Academia.eduAcademia.edu
Nguyễn Đăng Hai T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM _____________________________________________________________________________________________________________ KHÁIăNI MăCH ăNGHƾAăNHÂNăVĔNăVĨăCH ăNGHƾAăNHÂNăĐ Oă TRONGăKHOAăNGHIÊNăC UăVĔNăH C ăVI TăNAM T 1945ăĐ NăNAY NGUYỄN ĐĂNG HAI* TịMăT T Trong khoa nghiên cứu văn học, Ch nghĩa nhân văn và Ch nghĩa nhân đạo (Humanism) là những phạm trù lí luận, phạm trù lịch sử mà cho đến nay việc nhìn nhận, đánh giá vẫn còn gây ra nhiều chia rẽ, trái nghịch. Vì vậy, bài viết đề cập đến hai vấn đề cơ bản của khái niệm: (1) Khái quát về nguồn gốc, nội dung và ý nghĩa của khái niệm humanism ở phương Tây; (2) Phân tích nội dung, ý nghĩa và các khuynh hướng khác nhau trong việc sử dụng khái niệm Ch nghĩa nhân văn, Ch nghĩa nhân đạo trong khoa nghiên cứu văn học ở Việt Nam từ 1945 đến nay. Từ khóa: ch nghĩa nhân văn, ch nghĩa nhân đạo, ch nghĩa nhân bản, văn học Việt Nam hiện đại, giá trị c a văn học. ABSTRACT The concepts Humanism and Humanitarianism in Vietnamese literary studies from 1945 up to date Humanism and Humanitarianism are theoretical and historical categories in Vietnamese literary studies whose perceptions and assessments are still causing many disputes. The article discusses two basic issues of the concepts: (1) An overview of the origin, content and meaning of the concept of humanism in the West; (2) Analyzing of the content, meaning and different trends in the use of the concepts Humanism and Humanitarianism in Vienamese literary studies from 1945 up to date. Keywords: Humanism, Humanitarianism, Modern Vietnamese Literature, value of Literature. Dẫnănh p Trong khoa nghiên cứu văn học Việt Nam, khái niệm Humanism đã được tiếp nhận và chuyển dịch sang tiếng Việt với hai khái niệm phổ biến là Chủ nghĩa nhân văn (CNNV) và Chủ nghĩa nhân đạo (CNNĐ). Đây là những từ ngữ Hán Việt đã được sử d ng phổ biến, thư ng xuyên trong nghiên cứu văn học hiện đại Việt Nam, được xem như là một giá trị phổ quát c a văn học. Nhưng thế nào là 1. * CNNV hay CNNĐ? CNNV hay CNNĐ có Ủ nghĩa như thế nào đối với văn học? ụ kiến về vấn đề này, mỗi giai đoạn, mỗi nhà nghiên cứu văn học Việt Nam, có nhiều quan niệm khác nhau. Trong khi đó, chúng ta lại chưa có những công trình chuyên sâu, có hệ thống bàn riêng về hai thuật ngữ này trong thực tiễn c a khoa nghiên cứu văn học Việt Nam. Vì vậy, bài viết này, bước đầu chúng tôi phân tích, lí giải nội hàm c a hai khái niệm ThS, Trường Đ i h c Trà Vinh; Email: nguyendanghai84@gmail.com 143 T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM Số 1(66) năm 2015 _____________________________________________________________________________________________________________ (trên bình diện lí thuyết). Qua đó, bài viết sẽ chỉ ra sự khác biệt trong cách sử d ng giữa hai khái niệm và những cơ s dẫn đến sự khác biệt đó cũng như Ủ nghĩa c a nó trong thực tiễn nghiên cứu văn học Việt Nam. Bài viết khảo sát và đánh giá cách sử d ng các khái niệm CNNV, CNNĐ c a những nhà nghiên cứu (ch yếu là các nhà lí luận, phê bình) các giáo trình, chuyên luận, bài báo khoa học đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành Văn học Việt Nam từ 1945 đến nay, tức là từ khi khoa nghiên cứu văn học Việt Nam ch yếu được tiến hành theo quan điểm Marxist. 2. T ă kháiă ni mă Humanism ă phươngăTây… Khái niệm Humanism được sử d ng lần đầu trong Anh ngữ là vào khoảng năm 1806. Khái niệm này được chuyển ngữ từ khái niệm Humanismus (gốc Latin) trong tiếng Đức. Khái niệm Humanismus được sử d ng phổ biến Đức từ những năm 1806 để nói về chương trình giáo d c các phẩm chất Ngư i c a con ngư i trong các nhà trư ng Đức. Năm 1856, nhà ngữ văn và lịch sử ngư i Đức là Georg Voigt đã sử d ng khái niệm Humanism để nói về phong trào văn hóa th i kì Ph c hưng (Renaissance) phương Tây (thế kỉ XIV - XVI). Trong ngôn ngữ c a các nước phương Tây, Humanism phái sinh từ tiếng Latin th i Trung cổ là Humanus, có nghĩa là thuộc về con ngư i và Humanitas, có nghĩa là môn học nghiên cứu về con ngư i, nghiên cứu bản chất, 144 vị trí, giá trị, cá tính c a con ngư i. Kh i nguyên c a humanism như là một chương trình giáo d c - văn hóa được các nhà triết học xây dựng nên b i các bài học, lí luận triết học, đạo đức học về đạo làm ngư i, được khai sinh lần đầu tiên Hi Lạp vào khoảng thế kỉ V - IV TCN. Chương trình này nhằm phát triển một cách toàn diện tài năng và sự sáng tạo cao nhất những năng lực bản chất c a con ngư i. Mặc dù vậy, ngôn ngữ Hi Lạp không có từ Humanism. Tuy nhiên, mối quan tâm đối với con ngư i và những chân giá trị c a họ luôn là tâm điểm trong tư duy c a ngư i Hi Lạp. Sự quan tâm này đã được thể hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau như triết học, nghệ thuật, lịch sử... Th i kì Ph c hưng, trong văn học nghệ thuật nói riêng, trong văn hóa nói chung, những tư tư ng nhân văn đã đơm hoa kết trái, tr thành Humanism. Humanism là trào lưu tư tư ng ch đạo, xuyên suốt th i kì này. Nội dung tư tư ng cơ bản c a nó là đặt con ngư i vào vị trí trung tâm để đấu tranh chống lại Cơ đốc giáo lấy thần làm trung tâm. Do đó, nó thể hiện sự phản ứng mạnh mẽ chống lại thần quyền và tôn giáo; đòi quyền sống tự do, quyền hư ng th tự nhiên cho con ngư i; khẳng định vẻ đẹp c a con ngư i trần thế với những khả năng vô tận. Từ đó, những khát vọng muôn thu c a con ngư i như tình yêu, hạnh phúc, cái đẹp, tự do, khoái lạc… đã được nâng lên tầm vũ tr . Chính những tư tư ng mới này đã làm xuất hiện những lí tư ng mới về công bằng xã hội, hình thành quan điểm đạo đức mới và nhấn mạnh, đề T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM Nguyễn Đăng Hai _____________________________________________________________________________________________________________ cao các giá trị phổ quát c a con ngư i như tự do, công lí, phẩm giá, hạnh phúc, quyền con ngư i... Từ đây, những ngư i theo Humanism được gọi là Humanist. Đó là một nhóm nhỏ, có đặc quyền, không quan tâm đến quảng đại quần chúng, những ngư i nổi loạn chống lại vũ tr học tr i Trung cổ, những ngư i theo cá nhân luận (individualism) – họ muốn là chính mình. Humanist đích thực, theo nghĩa hẹp c a từ này, là chỉ những học giả, những ngư i có tài, có kiến thức sâu và rộng về ngôn ngữ và văn học Hi - La. Họ cố Ủ làm sống lại một ngôn ngữ, một nền văn hóa đã chết, đó là văn hóa Hi La Cổ đại. Vì vậy, họ chuyên tâm sưu tầm, chú giải, khảo cứu nhằm ph c hồi các văn bản c a các nhà tư tư ng th i Cổ đại một cách chính xác; từ đó, dịch thuật và công bố rộng rãi những tác phẩm này. Ngày nay, nội hàm c a khái niệm humanism rất rộng và đa nghĩa. Thông thư ng, nó được hiểu theo hai nghĩa cơ bản là nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, khái niệm Humanism được dùng để chỉ trào lưu triết học, văn hóa, nghệ thuật tiến bộ th i kì Ph c hưng châu Âu (thế kỉ XIV - XVI) hướng đến việc giải phóng cá tính con ngư i khỏi những ràng buộc và sự trì trệ c a tư tư ng phong kiến, ch nghĩa kinh viện và thần học Kitô giáo. Theo nghĩa rộng, khái niệm Humanism dùng để chỉ bất kì học thuyết, trào lưu tư tư ng, văn hóa, nghệ thuật nào công nhận và lấy “con ngư i là thực thể cao nhất đối với con ngư i” (K. Marx). Từ đây, khái niệm này được sử d ng rộng rãi và được xem như là một hệ giá trị, một tiêu chuẩn phổ biến nhiều lĩnh vực thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới, trong đó có khoa nghiên cứu văn học Việt Nam. 3. Đ nă kháiă ni mă Ch ă nghƿaă nhână vĕn,ăCh ănghƿaănhânăđ oă ăVi tăNam Khái niệm Humanism được chuyển ngữ và sử d ng phổ biến trong khoa nghiên cứu văn học Việt Nam vào nửa cuối thế kỉ XX. Tuy nhiên, sự tiếp nhận và chuyển ngữ ban đầu này không phải trực tiếp từ văn hóa phương Tây mà được thực hiện gián tiếp qua Hán ngữ. Do đó, trong khoa nghiên cứu văn học Việt Nam, Humanism thư ng được chuyển ngữ phổ biến thành các từ ngữ Hán Việt là CNNV hay CNNĐ. Và Humanist thư ng được hiểu là Nhà nhân văn chủ nghĩa hay Nhà nhân đạo chủ nghĩa. Trong chữ Hán, trước khi tiếp nhận nội hàm khái niệm Humanism c a phương Tây, tồn tại cả hai khái niệm: Nhân đạo và Nhân văn. Đây là hai khái niệm phổ biến trong các lĩnh vực văn hóa, đạo đức, triết học truyền thống Trung Hoa cũng như các nước thuộc khu vực văn hóa chữ Hán. Nó là sự tổng hòa các tư tư ng dân ch th i Cổ đại, học thuyết “nhân nghĩa” c a Nho giáo, tư tư ng “từ bi bác ái” c a Phật giáo, những yếu tố giải phóng tư duy con ngư i trong tư tư ng Lão – Trang. Vì vậy, Nhân đạo (人 道) thư ng được quan niệm là nhân luân, đạo lí c a con ngư i; là những khuôn mẫu, quy tắc, luật lệ c a con ngư i, những nhân tố để con ngư i tr thành ngư i. Còn Nhân văn (人 文) nguyên để chỉ cái văn vẻ, cái tốt đẹp c a con ngư i trong xã hội như sự hài hòa, sự hanh thông c a đất tr i, c a đ i sống con ngư i; là những tri thức, 145 T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM Số 1(66) năm 2015 _____________________________________________________________________________________________________________ đạo đức, quan hệ đ i sống hài hòa, tốt đẹp cùng với lòng vị tha, yêu thương con ngư i. Qua đó, chúng ta có thể nhận thấy nghĩa c a thuật ngữ “nhân đạo” hay “nhân văn” đây không thể đồng nhất với thuật ngữ “humanism” c a phương Tây. Nhưng tất cả các thuật ngữ này đều có điểm chung là hướng đến con ngư i, vì sự tiến bộ, hạnh phúc c a con ngư i nói chung. Tuy nhiên, mỗi nền văn hóa, mỗi th i đại có cách thể hiện, cách thực hiện khác nhau. Khoa nghiên cứu văn học Việt Nam đã sinh thành, tồn tại và phát triển trong những truyền thống, cội nguồn văn hóa – xã hội, tôn giáo, triết học, tư tư ng khác biệt so với các nước khu vực và trên thế giới. Chính điều này đã ảnh hư ng, chi phối mạnh mẽ đến việc lựa chọn, tiếp nhận, sử d ng khái niệm CNNV hay CNNĐ trong khoa nghiên cứu văn học Việt Nam. Trong khoa nghiên cứu văn học hiện đại Việt Nam, tồn tại ba khuynh hướng phổ biến khác nhau về khái niệm CNNV, CNNĐ. 3.1. Khuynh hướng đối lập Chủ nghĩa nhân văn với Chủ nghĩa nhân đạo Khuynh hướng đối lập CNNĐ và CNNV diễn ra phổ biến trong suốt một th i gian dài, được thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp một số giáo trình, tiểu luận, bài báo về lí luận, phê bình văn học từ cuối thập niên 50 đến cuối thập niên 80 c a thế kỉ XX. giai đoạn này, sự đối lập được thể hiện mạnh mẽ trong một số bộ giáo trình sử d ng trong các trư ng đại học, cao đẳng: Sơ thảo nguyên lí văn học c a Nguyễn Lương Ngọc (Nxb Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, 1958), 146 Sơ thảo nguyên lí văn học c a nhóm tác giả Nguyễn Lương Ngọc, Trần Văn Bính, Nguyễn Văn Hoàn (Nxb Giáo d c, 1961), Cơ sở lí luận văn học c a Tổ Bộ môn Lí luận Văn học các Trư ng Đại học Sư phạm Hà Nội, Vinh và Đại học Tổng hợp (Nxb Giáo d c, 1976, 1978), Cơ sở lí luận văn học c a Nguyễn Lương Ngọc ch biên (1980 - 1985), Nhìn lại tư tưởng văn nghệ thời Mĩ Ngụy c a Lê Đình Kỵ (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1987)… Trong khoa nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn này, khái niệm CNNV thư ng được các nhà nghiên cứu sử d ng để nói về tinh thần c a th i đại Ph c hưng, có nguồn gốc từ phương Tây. Từ đó, khái niệm CNNV thư ng được dùng để chỉ những tư tư ng c a giai cấp tư sản nói chung. Ngược lại, khái niệm CNNĐ được dùng để chỉ những tư tư ng c a giai cấp vô sản với cơ s lí luận là triết học Marx – Lenin và lí luận c a ch nghĩa cộng sản khoa học, chứng minh rằng tiền đề cần thiết cho sự phát triển toàn diện và hài hòa c a tất cả mọi ngư i, cho tự do chân chính c a cá nhân là phải giải phóng ngư i lao động khỏi áp bức xã hội và xây dựng ch nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, đôi khi khái niệm CNNĐ cũng được một số nhà nghiên cứu sử d ng để nói về phong trào văn hóa th i kì Ph c hưng, chỉ những tư tư ng c a giai cấp tư sản. Vì vậy, để phân biệt CNNĐ c a giai cấp vô sản với CNNĐ c a giai cấp tư sản, các nhà nghiên cứu thư ng dùng những tên gọi có tính chất chỉ dẫn, định giá. CNNĐ c a giai cấp tư sản thư ng được gọi bằng những từ ngữ có tính chất phê phán, ph định như “CNNĐ tư sản”, T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM Nguyễn Đăng Hai _____________________________________________________________________________________________________________ “CNNĐ trừu tượng”, “CNNĐ chung chung”... Ngược lại, để gọi CNNĐ c a giai cấp vô sản, các nhà lí luận thư ng gọi bằng những từ ngữ thể hiện sự ca ngợi, khẳng định như “CNNĐ cộng sản”, “CNNĐ cách mạng”, “CNNĐ tích cực” hay gọi ngắn gọn là “CNNĐ”. Nội hàm khái niệm CNNĐ được thể hiện trên nhiều bình diện thuộc về đặc trưng, bản chất c a văn học như đối tượng, nội dung, tư tư ng, chức năng c a văn học. Văn học được xem như là khoa nhân học. “Nhân học” đây lại chỉ được hiểu là những ngư i lao động bình dân, là quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, quan niệm về “nhân dân” đây chỉ bao gồm những “công, nông, binh”, đặc biệt là những ngư i lao động nghèo khổ, những ngư i bình dân chứ không phải là mọi ngư i dân thuộc các tầng lớp, giai cấp khác nhau trong xã hội. Do đó, những ngư i “bình thư ng”, những “cô”, “cậu”, “chàng”, “nàng”; hay những “ông hoàng”, “bà chúa”, những “kẻ quỦ tộc”, những “bọn giàu có”… chưa được xem là “nhân dân”. Về mặt nội dung c a “nhân học”, các nhà nghiên cứu chỉ thừa nhận sự khác biệt về mặt giai cấp, ph nhận tính ngư i c a con ngư i. Do đó, khi miêu tả quần chúng nhân dân, “nhà văn lại phải tập trung khai thác những mặt bản chất, tích cực nhất, anh hùng nhất của quần chúng lao động. Cần triệt để phê phán quan niệm sai lầm chỉ miêu tả những nét tầm thường, bản năng, hoặc miêu tả những kiểu người “bình thường” [12, tr.161]. Chính vì vậy, có nhiều nhà nghiên cứu đã đồng nhất đối tượng c a văn học với cuộc đấu tranh giai cấp, đồng nhất con ngư i với con ngư i giai cấp: “đối tượng của văn học là con người (hay là cuộc đấu tranh xã hội) mà trong xã hội có giai cấp thì con người và cuộc đấu tranh xã hội luôn luôn có tính giai cấp” [12, tr.72]. Từ đó, các nhà lí luận thư ng ph nhận và gạt bỏ những mặt tự nhiên, bản năng, cá tính, cá nhân trong mỗi con ngư i ra khỏi nội hàm khái niệm CNNĐ. Qua đó, chúng ta có thể nhận thấy, nội hàm khái niệm CNNĐ trong khoa nghiên cứu văn học theo khuynh hướng này bao gồm bốn đặc điểm chính là: (1) Yêu thương quần chúng nhân dân; (2) Phát hiện và biểu hiện những phẩm chất tốt đẹp, những mặt tích cực nhất, anh hùng nhất c a quần chúng nhân dân; (3) Thể hiện tinh thần đấu tranh, phản kháng chống lại ách áp bức, bóc lột nhằm giải phóng nhân dân, giải phóng dân tộc; và (4) Tin tư ng tuyệt đối năng lực, khả năng sáng tạo c a quần chúng nhân dân. Trong bốn đặc điểm trên, các nhà nghiên cứu đặc biệt nhấn mạnh đến tinh thần đấu tranh giải phóng dân tộc, chống áp bức bóc lột nhân dân. Đây là tư tư ng hạt nhân c a khái niệm CNNĐ giai đoạn này. Do đó, văn học được xem là một “mặt trận tư tư ng” và các nhà nhân đạo ch nghĩa phải là những “chiến sĩ” cách mạng lăn lộn trên “mặt trận” ấy để đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân. Vì vậy, có thể nói rằng CNNĐ th i kì này là CNNĐ hành động, hành động để thay đổi vận mệnh, giải phóng nhân dân, giải phóng dân tộc, hành động để biến một thế giới phi nhân thành thế giới có nhân tính. Đây cũng là một trong những đặc điểm c a CNNV theo quan 147 T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM Số 1(66) năm 2015 _____________________________________________________________________________________________________________ điểm Marxist. Trần Văn Bính đã viết: “CNNV thời Phục hưng mới chỉ chú ý đi sâu nghiên cứu con người, nói lên những ước mơ to lớn của con người. CNNĐ xã hội chủ nghĩa không dừng lại ở đó. Văn học nghệ thuật xã hội chủ nghĩa có mục đích góp phần giải phóng triệt để con người, mà muốn giải phóng triệt để con người thì phải chống áp bức bóc lột. Văn học nghệ thuật của chúng ta trước hết là văn học nghệ thuật của những người lao động, của quần chúng nhân dân. Nó biết phát hiện những phẩm chất tốt đẹp ở những người lao động vì nó tin tưởng tuyệt đối ở khả năng sáng tạo tuyệt vời của họ. Văn học nghệ thuật của ta phải lấy công, nông, binh làm nhân vật chủ yếu. Các văn nghệ sĩ của chúng ta là những nhà chiến sĩ lăn lộn trong cuộc đấu tranh cách mạng nhằm giải phóng con người…” [11, tr.35]. Theo khuynh hướng này, khái niệm CNNĐ cũng thể hiện sự quan tâm đến con ngư i, vì con ngư i nhưng mới chỉ là một bộ phận ngư i trong xã hội. Đó là những con ngư i đạo đức, con ngư i cộng đồng, con ngư i giai cấp, con ngư i chính trị chứ chưa phải là những con ngư i tự nhiên, con ngư i cá nhân, cá thể. Trong mỗi con ngư i, các nhà nghiên cứu lại mới chỉ dừng lại việc phản ánh những mặt tích cực nhất, anh hùng nhất. Do đó, CNNĐ thư ng bị đồng nhất với đạo đức cách mạng, tinh thần đấu tranh giai cấp, giải phóng dân tộc, đồng nhất với cái đẹp, cái cao cả. Cho nên, những tư tư ng ngược lại như tự do cá nhân, yếu tố vô thức, bản năng, d c vọng… trong văn học bị xem là phi nhân đạo. Vì 148 thế, các nhà nghiên cứu kịch liệt phê phán, đấu tranh loại bỏ những tác phẩm văn học, những nhà văn có những tư tư ng như trên, b i vì nó: “làm hư hỏng con người, kích thích những bản năng đầy thú tính trong con người với mục đích dựng lên một thứ đạo đức cá nhân chủ nghĩa, phản nhân đạo” [8, tr.115]. Vấn đề cơ bản c a CNNV hay CNNĐ chính là vấn đề con ngư i, là mọi kiếp ngư i nói chung. Trong thực tế, vì sự chi phối mạnh b i Ủ thức về giai cấp, lập trư ng chính trị nên hai khái niệm này lại được dùng như là sự đối kháng về mặt giai cấp, về mặt chính trị. Khái niệm CNNV được dùng để chỉ những tư tư ng c a giai cấp tư sản, gắn liền với Ủ thức hệ tư sản: “Phi nhân đạo hóa nội dung tư tưởng của tác phẩm là đặc điểm nổi bật của sự suy đồi và sụp đổ của văn học tư sản” [8, tr.137]. Ngược lại, khái niệm CNNĐ được dùng như là sự ưu việt c a những tư tư ng cách mạng c a giai cấp vô sản. Thiết nghĩ, đây là sự phân biệt mang tính định kiến, không phù hợp. Các nhà nghiên cứu chưa thể hiện được tinh thần dân ch , đối thoại, bình đẳng giữa các hệ tư tư ng nên cũng chưa nhìn nhận hết những giá trị tư tư ng c a CNNV. Do đó, trong giai đoạn này, công tác định hướng sáng tác, nghiên cứu và tiếp nhận văn học Việt Nam còn nhiều hạn chế, phiến diện. Chúng ta có sự đánh giá chưa phù hợp, thậm chí thiên lệch giá trị nhiều tác phẩm văn học, nhiều nhà văn Việt Nam và nước ngoài. Có thể, đây là một trong những lí do khiến giai đoạn này chúng ta chưa có được những tác phẩm văn học lớn, có giá trị phổ quát. Chính sự Nguyễn Đăng Hai T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM _____________________________________________________________________________________________________________ tuyệt đối hóa, sự đánh giá chưa phù hợp này dẫn đến việc lựa chọn, tiếp nhận các giá trị văn hóa c a dân tộc và nhân loại bị hạn chế, thiếu khách quan. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó. Theo chúng tôi, một trong những nguyên nhân đó là truyền thống “văn dĩ tải đạo” c a dân tộc. Đồng th i, lí luận văn học Marxist vốn xem văn học là một hình thái Ủ thức xã hội, nhấn mạnh mối liên hệ máu thịt giữa văn học với hiện thực cuộc sống và cuộc đấu tranh tư tư ng, đấu tranh giai cấp trong đ i sống xã hội. Trong các chức năng c a văn học, các nhà lí luận đặc biệt đề cao chức năng giáo d c, xây dựng “con ngư i mới” c a văn học. Vì vậy, khi bình giá văn học, các nhà lí luận thư ng chăm chú vào nội dung tư tư ng, tính chiến đấu c a tác phẩm. Trong mặt tư tư ng, các nhà lí luận lại có biểu hiện tuyệt đối hóa tư tư ng chính trị như tính Đảng, tính giai cấp... c a văn học. Bên cạnh đó, đây là giai đoạn đất nước đang có chiến tranh. Cho nên, từ sự đối kháng ngoài chiến trư ng đã dẫn đến những đối kháng về mặt tư tư ng và học thuật. Nhiệm v đấu tranh giải phóng dân tộc phải được đặt lên hàng đầu. Từ đó, tiêu chuẩn chính trị phải được xem là tiêu chí hàng đầu. Và, một tác phẩm, một nhà văn, một trào lưu hay giai đoạn văn học có giá trị, tiến bộ luôn phải “tốt về chính trị”. Vì quá đề cao giá trị chính trị nên xem nhẹ giá trị nhân văn, giá trị thẩm mĩ c a văn học. Cái đẹp thư ng bị đồng nhất với lí tư ng cách mạng, với đấu tranh giai cấp. 3.2. Khuynh hướng đồng nhất Chủ nghĩa nhân văn với Chủ nghĩa nhân đạo Khuynh hướng này diễn ra ch yếu từ sau những năm 80 c a thế kỉ XX đến nay, thể hiện trong một số chuyên luận, giáo trình, bài viết và các từ điển văn học phổ biến Việt Nam. Chẳng hạn như chuyên luận Đặc điểm có tính quy luật của lịch sử văn học Việt Nam c a Lê Trí Viễn (Trư ng Đại học Sư phạm TPHCM, 1984), một số bài viết trong bộ sưu tập chuyên đề Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học hiện đại (Viện Thông tin Khoa học Xã hội, 1989, Hà Nội), Lí luận và văn học c a Lê Ngọc Trà (Nxb Trẻ, 1990), bài viết trên các tạp chí chuyên ngành: “Trào lưu tư tư ng nhân đạo ch nghĩa trong văn học Việt Nam thế kỉ XVIII” c a Nguyễn Đức Đàn (Nghiên cứu Văn học, số 1, 1961); các từ điển văn học: Từ điển thuật ngữ văn học c a nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi ch biên (Nxb Giáo d c, 2006), Từ điển văn học (Bộ mới) c a Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá ch biên (Nxb Thế giới, 2004)… Khác với khuynh hướng trước, khuynh hướng này, các nhà nghiên cứu lại đồng nhất hai khái niệm CNNV và CNNĐ. Các nhà lí luận không còn xem hai khái niệm này như là cách thể hiện sự đối kháng về Ủ thức hệ, về lập trư ng giai cấp và chính trị. Do đó, những khái niệm có Ủ nghĩa định giá như “CNNĐ trừu tượng”, “CNNĐ tư sản”, “CNNĐ cộng sản”... cũng dần dần mất đi trong các công trình nghiên cứu văn học Việt Nam. Nay, các công trình nghiên cứu chỉ còn gọi chung là CNNV hay CNNĐ. Nói về hệ thống những tư tư ng nảy sinh 149 T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM Số 1(66) năm 2015 _____________________________________________________________________________________________________________ trong phong trào văn hóa th i kì Ph c hưng châu Âu, có tác giả gọi là CNNĐ, có tác giả lại gọi là CNNV. Đặc biệt, khác với giai đoạn trước, trong các công trình nghiên cứu văn học những năm gần đây, các nhà nghiên cứu lại có khuynh hướng ưu tiên sử d ng khái niệm CNNV. Vì vậy, khái niệm CNNV xuất hiện ngày càng nhiều trong các công trình nghiên cứu văn học Việt Nam. Đây cũng là một biểu hiện cho thấy tinh thần nhận thức lại khái niệm CNNV, CNNĐ trong khoa nghiên cứu văn học Việt Nam những năm gần đây. So với khuynh hướng đối lập giai đoạn trước 1986, nội hàm và ngoại diên c a khái niệm CNNV trong văn học ít nhiều cũng đã được điều chỉnh. Khái niệm CNNV đã từng bước được thay đổi, bổ sung và hoàn thiện dựa trên các giá trị c a dân tộc và sự tiếp thu tinh hoa văn hóa c a nhân loại, đặc biệt là sự bổ sung các giá trị từ nền văn hóa c a phương Tây. Do đó, nội hàm c a khái niệm cũng đã được điều chỉnh trên nhiều bình diện khác nhau c a văn học, từ việc lựa chọn đối tượng đến cách thức biểu hiện nội dung, tư tư ng và chức năng c a văn học. Về việc lựa chọn đối tượng phản ánh c a văn học, một mặt các nhà nghiên cứu vẫn tiếp t c khẳng định “văn học là nhân học”. Mặt khác, quan niệm về “nhân học” c a các nhà nghiên cứu cũng đã có sự điều chỉnh theo hướng tiến bộ hơn, hợp lí hơn. một số công trình, quan niệm về “nhân học” trong văn học ít bị lệ thuộc vào các yếu tố như giai cấp, dân tộc, lập trư ng chính trị, địa vị, hoàn cảnh xuất thân. Con ngư i với tư cách là 150 đối tượng c a văn học th i kì này đã có sự m rộng. Đó là những con ngư i thuộc nhiều tầng lớp, giai cấp, dân tộc các th i đại khác nhau. Một số nhà nghiên cứu không chỉ khẳng định và đề cao con ngư i cộng đồng mà còn có cả những con ngư i cá nhân, cá thể. Trong mỗi con ngư i, một số nhà nghiên cứu không những chỉ dừng lại việc phản ánh, ca ngợi cái đẹp, cái cao cả mà còn phơi bày cả những cái bi, cái xấu, cái ác c a con ngư i trong văn học. Đúng như Huỳnh Như Phương đã viết: “Một tác phẩm văn học viết về cuộc sống và con người của dân tộc này có thể làm xúc động công chúng của nhiều dân tộc khác. Một tác phẩm tái hiện thời đại đã xa vẫn có thể lay động tâm tư của con người những thời đại mới. Một tác phẩm thể hiện số phận bi kịch của nhân vật thuộc một tầng lớp cao sang vẫn làm chảy nước mắt những người đọc bình dân…” [9, tr.35]. Theo các nhà nghiên cứu thuộc khuynh hướng này, khái niệm CNNV thư ng được xem xét từ hai cấp độ ch yếu là cấp độ thế giới quan và cấp độ lịch sử. cấp độ thế giới quan, các nhà nghiên cứu đã chú Ủ đến các “giá trị ngư i” c a con ngư i nói chung. Do đó, CNNV được xem là “toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, tình cảm, quý trọng các giá trị người” [2, tr.75-76]. Từ đây, các thuộc tính, phẩm chất tinh thần c a con ngư i như khả năng cảm th , khám phá bản thân và thế giới, khả năng sáng tạo được chú Ủ và đề cao; con ngư i không chỉ biết khám phá và cảm th thế giới bên ngoài mà còn biết khám phá và T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM Nguyễn Đăng Hai _____________________________________________________________________________________________________________ cảm th chính bản thân mình. Bên cạnh con ngư i cộng đồng, giai cấp, con ngư i cá nhân, cá thể cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm với một thái độ trân trọng, xem sự phát triển toàn diện c a cá nhân là điều kiện cho sự phát triển c a mọi ngư i. Các nhà nghiên cứu đã từng bước thừa nhận “tình yêu nhân loại” [7, tr.15], tức tính ngư i (tuy còn hạn chế và chỉ xuất hiện một số giáo trình, chuyên luận), những giá trị chung, phổ biến c a con ngư i nói chung. Đặc biệt, khác với khuynh hướng trước, đây, các nhà nghiên cứu đã có sự thay đổi lớn khi cho rằng “CNNV không phải là một khái niệm đạo đức đơn thuần” [2, tr.76]. Vì vậy, con ngư i cần được xem xét, đánh giá trên nhiều mặt, trong những mối quan hệ đan xen khác nhau: lịch sử, tự nhiên, xã hội, đồng loại, dựa trên tinh thần dân ch , đối thoại. cấp độ lịch sử, CNNV được xem là “một trào lưu văn hóa - tư tưởng nảy sinh ở Italia và một số nước khác ở châu Âu thời Phục hưng (thế kỉ XIV - XVI)” [2, tr.76]. Và nội dung cơ bản c a nó là “chủ trương giải phóng văn học nghệ thuật nói riêng và văn hóa nói chung khỏi sự bảo trợ của nhà thờ Cơ đốc giáo và giải phóng cá nhân con người” [2, tr.76]. Những tư tư ng này vốn đã tồn tại trong văn học dân gian, trong nền văn hóa tinh thần các dân tộc th i cổ, nhưng chỉ đến th i kì Ph c hưng nó mới tr thành một trào lưu. Có thể nói, dù là cấp độ thế giới quan hay cấp độ lịch sử, con ngư i đây đã được quan niệm toàn diện và đầy đ hơn. Con ngư i trong khoa nghiên cứu văn học không chỉ là những ngư i nghèo khổ, là quần chúng nhân dân mà là “mọi kiếp ngư i” (Tố Hữu) nói chung trong xã hội. Bên cạnh con ngư i cộng đồng, con ngư i cá nhân, cá thể với các giá trị ngư i phổ quát cũng đã được chú Ủ và khẳng định. Tuy nhiên, “các giá trị ngư i” đây là gì thì vẫn chưa được các nhà nghiên cứu văn học tập trung làm rõ. Đồng th i, bên cạnh cái đẹp, cái cao cả, các phạm trù khác như cái xấu, cái ác, cái bi c a con ngư i cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu chú Ủ, xem xét. Nh những thay đổi trên mà “Con người đã được văn học khám phá, soi chiếu ở nhiều bình diện, tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống tư tưởng, tình cảm và đời sống tự nhiên, bản năng, khát vọng cao cả và dục vọng tầm thường, con người cụ thể, cá biệt và con người trong tính nhân loại phổ quát” [3, tr.16]. Chúng ta cũng đã có những nhìn nhận, đánh giá khách quan hơn về một số hiện tượng văn học mà trước đây bị phê phán như Tự lực văn đoàn, Nhân văn giai phẩm… Những thay đổi trên phản ánh kết quả c a những đổi mới sâu sắc về mặt nhận thức và tư tư ng Việt Nam. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), tiếp đó là Nghị quyết 05 c a Bộ Chính trị và cuộc gặp gỡ c a Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ (1987) đã thể hiện tinh thần đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật, tôn trọng các quy luật khách quan c a đ i sống. Bên cạnh đó, sự mạnh dạn tiếp thu, khai thác nhiều quan niệm lí luận văn học tiến bộ c a nhân loại, trong đó có cả những quan niệm trước đây bị coi là “suy đồi”, “phản 151 T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM Số 1(66) năm 2015 _____________________________________________________________________________________________________________ động” xa lạ với dân tộc, bị lên án gay gắt, đã góp phần bổ sung hệ thống lí luận văn học c a nước nhà. Những thay đổi này đã tạo luồng sinh khí mới, khơi dậy những tìm tòi, suy ngẫm mới về con ngư i, về CNNV. Một thực tế nữa là thực tiễn sáng tác văn học Việt Nam giai đoạn này cũng đòi hỏi các nhà nghiên cứu cần phải thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá về con ngư i trong văn học. Đây là những cơ s quan trọng cho sự “ph c sinh” khái niệm CNNV trong khoa nghiên cứu văn học Việt Nam. Như vậy, những quan niệm này đã tiệm tiến đến quan niệm chung c a thế giới, có nhiều điểm tương đồng với khái niệm CNNV c a phương Tây. Các nhà nghiên cứu có xu hướng lấy các giá trị phương Tây làm hình mẫu, tiến gần đến những giá trị phổ quát c a nhân loại. Tuy quan niệm này tạo sự thuận tiện, dễ dàng và thống nhất trong cách sử d ng các khái niệm nhưng lại chưa thể hiện được tính đặc thù như tính lịch sử, tính dân tộc c a các khái niệm. Truyền thống và thực tiễn đ i sống văn hóa - văn học c a Việt Nam và các nước phương Tây không giống nhau, nên không thể lấy hệ thống lí luận phương Tây áp đặt vào Việt Nam. Nếu truyền thống văn học phương Tây thiên về tìm kiếm chân lí, ít chú Ủ đến những tác hại về đạo lí, xã hội thì truyền thống văn học Việt Nam lại thiên về sự hài hòa, coi trọng đạo lí. Nếu xã hội phương Tây lấy cá nhân làm gốc thì xã hội Việt Nam lại lấy cộng đồng làm gốc. Nếu CNNV phương Tây chịu ảnh hư ng b i truyền thống văn hóa Hi – La, tinh thần Ki tô giáo, tinh thần duy lí c a 152 triết học thì CNNV Việt Nam lại chịu ảnh hư ng b i truyền thống Văn Lang – Âu Lạc, tinh thần nguyên hợp c a tam giáo: Nho – Phật – Lão, tinh thần biện chứng c a triết học Marxist. Vì vậy, chúng tôi cho rằng trong khoa nghiên cứu văn học Việt Nam không thể đồng nhất, lại càng không nên có sự đối lập giữa hai khái niệm CNNV và CNNĐ. Do đó, chúng ta cần có sự phân biệt thỏa đáng giữa hai khái niệm này. 3.3. Khuynh hướng phân biệt Chủ nghĩa nhân văn với Chủ nghĩa nhân đạo Khuynh hướng này xuất hiện khá ít trong các công trình nghiên cứu văn học hiện đại Việt Nam. Khuynh hướng này diễn ra ch yếu từ cuối những năm 90 c a thế kỉ XX đến nay trong một số chuyên luận như Quy luật phát triển lịch sử văn học Việt Nam c a Lê Trí Viễn (Nxb Giáo d c, tái bản lần thứ nhất, 1999), Con người nhân văn trong thơ ca sơ kì trung đại c a Đoàn Thị Thu Vân (Nxb Giáo d c, 2007)… So với hai khuynh hướng trên, những ngư i theo khuynh hướng này ch trương phân biệt hai khái niệm CNNV và CNNĐ dựa trên tính chất triết học, văn hóa, đạo đức. Các nhà nghiên cứu cho rằng khái niệm khái niệm CNNV thiên về phạm trù văn hóa, đó là những giá trị tốt đẹp c a con ngư i như tâm hồn, tình cảm, phẩm cách, trí tuệ; là những “phẩm chất người ở con người trong tư cách là con người” [14, tr.198]. Còn khái niệm CNNĐ nhấn mạnh đến khía cạnh đạo đức, tức là “bất kì cái gì tôn trọng, tin tưởng, ca ngợi, đề cao, thương yêu, bảo T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM Nguyễn Đăng Hai _____________________________________________________________________________________________________________ vệ, phát huy, phát triển con người, đó là nhân đạo, ngược lại là vô nhân đạo” [14, tr.198]. Bàn về sự khác nhau giữa CNNV và CNNĐ, Lê Trí Viễn cho rằng: “Có thể coi nhân văn rộng nhưng không sâu, nhân đạo sâu và rộng. Nhân văn là con người nhìn bản thân mình, nhân đạo vừa là mình tự nhìn mình vừa là kẻ khác nhìn mình. Nhân đạo chừng nào có cao hơn nhân văn một bậc, cả hai đều là hai cấp độ phẩm giá của con người, và dính liền nhau” [14, tr.198]. CNNV hay CNNĐ đều là những quan niệm và thái độ c a con ngư i đối với chính con ngư i và thế giới. Vì vậy, theo chúng tôi khó mà phân hạng và cũng không thể, không nên có sự phân hạng cao hay thấp. Mỗi bên có một điểm nhìn, một góc nhìn riêng. Nên tất yếu sẽ có những kết quả, thái độ không giống nhau. Do đó, chúng tôi cho rằng không thể nói “nhân đạo (…) cao hơn nhân văn một bậc”. Đây là sự nhìn nhận chưa thỏa đáng về tinh thần, giá trị c a cả hai khái niệm. CNNV không chỉ là sự tự nhận thức về bản thân mình mà nó còn bao hàm cả sự tự nhận thức về mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, với xã hội, với thế giới tự nhiên và với thế giới siêu nhiên. Trong bối cảnh đa dạng văn hóa hiện nay, CNNV còn là sự “thể hiện tư tưởng về đạo đức phổ quát” [4, tr.33] c a nhân loại. Cho nên, trong sự phong phú, đa dạng và tinh tế c a tiếng Việt, chúng tôi cho rằng, trong khoa nghiên cứu văn học Việt Nam nên xem khái niệm CNNĐ như “một quan niệm và thái độ có tính chất luân lí, đạo đức, thể hiện lòng thương yêu con người, sự nhạy cảm trước nỗi khổ đau, bất hạnh của con người” [10, tr.5] còn khái niệm CNNV như “một quan niệm và thái độ có tính chất văn hóa trong việc đề cao giá trị con người. Khi những quan niệm, thái độ có tính chất triết học, đạo đức nói trên kết tinh thành cái đẹp như một giá trị thì đó là chủ nghĩa nhân văn” [10, tr.5]. Chúng ta trân trọng, kế thừa các giá trị c a truyền thống nhưng đồng th i cũng phải có Ủ thức tiếp nhận, bổ sung các giá trị mới c a nhân loại; Ủ thức rõ ràng truyền thống không phải lúc nào cũng đ để giải quyết những vấn đề mới xuất hiện và sẽ nảy sinh. Vì vậy, các khái niệm này cũng cần luôn có sự tiếp biến các giá trị mới c a nhân loại. Có như vậy, các khái niệm này mới tr thành những công c hữu ích trong nghiên cứu đ i sống văn học Việt Nam xưa, nay cũng như trong tương lai. 4. Ch ă nghƿaă nhână vĕnă nhưă mộtă h ă giáătr ăc aăvĕnăh c Với những đặc điểm như trên, CNNV như là cái đẹp - hơn nữa đó phải là những cái đẹp vượt trội - được kết tinh từ những quan niệm, thái độ, tư tư ng có tính chất triết học, đạo đức, văn hóa c a con ngư i về lòng yêu thương đối với con ngư i, sự mẫn cảm trước những khổ đau và bất hạnh c a con ngư i, trước những niềm vui sướng và sự hạnh phúc c a con ngư i; sự tin tư ng và bảo vệ con ngư i; sự tôn trọng và đề cao các giá trị, phẩm giá c a con ngư i, các quyền cơ bản và vĩnh cửu (“quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”) c a con ngư i; sự đấu tranh chống lại mọi ách áp bức bóc lột, những cái phi nhân trong xã hội… Tất cả những tư tư ng này đã tr thành những giá trị phổ quát c a nhân loại nói chung và văn học nói riêng. 153 T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM Số 1(66) năm 2015 _____________________________________________________________________________________________________________ Vì vậy, trong sáng tác, CNNV đã tr thành nguồn cảm hứng, khát vọng mãnh liệt c a ngư i nghệ sĩ trước những vấn đề phổ quát c a con ngư i và đ i sống xã hội. Trong bản thân mỗi tác phẩm, CNNV là cái làm nên chiều sâu bản chất nội dung tư tư ng và đối tượng diễn tả nghệ thuật c a văn học. Trong nghiên cứu và tiếp nhận, CNNV làm cảm động lòng ngư i, khơi dậy mỗi con ngư i, mỗi cộng đồng ngư i sự tự Ủ thức sâu sắc về đạo đức, phẩm cách, hạnh phúc và khổ đau, về trạng thái nhân sinh, về mâu thuẫn nội tại hoặc về nguyên nhân sâu xa c a hạnh phúc và khổ đau đó; về cái đẹp và cái xấu, về điều thiện và điều ác c a con ngư i trong đ i sống xã hội. Chính vì vậy, CNNV luôn được các nhà nghiên cứu văn học trong và ngoài nước xem như là một hệ giá trị, một phẩm chất c a văn học. Văn học nói chung, khoa nghiên cứu văn học nói riêng đã phải nhiều lần ngoảnh lại quá khứ, sàng lọc những sự việc, hiện tượng trong quá khứ c a dân tộc và nhân loại, đặt chúng trên bàn cân c a CNNV để tìm ra những hạt giống sai lầm và lệch lạc, chỉ ra những nguyên tắc thẩm mĩ, đạo đức, văn hóa cao đẹp c a con ngư i và đ i sống xã hội. Việt Nam, từ sau Đổi mới đến nay, giá trị nhân văn luôn được các nhà nghiên cứu văn học thừa nhận là hằng số c a văn học nghệ thuật. Vì vậy, chúng tôi cho rằng giá trị nhân văn sẽ và phải tr thành thước đo, tiêu chuẩn hàng đầu để xác định giá trị, sự tiến bộ trong lĩnh vực văn học nói riêng, trong lĩnh vực nghệ thuật nói chung. Đúng như N. Konrad đã viết: “Về nội dung xã hội, CNNV có lẽ là tư tưởng quan trọng nhất trong tất cả 154 những tư tưởng vĩ đại mà nhân loại đã đề ra trong suốt hàng ngàn năm lịch sử. Tư tưởng nhân văn chủ nghĩa là kết quả của sự tiếp nhận sâu sắc nhất kinh nghiệm lịch sử to lớn, là thành tựu mà con người nhận thức được trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ xã hội của mình. Về ý nghĩa xã hội, tư tưởng nhân văn chủ nghĩa là phạm trù đạo đức cao nhất. Nó luôn luôn là tiêu chí cao nhất của sự tiến bộ đối với nhân loại ngày nay” (dẫn theo [10, tr.12]). 5. K tălu n Nghiên cứu khái niệm CNNV, CNNĐ trong khoa nghiên cứu văn học Việt Nam trong khoảng th i gian gần 70 năm, chúng tôi nhận thấy CNNV, CNNĐ là những phạm trù lí luận, lịch sử, dân tộc quan trọng và phức tạp trong văn học. Cả hai khái niệm đều có chung điểm quy chiếu là hạnh phúc c a con ngư i. Nhưng giữa hai khái niệm cũng có những điểm khác biệt nhất định. Khái niệm CNNĐ thể hiện tinh thần đạo đức, đề cao lòng yêu thương con ngư i, đặc biệt là những ngư i lao động, còn khái niệm CNNV được sử d ng thể hiện tinh thần văn hóa, nhấn mạnh đến các giá trị ngư i, các quyền cơ bản c a con ngư i. Sự khác nhau này không chỉ đơn thuần là do cách dịch mà còn do truyền thống văn hóa c a dân tộc. CNNV là một hệ thống tư tư ng đan xen giữa nội sinh và ngoại nhập, giữa kế thừa và phát triển, có sức ảnh hư ng sâu và rộng. Vì vậy, CNNV với những tư tư ng nhân sinh cao đẹp được xem như là một hệ giá trị, một phẩm chất cao quỦ mà mọi nền văn học chân chính, cách mạng cần phải hướng đến. T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM Nguyễn Đăng Hai _____________________________________________________________________________________________________________ 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. 13. 14. 15. TĨIăLI UăTHAMăKH O Nguyễn Đăng Hai (2014), “Quan niệm về bản chất “nhân học” c a văn học trong các giáo trình lí luận văn học Việt Nam từ 1960 đến nay”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm TPHCM, số 55(89), tr.39 - 48. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, in lần thứ 3, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo d c. Đỗ Duy Minh (2006), “Bước ngoặt tinh thần trong triết học”, Tạp chí Triết học, số 7 (182), tr.31-38. Hà Thúc Minh (2006), “Ch nghĩa nhân văn và ch nghĩa nhân đạo”, Tạp chí Khoa học Xã hội, số 07 (95), tr.7-11. Hà Thúc Minh (2007), “Ch nghĩa nhân văn thế kỉ XXI”, Tạp chí Khoa học Xã hội, số 09+10 (109+110), tr.7-15. Nguyễn Lương Ngọc (1958), Sơ thảo nguyên lí văn học, Nxb Giáo d c, Hà Nội. Nguyễn Lương Ngọc ch biên (1980), Cơ sở lí luận văn học, tập 1, Nxb Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội. Huỳnh Như Phương (2010), Lí luận văn học (Nhập môn), Nxb Đại học Quốc gia TPHCM. Huỳnh Như Phương, Đề cương bài giảng môn Chủ nghĩa nhân văn trong văn học, Tài liệu đánh máy do tác giả cung cấp. Tổ Bộ môn Lí luận văn học các Trư ng Đại học Sư phạm Hà Nội, Vinh (1976), Cơ sở lí luận văn học, tập 1, Nxb Giáo d c. Tổ Bộ môn Lí luận văn học các Trư ng Đại học Sư phạm Hà Nội, Vinh và Đại học Tổng hợp (1978), Cơ sở lí luận văn học, tập 1, Nxb Giáo d c, tr.161, tr.72. y ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1989), Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học hiện đại: Những thành tựu lí luận về chủ nghĩa xã hội, (Sưu tập chuyên đề), Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Hà Nội. Lê Trí Viễn (1999), Quy luật phát triển lịch sử văn học Việt Nam, tái bản lần thứ nhất, Nxb Giáo d c. Perez Zagorin (2003), “On Humanism: Past and Present”, Daedalus, (132), P.87 92. (Ngày Tòa soạn nhận được bài: 03-10-2014; ngày phản biện đánh giá: 27-12-2014; ngày chấp nhận đăng: 20-01-2015) 155