Nguyễn Đăng Hai
T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM
_____________________________________________________________________________________________________________
KHÁIăNI MăCH ăNGHƾAăNHÂNăVĔNăVĨăCH ăNGHƾAăNHÂNăĐ Oă
TRONGăKHOAăNGHIÊNăC UăVĔNăH C
ăVI TăNAM T 1945ăĐ NăNAY
NGUYỄN ĐĂNG HAI*
TịMăT T
Trong khoa nghiên cứu văn học, Ch nghĩa nhân văn và Ch nghĩa nhân đạo
(Humanism) là những phạm trù lí luận, phạm trù lịch sử mà cho đến nay việc nhìn nhận,
đánh giá vẫn còn gây ra nhiều chia rẽ, trái nghịch. Vì vậy, bài viết đề cập đến hai vấn đề
cơ bản của khái niệm: (1) Khái quát về nguồn gốc, nội dung và ý nghĩa của khái niệm
humanism ở phương Tây; (2) Phân tích nội dung, ý nghĩa và các khuynh hướng khác nhau
trong việc sử dụng khái niệm Ch nghĩa nhân văn, Ch nghĩa nhân đạo trong khoa nghiên
cứu văn học ở Việt Nam từ 1945 đến nay.
Từ khóa: ch nghĩa nhân văn, ch nghĩa nhân đạo, ch nghĩa nhân bản, văn học Việt
Nam hiện đại, giá trị c a văn học.
ABSTRACT
The concepts Humanism and Humanitarianism in Vietnamese literary studies
from 1945 up to date
Humanism and Humanitarianism are theoretical and historical categories in
Vietnamese literary studies whose perceptions and assessments are still causing many
disputes. The article discusses two basic issues of the concepts: (1) An overview of the
origin, content and meaning of the concept of humanism in the West; (2) Analyzing of the
content, meaning and different trends in the use of the concepts Humanism and
Humanitarianism in Vienamese literary studies from 1945 up to date.
Keywords: Humanism, Humanitarianism, Modern Vietnamese Literature, value of
Literature.
Dẫnănh p
Trong khoa nghiên cứu văn học
Việt Nam, khái niệm Humanism đã được
tiếp nhận và chuyển dịch sang tiếng Việt
với hai khái niệm phổ biến là Chủ nghĩa
nhân văn (CNNV) và Chủ nghĩa nhân
đạo (CNNĐ). Đây là những từ ngữ Hán
Việt đã được sử d ng phổ biến, thư ng
xuyên trong nghiên cứu văn học hiện đại
Việt Nam, được xem như là một giá trị
phổ quát c a văn học. Nhưng thế nào là
1.
*
CNNV hay CNNĐ? CNNV hay CNNĐ
có Ủ nghĩa như thế nào đối với văn học?
ụ kiến về vấn đề này, mỗi giai đoạn,
mỗi nhà nghiên cứu văn học Việt Nam,
có nhiều quan niệm khác nhau. Trong khi
đó, chúng ta lại chưa có những công trình
chuyên sâu, có hệ thống bàn riêng về hai
thuật ngữ này trong thực tiễn c a khoa
nghiên cứu văn học Việt Nam. Vì vậy,
bài viết này, bước đầu chúng tôi phân
tích, lí giải nội hàm c a hai khái niệm
ThS, Trường Đ i h c Trà Vinh; Email: nguyendanghai84@gmail.com
143
T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM
Số 1(66) năm 2015
_____________________________________________________________________________________________________________
(trên bình diện lí thuyết). Qua đó, bài viết
sẽ chỉ ra sự khác biệt trong cách sử d ng
giữa hai khái niệm và những cơ s dẫn
đến sự khác biệt đó cũng như Ủ nghĩa c a
nó trong thực tiễn nghiên cứu văn học
Việt Nam.
Bài viết khảo sát và đánh giá cách
sử d ng các khái niệm CNNV, CNNĐ
c a những nhà nghiên cứu (ch yếu là
các nhà lí luận, phê bình)
các giáo
trình, chuyên luận, bài báo khoa học đăng
trên các tạp chí khoa học chuyên ngành
Văn học Việt Nam từ 1945 đến nay, tức
là từ khi khoa nghiên cứu văn học Việt
Nam ch yếu được tiến hành theo quan
điểm Marxist.
2.
T ă kháiă ni mă Humanism
ă
phươngăTây…
Khái niệm Humanism được sử d ng
lần đầu trong Anh ngữ là vào khoảng
năm 1806. Khái niệm này được chuyển
ngữ từ khái niệm Humanismus (gốc
Latin) trong tiếng Đức. Khái niệm
Humanismus được sử d ng phổ biến
Đức từ những năm 1806 để nói về
chương trình giáo d c các phẩm chất
Ngư i c a con ngư i trong các nhà
trư ng Đức. Năm 1856, nhà ngữ văn và
lịch sử ngư i Đức là Georg Voigt đã sử
d ng khái niệm Humanism để nói về
phong trào văn hóa th i kì Ph c hưng
(Renaissance) phương Tây (thế kỉ XIV
- XVI).
Trong ngôn ngữ c a các nước
phương Tây, Humanism phái sinh từ
tiếng Latin th i Trung cổ là Humanus, có
nghĩa là thuộc về con ngư i và
Humanitas, có nghĩa là môn học nghiên
cứu về con ngư i, nghiên cứu bản chất,
144
vị trí, giá trị, cá tính c a con ngư i. Kh i
nguyên c a humanism như là một chương
trình giáo d c - văn hóa được các nhà
triết học xây dựng nên b i các bài học, lí
luận triết học, đạo đức học về đạo làm
ngư i, được khai sinh lần đầu tiên Hi
Lạp vào khoảng thế kỉ V - IV TCN.
Chương trình này nhằm phát triển một
cách toàn diện tài năng và sự sáng tạo
cao nhất những năng lực bản chất c a
con ngư i. Mặc dù vậy, ngôn ngữ Hi Lạp
không có từ Humanism. Tuy nhiên, mối
quan tâm đối với con ngư i và những
chân giá trị c a họ luôn là tâm điểm trong
tư duy c a ngư i Hi Lạp. Sự quan tâm
này đã được thể hiện trong nhiều lĩnh vực
khác nhau như triết học, nghệ thuật, lịch
sử...
Th i kì Ph c hưng, trong văn học nghệ thuật nói riêng, trong văn hóa nói
chung, những tư tư ng nhân văn đã đơm
hoa kết trái, tr thành Humanism.
Humanism là trào lưu tư tư ng ch đạo,
xuyên suốt th i kì này. Nội dung tư
tư ng cơ bản c a nó là đặt con ngư i vào
vị trí trung tâm để đấu tranh chống lại Cơ
đốc giáo lấy thần làm trung tâm. Do đó,
nó thể hiện sự phản ứng mạnh mẽ chống
lại thần quyền và tôn giáo; đòi quyền
sống tự do, quyền hư ng th tự nhiên cho
con ngư i; khẳng định vẻ đẹp c a con
ngư i trần thế với những khả năng vô
tận. Từ đó, những khát vọng muôn thu
c a con ngư i như tình yêu, hạnh phúc,
cái đẹp, tự do, khoái lạc… đã được nâng
lên tầm vũ tr . Chính những tư tư ng
mới này đã làm xuất hiện những lí tư ng
mới về công bằng xã hội, hình thành
quan điểm đạo đức mới và nhấn mạnh, đề
T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM
Nguyễn Đăng Hai
_____________________________________________________________________________________________________________
cao các giá trị phổ quát c a con ngư i
như tự do, công lí, phẩm giá, hạnh phúc,
quyền con ngư i... Từ đây, những ngư i
theo Humanism được gọi là Humanist.
Đó là một nhóm nhỏ, có đặc quyền,
không quan tâm đến quảng đại quần
chúng, những ngư i nổi loạn chống lại vũ
tr học tr i Trung cổ, những ngư i theo
cá nhân luận (individualism) – họ muốn
là chính mình. Humanist đích thực, theo
nghĩa hẹp c a từ này, là chỉ những học
giả, những ngư i có tài, có kiến thức sâu
và rộng về ngôn ngữ và văn học Hi - La.
Họ cố Ủ làm sống lại một ngôn ngữ, một
nền văn hóa đã chết, đó là văn hóa Hi La Cổ đại. Vì vậy, họ chuyên tâm sưu
tầm, chú giải, khảo cứu nhằm ph c hồi
các văn bản c a các nhà tư tư ng th i Cổ
đại một cách chính xác; từ đó, dịch thuật
và công bố rộng rãi những tác phẩm này.
Ngày nay, nội hàm c a khái niệm
humanism rất rộng và đa nghĩa. Thông
thư ng, nó được hiểu theo hai nghĩa cơ
bản là nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo
nghĩa hẹp, khái niệm Humanism được
dùng để chỉ trào lưu triết học, văn hóa,
nghệ thuật tiến bộ th i kì Ph c hưng
châu Âu (thế kỉ XIV - XVI) hướng đến
việc giải phóng cá tính con ngư i khỏi
những ràng buộc và sự trì trệ c a tư
tư ng phong kiến, ch nghĩa kinh viện và
thần học Kitô giáo. Theo nghĩa rộng, khái
niệm Humanism dùng để chỉ bất kì học
thuyết, trào lưu tư tư ng, văn hóa, nghệ
thuật nào công nhận và lấy “con ngư i là
thực thể cao nhất đối với con ngư i” (K.
Marx). Từ đây, khái niệm này được sử
d ng rộng rãi và được xem như là một hệ
giá trị, một tiêu chuẩn phổ biến nhiều
lĩnh vực thuộc nhiều nền văn hóa khác
nhau trên thế giới, trong đó có khoa
nghiên cứu văn học Việt Nam.
3.
Đ nă kháiă ni mă Ch ă nghƿaă nhână
vĕn,ăCh ănghƿaănhânăđ oă ăVi tăNam
Khái niệm Humanism được chuyển
ngữ và sử d ng phổ biến trong khoa
nghiên cứu văn học Việt Nam vào nửa
cuối thế kỉ XX. Tuy nhiên, sự tiếp nhận
và chuyển ngữ ban đầu này không phải
trực tiếp từ văn hóa phương Tây mà được
thực hiện gián tiếp qua Hán ngữ. Do đó,
trong khoa nghiên cứu văn học Việt
Nam, Humanism thư ng được chuyển
ngữ phổ biến thành các từ ngữ Hán Việt
là CNNV hay CNNĐ. Và Humanist
thư ng được hiểu là Nhà nhân văn chủ
nghĩa hay Nhà nhân đạo chủ nghĩa.
Trong chữ Hán, trước khi tiếp nhận nội
hàm khái niệm Humanism c a phương
Tây, tồn tại cả hai khái niệm: Nhân đạo
và Nhân văn. Đây là hai khái niệm phổ
biến trong các lĩnh vực văn hóa, đạo đức,
triết học truyền thống Trung Hoa cũng
như các nước thuộc khu vực văn hóa chữ
Hán. Nó là sự tổng hòa các tư tư ng dân
ch th i Cổ đại, học thuyết “nhân nghĩa”
c a Nho giáo, tư tư ng “từ bi bác ái” c a
Phật giáo, những yếu tố giải phóng tư
duy con ngư i trong tư tư ng Lão –
Trang. Vì vậy, Nhân đạo (人 道) thư ng
được quan niệm là nhân luân, đạo lí c a
con ngư i; là những khuôn mẫu, quy tắc,
luật lệ c a con ngư i, những nhân tố để
con ngư i tr thành ngư i. Còn Nhân
văn (人 文) nguyên để chỉ cái văn vẻ, cái
tốt đẹp c a con ngư i trong xã hội như sự
hài hòa, sự hanh thông c a đất tr i, c a
đ i sống con ngư i; là những tri thức,
145
T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM
Số 1(66) năm 2015
_____________________________________________________________________________________________________________
đạo đức, quan hệ đ i sống hài hòa, tốt
đẹp cùng với lòng vị tha, yêu thương con
ngư i. Qua đó, chúng ta có thể nhận thấy
nghĩa c a thuật ngữ “nhân đạo” hay
“nhân văn” đây không thể đồng nhất
với thuật ngữ “humanism” c a phương
Tây. Nhưng tất cả các thuật ngữ này đều
có điểm chung là hướng đến con ngư i,
vì sự tiến bộ, hạnh phúc c a con ngư i
nói chung. Tuy nhiên, mỗi nền văn hóa,
mỗi th i đại có cách thể hiện, cách thực
hiện khác nhau.
Khoa nghiên cứu văn học
Việt
Nam đã sinh thành, tồn tại và phát triển
trong những truyền thống, cội nguồn văn
hóa – xã hội, tôn giáo, triết học, tư tư ng
khác biệt so với các nước khu vực và
trên thế giới. Chính điều này đã ảnh
hư ng, chi phối mạnh mẽ đến việc lựa
chọn, tiếp nhận, sử d ng khái niệm
CNNV hay CNNĐ trong khoa nghiên
cứu văn học
Việt Nam. Trong khoa
nghiên cứu văn học hiện đại Việt Nam,
tồn tại ba khuynh hướng phổ biến khác
nhau về khái niệm CNNV, CNNĐ.
3.1. Khuynh hướng đối lập Chủ nghĩa
nhân văn với Chủ nghĩa nhân đạo
Khuynh hướng đối lập CNNĐ và
CNNV diễn ra phổ biến trong suốt một
th i gian dài, được thể hiện trực tiếp hoặc
gián tiếp một số giáo trình, tiểu luận,
bài báo về lí luận, phê bình văn học từ
cuối thập niên 50 đến cuối thập niên 80
c a thế kỉ XX.
giai đoạn này, sự đối
lập được thể hiện mạnh mẽ trong một số
bộ giáo trình sử d ng trong các trư ng
đại học, cao đẳng: Sơ thảo nguyên lí văn
học c a Nguyễn Lương Ngọc (Nxb Đại
học và Trung học Chuyên nghiệp, 1958),
146
Sơ thảo nguyên lí văn học c a nhóm tác
giả Nguyễn Lương Ngọc, Trần Văn Bính,
Nguyễn Văn Hoàn (Nxb Giáo d c, 1961),
Cơ sở lí luận văn học c a Tổ Bộ môn Lí
luận Văn học các Trư ng Đại học Sư
phạm Hà Nội, Vinh và Đại học Tổng hợp
(Nxb Giáo d c, 1976, 1978), Cơ sở lí
luận văn học c a Nguyễn Lương Ngọc
ch biên (1980 - 1985), Nhìn lại tư tưởng
văn nghệ thời Mĩ Ngụy c a Lê Đình Kỵ
(Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1987)…
Trong khoa nghiên cứu văn học
Việt Nam giai đoạn này, khái niệm
CNNV thư ng được các nhà nghiên cứu
sử d ng để nói về tinh thần c a th i đại
Ph c hưng, có nguồn gốc từ phương Tây.
Từ đó, khái niệm CNNV thư ng được
dùng để chỉ những tư tư ng c a giai cấp
tư sản nói chung. Ngược lại, khái niệm
CNNĐ được dùng để chỉ những tư tư ng
c a giai cấp vô sản với cơ s lí luận là
triết học Marx – Lenin và lí luận c a ch
nghĩa cộng sản khoa học, chứng minh
rằng tiền đề cần thiết cho sự phát triển
toàn diện và hài hòa c a tất cả mọi ngư i,
cho tự do chân chính c a cá nhân là phải
giải phóng ngư i lao động khỏi áp bức xã
hội và xây dựng ch nghĩa cộng sản. Tuy
nhiên, đôi khi khái niệm CNNĐ cũng
được một số nhà nghiên cứu sử d ng để
nói về phong trào văn hóa th i kì Ph c
hưng, chỉ những tư tư ng c a giai cấp tư
sản. Vì vậy, để phân biệt CNNĐ c a giai
cấp vô sản với CNNĐ c a giai cấp tư
sản, các nhà nghiên cứu thư ng dùng
những tên gọi có tính chất chỉ dẫn, định
giá. CNNĐ c a giai cấp tư sản thư ng
được gọi bằng những từ ngữ có tính chất
phê phán, ph định như “CNNĐ tư sản”,
T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM
Nguyễn Đăng Hai
_____________________________________________________________________________________________________________
“CNNĐ trừu tượng”, “CNNĐ chung
chung”... Ngược lại, để gọi CNNĐ c a
giai cấp vô sản, các nhà lí luận thư ng
gọi bằng những từ ngữ thể hiện sự ca
ngợi, khẳng định như “CNNĐ cộng sản”,
“CNNĐ cách mạng”, “CNNĐ tích cực”
hay gọi ngắn gọn là “CNNĐ”.
Nội hàm khái niệm CNNĐ được
thể hiện trên nhiều bình diện thuộc về đặc
trưng, bản chất c a văn học như đối
tượng, nội dung, tư tư ng, chức năng c a
văn học. Văn học được xem như là khoa
nhân học. “Nhân học” đây lại chỉ được
hiểu là những ngư i lao động bình dân, là
quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, quan
niệm về “nhân dân” đây chỉ bao gồm
những “công, nông, binh”, đặc biệt là
những ngư i lao động nghèo khổ, những
ngư i bình dân chứ không phải là mọi
ngư i dân thuộc các tầng lớp, giai cấp
khác nhau trong xã hội. Do đó, những
ngư i “bình thư ng”, những “cô”, “cậu”,
“chàng”, “nàng”; hay những “ông
hoàng”, “bà chúa”, những “kẻ quỦ tộc”,
những “bọn giàu có”… chưa được xem là
“nhân dân”. Về mặt nội dung c a “nhân
học”, các nhà nghiên cứu chỉ thừa nhận
sự khác biệt về mặt giai cấp, ph nhận
tính ngư i c a con ngư i. Do đó, khi
miêu tả quần chúng nhân dân, “nhà văn
lại phải tập trung khai thác những mặt
bản chất, tích cực nhất, anh hùng nhất
của quần chúng lao động. Cần triệt để
phê phán quan niệm sai lầm chỉ miêu tả
những nét tầm thường, bản năng, hoặc
miêu tả những kiểu người “bình thường”
[12, tr.161]. Chính vì vậy, có nhiều nhà
nghiên cứu đã đồng nhất đối tượng c a
văn học với cuộc đấu tranh giai cấp, đồng
nhất con ngư i với con ngư i giai cấp:
“đối tượng của văn học là con người (hay
là cuộc đấu tranh xã hội) mà trong xã hội
có giai cấp thì con người và cuộc đấu
tranh xã hội luôn luôn có tính giai cấp”
[12, tr.72]. Từ đó, các nhà lí luận thư ng
ph nhận và gạt bỏ những mặt tự nhiên,
bản năng, cá tính, cá nhân trong mỗi con
ngư i ra khỏi nội hàm khái niệm CNNĐ.
Qua đó, chúng ta có thể nhận thấy,
nội hàm khái niệm CNNĐ trong khoa
nghiên cứu văn học theo khuynh hướng
này bao gồm bốn đặc điểm chính là: (1)
Yêu thương quần chúng nhân dân; (2)
Phát hiện và biểu hiện những phẩm chất
tốt đẹp, những mặt tích cực nhất, anh
hùng nhất c a quần chúng nhân dân; (3)
Thể hiện tinh thần đấu tranh, phản kháng
chống lại ách áp bức, bóc lột nhằm giải
phóng nhân dân, giải phóng dân tộc; và
(4) Tin tư ng tuyệt đối năng lực, khả
năng sáng tạo c a quần chúng nhân dân.
Trong bốn đặc điểm trên, các nhà
nghiên cứu đặc biệt nhấn mạnh đến tinh
thần đấu tranh giải phóng dân tộc, chống
áp bức bóc lột nhân dân. Đây là tư tư ng
hạt nhân c a khái niệm CNNĐ giai đoạn
này. Do đó, văn học được xem là một
“mặt trận tư tư ng” và các nhà nhân đạo
ch nghĩa phải là những “chiến sĩ” cách
mạng lăn lộn trên “mặt trận” ấy để đấu
tranh giải phóng dân tộc, giải phóng nhân
dân. Vì vậy, có thể nói rằng CNNĐ th i
kì này là CNNĐ hành động, hành động
để thay đổi vận mệnh, giải phóng nhân
dân, giải phóng dân tộc, hành động để
biến một thế giới phi nhân thành thế giới
có nhân tính. Đây cũng là một trong
những đặc điểm c a CNNV theo quan
147
T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM
Số 1(66) năm 2015
_____________________________________________________________________________________________________________
điểm Marxist. Trần Văn Bính đã viết:
“CNNV thời Phục hưng mới chỉ chú ý đi
sâu nghiên cứu con người, nói lên những
ước mơ to lớn của con người. CNNĐ xã
hội chủ nghĩa không dừng lại ở đó. Văn
học nghệ thuật xã hội chủ nghĩa có mục
đích góp phần giải phóng triệt để con
người, mà muốn giải phóng triệt để con
người thì phải chống áp bức bóc lột. Văn
học nghệ thuật của chúng ta trước hết là
văn học nghệ thuật của những người lao
động, của quần chúng nhân dân. Nó biết
phát hiện những phẩm chất tốt đẹp ở
những người lao động vì nó tin tưởng
tuyệt đối ở khả năng sáng tạo tuyệt vời
của họ. Văn học nghệ thuật của ta phải
lấy công, nông, binh làm nhân vật chủ
yếu. Các văn nghệ sĩ của chúng ta là
những nhà chiến sĩ lăn lộn trong cuộc
đấu tranh cách mạng nhằm giải phóng
con người…” [11, tr.35].
Theo khuynh hướng này, khái niệm
CNNĐ cũng thể hiện sự quan tâm đến
con ngư i, vì con ngư i nhưng mới chỉ là
một bộ phận ngư i trong xã hội. Đó là
những con ngư i đạo đức, con ngư i
cộng đồng, con ngư i giai cấp, con ngư i
chính trị chứ chưa phải là những con
ngư i tự nhiên, con ngư i cá nhân, cá
thể. Trong mỗi con ngư i, các nhà nghiên
cứu lại mới chỉ dừng lại việc phản ánh
những mặt tích cực nhất, anh hùng nhất.
Do đó, CNNĐ thư ng bị đồng nhất với
đạo đức cách mạng, tinh thần đấu tranh
giai cấp, giải phóng dân tộc, đồng nhất
với cái đẹp, cái cao cả. Cho nên, những
tư tư ng ngược lại như tự do cá nhân,
yếu tố vô thức, bản năng, d c vọng…
trong văn học bị xem là phi nhân đạo. Vì
148
thế, các nhà nghiên cứu kịch liệt phê
phán, đấu tranh loại bỏ những tác phẩm
văn học, những nhà văn có những tư
tư ng như trên, b i vì nó: “làm hư hỏng
con người, kích thích những bản năng
đầy thú tính trong con người với mục
đích dựng lên một thứ đạo đức cá nhân
chủ nghĩa, phản nhân đạo” [8, tr.115].
Vấn đề cơ bản c a CNNV hay
CNNĐ chính là vấn đề con ngư i, là mọi
kiếp ngư i nói chung. Trong thực tế, vì
sự chi phối mạnh b i Ủ thức về giai cấp,
lập trư ng chính trị nên hai khái niệm
này lại được dùng như là sự đối kháng về
mặt giai cấp, về mặt chính trị. Khái niệm
CNNV được dùng để chỉ những tư tư ng
c a giai cấp tư sản, gắn liền với Ủ thức hệ
tư sản: “Phi nhân đạo hóa nội dung tư
tưởng của tác phẩm là đặc điểm nổi bật
của sự suy đồi và sụp đổ của văn học tư
sản” [8, tr.137]. Ngược lại, khái niệm
CNNĐ được dùng như là sự ưu việt c a
những tư tư ng cách mạng c a giai cấp
vô sản. Thiết nghĩ, đây là sự phân biệt
mang tính định kiến, không phù hợp. Các
nhà nghiên cứu chưa thể hiện được tinh
thần dân ch , đối thoại, bình đẳng giữa
các hệ tư tư ng nên cũng chưa nhìn nhận
hết những giá trị tư tư ng c a CNNV. Do
đó, trong giai đoạn này, công tác định
hướng sáng tác, nghiên cứu và tiếp nhận
văn học Việt Nam còn nhiều hạn chế,
phiến diện. Chúng ta có sự đánh giá chưa
phù hợp, thậm chí thiên lệch giá trị nhiều
tác phẩm văn học, nhiều nhà văn Việt
Nam và nước ngoài. Có thể, đây là một
trong những lí do khiến giai đoạn này
chúng ta chưa có được những tác phẩm
văn học lớn, có giá trị phổ quát. Chính sự
Nguyễn Đăng Hai
T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM
_____________________________________________________________________________________________________________
tuyệt đối hóa, sự đánh giá chưa phù hợp
này dẫn đến việc lựa chọn, tiếp nhận các
giá trị văn hóa c a dân tộc và nhân loại bị
hạn chế, thiếu khách quan.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình
trạng đó. Theo chúng tôi, một trong
những nguyên nhân đó là truyền thống
“văn dĩ tải đạo” c a dân tộc. Đồng th i, lí
luận văn học Marxist vốn xem văn học là
một hình thái Ủ thức xã hội, nhấn mạnh
mối liên hệ máu thịt giữa văn học với
hiện thực cuộc sống và cuộc đấu tranh tư
tư ng, đấu tranh giai cấp trong đ i sống
xã hội. Trong các chức năng c a văn học,
các nhà lí luận đặc biệt đề cao chức năng
giáo d c, xây dựng “con ngư i mới” c a
văn học. Vì vậy, khi bình giá văn học,
các nhà lí luận thư ng chăm chú vào nội
dung tư tư ng, tính chiến đấu c a tác
phẩm. Trong mặt tư tư ng, các nhà lí
luận lại có biểu hiện tuyệt đối hóa tư
tư ng chính trị như tính Đảng, tính giai
cấp... c a văn học. Bên cạnh đó, đây là
giai đoạn đất nước đang có chiến tranh.
Cho nên, từ sự đối kháng ngoài chiến
trư ng đã dẫn đến những đối kháng về
mặt tư tư ng và học thuật. Nhiệm v đấu
tranh giải phóng dân tộc phải được đặt
lên hàng đầu. Từ đó, tiêu chuẩn chính trị
phải được xem là tiêu chí hàng đầu. Và,
một tác phẩm, một nhà văn, một trào lưu
hay giai đoạn văn học có giá trị, tiến bộ
luôn phải “tốt về chính trị”. Vì quá đề cao
giá trị chính trị nên xem nhẹ giá trị nhân
văn, giá trị thẩm mĩ c a văn học. Cái đẹp
thư ng bị đồng nhất với lí tư ng cách
mạng, với đấu tranh giai cấp.
3.2. Khuynh hướng đồng nhất Chủ
nghĩa nhân văn với Chủ nghĩa nhân
đạo
Khuynh hướng này diễn ra ch yếu
từ sau những năm 80 c a thế kỉ XX đến
nay, thể hiện trong một số chuyên luận,
giáo trình, bài viết và các từ điển văn học
phổ biến
Việt Nam. Chẳng hạn như
chuyên luận Đặc điểm có tính quy luật
của lịch sử văn học Việt Nam c a Lê Trí
Viễn (Trư ng Đại học Sư phạm TPHCM,
1984), một số bài viết trong bộ sưu tập
chuyên đề Chủ nghĩa nhân đạo trong văn
học hiện đại (Viện Thông tin Khoa học
Xã hội, 1989, Hà Nội), Lí luận và văn
học c a Lê Ngọc Trà (Nxb Trẻ, 1990),
bài viết trên các tạp chí chuyên ngành:
“Trào lưu tư tư ng nhân đạo ch nghĩa
trong văn học Việt Nam thế kỉ XVIII”
c a Nguyễn Đức Đàn (Nghiên cứu Văn
học, số 1, 1961); các từ điển văn học: Từ
điển thuật ngữ văn học c a nhóm tác giả
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi ch biên (Nxb Giáo d c, 2006), Từ
điển văn học (Bộ mới) c a Đỗ Đức Hiểu,
Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần
Hữu Tá ch biên (Nxb Thế giới, 2004)…
Khác với khuynh hướng trước,
khuynh hướng này, các nhà nghiên cứu
lại đồng nhất hai khái niệm CNNV và
CNNĐ. Các nhà lí luận không còn xem
hai khái niệm này như là cách thể hiện sự
đối kháng về Ủ thức hệ, về lập trư ng giai
cấp và chính trị. Do đó, những khái niệm
có Ủ nghĩa định giá như “CNNĐ trừu
tượng”, “CNNĐ tư sản”, “CNNĐ cộng
sản”... cũng dần dần mất đi trong các
công trình nghiên cứu văn học
Việt
Nam. Nay, các công trình nghiên cứu chỉ
còn gọi chung là CNNV hay CNNĐ. Nói
về hệ thống những tư tư ng nảy sinh
149
T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM
Số 1(66) năm 2015
_____________________________________________________________________________________________________________
trong phong trào văn hóa th i kì Ph c
hưng châu Âu, có tác giả gọi là CNNĐ,
có tác giả lại gọi là CNNV. Đặc biệt,
khác với giai đoạn trước, trong các công
trình nghiên cứu văn học những năm gần
đây, các nhà nghiên cứu lại có khuynh
hướng ưu tiên sử d ng khái niệm CNNV.
Vì vậy, khái niệm CNNV xuất hiện ngày
càng nhiều trong các công trình nghiên
cứu văn học Việt Nam. Đây cũng là
một biểu hiện cho thấy tinh thần nhận
thức lại khái niệm CNNV, CNNĐ trong
khoa nghiên cứu văn học
Việt Nam
những năm gần đây.
So với khuynh hướng đối lập giai
đoạn trước 1986, nội hàm và ngoại diên
c a khái niệm CNNV trong văn học ít
nhiều cũng đã được điều chỉnh. Khái
niệm CNNV đã từng bước được thay đổi,
bổ sung và hoàn thiện dựa trên các giá trị
c a dân tộc và sự tiếp thu tinh hoa văn
hóa c a nhân loại, đặc biệt là sự bổ sung
các giá trị từ nền văn hóa c a phương
Tây. Do đó, nội hàm c a khái niệm cũng
đã được điều chỉnh trên nhiều bình diện
khác nhau c a văn học, từ việc lựa chọn
đối tượng đến cách thức biểu hiện nội
dung, tư tư ng và chức năng c a văn học.
Về việc lựa chọn đối tượng phản ánh c a
văn học, một mặt các nhà nghiên cứu vẫn
tiếp t c khẳng định “văn học là nhân
học”. Mặt khác, quan niệm về “nhân
học” c a các nhà nghiên cứu cũng đã có
sự điều chỉnh theo hướng tiến bộ hơn,
hợp lí hơn.
một số công trình, quan
niệm về “nhân học” trong văn học ít bị lệ
thuộc vào các yếu tố như giai cấp, dân
tộc, lập trư ng chính trị, địa vị, hoàn
cảnh xuất thân. Con ngư i với tư cách là
150
đối tượng c a văn học th i kì này đã có
sự m rộng. Đó là những con ngư i
thuộc nhiều tầng lớp, giai cấp, dân tộc
các th i đại khác nhau. Một số nhà
nghiên cứu không chỉ khẳng định và đề
cao con ngư i cộng đồng mà còn có cả
những con ngư i cá nhân, cá thể. Trong
mỗi con ngư i, một số nhà nghiên cứu
không những chỉ dừng lại việc phản
ánh, ca ngợi cái đẹp, cái cao cả mà còn
phơi bày cả những cái bi, cái xấu, cái ác
c a con ngư i trong văn học. Đúng như
Huỳnh Như Phương đã viết: “Một tác
phẩm văn học viết về cuộc sống và con
người của dân tộc này có thể làm xúc
động công chúng của nhiều dân tộc khác.
Một tác phẩm tái hiện thời đại đã xa vẫn
có thể lay động tâm tư của con người
những thời đại mới. Một tác phẩm thể
hiện số phận bi kịch của nhân vật thuộc
một tầng lớp cao sang vẫn làm chảy nước
mắt những người đọc bình dân…” [9,
tr.35].
Theo các nhà nghiên cứu thuộc
khuynh hướng này, khái niệm CNNV
thư ng được xem xét từ hai cấp độ ch
yếu là cấp độ thế giới quan và cấp độ lịch
sử.
cấp độ thế giới quan, các nhà
nghiên cứu đã chú Ủ đến các “giá trị
ngư i” c a con ngư i nói chung. Do đó,
CNNV được xem là “toàn bộ những tư
tưởng, quan điểm, tình cảm, quý trọng
các giá trị người” [2, tr.75-76]. Từ đây,
các thuộc tính, phẩm chất tinh thần c a
con ngư i như khả năng cảm th , khám
phá bản thân và thế giới, khả năng sáng
tạo được chú Ủ và đề cao; con ngư i
không chỉ biết khám phá và cảm th thế
giới bên ngoài mà còn biết khám phá và
T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM
Nguyễn Đăng Hai
_____________________________________________________________________________________________________________
cảm th chính bản thân mình. Bên cạnh
con ngư i cộng đồng, giai cấp, con ngư i
cá nhân, cá thể cũng đã được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm với một thái độ trân
trọng, xem sự phát triển toàn diện c a cá
nhân là điều kiện cho sự phát triển c a
mọi ngư i. Các nhà nghiên cứu đã từng
bước thừa nhận “tình yêu nhân loại” [7,
tr.15], tức tính ngư i (tuy còn hạn chế và
chỉ xuất hiện một số giáo trình, chuyên
luận), những giá trị chung, phổ biến c a
con ngư i nói chung.
Đặc biệt, khác với khuynh hướng
trước, đây, các nhà nghiên cứu đã có sự
thay đổi lớn khi cho rằng “CNNV không
phải là một khái niệm đạo đức đơn
thuần” [2, tr.76]. Vì vậy, con ngư i cần
được xem xét, đánh giá trên nhiều mặt,
trong những mối quan hệ đan xen khác
nhau: lịch sử, tự nhiên, xã hội, đồng loại,
dựa trên tinh thần dân ch , đối thoại.
cấp độ lịch sử, CNNV được xem
là “một trào lưu văn hóa - tư tưởng nảy
sinh ở Italia và một số nước khác ở châu
Âu thời Phục hưng (thế kỉ XIV - XVI)” [2,
tr.76]. Và nội dung cơ bản c a nó là “chủ
trương giải phóng văn học nghệ thuật nói
riêng và văn hóa nói chung khỏi sự bảo
trợ của nhà thờ Cơ đốc giáo và giải
phóng cá nhân con người” [2, tr.76].
Những tư tư ng này vốn đã tồn tại trong
văn học dân gian, trong nền văn hóa tinh
thần các dân tộc th i cổ, nhưng chỉ đến
th i kì Ph c hưng nó mới tr thành một
trào lưu.
Có thể nói, dù là cấp độ thế giới
quan hay cấp độ lịch sử, con ngư i đây
đã được quan niệm toàn diện và đầy đ
hơn. Con ngư i trong khoa nghiên cứu
văn học không chỉ là những ngư i nghèo
khổ, là quần chúng nhân dân mà là “mọi
kiếp ngư i” (Tố Hữu) nói chung trong xã
hội. Bên cạnh con ngư i cộng đồng, con
ngư i cá nhân, cá thể với các giá trị
ngư i phổ quát cũng đã được chú Ủ và
khẳng định. Tuy nhiên, “các giá trị
ngư i” đây là gì thì vẫn chưa được các
nhà nghiên cứu văn học tập trung làm rõ.
Đồng th i, bên cạnh cái đẹp, cái cao cả,
các phạm trù khác như cái xấu, cái ác, cái
bi c a con ngư i cũng đã được nhiều nhà
nghiên cứu chú Ủ, xem xét.
Nh những thay đổi trên mà “Con
người đã được văn học khám phá, soi
chiếu ở nhiều bình diện, tầng bậc: ý thức
và vô thức, đời sống tư tưởng, tình cảm
và đời sống tự nhiên, bản năng, khát
vọng cao cả và dục vọng tầm thường, con
người cụ thể, cá biệt và con người trong
tính nhân loại phổ quát” [3, tr.16]. Chúng
ta cũng đã có những nhìn nhận, đánh giá
khách quan hơn về một số hiện tượng văn
học mà trước đây bị phê phán như Tự lực
văn đoàn, Nhân văn giai phẩm…
Những thay đổi trên phản ánh kết
quả c a những đổi mới sâu sắc về mặt
nhận thức và tư tư ng Việt Nam. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986),
tiếp đó là Nghị quyết 05 c a Bộ Chính trị
và cuộc gặp gỡ c a Tổng Bí thư Nguyễn
Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ
(1987) đã thể hiện tinh thần đổi mới tư
duy, nhìn thẳng vào sự thật, tôn trọng các
quy luật khách quan c a đ i sống. Bên
cạnh đó, sự mạnh dạn tiếp thu, khai thác
nhiều quan niệm lí luận văn học tiến bộ
c a nhân loại, trong đó có cả những quan
niệm trước đây bị coi là “suy đồi”, “phản
151
T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM
Số 1(66) năm 2015
_____________________________________________________________________________________________________________
động” xa lạ với dân tộc, bị lên án gay gắt,
đã góp phần bổ sung hệ thống lí luận văn
học c a nước nhà. Những thay đổi này đã
tạo luồng sinh khí mới, khơi dậy những
tìm tòi, suy ngẫm mới về con ngư i, về
CNNV. Một thực tế nữa là thực tiễn sáng
tác văn học Việt Nam giai đoạn này
cũng đòi hỏi các nhà nghiên cứu cần phải
thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá về con
ngư i trong văn học. Đây là những cơ s
quan trọng cho sự “ph c sinh” khái niệm
CNNV trong khoa nghiên cứu văn học
Việt Nam.
Như vậy, những quan niệm này đã
tiệm tiến đến quan niệm chung c a thế
giới, có nhiều điểm tương đồng với khái
niệm CNNV c a phương Tây. Các nhà
nghiên cứu có xu hướng lấy các giá trị
phương Tây làm hình mẫu, tiến gần đến
những giá trị phổ quát c a nhân loại. Tuy
quan niệm này tạo sự thuận tiện, dễ dàng
và thống nhất trong cách sử d ng các
khái niệm nhưng lại chưa thể hiện được
tính đặc thù như tính lịch sử, tính dân tộc
c a các khái niệm. Truyền thống và thực
tiễn đ i sống văn hóa - văn học c a Việt
Nam và các nước phương Tây không
giống nhau, nên không thể lấy hệ thống lí
luận phương Tây áp đặt vào Việt Nam.
Nếu truyền thống văn học phương Tây
thiên về tìm kiếm chân lí, ít chú Ủ đến
những tác hại về đạo lí, xã hội thì truyền
thống văn học Việt Nam lại thiên về sự
hài hòa, coi trọng đạo lí. Nếu xã hội
phương Tây lấy cá nhân làm gốc thì xã
hội Việt Nam lại lấy cộng đồng làm gốc.
Nếu CNNV
phương Tây chịu ảnh
hư ng b i truyền thống văn hóa Hi – La,
tinh thần Ki tô giáo, tinh thần duy lí c a
152
triết học thì CNNV Việt Nam lại chịu
ảnh hư ng b i truyền thống Văn Lang –
Âu Lạc, tinh thần nguyên hợp c a tam
giáo: Nho – Phật – Lão, tinh thần biện
chứng c a triết học Marxist. Vì vậy,
chúng tôi cho rằng trong khoa nghiên cứu
văn học Việt Nam không thể đồng nhất,
lại càng không nên có sự đối lập giữa hai
khái niệm CNNV và CNNĐ. Do đó,
chúng ta cần có sự phân biệt thỏa đáng
giữa hai khái niệm này.
3.3. Khuynh hướng phân biệt Chủ
nghĩa nhân văn với Chủ nghĩa nhân
đạo
Khuynh hướng này xuất hiện khá ít
trong các công trình nghiên cứu văn học
hiện đại Việt Nam. Khuynh hướng này
diễn ra ch yếu từ cuối những năm 90
c a thế kỉ XX đến nay trong một số
chuyên luận như Quy luật phát triển lịch
sử văn học Việt Nam c a Lê Trí Viễn
(Nxb Giáo d c, tái bản lần thứ nhất,
1999), Con người nhân văn trong thơ ca
sơ kì trung đại c a Đoàn Thị Thu Vân
(Nxb Giáo d c, 2007)…
So với hai khuynh hướng trên,
những ngư i theo khuynh hướng này ch
trương phân biệt hai khái niệm CNNV và
CNNĐ dựa trên tính chất triết học, văn
hóa, đạo đức. Các nhà nghiên cứu cho
rằng khái niệm khái niệm CNNV thiên về
phạm trù văn hóa, đó là những giá trị tốt
đẹp c a con ngư i như tâm hồn, tình
cảm, phẩm cách, trí tuệ; là những “phẩm
chất người ở con người trong tư cách là
con người” [14, tr.198]. Còn khái niệm
CNNĐ nhấn mạnh đến khía cạnh đạo
đức, tức là “bất kì cái gì tôn trọng, tin
tưởng, ca ngợi, đề cao, thương yêu, bảo
T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM
Nguyễn Đăng Hai
_____________________________________________________________________________________________________________
vệ, phát huy, phát triển con người, đó là
nhân đạo, ngược lại là vô nhân đạo” [14,
tr.198].
Bàn về sự khác nhau giữa CNNV
và CNNĐ, Lê Trí Viễn cho rằng: “Có thể
coi nhân văn rộng nhưng không sâu,
nhân đạo sâu và rộng. Nhân văn là con
người nhìn bản thân mình, nhân đạo vừa
là mình tự nhìn mình vừa là kẻ khác nhìn
mình. Nhân đạo chừng nào có cao hơn
nhân văn một bậc, cả hai đều là hai cấp
độ phẩm giá của con người, và dính liền
nhau” [14, tr.198]. CNNV hay CNNĐ
đều là những quan niệm và thái độ c a
con ngư i đối với chính con ngư i và thế
giới. Vì vậy, theo chúng tôi khó mà phân
hạng và cũng không thể, không nên có sự
phân hạng cao hay thấp. Mỗi bên có một
điểm nhìn, một góc nhìn riêng. Nên tất
yếu sẽ có những kết quả, thái độ không
giống nhau. Do đó, chúng tôi cho rằng
không thể nói “nhân đạo (…) cao hơn
nhân văn một bậc”. Đây là sự nhìn nhận
chưa thỏa đáng về tinh thần, giá trị c a cả
hai khái niệm. CNNV không chỉ là sự tự
nhận thức về bản thân mình mà nó còn
bao hàm cả sự tự nhận thức về mối quan
hệ giữa cá nhân với cộng đồng, với xã
hội, với thế giới tự nhiên và với thế giới
siêu nhiên. Trong bối cảnh đa dạng văn
hóa hiện nay, CNNV còn là sự “thể hiện
tư tưởng về đạo đức phổ quát” [4, tr.33]
c a nhân loại. Cho nên, trong sự phong
phú, đa dạng và tinh tế c a tiếng Việt,
chúng tôi cho rằng, trong khoa nghiên
cứu văn học Việt Nam nên xem khái
niệm CNNĐ như “một quan niệm và thái
độ có tính chất luân lí, đạo đức, thể hiện
lòng thương yêu con người, sự nhạy cảm
trước nỗi khổ đau, bất hạnh của con
người” [10, tr.5] còn khái niệm CNNV
như “một quan niệm và thái độ có tính
chất văn hóa trong việc đề cao giá trị con
người. Khi những quan niệm, thái độ có
tính chất triết học, đạo đức nói trên kết
tinh thành cái đẹp như một giá trị thì đó
là chủ nghĩa nhân văn” [10, tr.5]. Chúng
ta trân trọng, kế thừa các giá trị c a
truyền thống nhưng đồng th i cũng phải
có Ủ thức tiếp nhận, bổ sung các giá trị
mới c a nhân loại; Ủ thức rõ ràng truyền
thống không phải lúc nào cũng đ để giải
quyết những vấn đề mới xuất hiện và sẽ
nảy sinh. Vì vậy, các khái niệm này cũng
cần luôn có sự tiếp biến các giá trị mới
c a nhân loại. Có như vậy, các khái niệm
này mới tr thành những công c hữu ích
trong nghiên cứu đ i sống văn học Việt
Nam xưa, nay cũng như trong tương lai.
4.
Ch ă nghƿaă nhână vĕnă nhưă mộtă h ă
giáătr ăc aăvĕnăh c
Với những đặc điểm như trên,
CNNV như là cái đẹp - hơn nữa đó phải
là những cái đẹp vượt trội - được kết tinh
từ những quan niệm, thái độ, tư tư ng có
tính chất triết học, đạo đức, văn hóa c a
con ngư i về lòng yêu thương đối với
con ngư i, sự mẫn cảm trước những khổ
đau và bất hạnh c a con ngư i, trước
những niềm vui sướng và sự hạnh phúc
c a con ngư i; sự tin tư ng và bảo vệ
con ngư i; sự tôn trọng và đề cao các giá
trị, phẩm giá c a con ngư i, các quyền cơ
bản và vĩnh cửu (“quyền sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc”) c a
con ngư i; sự đấu tranh chống lại mọi
ách áp bức bóc lột, những cái phi nhân
trong xã hội… Tất cả những tư tư ng này
đã tr thành những giá trị phổ quát c a
nhân loại nói chung và văn học nói riêng.
153
T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM
Số 1(66) năm 2015
_____________________________________________________________________________________________________________
Vì vậy, trong sáng tác, CNNV đã tr
thành nguồn cảm hứng, khát vọng mãnh
liệt c a ngư i nghệ sĩ trước những vấn đề
phổ quát c a con ngư i và đ i sống xã
hội. Trong bản thân mỗi tác phẩm,
CNNV là cái làm nên chiều sâu bản chất
nội dung tư tư ng và đối tượng diễn tả
nghệ thuật c a văn học. Trong nghiên
cứu và tiếp nhận, CNNV làm cảm động
lòng ngư i, khơi dậy mỗi con ngư i,
mỗi cộng đồng ngư i sự tự Ủ thức sâu sắc
về đạo đức, phẩm cách, hạnh phúc và khổ
đau, về trạng thái nhân sinh, về mâu
thuẫn nội tại hoặc về nguyên nhân sâu xa
c a hạnh phúc và khổ đau đó; về cái đẹp
và cái xấu, về điều thiện và điều ác c a
con ngư i trong đ i sống xã hội. Chính
vì vậy, CNNV luôn được các nhà nghiên
cứu văn học trong và ngoài nước xem
như là một hệ giá trị, một phẩm chất c a
văn học. Văn học nói chung, khoa nghiên
cứu văn học nói riêng đã phải nhiều lần
ngoảnh lại quá khứ, sàng lọc những sự
việc, hiện tượng trong quá khứ c a dân
tộc và nhân loại, đặt chúng trên bàn cân
c a CNNV để tìm ra những hạt giống sai
lầm và lệch lạc, chỉ ra những nguyên tắc
thẩm mĩ, đạo đức, văn hóa cao đẹp c a
con ngư i và đ i sống xã hội.
Việt Nam, từ sau Đổi mới đến
nay, giá trị nhân văn luôn được các nhà
nghiên cứu văn học thừa nhận là hằng số
c a văn học nghệ thuật. Vì vậy, chúng tôi
cho rằng giá trị nhân văn sẽ và phải tr
thành thước đo, tiêu chuẩn hàng đầu để
xác định giá trị, sự tiến bộ trong lĩnh vực
văn học nói riêng, trong lĩnh vực nghệ
thuật nói chung. Đúng như N. Konrad đã
viết: “Về nội dung xã hội, CNNV có lẽ là
tư tưởng quan trọng nhất trong tất cả
154
những tư tưởng vĩ đại mà nhân loại đã đề
ra trong suốt hàng ngàn năm lịch sử. Tư
tưởng nhân văn chủ nghĩa là kết quả của
sự tiếp nhận sâu sắc nhất kinh nghiệm
lịch sử to lớn, là thành tựu mà con người
nhận thức được trong quá trình thực hiện
những nhiệm vụ xã hội của mình. Về ý
nghĩa xã hội, tư tưởng nhân văn chủ
nghĩa là phạm trù đạo đức cao nhất. Nó
luôn luôn là tiêu chí cao nhất của sự tiến
bộ đối với nhân loại ngày nay” (dẫn theo
[10, tr.12]).
5.
K tălu n
Nghiên cứu khái niệm CNNV,
CNNĐ trong khoa nghiên cứu văn học
Việt Nam trong khoảng th i gian gần 70
năm, chúng tôi nhận thấy CNNV, CNNĐ
là những phạm trù lí luận, lịch sử, dân tộc
quan trọng và phức tạp trong văn học. Cả
hai khái niệm đều có chung điểm quy
chiếu là hạnh phúc c a con ngư i. Nhưng
giữa hai khái niệm cũng có những điểm
khác biệt nhất định. Khái niệm CNNĐ thể
hiện tinh thần đạo đức, đề cao lòng yêu
thương con ngư i, đặc biệt là những
ngư i lao động, còn khái niệm CNNV
được sử d ng thể hiện tinh thần văn hóa,
nhấn mạnh đến các giá trị ngư i, các
quyền cơ bản c a con ngư i. Sự khác
nhau này không chỉ đơn thuần là do cách
dịch mà còn do truyền thống văn hóa c a
dân tộc. CNNV là một hệ thống tư tư ng
đan xen giữa nội sinh và ngoại nhập, giữa
kế thừa và phát triển, có sức ảnh hư ng
sâu và rộng. Vì vậy, CNNV với những tư
tư ng nhân sinh cao đẹp được xem như
là một hệ giá trị, một phẩm chất cao quỦ
mà mọi nền văn học chân chính, cách
mạng cần phải hướng đến.
T P CHÍ KHOA H C ĐHSP TPHCM
Nguyễn Đăng Hai
_____________________________________________________________________________________________________________
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
TĨIăLI UăTHAMăKH O
Nguyễn Đăng Hai (2014), “Quan niệm về bản chất “nhân học” c a văn học trong các
giáo trình lí luận văn học Việt Nam từ 1960 đến nay”, Tạp chí Khoa học Trường Đại
học Sư phạm TPHCM, số 55(89), tr.39 - 48.
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, in
lần thứ 3, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn
đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo d c.
Đỗ Duy Minh (2006), “Bước ngoặt tinh thần trong triết học”, Tạp chí Triết học, số 7
(182), tr.31-38.
Hà Thúc Minh (2006), “Ch nghĩa nhân văn và ch nghĩa nhân đạo”, Tạp chí Khoa
học Xã hội, số 07 (95), tr.7-11.
Hà Thúc Minh (2007), “Ch nghĩa nhân văn thế kỉ XXI”, Tạp chí Khoa học Xã hội,
số 09+10 (109+110), tr.7-15.
Nguyễn Lương Ngọc (1958), Sơ thảo nguyên lí văn học, Nxb Giáo d c, Hà Nội.
Nguyễn Lương Ngọc ch biên (1980), Cơ sở lí luận văn học, tập 1, Nxb Đại học và
Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội.
Huỳnh Như Phương (2010), Lí luận văn học (Nhập môn), Nxb Đại học Quốc gia
TPHCM.
Huỳnh Như Phương, Đề cương bài giảng môn Chủ nghĩa nhân văn trong văn học,
Tài liệu đánh máy do tác giả cung cấp.
Tổ Bộ môn Lí luận văn học các Trư ng Đại học Sư phạm Hà Nội, Vinh (1976), Cơ
sở lí luận văn học, tập 1, Nxb Giáo d c.
Tổ Bộ môn Lí luận văn học các Trư ng Đại học Sư phạm Hà Nội, Vinh và Đại học
Tổng hợp (1978), Cơ sở lí luận văn học, tập 1, Nxb Giáo d c, tr.161, tr.72.
y ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1989), Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học hiện
đại: Những thành tựu lí luận về chủ nghĩa xã hội, (Sưu tập chuyên đề), Viện Thông
tin Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Lê Trí Viễn (1999), Quy luật phát triển lịch sử văn học Việt Nam, tái bản lần thứ
nhất, Nxb Giáo d c.
Perez Zagorin (2003), “On Humanism: Past and Present”, Daedalus, (132), P.87 92.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 03-10-2014; ngày phản biện đánh giá: 27-12-2014;
ngày chấp nhận đăng: 20-01-2015)
155