XÂY DỰNG CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ
THÔNG TIN – THƯ VIỆN TẠI THƯ VIỆN
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
Ths. Bùi Thị Thanh Diệu
Khoa Quản lý văn hoá và giáo dục - Đại học Khánh Hoà
Tóm tắt: Mục đích của nghiên cứu nhằm phân tích thực trạng triển khai các dịch vụ
TTTV ở hệ thống thư viện đại học Việt Nam. Phân tích các ưu điểm, nhược điểm của
các mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ TTTV trên thế giới, đồng thời đề xuất xây
dựng các tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ TTTV phù hợp với môi trường thư viện
đại học ở Việt Nam.
Từ khoá: Dịch vụ thư viện, chất lượng dịch vụ, thư viện đại học, mô hình dịch vụ,
đánh giá chất lượng dịch vụ.
Abstract: The purpose of the study is to analys and acssess the library services in the
fact of the universities of Viet Nam; analys the advantages and disadvantage of the
library service models in the world. In addition, the research results also propose
criterias for evalueting the library service quality in the universities of Viet Nam.
Keywords: Library service, service quality, university service, service model,
measuament library service
Mở đầu
Hiện nay, các cơ quan thư viện và các trung tâm thông tin đều đang hướng tới
hoạt động theo mô hình một cơ quan cung cấp dịch vụ thông tin. Các hoạt động được
triển khai tại đây mang rõ tính chất định hướng theo dịch vụ và lấy việc đáp ứng nhu
cầu người dùng tin là mục tiêu phát triển của mình. Chính vì thế, cùng với sự phát
triển của hệ thống các thư viện và cơ quan thông tin hệ thống dịch vụ thông tin – thư
viện (TTTV) ngày càng phong phú và đa dạng. Như Welch và Murray đã nhận định:
“phát triển cộng đồng, tiếp cận với các nguồn tài nguyên điện tử, tài nguyên giáo dục
và các chuyên gia thông tin được xác định là khu vực để phát triển”. Sự cải thiện của
khu vực dịch vụ cùng với sự phát triển của truyền thông xã hội sẽ cung cấp cho người
sử dụng thư viện với nhiều cơ hội để có được sự tham gia sâu hơn trong hoạt động
thư viện.
1. Hiện trạng công tác đánh giá chất lượng dịch vụ thông tin – thư viện trong hệ
thống thư viện đại học
Ở môi trường thư viện đại học, các thư viện rất chú trọng phát triển các loại
hình sản phẩm, dịch vụ thông tin. Sự phát triển dịch vụ được gắn chặt và có quan hệ
hữu cơ với sự phát triển sản phẩm TTTV. Thông thường, các thư viện đại học thường
hướng tới phát triển một hệ thống dịch vụ thông tin cùng các sản phẩm thông tin đáp
ứng đến cùng một loại nhu cầu của người khai thác, sử dụng thư viện xác định. Sự đa
dạng hoá về sản phẩm và dịch vụ TTTV giúp thư viện thu hút được lượng bạn đọc
quan tâm và đến với thư viện nhiều hơn.
Tính thân thiện và tiện lợi của dịch vụ đối với người dùng là những thuộc tính
cần thiết đối với mỗi dịch vụ. Chính vì vậy những dữ liệu về trình độ, tập quán, thói
quen, khả năng, tâm lí và sở thích... được nghiên cứu, phân tích một cách toàn diện.
Trên cơ sở đó, cán bộ thư viện sẽ thiết kế được các dịch vụ cụ thể thỏa mãn các điều
kiện về tính tiện lợi và thân thiện đối với người dùng tin.
Thư viện trường đại học chú trọng phát triển các loại hình dịch vụ trao đổi
thông tin, đặc biệt là dịch vụ trao đổi thông tin trong hoạt động nghiên cứu - đào tạo.
Một trong số các định hướng rõ nét của quá trình phát triển dịch vụ hiện nay là vấn
đề phát triển các ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Ở môi trường này,
tính thân thiện, tiện lợi, khả năng thích nghi với việc có thể khai thác, sử dụng các bộ
sưu tập của thư viện, sử dụng dịch vụ thông tin tại mọi nơi và mọi lúc được phát
triển. Và việc khai thác, sử dụng thông tin cũng như dịch vụ thông tin được thực hiện
trên một quy mô rộng rãi nhất, theo một cách bình đẳng nhất đối với mọi thành viên
trong mỗi cộng đồng người dùng tin.
Bên cạnh những cơ hội thì việc triển khai các dịch vụ TTTV ở Việt Nam hiện
nay gặp phải một số thách thức như: Sự đầu tư về cơ sở hạ tầng và chất lượng cán bộ
ở các thư viện không đồng đều. Các thư viện ở Việt Nam nói chung và thư viện đại
học nói riêng nhìn chung chưa có truyền thống phối hợp, đặc biệt trong lĩnh vực chia
sẻ nguồn lực thông tin và các biểu ghi thư mục, chưa có dịch vụ mượn liên thư viện.
Trong công tác biên mục, thay vì cơ chế biên mục tại nguồn hay biên mục tập trung
tại các thư viện trung tâm như ở nhiều nước trên thế giới thì nhiều thư viện ở Việt
Nam vẫn biên mục lặp đi lặp lại với nhiều tài liệu cùng tên ở các thư viện khác nhau.
Làm như vậy vừa thiếu tính thống nhất đối với việc tạo ra các điểm tiếp cận thông tin
trong các biểu ghi vừa lãng phí nguồn nhân lực. Cán bộ thư viện phải đối mặt với
ngày càng nhiều thông tin ở dạng số, các nhà xuất bản trên thế giới có xu hướng thay
đổi hình thức xuất bản truyền thống sang hình thức xuất bản điện tử. Nhiều tạp chí
khoa học chỉ được bán ở dạng tài liệu điện tử thông qua truy cập cơ sở dữ liệu trực
tuyến như Emerald, ScienceDirect, ProQuest, Web of Science,… để truy cập được
các tài liệu này yêu cầu đầu tư ban đầu lớn để mua giấy phép quyền truy cập tài liệu
điện tử, công nghệ thông tin và truyền thông (phần cứng và phần mềm).
Như vậy cơ hội và thách thức đối với hệ thống thư viện đại học ở Việt Nam là
không ít. Để thư viện đại học trở thành nơi cung cấp nguồn thông tin quan trọng nhất
trong nhà trường, là điểm kết nối giữa nguồn thông tin của xã hội và nhu cầu thông
tin của người sử dụng, là môi trường rèn luyện và phát huy năng lực độc lập trong
việc khám phá và tư suy sáng tạo của sinh viên và đội ngũ giảng viên, các nhà nghiên
cứu thì thư viện phải không ngừng cải thiện, nâng cao chất lượng hoạt động của
mình. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ TTTV, thư viện cần xây
dựng chiến lược phát triển các dịch vụ theo hướng phù hợp với nhu cầu, điều kiện
khai thác và sử dụng thông tin luôn thay đổi trong môi trường giáo dục; đáp ứng ngày
càng cao sự gắn kết giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học, sự đổi mới phương thức
đào tạo (đào tạo theo tín chỉ, đào tạo từ xa và nhất là sự phát triển của e-learning…);
cần quan tâm đến sự phát triển các loại dịch vụ cung cấp nội dung thông tin số (các
học liệu dạng số) trong môi trường mạng. Bên cạnh đó hoạt động đánh giá chất lượng
các dịch vụ TTTV cần phải được tiến hành thường xuyên tại các cơ quan TTTV.
Thông qua kết quả của quá trình đánh giá này thư viện có thể nắm bắt được các điểm
mạnh và điểm yếu của từng loại hình dịch vụ TTTV và có kế hoạch cải thiện dịch vụ
để làm thoả mãn hơn nhu cầu tin của người sử dụng. Với ý nghĩa này, nghiên cứu
triển khai xây dựng các tiêu chí và mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ TTTV cho
hệ thống thư viện đại học ở Việt Nam để có thể xác định rõ hơn những mạnh mạnh,
mặt hạn chế và tìm ra các yếu tố tác động lớn đến các dịch vụ TTTV ở hệ thống thư
viện đại học Việt Nam.
2. Một số mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ thông tin – thư viện tại hệ thống
thư viện đại học trên thế giới
Trong nhiều năm gần đây, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đã cố gắng
tìm ra mô hình/thang đo hoàn hảo trong việc đo lường chất lượng dịch vụ thông tin –
thư viện. Bên cạnh những phương pháp đánh giá truyền thống là dựa vào số lượng bộ
sưu tập cũng như các phương pháp tự đánh giá trên cơ sở những con số báo cáo
thống kê của thư viện thì còn nhiều quan điểm tiếp cận đánh giá chất lượng dịch vụ
đã được đưa ra như:
1. Đánh giá thông qua các mục tiêu;
2. Đánh giá dựa vào kết quả;
3. Đánh giá dựa trên tài nguyên hệ thống;
4. Đánh giá dựa vào sự tiếp cận quy trình nội bộ/tiếp cận quá trình;
5. Đánh giá chất lượng dịch vụ theo cách tiếp cận sự hài lòng của người tham
gia.
Trong những cách tiếp cận trên, quan điểm thứ 5 thu hút được sự quan tâm
của nhiều công trình nghiên cứu, như Gummesson đã nhận định: “Bởi dịch vụ là vô
hình, chất lượng là không thể quan sát trực tiếp, do đó việc đánh giá chất lượng dịch
vụ dựa theo cảm nhận của người sử dụng được xem là cách tiếp cận khá hợp lý” [5].
Đây là cách tiếp cận dựa trên lý thuyết “Expectancy disconfirmation theory” trong
đánh giá chất lượng dịch vụ. Lý thuyết này nghiên cứu tâm lý người sử dụng dịch vụ,
so sánh độ chênh lệch giữa kỳ vọng và thực tại thỏa mãn mà dịch vụ có thể mang lại.
Cao
Tuyệt hảo
Đảm bảo
Hiệu suất
Đảm bảo
Không Đảm bảo
Thấp
Thấp
Mong đợi/kỳ vọng
Cao
Hình 1. Sơ đồ đánh giá chất lượng dịch vụ theo kỳ vọng của người sử dụng
Nguồn: © 2008 Kathleen F. Miller (1981)
Nhìn vào sơ đồ trên ta có thể thấy, đánh giá chất lượng dịch vụ theo sự cảm
nhận của người sử dụng dịch vụ (Expectancy disconfirmation theory) là một lý
thuyết tạo ra một khuôn khổ cho việc kiểm tra sự hình thành của những kỳ vọng của
khách hàng và sau đó đánh giá chất lượng dịch vụ thông qua sự so sánh giữa kỳ vọng
của người sử dụng dịch vụ với hiệu suất dịch vụ nhận được trên thực tế (Oliver &
DeSarbo, 1988) [8, p.31-32]. Người sử dụng sẽ so sánh hiệu quả sau khi sử dụng dịch
vụ với mong đợi/kỳ vọng của họ trước khi sử dụng để đi đến một phán quyết xác
nhận chất lượng. Nếu chất lượng mong đợi thấp hơn chất lượng đạt được thì chất
lượng dịch vụ là tuyệt hảo (positive disconfirmation). Nếu chất lượng mong đợi lớn
hơn chất lượng đạt được thì chất lượng dịch vụ không đảm bảo (negative
disconfirmation) còn nếu bằng nhau thì chất lượng dịch vụ là đảm bảo (simple
confirmation).
Những mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ dựa trên cảm nhận từ phía người
sử dụng dịch vụ đã được các nhà nghiên cứu, các hiệp hội và các tổ chức thư viện
trên thế giới nghiên cứu trong nhiều thập kỉ qua và tất cả các mô hình đều có những
ưu và nhược điểm riêng (Bảng 1).
Ưu điểm
Nhược điểm
1. Mô hình Chất lượng kỹ thuật – Chức năng (Gronroo, 1984)
CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ CẢM NHẬN
Kỳ vọng về dịch vụ
Trải nghiệm
Hình ảnh
Thông tin thị trường
Hình ảnh
Truyền miệng
Nhu cầu khách hàng
Kiến thức khách hàng
Kết quả/
Chất lượng kỹ thuật
Quá trình/
Chất lượng chức năng
Hình 2. Mô hình chất lượng kỹ thuật/chức năng (Nguồn: Gronroo-2000)
- Là nỗ lực đầu tiên để đo lường chất - Không đưa ra được bất kỳ kỹ thuật về
lượng dịch vụ.
đo lường chất lượng kỹ thuật và chất
- Gắn kết được việc đánh giá chất lượng lượng chức năng cụ thể nào.
dịch vụ với đối tượng người sử dụng dịch
vụ thông qua những cảm nhận của họ về
chất lượng kỹ thuật và chất lượng chức
năng
2. Mô hình SERVQUAL (Parasuaman và các cộng sự, 1985)
Độ tin cậy
Khả năng đáp ứng
Năng lực phục vụ
Sự cảm thông
Dịch vụ mong đợi
CHẤT LƯỢNG
DỊCH VỤ
Dịch vụ nhận được
Hình 3. Mô hình Thang đo SERVQUAL (Nguồn: Parasuraman et al, 1988)
- Áp dụng rộng rãi ở nhiều lĩnh vực dịch - Đo lường sự mong đợi của khách
vụ khác nhau.
hàng là rất khó khăn.
- Gắn kết được việc đánh giá chất lượng - Người được hỏi khó phân biệt được
dịch vụ thư viện với người sử dụng dịch chất lượng kỳ vọng và chất lượng cảm
nhận.
vụ.
- Xác định được khoảng cách giữa các - Thủ tục đo lường khá dài dòng
biến số ảnh hưởng đến chất lượng của các
dịch vụ cung cấp
3. Mô hình SERVPERF (Cornin&Taylor, 1992)
Sự tin cậy
Khả năng đáp ứng
Năng lực phục vụ
CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ
Sự đồng cảm
Phương tiện hữu hình
Hình 4. Mô hình thang đo SERVPERF (Nguồn: Crolin&Taylor, 1992)
- Cách thức đo lường đơn giản, dễ hiểu.
- Không phản ánh được mối quan hệ
giữa sự hài lòng, thoả mãn của người sử
dụng với chất lượng dịch vụ được cung
cấp.
4. Mô hình LibQUAL (ARL&Texaz A&M, 2008)
CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ THƯ VIỆN
Các yếu tố ảnh
hưởng tới dịch vụ
Thư viện như một
địa điểm
Kiểm soát
thông tin
Sự đồng cảm;
Khả năng đáp ứng;
Sự bảo đảm; Sự tin cậy
Không gian tiện dụng
Biểu tượng
Nơi trú ẩn
Phạm vi nội dung; Sự tiện lợi;
Điều hướng dễ dàng; Tính kịp thời;
Trang thiết bị; Sự tín nhiệm
Hình 5. Mô hình thang đo LIBQUAL+ (1998) (Nguồn: ARL&Texas A&M University)
- Được nghiên cứu để phù hợp với môi - Khó phân biệt được mức độ mong
trường dịch vụ thư viện
muốn, mức độ tối thiểu và mức độ nhận
- Giúp thu thập và giải thích thông tin thức.
phản hồi của người sử dụng thư viện một
cách hệ thống theo thời gian
Bảng 1: Bảng so sánh ưu điểm, nhược điểm của các mô hình đánh giá chất lượng
dịch vụ thư viện theo sự cảm nhận của người sử dụng
Có thể thấy việc đánh giá chất lượng dịch vụ thư viện theo các mô hình chất
lượng cảm nhận cho thấy một cách tiếp cận đánh giá chất lượng khách quan hơn bởi
nó có sự tham gia của người sử dụng dịch vụ. Trên thực tế, không có sự nhất trí về
việc áp dụng bất kỳ mô hình chất lượng dịch vụ cho toàn thể các thư viện. Vì vậy
việc lựa chọn và sử dụng mô hình nào để đánh giá chất lượng dịch vụ TTTV còn tuỳ
thuộc vào điều kiện kinh tế - văn hoá – xã hội của mỗi quốc gia, tuỳ thuộc vào sự
phát triển của mỗi tổ chức thư viện để có thể chọn và áp dụng một mô hình đánh giá
phù hợp nhất.
3. Đề xuất mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ thông tin – thư viện tại các thư
viện đại học ở Việt Nam
Dựa trên những tìm hiểu về đặc điểm và những ưu - nhược điểm của các mô
hình đánh giá chất lượng dịch vụ thư viện đã và đang được sử dụng trên thế giới kết
hợp với việc phân tích hiện trạng và đặc điểm của công tác tổ chức các dịch vụ
TTTV ở Việt Nam, nghiên cứu đề xuất xây dựng mô hình đánh giá chất lượng dịch
vụ TTTV ở các trường đại học ở Việt Nam như sau:
- Các dịch vụ TTTV ở Việt Nam đang trong quá trình phát triển và cải thiện
dần chất lượng của mình, hướng tới mục tiêu lấy người sử dụng là trung tâm của mọi
hoạt động, chính vì vậy nghiên cứu sẽ không tiếp cận cách đánh giá của mô hình hệ
thống vì mô hình này tập trung vào đánh giá bộ sưu tập tài liệu của thư viện. Cách
đánh giá này đã không còn phù hợp với xu thế phát triển hiện tại của các thư viện đại
học ở Việt Nam.
- Hầu hết các thư viện đại học ở Việt Nam đều đang xây dựng và phát triển
trong điều kiện hết sức khó khăn về các vấn đề nhân lực, vật lực và tài lực. Sự phát
triển còn không đồng bộ và không đồng đều nhau giữa các thư viện đại học trên cả
nước. Những thư viện ở các trường bán công hoặc dân lập được đầu tư tốt hơn sẽ có
những bước phát triển về dịch vụ tốt hơn hệ thống thư viện ở các trường đại học công
lập. Những thư viện ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cũng có điều kiện để
triển khai tốt hơn các dịch vụ TTTV so với các thư viện của các trường đại học địa
phương. Sự không đồng bộ này sẽ gây khó khăn nếu áp dụng phương pháp đánh giá
chất lượng dịch vụ của các bộ công cụ ISO, TQM, BSC, EFFM,… Đối với các thư
viện đại học ở Việt Nam, TQM khó áp dụng ở một tổ chức thư viện nhỏ và khi thực
hiện đánh giá chất lượng theo cách tiếp cận này cần có sự đồng thuận, tự giác của
mỗi nhân viên trong thư viện. Vì đánh giá chất lượng dựa trên con người, không có
một tiêu chuẩn nào được đặt ra nó đòi hỏi sự trách nhiệm và thái độ nghiêm túc của
mỗi nhân viên trong thư viện. Phương pháp này nghiêng về tổ chức, quản lý thư viện
nhiều hơn là đánh giá chất lượng của các dịch vụ thư viện, chưa xây dựng được
những khía cạnh cụ thể cho đánh giá chất lượng dịch vụ TTTV mà mới nhấn mạnh
về sự cải thiện các quy trình dịch vụ. Chính vì vậy, hiện nay cách tiếp cận này ít được
các nhà nghiên cứu sử dụng. Đối với Việt Nam, để theo kịp chuẩn chất lượng dịch vụ
của EFQM buộc các thư viện phải đầu tư nhiều kinh phí và các nguồn lực khác. Đây
là vấn đề khó khăn đối với các thư viện hoạt động bằng ngân sách nhà nước và trên
tiêu chí phi lợi nhuận. Đối với hệ thống quản lý chất lượng ISO, hiện tại Vụ thư viện
đang tiến hành nghiên cứu áp dụng các chuẩn ISO vào hoạt động TTTV ở Việt Nam.
Tuy nhiên quá trình xây dựng các quy trình áp dụng và hiệu quả của việc áp dụng
thống nhất chuẩn ISO vào hoạt động dịch vụ TTTV chưa được xác định rõ ràng và
còn nhiều khó khăn khi triển khai trên thực tế. Như vậy, có thể thấy các phương pháp
và mô hình được xây dựng bởi các hệ thống đánh giá chất lượng kể trên có rất nhiều
ưu điểm nếu hiện trạng hoạt động dịch vụ ở các thư viện đại học ở nước ta đang đồng
đều nhau ở tất cả các khía cạnh. Tuy nhiên sự phát triển còn chậm và không đồng đều
giữa các thư viện khiến cho việc áp dụng các phương pháp đánh giá nêu trên khó đạt
được những hiệu quả như kỳ vọng. Chính vì vậy nghiên cứu cũng không tiếp cận
đánh giá chất lượng dịch vụ TTTV ở các thư viện đại học Việt Nam theo phương
pháp này.
Có thể thấy theo lý thuyết đánh giá chất lượng cảm nhận “disconfirmation
theory”, thang đo SERVQUAL là mô hình phổ biến nhất được sử dụng bởi các nhà
nghiên cứu. Trên thực tế nó không phải là toàn diện và phù hợp cho các toàn bộ các
lĩnh vực dịch vụ. Tuy vậy giá trị và độ tin cậy của mô hình này đã được thử nghiệm
và được chấp thuận trong nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có hoạt động dịch vụ
TTTV. Đối với hoạt động dịch vụ TTTV, bộ công cụ này cũng đã được áp dụng để
đánh giá chất lượng dịch vụ của nhiều hệ thống thư viện khác nhau như: Thư viện
công cộng, thư viện đại học, Thư viện thiếu nhi, Thư viện nghiên cứu,...
SERVQUAL còn tồn tại một số nhược điểm và đó là tiền đề cho sự xuất hiện của các
công cụ SERVPERF, LibQUAL + (TM), WEBQUAL,... Những kết quả nghiên cứu
tích cực thu được từ các bộ công cụ đánh giá này cho thấy sự phù hợp với xu thế phát
triển của các thư viện trong bối cảnh xây dựng thư viện số trên nền tảng công nghệ
thông tin và truyền thông xã hội. Thang đo SERVQUAL và sau cải tiến thêm bộ
WEBQUAL là công cụ đánh giá đơn giản dựa trên việc đo sự chênh lệch giữa kỳ
vọng và thực tế của người sử dụng dịch vụ trên các tiêu chí được xác định về phương
tiện hữu hình, sự đồng cảm,… Tuy nhiên khái niệm về cảm nhận kỳ vọng này còn
khá mơ hồ đối với việc khảo sát người sử dụng dịch vụ và thang đo còn thiếu những
tiêu chí về chất lượng dịch vụ điện tử của thư viện dẫn đến kết quả của việc khảo sát
còn nhiều hạn chế.
Đối với thang đo LibQUAL, là thang đo đã được nghiên cứu và thiết kế dành
riêng cho đo lường chất lượng dịch vụ TTTV vì vậy tính ứng dụng của LibQUAL
trong môi trường dịch vụ TTTV rất cao. LibQUAL không chỉ là một danh sách của
22 câu hỏi được tiêu chuẩn hóa. Đầu tiên, LibQUAL cung cấp cho các thư viện các
lựa chọn trong bộ các câu hỏi để mỗi thư viện căn cứ vào đặc điểm của mình để tùy
chọn câu hỏi cho phù hợp. Bên cạnh đó, các cuộc khảo sát bao gồm một hộp góp ý
mở (comments) để bạn đọc có thể đóng góp thêm ý kiến của mình về dịch vụ TTTV.
Những ý kiến đóng góp này là hữu ích và mang tính xây dựng để có thể hoàn thiện
và cải tiến dịch vụ TTTV tốt hơn. Sử dụng thang đo LibQUAL đã góp phần thúc đẩy
sự phát triển công tác đánh giá chất lượng trong dịch vụ thư viện. Làm cho hoạt động
đánh giá có thêm một cách tiếp cận mới mẻ hơn, đa chiều hơn. Sử dụng thang đo
LibQUAL giúp nhà quản lý thư viện hiểu rõ hơn về nhận thức của người sử dụng về
chất lượng các dịch vụ thư viện. Thang đo giúp thu thập và giải thích thông tin phản
hồi của người sử dụng thư viện một cách hệ thống theo thời gian. Nâng cao kỹ năng
phân tích các nhân viên thư viện để có thể cải thiện dịch vụ tốt hơn.
LibQUAL là thang đo được công nhận như một công cụ tiêu chuẩn để đo
lường các dịch vụ thư viện, tuy nhiên nó vẫn còn là một biện pháp đánh giá tương đối
trẻ. Để giải quyết tất cả các khía cạnh của dịch vụ thư viện đầy đủ, hiện nay
LibQUAL chưa phải là một công cụ được phát triển đầy đủ để đo lường và đại diện
cho một dịch vụ thư viện kết quả đánh giá đáng tin cậy. Đây là công cụ đo lường chất
lượng dịch vụ TTTV được xây dựng, tổ chức và triển khai dựa trên web, do vậy bạn
đọc phải truy cập vào trang web của thư viện hoặc trang web của trường đại học hay
tổ chức thư viện đó mới có thể tiến hành khảo sát được. Trong khi đó ở nước ta, số
lượng bạn đọc sử dụng các dịch vụ điện tử của thư viện chưa thực sự nhiều. Hầu hết
các giao dịch dịch vụ thường tiến hành trực tiếp trong môi trường truyền thống với sự
gặp gỡ giữa nhân viên thư viện và bạn đọc, vì vậy thời gian để gom đủ phiếu hỏi sẽ
kéo dài và dẫn đến kết quả của sự đánh giá không được thực sự chính xác như mong
đợi. Mọi ý kiến thu thập được từ bảng khảo sát LibQUAL được đưa về trung tâm xử
lý số liệu của ARL, sau đó tổ chức này sẽ tổng hợp và trả lại cho thư viện bảng báo
cáo kết quả chi tiết. Tuy nhiên công việc này đòi hỏi thư viện phải chi trả một khoản
phí đáng kể tuỳ vào thời hạn đăng kí khảo sát. Đây là một vấn đề gây ra không ít khó
khăn cho những thư viện có nguồn kinh phí hạn hẹp. Hiện tại LibQUAL cũng chưa
có hỗ trợ về ngôn ngữ tiếng Việt nên nếu tham gia, thư viện Việt Nam cũng cần phải
có đội ngũ chuyên gia dịch và tư vấn để có thể tuỳ biến công cụ này vào đánh giá
chất lượng dịch vụ TTTV trong môi trường thư viện Việt Nam.
Như vậy trên cơ sở phân tích các ưu nhược điểm của các mô hình đánh giá
chất lượng dịch vụ trên thế giới, nghiên cứu đồng thuận với lý thuyết đánh giá theo
sự cảm nhận của người sử dụng dịch vụ mà điển hình là cách xây dựng các tiêu chí
đánh giá của thang đo Libqual. Tuy nhiên xét trên thực tế để đánh giá chất lượng dịch
vụ TTTV tại các thư viện đại học ở Việt Nam cần điều chỉnh và bổ sung thêm cho rõ
ràng các tiêu chí đánh giá sao cho phù hợp với thực trạng phát triển của các thư viện,
nghiên cứu đề xuất 4 tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ TTTV của các thư viện
trường đại học theo mô hình sau:
Nhân viên thư viện
Tài nguyên thông tin
Sự hài lòng của
người sử dụng
Chất lượng
dịch vụ thư viện
Kiểm soát thông tin
Môi trường thư viện
Hình 6: Sơ đồ mô hình nghiên cứu đề xuất đánh giá chất lượng dịch vụ TTTV
tại các thư viện đại học ở Việt Nam
Các yếu tố trong mô hình nghiên cứu đề xuất được trình bày như sau:
1. Nhân viên thư viện (library staff): Bao gồm các yếu tố đánh giá về tác
phong, thái độ, sự thân thiện, sự đồng cảm, trình độ chuyên môn và kiến thức thông
tin của nhân viên thư viện dành cho bạn đọc.
2. Tài nguyên thông tin (information resources): Bao gồm những đánh giá về
sự phong phú, đa dạng, phù hợp, của tài liệu bản in và tài liệu điện tử và tính kết nối
với các nguồn tài nguyên bên trong và bên ngoài của thư viện.
3. Kiểm soát dịch vụ (control service): Bao gồm các yếu tố đánh giá về tính
thân thiện, thuận tiện, cập nhật của các hoạt động dịch vụ thư viện.
4. Môi trường thư viện (inviroment library): Bao gồm những đánh giá về địa
điểm, không gian, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ người sử dụng học tập tại thư
viện.
5. Sự hài lòng của người sử dụng dịch vụ thư viện: Bao gồm những đánh giá
về chất lượng tổng thể của các yếu tố Nhân viên thư viện; Tài nguyên thông tin;
Kiểm soát dịch vụ và Môi trường thư viện. Đồng thời cũng có đánh giá
Với 4 tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ TTTV dựa trên sự hài lòng của
người sử dụng dịch vụ, nghiên cứu đề xuất xây dựng các thuộc tính đánh giá chất
lượng các dịch vụ TTTV như sau:
KÍ HIỆU CÁC THUỘC TÍNH ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ TTTV
Nhân viên thư viện (8 thuộc tính)
NV1
Luôn tạo cho bạn đọc sự tự tin
NV2
Chú ý phục vụ bạn đọc
NV3
Sẵn sàng giúp đỡ bạn đọc trong quá trình tìm tin và sử dụng các dịch vụ
TTTV
NV4
Sẵn sàng trả lời các câu hỏi của bạn đọc
NV5
Hiểu được nhu cầu tin của bạn đọc
NV6
Có kiến thức để trả lời các câu hỏi của bạn đọc
NV7
Có thái độ lịch sự trong giao tiếp
NV8
Có trang phục lịch sự trong công việc
Tài nguyên thông tin (6 thuộc tính)
TN1
Có các tài liệu dạng bản in (Sách giáo trình, sách chuyên khảo, tài liệu tra
cứu,…) bạn đọc cần
TN2
Có các tài liệu điện tử, tài liệu đa phương tiện (CD/VCD, audio, video,…)
bạn đọc cần
TN3
Tài liệu/thông tin của thư viện phù hợp nhu cầu tin của bạn đọc
TN4
Tài liệu/thông tin của thư viện được cập nhật liên tục, bắt kịp những tiến bộ
trong các lĩnh vực khoa học
TN5
Tài liệu/thông tin của thư viện dễ dàng tiếp cận/truy cập mọi lúc, mọi nơi.
TN6
Có sự kết nối với các nguồn tài nguyên bên ngoài thư viện (thông qua mượn
liên thư viện, các liên kết: link, hyperlinhk,…)
Kiểm soát dịch vụ (8 thuộc tính)
KS1
Thư viện thường tổ chức các lớp hướng dẫn sử dụng dịch vụ thư viện/tìm
kiếm thông tin/định hướng thông tin đáp ứng nhu cầu của bạn đọc
KS2
Độ tin cậy trong việc giải quyết các vấn đề liên quan tới dịch vụ của thư
viện (ví dụ: Giao/nhận tài liệu đúng hẹn, thời gian mở cửa đúng quy
định,…)
KS3
Bộ máy tra cứu tin (máy tính, hộp phiếu, thư mục,…) được bố trí thuận tiện
và dễ dàng sử dụng
KS4
Giao diện phần mềm, website thư viện thân thiện, có tính năng hỗ trợ bạn
đọc trong quá trình tìm kiếm thông tin trực tuyến
KS5
Thư viện luôn gửi tới bạn đọc danh mục thông báo tài liệu mới, bộ sưu tập
nổi bật
KS6
Bạn đọc dễ dàng kiểm tra được thông tin về mượn/trả và giữ tài liệu trong
hồ sơ cá nhân của mình
KS7
Thông tin cá nhân của bạn đọc luôn được thư viện bảo mật.
KS8
Giờ mở cửa của thư viện thuận tiện và đáp ứng nhu cầu của bạn đọc
Môi trường thư viện (5 thuộc tính)
MT1
Thư viện có vị trí thuận tiện, sạch sẽ, thoáng mát
MT2
Không gian thư viện thoải mái và thân thiện, tạo cảm hứng cho việc học tập,
nghiên cứu, trao đổi.
MT3
Không gian yên tĩnh cho các hoạt động cá nhân
MT4
Không gian cộng đồng cho nhóm học tập và nghiên cứu
MT5
Hạ tầng, cơ sở vật chất và trang thiết bị của thư viện hiện đại
Sự hài lòng (6 thuộc tính)
HL1
Bạn đọchài lòng về cách phục vụ của nhân viên thư viện đối với mình
HL2
Thư viện cung cấp đầy đủ những tài liệu/thông tin giá trị đối với bạn đọc,
giúp bạn đọc tiết kiệm thời gian tìm kiếm thông tin/tài liệu và theo kịp sự
tiến bộ trong lĩnh vực họ quan tâm
HL3
Thư viện hướng dẫn cho bạn đọc các kỹ năng thông tin cần thiết trong học
tập hay công việc của họ
HL4
Dịch vụ TTTV thuận tiện, dễ sử dụng, giúp bạn đọc đạt được hiệu quả cao
hơn trong quá trình học tập và làm việc
HL5
Môi trường thư viện tạo điều kiện cho bạn đọc học tập, nghiên cứu, trao đổi
kiến thức
HL6
Bạn đọc hài lòng về chất lượng tổng thể của dịch vụ TTTV đang được cung
cấp bởi Thư viện
Bảng 2: Các thuộc tính đánh giá chất lượng dịch vụ TTTV đề xuất
Tuy nhiên nếu áp dụng các tiêu chí đánh giá này theo khung khảo sát của
LibQUAL thì trên thực tế sự phân biệt rõ ràng giữa 3 mức độ: “Chất lượng dịch vụ
cảm nhận”, “Chất lượng dịch vụ kỳ vọng”, “Chất lượng dịch vụ thực tế” gây khó
khăn cho các đối tượng được khảo sát. Chính vì vậy, nghiên cứu về đánh giá chất
lượng dịch vụ TTTV hướng tới đánh giá sự hài lòng của người sử dụng dịch vụ dựa
trên 4 tiêu chí đánh giá ở trên là hướng tiếp cận để triển khai dễ dàng hơn cho các
khảo sát về chất lượng dịch vụ ở các thư viện đại học tại Việt Nam.
Với mô hình nghiên cứu đề xuất các tiêu chí và thuộc tính đánh giá chất lượng
dịch vụ TTTV, nghiên cứu sẽ tiến hành các khảo sát thử nghiệm để đánh giá hiệu quả
của mô hình đã xây dựng. Mục tiêu cuối cùng của nghiên cứu là xây dựng và hoàn
thiện được một mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ TTTV thật hiệu quả để áp dụng
cho công tác đánh giá chất lượng dịch vụ TTTV tại hệ thống thư viện đại học ở Việt
Nam.
Tài liệu tham khảo:
1. Bùi Thị Thanh Diệu (2017), Tìm hiểu các phương pháp tiếp cận đánh giá chất
lượng dịch vụ thư viện - thông tin, Tạp chí thư viện, số 3
2. Cao Minh Kiểm (2008), Một số suy nghĩ về tổ chức và hoạt động thông tin, thư
viện ở Việt Nam trong giai đoạn sắp tới. Thông tin Tư liệu (1)
3. Huỳnh Văn Mai (2013), Sử dụng thang đo SERVQUAL để đánh giá chất lượng
thư viện đại học, Tạp chí Thông tin – Thư viện, số 2
4. Nguyễn Thị Mai Trang, Trần Thị Thu Hương (2010), Chất lượng dịch vụ thư
viện - so sánh giữa hai mô hình: chất lượng kỹ thuật/ chức năng và SERVQUAL,
Tạp chí Khoa học và công nghệ, 11tr.
5. Cook, C. and Heath, F. (2001), “Users' perceptions of library service quality:
LibQUAL+(TM) quality study”, Library Trends, Vol. 9 No. 4, pp. 548-84.
6. Cronin, J. J., & Taylor, S. A. (1992), Measuring service quality – a
reexamination and extension. Journal of Marketing, 56(3), 55-68.
7. Gronroos, C. (1984), A service Quality model and its marketing implications.
European Journal of Marketing, 18(4), 36-44
8. Grönroos, Christian (2000), “Service Management and Marketing, A Customer
Relationship Management Approach”, Wiley, 2000. ISBN 0-471-72034-8
9. Gummesson, E. (1979), “The Marketing of Professional Services - An
Organizational Dilemma”, European Journal of Marketing, Vol. 13 Iss: 5,
pp.308 – 318
10. Miller, Kathleen F. (2008), Service quality in academic libraries: an analysis of
LibQUAL+TM scores and institutional characteristics. Spring Term, 121p.
11. Oliver, R. L., & DeSarbo, W. S. (1988), Response determinants in satisfaction
judgments. Journal of Consumer Research, 14, 495-507
12. Parasuraman, A., Berry, L. L., & Zeithaml, V. A. (1988), SERVQUAL: A
multiple item scale for measuring customer perceptions of service quality,
Journal of Retailing, 64, 12–40.
13. Parasuraman, A., Berry, L. L., & Zeithaml, V. A. (1991), “Refinement and
reassessment of the SERVQUAL scale”, Journal of Retailing, vol 67, p. 420–451
Thông tin liên lạc:
Ths. Bùi Thị Thanh Diệu
Khoa Quản lý văn hoá và giáo dục – Đại học Khánh Hoà
Email: buithithanhdieu@ukh.edu.vn
Tel: 098391094