Professional Documents
Culture Documents
Hà Nội 2 - 2010
MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, cùng với những thành công có ý nghĩa lịch
sử của quá trình Đổi mới, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, việc tiếp tục đổi mới,
hoàn thiện hệ thống chính trị nước ta là vấn đề cấp thiết khi đất nước đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Những căn cứ cho sự đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị mặc dù vẫn
dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhưng cũng đồng thời đòi hỏi các đột phá, các sáng tạo mới thích ứng với tình
hình và mục tiêu phát triển trong giai đoạn hiện nay. Các đột phá và sáng tạo
như vậy không chỉ đòi hỏi phải nghiên cứu thấu đáo các kinh nghiệm của nước
ta và kinh nghiệm của các nước anh em lựa chọn mục tiêu XHCN, mà cũng
cần tham khảo kinh nghiệm và tiếp thu những giá trị có tính phổ biến của nền
văn minh chính trị nhân loại, thể hiện trong các mô hình và hoạt động của
HTCT ở một số nước trên thế giới, từ đó có được các khái quát mang tính lý
luận và khả năng ứng dụng trong thực tiễn nghiên cứu và giảng dạy của Viện
Chính trị học. Đặc biệt, thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta, cũng như yêu cầu tuân thủ các chuẩn mực pháp lý quốc tế
khi tham gia các hoạt động đối ngoại cũng đặt ra vấn đề cần hiểu biết HTCT
của các nước trên thế giới, nhìn nhận đúng nền tảng chính trị, cấu trúc lợi ích,
và các ràng buộc thể chế đối với các hoạt động chính trị thực tiễn nằm dưới các
HTCT này.
Cho đến nay, mặc dù đã có khá nhiều nghiên cứu về đời sống chính trị
của các nước trên thế giới, các kết quả nghiên cứu này vẫn còn mang tính khá
tản mạn. Một trong các điểm chưa thích hợp quan trọng nhất của các nghiên
cứu trên là sự khác biệt trong góc độ nghiên cứu. Nhiều nghiên cứu còn mang
tính mô tả, hoặc phân tích từ góc độ văn hóa hay đất nước nói chung, do vậy
khó có thể làm nổi bật các lý luận chính trị học, và các so sánh chính trị cần
thiết, vốn đòi hỏi cách tiếp cận riêng. Nói cách khác, việc so sánh các HTCT
đã không được đặt thành trọng tâm và được tuân theo các chuẩn mực khoa học
cần thiết của chính trị học so sánh. Tình hình đó dẫn đến việc dù có rất nhiều
thông tin và sự kiện, nhưng các nghiên cứu này lại khó có thể được sử dụng
cho việc nghiên cứu và giảng day chính trị học so sánh một cách có hiệu quả.
Từ các lý do trên, mục tiêu tổng quát của cuốn sách là: Trên cơ sở tổng
hợp các phân tích về một số hệ thống chính trị (HTCT) có tính chất đại diện,
điển hình trên thế giới, so sánh và phân tích tính phổ biến và đặc thù của các
hệ thống chính trị, làm rõ các giá trị văn minh chính trị có tính khái quát lý
luận.
Chương 1
NHẬP MÔN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CHÍNH TRỊ
HỌC SO SÁNH
1
Các phê phán căn bản về trường phái này đã được Viện KHCT dịch, cùng với các trích đoạn của các nghiên
cứu ban đầu của 3 tác giả nêu đầu tiên
Đây là một cách tiếp cận quan trọng, đang được phát triển bằng cách
kết hợp với các ưu điểm của trường phái cấu trúc (tức phân tích vĩ mô) như
trên đã đề cập. Kết hợp này có thể mô tả ngắn gọn như sau: Các nhân vật chính
trị luôn tối đa hóa (do duy lý) các lợi ích của mình (do duy lợi) (các lợi ích này
rất đa dạng: từ lợi ích có tính vị kỷ như số phiếu bầu, sự tín nhiệm của cấp
trên, tiền, ngân sách được cấp cho cơ quan mà mình là thủ trưởng, đến các lợi
ích công cộng: xây được nhiều trường học nhất, giảm được số người thất
nghiệp...). Tuy nhiên, các tính toán này (được thể hiện cuối cùng qua hành vi)
sẽ bị hạn chế bởi hai nguồn chính: 1) Nguồn lực mà người đó có, và 2) Thể chế
và tổ chức hiện hành.
Chính do có hạn chế này mà họ sẽ lựa chọn một hành động theo họ là tối
ưu (đạt điểm cực đại, và cân bằng trong toán học). Hành động tối ưu đó được
thi hành và do vậy các quan sát trong thực tế chính là biểu hiện của sự tính
toán đó (do vậy có thể kiểm định được). Các hạn chế khác nhau ở các nước
khác nhau sẽ giải thích cho sự khác nhau (hay giống nhau) trong thực tế hoạt
động chính trị. Chính trị học so sánh, lúc đó có thể coi về căn bản là sự mở
rộng mẫu khảo sát của chính trị học trong nước. Tức tính khoa học của chính
trị học phải được thể hiện trong sự phổ quát của cách giải thích các hiện tượng
chính trị tại mọi nước.
Tuy nhiên, có thể nhận xét rằng, trường phái này vẫn còn nặng về giải
thích các hoạt động chính trị, trong khi chưa đưa ra được nhiều gợi ý cho hành
động ở cấp vĩ mô.
Tiếp cận Văn hóa
Chúng ta để tiếp cận này ở phần ba, vì có thể coi rằng đây cũng chỉ là
cách tiếp cận bổ sung cho hai cách tiếp cận trên, dù nó rất quan trọng và thú vị
(do sự khác thông thường của các ảnh hưởng văn hóa, ví dụ văn hóa làng xã
với phép vua thua lệ làng của Việt Nam đối với người nghiên cứu từ nền văn
hóa khác), đến mức đôi khi người ta dường như bỏ qua nền tảng lý tính của
văn hóa. Văn hóa, như Kant viết, là quá trình đào luyện lý tính. Chân, thiện,
mỹ cũng chỉ có được thông qua quá trình thanh lọc của lý tính. Và nếu vậy, dù
có chậm biến đổi (và do vậy có thể coi là yếu tố bất biến, hay “biến số ngoại
sinh” trong một mô hình toán học chính trị), vẫn có thể xét chúng dưới một
trong hai góc độ tiếp cận trên, nếu có thiết kế nghiên cứu (tức thay đổi mô hình
gốc) một cách thích hợp. Trong chủ nghĩa Mác lại càng khó có thể lập luận về
việc đặt ngang bằng cách tiếp cận này ngang với hai cách tiếp cận trên. Đây có
lẽ là lý do chính khiến Ross1 nhận xét rằng rất hiếm có các nghiên cứu chính trị
so sánh nào lại đặt yếu tố văn hóa trong vai trò trung tâm.
“Văn hóa” từ lâu đã là khái niệm trung tâm của nhân loại học
(anthropology, hay nhân chủng học) được định nghĩa bằng nhiều cách, từ
nhiều mục đích nghiên cứu khác nhau bao gồm thái độ, niềm tin, hệ giá trị, lối
sống, tổ chức xã hội. Các nghiên cứu chính trị học, tuy nhiên khá thống nhất
khi dùng văn hóa với nội hàm như Geertz (1973) trình bày: văn hóa “là khuôn
mẫu do lịch sử để lại về ý nghĩa kết tinh trong các biểu tượng, là hệ thống các
quan niệm truyền thống được thể hiện qua hình thức các biểu tượng, nhờ đó
con người giao tiếp, duy trì và phát triển tri thức về đời sống và thái độ đối với
đời sống của mình”2. Cách định nghĩa này nhấn mạnh sự chia sẻ trong cộng
đồng về ý nghĩa (meaning). Các hành vi, thể chế, và các cấu trúc xã hội được
hiểu không phải là bản thân văn hóa mà chỉ là các hiện tượng cấu thành văn
hóa (culturally constituted phenomena).
Việc dùng cách tiếp cận văn hóa được phát triển với các nhà nghiên cứu
như Banfield (1958), Almond và Verba (1963), Chagnon (1967)... trong đó
văn hóa được dùng như một yếu tố quan trọng để giải thích các hành vi, hoạt
động chính trị đặc thù (hay không đặc thù) cho một cộng đồng người nào đó.
Yếu tố quan trọng nhất trong đó, theo Geertz (1973), là sự chia sẻ của cộng
đồng trong hình dung về “một trật tự xã hội”. Và từ đó, sự chia sẻ về tính
chính đáng, tính hợp pháp (nghĩa rộng bao gồm cả tục lệ bất thành văn) của
các thủ tục (procedures) giải quyết các bất đồng (và sự hợp tác) xã hội. Tức
1
Ross, 1997: tr. 43
2
Nguyên văn: “An historically transmitted pattern of meaning embodied in symbols, a system of inherrited
conceptions expressed in symbolic forms by means of which men communicate, perpetuate, and develop their
knowledge about and attitude towards life”
bao hàm tính chính đáng của quyền lực xã hội, một khái niệm trung tâm của
chính trị học, cũng như của chính trị thực tiễn.
Sự gần gũi của CTHSS từ cách tiếp cận văn hóa với phân môn Nhân loại
học chính trị (political anthropology) cảnh báo về tính khái quát lý thuyết thấp,
tiềm ẩn trong các nghiên cứu do thiên về khảo sát các chi tiết văn hóa đặc thù
cho từng trường hợp. Do vậy, khi nghiên cứu chính trị trong các nền văn hóa,
việc xác định đúng vai trò của các yếu tố văn hóa bên cạnh các yếu tố về thể
chế và cá nhân duy lý là rất quan trọng. (Xem thêm về thảo luận chi tiết trong
Ross, 1997). Trong 5 chủ đề nghiên cứu chính của chính trị học so sánh tổng
kết bởi Rogowski (1993), chỉ có chủ đề thứ năm về chủ nghĩa dân tộc và khác
biệt sắc tộc là có liên quan nhất tới cách tiếp cận này, trong khi 4 chủ đề trước
(Kinh tế học của Chính trị; bối cảnh quốc tế và chính trị đối nội; các nhóm lợi
ích và chủ nghĩa tập đoàn; và cơ cấu nhà nước với hiệu quả hoạt động) đều
chứng tỏ sự phục hồi và phát triển của cách tiếp cận thứ nhất (phân tích thể chế
vĩ mô) và cách tiếp cận thứ hai (lựa chọn duy lý).
Việc phân loại thành các cách tiếp cận rõ ràng như trên không phải khi
nào cũng thuyết phục vì trong các nghiên cứu cụ thể, người ta đều dùng tổng
hợp các thành quả nghiên cứu của mọi trường phái.
1.4. TIẾP CẬN HỆ THỐNG VÀ HỆ THỐNG THEO CẤU TRÚC, CHỨC
NĂNG
Vương quốc Thống nhất Anh (United Kingdom of Great Britain, sẽ viết
tắt là Anh (UK) trong bài này) bao gồm 4 vùng: Anh (England), Scotland,
Wales và Bắc Ai len (North Ireland), trong đó England là vùng lớn nhất, mặc
dù chỉ chiếm 54% diện tích nhưng chiếm tới trên 80% dân số. Vị trí địa lý của
Anh tách khỏi châu Âu lục địa có những tác động quan trọng đến chính trị.
Đây là một trong các yếu tố quan trọng giúp cho đất nước chống được ngoại
xâm và đảm bảo phần nào tính liên tục của những tiến bộ chính trị. Mặt khác,
điều đó cũng có thể gây các cản trở cho hợp tác chính trị với các nước khác ở
châu Âu.
Địa lý và Dân số
Diện tích: 243,000 km vuông.
Trong đó: 25% trồng trọt, 46% bãi cỏ và chăn nuôi, 10%
rừng, 19% cho các mục đích khác. Thủ đô: London (dân số 7.2
triệu).
Dân số (2009): 61.8 tr.
Tốc độ tăng dân số bình quân (2009): 0.4%.
Các nhóm sắc tộc chính: Anh, Ailen (Irish), Tây Ấn (West
Indian), Nam Á (South Asian).
Tôn giáo chính: Anh giáo (Anglican), Thiên chúa giáo
(Roman Catholic), Trưởng lão (giáo hội Scotland - Presbyterian),
Hồi giáo.
Giáo dục: Phổ thông bắt buộc 12 năm. Tỷ lệ biết chữ: 99%.
Tuổi thọ: Nam 76. Nữ 81; Trung bình: 78.7.
Lực lượng lao động (2007): 31,1 triệu, trong đó: Dịch vụ
80,4%; Công nghiệp 18,2%; Nông nghiệp 1.4%.
Những làn sóng di cư từ thời La mã của người Xen tơ (Celts), Xắc xông
(Saxon) và Đan Mạch (Danes) xuống thành người Ailen (Irish) và người
Caribeans gốc châu Phi. Gần 5% dân số không phải là người da trắng. Hai
phần ba dân số theo Anh giáo (Church of England - Anglican) lớn hơn rất
nhiều tỷ lệ không theo tôn giáo (15%) và theo đạo Thiên chúa giáo (10%).
Kinh tế
GDP (2007): 1,93 ngàn tỷ USD. GDP/người: 31.800 USD
Tăng trưởng kinh tế (2006): 2.8%. Nông nghiệp chiếm 1,1% GDP.
Xuất khẩu: 468,8 tỉ USD, Nhập khẩu: 603 tỉ USD (2006).
UK là nước tư bản có nền kinh tế phát triển và thu nhập đầu người cao,
và một tầng lớp trung lưu chiếm đa số, khá đặc thù cho các nước phát triển.
Nền kinh tế của UK đứng thứ 5 trên thế giới, và cũng là một trong các nước có
hoạt động tài chính, ngoại thương sôi động bậc nhất. London và New York
được coi là hai trung tâm hàng đầu về tài chính quốc tế.
Lược sử chính trị
Nền dân chủ hiện đại tại Anh là kết quả của một tiến trình chính trị dài
hơn 700 năm, khởi đầu từ Hiến chương Magna Carta (được ký bởi vua John
vào ngày 15/6/1215, dưới sức ép của tầng lớp quí tộc). Đây là lần đầu tiên
quyền lực chính trị của giai cấp quí tộc được hợp pháp hoá. Tuy nhiên, điều
quan trọng hơn là Hiến chương này đã hạn chế quyền lực của nhà vua và
khẳng định tính tối cao của luật pháp. Tiếp đó là Nghị viện đầu tiên của Anh
đã nhóm họp vào năm 1265.
Mâu thuẫn về quyền lực chính trị giữa giới quí tộc và hoàng gia tại Anh
đã là nguyên nhân của cuộc Chiến tranh Hoa hồng (War of Roses, 1455 -
1465) với kết quả là quyền lực của nhà vua được tái củng cố. Tuy nhiên, ngay
cả trong thời kỳ này, ảnh hưởng ngày càng lớn của nghị viện đã khống chế
được phần nào sự lạm dụng quyền lực của nhà vua.
Mâu thuẫn quyền lực đã phát triển tới đỉnh điểm vào thế kỷ 17 với cuộc
Cách mạng Thanh giáo (Puritan Revolution, 1642-1649) và Cách mạng Vinh
quang (Glorious Revolution, 1688-1689). Kết quả là Hoàng gia Anh phải chấp
nhận Dự luật về các Quyền (the Bill of Rights) vào năm 1689, khẳng định
quyền tối cao của Nghị viện. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là nền dân chủ
Anh đã tiến một bước dài bởi vì Nghị viện lúc đó vẫn bị khống chế bởi giới quí
tộc, tầng lớp người giầu và Giáo hội Anh.
Phải đến thế kỷ 19 Hạ viện Anh (House of Commons) mới có những
bước biến chuyển để trở thành cơ quan lập pháp đại diện thực sự. Trước đó,
mỗi tỉnh (county) được cử hai quí tộc và mỗi hạt tự trị (borough) được bầu hai
công dân vào Hạ viện. Tuy nhiên chỉ có một số ít người thuộc giới trung lưu là
có quyền bầu cử. Do cuộc cách mạng công nghiệp, phân bổ dân số đã có
những thay đổi căn bản. Nhiều hạt tuy đã mất dân nhưng vẫn giữ nguyên ghế
trong Hạ viện. Trong khi đó, các thành phố công nghiệp mới như Manchester,
Leeds,... mặc dù có hàng trăm ngàn dân lại không có đại diện trong Hạ viện.
Đạo luật Cải cách Lớn (Great Reform Act, 1832) ra đời đã cải thiện sự bất
bình đẳng này một phần nào, bằng cách tăng số ghế đại diện cho các thành phố
công nghiệp lớn và giảm (hoặc huỷ bỏ) số ghế của các hạt đã trở nên nhỏ
(rotten boroughs). Ngoài ra, Đạo luật cũng mở rộng diện cử tri lên gấp đôi.
Tuy nhiên, số cử tri cũng mới chỉ chiếm 4% dân số.
Đạo luật cải cách tiếp theo vào 1867 tiến thêm một bước bằng cách mở
rộng diện cử tri, một lần nữa nâng tổng số cử tri lên gấp hai. Kết quả là những
người trung lưu lớp dưới, điền chủ, và một số công nhân cũng có quyền bầu
cử. Các cải cách tiếp theo cũng tăng thêm tính đại diện của Hạ viện như luật bỏ
phiếu kín (1872), và các cải cách năm 1884-85 đã điều chỉnh số ghế theo tỷ lệ
dân số.
Năm 1911, Đạo luật về Nghị viện (the Parliament Act) đã khẳng định
tính tối cao của Hạ viện so với Thượng viện (House of Lords). Trong trường
hợp mâu thuẫn giữa hai viện, Hạ viện sẽ có tiếng nói quyết định vì nó được
bầu bởi dân chúng trong khi Thượng viện được thiết lập trên cơ sở dòng dõi.
Sau Thế chiến I, Đạo luật về Đại diện của Dân chúng (the Representaion
of People Act, 1918) cho phép nam giới trên 21 tuổi và nữ giới trên 30 tuổi có
quyền bầu cử. Năm 1928, tuổi đi bầu của nữ cũng được giảm xuống bằng nam
giới (21 tuổi). Sau Thế chiến II, Đạo luật về Đại diện dân chúng năm 1948 đưa
ra nguyên tắc điều chỉnh số ghế theo sự thay đổi dân số và nguyên tắc một
người-một phiếu bầu (trước đó có một số người tầng lớp trên có thể được bỏ
tới 3 phiếu). Cuối cùng, vào những năm 1960, tuổi đi bầu được hạ xuống còn
18 cho cả nam và nữ.
Như vậy, có thể thấy nền dân chủ đại nghị trong khuôn khổ quân chủ lập
hiến của Vương quốc Anh là kết quả của một tiến trình chính trị lâu dài và đầy
biến động. Tiến trình này hoàn toàn không “hoà bình” và suôn sẻ như một số
người lầm tưởng khi họ chỉ dựa trên một sự kiện là nhiều thiết chế chính trị
quan trọng của Vương quốc Anh hiện đại đã có từ thời trung cổ. Các cuộc nội
chiến đẫm máu (Chiến tranh Hoa hồng, Cách mạng Thanh giáo) đã minh
chứng cho điều này.
Cơ cấu giai cấp
Hệ thống chính trị còn bị qui định một phần quan trọng bởi các điều
kiện xã hội cụ thể. Trong đó, các cơ cấu giai cấp, sắc tộc, tôn giáo là các dữ
kiện quan trọng.
Khác với nhiều nước phương tây, tầng lớp quí tộc Anh vẫn tồn tại và,
mặc dù ít ỏi về số lượng, vẫn còn được trọng vọng và có quyền lực chính trị
nhất định thông qua Thượng viện.
Qua các cuộc điều tra, nhận thức về tính giai cấp của người dân Anh
ngày càng bị nhòa. Nếu như vào năm 1964 có 50% số người được hỏi có thể tự
xác định được giai cấp của mình, thì tới năm 1981, con số đó chỉ còn 29%1.
Một số nghiên cứu khác cho rằng, mặc dù mức độ xác định giai cấp của người
dân còn khá cao nhưng ngày càng ít người cho rằng xung đột giai cấp là bản
chất của đời sống chính trị.
1
Theen và Wilson, tr 39
Trên bề mặt, xung đột giai cấp không thể hiện một cách gay gắt qua các
hành động mang tính cách mạng. Điều này có thể được giải thích bởi một số
quan sát sau:
Sự chuyển đổi thành viên giữa các giai cấp: một số những người ưu tú
của tầng lớp dưới chuyển lên tầng lớp trên. Với phát triển kinh tế, ngày
càng có nhiều người nghèo trở nên giàu có hơn. Tầng lớp trung lưu được
mở rộng. Cơ cấu kinh tế biến đổi cũng làm cho tỉ trọng của công nhân
trong tổng số người lao động giảm đi.
Chính phủ có những cải cách có lợi cho người lao động và những người
ở tầng lớp dưới (các luật về lao động, lương tối thiểu, bảo hiểm xã hội).
Phong trào công nhân được hoà nhập vào các hoạt động của Công đảng
Anh. Điều này cho phép giai cấp công nhân có thể đạt được một số mục
tiêu chính trị nhất định thông qua các hoạt động trong khuôn khổ hợp
pháp.
Cơ cấu giai cấp xã hội ngày càng phức tạp cùng với thu nhập ngày càng
tăng.
Mặc dù trên bề mặt như vậy, sự phân hoá giầu nghèo tại Anh cũng như
tại nhiều nước tư bản khác vẫn là những yếu tố tiềm ẩn cho sự bùng nổ của các
xung đột giai cấp.
Các vấn đề sắc tộc - tôn giáo
Về mặt địa lý, Vương quốc Anh bao gồm 4 vùng: Anh, Scotland, Wales,
và Bắc Irland. Anh, mặc dù chỉ chiếm 54% diện tích nhưng chiếm tới trên 80%
dân số. Cho đến những năm 1960, Vương quốc Anh vẫn được coi như một dân
tộc khá đồng nhất. Vào cuối những năm 1960, các phong trào dân tộc chủ
nghĩa ở Scotland, Wales, và Bắc Irland đòi một quyền tự trị lớn hơn cho họ đã
cho thấy những mầm mống của sự rạn nứt trong tính thống nhất dân tộc. Các
phong trào này, sau một loạt các thất bại, nay đã lắng xuống. Tuy nhiên, các
nguyên nhân kinh tế- xã hội - chính trị dẫn đến chúng vẫn còn đó.
Bên cạnh đó, mâu thuẫn giữa những người theo đạo Công giáo và Tin
lành tại Bắc Irland vẫn là vấn đề nan giải lớn cho chính phủ Vương quốc Anh
hiện nay.
II. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ: Cấu trúc quyền lực và hoạt động thực tế
Đây là phần quan trọng để hiểu hệ thống chính trị của một nước. Phần
này sẽ cố làm nổi bật các vấn đề về tổ chức quyền lực cũng như cơ chế kiểm
soát và cân bằng quyền lực.
1.1. “Hiến pháp” Anh
Một trong những mục tiêu quan trọng của khoa học chính trị là xác định
một “chính phủ tốt” và các điều kiện cho chính phủ đó tồn tại. Đối với nhiều
người, để tạo ra một chính phủ tốt cần phải có một loạt các thiết chế chính trị
tốt với các quyền lực thích hợp và các hạn chế thích hợp. Tóm lại là cần có
một hiến pháp qui định tổ chức bộ máy lập pháp, hành pháp và hệ thống toà án
cũng như xác định mối quan hệ giữa chúng. Tuy nhiên lịch sử cũng như thực
tế hiện nay cho thấy một hiến pháp được soạn thảo tốt cũng như các thiết chế
không qui định bản chất dân chủ của hệ thống chính trị nếu nó không phù hợp
với điều kiện xã hội, chính trị, kinh tế cụ thể.
Mặc dù trong nhiều trường hợp, các thay đổi chính trị đã bắt nguồn từ
các điều khoản của hiến pháp, đã có nhiều ví dụ cho thấy không phải hiến pháp
qui định tính chất của chính phủ mà ngược lại, sự tích tụ các thông lệ trong
hoạt động của chính phủ đã dẫn đến các thiết chế mới cũng như tạo nên nội
dung thực của hiến pháp. Mối quan hệ biện chứng như vậy cũng là dễ hiểu.
Vương quốc Anh là một ví dụ nổi bật cho trường hợp thứ hai.
Không giống như đa số các nước Tây Âu, Anh không có một văn bản
hiến pháp qui định các thủ tục, qui tắc căn bản cho chính phủ và các thể chế
chính trị một cách hệ thống. Hiến pháp Anh được thể hiện qua các thông lệ
truyền thống, cũng như trong một loạt các văn bản lịch sử và các đạo luật
(Acts) của nghị viện. Chúng chưa bao giờ được tập hợp lại thành một văn bản
duy nhất. Tuy nhiên, điều này không nhất thiết làm cho người dân kém tôn
trọng hiến pháp hơn cũng như không làm cho hệ thống chính trị kém hiệu quả
hơn trong việc tổ chức chính phủ và kiểm soát quyền lực của nó.
Chính nhờ sự không thành văn của hiến pháp mà nước Anh giữ được
các truyền thống lịch sử cũng như các thể chế vốn có ngay cả khi các nguyên
tắc hiến pháp có những thay đổi căn bản. Nói một cách khác, bản chất tích tụ
của hiến pháp đã giữ gìn được tính thống nhất và kế thừa lịch sử. Sự không
thành văn này cũng khiến cho hiến pháp dễ thích nghi với các đòi hỏi mới của
điều kiện lịch sử, và dễ thay đổi bởi các thông lệ mới và các thông hiểu không
chính thức. Ví dụ điển hình là mặc dù không có luật nào qui định, một nguyên
tắc hiến pháp bất thành văn được Anh tôn trọng là thủ tướng phải là hạ nghị sĩ,
tức là người được dân chúng bầu lên.
Tất nhiên, từ khía cạnh khác, sự dễ thay đổi như vậy dễ gây ra tính
không ổn định và rối loạn. Việc thiếu một tòa án hiến pháp đã dẫn đến tình
trạng đôi khi các nguyên tắc hiến pháp dễ bị vi phạm và thậm chí bị thay đổi
bởi các hành động từng được coi là không hợp hiến. Trong những trường hợp
này, các hành động đó thường được sự ủng hộ rộng rãi của tầng lớp lãnh đạo
và công chúng thông hiểu chính trị. Các nguyên tắc hiến pháp được bảo vệ
thông qua công luận và sự bầu cử của dân chúng. Đây là điểm đặc thù của Anh
trong cơ chế đối trọng với việc hiến pháp (tương đối) dễ bị vi phạm vì tính bất
thành văn của nó cũng như vì thiếu tòa án hiến pháp.
3 đặc điểm của hiến pháp (các đạo luật cơ bản) Anh:
i- Bất thành văn, theo nghĩa “không có một văn bản duy nhất’ như
thường thấy ở các nước khác
ii- Dễ thay đổi: thủ tục để thay đổi cũng như các đạo luật bình thường
khác
iii- Tính đơn nhất: tức chỉ có một nghị viện tối cao phân quyền và tước
quyền (khác với các nước liên bang)
5 nguồn chính của “hiến pháp”:
i- Luật thành văn của nghị viện (Statutory laws)
ii- Án lệ (Case law) – tức được diễn giải theo phán quyết của các thẩm
phán trong các trường hợp đã xử.
iii- Truyền thống, luật tục, tục lệ (Common law, customs, traditions)
iv- Thông lệ (Conventions)
v- Luật của Cộng đồng Châu Âu EU.
2.2. Nghị viện
Các thay đổi chính trị đã biến hệ thống chính trị Vương quốc Anh từ nền
quân chủ tuyệt đối thành nền quân chủ lập hiến.
Trong lý thuyết và theo luật định, mọi hành động của chính phủ đều
được thực thi với danh nghĩa của Nữ hoàng. Trên danh nghĩa, Nữ hoàng là
nguyên thủ quốc gia, người tuyên bố các luật, đàm phán các hiệp ước, lựa chọn
thủ tướng và nội các, ký lệnh ân xá... Tuy nhiên, trong thực tế, Nữ hoàng hầu
như không nắm giữ bất cứ một quyền lực chính trị nào, thậm chí còn bị hạn
chế hoạt động chính trị hơn một công dân bình thường. Bà không được tham
gia bất cứ một đảng phái nào, cũng như không được thể hiện quan điểm chính
trị của mình. Ngay cả các hành động trong cuộc sống cá nhân của Nữ hoàng
đôi khi cũng cần sự phê chuẩn của chính phủ - một cơ quan, trên danh nghĩa,
cấp dưới của Nữ hoàng.
Như vậy, vai trò chính trị của Nữ hoàng trên thực tế rất bị hạn chế. Việc
vượt quá những giới hạn này sẽ rất khó xảy ra vì nó sẽ bị dân chúng lên án
mạnh mẽ và có thể đe doạ bản thân sự tồn tại của nền quân chủ. Tuy nhiên, sự
tồn tại của Nữ hoàng mang lại những ích lợi nhất định, như giải phóng thủ
tướng khỏi các nghi lễ ngoại giao hình thức, và quan trọng hơn, với tư cách
một biểu tượng chính trị, nữ hoàng chính là sự kết nối hài hoà giữa quá khứ và
hiện tại, giữa truyền thống và hiện đại, làm tăng bản sắc và tự tin dân tộc cho
dân chúng.
Xét từ góc độ kỹ thuật làm luật, Nghị viện bao gồm 3 cấu phần chính:
Nữ hoàng, Thượng viện, và Hạ viện. Bảng 2 liệt kê các giai đoạn chính của
quá trình thông qua một dự luật (theo Roth và Wilson, 1980).
Bảng 2 Các giai đoạn thông qua một dự án luật tại Nghị viện Anh
Hạ viện 1. Trình dự luật (deposition of a bill): dự luật công (liên quan
tới toàn xã hội), dự luật tư (Liên quan tới một bộ phận xã
hội), dự luật hỗn hợp.
2. Đọc lần thứ nhất (First Reading): mang tính công bố cho
dân chúng
3. Đọc lần thứ hai: tranh luận về các nguyên tắc khái quát
chính của dự luật
4. Thông qua ủy ban: một trong tám uỷ ban thường trực
(standing commitee) sẽ xem xét và nghiên cứu kỹ lưỡng
từng điều khoản của dự luật.
5. Báo cáo trước Hạ viện: ủy ban báo cáo kết quả xem xét để
thảo luận trong phiên họp toàn thể và đưa ra các sửa đổi.
6. Đọc lần thứ ba: Hạ viện không thảo luận toàn thể, chỉ bỏ
phiếu thông qua dự luật (sau khi đã sửa đổi).
Thượng Cũng các giai đoạn như ở Hạ viện nhưng mang tính không
viện chính thức hơn.
Các giai 1.Nếu hai viện thống nhất: Luật được chuẩn y bởi Nữ hoàng
(Royal Assent)
đoạn cuối
2. Nếu hai viện không thống nhất: a) Xem xét các sửa đổi
của thượng viện. b) Nếu đó là dự luật tài chính (Money
Bill), Thượng viện không có quyền thay đổi hay trì hoãn.
Dự luật này sẽ vẫn được chuẩn y bởi Nữ hoàng. c) Nếu dự
luật thuộc loại khác, sẽ được chuyển lại cho Hạ viện. Nếu
Hạ viện vẫn thông qua ở kỳ họp tiếp, dự luật sẽ được
chuẩn y bất kể ý kiến của Thượng viện sau một năm.
Nguồn: Roth và Wilson, 1980, tr. 360; Britannica.
Vai trò của Nữ hoàng mang tính hình thức vì Nữ hoàng bao giờ cũng
chuẩn y. (Lần cuối cùng Nữ hoàng từ chối chuẩn y là vào năm 1707). Vai trò
của Thượng viện như vậy cũng hầu như không quan trọng. Hạ viện nắm thực
quyền trong lập pháp. Trên thực tế, người ta thường dùng từ Nghị viện để chỉ
Hạ viện.
Hạ viện
Hạ viện là trung tâm của HTCT Anh, nơi tập trung quyền lực do người
dân ủy nhiệm. Hạ viện có 3 chức năng chính: 1) Làm luật; 2) Thảo luận chính
sách (tức giám sát và điều tra các hoạt động của chính phủ); 3) Bầu chính phủ
và các thẩm phán.
Hạ viện Anh có gồm 646 nghị sĩ, trong đó 523 từ Anh, còn lại từ
Scotland, Wales, và Bắc Ireland (Năm 2007). Mỗi nghị sĩ đại diện cho một đơn
vị bầu cử theo địa lý. Hạ nghị sĩ không được dưới 21 tuổi. Các nhà quí tộc của
Anh, Scotland, Wales không có quyền tranh cử vào Hạ viện.
Cơ cấu đảng phái của Hạ viện (2007)
Công đảng (Labour) 352
Bảo thủ (Conservative) 194
Dân chủ tự do (Liberal Democrat) 63
Các đảng khác: 9 đảng, 30
Không đảng phái: 7
Thông thường, Đảng nào chiếm đa số ở Hạ viện sẽ đưa ra danh sách Thủ
tướng cùng nội các cho Nữ hoàng chỉ định. Trên lý thuyết, Hạ viện có thể bắt
chính phủ từ chức thông qua bỏ phiếu bất tín nhiệm (motion of censure). Điều
này trong thực tế không xảy ra vì tính kỉ luật đảng phái tại Anh rất cao. Rất ít
đảng viên đi ngược lại chủ trương của đảng. Họ luôn bỏ phiếu theo quan điểm
chung của đảng, mặc dù nó có thể ngược lại với quan điểm cá nhân của bản
thân họ.
Vì các thủ lĩnh đảng chiếm đa số đồng thời là thủ tướng và thành viên
nội các chính phủ, nên trên thực tế, chính phủ, về lý thuyết là dưới quyền Hạ
viện, lại có quyền hơn Hạ viện thông qua đa số và tính kỷ luật cao của đảng
mình. (Điều này không phải khi nào cũng đúng cho các nước khác). Điều này
có thể thấy khi so với Mỹ, quốc hội Mỹ tự xác định chương trình nghị sự,
trong khi ở Anh, chính phủ sẽ quyết định nội dung và thời gian của chương
trình nghị sự. Đảng đối lập, mặc dù luôn được giành thời gian để tranh cãi các
vấn đề, nhưng không kiểm soát được nội dung chương trình nghị sự trong các
hoạt động lập pháp.
Ngoài các hoạt động lập pháp, Hạ viện cón có một hoạt động thường
xuyên quan trọng khác là chất vấn chính phủ (question time). Các hoạt động
này được triển khai thông qua các ngày đối lập (opposition day), khi phe đối
lập kiểm soát chương trình nghị sự, đưa ra các câu hỏi chất vấn chính phủ. Một
năm có 19 ngày như vậy. Trong thời gian chất vấn này, các nghị sĩ có thể đưa
ra mọi câu hỏi về chính sách và hoạt động của chính phủ. Đây là một kênh
quan trọng để nghị viện cũng như dân chúng biết được thực chất và hiệu năng
hoạt động của chính phủ. Bởi vì được đông đảo công chúng quan tâm, đây là
một kênh kiềm chế và kiểm soát quyền lực chính phủ một cách hữu hiệu.
Thượng viện
Thượng viện, như trên đã đề cập, đóng một vai trò kém quan trọng hơn
Hạ viện trong đời sống chính trị của Vương quốc Anh. Đó là bởi vì Thượng
viện không có quyền phong toả các dự luật đã được Hạ viện thông qua, cùng
lắm cũng chỉ có quyền trì hoãn không quá một năm (cũng chỉ đối với một số
đạo luật không liên quan đến tài chính quốc gia).
4 chức năng chính của thượng viện là: 1) Làm luật; 2) Công việc tư pháp
(tòa phúc thẩm tối cao và xét xử những vụ án lớn); 3) Giám sát hoạt động của
chính phủ; 4) Thành lập các ủy ban nghiên cứu chuyên sâu.
Thành viên của Thượng viện gồm 4 loại:
i) Tất cả các quí tộc thế tập (hereditary peers)- những người mang các tước
vị quí tộc cha truyền con nối (công, hầu, bá, tử, nam).
ii) Tất cả các quí tộc không thế tập (life-time peers): những người được
phong tước vì có công lao với đất nước. Tước này không được truyền lại
cho con.
iii) Các tổng giám mục và giám mục các địa phận thuộc Giáo hội Anh
(Church of England): được gọi là các Thượng nghị sĩ tinh thần (Lords
Spiritual)
iv) Các thẩm phán toà án phúc thẩm tối cao: được gọi là các Thượng nghị sĩ
luật pháp (Law Lords)
Nhà nước không phải trả lương cho các thành viên thượng viện nhưng
phải trả chi phí cho các chuyến công tác và các lệ phí khác. Năm 1994, thượng
viện có 1.194 người. Cơ cấu của thượng viện tương ứng cho 4 loại trên là 773;
374; 26; 21. Như vậy, quí tộc thế tập chiếm đa số. Thành viên của thượng viện
là nghiễm nhiên, không cần qua dân bầu. Chính vì vậy, cơ cấu của thượng viện
hầu như không thay đổi trong nhiều năm. Từ năm 1999, do kết quả các tranh
luận, Thượng viện có sự thay đổi lớn về cơ cấu. Nghị viện Anh đã ra đạo luật
hủy bỏ việc các quý tộc thế tập là thượng nghĩ sỹ đương nhiên. Hiện tại, số này
chỉ còn 92 người giữ ghế nốt nhiệm kỳ. Tăng số lượng quý tộc không thế tập
(hiện tại là 607). Năm 2007, cấu trúc tương ứng là 92- 607-26-23 (748 thượng
nghị sĩ).
Chính vì các thượng nghị sĩ không phải lo lắng về tranh thủ phiếu bầu,
họ dám tranh luận những vấn đề căn bản, phức tạp, chưa ngã ngũ mà các nhà
chính trị hay né tránh. Hơn nữa, chương trình nghị sự của họ cũng không bận
rộn như Hạ viện nên họ có thể tranh luận các vấn đề này một cách sâu sắc hơn.
Thông thường, thượng viện tránh đối đầu trực tiếp với chính phủ, một
phần bởi họ không thể cản được, phần nữa, điều đó có thể đe dọa trực tiếp đến
sự tồn tại của họ. Trên thực tế, Công đảng Anh đã có những vận động nhằm
thay thượng viện này bằng một thượng viện mới, do dân bầu.
Các uỷ ban của nghị viện:
Hầu hết các công việc của hạ viện và thượng viện hiện nay được thực
hiện thông qua các uỷ ban. Các ủy ban này chính là nơi khảo sát kỹ lưỡng,
thảo luận chi tiết về các công việc của nghị viện. Một ủy ban thông thường có
từ 10 đến 50 thành viên là nghị sỹ. Có 2 loại uỷ ban chính:
1 - Ủy ban thường trực (General Committees): chỉ có ở Hạ viện. Đây là
các ủy ban quan trọng nhất, bao gồm cả ủy ban về ngân sách và tài chính. Các
ủy ban này có tính chuyên môn, chuyên xem xét kỹ và đề nghị sửa chữa các dự
luật trong quá trình lập pháp;
2- Uỷ ban lựa chọn (Select Comm.): Có cả ở hai viện. Được thành lập
tùy thuộc vào tính chất công việc. Ở Hạ viện, các ủy ban này được thành lập
tương ứng với các bộ, có chức năng theo dõi giám sát các bộ tưong ứng về 3
phương diện: chi tiêu ngân sách, chính sách, và hành chính. Ở Thượng viện,
các ủy ban này thành lập theo các vấn đề , để phát huy thế mạnh nghiên cứu
chuyên môn sâu và lâu dài, ví dụ như ủy ban lựa chọn về EU của Thượng viện.
Ngoài ra còn có:
3- Ủy ban chung (joint committees): là ủy ban gồm cả thành viên hai
viện.
4- Ủy ban lớn (Grand committees): Hạ viện có 3 ủy ban, chuyên về 3
vùng lãnh thổ: Walles, Scotland và Bắc Island). Trong khi đó Thượng viện có
1 ủy ban, cũng nhằm để thông qua những dự luật riêng, có thể giám sát chi tiêu
và các cơ quan hành pháp; các Ủy ban chung của toàn hạ viện giải quyết
những dự luật ngắn, những dự luật thuộc về tài chính và thể chế.
3. Chính phủ
Chính phủ là cơ quan hành pháp và chấp hành. Chính phủ bao gồm thủ
tướng, nội các, các bộ trưởng không thuộc nội các, các thứ trưởng (junior
ministers) và các trợ lý bộ trưởng (assistant ministers).
Người dân Anh không bầu thủ tướng trực tiếp, chỉ bầu hạ nghị sĩ trên cơ
sở đảng phái. Nữ hoàng chỉ định thủ lĩnh đảng chiếm đa số trong Hạ viện làm
thủ tướng. Thủ tướng sẽ lựa chọn các thành viên chính phủ, thông thường từ
các nghị sĩ của đảng mình. Có rất ít thành viên chính phủ không phải là hạ nghị
sĩ hay không phải là nghị sĩ. Việc lựa chọn như vậy không cần phải thông qua
quốc hội về mặt hình thức. Tuy nhiên, thủ tướng thường phải tránh các bổ
nhiệm không được ủng hộ từ phía quốc hội. Thủ tướng cũng có quyền cách
chức thành viên chính phủ mà không cần tham khảo quốc hội.
Sau khi lựa chọn thành viên chính phủ, thủ tướng chọn 20-25 bộ trưởng
các bộ quan trọng nhất để thành lập nội các (cabinet of ministers). Nội các họp
hàng tuần để thảo luận và thông qua các quyết định căn bản.
Về danh nghĩa, nội các chịu trách nhiệm tập thể (collective
responsibility) trước quốc hội và nhân dân. Tức là, mọi quyết định của nội các
đều được tán thành bởi mọi thành viên của nội các. Mọi thành viên nội các có
trách nhiệm ủng hộ các quyết định này bất kể quan điểm cá nhân. Nếu thành
viên nào không ủng hộ hoặc tỏ ý kiến đối lập một cách công khai, thành viên
đó thường phải tự từ chức hoặc bị thủ tướng cách chức. Tuy nhiên, thủ tướng
luôn phải thảo luận và tìm kiếm sự ủng hộ của đa số thành viên nội các. Một
thủ tướng không quan tâm đến lời khuyên của các bộ trưởng một cách hệ
thống thường khó giữ được vị trí của mình. Theo nghĩa này, thủ tướng Anh có
quyền lực ít hơn so với tổng thống Mỹ. Các bộ trưởng (ministers) Anh độc lập
hơn các bộ trưởng (secretary) Mỹ.
Cách hoạt động như vậy cho thấy hai điều: 1) Thực quyền của thủ tướng
rất lớn. Bởi vì thủ tướng luôn có sự ủng hộ của quốc hội và có quyền cách
chức các thành viên chính phủ theo ý mình. Theo nghĩa này, thủ tướng Anh có
quyền lực lớn hơn so với tổng thống Mỹ, là người đôi khi không kiểm soát
được quốc hội. 2) Chính vì quyền lực mạnh như vậy, thủ tướng chịu hoàn toàn
trách nhiệm trước mọi thất bại hoặc yếu kém của mọi chính sách. Khác với
Mỹ, thủ tướng khó có thể trút trách nhiệm cho quốc hội.
Các phân tích trên cho thấy thủ tướng có một quyền lực lớn. Đối với
mọi nền dân chủ, quyền lực như vậy cần có cơ chế kiểm soát và cân bằng.
Ngoài cơ chế kiểm soát truyền thống bằng bầu cử định kỳ và trưng cầu dân ý
(referendum), về mặt chính thức theo luật, hạ viện có thể thông qua bỏ phiếu
bất tín nhiệm và cưỡng bức chính phủ từ nhiệm. Tuy nhiên trên thực tế, điều
này rất khó xảy ra do tính kỷ luật đảng cao. (Chỉ xảy ra một lần trong 60 năm
gần đây, và cũng do đảng cầm quyền bị mất đa số sau cuộc bầu bổ sung giữa
kỳ chứ không phải thực sự vì mất tín nhiệm). Trong trường hợp, thủ tướng bị
thua trong cuộc bỏ phiếu tín nhiệm như vậy, thủ tướng có thể a) từ chức để
đảng đối lập thành lập chính phủ mới, hoặc b) đề nghị nữ hoàng giải tán quốc
hội và bầu lại quốc hội mới.
Việc lạm dụng quyền lực của chính phủ bị hạn chế chủ yếu bởi các
kênh không chính thức mà đầu tiên là chính phủ phải đảm bảo được sự thống
nhất trong đảng của mình. Các thành viên chính phủ ở Anh thường là những
người đã làm việc lâu năm cho đảng, bỏ nhiều tâm sức xây dựng đảng và họ
hiếm khi mạo hiểm phá vỡ tính thống nhất trong đảng bằng các hành động
mang tính độc đoán và phiêu lưu cá nhân. Đây cũng là điểm khác của Anh so
với Mỹ, là nước nhấn mạnh vào việc dùng các ràng buộc chính thức thông qua
các thể chế để kiểm soát và cân bằng quyền lực.
4. Tư pháp
Do truyền thống lịch sử và hệ tư tưởng, nguyên tắc phân quyền chỉ được
tôn trọng một cách không hoàn toàn trong đó ưu thế của nghị viện là lấn át so
với tư pháp.
* Cơ cấu, tổ chức của toà án
Hệ thống toà án Anh bao gồm các cấp toà sau:
+ Toà án địa phương (County Court) là toà án có cấp độ thấp nhất trong
hệ thống toà án Anh, xét xử phần lớn các vụ việc dân sự với thủ tục đơn giản,
không có bồi thẩm đoàn. Các thẩm phán của toà địa phương được bổ nhiệm từ
các luật sư có ít nhất 7 năm kinh nghiệm. Tên gọi của các toà án địa phương
không trùng với tên các địa danh hành chính. Các phán quyết của các toà địa
phương không được coi là án lệ.
+ Toàn cấp cao (High Court) được chia làm ba phân nhánh: toà Nữ
Hoàng (The Queen’s Bench Division); toà Gia đình (The Family Division) và
toà Công lý (The Chancery Division). Toà án cấp cao xét xử các vụ án dân sự
lớn, phức tạp và quan trọng hơn toà địa phương. Và từ đây cũng có thể kháng
cáo lên cấp cao hơn ở phân hệ toà hình sự của toà Thượng thẩm.
Toà án cấp cao tiến hành việc xét xử với thủ tục chặt chẽ. Hiện nay toà
cấp cao chỉ sử dụng bồi thẩm đoàn trong một vụ việc nhất định. Phán quyết
của toà cấp cao có giá trị như án lệ (chiếm khoảng 1/10), có giá trị bắt buộc đối
với toà địa phương. Do toà cấp cao có ba phân hệ nên phán quyết được cho là
án lệ của mỗi toà không có giá trị bắt buộc đối với các toà khác thuộc toà cấp
cao. Tuy vậy, các thẩm phán của các toà cấp cao luôn tôn trọng quyết định của
nhau. Các án lệ của toà cấp cao không có tính bắt buộc đối với toà án ở cấp cao
hơn.
+ Toà án Hoàng gia (Crown Court), về mặt cấp độ có thể coi ngang với
toà cấp cao, chủ yếu xét xử các các vụ án hình sự nghiêm trọng. Việc xét xử có
sự tham gia của bồi thẩm đoàn gồm 12 người. Toà án Hoàng gia được coi
trọng vì vai trò to lớn của nó dưới thời quân chủ và thể hiện truyền thống quân
chủ của nhà nước Anh. Toà án này có cơ sở khắp đất nước.
+ Toà Thượng thẩm, cấp độ cao hơn toà cấp cao và toà Hoàng gia, là toà
phúc thẩm xét xử trực tiếp các bản án, quyết định dân sự và hình sự của các toà
án cấp dưới. Do tính chất và thẩm quyền của mình, các bản án có giá trị
(khoảng 25%) được xuất bản thành các án lệ.
+ Thượng viện là cấp xét xử cuối cùng ở Anh. Quan trưởng ấn và các
thượng nghị sĩ luật hoạt động như toà án cao nhất của đất nước. Tuy nhiên họ
không xét xử mà đúng hơn là giải thích luật và đưa ra quan điểm của mình về
các vụ xét xử.
* Sự độc lập của tư pháp
Sự độc lập của tư pháp đối với kiểm soát và can thiệp chính trị là
nguyên tắc căn bản của hiến pháp Anh. Các thẩm phán cũng như một nhà cai
trị bị kiềm chế bởi dư luận công chúng về những vấn đề kiện tụng. Các thẩm
phán không thể là thành viên Hạ viện và nghị sĩ nào muốn trở thành thẩm phán
phải từ bỏ vị trí của mình ở Hạ viện. Lương của thẩm phán được trả ổn định từ
quỹ quốc gia và hiếm khi bị thay đổi bởi dự thảo ngân sách hàng năm cũng
như là chủ đề tranh cãi ở nghị viện. Các thẩm phán cấp cao còn được bảo đảm
về nhiệm kỳ làm việc. Họ có thể bị sa thải chỉ khi cả hai Viện đề xuất thông
qua sự chấp thuận của Nữ Hoàng. Yếu tố bảo đảm cuối cùng là các thẩm phán,
ít nhất là về mặt hình thức, đều được bổ nhiệm và thăng tiến trên cơ sở chuyên
môn hơn là cơ sở chính trị. Yếu tố này gây tranh cãi vì việc bổ nhiệm thẩm
phán thuộc thẩm quyền của Chánh án toà tối cao (Lord Chancellor) - là một
nhà chính trị và là thành viên của nội các. Các nghị sĩ, được bảo vệ bởi những
đặc quyền của nghị viện, nhìn chung cũng có quyền bình luận về các thẩm
phán và vấn đề pháp lý chưa được giải quyết, điều này được coi là xét xử phụ
cho đến khi tiến trình được hoàn tất. Ở đây có sự trao đổi sự tự kiềm chế lẫn
nhau giữa các nhà chính trị và các thẩm phán và sự thừa nhận phạm vi tách
biệt của họ.
Tuy nhiên không có sự tách biệt hoàn toàn giữa luật và chính trị. Chánh
án toà tối cao là thành viên của chính phủ, có ghế trong nội các và là chủ tịch
thượng viện. Các thẩm phán toà án tối cao (gọi là các Thượng nghị sĩ luật) nằm
ở thượng viện, hoạt động như một toà thượng thẩm tối cao. Các luật sư có đại
diện đáng kể ở hạ viện. Các thẩm phán cũng tự nhận thấy mình có liên quan
trong việc điểu khiển các toà án, các uỷ ban và những cuộc điều tra khác nhau
về những khiếu kiện mặt chính trị.
Vào những năm 1970s và 1980s, vai trò của các thẩm phán đã được nhìn
nhận ngày càng tăng vào lĩnh vực chính trị. Đối với những người ủng hộ thì
toà án là một yếu tố cơ bản trong một nền dân chủ tự do, hỗ trợ hệ thống kiềm
chế và cân bằng và cai trị theo luật, cung cấp một sự bảo vệ chống lại chính
phủ lạm quyền. Nhưng đối với những người chỉ trích, toà án là một phần của
trật tự chính trị “thống trị”, thường ra những quyết định có lợi cho nhà nước và
tầng lớp của mình. Các thẩm phán cũng thường xuyên bị tấn công vì những
định kiến chính trị từ nền tảng giáo dục, xã hội và đào tạo pháp lý mang tính
độc quyền của mình. John Grifith (1991) là người đề xuất mạnh mẽ luận thuyết
rằng, các thẩm phán thường xuyên thiên vị cho lợi ích của giới cầm quyền
trong những trường hợp liên quan đến tài sản, luật pháp và trật tự, và thường
gắn lợi ích công cộng với lợi ích của chính phủ. Các bộ trưởng thường viện
dẫn, sử dụng các thẩm phán như là những thành viên trung lập của các uỷ ban,
toà thẩm tra và các cơ quan điều tra, tư vấn khác để khẳng định lại trước công
chúng rằng một sự điều tra độc lập đã được tiến hành đối với những sự việc sai
trái hoặc thất bại. Sự nguy hiểm là những quan hệ trong hoạt động tư pháp từ
bên ngoài đó sẽ làm huỷ hoại huyền thoại về tính trung lập của tư pháp.
* Vai trò của toà án
Quyền tối cao của nghị viện đề cập đến quyền không giới hạn trong việc
làm luật và toà án không có khả năng bác bỏ một đạo luật, ngoài những vấn đề
gắn liền với EC. Trái lại ở Đức hoặc Mỹ, cả hai nước đều có hiến pháp thành
văn, toà án có vai trò quan trọng trong việc giải thích hiến pháp và đánh giá về
những gì ảnh hưởng đến chính sách công. Tuy nhiên, các thẩm phán Anh
không hoàn toàn thụ động. Quan điểm pháp lý về hoạt động của hành pháp cho
phép các thẩm pháp quyết định các bộ trưởng và công chức của họ có hoạt
động theo đúng quyền lực do luật quy định hay không. Các thẩm phán còn có
quyền quyết định rằng một quan chức nào đó đã vượt quá thẩm quyền hoặc vi
phạm luật. Tuy nhiên họ có những do dự khi tiến xa hơn và quyết định giá trị
hoặc quan điểm hợp hiến của những đạo luật cụ thể, vì nếu làm như vậy họ có
thể tự bộc lộ nỗ lực lấn chiếm chức năng lập pháp. Theo truyền thống họ tự
bằng lòng với việc đọc các đạo luật để quyết định các bộ trưởng hay quan chức
có hoạt động trong phạm vi quyền lực theo luật định hay không. Đây là một
khía cạnh của sự phân chia chức năng chính thức của hiến pháp Anh.
* Hoạt động xét xử
Một số người ủng hộ tư pháp chỉ ra sự suy yếu của nghị viện trong quan
hệ với hành pháp và nhìn nhận vai trò của toà án trong việc kiềm chế hành
pháp. Tuy nhiên, không có hiến pháp thành văn chống lại những vi phạm mà
toà án có thể phát hiện ra trong hoạt động của hành pháp, cũng như chưa có
truyền thống toà án thực hiện vai trò như thế. Trong khi ở Mỹ hoạt động tư
pháp của toà án tối cao đảm nhiệm vai trò này và các nhánh khác của nhà nước
cũng được thiết kế để tuân thủ sự kiểm soát của nó. Tuy nhiên, những phán
quyết của toà án ở một số lĩnh vực tranh chấp những năm gần đây cũng tạo ra
những phản ứng về quyền chính trị chống lại sự vi phạm của chính phủ.
Trong những năm gần đây, các toà án Anh đã sẵn sàng lật tẩy những
hoạt động của các bộ trưởng nếu hoạt động của họ dựa vào quyền lực được
hiểu một cách quá thái. Năm 1975, Toà thượng thẩm đã ra phán quyết đối với
Bộ nội vụ (Home Secretary); năm 1976 cũng như vậy đối với Bộ giáo dục; từ
năm 1979 đến lượt các bộ trưởng của đảng Bảo thủ bị phán quyết trong các
quyết định cuối cùng của toà án... Năm 1995 toà án Scotland phán quyết rằng,
cuộc phỏng vấn toàn cảnh với thủ tướng không thể được phát hình trước cuộc
bầu cử vì nó sẽ tạo sự bất cân bằng trong việc đưa tin về các đảng. Số lượng
các vụ áp dụng quan điểm pháp lý đã tăng mạnh trong những năm gần đây.
Một số yếu tố khác cũng ngày càng làm tăng vai trò chính trị của toà án.
Đầu tiên là sự sẵn sàng cầu viện đến toà án ngày một nhiều hơn của các nhóm
lợi ích khi bất bình với lập pháp và sự mở rộng của luật pháp vào những lĩnh
vực mới, đặc biệt trong lĩnh vực nghề nghiệp, phân biệt đối xử, quan hệ giữa
chính quyền trung ương - địa phương. Thứ hai là sự thay đổi quan niệm về
thẩm phán. Một số cuộc bổ nhiệm thẩm phán cao cấp gần đây đã ưu tiên cho
việc hợp nhất Hiệp ước của cộng đồng châu Âu về quyền con người vào Luật
của Anh và tin tưởng rằng thẩm phán sẽ đóng vai trò tích cực hơn trong hoạch
định chính sách. Hoạt động của toà án trong mấy thập kỷ qua có nghĩa rằng
“luật đã bắt kịp chính trị theo cách quyền lực được thực hiện và bị thách thức.
Các luật sư sẽ là người đưa chính phủ ra toà án nhiều hơn các nghị sĩ đối lập
hay phương tiện thông tin đại chúng, là người sẽ hạn chế chính sách của chính
phủ.
Ảnh hưởng của Cộng đồng châu Âu: việc Anh là thành viên của EC
cũng là một áp lực khác tạo cho thẩm phán một vai trò tích cực hơn nhiều.
Trong trường hợp lập pháp của Anh có yếu tố của EC hoặc ở đó có sự tranh
chấp về các hiệp ước của EC hoặc những vấn đề có liên quan, thì phải tham
khảo Toà án châu Âu cho quyết định cuối cùng. Nếu luật của nước Anh mâu
thuẫn với luật của EC, các thẩm phán Anh bắt buộc phải ưu tiên cho luật của
EC.
Nếu Đạo luật về các quyền dựa trên hiệp ước châu Âu được thông qua
và củng cố, sẽ cung cấp cho các thẩm phán một tài liệu khác mà họ có thể
tham khảo khi quyết định tính hợp hiến của hoạt động hành pháp.
* Tự do công dân
Nước Anh có niềm tự hào truyền thống về đảm bảo tự do cá nhân. Trong
thực tế, tự do và quyền của cá nhân và các nhóm có giới hạn vì chúng có thể
xung đột với các quyền khác hoặc với mục đích xã hội lớn hơn, chẳng hạn như
trật tự công cộng.
Tự do ngôn luận, hiệp hội, và biểu tình ở Anh được đảm bảo bởi truyền
thống và văn hoá chính trị nhiều hơn là đảm bảo bằng luật. Vì quan điểm thống
trị lâu dài là tự do của người Anh, xuất phát từ các thông luật và các quyết định
của toà án thông thường được bảo vệ tốt hơn các quyền được cất giữ trong hiên
pháp hoặc các đạo luật ở các nước khác. Tất nhiên không có tự do hội họp hay
hiệp hội tuyệt đối cho các công dân Anh.
Một số nước có đạo luật về các quyền hoặc những tuyên bố chính thức
về tự do dân sự của công dân và nhóm. Đạo luật này cung cấp những đảm bảo
tự do về mặt hiến pháp. Ở Anh không có những tài liệu như thế. Đạo luật về
quyền 1689 giải quyết phần lớn việc bảo vệ quyền của nghị viện chống lại
quốc vương. Người Anh ít đặt sự tín nhiệm vào những cơ sở bảo vệ chính thức
như thế và tin tưởng nhiều hơn vào hệ thống chính trị đa nguyên, tư pháp độc
lập, sự thừa nhận giới hạn hoạt động của chính phủ và ý nghĩa của “đạo đức
pháp lý” giữa nhân dân. Nước Anh từ lâu đã được coi là một đất nước mà tự
do công dân được bảo đảm bởi những yếu tố văn hoá này.
Tuy nhiên trong những thập kỷ gần đây quyền lực hành pháp và phạm vi
lập pháp ngày càng mở rộng thì mối quan tâm ngày càng lớn về khả năng của
nghị viện kiểm soát hành pháp, nhất là để bảo vệ tự do công dân. Yếu tố đảng
bị phê phán là cao hơn hiến pháp.
Tuy nhiên ngay cả các trường hợp phi đảng phái cũng cần thiết sửa đổi
hiến pháp. Để bảo vệ quyền cá nhân một cách hữu hiệu cần phải có một cơ
quan kiểm soát độc lập với chính phủ. Những bảo đảm truyền thống về tự do
cá nhân như dư luận công chúng, chia sẻ các giá trị chính trị, sự tự kiềm chế
của chính phủ không còn đủ nữa. Họ cho rằng Đạo luật về quyền sẽ củng cố
quyết tâm của toà án bảo vệ tự do và thúc đẩy nhân dân nhận biết những vấn
đề liên quan. Một số điều khoản của đạo luật về các quyền mô phỏng theo
Hiệp ước châu Âu về quyền con người đã được thông qua tất cả các giai đoạn
ở Thượng viện, nhưng chưa có thời gian tranh luận ở hạ viện. Nếu được thông
qua nó sẽ cho phép nhân dân hành động chống lại chính phủ vi phạm tự do
công dân. Các nhóm áp lực và các đảng nhỏ đã hứa ủng hộ các giải pháp này
và là một phần của chương trình cải cách hiến pháp nhưng hai đảng lớn chưa
thể hiện quan điểm của mình.
Tóm lại, hệ thống tư pháp được hình thành và kiểm soát bởi Thượng
viện. Chỉ với thời gian, chức năng tư pháp mới có tính tự chủ và được thực
hiện trong thực tế. Điều này thể hiện sự mất cân đối trong thể chế chính trị.
Song bù lại, sự tôn trọng hiến pháp và những quyền cơ bản là kết quả của
những đảm bảo chính trị và đạo đức nhiều hơn là những đảm bảo về mặt tư
pháp. Đây vừa là sự vĩ đại vừa là sự yếu đuối của hệ thống này.
5. Các đảng chính trị, các nhóm lợi ích và hệ thống bầu cử
Hệ thống đảng phái của Anh có thể được coi là hệ thống 2 đảng nổi trội,
vì trong thời gian dài, thường chỉ có hai đảng thay nhau cầm quyền (Công
đảng và đảng bảo thủ). Có nhiều đảng nhỏ khác, trong đó nổi bật là đảng dân
chủ tự do (nhưng cũng chỉ có được khoảng 10% số ghế). Hệ thống 2 đảng nổi
trội như vậy có liên quan đến hệ thống bầu cử, nhưng đông thời cũng phản ánh
quan niệm về đại diện cho lợi ích của các tầng lớp khác nhau. Tuy nhiên, ngay
cả các thủ lĩnh công đảng lại có thể thụoc tầng lợp thượng lưu, và ngược lại,
nhiều công nhân lại ủng hộ đảng Bảo thủ. Đường lối, nền tảng tư tưởng và
chính sách của hai đảng hiển niên có nhiều nét tương đồng (trung tả - trung
hữu). Sự phân cực tư tưởng như những năm thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 không
còn nữa.
* Hoạt động bầu cử
Anh áp dụng hệ thống bầu cử đa số tương đối. Các thành viên của Hạ
viện được bầu theo phương thức đa số tương đối mỗi hạt một thành viên.
Người chiến thắng là “người đầu tiên chạm mốc”: ứng cử viên chiếm đa số
phiếu hoặc nếu không có đa số thì với số phiếu lớn nhất. Hệ thống bầu cử của
Anh đơn giản hơn nhiều so với hệ thống bầu cử ở Mỹ. Các cử tri Anh chỉ phải
quyết định một lần ứng cử viên của đảng nào được bầu vào Hạ viện. Anh có
659 đơn vị bầu cử một thành viên tương đương với 659 quận với số dân xấp xỉ
bằng nhau.
Giống như các nền dân chủ nghị viện, Anh không có một cuộc bầu cử đại
cử tri. Đúng hơn, mỗi đảng có một quy trình riêng để lựa chọn ứng cử viên ra
cạnh tranh trong cuộc bầu cử vào Hạ viện. Ở Ba đảng lớn nhất, chính các nhà
hoạt động đảng chuyên nghiệp và các thành viên đảng đóng đảng phí ở mỗi khu
vực bầu cử sẽ là người lựa chọn các ứng cử viên của đảng họ. Đối với các đảng
nhỏ hơn, có ít các thành viên đảng đóng đảng phí, quy trình lựa chọn có xu
hướng bị kiểm soát chặt chẽ hơn bởi tầng lớp tinh hoa hoạt động đảng chuyên
nghiệp.
Có thể nói Đảng chính trị là trụ cột của quá trình bầu cử trong tất cả các
nền dân chủ nhưng có vị trí đặc biệt quan trọng hơn trong hệ thống chính trị
Anh. Các Đảng chính trị Anh được tổ chức tập trung và đóng vai trò trực tiếp
hơn trong việc xác định các mục tiêu chính trị so với các đảng Mỹ, chỉ định
các ứng cử viên cho các đơn vị bầu cử, tiến hành các chiến dịch tranh cử.
Việc lựa chọn các ứng cử viên mỗi khu vực bầu cử có vai trò quyết định
đến kết quả thắng, thua của các đảng. Vì vậy, công việc này được thực hiện rất
công phu và mang tính chuyên nghiệp. Các ứng cử viên khu vực bầu cử được
tổ chức đảng khu vực bầu cử xem xét, quyết định. Sau đó hồ sơ về các ứng cử
được cơ quan trung ương đảng xem xét cẩn thận và phỏng vấn riêng nếu cần.
Trong khi cơ quan trung ương đảng hiếm khi áp đặt các ứng cử viên của mình
tham gia bầu cử ở khu vực địa phương thì tất cả các ứng cử viên được bầu
chọn bởi đảng khu vực bầu cử phải được sự chấp thuận của các cơ quan trung
ương. Kết quả là các ứng cử viên vào Hạ viện – cũng như các thành viên nghị
viện có xu hướng phụ thuộc vào giới lãnh đạo đảng hơn là các ứng cử viên của
quốc hội Mỹ. Nếu như giới lãnh đạo đảng từ chối một ứng một ứng cử viên, thì
người này sẽ không thể chạy đua vào nghị viện với tư cách là ứng cử viên
chính thức của đảng. Một nghiên cứu về động cơ của việc lựa chọn ứng cử
viên cho thấy rằng, đảng lựa chọn các ứng cử viên vì khả năng giành phiếu
chiến thắng của họ chứ không phải vì những lý do thuộc về tư tưởng hay bất
kỳ lý do nào khác.
Trong các chiến dịch tranh cử, các đảng đưa ra khẩu hiệu bầu cử, phác
thảo cương lĩnh chính sách mà họ cam kết thực hiện nếu trúng cử. Việc xây
dựng khẩu hiệu được các đảng chính trị Anh thực hiện nghiêm túc hơn các
đảng Mỹ. Các lãnh đạo đảng coi những cam kết của khẩu hiệu bầu cử như là
một hợp đồng giữa đảng và các cử tri của mình. Khẩu hiệu bầu cử còn được
thiết kế để thuyết phục các cử tri, đưa ra những giải pháp cho những lĩnh vực
chính sách cụ thể. Đây cũng là cơ sở cho đảng đối lập chỉ trích khi chính phủ
được thành lập đưa ra những chính sách khá trái ngượi với cam kết ban đầu.
Những luật lệ chặt chẽ được áp dụng trong suốt thời gian tranh cử chính
thức ở Anh. Chỉ trong những tuần này, các đảng và ứng cử viên mới có thể chi
phí cho quảng cáo và gắn kết với mục đích bầu cử. Hầu hết tiền quảng cáo là
giành cho các bản thông cáo và yết thị vì luật của Anh cấm quảng cáo chính trị
trên vô tuyến và đài phát thanh. Nhà nước cung cấp cho mỗi đảng một thời
gian quảng bá miễn phí nhất định trên các phương tiện thông tin đại chúng
trong thời gian tranh cử. Ở Mỹ, các ứng cử viên và các đảng có thể tuỳ ý sử
dụng tiền vào tranh cử vào bất kỳ thời gian nào và có thể mua bất kỳ chương
trình quảng cáo trên truyềnt thông của quốc gia hay địa phương nếu họ có thể.
Hơn nữa ở đây thời gian tranh cử không bị giới hạn một cách chính thức.
Tuy nhiên, không có giới hạn về mặt pháp lý về việc đảng sử dụng bao
nhiêu tiền cho tranh cử. Trong những năm gần đây, chi phí cho tranh cử đã
tăng vọt, đặc biệt khi các đảng Anh đã áp dụng công nghệ bầu cử của Mỹ như
thuê các công ty quảng cáo đắt đỏ và phân phát các tài liệu quảng cáo màu mè,
tốn kém. Vì vậy, cả hai đảng Bảo thủ và Lao động rơi vào tình trạng nợ nần
suốt những năm 1990s. Đây cũng là nguyên nhân đảng cần tới sự đóng góp và
ủng hộ kinh phí của các nhóm lợi ích, các cá nhân. Chính vì vậy, đảng không
tránh khỏi việc chịu ơn đối với những ân nhân lớn của mình và phải tính toán,
nhượng bộ, thoả hiệp với các nhóm này trên nhiều lĩnh vực chính sách.
Quá trình bầu cử các thành viên hạ viện cũng đồng nghĩa với việc bầu
thủ tướng chính phủ. Mỗi đại biểu chỉ tranh cử trong khu vực của mình. Vì
vậy, các thủ tướng Anh được bầu ra bởi một nhóm cử tri nhỏ hơn rất nhiều so
với tổng thống Mỹ, chỉ ở một khu vực bầu cử. Năm 1997, Tony Blair là ứng
cử viên đảng Lao động chỉ ở Sedgefieid. Các ứng cử viên ở các khu vực bầu
cử khác muốn ủng hộ Bliar làm thủ tướng sẽ phải bỏ phiếu cho ứng cử viên
đảng Lao động ở khu vực bầu cử của mình với hy vọng đảng Lao động sẽ
giành được đa số các khu vực bầu cử một thành viên này. Ngược lại, tất cả các
cử tri Mỹ đều có cơ hội lựa chọn tổng thống từ các ứng cử viên cạnh tranh
nhau trong cuộc tổng tuyển cử.
Mặt khác, ở Anh với đặc trưng là tính kỷ luật đảng cao nên các cử tri
luôn tin tưởng rằng ứng cử viên của đảng luôn luôn ủng hộ vị trí của đảng. Do
vậy tính cách của mỗi cá nhân ít khi là nhân tố quan trọng trong bầu cử. Các cử
tri lựa chọn các ứng cử viên của họ trên cơ sở của Đảng. Tuy nhiên, sự vận
động của bản thân các ứng cử viên cũng góp phần không nhỏ vào việc thuyết
phục các cử tri.
Ở Anh sự tham gia chính trị là tự nguyện và không gò bó. Mức độ tham
gia công cộng phụ thuộc vào sở thích và động cơ của mỗi công dân. Bầu cử ở
Anh là tự do không bắt buộc. Các công dân Anh được khuyến khích quan tâm
đến các quá trình chính trị, được thông báo về các vấn đề và các đảng để có
khả năng quyết định hợp lý trong việc đấu tranh, tranh luận với các ứng cử
viên trong thời gian bầu cử. Nếu như trước đây các cử tri thường lựa chọn một
đảng và bỏ phiếu đều đặn cho đảng đó thì ngày nay sự lựa chọn là phụ thuộc
vào quan điểm của các đảng về những vấn đề cụ thể. Ở Anh có sự phân chia rõ
ràng giữa một đảng Chính phủ và đảng đối lập làm cho cử tri dễ dàng lựa chọn
ủng hộ, hay chống chính phủ đương nhiệm.
Kết quả bầu cử hạ viện sẽ quyết định đảng nào cầm quyền được thành
lập chính phủ và đảng nào ở vị trí đối lập. Có thể thấy hoạt động bầu cử ở Anh
mang nặng tính đảng phái. Một ứng cử viên nào muốn vào hạ viện thì điều đầu
tiên phải có được sự chỉ định chính thức của đảng, đứng ở cương vị là đại diện
của đảng đó (dĩ nhiên người đó có thể tự ứng cử một cách độc lập). Hệ thống
này hầu như không có chỗ cho những người ngoài đảng. Một đặc điểm đáng kể
là hệ thống bầu cử đa số tương đối đôi khi tạo ra một tỷ lệ không tương xứng
giữa các đảng về % tổng số phiếu và % số ghế có được ở Hạ viện. Sự không
tương xứng này rất lớn, chẳng hạn cuộc bầu cử năm 1997, đảng Lao động
chiếm 43% số phiếu nhưng lại có hơn 63% số ghế. Hệ thống bầu cử này trừng
phạt các đảng nhỏ. Các đảng nhỏ có thể có sự ủng hộ cơ bản tính trên toàn
quốc, nhưng các ứng cử viên không có đủ số phiếu để chiến thắng tại khu vực
bầu cử. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho tính đại diện ở hạ
viện thấp.
* Các loại hình nhóm lợi ích
Trong thực tế các cử tri hiếm khi thể hiện một ý chí tập thể chân thực,
ngay cả những người đã bỏ phiếu cho đảng cũng không đồng ý với chính sách
của chính phủ về một phương diện nào đó. Nhiều cử tri tìm cách hình thành
hoặc tham gia vào các nhóm áp lực. Có hơn một nửa dân số Anh thuộc về các
nhóm áp lực để ảnh hưởng, phản đối hoặc thay đổi chính sách của chính phủ.
Có thể phân biệt thành 4 nhóm lợi ích cố gắng ảnh hưởng tới chính phủ
đó là:
- Nhóm khuyến nghị: thường là các hiệp hội hay tổ chức đề xuất những
ý tưởng hay chính sách. Nhóm này tán thành mục đích và các thành viên tồn
tiềm năng của mình về mặt lý thuyết là chung sống với toàn thể nhân dân.
Chẳng hạn như Hiệp hội cải cách luật phá thai, các nhóm đề xuất ý tưởng
(think – tanks) mới xuất hiện những năm gần đây...
- Nhóm lợi ích dựa trên nghề nghiệp hoặc lợi ích kinh tế, chẳng hạn như
các tổ chức nghề nghiệp, công đoàn hoặc các nhóm doanh nghiệp.
Sự phân biệt giữa hai nhóm không phải lúc nào cũng rõ ràng. Một số
nhóm khuyến nghị có thể có những người theo đuổi mục đích lợi ích kinh tế
cũng như các nhóm lợi ích cố gắng xác định chiến lược của mình với một mục
đích rộng hơn.
- Nhóm đỉnh cao (peak groups): là nhóm phát ngôn thay mặt một loạt
các lợi ích - chẳng hạn như Đại hội công đoàn Anh và Liên hiệp công nghiệp
Anh. Ngoài ra có một số ít nhóm tạm thời (episodic group) mà hướng cơ bản
đến quá trình chính trị của quốc gia và lợi ích của họ trong lĩnh vực chính trị là
rất tản mạn. Đó là những nhóm đề xuất việc theo đuổi những dự án đặc biệt,
chẳng hạn như nghiên cứu vũ khí hạt nhân.
* Hoạt động của các nhóm lợi ích
Hoạt động của các nhóm lợi ích được định hình bởi bối cảnh chính trị. Ở
Anh quá trình hoạch định chính sách chính thức tập trung ở chính phủ, nội các,
vì vậy, các nhóm coi việc tiếp cận với cơ quan này là chủ yếu. Việc tiếp xúc
chính trị và phạm vi hoạt động khác (chẳng hạn như nghị viện và phương tiện
thông tin đại chúng) được sử dụng để ủng hộ thêm hoặc thay thế nếu ít có khả
năng tiếp cận ở cấp cao hơn.
Các kiểu hoạt động gây áp lực của các nhóm được tiến hành theo những
cách sau:
- Tác động đến chính phủ, nội các: các nhóm lợi ích cố gắng gây ảnh
hưởng trực tiếp tới chính phủ thông qua đàm phán trực tiếp với các bộ trưởng
về các vấn đề. Thường các vấn đề cụ thể của chính sách được bàn bạc, rút ra
giữa các nhóm, các bộ trưởng và công chức sau đó mới được trình ở nghị viện.
- Vận động hành lang MPs, những người sẽ chất vấn bộ trưởng; viết cho
các công chức; nêu vấn đề trong các cuộc họp đảng; trên bàn sửa chữa chính
sách; giới thiệu dự luật của thành viên cá nhân...
- Vận động dư luận công chúng thông qua các áp phích quảng cáo, thư
từ, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, những bài báo được ưa
thích của các hãng phát hành có chất lượng, diễu hành.
- Sử dụng các luật để đình công; tẩy chay; bạo lực với mục đích gây ảnh
hưởng tới công chúng, đòi hỏi hành động của chính phủ.
Các nhóm có thể gây áp lực thông qua một hoặc nhiều kênh cùng một
lúc. Hiệu quả hoạt động của một nhóm vào một thời điểm cụ thể phụ thuộc vào
các yếu tố như: khả năng tương thích giữa mục đích của nhóm với các chương
trình hiện tại của chính phủ; dư luận công chúng và mức độ ủng hộ đối với yêu
cầu của nhóm.
Về mặt kỹ thuật: các nhóm có thể sử dụng áp lực theo suốt chu kỳ của
chính sách và có thể tiếp cận được các thể chế khác nhau. Một số nhóm thành
công trong việc giành được vị thế bên trong (insider), giúp họ tiếp cận với nội
các và các giai đoạn chính sách cơ bản khi những chính sách cụ thể được hình
thành. Nhưng vị thế bên trong cũng đem lại những hạn chế về tự do hoạt động
của nhóm. Hình thức vận động công chúng được coi là biện pháp của các
nhóm yếu. Một số nhóm có thể sử dụng hoặc đe doạ sẽ sử dụng luật để gây áp
lực cho những đòi hỏi của mình – đây thường là biện pháp cuối cùng.
Có thể nhận thấy các nhóm lợi ích bổ xung cho hoạt động của chính phủ
bằng cách cung cấp:
- Thông tin chi tiết về những lĩnh vực cụ thể của hoạt động kinh tế và xã
hội mà thiếu chúng chính phủ không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
- Sự nối tiếp giao tiếp và tư vấn giữa chính phủ và công chúng giữa các
cuộc bầu cử
- Bảo vệ lợi ích của thiểu số, đặc biệt những lợi ích của đảng không cầm
quyền.
- Tăng sự tham gia vào các quá trình chính trị của nhân dân mà không
nhất thiết phải hoạt động trong các đảng chính trị
- Chống lại sự độc quyền của các đảng chính trị ở nghị viện. Các nhóm
sẽ đề xuất các chủ đề tranh luận nằm ngoài cương lĩnh của đảng, và các nhóm
kinh tế phớt lờ xung đột đảng phái luôn sẵn có, làm việc trực tiếp với các bộ
trưởng và công chức.
- Phân tán quyền lực xuống dưới từ các thiết chế tập trung quyền lực lập
pháp, hành pháp và trong quá trình này tạo ra sự kiềm chế quyền lực của
chúng.
Tuy nhiên thực tế cũng cho thấy các nhóm lợi ích có những tồn tại sau:
- Các nhóm lợi ích thường không có tính đại diện và rất hiếm khi phản
ánh được đông đảo các thành viên của nó. Các lãnh đạo công đoàn được bầu ra
bởi một thiểu số các nhà hoạt động mặc dù các tổ chức kinh tế và các nhóm lợi
ích khác thường bổ nhiệm các quan chức của mình. Không có quan chức nào
như thế có trách nhiệm trước toàn bộ công chúng bất chấp một thực tế rằng
những ảnh hưởng của họ đối với chính sách là đáng kể.
- Các nhóm lợi ích đã làm giảm quyền lực của nghị viện thông qua hoạt
động trực tiếp với các bộ trưởng và công chức. Trong thời gian nghị viện xem
xét các dự luật thì tất cả đã được quyết định, chỉ có một thiểu số rất ít bị sửa
chữa căn bản. Một số nhà bình luận đã nhận thấy sự xuất hiện một “nhà nước
hợp tác” mà các quyết định được hình thành thậm chí làm ra bởi các bộ trưởng
và quan chức, những người không phải do dân chúng bầu ra.
- Các nhóm lợi ích không đại diện cho bình đẳng xã hội. Họ là những
nhóm mạnh trong khi những nhóm nhỏ có sức mặc cả thấp và thường tổ chức
yếu. Sự không ngang nhau về nguồn lực, ảnh hưởng và khả năng tiếp cận giữa
các nhóm cũng như một số khu vực trong xã hội không thể tham gia, tạo nên
sự bất công bằng. Điều này đòi hỏi chính phủ phải nhận biết và có những chính
sách thiên vị cho một số nhóm.
- Hoạt động của nhiều nhóm dựa trên các kênh không chính thức, các
cuộc đàm phán và dàn hoà giữa các nhóm lợi ích và chính phủ thường bí mật.
Sự liên lạc giữa những người phát ngôn nhóm và quan chức chính phủ cũng
nằm ngoài sự kiểm soát của quần chúng. Những bí mật như vậy là có hại đối
với việc kiểm soát dân chủ của quần chúng.
Mặc dù có nhiều mặt hạn chế nhưng nhìn chung sự tham gia chính trị
của các nhóm được xem như là tăng cường sự đại diện và trách nhiệm của
chính phủ bằng cách bổ sung sự đại diện của các cá nhân với các đại diện chức
năng của các lợi ích cụ thể bởi các nhóm. Chính trị theo nhóm đó có thể là một
biện pháp làm việc dân chủ mặc dù không có sự tham gia của khối quần
chúng. Theo cách này, các nhóm thay thế cho sự tham gia của cá nhân và ít
nhất nuôi dưỡng sự tham gia chính trị trong những người quan tâm và bị ảnh
hưởng bởi chính sách của chính phủ.
6. Hệ thống chính trị trong thực tế
Những phân tích trong các phần trước cho thấy, trong thực tế hạ viện
nắm thực quyền trong lập pháp. Hầu hết các dự luật được thông qua là ý chí
của chính phủ. Tuy nhiên có một số đáng kể các trường hợp các nghị sĩ tự thức
tỉnh kiên quyết phủ nhận dự luật của chính phủ. Sự thất bại của chính phủ
Wilson đối với thượng viện và cải cách công đoàn năm 1969 là một trường
hợp nổi tiếng. Chính phủ Heath từ 1970- 1974 đã chịu thất bại 6 lần và chính
phủ đảng Lao động từ 1974- 1979 không ít hơn 42 lần.
- Kiểm soát hành pháp
Hạ viện kiểm soát hành pháp thông qua các ngày đối lập, các ủy ban lựa
chọn; các uỷ ban đảng.
+ Chất vấn chính phủ. Các hoạt động này được triển khai thông qua các
ngày đối lập. Các phe đối lập đưa ra các câu hỏi chất vấn chính phủ. Trong
thời gian chất vấn này các nghị sĩ có thể đưa ra mọi câu hỏi về chính sách và
hoạt động của chính phủ. Đây là một kênh quan trọng để nghị viện cũng như
dân chúng biết được thực chất và hiệu năng hoạt động của chính phủ.
Về mặt lý thuyết, chính phủ được lựa chọn bởi nghị viện nên phải có
trách nhiệm trước nghị viện, và thời gian chất vấn là thủ tục được đưa vào thời
gian biểu của nghị viện, tạo cơ hội cho các đảng đối lập kiểm soát hoạt động
của chính phủ. Thời gian chất vấn diễn ra một tiếng đồng hồ từ thứ hai đến thứ
năm. Các bộ trưởng luân phiên nhau trả lời. Thủ tướng phải trả lời những câu
hỏi về chính phủ trong 30 phút/1tuần vào ngày thứ tư, thứ năm. Trong vòng 48
giờ những câu hỏi phải được trả lời, tuy không cần phải đúng thứ tự và được
phép có câu hỏi bổ sung. Câu hỏi có thể bằng văn bản hoặc trả lời miệng.
Tuy nhiên trên thực tế, thủ tục chất vấn thường bị giảm tác dụng do các
kỹ xảo sau: bộ trưởng thường trả lời hết sức vắn tắt và các công chức rất giỏi
đoán trước được câu hỏi bổ sung; các câu hỏi thân thiện thường được gài vào
từ các bộ trưởng cùng đảng. Dùng câu trả lời dài có tính chất lãng tránh vấn
đề; quy trình có thể bị phá vỡ để cho hết thời gian trả lời và cho phép các bộ
trưởng tránh những câu hỏi nguy hiểm ở phần cuối danh sách.
+ Các uỷ ban lựa chọn: có quyền điều tra một lĩnh vực cụ thể của chính
phủ, với quyền được thu thập bằng chứng và hiệu triệu các nhân chứng. Uỷ
ban kế toán công có quyền lực nhất, nhiệm vụ của nó đảm bảo rằng ngân quỹ
của chính phủ đã được chi tiêu hợp lý và sự tồn tại của nó là để ngăn cản các
cơ quan hành chính thiếu hiệu quả và lạm dụng phi pháp.
+ Sự đối lập trong nghị viện
Tính chính đáng của hoạt động nghị viện của đảng đối lập có từ thế kỷ
XVIII và được phản ánh trong luật, trách nhiệm của chủ tịch hạ viện là bổ
nhiệm lãnh đạo của đảng lớn nhất không cầm quyền làm lãnh đạo phe đối lập.
Từ 1937, lãnh đạo đảng đối lập cũng được trả lương từ ngân khố quốc gia, tạo
cho nước Anh là nước duy nhất trong số các nước châu Âu có một cơ quan
như thế được nhà nước trả lương. Hoạt động và đặc điểm của hạ viện, đặc biệt
là sự tranh luận và phân chia nghị viện mang đậm tính chất đảng phái. Sự tồn
tại của đảng đối lập nhắc nhở công chúng rằng luôn có một chính phủ thay thế
với một nội các bóng và các chính sách của nó.
Trong những ngày đối lập, đảng đối lập có thể chỉ trích chính phủ theo
nghĩa tiêu cực và có cả chỉ trích mang tính xây dựng. Nhưng cũng giống như
thủ tướng, Lãnh đạo đảng đối lập cũng phải quan tâm đến tính thống nhất của
đảng và nội các bóng. Nhiệm vụ của đảng đối lập là chống đối, nhưng đảng đối
lập ở nghị viện cũng phải thể hiện tính xây dựng và cư xử theo cách phù hợp
nhất để chứng tỏ đảng có thể cầm quyền trong tương lai. Nguyên tắc trách
nhiệm tập thể được vận hành, thông qua sự trung thành của các bộ trưởng
bóng, chính sách của nội các bóng được bảo vệ và không bộ trưởng nào được
phát ngôn trái những với những chính sách của các đồng nghiệp.
Đảng đối lập nghị viện có một số nguồn lực tùy ý sử dụng. Đảng này
kiểm soát 1/3 thời gian nghị viện và có thể chọn chủ đề tranh luận vào những
ngày đối lập. Các đảng đối lập có đại diện trong các uỷ ban lựa chọn và thường
trực theo tỷ lệ ghế của mình ở Hạ viện. Cuối cùng theo truyền thống, một
thành viên nghị viện đảng đối lập được bầu làm chủ tịch Uỷ ban kế toán công
đầy quyền lực. So sánh về thời gian và cơ hội cho phép trong lập pháp, việc
sắp sếp ở hạ viện Anh được đánh giá là tương đối hào phóng cho đảng đối lập.
Đối với các bộ trưởng, những nghị sĩ quan trọng nhất là những nghị sĩ
thứ yếu của đảng mình. Các nhà lãnh đạo nghe các nghị sĩ này vì họ ở trong
cùng một đảng, một phần vì họ có thể thể hiện ý kiến bên ngoài nghị viện hoặc
trong đảng trên toàn quốc, và một phần vì hành pháp không vững chắc. Sự chia
tách giữa các nghị sĩ thứ yếu phản ánh sự chia tách trong nội các. Chính phủ có
thể quan tâm đến sự chống đối của các đảng khác nhưng sự an toàn của nó lại
phụ thuộc vào việc duy trì sự nguyên vẹn đa số đảng của chính nó. Có rất
nhiều trường hợp chính phủ phải nhượng bộ áp lực từ chính những người ủng
hộ mình và hoặc là phải từ bỏ hoặc phải điều chỉnh dự luật. Chính phủ lo lắng
sự đối lập từ trong đảng mình hơn là sự chỉ trích từ các phía khác ở Hạ viện.
* Sự suy yếu của nghị viện
Hạ viện được đánh giá là yếu hơn hành pháp so với giữa thế kỷ XIX.
Hiện tượng chính phủ đa số một đảng đã tạo cho chính phủ khá an toàn về sự
tồn tại của mình và quá trình lập pháp. Chính phủ kiểm soát tiến trình nghị
viện ngày càng nhiều thông qua kiểm soát thời gian, hạn chế thời gian tranh
luận và áp lực bỏ phiếu. Ở thế kỷ 20 chính phủ bị nghị viện giải tán chỉ hai lần
1924, 1979 và cả hai đều là chính phủ Lao động thiểu số. Vai trò của một nghị
viện tự do đã bị suy yếu bởi các yếu tố sau:
- Chính phủ can thiệp: chính phủ can thiệp này càng nhiều vào các lĩnh
vực buộc nghi viện phải đương đầu với một khối lượng lập pháp lớn; độ dài và
sự phức tạp của các dự luật tăng, giảm khả năng tranh luận và xem xét của
nghị viện, việc uỷ quyền lập pháp và thời gian hội họp của nghị viện cũng
tăng. Nhiều luật hiện nay được uỷ quyền có nghĩa rằng nghị viện thiết lập các
nguyên tắc khái quát và cho phép các bộ trưởng và công chức bổ sung chi tiết.
- Sự phát triển của các đảng chính trị có chương trình và kỷ luật đến nỗi
một số nhà quan sát gọi chính phủ đảng đúng hơn là chính phủ nghị viện.
- Các nhóm áp lực được tổ chức và đại diện nhiều lợi ích trong xã hội
đàm phán một cách trực tiếp với các bộ trưởng về nhiều vấn đề. Thường các
chi tiết cụ thể của chính sách được đàm phán giữa các nhóm, bộ trưởng và
công chức sau đó mới trình nghị viện.
- Là thành viên của cộng đồng EU có nghĩa rằng việc lập pháp được
thực hiện ở Brussels ngày càng tăng.
Như vậy, kỷ luật đảng phái, sự thống trị của hệ thống hai đảng và xuất
hiện chính phủ can thiệp đã góp phần làm suy yếu nghị viện theo nghĩa là thể
chế độc lập với sự kiểm soát của đảng. Các nhóm áp lực cũng như EU đa làm
yếu nghị viện với vai trò là diễn đàn của ý chí chung.
* Cải cách nghị viện
Có nhiều đề xuất cải các thượng viện về thành phần, quyền lực của nó
hoặc cả hai nhưng sự ủng hộ không đủ để cải cách một đề xuất cụ thể nào.
Điều này có nghĩa rằng việc cải cách cơ bản cho đến nay đều thất bại.
Khuynh hướng cải cách hạ viện đã có những động lực nhất định. Tuy
nhiên suốt thời gian qua xu hướng cải cách đã mất hiệu lực bởi một số những
mâu thuẫn cơ bản:
- Có một sự thoả thuận ngầm giữa chính phủ và các nghị sĩ, những
người trong khi muốn khẳng định quyền lực của nghị viện lại nhưng lại không
muốn hạn chế tự do của mình khi họ trở thành bộ trưởng.
- Những đề xuất cải cách tạo nên sự bất đồng lớn và mất nhiều thời gian
lập pháp có giá trị. Trong những năm 1960 và 1970s, cải cách thượng viện và
phân quyền cả hai ám ảnh nghị viện hàng năm và cả hai cuối cùng đều thất bại.
- Những nhà cải cách thường đưa ra những mục đích xung đột nhau:
chẳng hạn những nhà cải cách thuộc đảng Lao động có xu hướng ủng hộ chính
phủ mạnh trong khi lại muốn nghị viện phải được tăng cường.
* Một số cải cách của đảng Lao động trong thời gian gần đây
Cơ sở lý luận của cải cách là “con đường thứ ba”, lấy việc cơ cấu lại nhà
nước và thay đổi mô hình quản lý của chính phủ. Xác lập mô hình xã hội công
dân dựa vào giảm bớt quyền lực của nhà nước, đem quyền lực trả về cho khu
vực, thành thị, thôn, xã và công dân. Thông qua đó làm tăng tính mở cửa, mức
độ minh bạch và hiệu quả của bộ máy nhà nước, vừa là phản ứng mạnh mẽ đối
với sự tác động của toàn cầu hoá vừa là sự thể hiện dân chủ hoá chế độ.
Nội dung của cải cách: cải cách chế độ nghị viện, tăng cường quyền tư
pháp, hiện đại hoá chính phủ và tự do hoá thông tin, tăng cường sự giám sát
của công chúng. Xác định nhiệm vụ lớn của cải cách là: đạt kết quả liên tục;
dịch vụ công thoả mãn được nhu cầu công cộng, có hiệu quả, chất lượng cao.
Áp dụng kỹ thuật mới của thời đại thông tin.
Cải cách nghị viện gồm có: cải cách chế độ bầu cử nghị viện, hiện đại
hoá hạ viện và cải cách thượng viện. Nghị viện Anh vẫn dùng chế độ đa số
tương đối. Đảng Lao động trong quá trình giảm bớt quyền lực, áp dụng chế độ
bầu cử theo tỷ lệ trong bầu cử nghị viện Scotland, sứ Wales, N. Ireland và
England. Điều đó trên một mức độ nhất định đã làm tăng sức hoạt động và sức
ảnh hưởng của các đảng nhỏ, cải biến cục diện đảng lớn. Mục tiêu của cải cách
hạ viện là hiện đại hóa Hạ viện, bao gồm hiện đại hoá trình tự lập pháp và trình
tự biện luận. Thực hiện cơ cấu năm của nghị viện, giám sát tiến trình đề án lập
pháp châu Âu và nâng cao năng lực giám sát của nghị viện đối với chính phủ.
Mục tiêu cải cách của thượng viện là từng bước phế bỏ chế độ thế tục
cha truyền con nối. Vì vậy chính quyền đảng Lao động thiết lập Ủy ban hoàng
gia, chuyên môn phụ trách công việc cải cách thích hợp.
Cải cách tư pháp, năm 1998 đảng Lao động đã công bố dự luật nhân
quyền và đưa vào công ước nhân quyền Châu Âu. Điều đó một mặt làm cho
quyền con người nước Anh được bảo vệ có hiệu quả hơn và trực tiếp hơn. Mặt
khác đem lại cho toà án quyền lực lớn hơn, có thể đốc thúc nghị viện bổ sung
hoặc sửa đổi lập pháp cho phù hợp với công ước nhân quyền châu Âu; đồng
thời cho phép tư pháp có quyền giám sát mạnh hơn đối với hành pháp theo quy
định của công ước, tăng thêm độ chế ước đối với quyền hành pháp.
Cải cách chính phủ, Đảng Lao động coi “chính phủ công khai” là một
trong những mục tiêu cải cách chính trị của mình. Từ sau năm 1997, đảng Lao
động đã liên tiếp ban bố quyền được biết thông tin, “dự thảo nghị quyết tự do
thông tin” và sách tư vấn … quy định công dân có quyền được cơ quan dịch vụ
công cung cấp thông tin.
III. KẾT LUẬN VÀ NHẬN XÉT SO SÁNH
Hệ thống nghị viện của Anh thường được coi là hình mẫu đầu tiên, “bà
mẹ”, của các HTCT nghị viện khác. Các điểm đặc thù của HTCT này có thể
tổng kết thành các đặc điểm chính như sau:
1- Dù có 4 vùng lãnh thổ, đây là một quốc gia đơn nhất, khác với các
quốc gia liên bang (như Mỹ, Úc, Đức). Điều này hàm ý, quyền lực nhà nước
tập trung ở Trung ương. Quyền lực nhà nước của các vùng lãnh thổ được ủy
nhiệm từ chính quyền Trung ương, không phải là chủ quyền riêng của các
bang.
2- Anh chỉ có các luật cơ bản có tính hiến pháp (với nghĩa quy định các
mối quan hệ quyền lực nhà nước cơ bản (nghị viện – thủ tướng – tòa án, trung
ương – địa phương), mà không có một bản hiến pháp thành văn. Bản thân các
luật hiến pháp của Anh có nguồn gốc đa dạng, và thủ tục thay đổi là dễ dàng.
Các luật này cũng chỉ cần được một đa số đơn giản (50% +) ở Hạ viện thông
qua, như bất cứ một văn bản luật nào khác.
3- Hệ thống chính trị của Anh thể hiện tính tối cao của Nghị viện, và
tính pháp trị . Tính tối cao của nghị viện có nghĩa là nghị viện có quyền ban
hành hay hủy bỏ mọi luật, và không ai có thể hủy bỏ hay đứng ngoài phạm vi
các luật đó. Tính pháp quyền (rule of law) có nghĩa không ai có thể bị trừng
phạt trừ phi có bằng chứng vi phạm luật, và không ai có thể đứng trên luật bất
kể vị trí xã hội của người đó (luật pháp là tối thượng). Tính tối cao của nghị
viện, mà thực chất là của hạ viện, cũng đồng nghĩa với việc nhánh hành pháp
thường nhận được sự ủng hộ của nhánh lập pháp. Điều này là khác biệt quan
trọng đối với các hệ thống tổng thống.
4- Sự thể chế hóa đối lập chính trị: trong nghị viện, hoạt động của đảng
đối lập được bảo vệ và quy định bằng các văn bản pháp lý. Đảng chiếm đa số ở
Nghị viện luôn chịu sự giám sát, chất vấn bởi đảng đối lập.
5- Hệ thống bầu cử của Anh tổ chức theo một khu vực - một đại diện
theo đa số tương đối. Hệ thống đảng là hai đảng nổi trội, thay nhau cầm quyền.
Kỷ luật đảng, đặc biệt là kỷ luật bỏ phiếu, được chú trọng vì có ảnh hưởng
quan trọng đến mọi phương diện hoạt động chính trị của đảng.
6 – Các thiết chế chính trị của Anh cũng cho thấy, vai trò của nhân dân,
đặc biệt là thống qua công luận và bầu cử, là yếu tố quan trọng trong việc kiểm
soát và thực thi quyền lực nhà nước.
Chương 3
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỸ
Địa lý và Dân số
Diện tích: 9.631.420 km2
Thủ đô: Washington.
Dân số (2009): 306,8 tr.
Tốc độ tăng dân số bình quân (2009): 0.6%.
Tôn giáo chính: đạo Tin lành 56%; Thiên chúa giáo (Roman
Catholic) 28%; Hồi giáo 2%; Do thái 2%; không tôn giáo 10%...
Ngôn ngữ: Anh, Tây Ban Nha (các dân tộc thiểu số)
Năm độc lập: 1776
Hiến pháp hiện tại: 1787, có hiệu lực 1789.
Mức độ đô thị: 77% dân số