You are on page 1of 3

Một nhà thơ đã từng nói: “Thu là thơ của đất trời, thu là thơ của lòng người”.

Mùa thu với những làn gió heo mây, với bầu trời
xanh thẳm, lá vàng rơi, sương thu lảng bảng…từ bao đời nay đã trở thành nguồn thi cảm cho bao thế hệ thi nhân. Hình như tên tuổi của
các nhà thơ nổi tiếng đều gắn liền với những thi phẩm viết về mùa thu: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du,
Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Tản Đà, Nguyễn Đình Thi, Trần Đăng Khoa, Hữu Thỉnh… và Nguyễn Khuyến – người vốn được mệnh danh
là “Ông Hoàng thơ thu VN”. Quay ngược bánh xe lịch sử ta sẽ bắt gặp những mùa thu tuyệt vời ngập tràn trong những trang thơ của bao
thế hệ. Nhắc đến mùa thu không thể không nhắc đến chùm thơ nức tiếng của Nguyễn Khuyến gồm ba bài, trong đó tiêu biểu cho vẻ đẹp
hồn thơ của ông là bài thơ “Thu Điếu”(Câu cá mùa thu) – một bức tranh mùa thu mà Xuân Diệu đã từng nhận xét: “Là điển hình hơn cả
cho mùa thu của làng cảnh VN”. “Thu Điếu” được sáng tác khi Nguyễn Khuyến đã từ quan về ở ẩn tại quê nhà. Tác phẩm được viết
bằng chữ Nôm, theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Với những vần thơ giản dị, thân thuộc, những cảnh vật thân thương nơi làng
quê VN, NK đã vẽ nên bức tranh mùa thu rung động tâm hồn người đọc, qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước
và nỗi đau thời thế của tác giả:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
...................
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
Ba tác phẩm: “Thu điếu”, “Thu ẩm”, “Thu vịnh”, mỗi bài tiêu biểu cho một dáng thu, hồn thu khác nhau. Có người nói “Thu
vịnh” tiêu biểu cho mùa thu VN, “Thu điếu” lại điển hình cho cả làng quê Bắc Bộ. Dáng thu trong “Thu điếu” có cái gì như thu mình
nhỏ lại duyên dáng, xinh xinh:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
“Thu điếu” của NK không bắt đầu bằng hình ảnh “Con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô”(“Tiếng thu” – Lưu Trọng Lư), bằng
tiếng chày đập vải, tiếng sáo thiên thai hay hình ảnh lá ngô đồng trong:
“Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu.”
mà được mở đầu bằng hình ảnh “ao thu” và chiếc “thuyền câu” bé nhỏ, bình dị. Vùng quê Bình Lục của NK vốn rất nhiều ao mà lại là
ao nhỏ. Những ao chuông bé nhỏ là nét đặc trưng của làng quê Bắc Bộ được thi sĩ đưa vào thơ một cách vô cùng tự nhiên và gợi cảm.
Bằng việc sử dụng điểm nhìn từ gần đến xa, từ thấp lên cao, từ cao xuống thấp, từ mặt ao thu hẹp, nhà thơ đã mở ra không gian mùa thu
với cảnh sắc quen thuộc ở làng quê VN. Mùa thu có mưa phùn, gió nhẹ nên bùn lắng xuống đáy ao. Vì thế nước ao rất trong, nhưng
trong cảm nhận của NK từ tượng hình “trong veo” miêu tả độ trong suốt của cả đáy ao. Có lẽ là đã vào cuối thu nên không khí ao thu đã
nhuốm hơi thở của tiết trời mùa đông, trở nên “lạnh lẽo”. Từ láy “lạnh lẽo” vừa gợi ra thời tiết se lạnh vừa diễn tả cái tĩnh lặng của
không gian. Cả mặt nước tĩnh lặng khiến cho làn nước mùa thu vốn đã trong lại càng trong hơn. Hình ảnh “thuyền câu” nhỏ, thu mình
trong ba chữ “bé tẻo teo”. Nghệ thuật tăng cấp và từ láy “tẻo teo” gợi độ nhỏ bé và dáng vẻ xinh xắn của thuyền câu. Chiếc “thuyền câu”
trong thơ NK thu mình bé nhỏ không phải để làm duyên làm dáng mà để phù hợp với khung cảnh mùa thu. Bên cạnh đó, hình ảnh được
sử dụng là “ao” chứ không phải là “hồ”, ao nhỏ hơn so với hồ. Bởi vậy mà chiếc “thuyền câu bé tẻo teo” xuất hiện giữa cái “ao”, tuy đối
lập mà không trở nên lạc lõng, bất xứng, chúng làm nên một bức tranh thu hài hòa, cân đối càng làm cho bức tranh mùa thu của NK
mang tính dân tộc đậm đà. Mặt nước đã trong lại tĩnh lặng, không gợn sóng nên dường như ngồi trên chiếc thuyền câu, tác giả có thể
ngắm được rong rêu và cả bầu trời trong xanh soi chiếu xuống mặt ao. Cảnh thu thật đẹp, thật trong trẻo, thanh sơ. Hai câu thơ mà có
đến bốn tiếng có vần “eo”, không chỉ có tác dụng gợi tiết trời mùa thu se se lạnh, không gian eo hẹp rất đặc trưng của ao hồ vùng chiêm
trũng Bắc Bộ, mà còn gợi ra cảm giác buồn bã, cô đơn trong lòng người. Hai câu thơ đầu bằng những từ láy tạo hình, ngôn ngữ bình dị
đã vẽ ra những hình ảnh thân thuộc, đáng yêu của mùa thu VN. Qua đó, ta thấy được NK cảm nhận tiết trời và bước đi của mùa thu qua
làn nước ao chuông bằng rất nhiều giác quan: thị giác, xúc giác...và hình như bằng cả tâm hồn của thi nhân. Như vậy, ngay từ những nét
vẽ đầu tiên, người đọc đã cảm nhận được những rung cảm của tâm hồn thi sĩ trước cảnh đẹp mùa thu.
Những nét vẻ duyên dáng, mềm mại, tài tình của NK đã tạo ấn tượng nơi người đọc từ ngay những vần thơ đầu tiên. Nếu như ở
hai câu đề nổi bật lên là sự tĩnh lặng thì hai câu thực là những nét vẽ tài hoa mang những nét vận động, nhưng nó lại động để tĩnh. Lấy
cái động của cảnh vật mà tả cái tĩnh của mùa thu chốn thôn quê:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Câu thơ gợi cho ta cảm nhận được một chút gió heo mây. Gió thoảng nhẹ như hơi thở của mùa thu mang không khí se se lạnh lan tỏa
khắp không gian. Sau này, Nguyễn Đình Thi cũng có những câu thơ miêu tả rất hay hơi thở của mùa thu ấy:
“Sáng chớm lạnh trong lòng HN
Những phố dài xao xác hơi mây.”
(Đất nước)
Thuyền đã vậy mà “sóng” và cả “gió thu” dường như không nằm ngoài quy luật ấy, tất cả đều rất nhẹ, mà rất sẽ sàng. Gió thu vô cùng
nhẹ nhàng chỉ đủ sức làm cho sóng “hơi gợn tí”. Động từ “gợn” đặt giữa hai tính từ “hơi” và “tí” là một sự kết hợp từ vô cùng độc đáo
đã diễn tả rất hay sự dao động nhẹ nhàng của sóng biếc. Không những vậy, sự khẽ khàng của làn gió mùa thu còn được nhấn mạnh qua
hình ảnh “lá vàng khẽ đưa vèo”. Gió nhẹ chỉ đủ sức bứt những chiếc lá vàng, khẽ chao mình trước thi nhân, rồi nhẹ nhàng đáp xuống bờ
ao. NK đã tạo ra thế tương xứng tuyệt vời giữa tốc độ bay của lá “khẽ đưa” và tốc độ ‘hơi gợn” của sóng bằng phép đối rất chuẩn của
hai câu thơ Đường luật. Thi sĩ vận dụng tài tình nghệ thuật lấy động tả tĩnh. Tả cái động “hơi gợn tí” của sóng và “khẽ đưa vèo” của lá
rơi càng khắc họa nên cái yên ắng, tĩnh lặng của mùa thu làng quê Việt Nam xưa. Không gian có tĩnh lặng thì người ta mới nghe thấy
những âm thanh rất nhỏ, rất khẽ ấy. Không chỉ miêu tả cái tĩnh lặng, hai câu thơ còn tiếp tục làm nổi bật vẻ đẹp trong trẻo, nên thơ và
hết sức trữ tình của mùa thu. Sóng ở đây là “sóng biếc”, sóng của làn nước trong ánh lên màu xanh ngọc bích. Bầu trời trong xanh soi
mình xuống mặt nước trong veo, trong cái cảnh “Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”. Điểm xuyến giữa bức tranh thu ấy là màu vàng
của chiếc lá thu rơi. Cũng là lá vàng, một thi liệu quen thuộc, mòn cũ, thế nhưng qua ngòi bút của NK chiếc lá ấy vẫn đẹp, gợi cảm, rất
thu và rất VN. NK khác hẳn họ ở chỗ màu vàng lá thu trong câu thơ của ông chỉ điểm xuyến ít ỏi, chỉ len lỏi giữa màu xanh của làn
nước, bầu trời, ngõ trúc…Ông không lấy màu vàng làm sắc màu chủ đạo, và màu vàng trong câu thơ tuyệt nhiên không gợi ra sự héo úa,
chết chóc. Nó đơn thuần là màu vàng đặc trưng của mùa thu Việt Nam, không hề mang hơi hướng của màu vàng trong thơ ca về mùa
thu của thi nhân Trung Hoa xưa. Đọc hai câu thực này, người đọc cũng không thể không chú ý vào chữ “vèo”. Thu đến, những chiếc lá
đã bắt đầu rời khỏi cành mà không còn lưu luyến. Chỉ cần một làn gió nhẹ, chiếc lá vàng đã cuộn lại “khẽ đưa vèo” theo làn gió và
nhanh chóng đánh “vèo” xuống mặt ao. Không biết sau này Tản Đà có ảnh hưởng của Nguyễn Khuyến hay không mà cũng viết : “Vèo
trông lá rụng đầy sân” (“Cảm thu, tiễn thu”) và từng tâm sự rằng cả một đời thơ, ông chỉ vừa ý với câu thơ ấy. Ta thấy rằng chữ “vèo”
trong thơ Tản Đà miêu tả tốc độ mau lẹ của thời gian, với NK “lá vàng” là hình ảnh một dáng thu mỏng manh, chao nghiêng. Bức tranh
mùa thu của NK là dàn hợp xướng của những điệu xanh: xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng
đâm ngang của chiếc lá thu rơi điểm xuyến và nổi bật trên cái phông nền màu xanh ấy, khiến cảnh thu không tàn tạ mà trái lại cảnh vật
thêm sinh động và gợi cảm. Cách phối màu của thi sĩ thật độc đáo, làm nổi bật tính thi trung hữu họa của bài thơ. Hai câu thực với ngôn
ngữ giàu hình ảnh vừa tiếp tục vẽ ra bức tranh mùa thu Bắc Bộ trong trẻo, tĩnh lặng, nên thơ, trữ tình vừa gợi cảm xúc lâng lâng, tâm
trạng bồi hồi, xao xuyến mỗi độ thu về. Qua hai câu thơ, ta thấy được ngôn từ của cụ Tam Nguyên Yên Đổ không đài cát, kiêu sa mà
bình dị, chân chất, mộc mạc nhưng không vì thế mà kém phần trong sáng, biểu cảm. Nhờ vậy mà người đọc cảm nhận được tâm hồn
tinh tế, nhạy cảm và tình yêu thiên nhiên tha thiết của nhà thơ.
Đến hai câu luận, không gian của bức tranh thu không chỉ bó hẹp trong khoảng không của mặt nước, của ao thu mà được mở
rộng cả về chiều cao và chiều sâu với một tầm nhìn cao hơn, xa hơn. Đó là cái nhìn toàn cảnh bao quát lên cả bầu trời với nhiều đường
nét, màu sắc thoáng đạt:
“Tầng mây lơ lửng, trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo”.
“Thu điếu” vẽ cảnh theo sự kết hợp hai chiều không gian: Từ thấp lên cao, từ gần ra xa, từ mặt nước lên bầu trời. Trên cao là bầu trời
cao, rộng, thoáng đãng và “xanh ngắt”. Bầu trời xanh ngắt vẫn luôn là biểu tượng đẹp của mùa thu, có lần Nguyễn Du đã từng viết:
“Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng”
"Xanh ngắt" là xanh mà có chiều sâu, trời thu không mây xám, mà xanh ngắt một màu thăm thẳm. Điểm xuyến trên nền trời thu xanh
ngắt của làng thu Bắc Bộ là những áng mây “lơ lửng” giữa không trung. Từ láy này diễn tả những áng mây dường như không trôi theo
làn gió mà bồng bềnh giữa trời xanh gợi một cảnh thu đẹp và yên tĩnh như ngưng đọng lại trên khoảng không gian bao la, rộng lớn;
đồng thời cũng gợi ra trạng thái mơ màng của con người trước vẻ đẹp hết sức hùng vĩ và thoáng đãng của đất trời mùa thu. Màu xanh
của da trời làm nổi bật màu trắng của những đám mây, di chuyển mà như không di chuyển, “lửng lờ” trôi. Đó không phải là đám mây
mang tính trôi vĩnh viễn của thời gian trong thơ Thôi Hiệu:
“Bạch vân thiên tải không du du”
Ở đây, NK đã tả thực bầu trời thu ở đồng bằng Bắc Bộ một màu xanh rất đặc trưng. Cái màu “xanh ngắt” ấy là nét riêng biệt của bầu trời
thu quê hương cụ Tam Nguyên Yên Đổ, bởi vậy mà bài thơ nào trong chùm thơ thu cũng có màu xanh ấy:
"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt". (Thu điếu)
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”. (Thu vịnh)
"Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt". (Thu ẩm)
Chính cái màu xanh ấy đã gợi ra một khung cảnh trời thu vô cùng thanh thoát, yên ả và trong lành của làng quê Bắc Bộ mỗi độ thu về.
Đồng thời vẻ đẹp của không gian mùa thu đã gợi ra cái sâu, cái lắng trong tâm hồn, cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu
cá. Thế rồi, ông lơ đãng đưa mắt nhìn về bốn phía làng quê. Đối diện với trời xanh ngắt là những ngõ trúc uốn lượn - một hình ảnh đặc
trưng của nông thôn VN. Đường quê Bắc Bộ đã đi vào thơ NK thật tự nhiên và thật đẹp. Dưới mặt đất là “ngõ trúc quanh co”, ngoằn
ngoèo mở ra trước mắt người đọc độ dài hun hút của những con đường làng vắng lặng. Không phải cái tấp nập, rộn rã của những ngày
mùa mà người dân quê đã ra đồng hết, xóm thôn vắng lặng. Trời thu yên ả, thanh bình, đường làng, ngõ xóm thưa vắng, không một
bóng người qua lại, chỉ có tre trúc uốn lượn quanh co. Và ngõ trúc ấy khoanh lại cả không gian thu, một không gian đặc trưng của làng
quê Bắc Bộ. Hình ảnh cây trúc xuất hiện khá nhiều trong thơ của ông, nhìn khái quát nó mang một tình quê nhiều bâng khuâng, man
mác kèm nét vắng lặng và đượm buồn mà Nguyễn Khuyến đã viết:
“Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến dâu đây?”
(Nhớ núi Đọi)
Chiều sâu không gian được cụ thể hóa bằng độ “quanh co” của ngõ trúc. Từ tượng hình “quanh co” không chỉ tả con ngõ nhỏ sâu hun
hút mà còn gợi cho người đọc liên tưởng đến những suy nghĩ không thông thoát của con người, khiến con người buồn. Hai câu luận gợi
cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn u tịch, cô liêu và hiu hắt. Bởi vậy cảnh tuy đẹp mà tĩnh lặng, đượm buồn. Người câu cá như đang
chìm trong giấc mộng mùa thu. Tất cả cảnh vật từ mặt nước "ao thu lạnh lẽo" đến "chiếc thuyền câu bé tẻo teo", từ "sóng biếc" đến "lá
vàng", từ "tầng mây lơ lửng” đến "ngõ trúc quanh co" đều hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh... có khi thoáng chút bâng khuâng,
man mác, nhưng rất gần gũi, thân thiết với mỗi con người Việt Nam. Đằng sau bức tranh phong cảnh, ta vẫn cảm nhận được tâm hồn tha
thiết với thiên nhiên của nhà thơ.
Sự tác động của ngoại cảnh làm cho con người không khỏi chạnh lòng mà cô đơn. Nguyễn Khuyến có lần đã từng tự thán về nỗi
cô độc của đời mình:
“Đời loạn đưa về như hạc độc
Tuổi giá hình bóng tựa mây côi”
Sáu câu thơ đầu của “Thu điếu” là sự miêu tả về cảnh vật, về mây trời non nước mùa thu. Đến hai câu kết ta mới thấy sự xuất hiện của
con người. Cái ý vị nhất của bài thơ nằm ở hai câu cuối:
“Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Thực ra, câu cá chỉ là cái cớ để NK miêu tả bức tranh thu, qua đó nhà thơ bộc lộ tâm trạng và suy nghĩ của mình về thế sự thăng trầm.
Thế nên câu cá mà chẳng có cá cắn câu “buông cần lâu chẳng được”. Hình ảnh cụ Tam Nguyên Yên Đổ xuất hiện trong tư thế nhàn “tựa
gối buông cần” tạo nên một đường nét bất động trên bức tranh thu tĩnh lặng. Dáng vẻ ở đây là “buông” cần chứ không phải “ôm” cần,
bởi từ này diễn tả con người đang thả lỏng cần câu. Đó chính là hình ảnh của nhà thơ trong những ngày từ quan lui về ở ẩn. Chốn quan
trường khiến ông “chướng tai gai mắt”, ông tìm về quê nhà với thú vui điền viên. Ông đi câu chẳng qua là để tìm một chốn thanh tĩnh
mong thoát khỏi những ý nghĩ về thời cuộc. Thế nhưng, có lẽ, NK không thể làm được. Đi câu mà chẳng hề chú ý đến việc câu, tâm trí
ông phải chăng cứ miên man trong những suy nghĩ không nguôi về non sông, đất nước, bởi thế cho nên tiếng cá “đớp động dưới chân
bèo” như hư như thực, có mà như không có khiến nhà thơ giật mình thản thốt. Một lần nữa nghệ thuật lấy động tả tĩnh được sử dụng
thành công. Tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo đã rất khẽ, rất nhẹ, lại còn là tiếng ở đâu đó vọng lại, thế mà vẫn đủ sức làm ông giật mình
tỉnh giấc tựa chiêm bao gợi lên sự tĩnh lặng, tĩnh mịch đến vô cùng. Từ “đâu” phủ định hoàn toàn âm thanh tiếng cá quẩy. Cùng với đó
là cách hỏi “cá đâu” thật đặc sắc tạo nên sự mơ hồ trong không gian và sự ngỡ ngàng trong lòng của người điếu ngư. Hình ảnh ấy khiến
cho ta liên tưởng đến dáng dấp cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm ung dung ngồi uống rượu dưới gốc cây:
“Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”
Hình ảnh người đi câu cá có thể khiến ta liên tưởng tới con người thi sĩ, nho sĩ trước tình hình đất nước lúc bấy giờ. Theo kinh nghiệm
của dân gian: “nước trong thì không có cá” nhưng tiếng cá “đớp động chân bèo” đã tiếp thêm động lực cho người điếu ngư không nản
chí mà tiếp tục công việc của mình. Cũng giống như vậy, chính trị nước ta bấy giờ rối ren, thực dân Pháp xâm lược, triều đình nhà
Nguyễn chống cự yếu ớt mà nhanh chóng thỏa hiệp để hồn nước rơi vào tay giặc. Nhà thơ vì muốn bảo toàn khí tiết nên lựa chọn con
đường về ở ẩn noi gương tiền nhân Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm một đời quyết giữ mình thanh sạch. Tuy nhiên, âm thanh cá đớp
động như đánh thức nhà Nho, nhà trí sĩ yêu nước thôi thúc ông đứng lên đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc. Nhưng âm thanh ấy thật
mơ hồ cũng như trăn trở trong lòng nhà thơ liệu rằng mình có thể góp sức giúp đời hay là bất hợp tác với giặc lánh mình ẩn cư. Sự tĩnh
lặng trong cảnh vật gợi cho người đọc cảm nhận về sự cô đơn, uẩn khúc, chất chứa nhiều tâm trạng trong tâm hồn nhà thơ. Trong bài,
các gam màu lạnh xuất hiện nhiều: trong veo, xanh ngắt…dường như cái lạnh của thu thấm vào tâm hồn nhà thơ hay chính tâm hồn cô
đơn của tác giả lan tỏa sang cảnh vật. Như vậy trong khung cảnh tĩnh lặng của mùa thu, NK chìm đắm trong một nỗi buồn thời thế đau
đáu trong sâu thẳm tâm hồn. Ông không chỉ bộc lộ những tình cảm gắn bó tha thiết với thiên nhiên, một tấm lòng yêu quê hương đất
nước thầm kín, và sâu sắc mà còn kín đáo bày tỏ tâm trạng đau buồn, chua xót của một nhà Nho tuy nặng lòng yêu nước nhưng đành bất
lực trước thời thế đất nước đầy đau thương, lựa chọn con đường lánh đục tìm trong, chờ đợi thời thế. Qua hai câu kết, ta thấy được phải
ngây ngất, xao xuyến, đắm say trong cảnh vật thiên nhiên mùa thu, phải gắn bó với làng quê và yêu thiên nhiên tha thiết, cụ Tam
Nguyên Yên Đổ mới vẽ được bức tranh mùa thu làng quê VN sinh động và tinh tế đến nhường ấy.
Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ “Thu điếu” đó là ngôn ngữ thơ trong sáng, giản dị, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu sắc thái biểu
cảm, có cách gieo vần sáng tạo đi kèm với nghệ thuật lấy động tả tĩnh. Bên cạnh đó là bút pháp thủy mặc Đường thi và vẻ đẹp thi trung
hữu họa của bức tranh phong cảnh đồng thời vận dụng tài tình nghệ thuật đối. Nhờ vậy mà NK đã miêu tả thật tinh tế bức tranh mùa thu
trong trẻo, thanh sơ dân dã, tĩnh lặng, đượm nỗi buồn man mác từ cõi lòng thi nhân. Bao trùm lên cảnh vật là tâm sự của một nhà thơ
yêu nước. Trước hiện thực đau thương của đất nước, trước cảnh nước mất nhà tan, dân nô lệ, thi nhân rơi vào tâm trạng ưu uất. Tình yêu
nước được thể hiện sâu sắc trong thơ NK và đó là niềm day dứt không nguôi của một nhà Nho có nhân cách thanh cao.
Trong chùm thơ thu của NK, “Thu điếu” là điển hình cho bức tranh mùa thu VN. Bức tranh được miêu tả bằng sự hòa sắc tinh
tế, đường nét gợi cảm, nhạc điệu độc đáo, đó là một bức tranh thủy mặc tuyệt đẹp dưới ngòi bút tài hoa của NK. “Thu điếu” vừa đẹp vừa
buồn. Cái đẹp dành riêng cho thiên nhiên cảnh vật, cái buồn dành cho nỗi lòng của nhà thơ - một con người nặng nợ với dân với nước.
Bài thơ giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, tinh tế, chân thành, gắn bó với quê hương, đất nước của NK. Tác phẩm
truyền tải bài học nhân văn sâu sắc tới độc giả: Dù cuộc sống đổi thay, con người có tiến tới cuộc sống văn minh hiện đại, thì những
hình ảnh “thuyền câu, ao thu, ngõ trúc...” trong thơ NK sẽ mãi gợi nhắc chúng ta về cội nguồn của dân tộc và bồi dưỡng tình yêu quê
hương đất nước trong mỗi con người VN. Đã có người than thở về sự bạc bẽo của thời gian – thời gian sẽ vùi lấp tất cả và lòng người sẽ
lãng quên. Nhưng những gì là độc đáo, là sáng tạo thì sẽ còn mãi. Điều này vô cùng đúng với chùm thơ thu của NK.

You might also like