguyễn Thị Bình, 2012).
2) Trường ta c p bằng Cử nhân khoa học, do đó
cần ph i l y các học phần về kiến thức khoa học
làm nòng cốt. Ch t lượng đào tạo được thể hiện
trước tiên bởi hàm l ợng kiến thức khoa học được
thiết kế trong chương trình đó. Không thể nói rằng
ngành đào tạo chỉ có kho ng 30 tín chỉ của các học
phần KTKH (tức “cử nhân loại 3” đã nói ở trên) có
ch t lượng khoa học ngang bằng với chương trình
có kho ng 80 tín chỉ (cử nhân loại 1). Vì thế, chúng
tôi đề xu t không cào bằng số l ợng tín chỉ của
các chuyên ngành đào tạo trong tr ờng nh hiện
nay (t t c các ngành đều chỉ 120 tín chỉ như hiện
nay, và 140 tín chỉ kể từ khóa 40), mà ph i dựa vào
đặc điểm của từng chuyên ngành đào tạo mà thiết
kế chương trình đào tạo (theo mô hình dưới đây),
để b o đ m chuẩn đầu ra của các chuyên ngành
đào tạo, và chuẩn nghề nghiệp của ngành giáo dục.
4 K T LU N VÀ Đ XU T
Để c i thiện ch t lượng đào tạo, hoàn thiện hệ
thống tín chỉ và từng bước hòa nhập với thế giới,
như mục tiêu mà hội nghị đã đề ra, nhà trường cần
ph i thực hiện đầy đủ các khâu chủ yếu sau đây:
1) Bộ môn là đơn vị trực tiếp thực hiện các
chương trình đào tạo, từ khâu biên soạn chương
trình đến khâu biên soạn bài gi ng, giáo trình và
gi ng dạy trên lớp. Vì thế, hơn ai hết, Bộ môn và
hội đồng khoa học của Khoa biết rõ ph i làm gì để
b o đ m ch t lượng. Đề nghị nhà trường ph i tôn
Cử nhân các ngành
Sư phạm
Sư phạm ngoại ngữ
Hình 4: S đ c u trúc các kh i ki n th c c a các chuyên ngƠnh đƠo t o
4) Tổ chức thường xuyên những buổi báo cáo
chuyên đề, tọa đàm, th o luận về đổi mới dạy học,
dạy học tích cực, dạy học theo học chế tín chỉ...
cho gi ng viên, để gi ng viên có nhiều cơ hội tiếp
xúc với nhiều quan niệm, phương pháp và kỹ thuật
dạy học mới mẻ, để từng bước c i tiến ch t lượng
dạy học. Nhanh chóng thành lập Tủ sách S phạm
của nhà trường, và nhóm biên soạn, l y Khoa Sư
phạm làm nòng cốt, để biên soạn và phổ biến đến
từng gi ng viên các tài liệu liên quan đến đổi mới
dạy học.
Biện pháp này hoàn toàn phù hợp với Thông tư
57/2012/TT-BGDĐT ban hành ngày 27/12/2012 về
“Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đào tạo
đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín
chỉ ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐBGDĐT”.
3) Việc tự học là vô cùng quan trọng trong
trường đại học, đặc biệt là khi ta chủ trương sư
phạm tích cực. Để thực hiện tốt giờ tự học của sinh
viên, đề nghị nhà trường “thể chế hóa” trách
nhiệm của giảng viên đối với “hai giờ tự học”,
bằng cách áp dụng cách tính của hệ thống ECTS
của Cộng đồng Châu Âu (số tín chỉ ECTS của một
học phần bao gồm giờ lên lớp và giờ tự học). Chỉ
khi nào giờ tự học được nhìn nhận như là một hoạt
động chính thức và được gắn với giờ dạy của gi ng
viên thì việc tự học mới được thực hiện tốt.
Việc học tập các nước có nhiều kinh nghiệm
đào tạo là cần thiết. Tuy nhiên, có thái độ cầu thị
không thôi vẫn chưa đủ, mà cần ph i có tinh phần
phê phán, nghĩa là ph i nhận thức rõ những nguyên
lý chi phối mô hình đào tạo mà ta muốn học tập, và
những điều kiện cần và đủ để áp dụng mô hình đó,
thì việc học tập mới không bị ch p vá, hỗn độn.
48
Tạp chí Khoa học Tr ờng Đại học Cần Thơ
Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 36 (2015): 42-49
2. Đoàn TNCSHCM, 2010. Các ý kiến đóng
góp về việc sử dụng 2 tiết tự học trong sinh
viên. Trong Hội nghị đánh giá tình hình hai
tiết tự học của sinh viên, Đại học Cần Thơ :
23-26.
3. Hồ Thị Hà, 2010. Hai tiết tự học của sinh
viên – Thực trạng và phương hướng gi i
quyết. Trong Hội nghị đánh giá tình hình
hai tiết tự học của sinh viên, Đại học Cần
Thơ: 19-22.
4. Nguyễn Đăng Hưng, 2012. Giáo dục Việt
Nam bệnh đã quá nặng, cần được gi i phẫu,
báo Giáo dục Việt Nam ngày 27/9/2012 tại
địa chỉ http://giaoduc.net.vn/Giao-duc24h/Giao-duc-Viet-Nam-benh-da-qua-nangcan-duoc-giai-phau/230319.gd truy cập
ngày 27/09/2012.
5. Nguyễn Thị Bình, 2012. Đột phá từ đội ngũ
giáo viên. Bài viết trên báo Tuổi trẻ, ngày
20/10/2012, địa chỉ trên mạng
http://tuoitre.vn/giao-duc/516817/dot-phatu-doi-ngu-giao-vien.html 18/2/13 truy cập
ngày 21/10/2012.
6. Nguyễn Thị Thu Thủy & Ngô Thị B o
Châu, 2010. Tự học – Thực trạng, Nguyên
nhân và Gi i pháp. Trong Hội nghị đánh giá
tình hình hai tiết tự học của sinh viên, Đại
học Cần Thơ : 29-31.
7. Nguyễn Văn Linh, 2010. Một số gi i pháp
giúp sinh viên thực hiện 2 giờ tự_học của
Khoa Công nghệ Thông tin & Truyền thông,
trong Hội nghị đánh giá tình hình hai tiết tự
học của sinh viên, Đại học Cần Thơ: 7-11.
8. Trần Thanh Ái, 2010. Đào tạo theo hệ thống
tín chỉ. Các nguyên lý, thực trạng và gi i
pháp. Tham luận tại Hội nghị toàn quốc đổi
mới đào tạo đại học, tổ chức tại Đại học Sài
Gòn, tháng 5/2010 : 42-53.
Một số nhà qu n lý giáo dục nước ta thường
thỏa mãn về quá trình học tập của họ theo chương
trình tín chỉ ở các trường đại học phương Tây
và nghĩ rằng mình có đầy đủ kinh nghiệm để áp
dụng vào cơ sở đào tạo của mình. Như tôi đã có dịp
trình bày (Trần Thanh Ái, 2010), những kinh
nghiệm y chỉ là những kinh nghiệm của người thụ
hưởng chương trình đào tạo, dựa trên những dữ
liệu được thu thập từ góc độ người đi học, người
sinh viên. Cái mà chúng ta cần hiện nay là kiến
thức và kinh nghiệm về tổ chức và qu n lý, nghĩa
là những dữ liệu thu thập được dưới góc độ “người
s n xu t” và qu n lý chương trình, là những cái mà
chúng ta có r t ít kinh nghiệm. Để bù đắp sự thiếu
sót này, chúng ta cần ph i xác định những nguyên
tắc căn b n cần ph i tôn trọng, để tạo thành một hệ
thống nh t quán và tránh tình trạng đưa ra những
biện pháp chắp vá tùy tiện mang tính tình thế.
Để kết thúc bài tài tôi xin trích ý kiến của GS
Nguyễn Đăng Hưng phát biểu về giáo dục Việt
Nam như sau:
“Nền giáo dục Việt đang là một con bệnh nặng.
V n đề là tìm cho ra căn nguyên thì mới có thể có
phương pháp chữa trị. Thật vậy, bệnh đã xâm nhập
tận xương tủy, đã thành di căn, ph i có phương
pháp mạnh, chữa trị từ gốc, ngay c ph i gi i phẫu
cắt bỏ, mới có cơ may thoát hiểm” (Nguyễn Đăng
Hưng, 2012).
Thiết nghĩ mỗi người trong chúng ta ph i khẩn
trương và nghiêm túc góp phần trong kh năng của
mình vào việc chữa trị căn bệnh trầm kha của giáo
dục nước nhà.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Chu Phạm Thúy Hằng, 2010. Đánh giá việc
sử dụng 2 giờ tự học của sinh viên. Trong
Hội nghị đánh giá tình hình hai tiết tự học
của sinh viên, Đại học Cần Thơ : 13-17.
49