Professional Documents
Culture Documents
Lịch sử âm nhạc thế giới
Lịch sử âm nhạc thế giới
Mozart (1756-1791)
Beethoven (1770-1827)
Schubert (1797-1828)
Chopin (1810-1849)
Tchaikovsky (1840-1893)
Kết hợp 2 hệ thống 4 âm, ta có 1 hoà âm (điệu thức). Hy lạp cổ đại có 3 loại hoà âm căn bản:
dorien (mi, điệu thức dân tộc Hy lạp), frigien (re, du nhập từ phương Đông), lidien (đô, du nhập từ
phương Đông). Ngoài ra, có các dạng biến hạ (thấp hơn hòa âm cơ bản 1 quãng 5) và biến thượng
(cao hơn hòa âm căn bản 1 quãng 5) từ các hòa âm cơ bản. Đó là những hòa âm nguyên (diatonos). Từ
cuối thế kỷ V trCN, xuất hiện kiểu ly điệu từ hoà âm nguyên sang hòa âm hóa (chroma, sử dụng 1/2
cung) và hòa âm đẳng (enharmonia, sử dụng 1/4 cung)
Việc sử dụng kết hợp nguyên và hóa gọi là nguyên mềm, kết hợp hóa và đẳng gọi là hóa mềm.
-Căn cứ vào kết quả đo lường âm học, người Hy lạp cổ đại định nghĩa sự thuận nghịch. Quãng
4,5,8 là quãng thuận. Quãng 3 và 6 là nghịch.
-Nhạc cụ người Hy lạp cổ đại thường dùng là harpe (đàn cổ nhất xuất hiện khoảng thế kỷ 30
trCN, ở thành phố Ur, Babylon), lyre, kithara (guitare cổ đại Hy lạp, giống lyre nhưng to và nặng hơn,
có thể có đến 18 dây), kèn aviot (dăm kép, 4-15 lỗ), sáo nhiều ống (cyric)
Giáo hội bài xích âm nhạc dân gian. Mặt khác, người dân thường đổi lời các bài hát đạo, có khi
thay đổi cả tiết điệu và có múa phụ họa. Bên cạnh đó, những bài hát thế tục cũng được sáng tác để
trình diễn trong các dịp hội hè.
2) Âm nhạc dân gian: có nội dung phong phú hơn nhạc giáo hội, tiết điệu rõ rệt, giai điệu linh
động, hồn nhiên, lên xuống rõ rệt, phản ánh tâm hồn con người. Nhạc dân gian hát theo tiếng địa
phương và có nhạc khí phụ họa chứ không hát tiếng La tinh, không nhạc đệm như nhạc giáo hội. Hệ
thống nhạc cụ rất đa dạng. Đại diện cho loại nhạc này là những người hát rong (Jongleur,
Spielmann…).
3) Âm nhạc hiệp sĩ: cuối thế kỷ XII, những hiệp sĩ dòng dõi quí tộc ở 2 miền Nam Bắc nước
Pháp (trouvères hay troubadours) đã sáng tác những âm điệu mới lạ, màu sắc dịu dàng, uyển chuyển.
Đề tài thường là ca tụng phụ nữ, ca ngợi sắc đẹp và tình yêu, ca ngợi thiên nhiên và kể chuyện thần
thoại. Họ còn sáng tác anh hùng ca, sử ca. Các thể loại chính là Chanson, Ballade, Anbi, Pastorale ở
Pháp, Canzona ở Ý…. Cấu trúc đặc trưng là Leich và Lied. Tác giả là những hiệp sĩ hát rong tự biên,
tự diễn với khuynh hướng chống quan niệm diệt dục của nhà thờ.
*Ở các thành phố lớn xuất hiện loại nhạc nhiều bè. Loại nhạc này có thể xuất hiện do người sử
dụng nhạc khí đàn nhiều âm cùng lúc, do sự chênh lệch giọng giữa phụ nữ, trẻ em và đàn ông. Những
thế kỷ đầu chỉ có nhạc đồng ca. Đến thế kỷ thứ IX, người ta thấy xuất hiện thể loại Organum hát 2 bè.
Có 2 loại Organum:
*Organum loại 1: đầu tiên hát đồng thanh, sau đó 2 bè tách dần đến quãng 4 rồi đi song hành.
*Organum loại 2: 2 bè hát quãng 4 và 5 song hành ngay từ đầu.
Sau Organum có những loại nhạc nhiều bè khác như:
*Déchant: TK XII ở Pháp. Đây là thể loại ứng khẩu phụ họa nghịch hành (có thể có vài đọan
song hành, nhưng gặp quãng 5 và quãng 8 thì bắt buộc nghịch hành). Về sau, bè ứng khẩu phụ họa
được ghi ra nốt rõ ràng.
*Gymel: TK XI, ở Anh. Đây là thể loại lễ ca có phụ họa quãng 3 song hành.
*Faux bourdon: có 3 bè, bè trên và giữa cách nhau quãng 4; bè dưới và giữa cách nhau quãng
3.
*Discantus: giai điệu chính ở dưới cùng. Bên trên có 1 hoặc nhiều bè hát ngược chiều, có khi
luyến láy tinh tế.
*Conductus: TK XII. Đây là mẫu xen kẽ trong hát nhà thờ hoặc trong những vở hát theo kinh
thánh. Đến thế kỷ XIV, nó phát triển hoàn chỉnh thành thể loại nhạc thế tục phổ biến rộng. Bè chính
hát theo giai điệu thế tục, những bè khác chỉ hát giống bè chính ở lời và tiết tấu (lời tiếng La tinh, tiết
tấu hành khúc).
*Motet: là tên gọi bè giữa trong 1 bài hát phức điệu 3 bè. Các bè có thể khác nhau về cả nhạc
lẫn lời. Có thể có những bài motet gồm 3 bè: 1 bè nhạc nhà thờ, 1 bè là dân ca nói về tình yêu, 1 bè hài
hước. Motet là tiền thân của thể loại phức điệu tương phản.
III/ Lý thuyết âm nhạc:
-Âm nhạc thời Trung cổ đã hệ thống hóa các điệu thức, sáng tạo cách ghi và đọc nhạc. Cách ký
âm trải nhiều giai đọan mới có dạng hoàn chỉnh như ngày nay.
-Khoảng năm 700 trCN, người Hy lạp cổ đại dùng chữ trong bản mẫu tự để ghi âm. Thế kỷ thứ
9 xuất hiện mẫu tự La tinh. Ta có
A B C D E F G H
La Sib Đô Rê Mi Fa Sol Si
-Ký âm bình điệu: Khoảng năm 680, người ta dùng dấu ghi trên lời ca chỉ sự biến hoá giọng.
Lối ghi này dùng cho những bài có tiết tấu đều, không chính xác về cao độ âm thanh.
-Tu Sĩ Guydo d'Arezzo (995-1050) người Ý dùng 7 vần đầu mỗi tiết trong bài thánh ca"Thánh
Johann" đặt tên cho âm thanh (ut, re, mi, fa, sol, la, si). Năm 1673, Bononcini đổi chữ "ut" thành chữ
"do".
-Nguồn gốc khuôn nhạc: người ta dùng dòng kẻ để ghi lời ca cho thẳng. Sau đó, tùy âm cao
hay thấp mà lời ca viết dưới hay trên dòng kẻ. Từ TK XI, người ta dùng 1 dòng kẻ đỏ ghi nốt fa, dòng
kẻ vàng ghi nốt đô. Sau đó số dòng kẻ thêm dần.
-Thế kỷ XIII, dấu bình điệu thay bằng những chấm vuông, chỉ phân biệt cao độ. Giữa thế kỷ
XIII, nhạc đa điệu phát triển, xuất hiện lối ghi âm tỷ lượng:
Maxime:
Longue:
Brève:
Semibrève:
Minime:
Semiminime:
*Khoá fa: F
*Khóa đô: C
-Giáo hoàng Saint Grégoire định ra 8 điệu thức gồm 4 điệu chính cách và 4 điệu biến cách.
-Bấy giờ trong âm nhạc có 2 phong cách chính là Baroc và Rococo. Cả hai phong cách đều
xuất phát từ nghệ thuật kiến trúc. Phong cách âm nhạc Baroc thiên về qui mô đồ sộ, mang tính ngợi
ca, nhạc sĩ đại diện là Monteverdi, Frescobaldi, Lully, Bach, Haendel… Thể loại sáng tác tiêu biểu là
thanh xướng kịch, tác phẩm cho dàn nhạc, organ…
Phong cách Rococo thêu thùa hoa mỹ, hào nhoáng, nhạc sĩ đại diện là Couperin, Rameau,
Scarlatti, F.E.Bach, Haydn, Mozart… Phong cách này xuất hiện muộn hơn Baroc và được thể hiện
chủ yếu ở các tác phẩm cho clavecin.
-Nói chung, âm nhạc thời kỳ này bắt đầu hướng vào hòa âm chủ điệu, sử dụng Basse ostinato
(bè trầm trì tục), sử dụng điệu thức trưởng tự nhiên và thứ hòa âm, phát triển phức điệu tự do (điển
hình là thể loại fugue).
-Âm nhạc cho nhạc cụ phát triển, hoàn thiện hệ thống nhạc cụ, hình thành và phát triển những
thể loại sáng tác mới (variation, partita, canzone, sonate, concerto…), nâng cao kỹ thuật biểu diễn
nhạc cụ.
-Thanh nhạc cũng có một số thể loại phát triển mạnh như: oratorio, cantate, passion…
cho đàn phím (tập 1 năm 1722 và tập 2 năm 1744), các Invention (1722), các sonate, partite cho
violon, cello, flute, các concerto Brandenbourg…
-Từ 1723-1750, ông sống ở Leipzig, một trung tâm văn hóa và âm nhạc lớn của Đức. Tại đây
ông đạt đến đỉnh cao trong sáng tác. Các tác phẩm đa dạng về hình thức và thể loại. Tuy vậy, cuộc
sống của ông rất nghèo khó.
Thời gian cuối đời ông để tâm vào việc dạy con. Ông mất ngày 28/6/1750.
Prélude và fugue số 1:
Prélude
Fugue
Tổ khúc flute số 2 cung si thứ
-Ông sinh ngày 23/2/1685 tại Halle, miền Nam nước Đức. Cha Haendel là thợ tóc giả. Ông có
khiếu âm nhạc từ nhỏ nên được 1 người cùng quê bảo trợ cho đi học đàn orgue và sáng tác. 10 tuổi,
ông bắt đầu sáng tác tiểu phẩm cho oboe. 12 tuổi ông biểu diễn ở Berlin. Vua Phổ có ý muốn gửi
Haendel sang Ý học nhạc nhưng cha Haendel cản trở. Theo ý muốn của cha (đã từ trần), Haendel vào
học đại học luật. Ông sáng tác các cantate và oratorio khá thành công. Năm 1703, ông quyết định bỏ
ngành luật, đến Hambourg nghiên cứu opéra Đức. Tại đây ông sáng tác 2 opéra Almira và Néron
mang phong cách đặc trưng của âm nhạc Đức (hợp xướng nhà thờ Tin lành, thủ pháp phức điệu), được
khán giả yêu thích.
-Năm 1707, Haendel sang Ý và ở lại 4 năm. Ông đi thăm nhiều thành phố, nghiên cứu và sáng
tác opéra theo kiểu Y (các vở Rodrigo, Aggripina). Ngoài ra ông viết nhiều oratorio, cantate và những
tác phẩm khác. Thời kỳ này, ông vượt khỏi khuôn khổ âm nhạc Đức, tiếp thu tinh hoa âm nhạc Pháp,
Tây ban nha và các nước châu Âu khác.
-1710-1716, ông về Đức làm việc ở Hanovre. Ông sáng tác một số tác phẩm tiêu biểu như
"Rinando", Amadigi, tổ khúc Bản nhạc trên nước. Ông được công chúng Anh hoan nghênh nhiệt liệt.
-1717, ông rời bỏ nước Đức lạc hậu, sang sống ở Anh. Năm 1720, Haendel lãnh đạo nhà hát
hoàng gia Anh, dựng 16 opéra của mình và nhiều opéra của các tác giả khác. Năm 1728, ông rời nhà
hát hoàng gia đi biểu diễn orgue và clavecin ở Ý, Hà lan, Ireland. Từ 1728-1741, ông viết được 20 vở
opéra mới. Ông đổ công sức nhiều cho opéra nhưng không đạt được những thành tựu đáng kể.
-60 tuổi, ông bắt đầu nổi tiếng về thể loại oratorio với tác phẩm "Đấng cứu thế".
-1746, khi nước Anh bị Scotland đe dọa xâm lăng, Haendel viết oratorio "Thời cơ" và "Judas
Macchabée" khích lệ lòng yêu nước của nhân dân Anh. Ông mất 1759 và được nhân dân Anh cử hành
tang lễ long trọng.
II/ Tác phẩm:
-Âm nhạc ông mang tính hành động, hùng mạnh, trang trọng. Ông viết ở nhiều loại đề tài từ
âm nhạc nhà thờ đến âm nhạc thế tục. Ông sử dụng mọi chất liệu âm nhạc: dân gian, chuyên nghiệp,
nhạc Đức, Ý, Pháp, Tây ban nha.
Hoà âm ít chú trọng chọn màu sắc tinh tế mà chú trọng tô đậm đường nét giai điệu.
Phức điệu ít khi quán triệt từ đầu đến cuối. Ông thường bắt đầu bản nhạc bằng phức điệu và
sau đó chỉ dùng phức điệu như động lực thúc đẩy cho sự phát triển sang chủ điệu. Chủ đề phức điệu
không mang tính khái quát như Bach mà mang tính cụ thể, miêu tả.
- Thể loại sáng tác tiêu biểu nhất của Haendel là oratorio. Haendel sáng tác 32 oratorio. Trong
đó có La Fête d'Alexandre (1736), Israel ở Ai cập (1737), Joseph và các anh em ở Ai cập (1742),
Samson (1743), Judas Macchabée (1746), Salomon (1748), Susanna (1748), Alceste (1749). Trước
thời Haendel, oratorio chia làm 2 màn. Đến thời Haendel, oratorio gồm 3 màn, trình diễn trên sân khấu
lớn, cấu trúc lớn hơn cantate. Haendel nhạc kịch hóa oratorio. Đề tài đa dạng (đồng nội, thần thoại,
tình yêu…). Kịch bản oratorio của Haendel thường trích từ kinh thánh nhưng nói lên tiếng nói thời
đại, diễn tả nội tâm, ước vọng của quần chúng, khích lệ tinh thần yêu nước của họ. Mỗi nhân vật có 1
chủ đề riêng. Các nhân vật phối hợp với nhau chặt chẽ nhưng đồng thời mỗi nhân vật đều mang tính
độc lập. Giai điệu giản dị, mang tính hành động, kêu gọi. Dàn nhạc luôn hỗ trợ đắc lực cho vở diễn, tỏ
ra độc lập ở đoạn mở màn, chuyển đoạn…Haendel sử dụng các nhạc cụ sáo, oboe, cor, trompette,
harpe… và một số nhạc cụ cổ rất linh hoạt. Haendel đã đưa oboe vào dàn nhạc oratorio.
Ông viết 2 passion. 2 motet, 4 psaume, 5 Te Deum
-Ông viết nhiều concerto. Concerto của ông có từ 2 đến 6 chương, kết hợp theo lối liên khúc
sonate cổ (sonate da camera, sonate da chiesa) hoặc tổ khúc. Tác phẩm tiêu biểu có 18 concerto
grosso, 12 concerto cho orgue, piano với dàn nhạc, 6 concerto cho oboe, tổ khúc Bản nhạc trên nước.
Ngoài ra, ông còn viết các sonate, duo và trio cho nhiều nhạc khí khác nhau.
-Opéra: ông viết gần 40 opéra. Nổi bật có: Radasmito (1720), Giulio Cesare (1724),
Alessandro (1726), Arianna (1734), Ariodante (1734).
Tổ khúc Bản nhạc trên nước:
Ouverture
Khúc 2
lấy đề tài đương đại, mang tính dân tộc, nhân vật là những người bình thường, giai điệu trong sáng,
gần với dân ca, tình tiết nhanh gọn. Các vở điển hình có: "Con sen thành bà chủ" của Pergolèse người
Pháp, "Thầy mo làng que" của Rousseau (Pháp)…
Nhạc sĩ Gluck xuất hiện, góp phần cải cách opéra Đức và opéra châu Âu một cách có hệ thống.
II/ Thân thế và sự nghiệp của Gluck: -Ông sinh ngày 2/6/1714 tại Weidenwang, Đức, trong
một gia đình nông dân. 12 tuổi, Gluck theo cha sang Tiệp khắc sinh sống. Ông học 6 năm ở một
trường đạo, tiếp thu kiến thức về đạo giáo, văn học và âm nhạc (lý thuyết, clavecin, orgue, cello, hợp
xướng). Sau đó, có một thời gian ông theo các nhóm nhạc về nông thôn trình diễn, đàn orgue cho nhà
thờ ở Prague và dạy nhạc.
-1736, một bá tước bảo trợ cho Gluck đến Vienne học nhạc. Ông chú trọng nhạc kịch Ý và
sáng tác những vở đầu tiên. Sau đó, bá tước Melzi bảo trợ cho Gluck sang Ý học tập và sáng tác. Ông
trở nên nổi tiếng. 1746 ông sang Anh và sáng tác 2 opéra "Artaserse", "Sự thất bại của những người
khổng lồ". Ông liên tục hoạt động chỉ huy, dựng opéra, soạn hơn 50 opéra.
-Ông về Vienne nghiên cứu opéra buffa của Pháp, sáng tác một số ballet như Don Joan,
Hoàng tử Trung hoa. Lúc này xuất hiện trường phái âm nhạc cổ điển Vienne, khí nhạc phát triển
mạnh tác động đến phong cách sáng tác của Gluck.
-1762, Gluck dựng opéra cải cách đầu tiên Orphée. Tiếp đó là các vở Alceste (1767), Paride et
Elena (1770). Ông đề ra những nguyên tắc mới cho opéra. 1774, vở Iphigenie ở Aulide của Gluck
trình diễn thành công ở Pháp. Sau đó, ông sửa lại các vở cũ cho phù hợp với sân khấu Pháp (mở rộng
màn múa, chuyển giọng castrat thành giọng ténor).
Cuối đời ông có những tác phẩm nổi tiếng như Armide (1777), Iphigenie ở Tauride (1779).
Ông mất ngày 15/10/1787.
III/ Tác phẩm: -Ông viết trên 100 opéra, vở tiêu biểu nhất là “Orphée”.
Opéra của Gluck có những cải cách như sau;
*Đơn giản, gần hiện thực, tránh lạm dụng kỹ thuật.
*Phần nhạc kết hợp chặt chẽ với lời ca, theo sát ngôn ngữ văn học.
*Aria phù hợp tình cảm nhân vật.
*Ông tăng cường phần đệm cho bài hát nói
*Màn múa phải có liên quan đến tình tiết nhạc kịch.
*Ouverture liên quan đến nội dung và hình tượng trong vở opéra.
JOSEPH HAYDN
(1732-1809)
I/ Thân thế và sự nghiệp: -Ông là một trong những nhạc sĩ tiêu biểu của trường phái cổ điển
Vienne. Ông có công hoàn thiện thể loại giao hưởng cổ điển 4 chương.
-Ông sinh ngày 31/3/1732 tại Rohrau, miền Nam nước Áo, trong một gia đình thợ thủ công.
Quê hương ông là một vùng pjong phú về âm nhạc dân gian. Từ nhỏ, ông được học nhạc ở nhà thờ
(violon, đàn phím, hợp xướng). Ông là diễn viên hợp xướng nhà thờ ở Vienne trong 10 năm. Thời
gian này ông tự nghiên cứu và thực hành các môn lý thuyết âm nhạc, phức điệu, đối vị…
-Sau khi vỡ giọng, không hát được, Haydn kiếm sống bằng nghề dạy nhạc. Ông đặc biệt
nghiên cứu các tác phẩm của Bach. Năm 1751, ông sáng tác opéra đầu tiên “Con quỷ thọt” nhưng
không thành công. 23 tuổi ông làm việc trong một nhóm nhạc của một ông hoàng bảo trợ nghệ thuật
và soạn gần 20 tứ tấu dây đầu tiên. 27 tuổi ông phụ trách một nhóm nhạc hơn 10 người cho 1 ông
hoàng khác và bắt đầu viết những giao hưởng đầu tiên. 29 tuổi ông làm việc cho 1 bá tước Hungary
với dàn nhạc 14 người, đàn orgue và hợp xướng. Sau đó, gia đình bá tước xây 1 biệt thự lớn có 2 sân
khấu và dàn nhạc 25 người. Haydn soạn nhiều giao hưởng giải trí, hợp xướng, lễ ca, tứ tấu, opéra…
Cuộc đời nhạc sĩ hầu cận kéo dài khoảng 30 năm làm ông rất đau khổ.
-48 tuổi ông thành công với 6 giao hưởng Paris và giao hưởng “Trẻ em”. 59 tuổi ông được mời
sang Luân đôn biểu diễn và sáng tác. Ông được công chúng Luân đôn hoan nghênh nhiệt liệt. Từ đây
ông đọan tuyệt với cuộc đời làm thuê.
-1792, ông trở về Vienne và có gặp Beethoven trên đường về. 1794, ông lại sang Anh và được
học viện Oxford tặng học vị tiến sĩ âm nhạc. Ông viết thêm 6 giao hưởng, 2 thanh xướng kịch “Đấng
sáng tạo muôn lòai” và “Bốn mùa”. Trở về Vienne ông viết thêm một số tứ tấu, sonate, lễ ca. Ông mất
ngày 31/5/1809 tại ngoại ô Vienne.
II/ Tác phẩm: Haydn có công hoàn thiện thể loại giao hưởng 4 chương bằng cách ứng dụng
liên khúc sonate. Ông viết trên 100 giao hưởng, nổi bật nhất là 12 giao hưởng Luân đôn cuối đời. Giao
hưởng của ông chia làm 4 giai đoạn:
*Trước 1772: tác phẩm mang tính giải trí, phong cách thính phòng.
*Những tác phẩm trong thời kỳ ông làm nhạc sĩ hầu cận: có một số tác phẩm đau thương, đầy
kịch tính (44,45,49 với các tiêu đề “Tang lễ”, “Vĩnh biệt”)
*Tác phẩm thập niên 80: ông tạm thời ra khỏi khủng hoảng tinh thần. Ông có những tác phẩm
tiêu biểu thời kỳ này như 6 giao hưởng Paris và Giao hưởng trẻ em.
*12 giao hưởng Luân đôn cuối đời là những tác phẩm tiêu biểu nhất của Haydn. Trong đó có
những tác phẩm được người đời sau đặt tên như: Kỳ ảo (96), Đồng hồ (101), Chiến trận (100), Trống
rung (104)…
Ông qui định thành phần dàn nhạc giao hưởng gồm 4 bộ:
.Bộ dây: violon1, violon 2, viola, cello, contre basse
.Bộ gỗ: sáo, oboe, clarinette, fagotte
.Bộ đồng: cor, trompette, trombone
.Bộ gõ: timpani
-Tác phẩm thính phòng, piano và thanh nhạc: thể loại thính phòng nổi bật nhất của Haydn là tứ
tấu dây, mang tính trong sáng, vui vẻ, lấy chất liệu dân ca. Tiêu biểu có tác phẩm "Prusse", "Chim sơn
ca" (63), các tứ tấu Nga (37-42).
Ông viết 52 sonate cho piano, nhiều biến tấu, rondo…Nổi tiếng nhất là sonate D dur.
Ông viết 24 opéra, 2 oratorio "Đấng sáng tạo muôn loài" và "Bốn mùa", 14 messa, nhiều hợp
xướng.
Giao hưởng 101 Đồng hồ
Chủ đề chương II:
-Tính chất âm nhạc: ông kết hợp âm nhạc dân gian Áo và các nước châu Âu khác. Giai điệu kiều diễm,
nồng nhiệt, giàu chất thơ, mỏng nhẹ nhưng sắc nhọn, hay có những nét bán cung, xác định trưởng thứ rõ ràng.
Tác phẩm thống nhất giữa nội dung và hình thức. Âm nhạc tự nhiên, dễ đi vào lòng người. Tác phẩm thường
mang tính kịch, sự tương phản giữa các nhân tố.
Mozart kế thừa phức điệu của Bach nhưng phát triển theo hướng chủ điệu. Chủ đề giàu hình tượng, có
cá tính. Âm hình tiết tấu phong phú. Hoà âm vận dụng công năng TSDT một cách sáng tạo. Chuyển điệu thoải
mái, tự nhiên.
-Giao hưởng: ông viết hơn 40 giao hưởng. Các giao hưởng đầu mang tính giải trí, thính phòng. Ba bản
cuối 39, 40, 41 lớn và có giá trị hơn cả. Ông sáng tác ngay trên tổng phổ, không qua piano. Bộ dây là cơ sở cho
dàn nhạc. Giai điệu ở violon 1. Ông sử dụng âm lượng dàn nhạc rất dè dặt. Bộ gỗ thường có mặt 2 sáo, 2 oboe,
2 fagotte; clarinette chỉ xuất hiện trong một số bản (3 bản cuối). Bộ đồng thường có 2 cor, thỉnh thoảng có
trompette (Mozart đã đưa trompette vào opéra).
Giao hưởng 40: chương I, chủ đề 1:
Allegro molto
Chủ đề 2:
Chủ đề chương IV
Allegro assai
-Opéra: Ông sáng tác khoảg 24 opéra, trong đó có những vở nổi bật như: Đám cưới Figaro, Don Joan,
Cuộc đột nhập vào hoàng cung nước Phổ, Cây sáo thần. Nhạc kịch của ông thiên về hướng hài nhạc kịch. Ông
kế tục công cuộc cải cách nhạc kịch của Gluck. Nội dung nhạc kịch phong phú, sâu sắc, ca ngợi chân lý. Nhân
vật có cá tính, nội tâm phức tạp, đa dạng, gần với hiện thực. Âm nhạc gắn bó với thơ ca. Aria mang tính kịch và
tính trữ tình của thể loại giao hưởng. Một số aria viết ở hình thức sonate không phần phát triển.
Nội dung opéra phong phú, sâu sắc, ca ngợi chân lý và những tư tưởng tiến bộ.
Chủ đề ouverture opéra Đám cưới Figaro:
-Tác phẩm thính phòng: quan trọng nhất là tác phẩm cho đàn phím gồm các sonate, biến tấu, Fantaisie, rondo…
Ông viết 19 sonate cho piano (nổi bật là sonate 11 A dur).
khắp nước Đức. 12 tuổi Beethoven đã giỏi ngoại ngữ, clavecin, violon, orgue và được phụ đàn cho một nghệ sĩ
orgue hoàng cung. Ông học thêm hòa âm, đối vị, nghiên cứu các tác phẩm của Bach, Haendel…
-1782, một số tác phẩm của Beethoven được in và ông trở nên nổi tiếng.
-Với ý muốn gặp Mozart, năm 1787, Beethoven đến Vienne. Mozart hứa dạy nhạc cho Beethoven
nhưng vì mẹ Beethoven qua đời bất ngờ, ông phải trở về lo sinh kế cho gia đình.
-Năm 1789, Beethoven vào học khoa triết tại Đại học Tổng hợp Bonn. Sau đó ông đi hẳn vào ngành
nhạc.
-Trong 10 năm ở Đức, Beethoven viết khoảng 50 tác phẩm gồm nhiều tiểu phẩm, 3 sonate piano, 3 tứ
tấu, nhiều ca khúc, 2 cantate, 1 vở ballet ngắn…Đây là thời kỳ Beethoven hoàn chỉnh kỹ thuật đàn, làm quen
những thể loại sáng tác lớn.
-Cuối 1792, ông đến Vienne học nhạc với Haydn, Albrechtsberger, Salieri…Từ 1795-1803, ông viết
hơn 100 tác phẩm ở nhiều thể loại.
-Năm 1796, Beethoven có triệu chứng điếc. Ông bị khủng hoảng tinh thần trầm trọng. Năm 1802, ông
điếc nặng. Nhưng sau đó ông lại sáng tác nhiều hơn và hoàn chỉnh hơn. Thời kỳ này ông viết 6 giao hưởng (từ
số 3 đến số 8), opéra "Fidelio", concerto violon, concerto 4 và 5 cho piano…
-Cuối đời ông có những tác phẩm tiêu biểu như: 5 tứ tấu dây, những sonate cuối cùng cho piano, messa
Solemnis, giao hưởng số 9. Ông mất ngày 26/3/1827 tại Vienne.
II/ Tác phẩm:
-Tính chất âm nhạc: tác phẩm Beethoven thường mang chủ đề đấu tranh, phản ánh những mâu thuẫn xã
hội. Âm nhạc ông đầy cá tính, nội tâm phong phú, thể hiện tính bi hùng, tư duy triết học, tính lãng mạn sâu sắc.
Các symphonie của ông mang tính kịch cao, chủ đề anh hùng, sử dụng âm hình chủ đạo, tiết tấu phức tạp, qui
mô tác phẩm đồ sộ.
-Hai thể loại sáng tác tiểu biểu của Beethoven là giao hưởng (symphonie) và sonate cho piano.
1) Giao hưởng: Beethoven viết nhiều tác phẩm cho dàn nhạc: 9 giao hưởng (trong đó, nổi bật nhất là
giao hưởng 3,5,9), 11 ouverture, hơn 40 vũ khúc và hành khúc, 5 concerto piano, 3 concerto cello, 1 concerto
violon…
Giao hưởng Beethoven mang tầm vóc đồ sộ, nội dung súc tích, đề cao hình tượng anh hùng, dàn nhạc
tăng cường biên chế kèn đồng.
Chủ đề chính chương I giao hưởng số 5 giọng c moll:
Allegro con brio
Chủ đề B:
Giao hưởng số 9 (d moll) chương IV, hợp xướng "Khúc khải hòan": allegro
2)Sonate: Thể loại sonate cho piano được viết như nhật ký bằng âm nhạc của Beethoven. Ông giao hưởng hoá
sonate cho piano. 32 sonate cho piano của ông chia làm 3 giai đọan:
-Giai đọan 1: (từ sonate 1 đến sonate 7) Thời kỳ này Beethoven sống ở Vienne. Tác phẩm còn mang
phong cách của các nhạc sĩ trước.
-Giai đọan 2: (từ sonate số 8 đến 27) bút pháp điêu luyện, đề tài đa dạng. Tác phẩm tiêu biểu thời kỳ
này là sonate 8,14,23.
-Giai đọan 3: (từ sonate 28 đến 32) tư tưởng chín chắn, nghệ thuật sáng tác già dặn. Tác phẩm thể hiện nội tâm
phức tạp và mang tính triết học cao.
Ngoài các sonate cho piano, Beethoven còn viết 10 sonate cho violon, 5 sonate cho cello; Tiêu biểu có
sonate violon số 5 "Mùa xuân" và sonate violon số 9.
-Thời kỳ này đề cao tính tiêu đề trong âm nhạc. Đa số tác phẩm liên quan đến văn học lãng mạn. Giai
điệu mang tính ca xướng. Các nhạc sĩ khai thác chất liệu âm nhạc dân gian tạo phong cách âm nhạc lãng mạng
dân tộc. Tác phẩm có lối phát triển đơn chủ đề, tạo sự thống nhất về hình tượng âm nhạc.
-Dàn nhạc không chỉ đặc biệt chú trọng bộ dây mà còn phát huy vai trò của các bộ khác trong dàn nhạc.
Tính năng các nhạc cụ phụ được khai thác nhiều hơn (clarinette, fagotte, timpani, harpe...). Nghệ thuật phối khí
thường pha trộn âm sắc để tạo những màu sắc mới.
-Các thể loại âm nhạc mới ra đời như giao hưởng tiêu đề, giao hưởng thơ, ouverture hòa tấu…Các thể
loại nhỏ được nâng cao và hoàn chỉnh như ca khúc, étude, ballade, nocturne, impromptus, prélude, mazurka.
polonaise…
Franz Schubert
(1797-1828)
I/ Đặc điểm thân thế và sự nghiệp: Schubert là nhạc sĩ Áo mở đầu trường phái âm nhạc Lãng mạn
châu Âu bằng thể loại ca khúc. Ông mang tính chất ca khúc vào tất cả các thể loại âm nhạc khác của mình.
-Ông sinh ngày 31/1/1797 tại Lichtenthal (ngoại ô Vienne) trong một gia đình nhà giáo đông con, yêu
âm nhạc. Từ nhỏ, Schubert đã tiếp xúc với môi trường âm nhạc nhiều dân tộc ở Vienne. Ông học violon và
piano trong gia đình. 1808, ông đến Vienne vừa học văn hóa, vừa học nhạc. Schubert tham gia dàn nhạc học
sinh, làm quen với những tác phẩm của Mozart, Haydn, Beethoven…Việc tham gia hợp xướng học sinh hỗ trợ
nhiều cho việc sáng tác ca khúc sau này của Schubert. Thời gian này ông có theo học lý thuyết âm nhạc và sáng
tác với một nhạc sĩ Tiệp khắc và nhạc sĩ Ý Salieri.
-Schubert vào nghề dạy học theo lời cha. 1818 ông bỏ nghề dạy để sáng tác nhạc. Đến năm 1822, ông
đã viết 7 giao hưởng, nhiều sonate cho piano, tứ tấu, ngũ tấu, ouverture… Tuy nhiên, thể loại sáng tác chính
của Schubert là ca khúc. Chỉ trong năm 1815, ông đã viết trên 100 ca khúc.
-Dù sáng tác rất nhiều, Schubert vẫn chịu nghèo đói và sự miệt thị của giới quý tộc. Ông thường sống
nhờ bạn bè. Phần lớn tác phẩm của Schubert bị thất lạc.
-Schubert là nhạc sĩ Vienne đầu tiên sống và sáng tác tự do. Nhưng vì vậy, ông phải chịu nghèo túng
suốt đời. Cuối đời, ông có những tác phẩm đồ sộ như giao hưởng số 9, messa As dur, messa Es dur…Ông mất
ngày 19/11/1828.
II/ Tác phẩm:
-Tính chất âm nhạc: âm nhạc Schubert trữ tình, thơ mộng, gắn bó với thơ ca Đức và âm nhạc dân gian
Vienne. Giai điệu giản dị, chân thật, dễ hiểu.
-Thể loại sáng tác nổi bật của ông là ca khúc và giao hưởng. Ông viết khoảng hơn 600 ca khúc và 9
giao hưởng.
1)Thanh nhạc: -Ông có khỏang 100 tác phẩm thanh nhạc lớn; Nổi bật có messa As dur và Es dur, đại
hợp xướng "Khúc hát chiến thắng của Miriam".
-Schubert đã nâng cao những bài ca phong tục Đức-Áo, làm cho nghệ thuật của chúng sánh ngang
những thể loại lớn khác. Hai tập liên ca khúc hay nhất của ông là "Cô thợ xay xinh đẹp" và "Con đường mùa
đông". Ca khúc Schubert phần lớn nói về tình yêu lãng mạn. Một số bài mang màu sắc triết lý như "Thần chết
và cô gái", "Những ranh giới của loài người". Chủ đề thiên nhiên có những bài như "Con cá Floren". Nhiều ca
khúc phổ thơ Muller, Schiller, Shakespeare, Heine…
-Ca khúc ông kết hợp nhuần nhuyễn giữa giai điệu và phần đệm piano. Mỗi bài có một giai điệu đặc
sắc, phù hợp nội dung tác phẩm. Schubert thường viết ca khúc ở những hình thức đơn giản như couplet, 3 đọan,
ballade…
Sérénade
2)Giao hưởng: -Schubert viết 9 giao hưởng và một số ouverture. 7 giao hưởng đầu còn mang phong cách cổ
điển Vienne. Giao hưởng số 8 mở đầu cho thời kỳ giao hưởng lãng mạn. Giao hưởng này chỉ gồm 2 chương
nên còn gọi là giao hưởng "Bỏ dở". Nó liên quan chặt chẽ với ca khúc, mang nhiều tính kịch và tính trữ tình.
Chương I (h moll), chủ đề mở đầu
Chủ đề 1
Chủ đề 2
Nicolo Paganini
(1782-1840)
I/ Bối cảnh âm nhạc Ý: -Đầu thế kỷ XIX, nước Ý bắt đầu đấu tranh chống phong kiến và sự thống trị
của nước ngòai (Tây ban nha, Áo, Pháp). Các phong trào đấu tranh liên tục nổ ra như: phong trào Carbonara,
phong trào Nước Ý trẻ, phong trào Phục hưng (Garibaldi) thống nhất nước Ý năm 1871.
-Văn học thể hiện lòng yêu nước, yêu tự do. Chủ đề văn học, nghệ thuật gần với cuộc sống thực tại.
Trường phái âm nhạc lãng mạn dân tộc Ý hình thành muộn hơn văn học với thể loại opéra dẫn đầu (Rossini,
Bellini, Donizetti, Verdi).
-Về khí nhạc, phong cách lãng mạn thể hiện rõ trong nghệ thuật violon của nhạc sĩ Paganini.
II/ Đặc điểm thân thế và sự nghiệp của Nikolai Paganini:
-Ông là một trong những nghệ sĩ violon giỏi nhất thế kỷ XIX. Ông đã tạo ra phong cách mới cho
trường phái violon lãng mạn: phong cách ngẫu hứng dân gian với kỹ thuật violon cao. Ông đưa ra những kỹ
thuật violon mới, nâng nghệ thuật violon lên đến đỉnh cao. Phong cách violon của Paganini góp phần trong việc
hình thành phong cách piano lãng mạn.
-Paganini sinh ngày 27/10/1782 tại Gênes. Từ nhỏ ông đã học violon với cha. 9 tuổi, ông biểu diễn một
biến tấu trên chủ đề bài ca cách mạng Pháp. Ông đi học sáng tác trong nửa năm và sáng tác nhiều tác phẩm cho
violon mang phong cách mới.
Năm 1828, Paganini đi biểu diễn ở nhiều nước châu Âu. Từ 1831 đến cuối đời ông đến sống tại Paris.
-Tính chất âm nhạc: Âm nhạc của ông nồng nhiệt, cảm xúc tinh tế, sử dụng chất liệu âm nhạc dân gian
Ý. Ông có lối chơi violon ngẫu hứng, sử dụng nhiều sắc thái, tốc độ khác nhau.
-Thể loại sáng tác tiêu biểu của Paganini là tác phẩm cho violon và guitare. Ông sáng tác 24 caprice
cho violon, concerto violon D dur op.16, concerto violon h moll op.7, concerto violon E dur, nhạc cho vở kịch
Bão tố (violon + dàn nhạc), khoảng 200 tác phẩm cho guitare, nhiều sonate, tứ tấu, biến tấu.
-17 tuổi, ông hoàn thành ouverture hòa tấu đầu tiên "Giấc mộng đêm hè", khẳng định phong cách điển
hình của các tác phẩm về sau.
-Từ 1829-1832, ông sang nhiều nước châu Âu như Thụy sĩ, Áo, Pháp, Anh, Ý, Scotland.
-Năm 1833-1835 ông trở về Đức lãnh đạo phong trào âm nhạc ở Dusseldorf. Ông giảng dạy, biểu diễn,
tổ chức các hoạt động biểu diễn giới thiệu âm nhạc, sưu tầm, nghiên cứu các tác phẩm cổ điển.
-Thập niên 30 là thời kỳ hoàn thiện trong sáng tác của Mendelssohn. Ông có những tác phẩm nổi tiếng
như ouverture hòa tấu "Động Fingal", "Nàng Melusine xinh đẹp", giao hưởng số 2 "Cải cách" giọng d moll
(1830), giao hưởng Ý (1833), bắt đầu sáng tác giao hưởng Scotland (hoàn thành năm 1842). Phần lớn tác phẩm
thời kỳ này ông viết cho đàn phím (nổi bật có Rondo Es, Caprice Rực rỡ, phần đầu tập "Bài ca không lời").
-Năm 1835, ông hoạt động âm nhạc ở Leipzig. Năm 1843, nhạc viện Leipzig thành lập, Mendelssohn
tham gia soạn giáo trình cho nhạc viện.
-Cuối đời ông có những tác phẩm xuất sắc như: concerto số 2 cho piano d moll (1837), concerto violon
e moll (1844), oratorio "Iliade", cantate-giao hưởng "Ngợi ca", 80 ca khúc, 60 hợp ca. Ông mất này 4/11/1847.
II/ Tác phẩm:
-Tính chất âm nhạc: tác phẩm Mendelssohn kết hợp âm nhạc cổ điển, âm nhạc lãng mạn và âm nhạc
dân gian Đức. Giai điệu đẹp, dễ nghe, liên quan chặt chẽ với phong cách ca xướng và vũ khúc dân gian. Ông
chú trọng sự pha trộn màu sắc trong dàn nhạc. Nội dung âm nhạc thể hiện nội tâm lãng mạn của con người hoặc
miêu tả phong cảnh thiên nhiên. Chủ đề, hình tượng âm nhạc và thể loại âm nhạc liên quan đến văn học Đức.
-Mendelssonh sáng tác nhiều thể loại, nổi bậc nhất là ouverture hòa tấu, tiểu phẩm piano, concerto và
giao hưởng.
1)Ouverture hòa tấu: Đây là thể loại âm nhạc độc lập, 1 chương, viết cho dàn nhạc giao hưởng.
Mendelssohn có những ouverture hòa tấu tiêu biểu như: Giấc mộng đêm hè, Nàng Mélusine xinh đẹp, Động
Fingal.
Ouverture Giấc mộng đêm hè:
2) Tiểu phẩm cho piano: tác phẩm tiêu biểu là tập tiểu phẩm Bài ca không lời. Tập tiểu phẩm này gồm 48 bài,
có cấu trúc hình thức và giai điệu như ca khúc. Các hình tượng âm nhạc trong tập tiểu phẩm này được
Mendelssohn đưa vào các thể loại lớn hơn như oratorio, symphonie, sonate…
Bài ca không lời, bài 12:
3) Giao hưởng: Mendelssohn tôn trọng các nguyên tắc giao hưởng cổ điển. Ông có 4 giao hưởng, trong đó, nổi
tiếng nhất là giao hưởng Ý và giao hưởng Scotland.
4) Concerto: Mendelssohn viết 3 concerto (violon, cello, piano) trong đó có concerto cho violon e moll là nổi
bật nhất.
Concerto violon e moll, chương I, chủ đề 1:
Chương I, chủ đề 2:
Robert Schumann
(1810-1856)
I/ Đặc điểm thân thế và sự nghiệp:
-Schumann là một trong những đại diện tiêu biểu nhất trong lĩnh vực thẩm mỹ âm nhạc. Ông theo
khuynh hướng đổi mới cả nội dung lẫn hình thức tác phẩm âm nhạc. Ông ủng hộ khuynh hướng hiện thực, dân
tộc, tính tiêu đề trong âm nhạc lãng mạn.
Trong sáng tác, ông là nhà cách tân táo bạo. Nội dung tác phẩm thể hiện rõ những mâu thuẫn xã hội.
Tác phẩm mang tính trữ tình, phức tạp, đột khởi.
-Ông vừa là nhà sáng tác, vừa là nhà hoạt động xã hội, phê bình âm nhạc, chỉ huy dàn nhạc.
-Ông sinh ngày 8/6/1810 tại Zwickau (Đức) trong một gia đình có tiệm in sách. Từ nhỏ, Schumann tỏ
ra có năng khiếu về piano, văn học, triết học. 7 tuổi, Schumann bắt đầu sáng tác theo kiểu ngẫu hứng rất nhanh
các tác phẩm ngắn cho piano. Các tác phẩm âm nhạc về sau của ông có sự gắn bó chặt chẽ với văn học.
-Năm 1826, theo ý muốn của gia đình, Schumann vào học trường luật ở Leipzig. Sau đó ông chuyển
hẳn sang con đường âm nhạc. Thời kỳ đầu, Schumann tập trung học piano với nghệ sĩ Wieck. Đến khi bị hư
tay, ông hướng sang con đường sáng tác và lý luận phê bình. Ông chú ý nghiên cứu các tác phẩm cổ điển, nhất
là tác phẩm của Bach. Thời kỳ này, ông sáng tác chủ yếu cho piano (Étude cho piano theo caprice của Paganini,
Les Papillons, Vũ hội hóa trang, Toccata op.7, Étude giao hưởng, Kreisleriana, Fantaisie C dur…). Các tác
phẩm này thể hiện những ước mơ lãng mạn, tình yêu của Schumann với Clara Wieck.
-Năm 1834, Schumann làm tổng biên tập tạp chí Âm nhạc mới. Ông họat động cho tạp chí này khoảng
10 năm, giới thiệu các tác giả, tác phẩm cổ điển và đương đại mang tư tưởng tiến bộ.
-Thập niên 40 Schumann sáng tác nhiều ca khúc. Nổi tiếng nhất là liên ca khúc Tình yêu thi sĩ dựa theo
thơ của Heine. Ngoài ra, ông có những tác phẩm nổi tiếng khác như: giao hưởng Muà xuân (1841), giao hưởng
d moll, concerto piano a moll, concerto piano Es dur (1842), ba tứ tấu dây (1842), oratorio Le Paradis et La
Peri (1842).
-Cuối đời, ông bệnh thần kinh ngày càng nặng, phải về sống ở Dresden. Các tác phẩm nổi tiếng cuối
đời có: opéra Geneviève (1848), nhạc cho vở Faust, nhạc cho vở Malfred, concerto cello a moll, sonate cho
violon và piano, fantaisie cho violon và dàn nhạc… Ông mất ngày 29/7/1856.
II/ Tác phẩm: Hai thể loại sáng tác nổi bật nhất của Schumann là tác phẩm cho piano và thanh nhạc.
1) Tác phẩm piano: Những cải cách của Schumann thể hiện nhiều nhất trong các sáng tác cho piano.
Ông đã tạo ra 2 kiểu liên khúc mới cho piano là liên khúc tổ khúc biến tấu và liên khúc sonate giao hưởng.
Trong cả hai kiểu liên khúc, Schumann nhấn mạnh tính tương phản và lối phát triển đơn chủ đề. Điển hình cho
thể loại liên khúc tổ khúc biến tấu là các tác phẩm: Kreisleriana, Những khúc nhạc ảo tưởng, Vũ hội hóa
trang…Ở thể loại này, ông thống nhất những khúc nhạc riêng biệt theo nguyên tắc tổ khúc biến tấu đơn chủ đề.
Liên khúc sonate giao hưởng viết dựa trên nguyên tắc sonate allegro và biến tấu đơn chủ đề; Tác phẩm
điển hình là concerto a moll cho piano (1841-1845).
-Tác phẩm piano của Schumann mang tính tiêu đề rõ rệt. Qua tiêu đề, ông nêu lên những tư tưởng, tình
cảm con người. Âm nhạc thể hiện ước mơ lãng mạn, trữ tình. Chủ đề liên quan chặt chẽ với văn học lãng mạn.
Âm nhạc mang tính chân dung, cá tính độc đáo, cảm xúc thay đổi thường xuyên.
-Giai điệu trải rộng, tinh tế, phức tạp, có những giai điệu ẩn. Cấu trúc giai điệu tự do, thường nhảy xa
và có đảo phách.
-Tiết tấu tự do, phong phú, không cần chuẩn bị, có thể chuyển đột ngột.
-Hoà âm và tốc độ thay đổi thường xuyên.
2) Thanh nhạc: Tác phẩm thanh nhạc của Schumann là một trong những đỉnh cao của thanh nhạc lãng
mạn (Schubert, Schumann, Brahms). Ông sáng tác nhiều thể loại cho thanh nhạc như ca khúc, liên ca khúc,
ballade, hợp ca… Ông thường phổ thơ của các nhà thơ lãng mạn nổi tiếng như Goethe, Heine, Byron,
Schiller… Tác phẩm nổi bật nhất là liên ca khúc Tình yêu thi sĩ.
-Ca khúc Schumann có sự thống nhất cao giữa giai điệu và lời thơ. Ông đi sâu vào từng câu, từng chi
tiết tinh tế của ngôn ngữ. Giai điệu mang tính ngâm vịnh. Ông tìm ra mầu sắc hòa âm phù hợp cho mỗi lời thơ.
Phần đệm phong phú của piano góp phần thể hiện bài nhạc.
Giao hưởng số 1 “Mùa xuân”, chương I:
Chủ đề mở đầu:
Chủ đề 1:
Chủ đề 2:
Frédéric Chopin
(1810-1849)
I/ Hoàn cảnh xã hội Ba lan thế kỷ XIX: -Sau khởi nghĩa 1794, Ba lan bị chia nhiều mảnh do nhiều đế
quốc chiếm đóng (Áo , Nga…). Đầu thế kỷ XIX, nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra nhưng đều thất bại (1830-1831,
1846, 1863). Nhân dân Ba lan chứng tỏ tinh thần dân tộc trong lĩnh vực văn hóa. Bấy giờ, văn học dẫn đầu
trong nghệ thuật dân tộc Ba lan. Trung tâm âm nhạc thời đó là Varsovie, có các nhà hát, tổ chức âm nhạc và
trường đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp. Cơ sở nghệ thuật là âm nhạc dân gian; Có nhiều nhạc sĩ nổi tiếng; nghệ
thuật opéra đóng vai trò quan trọng.
Trong lĩnh vực khí nhạc, nhạc sĩ nổi tiếng nhất là Frédéric Chopin, nghệ sĩ biểu diễn piano và sáng tác
cho piano xuất sắc của thế kỷ XIX.
II/ Thân thế và sự nghiệp Frédéric Chopin:
-Chopin là nhạc sĩ lãng mạn dân tộc Ba lan sáng tác những tác phẩm piano dựa trên cơ sở văn hóa dân
tộc Ba lan và tinh hoa âm nhạc Tây Âu.
-Chopin có công nâng cao và hoàn chỉnh các thể loại tiểu phẩm cho piano như polonaise, mazurka,
étude, nocturne, scherzo, ballade, impromptus…
-Ông sinh tại Zelazawa Wola, gần thủ đô Varsovie. Sau đó gia đình Chopin chuyển về Varsovie sống.
Nhà Chopin là một trong những trung tâm tụ họp của giới trí thức yêu nước. Vì vậy Chopin sớm lãnh hội
những kiếm thức văn học, nghệ thuật và lòng yêu nước.
-Từ nhỏ Chopin đã giỏi piano. Năm 1826, ông vào học nhạc viện Varsovie với thầy Elsner và tốt
nghiệp năm 1829. Ông sưu tầm, nghiên cứu âm nhạc dân gian và các truyền thuyết dân gian Ba lan, mang vào
tác phẩm âm nhạc bản sắc dân tộc độc đáo. Ngoài ra ông còn nghiên cứu các tác phẩm trường phái cổ điển
Vienne và âm nhạc cổ điển Ba lan.
-Năm 1829, ông đến biểu diễn piano tại Vienne rất thành công. Về nước, ông tiếp tục hoạt động âm
nhạc đến tháng 11/1830 ông vĩnh viễn rời khỏi Ba lan.
-Các tác phẩm thời kỳ ở Ba lan của Chopin thể hiện ước mơ tuổi trẻ, tình cảm nội tâm. Ông lấy giai
điệu và tiết tấu từ âm nhạc dân gian. Giai điệu mang tính du dương, hoa mỹ, điêu luyện. Tác phẩm nổi bậc có
concerto piano f moll và e moll, trio piano+violon+cello giọng g moll, polonaise cho cello+piano giọng C dur,
op.3
-Rời Ba lan, Chopin đến Vienne sống một thời gian nhưng cảm thấy không thích hợp nên sau đó ông
đến Paris. Tại đây, ông thường gặp gỡ các kiều dân Ba lan và các nhà nghệ thuật nổi tiếng như Liszt, Rossini,
Mendelssohn, Paganini, Bellini, Victor Hugo, Alexandre Dumas… Ông được công nhận là một trong những
nghệ sĩ biểu diễn piano xuất sắc của thế giới.
-Thập niên 30 và 40, ông sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị cho piano như sonate 2,3, ballade 3,4,
fantaisie f moll… Những năm này ông sống với nữ văn sĩ George Sand. Sau đó hai người chia tay, cuộc sống
của Chopin trở nên nặng nề. Ông đau yếu luôn, phải sang Anh chữa bệnh. Trở về Paris, ông mất ngày
17/10/1849.
-Cuối đời, ông có những tác phẩm nổi tiếng như các mazurka op.33, 50, 59, 63, 67, 68, polonaise
op.40, 44,, 53, 61, Polonaise fantaisie, nocturne cis, Des, G, c, fis, f, Es, các étude, prélude, ballade, valse,
impromptus…
III/ Tác phẩm:
-Thể loại sáng tác tiêu biểu của Chopin là tác phẩm cho piano. Các tác phẩm tiêu biểu có concerto
piano f moll, e moll, ballade 3,4, sonate 2,3, fantaisie f moll, Polonaise fantaisie…
-Tính chất âm nhạc: Âm nhạc liên quan chặt chẽ với dân ca, dân vũ Ba lan cả hình thức lẫn nội dung.
Chủ đề thơ mộng, trữ tình. Nội dung mang tâm lý sâu sắc. Ông thực hiện nhiều đổi mới trong giai điệu, hòa âm,
tiết tấu, hình thức âm nhạc. Ông chú trọng làm nổi bậc giai điệu piano. Giai điệu thường có những chùm nốt
ước lệ, nốt hoa mỹ. Màu sắc hòa âm thay đổi một cách tự nhiên.
Concerto piano f moll:
Chương I, chủ đề 1:
Férens Liszt
(1811-1886)
I/ Thân thế và sự nghiệp:
-Liszt là nhạc sĩ lãng mạn Hungari sống gần suốt thế kỷ XIX. Ông có công đặt nền móng cho nền âm
nhạc kinh điển Hungari. Trải qua các giai đọan thăng trầm của trường phái âm nhạc lãng mạn châu Âu, âm
nhạc ông mang nhiều nội dung và sắc thái khác nhau.
-Ông có công sáng tạo thể loại giao hưởng thơ 1 chương và củng cố giao hưởng tiêu đề (các loại giao
hưởng tiêu đề từ Berlioz, Glinka, Rimsky Korsakov, Dvorak, Liszt: xây dựng hình tượng và phát triển hình
tượng, hoành tráng, nhiều chi tiết, mang tính miêu tả).
-Ông rất giỏi về piano, chỉ huy, tổ chức âm nhạc và sư phạm âm nhạc (ông có 337 học trò dạy miễn
phí).
-Ông sinh ngày 22/10/1811 tại Doborian, phía Tây Hungari. Cha ông là người biết nhạc (violon, cello,
hát, sáng tác) đã dạy ông đàn. Mẹ là người gốc Áo. Liszt ứng tác rất giỏi, nghe và nhớ tốt. 8 tuổi ông đã tham
gia biểu diễn lần đầu với dàn nhạc. Bấy giờ có 5 nhà tài trợ Hungari cung cấp tiền cho Liszt đến Vienne học
nhạc. Tại đây, ông học sáng tác với Salieri và học piano với Carl Czerny. 11 tuổi, ông biểu diễn ở Vienne rất
thành công.
-1823 ông trở về Hungari biểu diễn và trở nên nổi tiếng. Tháng 12/1823, Liszt xin vào học nhạc viện
Paris nhưng bị từ chối (vì ông là người nước ngoài). Liszt học nhạc tư ở ngoài. 1825, ông sáng tác opéra đầu
tiên và một số tiểu phẩm cho piano. 1826-1827, ông được mời đi biểu diễn ở Pháp, Anh , Thụy sĩ.
-1827, cha Liszt mất, cuộc sống của ông trở nên khó khăn. Năm 1830, Liszt viết nhiều tác phẩm ủng hộ
cách mạng Pháp. Bấy giờ, ông say mê chủ nghĩa xã hội không tưởng.
-1833, Liszt gặp gỡ nữ bá tước Marie de Flavigny. 1835, bà bỏ chồng đi theo Liszt và hai người chung
sống 15 năm, có 3 người con. Năm 1835-1848 là thời kỳ sáng tác hay nhất của Liszt. 1839, ông có về thăm
Hungari và biểu diễn góp tiền xây dựng nhạc viện Budapest.
-Năm 1848, ông đến sống ở Weimar, đứng đầu trường phái âm nhạc Weimar chống lại trường phái
Leipzig, bảo vệ nguyên tắc âm nhạc tiêu đề. Thời gian này ông viết nhiều sách về lý luận mỹ học âm nhạc. Tại
Weimar, ông sống với nữ bá tước Caroline 13 năm.
-1861, ông sống cô độc ở Rome. 1865, ông trở thành linh mục. Thời gian này ông nghiên cứu những
tác phẩm cổ, đặc biệt là tác phẩm của Palestrina. Ông sáng tác những tác phẩm lớn cho nhà thờ mang nhiều
màu sắc Hungari. Ông vận động xây dựng nhà hát Bayreuth.
-1875, Paris tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm hoạt động âm nhạc của Liszt. Từ đó, học bổng Liszt được thành
lập hàng năm cấp cho 3 sinh viên giỏi âm nhạc. 1885, ông làm giám đốc nhạc viện Budapest. Ông mất ngày
21/7/1886.
II/ Tác phẩm:
-Tính chất âm nhạc: tác phẩm ông mang phong cách hát nói (recitatif). Giai điệu trang hoàng phong
phú, sử dụng thang âm dân gian Hungari (điệu thứ hòa âm với quãng 2 tăng giữa bậc III và IV). Tiết tấu sinh
động, thay đổi thường xuyên. Âm nhạc ông mang tính tiêu đề, nhưng không phải loại giao hưởng có chương
trình như Berlioz. Ông thể hiện một cách khái quát hình tượng chính của tác phẩm chứ không trình bày theo thứ
tự thời gian của sự việc.
-Thể loại sáng tác tiêu biểu của Liszt là giao hưởng thơ, giao hưởng tiêu đề và tác phẩm cho piano. Ông
có những tác phẩm tiêu biểu như: 13 giao hưởng thơ, 19 rhapsodie, liên khúc piano "Những năm chu du" (gồm
3 tập, mỗi tập 7 bài).
1)Tác phẩm cho piano: Đây là bộ phận quan trọng nhất trong sáng tác của Liszt. Ông sáng tác nhiều
thể loại cho piano như liên khúc, sonate, étude, rhapsodie, các tác phẩm cải biên và chuyển biên…Tác phẩm
piano của Liszt có qui mô lớn, âm lượng dày, nặng, trang trọng như dàn nhạc. Giai điệu điêu luyện, mang
phong cách ca xướng, ngâm vịnh.
Âm hình tiết tấu đa dạng nhưng vẫn duy trì ngôn ngữ piano. Ông mở rộng kỹ thuật piano từ kỹ thuật violon của
Paganini (trille, trémolo, chạy lướt, staccato liên tục, nhảy xa…)
-Tác phẩm tiêu biểu là 19 rhapsodie Hungari và liên khúc "Những năm chu du".
Rhapsodie Hungari là những tác phẩm cải biên tự do từ âm nhạc dân gian Hungari. Các bài số 2, 6, 9,
10, 12, 14, 15 có chuyển biên cho nhạc cụ khác.
Rhapsodie Hungari số 2: gồm 2 chương
Chương I, chủ đề mở đầu:
Chủ đề 1:
Chủ đề 2:
Liên khúc "Những năm chu du" gồm 3 tập: tập 1 nói về thiên nhiên và âm nhạc dân gian Thụy sĩ; Tập 2
miêu tả ấn tượng về nghệ thuật thời Phục hưng; Tập 3 nói về tiến trình từ sự say mê chủ nghĩa xã hội không
tưởng đến sự qui phục tôn giáo cuối đời của tác giả.
Ngoài ra Liszt có 5 étude concerto, 2 tác phẩm nổi tiếng cho piano và dàn nhạc (sonate fantaisie và
sonate hmoll, viết theo kiểu giao hưởng thơ 1 chương).
2)Giao hưởng: Liszt phát triển thể loại giao hưởng tiêu đề. Ông sáng tác theo kiểu xây dựng một hình
tượng trung tâm rồi phát triển tác phẩm một cách tổng quát, cô đọng, nhấn mạnh hình tượng chính. Hai giao
hưởng tiêu đề nổi tiếng nhất là Faust (1854) và Dante (1856).
Ông sáng tạo thể loại giao hưởng thơ 1 chương. Thể loại này có cấu trúc kết hợp nhiều hình thức khác
nhau. Nó là sự cô đọng của giao hưởng 4 chương cổ điển. Ông phát triển tác phẩm chủ yếu theo nguyên tắc đơn
chủ đề. Trong 13 giao hưởng thơ, tác phẩm nổi bậc nhất là giao hưởng thơ số 4 "Những khúc dạo đầu" (Les
Préludes).
Sau phần trình bày chủ đề, tác phẩm phát triển qua 4 giai đoạn. Phần tái hiện xuất hiện chủ đề phụ
trước, mang tính hùng tráng.
-Từ 1844-1845, ông sống tại Paris. Ông làm quen với các nhạc sĩ danh tiếng như Berlioz, Liszt. Từ
1845-1847, ông đi Tây ban nha sưu tầm dân ca và viết các tác phẩm mang màu sắc Tây ban nha như Jota
Aragonesa (1845), Đêm ở Madrid (1848). Tác phẩm nổi bậc nhất vào cuối đời của ông là Ouverture
Kamarinskaia (1848), gần gũi với văn học, nghệ thuật Nga. Ông mất ngày 3/2/1857 tại Berlin.
II/ Tác phẩm:
-Tính chất âm nhạc: Âm nhạc ông lấy chất liệu dân ca Nga. Nguyên tắc sáng tác giao hưởng chủ yếu là
biến tấu. Âm nhạc ông phản ánh tinh thần độc lập dân tộc, tính anh hùng và lòng yêu nước nồng nàn.
-Opéra: 2 opéra nổi bậc nhất của ông là Ivan Soussanine và Rousslan và Lioudmila, khởi nguồn cho 2
dòng nhạc kịch Nga: nhạc kịch lịch sử và nhạc kịch thần thoại. Vở Ivan Soussanine thuộc loại bi hùng lịch sử,
kể về 1 anh hùng nông dân Nga chống xâm lược Ba lan thế kỷ XVII. Đây là vở nhạc kịch Nga đầu tiên không
có đối thoại. Trong vở này, Glinka thực hiện giao hưởng hoá nhạc kịch và áp dụng nguyên tắc âm hình chủ đạo.
Rousslan và Lioudmila là vở nhạc kịch thần thoại dựa trên tác phẩm của Pouchkine. Đây là tác phẩm
mở đầu cho nhạc kịch cổ tích sử thi ở Nga. Vở này có 5 màn. Glinka thể hiện khả năng phối khí tinh tế, âm
nhạc mang màu sắc phương Đông.
Ouverture Rousslan và Lioudmila, chủ đề 1:
Chủ đề 2:
Giao hưởng: tác phẩm viết cho dàn nhạc của Glinka hầu hết là 1 chương. Giao hưởng của ông liên hệ chặt chẽ
với dân ca Nga và mang tính tiêu đề. Ông có những sáng tác nổi bật như: Fantaisie Kamarinskaia (biến tấu trên
2 chủ đề), Ouverture Tây ban nha, Valse Fantaisie (theo kiểu rondo), Đêm ở Madrid (hoà tấu 3 phần).
Mili Balakirev
(1836-1910)
-Balakirev là nhạc sĩ Nga có công thành lập nhóm "Hùng nạnh", một nhóm nhạc sĩ Nga rất nổi tiếng
trong nước và trên thế giới nửa sau thế kỷ XIX.
-Ông sinh ngày 2/1/1836 tại Novgorod và mất ngày 16/10/1910. Từ nhỏ ông đã được học piano và chỉ
huy. Ông làm nhạc trưởng trong 1 dàn nhạc của 1 nhà bảo trợ. Từ 1853-1855, ông học tại 1 đại học ở Kazan.
1855, ông đến Pétersbourg; tại đây, tài năng của ông được nhạc sĩ Glinka chú ý. Ông nhanh chóng trở thành
nhà hoạt động âm nhạc nổi tiếng về biểu diễn piano, sáng tác, chỉ huy, lý luận âm nhạc.
-Năm 1856 ông thành lập nhóm "Hùng mạnh". Năm 1860, ông đi sưu tầm dân ca dọc sông Volga, viết
phần đệm và in thành tuyển tập "40 bài dân ca Nga".
-Thập niên 60, ông hoạt động tổ chức trường âm nhạc miễn phí, chỉ huy dàn nhạc. Đầu thập niên 70,
ông bị khủng hoảng thần kinh và nghỉ các hoạt động âm nhạc cho đến đầu thập niên 80.
-Tác phẩm nổi bậc: Fantaisie cho piano Islamey, giao hưởng thơ "Nước Nga" (1000 năm), giao hưởng
thơ Tamara, ouverture Vua Lia, ouverture dựa trên chủ đề 3 bài dân ca Nga, ouverture dựa trên chủ đề hành
khúc Tây ban nha.
César Cui
(1835-1918)
-Ông sinh ngày 18/1/1835 tại Vilna, trong 1 gia đình cựu sĩ quan Pháp. Ông mất ngày 26/3/1918 tại
Pétersbourg. Ông nổi tiếng trong lĩnh vực lý luận âm nhạc, đấu tranh cho khuynh hướng hiện thực.
-Lúc đầu, ông học trường trung cấp kỹ thuật quân sự rồi chuyển sang viện hàn lâm kỹ thuật quân sự.
Ông là nhà lý luận quân sự có tài, giáo sư chủ nhiệm khoa. Năm 1856 ông tham gia nhóm "Hùng mạnh". Ông
sáng tác 10 opéra, nổi bật có "Le Prisonnier du Caucase", "William Ratcliff". Ông sáng tác 250 romance, các
hợp xướng, liên ca khúc, tiểu phẩm piano, nhạc thính phòng…
Alexandre Borodine
(1833-1887)
-Ông là người sáng lập dòng giao hưởng anh hùng ca Nga mang tính sử thi. Ông tô điểm cho hình
tượng anh hùng trong những truyện thần thoại, cổ tích hay trong lịch sử bằng bộ gỗ và bộ gõ màu sắc mang
đậm nét dân gian Nga.
-Ông còn là nhà hóa học và nhà hoạt động xã hội nổi tiếng.
-Ông sinh ngày 31/10/1833 tại Pétersbourg. Từ nhỏ ông đã học flute, piano, cello, sáng tác. Năm 1850
ông vào học viện thực nghiệm y học thành phố. Sau đó ông tốt nghiệp tiến sĩ ra giảng dạy môn hóa tại trường.
-Năm 1862, ông tham gia nhóm "Hùng mạnh".
-Hai thể loại sáng tác nổi bậc của ông là giao hưởng và opéra. Tác phẩm tiêu biểu có: 3 giao hưởng 4
chương (giao hưởng số 2 mang tên "Dũng sĩ"(1876), giao hưởng số 3 chưa hòan thành, được Rimsky Korsakov
và Glazounov viết tiếp), giao hưởng tiêu đề "Miền Trung Á"(1880), opéra "Hoàng tử Igore", 2 tứ tấu dây số 1
(1879) và số 2 (1882), các romance "Công chúa ngủ trong rừng", "Những bài hát của khu rừng tối", "Biển",
"Thanh âm lạc lõng"…
-Ông mất ngày 2/5/1887 tại Pétersbourg do bệnh tim.
Giao hưởng 2 (h moll): tác giả vẽ những bức tranh đồ sộ, thể hiện tính anh hùng.
Chương I: sonate allegro có tiêu đề "Cuộc hội tụ các tráng sĩ". Chủ đề 1 ở bè trầm của bộ dây, mang
tính hùng dũng, kiên quyết. Chủ đề 2 trữ tình, du dương, mang âm hưởng dân ca Nga.
Chương II: scherzo, hình thức 3 đoạn phức với đoạn đầu và đoạn cuối mang tính sonate 2 chủ đề (chủ
đề 1 mang tính vũ khúc, chủ đề 2 trữ tình, mang màu sắc phương Đông).
Chương III: andante, hình thức sonate, phát triển liên tục sang chương IV.
Chương IV: hình thức sonate, mang tính hội hè, vui vẻ.
Modest Moussorgsky
(1839-1881)
-Moussorgsky là nhà soạn nhạc hiện thực, phản ánh những mâu thuẫn xã hội trong tác phẩm âm nhạc.
Ông thường sử dụng các đề tài mang tính lịch sử.
-Ông sinh ngày 9/3/1839 tại làng Karevo, trong 1 gia đình quí tộc nhỏ. 4 tuổi ông học piano. 9 tuổi,
Moussorgsky bắt đầu biểu diễn các tác phẩm nhỏ của Liszt. Năm 1849 ông đến Pétersbourg thi vào trường sĩ
quan cận vệ. Năm 1858, ông bỏ nghề sĩ quan cận vệ theo hẳn ngành nhạc.
-Năm 1862 ông tham gia nhóm "Hùng mạnh". Ông sáng tác các tác phẩm cho piano, romance, Scherzo
Es dur cho dàn nhạc giao hưởng, chuyển thể các tác phẩm của Glinka cho piano 4 tay. 1863-1866 ông viết
opéra Salammbo mang màu sắc phương Đông, tập bài hát "Những bức tranh nhân dân", liên khúc "Nhi đồng"
và một số bài hát châm biếm. Sau này ông viết thêm nhiều tác phẩm rất nổi tiếng như: giao hưởng "Đêm trên
đồi trọc" (1867), opéra "Boris Godounov" (1869), opéra "Khovanstchina", "Chợ Sorocinsky", liên khúc piano
"Những bức tranh trong phòng triển lãm" (1874), liên ca khúc "Những bài ca và điệu nhẩy của thần chết",
ballade "Bị lãng quên"…
-Những năm cuối đời, ông sống nghèo khổ và bị bạn bè xa lánh vì không hiểu được những cải cách của
ông. Ông mất ngày 28/3/1881 tại Pétersbourg.
Liên khúc "Những bức tranh trong phòng triển lãm": (1874) tác phẩm được viết sau khi tác giả đi
xem triển lãm tranh của 1 người bạn. Tác phẩm gồm 10 khúc nhạc diễn tả 10 bức tranh với đoạn chen "Đi dạo"
được biến tấu để phù hợp nội dung các bức tranh.
-Khúc 1 "Quỉ lùn"
-Khúc 2 "Lâu đài cổ"
-Khúc 3 "Vườn Tuleries"
-Khúc 4 "Chiếc xe Bydlo"
-Khúc 5 "Vũ khúc bầy gà con"
-Khúc 6 "Hai người Do thái giàu và nghèo"
-Khúc 7 "Chợ Limoges"
-Khúc 8 "Đường hầm mộ cổ La mã"
-Khúc 9 "Túp lều chân gà của phù thủy Babaiga"
-Khúc 10 "Cổng lớn ở Kiev"
Piotre Tchaikovsky
(1840-1893)
I/ Đặc điểm thân thế và sự nghiệp:
-Ông là nhạc sĩ Nga rất nổi tiếng thế giới nửa sau thế kỷ XIX. Ông là một trong những đại diện tiêu biểu nhất
của trường phái âm nhạc Maskva ở Nga. Ông sáng tác thành công ở nhiều thể loại như giao hưởng, nhạc kịch,
vũ kịch, nhạc thính phòng…Ông còn là nhà sư phạm, lý luận phê bình âm nhạc, chỉ huy nổi tiếng.
-Ông sinh ngày 25/04/1840 tại Votkinsk, trong một gia đình quý tộc bậc trung. Ông được học âm nhạc
từ nhỏ. Từ 1850-1859 ông học trung cấp luật tại Pétersbourg. 1862 ông bỏ nghề luật thi vào nhạc viện
Péterbourg. Ba năm sau ông tốt nghiệp với huy chương bạc.
-Năm 1865 ông trở thành giáo sư nhạc viện Maskva. Từ 1865-1877 ông có những tác phẩm nổi bậtnhư:
3 giao hưởng. 4 opéra (trong đó có opéra Sevevisky, Mazeppa, La Pucelle d’Orléans), vũ kịch Hồ thiên nga,
ouverture Roméo và Juliette (1869), Bão tố (1873), Francesca da Rimini (1876), tập tiểu phẩm piano Bốn
mùa…
-1877-1885 ông trải qua một thời kỳ khủng hoảng tinh thần do xã hội ngột ngạt và hôn nhân không
thành. Thời kỳ này ông thường sống những nơi yên tĩnh và đi chu du nước ngoài. Từ 1878 ông được một bà
triệu phú bảo trợ về kinh tế. Ông sáng tác được nhiều tác phẩm có giá trị như: giao hưởng số 4, opéra Eugène
Onéguine, Capriccio Italien, Ouverture 1812, Concerto violon, Concerto số 2 cho piano…
-Thập niên 80, ông bắt đầu hoạt động chỉ huy. Thời gian này ông viết giao hưởng tiêu đề Manfred, giao
hưởng số 5. Những năm cuối đời (1885-1893) là thời kỳ ông viết nhiều nhất; ông có những tác phẩm nổi tiếng
như: opéra Con đầm bích (1890), giao hưởng số 6 (1893), vũ kịch Người đẹp ngủ trong rừng (1889), Cặp hạt
dẻ, Jolanta (1891)… Ông mất ngày 25/10/1893 tại Pétersbourg.
II/ Tác phẩm:
-Tính chất âm nhạc: Âm nhạc Tchaikovsky mang tính trữ tình, triết lý sâu sắc. Hoà âm, phối khí, cấu
trúc chặt chẽ theo phong cách cổ điển. Giai điệu đẹp.
-Giao hưởng: Giao hưởng Tchaikovsky thường mang tính trữ tình, triết lý, giàu kịch tính. Ông sáng tác
khoảng 30 tác phẩm cho dàn nhạc, trong đó có 6 symphony, 1 giao hưởng tiêu đề, nhiều ouverture, giao hưởng
thơ, tổ khúc giao hưởng và concerto. Tác phẩm nổi bật nhất là giao hưởng số 5 và số 6.
-Opéra: Ông sáng tác khoảng 10 opéra, chia làm 2 loại: opéra lịch sử (Cô gái Orléan, Serevisky,
Iolanta…) và opéra tâm lý xã hội (Con đầm bích, Eugène Onéguine). Ông chú trọng đề tài bi kịch, những xung
đột trong cuộc sống, khát vọng con người. Thủ pháp điển hình của ông là sự so sánh tương phản giữa các nhân
vật, các cảnh, các hồi.