You are on page 1of 94

TS Ngô Huy Đức

CHÍNH TRỊ HỌC SO SÁNH


CÁCH TIẾP CẬN VÀ SO SÁNH CÁC HỆ THỐNG CHÍNH
TRỊ TRÊN THẾ GIỚI

Hà Nội 2 - 2010
MỞ ĐẦU

Trong những năm gần đây, cùng với những thành công có ý nghĩa lịch
sử của quá trình Đổi mới, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, việc tiếp tục đổi mới,
hoàn thiện hệ thống chính trị nước ta là vấn đề cấp thiết khi đất nước đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Những căn cứ cho sự đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị mặc dù vẫn
dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhưng cũng đồng thời đòi hỏi các đột phá, các sáng tạo mới thích ứng với tình
hình và mục tiêu phát triển trong giai đoạn hiện nay. Các đột phá và sáng tạo
như vậy không chỉ đòi hỏi phải nghiên cứu thấu đáo các kinh nghiệm của nước
ta và kinh nghiệm của các nước anh em lựa chọn mục tiêu XHCN, mà cũng
cần tham khảo kinh nghiệm và tiếp thu những giá trị có tính phổ biến của nền
văn minh chính trị nhân loại, thể hiện trong các mô hình và hoạt động của
HTCT ở một số nước trên thế giới, từ đó có được các khái quát mang tính lý
luận và khả năng ứng dụng trong thực tiễn nghiên cứu và giảng dạy của Viện
Chính trị học. Đặc biệt, thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta, cũng như yêu cầu tuân thủ các chuẩn mực pháp lý quốc tế
khi tham gia các hoạt động đối ngoại cũng đặt ra vấn đề cần hiểu biết HTCT
của các nước trên thế giới, nhìn nhận đúng nền tảng chính trị, cấu trúc lợi ích,
và các ràng buộc thể chế đối với các hoạt động chính trị thực tiễn nằm dưới các
HTCT này.

Cho đến nay, mặc dù đã có khá nhiều nghiên cứu về đời sống chính trị
của các nước trên thế giới, các kết quả nghiên cứu này vẫn còn mang tính khá
tản mạn. Một trong các điểm chưa thích hợp quan trọng nhất của các nghiên
cứu trên là sự khác biệt trong góc độ nghiên cứu. Nhiều nghiên cứu còn mang
tính mô tả, hoặc phân tích từ góc độ văn hóa hay đất nước nói chung, do vậy
khó có thể làm nổi bật các lý luận chính trị học, và các so sánh chính trị cần
thiết, vốn đòi hỏi cách tiếp cận riêng. Nói cách khác, việc so sánh các HTCT
đã không được đặt thành trọng tâm và được tuân theo các chuẩn mực khoa học
cần thiết của chính trị học so sánh. Tình hình đó dẫn đến việc dù có rất nhiều
thông tin và sự kiện, nhưng các nghiên cứu này lại khó có thể được sử dụng
cho việc nghiên cứu và giảng day chính trị học so sánh một cách có hiệu quả.

Từ các lý do trên, mục tiêu tổng quát của cuốn sách là: Trên cơ sở tổng
hợp các phân tích về một số hệ thống chính trị (HTCT) có tính chất đại diện,
điển hình trên thế giới, so sánh và phân tích tính phổ biến và đặc thù của các
hệ thống chính trị, làm rõ các giá trị văn minh chính trị có tính khái quát lý
luận.
Chương 1
NHẬP MÔN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CHÍNH TRỊ
HỌC SO SÁNH

1.1. GIỚI THIỆU VÀ ĐẶT VẤN ĐỀ


Nghiên cứu chính trị học, cũng như mọi khoa học, đều có một mục tiêu
là tiếp cận tới những kiến thức chắc chắn và tin cậy. Hơn thế nữa, việc giải
thích các hiện tượng, các liên hệ nhân - quả, tức các lý thuyết hay các mô hình
lại phải chịu sự hạn chế về tính toàn diện. Cụ thể hơn, lý thuyết hay mô hình
đó phải tập trung vào một số lượng nhỏ (thậm chí là rất nhỏ) nếu so với số
lượng các yếu tố có tiềm năng đóng một vai trò nhất định trong hiện tượng mà
ta muốn giải thích. Cũng như trong việc giải thích hiện tượng “dân chủ”: có
nhiều yếu tố ảnh hưởng tới mức độ phát triển “dân chủ”, nhưng người ta
thường tập trung vào chỉ vào các yếu tố chính như: kinh tế, hiến pháp, luật,
trình độ dân trí...
Làm thế nào để chúng ta tin tưởng rằng đây là các yếu tố chính? Chỉ có
thể bằng cách kiểm nghiệm thực tế. Đối với khoa học xã hội, khi chúng ta
không thể tạo lập nên một phòng thí nghiệm như các khoa học tự nhiên để
kiểm chứng, phương pháp so sánh là tất yếu. Vì trong việc so sánh giữa các
trường hợp “dân chủ”, chính là người ta đang dùng các sự kiện thực tế như là
các “phòng thí nghiệm” để kiểm chứng kết luận của lý thuyết. Đương nhiên,
nếu kết luận không được chứng thực, tức giả sử như “dân chủ” chính là do
điều kiện thời tiết và địa lý, hoặc tệ hơn, do tất cả mọi yếu tố ngẫu nhiên tạo
nên, sự so sánh, chí ít cũng có tác dụng gợi nên một giả thuyết mới, một định
hướng mới cho nghiên cứu và phát triển sự hiểu biết của chúng ta.
Vậy chính trị học so sánh sẽ so sánh cái gì, như thế nào và để làm gì?
Về căn bản, với tư cách là kiểm chứng (hay phát hiện các bằng chứng về
giả thuyết mới), phương pháp so sánh về thực chất là sự kiểm soát các yếu tố
của mối liên hệ nhân quả. Một ví dụ đơn giản nhất là giữ nguyên tất cả các yếu
tố khác không đổi (ceteris paribus), trong khi chỉ xem xét hai yếu tố biến đổi
là: “dân chủ” (kết quả) và “thu nhập” (nguyên nhân). Khi xem xét một loạt các
nước khác nhau, người ta có thể kết luận rằng có sự tương quan, giữa hai yếu
tố này: các nước càng giàu thì càng dân chủ hơn. Trong toán học, đây chính là
phép lấy đạo hàm.
Chính trị học so sánh lấy sự so sánh các hệ thống chính trị làm đối
tượng nghiên cứu cơ bản nhằm rút ra các kết luận, các liên hệ (các tương quan)
có tính nhân quả. Điều này không chỉ hàm ý là lấy các HTCT ở các nước khác
nhau, mà còn có thể lấy HTCT trong cùng một nước, ở các thời kỳ khác nhau
để so sánh. Hơn thế nữa, sự lựa chọn các trường hợp, các nước để so sánh
không thể là sự lựa chọn tùy tiện. Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, giả
thuyết khoa học mà chúng ta phải có sự lựa chọn hợp với mục tiêu. Nếu lập
luận cho rằng, “dân chủ là do số lượng đảng chính trị hợp pháp và có tiềm lực
cạnh tranh quyết định” thì không thể chỉ lựa chọn các nước có đa đảng, mà bắt
buộc phải lựa chọn cả các nước có một đảng và các nước này cũng cần phải có
các yếu tố khác tương tự như văn hóa, kinh tế,... Nếu không, việc mức độ “dân
chủ” khác nhau trong thực tế lại có thể do sự khác nhau của các yếu tố không
liên quan đến số lượng đảng. Điều này cũng chỉ ra rằng chúng ta không bao
giờ có thể chọn được các nước thỏa mãn các điều kiện kiểm nghiệm chặt chẽ
như vậy. Đây là điểm yếu cố hữu của so sánh trong khoa học xã hội nói chung,
và rất dễ được dùng để phản biện mọi kết luận, từ đó đưa ra các tư tưởng biệt
phái: ví dụ một phản biện hay được sử dụng là “Điều này không thể đúng và
áp dụng ở nước A vì các nước được nghiên cứu đều không có các điều kiện
giống nước A”. Nói cách khác, những người theo trường phái này sẽ không tin
(hoặc rất nghi ngờ) rằng có cái gọi là tính khoa học của các hoạt động chính
trị, hoặc ít nhất, họ cho rằng, các giá trị chung sẽ có tính ứng dụng khá hạn
hẹp.
Tóm lại, chính trị học so sánh lựa chọn một số các HTCT điển hình, để
kiểm soát các yếu tố ảnh hưởng, và rút ra các kết luận nhân - quả thông qua
việc so sánh các yếu tố đó mà chúng ta thường gọi là “các giá trị chung, phổ
quát” của các HTCT. Có thể nói, lịch sử phát triển của CTHSS cũng chính là
lịch sử của sự phát triển các phương pháp so sánh nhằm nâng cao độ tin cậy
của các kết luận.
1.2. LƯỢC SỬ VÀ CÁC VẤN ĐỀ CHÍNH CỦA CHÍNH TRỊ HỌC SO
SÁNH TRÊN THẾ GIỚI
So sánh chính trị với nghĩa rộng nhất đã có từ lâu. Hầu hết các tác phẩm
kinh điển từ thời Hy - La cổ đại, về căn bản là dựa trên cách phân tích so sánh.
Thông qua các quan sát về các hoạt động, các cộng đồng khác nhau mà các
nhà tư tưởng đã phát triển các lý thuyết và lập luận của mình.
Arítxtốt khi viết tác phẩm “Chính trị” (Politics) đã dày công thu thập,
đối chiếu và phân tích 158 bản hiến pháp của các thành bang Hy lạp thời đó.
Thông qua sự phân tích so sánh, ông đã khái quát hóa và phát triển một hệ
thống phân loại các kiểu chế độ chính trị cũng như lô-gíc của sự chuyển hóa
lẫn nhau giữa chúng.
Nicolo Machiavelli với tác phẩm “Quân vương” (1580), Mác với tác
phầm “Sự thống trị của Anh ở Ấn Độ” (1853), “Những kết quả tương lai của
Sự thống trị của Anh ở Ấn Độ” (1853) và Tocqueville với “Nên dân trị Mỹ”
(1892) đều là các tác phẩm kinh điển trong lịch sử phát triển của môn chính trị
học so sánh. Các nhà tư tưởng phương Đông như Khổng tử cũng xem xét các
cách cai trị thời Chiến quốc trong việc lập thuyết của mình.
Tuy mang tính kinh điển như vậy, các tác phẩm nghiên cứu thời kỳ này
có 6 đặc điểm hạn chế chủ yếu là:
Thứ nhất, mô tả cấu trúc là chính, không hoặc ít so sánh. Từ đó, sự nhìn
nhận về các mối liên hệ nhân quả, khả năng giải thích các sự khác biệt cũng
không mạnh mẽ.
Thứ hai, nhấn mạnh văn bản luật, dễ bỏ qua hiện thực và không thấy hết
sự cách biệt giữa văn bản pháp lý và vận hành thực tế.
Thứ ba, thiển cận với phạm vi nghiên cứu hẹp, chỉ tập trung vào các nước
Âu Mỹ, cho rằng đó là các mô hình lý tưởng, chứa đựng các nhân tố hợp lý mà các
nước khác, bất kể các đặc điểm lịch sử, văn hóa truyền thống đều có thể noi theo và
áp dụng.
Thứ tư, bảo thủ, cho rằng các mô hình lý tưởng sẽ không cần thay đổi
nhiều. Nói cách khác là các mô hình này đã tính đến các yếu tố có tính căn bản
nhất.
Thứ năm, thiếu tính hệ thống và tầm nhìn lý thuyết, dễ sa vào tranh biện
về đạo lý.
Thứ sáu, không xác định rõ cách tiếp cận nên khó kiểm nghiệm một
cách nghiêm khắc. Đặc biệt trong việc đo lường, chọn mẫu, nếu cách tiếp cận
không rõ ràng và nhất quán, các kiểm nghiệm thực tế sẽ khó có thể tiến hành,
hay không thỏa mãn các yêu cầu nghiêm khắc của khoa học.
Mặc dù có nguồn gốc lý luận sâu xa như vậy, nhưng phải đến khoảng
những năm 1950, việc nghiên cứu so sánh mới trở thành một chuyên ngành
nghiên cứu của khoa học chính trị, với tên gọi là chính trị học so sánh.
Trong suốt hai thập kỷ sau đó, khuynh hướng nghiên cứu so sánh đã có
nhhững phát triển mạnh và rộng ở các nước phương Tây, đặc biệt là tại Mỹ.
Khuynh hướng này được hình thành từ 3 trào lưu cơ bản sau:
Trào lưu thứ nhất, tại Mỹ, các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến
việc nghiên cứu và giảng dạy về thể chế chính trị của các nước trong khối Ăng
lô - Sắc Xông (như Anh, Canada, Scotland). Trong khi đó ở Tây Âu, các nhà
nghiên cứu cũng có rất nhiều công trình giá trị nghiên cứu về các HTCT ở một
loạt các nước khác nhau như:
- Ralf Dahrendorf và Karl Bracher với “Xã hội và nền dân chủ Đức”
(1967) phân tích về ảnh hưởng của chủ nghĩa Phát xít đối với xã hội Đức.
- Samuel Beer với “Nền chính trị Anh trong kỷ nguyên của những người
theo chủ nghĩa tập thể” (1966) khảo sát sự thay đổi về cấu trúc và tư tưởng
trong các đảng phái chính trị ở Anh.
- Hary Eckstein xem xét nền dân chủ Nauy qua “Sự phân chia và cố kết
trong một nền dân chủ: trường hợp Na uy” (1966).
- Hofman, người Đức, phân tích sự phát triển của Pháp qua các nền cộng
hòa trong tác phẩm “Suy sụp hay đổi mới: nước Pháp từ những năm 1930”
(1974).
- Trong khi đó, tác giả người Pháp, Merle Faisnod lại tập trung vào tìm
hiểu Liên Xô qua tác phẩm “Nước Nga được cai trị như thế nào?” (1963).
- Các nhà nghiên cứu từ các nước khác như Italia có Robert Scalapino
phân tích Nhật Bản “Nền dân chủ và phong trào đảng phái ở Nhật Bản trước
chiến tranh”(1953).
Trào lưu nghiên cứu các nền chính trị nước ngoài như vậy, dù đầu tiên
chỉ có tính chất sư phạm như ở Mỹ hay mang tính quan sát, mô tả, cũng đã
cung cấp khối lượng tư liệu và quan sát phong phú, làm cơ sở cho việc phân
tích so sánh với phạm vi rộng hơn và sâu hơn.
Trào lưu thứ hai, nghiên cứu một cách có hệ thống các thể chế chính trị
thuộc các nền văn hóa khác nhau, đặc biệt là từ các nhà khoa học chính trị
hàng đầu tại Mỹ. Trào lưu này không bằng lòng với việc chỉ dừng lại ở việc
quan sát và mô tả. Các nhà nghiên cứu đã cố gắng đi sâu, chú trọng đến việc
giải thích sự khác biệt hay tương đồng giữa các thể chế chính trị khác nhau ở
các nền văn hóa khác nhau. Do nhu cầu này mà việc xây dựng và kiểm nghiệm
các lý thuyết đã được đặc biệt chú ý và tranh luận. Khuynh hướng như vậy đã
ngày càng trở thành một bộ phận quan trọng và chủ đạo của chính trị học so
sánh nói riêng và khoa học chính trị nói chung trên thế giới. Nổi bật trong các
nhà nghiên cứu này có thể kể ra là David Easton (Phân tích hệ thống về đời
sống chính trị, 1965), Karl Deútch (Hệ thống thần kinh của chính phủ, 1963);
Seymur Lipset (Con người chính trị: nền tảng xã hội của chính trị, 1968),
Gabriel Almond và Sydney Verba (Nền văn hóa công dân, 1963), Robert Dahl
(Nền chính trị đa nguyên: sự tham gia và đối lập, 1971), David Buttler và
Donald Stokes (Sự biến đổi chính trị ở Anh, 1969), Moris Duverger (Các đảng
phái chính trị, 1969). Đây đều là các tên tuổi đã có những ảnh hưởng lớn đến
sự hình thành các lý thuyết, trường phái trong các lĩnh vực nghiên cứu của
chính trị học như lý thuyết hệ thống, chủ nghĩa đa nguyên mới, lý thuyết bầu
cử, lý thuyết đảng chính trị, văn hóa chính trị...
Trào lưu thứ ba là trào lưu tập trung vào các vấn đề về phương pháp
luận của nghiên cứu so sánh. Theo đó, các chuẩn mực và các nguyên tắc khoa
học được tranh luận, xác lập và phát triển. Các nghiên cứu theo hướng này
không chỉ làm rõ các khả năng và lợi thế của nghiên cứu so sánh mà còn chỉ ra
các cấp độ cùng với các hạn chế của chính trị học so sánh.
Ba trào lưu như vậy đã tạo nên những phát triển đặc biệt của CTHSS
thời kỳ 1950 - 1970. Các nhà khoa học đã có cái nhìn bao quát hơn và tinh vi
hơn, thể hiện thông qua một hệ thống các khái niệm cơ bản, các công cụ và các
phương pháp nghiên cứu tin cậy hơn, cho dù vẫn còn nhiều vấn đề phải bàn
cãi. Chính trị học so sánh đã đi vào nghiên cứu sâu những biểu hiện thực tiễn
của những nguyên lý chính trị, vai trò của lãnh đạo chính trị, các yếu tố kinh
tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến hoạt động chính trị. Các đảng phái chính trị
và nhóm lợi ích, mối liên hệ giữa nhà nước và xã hội công dân, lãnh đạo và
quần chúng cũng được đào sâu nghiên cứu trong các nền văn hóa khác nhau.
Xu hướng này ngày càng nhấn mạnh sự phân tích hướng đến phân tích vai trò
chính trị đối với phát triển, do vậy cũng thường được gọi là chính trị học so
sánh mới, với nghĩa là nó từ bỏ việc coi trọng quá mức các phân tích thể chế,
chuẩn mực một cách trừu tượng, mà đặt các thể chế đó trong toàn bộ quá trình
phát triển của xã hội, trong mối tương tác với tăng trưởng kinh tế, dân chủ
hóa,... Điều này rõ ràng có ảnh hưởng bởi việc một loạt các nước thế giới thứ
ba giành được độc lập và tìm kiếm cho mình các mô hình chính quyền hiệu
quả để phát triển, cũng như việc có một loạt các nước XHCN đã có những
thành công trong phát triển dù có mô hình chính trị khác biệt với các nước giàu
có phương Tây.
Ngay các nhà nghiên cứu ở phương Tây như Marx Horkheimer,
Theodor Adonor, Hannah Arendt đã chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác và đưa
ra lý thuyết phát triển phụ thuộc (Dependency Theory), có nhiều khác biệt với
cách nhìn phổ biến lúc đó, vốn cho rằng các nước thứ ba chỉ cần lặp lại con
đường mà các nước phát triển đã qua theo công thức: phi thực dân hóa - tăng
trưởng kinh tế - dân chủ hóa. Trường phái này có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các
nước thế giới thứ ba, đặc biệt là các nước châu Mỹ La tinh, trong thực tế.
Hiện nay, trào lưu nổi bật của CTHSS ở phương Tây được biết đến dưới
tên gọi chủ nghĩa thể chế mới (Neo-institutionalism). Về thực chất, đây là sự
kết hợp và phát triển lên tầm cao hơn của cách tiếp cận thể chế truyền thống
bằng cách kết hợp với phát triển luận hiện đại. Theo đó, mặc dù vẫn tập trung
vào nhà nước và các thành tố cơ bản của HTCT, những nội dung nghiên cứu
đã có sự chuyển dịch về trọng tâm và phương pháp:
- Nhấn mạnh vào hành vi chính trị (đặc biệt là bầu cử)
- Những thay đổi trong tính chất của các đảng chính trị
- Vai trò lãnh đạo chính trị với quá trình chính trị như dân chủ hóa
- Vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế như nhà nước phúc lợi
- Sự liên quan giữa thể chế chính trị dân chủ với tăng trưởng, phát triển
- Văn hóa chính trị với việc hình thành các nền dân chủ...
Nói cách khác, các nghiên cứu như vậy đã làm cho nghiên cứu CTHSS
trở nên ít mang tính chất so sánh pháp lý, ngày càng tập trung và đi sâu vào
lĩnh vực của mối quan hệ kinh tế - chính trị và các quá trình xã hội thực tế như
quá trình hoạch định và triển khai chính sách.
Như vậy, cần coi chính trị học so sánh cũng chỉ là Chính trị học với
trọng tâm đặc biệt là nghiên cứu các nền chính trị khác nhau (ở các quốc gia
khác nhau, cũng như trong cùng một quốc gia nhưng ở các thời kỳ khác nhau).
Theo nghĩa này, có thể nói có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong CTHSS.
Ngay cả hệ thống phân loại các cách tiếp cận cũng đã khác nhau.
Nếu lấy đối tượng chính trong nghiên cứu làm tiêu chí, người ta thường
phân ra các cách tiếp cận cơ bản như:
1 – Cách tiếp cận thể chế (Institutional approach): đây là cách tiếp cận
lâu đời nhất, lấy việc nghiên cứu các thể chế quyền lực cơ bản như hành pháp,
lập pháp, tư pháp, đảng chính trị và hệ thống bầu cử làm trung tâm nghiên cứu.
Việc so sánh lúc đó sẽ tập trung vào việc xem xét các thể chế này ở các nước
khác nhau (không chỉ từ góc độ pháp lý mà chủ yếu trong thực tế hoạt động).
Cách tiếp cận như vậy, bên cạnh các ưu điểm như đã rõ, thường bị phê phán là
khiếm khuyết ở chỗ bỏ qua các tổ chức và các cố kết xã hội khác, không thấy
được hết các ảnh hưởng, có thể không trực tiếp trong ngắn hạn nhưng lại rất
quan trọng về dài hạn. Cách tiếp cận này cũng sẽ phụ thuộc rất nhiều vào hệ
thống các khái niệm của pháp luật, và dễ bị lấy “tinh thần câu chữ” pháp lý
thay cho hiện thực chính trị, và cũng dễ bị sa vào mô tả hơn là phân tích. Tuy
nhiên, cách tiếp cận như vậy lại có lợi ích trong việc bước đầu tìm hiểu các
HTCT nước khác và tương đối dễ tiếp thu trong sư phạm.
2 – Cách tiếp cận chính sách: lấy quá trình chính sách làm trung tâm, từ
đó mới nhìn nhận các yếu tố về thể chế cũng như các hành vi chính trị. Tiêu
biểu là Macridis với “Nghiên cứu so sánh về các chính phủ” (1955), trong đó
ông xem xét các quá trinh chính sách ở các quốc gia để phân tích chính trị các
nước này. Nói cách khác, các thể chế chính trị được đặt vào trong vai trò hiện
thực quan trọng của nó: việc đưa ra và thi hành các chính sách, vì đây là nội
dung thực sự của chính trị - quá trình phân bổ các giá trị.
3 – Cách tiếp cận hệ thống, cấu trúc chức năng: theo đó đặt mạnh tính hệ
thống, tính chỉnh thể và mối tương tác của toàn bộ hệ thống trong việc đưa ra
quyết định, mà các thể chế chính cũng chỉ là một yếu tố, bộ phận.
Ngoài ra, nhìn từ góc độ lấy tiêu chí là vai trò của cá nhân con người, có
thể thấy có ba cách tiếp cận chính của chính trị học so sánh hiện nay:
1. Phân tích cấu trúc (Vĩ mô): Chính trị giữa các nhóm lớn trong xã hội
(giai cấp, đẳng cấp, tầng lớp ưu tú...) là quan trọng nhất. Chủ nghĩa Mác cũng
được coi là thuộc trường phái này.
2. Phân tích hành vi (Vi mô): Đi từ con người cá nhân: các đặc điểm tự
nhiên, bản chất của con người, sẽ qui định các hành vi chính trị. Trường phái
lựa chọn công cộng là trường phái nổi bật, trong đó, cách sử dụng các phương
pháp tiếp cận của khoa học kinh tế (đặc biệt là kinh tế học tân cổ điển) để giải
thích các hành vi cá nhân, nhóm xã hội trong các hoạt động chính trị quan
trọng, từ đó, lý giải sự hình thành và vai trò của các thể chế.
3. Văn hóa và giao tiếp xã hội: dùng các đặc điểm văn hóa (bền vững)
để giải thích và dự đoán các hành vi chính trị của các cộng đồng khác nhau.
1.3. CÁC TIẾP CẬN CHÍNH TRỊ HỌC SO SÁNH
Chỉ tính từ khoảng nửa thế kỷ gần đây, kể từ khi hai tạp chí chuyên về
CTHSS ra đời (1968) đã có nhiều cách tiếp cận được sử dụng (Tâm lý học, văn
hóa, cơ cấu - chức năng, hệ thống - chức năng, phương thức thông tin, đa
nguyên, tinh hoa, hệ thống toàn cầu,... Đến nay, sau khi hoàn thiện và hợp
nhất, có 3 trường phái chủ yếu cùng tồn tại, cạnh tranh, và có lẽ đúng hơn là bổ
sung cho nhau: 1) Phân tích cấu trúc (Structure analysis), 2) Lý thuyết Lựa
chọn hợp lý (Rational choice theories), và 3)Tiếp cận Văn hóa (Culturalist
approach).
Phân tích cấu trúc
Bắt nguồn từ Marx, khi ông không trách các nhà tư bản với tư cách cá
nhân mà trách toàn bộ chế độ TBCN với tư cách là một hệ thống các thể chế,
luật lệ xã hội, bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị. Hoạt động chính trị, sự tương
tác giữa nhà nước và xã hội chỉ có thể được phân tích thấu đáo trong sự hạn
chế chung nhất này – tức trong sự thấu hiểu về cấu trúc vĩ mô, trong đó, cá thể
không có tác động đáng kể (có thể so sánh cách nhìn nhận như vậy với kinh tế
học vĩ mô). Trường phái này, đương nhiên, bao gồm nhiều khuynh hướng và
biến thể phi Mác xít. Tuy nhiên, việc nhấn mạnh vào vô thức xã hội, vào tính
độc lập (tương đối) của cấu trúc thể chế cũng như sự ảnh hưởng có tính xác
định (formative influence) của chúng đối với hoạt động chính trị là nét chung,
có thể coi là được khởi đầu (phân tích một cách hệ thống) bởi Adam Smith,
đặc biệt là Karl Marx và sau này là Max Weber (có thể kể thêm Durkheim và
Pareto).
Với cách tiếp cận như vậy, các phân tích chính trị vĩ mô sẽ chỉ tập trung
vào những nhóm xã hội lớn (giai cấp, sắc tộc, dân tộc, tầng lớp, nhóm xã
hội…), những quá trình lớn (phân tầng xã hội, chiến tranh, công nghiệp hóa,
đô thị hóa, chuyển dịch tư bản và công nghệ,...) và các thể chế xã hội với nghĩa
là tập hợp cách thức, lề lối, chuẩn mực điều chỉnh các hành vi chính trị trong
xã hội (trong đó chủ yếu là: cách thức giải quyết mâu thuẫn, và cách thức hợp
tác xã hội).
Những tranh luận lớn trong những năm 1960 và 70 đã đưa vào trường
phái này các phát triển mới trong đó nổi bật là sự kết hợp (đồng thời là sự phủ
nhận) giữa hai cách tiếp cận cá nhân luận và tập thể luận (methodological
individualism and collectivism). Daston (1988) và Hacking (1990) đã phát
triển cách tiếp cận xác suất như công cụ quan trọng để hiểu các quá trình lớn
đó. Theo đó, các hành vi các nhân dù không thể dự đoán chính xác, nhưng
nhóm cá nhân có cùng tính chất nhất định sẽ có hành vi được dự kiến với xác
suất cao.
Đây là cách tiếp cận được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu và giảng
dạy chính trị học so sánh trên thế giới, và cũng là cách thức tiếp cận chính
trong nghiên cứu này. Do vậy, chúng ta sẽ giành một mục riêng để giới thiệu
khái quát.
Giữa thập kỷ 1990, với sự phát triển của trường phái lựa chọn hợp lý (có
nguồn gốc từ Kinh tế học vi mô – Tân cổ điển) và các thách thức của chủ
nghĩa hậu hiện đại về phương pháp luận, trường phái cấu trúc lại có những
biến chuyển mới, hoàn thiện thêm tiêu điểm (quan hệ nhân quả) và phương
pháp (lịch sử) phân tích truyền thống. (Xem thảo luận chi tiết hơn ở
Katznelson, 1997).
Có thể nói sự tìm kiếm nền tảng vi mô cho phân tích vĩ mô trong lập
luận về con người cá nhân là một trong những hướng đầy hứa hẹn của trường
phái này trong những năm gần đây (Ví dụ: Skocpol, 1992, đã cố gắng kết nối
yếu tố cá nhân của các nhân vật chính trị quan trọng với ‘sự ràng buộc’ của
yếu tố thể chế).
Lý thuyết Lựa chọn hợp lý
Trường phái này có thể coi là bắt đầu với các nghiên cứu nền tảng của
Down (1957), Riker (1962), và Olson (1968), dù có thể người ta đã bắt gặp các
ý tưởng cơ bản từ sớm hơn của chủ nghĩa duy lợi (utilitarianism) và, đặc biệt là
các nghiên cứu kinh tế học vi mô.
Nếu cách tiếp cận Phân tích cấu trúc có thể coi là chủ nghĩa trọng xã hội
hay xã hội luận thì cách tiếp cận Lựa chọn hợp lý có thể coi là chủ nghĩa trọng
cá nhân hay cá nhân luận. Trường phái này lấy cá nhân làm trung tâm, trong
đó sự duy lợi và duy lý là hai đặc điểm nổi bật quy định các hành vi của họ. Có
nguồn gốc từ kinh tế học vi mô, trường phái này cũng có sự chặt chẽ (ở mức
gần như toán học) về lô-gíc và phạm vi ứng dụng rộng rãi.
Đi từ phân tích cá nhân điển hình, trường phái này cố gắng giải thích các
hành vi của tập thể, của nhóm, giai cấp, của các tổ chức chính trị như đảng
phái, chính phủ, cơ quan hành pháp, lập pháp, tư pháp... Hoạt động chính trị
không phải là hoạt động kinh tế thị trường, và do vậy, trường phái này, dù về
phương pháp luận rất giống với kinh tế học vi mô tân cổ điển, đã xét đến các
yếu tố phi thị trường, các yếu tố về tinh thần công cộng, trách nhiệm xã hội,
động cơ không vụ lợi,… trong quá trình phát triển của mình.
Dù các nghiên cứu này chưa được giới thiệu nhiều ở Việt Nam, những ai
đã từng làm quen với kinh tế học vi mô (tân cổ điển) đều đã biết phương pháp
luận nền tảng, cũng như các ứng dụng của toán, thống kê, lý thuyết trò chơi
trong nghiên cứu của trường phái này. Đây là trường phái có ảnh hưởng rất
mạnh trên thế giới, đang trong quá trình hoàn thiện để có thể áp dụng trong
nhiều lĩnh vực hoạt động chính trị do tính rõ ràng, lô gíc và tính khả kiểm
(kiểm định thực tế) của nó.
Dù được áp dụng nhiều trong các nghiên cứu chính trị, nhưng trong lĩnh
vực chính trị học so sánh, trường phái này mới chỉ đi những bước đầu tiên và
cũng đầy hứa hẹn.1 Một trong các ưu điểm của cách tiếp cận này là có thể mở
rộng để tính đến các yếu tố văn hóa, tâm lý,... tức mọi yếu tố có thể ảnh hưởng
đến cái lợi (hệ giá trị) và cái lý (cách suy tính) của con người và của nhóm
những người “giống” nhau (về duy lợi và duy lý). Lúc đó, "lợi" có thể bao gồm
cả lợi cho người khác, và duy lý bao gồm cả sự “phi lý” (trong ngắn hạn, và
với cá nhân. Tức về lâu dài sự phi lý đó vẫn là "duy lý").

1
Các phê phán căn bản về trường phái này đã được Viện KHCT dịch, cùng với các trích đoạn của các nghiên
cứu ban đầu của 3 tác giả nêu đầu tiên
Đây là một cách tiếp cận quan trọng, đang được phát triển bằng cách
kết hợp với các ưu điểm của trường phái cấu trúc (tức phân tích vĩ mô) như
trên đã đề cập. Kết hợp này có thể mô tả ngắn gọn như sau: Các nhân vật chính
trị luôn tối đa hóa (do duy lý) các lợi ích của mình (do duy lợi) (các lợi ích này
rất đa dạng: từ lợi ích có tính vị kỷ như số phiếu bầu, sự tín nhiệm của cấp
trên, tiền, ngân sách được cấp cho cơ quan mà mình là thủ trưởng, đến các lợi
ích công cộng: xây được nhiều trường học nhất, giảm được số người thất
nghiệp...). Tuy nhiên, các tính toán này (được thể hiện cuối cùng qua hành vi)
sẽ bị hạn chế bởi hai nguồn chính: 1) Nguồn lực mà người đó có, và 2) Thể chế
và tổ chức hiện hành.
Chính do có hạn chế này mà họ sẽ lựa chọn một hành động theo họ là tối
ưu (đạt điểm cực đại, và cân bằng trong toán học). Hành động tối ưu đó được
thi hành và do vậy các quan sát trong thực tế chính là biểu hiện của sự tính
toán đó (do vậy có thể kiểm định được). Các hạn chế khác nhau ở các nước
khác nhau sẽ giải thích cho sự khác nhau (hay giống nhau) trong thực tế hoạt
động chính trị. Chính trị học so sánh, lúc đó có thể coi về căn bản là sự mở
rộng mẫu khảo sát của chính trị học trong nước. Tức tính khoa học của chính
trị học phải được thể hiện trong sự phổ quát của cách giải thích các hiện tượng
chính trị tại mọi nước.
Tuy nhiên, có thể nhận xét rằng, trường phái này vẫn còn nặng về giải
thích các hoạt động chính trị, trong khi chưa đưa ra được nhiều gợi ý cho hành
động ở cấp vĩ mô.
Tiếp cận Văn hóa
Chúng ta để tiếp cận này ở phần ba, vì có thể coi rằng đây cũng chỉ là
cách tiếp cận bổ sung cho hai cách tiếp cận trên, dù nó rất quan trọng và thú vị
(do sự khác thông thường của các ảnh hưởng văn hóa, ví dụ văn hóa làng xã
với phép vua thua lệ làng của Việt Nam đối với người nghiên cứu từ nền văn
hóa khác), đến mức đôi khi người ta dường như bỏ qua nền tảng lý tính của
văn hóa. Văn hóa, như Kant viết, là quá trình đào luyện lý tính. Chân, thiện,
mỹ cũng chỉ có được thông qua quá trình thanh lọc của lý tính. Và nếu vậy, dù
có chậm biến đổi (và do vậy có thể coi là yếu tố bất biến, hay “biến số ngoại
sinh” trong một mô hình toán học chính trị), vẫn có thể xét chúng dưới một
trong hai góc độ tiếp cận trên, nếu có thiết kế nghiên cứu (tức thay đổi mô hình
gốc) một cách thích hợp. Trong chủ nghĩa Mác lại càng khó có thể lập luận về
việc đặt ngang bằng cách tiếp cận này ngang với hai cách tiếp cận trên. Đây có
lẽ là lý do chính khiến Ross1 nhận xét rằng rất hiếm có các nghiên cứu chính trị
so sánh nào lại đặt yếu tố văn hóa trong vai trò trung tâm.
“Văn hóa” từ lâu đã là khái niệm trung tâm của nhân loại học
(anthropology, hay nhân chủng học) được định nghĩa bằng nhiều cách, từ
nhiều mục đích nghiên cứu khác nhau bao gồm thái độ, niềm tin, hệ giá trị, lối
sống, tổ chức xã hội. Các nghiên cứu chính trị học, tuy nhiên khá thống nhất
khi dùng văn hóa với nội hàm như Geertz (1973) trình bày: văn hóa “là khuôn
mẫu do lịch sử để lại về ý nghĩa kết tinh trong các biểu tượng, là hệ thống các
quan niệm truyền thống được thể hiện qua hình thức các biểu tượng, nhờ đó
con người giao tiếp, duy trì và phát triển tri thức về đời sống và thái độ đối với
đời sống của mình”2. Cách định nghĩa này nhấn mạnh sự chia sẻ trong cộng
đồng về ý nghĩa (meaning). Các hành vi, thể chế, và các cấu trúc xã hội được
hiểu không phải là bản thân văn hóa mà chỉ là các hiện tượng cấu thành văn
hóa (culturally constituted phenomena).
Việc dùng cách tiếp cận văn hóa được phát triển với các nhà nghiên cứu
như Banfield (1958), Almond và Verba (1963), Chagnon (1967)... trong đó
văn hóa được dùng như một yếu tố quan trọng để giải thích các hành vi, hoạt
động chính trị đặc thù (hay không đặc thù) cho một cộng đồng người nào đó.
Yếu tố quan trọng nhất trong đó, theo Geertz (1973), là sự chia sẻ của cộng
đồng trong hình dung về “một trật tự xã hội”. Và từ đó, sự chia sẻ về tính
chính đáng, tính hợp pháp (nghĩa rộng bao gồm cả tục lệ bất thành văn) của
các thủ tục (procedures) giải quyết các bất đồng (và sự hợp tác) xã hội. Tức

1
Ross, 1997: tr. 43
2
Nguyên văn: “An historically transmitted pattern of meaning embodied in symbols, a system of inherrited
conceptions expressed in symbolic forms by means of which men communicate, perpetuate, and develop their
knowledge about and attitude towards life”
bao hàm tính chính đáng của quyền lực xã hội, một khái niệm trung tâm của
chính trị học, cũng như của chính trị thực tiễn.
Sự gần gũi của CTHSS từ cách tiếp cận văn hóa với phân môn Nhân loại
học chính trị (political anthropology) cảnh báo về tính khái quát lý thuyết thấp,
tiềm ẩn trong các nghiên cứu do thiên về khảo sát các chi tiết văn hóa đặc thù
cho từng trường hợp. Do vậy, khi nghiên cứu chính trị trong các nền văn hóa,
việc xác định đúng vai trò của các yếu tố văn hóa bên cạnh các yếu tố về thể
chế và cá nhân duy lý là rất quan trọng. (Xem thêm về thảo luận chi tiết trong
Ross, 1997). Trong 5 chủ đề nghiên cứu chính của chính trị học so sánh tổng
kết bởi Rogowski (1993), chỉ có chủ đề thứ năm về chủ nghĩa dân tộc và khác
biệt sắc tộc là có liên quan nhất tới cách tiếp cận này, trong khi 4 chủ đề trước
(Kinh tế học của Chính trị; bối cảnh quốc tế và chính trị đối nội; các nhóm lợi
ích và chủ nghĩa tập đoàn; và cơ cấu nhà nước với hiệu quả hoạt động) đều
chứng tỏ sự phục hồi và phát triển của cách tiếp cận thứ nhất (phân tích thể chế
vĩ mô) và cách tiếp cận thứ hai (lựa chọn duy lý).
Việc phân loại thành các cách tiếp cận rõ ràng như trên không phải khi
nào cũng thuyết phục vì trong các nghiên cứu cụ thể, người ta đều dùng tổng
hợp các thành quả nghiên cứu của mọi trường phái.
1.4. TIẾP CẬN HỆ THỐNG VÀ HỆ THỐNG THEO CẤU TRÚC, CHỨC
NĂNG

Cách tiếp cận hệ thống


Các thuật ngữ kinh điển của chính trị học như nhà nước, chính phủ,
đảng phái, quốc gia... đều có điểm chung là thường bị hạn chế trong ý nghĩa
pháp lý của chúng – tức gắn với hình thức tổ chức cụ thể, các quy định cụ thể.
Nhu cầu mở rộng hệ thống khái niệm này để tính đến các sự tương tác thực tế
(không chỉ hạn chế bởi tính pháp lý) dẫn đến việc áp dụng lý thuyết hệ thống
vào việc phân tích các hiện tượng chính trị. Khái niệm hệ thống chính trị ra đời
từ nhu cầu này.
Lý thuyết hệ thống đã được áp dụng trong nhiều ngành khoa học xã hội
khác, sớm hơn nhiều so với chính trị học. Mãi đến những năm 1950-1960, do
ảnh hưởng của chủ nghĩa hành vi, lý thuyết hệ thống mới được quan tâm rộng
rãi trong chính trị học.
Những ý tưởng ban đầu về lý thuyết hệ thống được thai nghén bởi nhà
sinh vật học người Đức, Ludwig Von Bertalanffy, vào những năm 1920, khi
ông nghiên cứu các thực thể sinh vật thích nghi và phát triển trong sự tương tác
với môi trường bên ngoài. Sau Thế chiến II, ý tưởng này đã được quan tâm,
khi các nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau cho rằng tri thức khoa học
có tính thống nhất, và do vậy, khái niệm hệ thống cũng thích hợp đối với mọi
khoa học, dù là vật lý, toán học, sinh vật học hay các ngành khoa học xã hội
như chính trị học, kinh tế học. James G. Miller là một trong những người tiên
phong trong hướng này, khi ông công bố tác phẩm “Hướng đến một lý thuyết
tổng quát cho mọi khoa học hành vi” (1955). Trong tác phẩm này, Miller đã
đưa ra 19 mệnh đề lý thuyết có thể kiểm chứng được một cách kinh nghiệm ở
5 cấp độ: tế bào, tổ chức hữu cơ, cá nhân, nhóm, và xã hội.
Trong chính trị học, các câu hỏi chính được chú trọng là:
i – Đời sống chính trị có thể coi như một hệ thống được không?
ii - Nếu có, thì đó là hệ thống như thế nào?
iii - Nếu không, thì việc cứ coi nó như một hệ thống sẽ có lợi gì về mặt
lý luận và thực tiễn?
Các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào hai câu hỏi đầu, trong khi vấn đề
thứ ba không tạo nên xu hướng nghiên cứu đáng kể nào. Trong chính trị học so
sánh, việc nhìn nhận đời sống chính trị như một hệ thống có thể coi như một
cách thức xác lập khuôn khổ chung cho sự so sánh (quy về cùng chất để
nghiên cứu lượng). Bốn khái niệm cốt lõi của lý thuyết hệ thống là: hệ thống,
môi trường, phản hồi, và đáp ứng.
a) Hệ thống: Hiện nay ít ai coi đời sống chính trị - xã hội như một hệ
thống hữu cơ, hoặc nếu có cũng chỉ mang tính ẩn dụ. Chủ yếu hệ thống được
hiểu như một một cấu trúc cơ chế (mechanism structure), hiểu theo nghĩa là
một sự sắp đặt có tính ràng buộc các hành vi để thực hiện được việc đáp ứng
các nhu cầu và các chức năng, tức mục tiêu chung của toàn bộ hệ thống. Các
ràng buộc (cơ chế) như vậy có thể là các thể chế mang tính pháp lý (thể hiện
qua quyền hạn và nhiệm vụ của các tổ chức), có thể là các cấu trúc nhóm, hay
cấu trúc văn hóa...
b) Môi trường: Môi trường cần được phân biệt với hệ thống do tính
tương tác của chúng. Sự xác định biên giới giữa hệ thống chính trị với môi
trường của nó không phải khi nào cũng dễ dàng. Cách đơn giản nhất là dùng
biên giới địa lý. Tuy nhiên, còn có các môi trường khác mà hệ thống chính trị
nằm trong như môi trường sinh học, môi trường văn hóa, tâm lý,... Hơn thế
nữa, bản thân HTCT cũng có thể bị tác động từ môi trường của một HTCT
khác. Sự phân biệt giữa HTCT và môi trường có ý nghĩa quan trọng vì đó là
tiền đề để xem xét các quá trình tương tác theo ba yếu tố: đòi hỏi (đầu vào –
input), xử lý các đòi hỏi, và các quyết định đáp ứng (đầu ra – output)
c) Phản hồi: đây là khái niệm để chỉ sự giao tiếp, tương tác ngay trong
hệ thống. Đó cũng có thể coi là các đòi hỏi từ bên trong của hệ thống. Sự phản
hồi được bộc lộ qua các quá trình đáp ứng với đòi hỏi của môi trường cũng
như sự phản ứng với các kết quả đầu ra của hệ thống. Nó thể hiện sự tương tác
bên trong và khả năng tự điều chỉnh của hệ thống. Sự phát triển và sự vận hành
cảu hệ thống phụ thuộc rất nhiều vào mạng lưới thông tin phản hồi này.
d) Đáp ứng: Đây là chức năng chính của hệ thống. Cấu chúc cơ chế của
hệ thống như trên đề cập cũng được xác định từ việc thực hiện sự đáp ứng của
hệ thống đối với các đòi hỏi của môi trường bên ngoài. Các đòi hỏi này chính
là sự biểu đạt các nhu cầu cần phải được thực hiện. Đối với HTCT, việc thực
hiện các nhu cầu đó cũng đòi hỏi việc phân cho HTCT các quyền lực tương
ứng. Có thể thấy có 4 nhóm nhu cầu chính của xã hội đối với HTCT là:
1) Đòi hỏi về sản xuất và phân phối các hàng hóa, dịch vụ công cộng;
2) Đòi hỏi về điều chỉnh hành vi;
3) Đòi hỏi về tham gia vào hệ thống chính trị; và
4) Đòi hỏi về cung cấp thông tin.
Như vậy, lý thuyết hệ thống coi toàn bộ các hoạt động của đời sống
chính trị như một chỉnh thể có khả năng tiếp nhận, xử lý và chuyển hóa các đòi
hỏi (từ cả bên trong và bên ngoài) thành các quyết định chính trị. Ở cấp độ lý
thuyết chung và phân tích vĩ mô, cách tiếp cận như vậy tỏ ra hữu dụng và dễ
nắm bắt. Tuy nhiên, ở cấp độ phân tích các trường hợp cụ thể, có tính kinh
nghiệm thực chứng, đòi hỏi tính định lượng, cách tiếp cận này lại không tỏ ra
thích hợp. Thậm chí, nếu quá nhấn mạnh (hoặc coi nó là lý thuyếtt toàn năng)
có thể dẫn đến quyết định luận, hay các ảo tưởng về tính khoa học của các giải
thích hời hợt về các hiện tượng chính trị phức tạp. Quá trình chuyển hóa các
đòi hỏi thành các quyết định đáp ứng là một quá trình chưa được nghiên cứu rõ
rệt. Người ta gọi đây là “hộp đen” – sự chứa đựng những mối quan hệ chính
trị, những tương tác thực sự mà việc làm cho chúng hiển minh là không dễ
dàng. Hơn nữa, các hệ thống chính trị trong thực tế là luôn thay đổi và biến
hóa nhiều hơn người ta tưởng do sự ổn định và cân bằng mà khuôn khổ pháp
lý mang lại.

Cách tiếp cận hệ thống theo cấu trúc chức năng


Với cách nhìn nhận như trên, lý thuyết hệ thống đã được kế thừa và phát
triển. Một trong những phát triển đó là cách tiếp cận cấu trúc chức năng. Đây
là cách tiếp cận được sử dụng rộng rãi nhất trong chính trị học so sánh như đã
đề cập với các đại diện tiêu biểu như: G.A. Almond, David Apter, Ư.
Mitchell....
Cách tiếp cận này nhấn mạnh mối quan hệ nội tại giữa cấu trúc và chức
năng trong một hệ thống và cho rằng những chức năng thiết yếu phải được
thực thi để cho hệ thống có thể tồn tại. Như vậy, vấn đề trung tâm là phải xác
định đâu là những chức năng thiết yếu, căn bản nhất của một HTCT.
Lập luận chính của trường phái này quan niệm rằng con người hoạt
động theo những cách thức ổn định, không dễ dàng thay đổi. Việc lặp đi lặp lại
các cách thức đó, trong thực tiến, sẽ dẫn tới (hoặc chính là nền tảng hợp lý) của
các cấu trúc. Nếu vậy, cấu trúc không có gì khác hơn là những mối quan hệ nội
tại, tương đối ổn định, giữa các thành tố của một hệ thống. Đời sống chính trị
được cấu thành từ các hành vi của con người, nên cấu trúc của hệ thống cũng
cần được phân tích theo mức độ lặp đi lặp lại của các hành vi. Sự lặp đi lặp lại
đó có xu hướng ngày càng được tổ chức hóa (thể chế hóa) cao độ. Chính sự lặp
lại đó thể hiện các đòi hỏi thiết yếu, và các đòi hỏi thiết yếu đó dẫn tới những
cấu trúc chính mà một HTCT phải có để nó có thể tồn tại.
Theo D. Apter, có 5 đòi hỏi về cấu trúc đối với mọi HTCT:
1 – Cấu trúc hoạch định chính sách
2 – Cấu trúc đảm bảo trách nhiệm và sự nhất trí
3 – Cấu trúc cưỡng ép và trừng phạt
4 – Cấu trúc phân định các nguồn lực xã hội
5 – Cấu trúc tuyển chọn và bổ nhiệm.
Nếu bất kỳ một cấu trúc nào trong số trên không thực hiện được chức
năng của nó thì toàn bộ hệ thống có nguy cơ sụp đổ. Trong thực tế, các cấu
trúc này được thể hiện cụ thể qua 6 loại tổ chức (cấu trúc) chính trị chính mà
các HTCT thường có là: đảng chính trị, nhóm lợi ích, cơ quan hành pháp, lập
pháp, tư pháp, và các cơ quan hành chính.
Các cấu trúc tổ chức như vậy có thể thấy trong hầu hết các HTCT, và sự
tương tự giữa chúng có thể dẫn đến ngộ nhận rằng nếu biết được cách thức
họat động của các cấu trúc này trong một HTCT, người ta có thể sử dụng
chúng để phân tích, suy đoán tương tự cho các hệ thống khác. Tuy nhiên, các
cấu trúc này có thể rất khác nhau về chức năng. Ngay cả khi chúng có những
chức năng dường như tương tự, mối quan hệ và quyền lực thực sự của các cấu
trúc này cũng có thể khác biệt một cách căn bản. Đều là đảng chính tri, nhưng
đảng ở Trung Quốc sẽ rất khác đảng ở Nga hay Anh, Mỹ. Tương tự như vây,
quốc hội, nghị viện ở các nước Anh, Mỹ cũng có những khác biệt quan trọng
ảnh hưởng đến hoạt động của HTCT trong thực tế. Ngay trong một quốc gia,
chức năng của các cấu trúc cũng có những thay đổi liên tục theo thời gian,
hoặc có những khác biệt mang tính nền tảng khi hiến pháp thay đổi căn bản
như ở Pháp trước và sau 1958. Nếu chỉ phân tích các cấu trúc này sẽ dễ dẫn
đến các kết luận không đáng tin cậy, và không hiểu được sự vận hành cũng
như biến chuyển của một HTCT trong thực tế. Do vậy, bên cạnh việc phân tích
cấu trúc, việc nhìn nhận các chức năng của chúng là rất quan trọng để có thể
phân tích được sự tương tác và tìm hiểu đúng bản chất các hiện tượng chính trị.
Với khuôn khổ này, chính trị học so sánh có thế áp dụng vào phân tích
nhằm xác định được sự tương đồng và khác biệt giữa các quá trình chính trị,
tương ứng với sự tương đồng và khác biệt của cấu trúc chính trị. Trong quá
trình phân tích này, khái niệm “cấu trúc” để trả lời câu hỏi HTCT vận hành
như thế nào, còn khái niệm “chức năng” để trả lời cho câu hỏi HTCT làm gì.
Theo nghĩa đó, cách tiếp cận cấu trúc chức năng bao hàm cả phân tích các khía
cạnh “tĩnh” (ổn định), biểu hiện trong cấu trúc, và cả khía cạnh “động” (sự
biến đổi), biểu hiện trong các chức năng cụ thể của HTCT.
Có thể khái quát các đòi hỏi về chức năng mà bất kỳ HTCT nào cũng
phải có để bảo đảm sự tồn tại như sau:
1 - Chức năng xác định mục tiêu chung của hệ thống
2 - Chức năng xác định cách thức đạt mục tiêu chung.
3 - Chức năng lựa chọn những người lãnh đạo hệ thống; hợp nhất hành
vi của các thành viên
4 - Chức năng bảo vệ sự tồn tại, trật tự, kỷ cương của hệ thống; kiểm
soát các mâu thuẫn và cung cấp các động cơ.
5 - Chức năng điều chỉnh, thích nghi và phát triển; đáp ứng các yêu câu
của môi trường cũng như các phản hồi bên trong của hệ thống.
Hiển nhiên, còn có nhiều cách thức tương tự để khái quát các chức năng
cơ bản này, tuỳ thuộc vào trọng tâm và mục tiêu phân tích, tuy nhiên chúng
đều nhất quán với khuôn khổ chung cấu trúc – chức năng như đã chỉ ra ở trên.
Một trong các cách đó là cách phân loại của Almond (2003). Theo đó, các
chức năng của hệ thống sẽ được phân thành 3 nhóm:
1 - Nhóm các chức năng hệ thống (System functions): gồm các chức
năng nền tảng: vận động, huy động và giao tiếp chính trị (political
socialisation, mobilization, communication). Các chức năng này đảm bảo sự
gìn giữ và phát triển các giá trị chính trị nền tảng, cũng như sự lựa chọn những
cán bộ chính trị cho hệ thống, và vì vậy là các chức năng ảnh hưởng đến toàn
bộ hệ thống.
2 - Nhóm các chức năng quá trình (Process functions: interest
articulation, aggregation, policy-making, implementation and adjudication):
đây là các chức năng liên quan đến quá trình ra quyết định của một HTCT để
đáp ứng các yêu cầu của xã hội. Đó là: biểu đạt các lợi ích, tổng hợp các lợi ích
thành một lượng nhỏ các phương án lựa chọn nhằm tìm kiếm sự ủng hộ chính
trị, ra các quyết định chính sách, triển khai và điều chỉnh các chính sách.
3 – Nhóm các chức năng chính sách (Policy functions: regulation,
extrasction, distribution): đây là các chức năng mang tính ưu tiên chính trị. Các
chức năng này phân bổ và điều chỉnh các kết quả của HTCT, bao gồm các
chức năng điều chỉnh hành vi, thu và tái phân bổ các loại thuế cũng như các
dịch vụ, lợi ích cho các nhóm xã hội tùy thuộc vào mục tiêu chính trị (ưu tiên
chính sách).
Các cách phân loại như trên đều có các mặt mạnh, mặt yếu riêng, tuy
nhiên đều cần kết hợp trong việc phân tích cấu trúc. Đây là các tiếp cận được
sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu so sánh. Các nghiên cứu trong cuốn
sách cũng tiếp cận từ góc độ này, theo đó, các cấu trúc (thể chế) và chức năng
được đặt vào trọng tâm, đồng thời nghiên cứu trong môi trường địa lý, lịch sử
và văn hóa cụ thể.
1.5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU SO SÁNH
Bên cạnh việc sử dụng nhiều phương pháp khác, Chính trị học so sánh có
phương pháp khá đặc thù là phương pháp so sánh. Khi phân loại các phương
pháp nghiên cứu thực chứng trong các nghiên cứu chính trị học có thể thấy có
2 nhóm chính là:
1- các phương pháp thực nghiệm, dựa trên việc thử nghiệm trực tiếp để
đưa ra các kết luận về quan hệ nhân quả và
2 - Các phương pháp lô-gic, dựa trên suy luận lô-gic để kiểm định gián
tiếp các giả thuyết nghiên cứu.
Xét từ tiêu chí số lượng mẫu được chọn, các phương pháp lô-gic có thể
chia ra thành 3 loại:
i- Phương pháp nghiên cứu trường hợp (case study), chỉ nghiên cứu 1
trường hợp. Lợi thế là cho phép nghiên cứu sâu, xem xét nhiều yếu tố, kết hợp
nhiều góc độ để tìm kiếm sự khẳng định hay đưa ra các giả thuyết mới. tuy
nhiên, điểm yếu ở đây là tính tin cậy thấp, dễ có sự khái quát vội vã chỉ dựa
trên các tư biện là chính.
ii - Phương pháp thống kê, nghiên cứu nhiều trường hợp. Lợi thế là cho
phép nâng cao độ tin cậy, kiểm định tính phổ quát, và cho phép ướng lượng
được các tương quan mang tính định lượng một cách nghiêm khắc. Tuy nhiên,
phương pháp này lại đòi hỏi nhiều thời gian, thông tin và khả năng định lượng,
khó thích hợp với các vấn đề, quá trình chính trị lớn.
iii - Phương pháp so sánh, là phương pháp trung dung, nằm giữa 2 yếu tố
trên vì chỉ chọn 1 số trường hợp tiêu biểu để nghiên cứu. Trong đó so sánh có
thể coi là phương pháp đặc trưng của chính trị học so sánh.
Phương pháp so sánh gồm hai loại so sánh cơ bản:
1. Phương pháp đồng nhất: So sánh: giống – giống - khác
Phương pháp này dựa trên quan sát rằng nếu hiện tượng Y (ví dụ như
tham nhũng) có nguyên nhân là X (ví dụ : Lương thấp) chứ không phải do Z
(ví dụ: sinh ở Hà Nội), thì trong thực tế, khi quan sát một số trường hợp khác
nhau (ví dụ: các cá nhân) nhưng đều có lương thấp (X giống) thì cũng phải
thấy họ đều tham nhũng(Y giống) dù họ sinh ở các địa phương khác nhau (Z
khác) . Khi đó, do sự cùng xuất hiện của Y và X (Giống - giống) với các Z
khác nhau, theo lô-gic có thể kết luận rằng giả thuyết “X chứ không phải Z dẫn
đến Y” là có cơ sở.
Đây là phương pháp so sánh hai chủ thể (ví dụ A và B) có nhiều đặc
trưng căn bản giống nhau và có các kết quả giống nhau. Trên cơ sở đó có thể
phân tích, tìm hiểu nguyên nhân, lý giải những yếu tố nào có tính chi phối (tức
X), quyết định trong đời sống chính trị, những yếu tố nào không có tính chi
phối (tức Z).
Hiển nhiên, phương pháp này có độ tin cậy chưa hoàn toàn cao vì nhiều
nguyên nhân : do sự chọn mẫu chưa khách quan, do không kiểm soát được
toàn bộ các yếu tố ảnh hưởng v.v.
Điểm yếu căn bản của phương pháp này là có thể tồn tại 1 yếu tố ẩn H
(chưa biết, hoặc bị loại ra ngoài sự quan sát) là nguyên nhân dẫn tới cả 2 hiện
tương Y và Z. Khi đó, kết luận Y là do X sẽ sai. Tương tự như kết luận nằm
giường là nguyên nhân của cái chết vì chúng ta quan sát thấy hầu hết mọi
người chết đều nằm trên giường. Ở đây, bệnh tật là yếu tố H đã dẫn tới cả nằm
giường lẫn cái chết.
2.Phương pháp dị biệt: So sánh: khác - khác - giống
Phương pháp dị biệt dựa trên lô-gic phản chứng tức nếu Y là do X chứ
không phải do Z thì khi quan sát các trường hợp chúng ta sẽ phải thấy nếu
trường hợp không có X (khác) thì cũng sẽ quan sát thấy không có Y (khác),
mặc dù có Z (giống). Trong ví dụ giả thuyết về nguyên nhân của tham nhũng
trên đây, khi so sánh giữa một số người cùng quê (tức Z giống nhau), có lương
cao (X khác) thì cũng sẽ phải quan sát thấy họ không tham nhũng (Y khác).
Phương pháp này được coi là có độ tin cậy cao hơn phương pháp đồng nhất.
Tuy nhiên, phương pháp này cũng có điểm yếu là có thể có các nguyên nhân
X’ khác cũng dẫn tới Y. Khi đó, ngay cả khi không có X, ta vẫn thấy có Y
(giống). Trong trường hợp cụ thể của chúng ta, X’ có thể là “luật pháp không
nghiêm”. Lúc đó, ngay cả những người lương cao vẫm tham nhũng, tức chúng
ta không quan sát thấy Khác - Khác - Giống của 3 yếu tố Y-X-Z, và do vậy có
thể dẫn đến kết luận sai rằng X (lương thấp) không phải là yếu tố dẫn đến
tham nhũng.
Điểm yếu của các phương pháp so sánh là ở chỗ độ tin cậy và sự nghiêm
khắc trong kiểm định chưa cao. Tuy nhiên, trên thực tế các vấn đề được đem
ra so sánh thường không đơn giản và khó định lượng, do vậy dùng các phương
pháp thống kê sẽ rất khó và tốn kém. Các kết quả của phương pháp so sánh
cần được nhìn nhận một cách khách quan với nhận thức rõ về điểm yếu của
chúng, cũng như lập luận chặt chẽ của lý thuyết. là nền tảng bên dưới của các
giả thuyết nghiên cứu này.
Các vấn đề cần lưu ý khi sử dụng phương pháp so sánh
- Phải trừu tượng được, rút ra được cái mình muốn so sánh là cái gì, có
tương hợp không
- Vấn đề so sánh có ý nghĩa khoa học và thực tiễn không
- Khi so sánh không nên chỉ đưa ra một giả thuyết duy nhất
- Mặc dù có thể chưa chính xác nhưng các kết luận sẽ không mất tính
khoa học vì có thể là tiền đề dẫn tới các kết quả mới, đáng tin cậy hơn
- Không có lý thuyết nào tuyệt đối đúng
- Khả năng thu thập dữ liệu.
- Điều khó khăn là việc đưa ra và sử dụng các khái niệm là không đơn
giản, vì các khái niệm có ý nghĩa và được hiểu khác nhau đối với các nền văn
hóa khác nhau (quan niệm về giá trị, chuẩn mực cũng khác nhau), trong những
trương hợp có thể, cần áp dụng các phương pháp định lượng để nâng cao độ tin
cậy.
Như vậy, so sánh chỉ là một trong nhiều phương pháp, dù có thể chưa có
độ tin cậy cao nhưng chúng tỏ ra có hiệu quả nhất trong việc nghiên cứu các
vấn đề lớn, phức tạp như sự vận hành của các HTCT.
Chương 2
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VƯƠNG QUỐC ANH

I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI

Vương quốc Thống nhất Anh (United Kingdom of Great Britain, sẽ viết
tắt là Anh (UK) trong bài này) bao gồm 4 vùng: Anh (England), Scotland,
Wales và Bắc Ai len (North Ireland), trong đó England là vùng lớn nhất, mặc
dù chỉ chiếm 54% diện tích nhưng chiếm tới trên 80% dân số. Vị trí địa lý của
Anh tách khỏi châu Âu lục địa có những tác động quan trọng đến chính trị.
Đây là một trong các yếu tố quan trọng giúp cho đất nước chống được ngoại
xâm và đảm bảo phần nào tính liên tục của những tiến bộ chính trị. Mặt khác,
điều đó cũng có thể gây các cản trở cho hợp tác chính trị với các nước khác ở
châu Âu.
Địa lý và Dân số
Diện tích: 243,000 km vuông.
Trong đó: 25% trồng trọt, 46% bãi cỏ và chăn nuôi, 10%
rừng, 19% cho các mục đích khác. Thủ đô: London (dân số 7.2
triệu).
Dân số (2009): 61.8 tr.
Tốc độ tăng dân số bình quân (2009): 0.4%.
Các nhóm sắc tộc chính: Anh, Ailen (Irish), Tây Ấn (West
Indian), Nam Á (South Asian).
Tôn giáo chính: Anh giáo (Anglican), Thiên chúa giáo
(Roman Catholic), Trưởng lão (giáo hội Scotland - Presbyterian),
Hồi giáo.
Giáo dục: Phổ thông bắt buộc 12 năm. Tỷ lệ biết chữ: 99%.
Tuổi thọ: Nam 76. Nữ 81; Trung bình: 78.7.
Lực lượng lao động (2007): 31,1 triệu, trong đó: Dịch vụ
80,4%; Công nghiệp 18,2%; Nông nghiệp 1.4%.
Những làn sóng di cư từ thời La mã của người Xen tơ (Celts), Xắc xông
(Saxon) và Đan Mạch (Danes) xuống thành người Ailen (Irish) và người
Caribeans gốc châu Phi. Gần 5% dân số không phải là người da trắng. Hai
phần ba dân số theo Anh giáo (Church of England - Anglican) lớn hơn rất
nhiều tỷ lệ không theo tôn giáo (15%) và theo đạo Thiên chúa giáo (10%).
Kinh tế
GDP (2007): 1,93 ngàn tỷ USD. GDP/người: 31.800 USD
Tăng trưởng kinh tế (2006): 2.8%. Nông nghiệp chiếm 1,1% GDP.
Xuất khẩu: 468,8 tỉ USD, Nhập khẩu: 603 tỉ USD (2006).

UK là nước tư bản có nền kinh tế phát triển và thu nhập đầu người cao,
và một tầng lớp trung lưu chiếm đa số, khá đặc thù cho các nước phát triển.
Nền kinh tế của UK đứng thứ 5 trên thế giới, và cũng là một trong các nước có
hoạt động tài chính, ngoại thương sôi động bậc nhất. London và New York
được coi là hai trung tâm hàng đầu về tài chính quốc tế.
Lược sử chính trị
Nền dân chủ hiện đại tại Anh là kết quả của một tiến trình chính trị dài
hơn 700 năm, khởi đầu từ Hiến chương Magna Carta (được ký bởi vua John
vào ngày 15/6/1215, dưới sức ép của tầng lớp quí tộc). Đây là lần đầu tiên
quyền lực chính trị của giai cấp quí tộc được hợp pháp hoá. Tuy nhiên, điều
quan trọng hơn là Hiến chương này đã hạn chế quyền lực của nhà vua và
khẳng định tính tối cao của luật pháp. Tiếp đó là Nghị viện đầu tiên của Anh
đã nhóm họp vào năm 1265.
Mâu thuẫn về quyền lực chính trị giữa giới quí tộc và hoàng gia tại Anh
đã là nguyên nhân của cuộc Chiến tranh Hoa hồng (War of Roses, 1455 -
1465) với kết quả là quyền lực của nhà vua được tái củng cố. Tuy nhiên, ngay
cả trong thời kỳ này, ảnh hưởng ngày càng lớn của nghị viện đã khống chế
được phần nào sự lạm dụng quyền lực của nhà vua.
Mâu thuẫn quyền lực đã phát triển tới đỉnh điểm vào thế kỷ 17 với cuộc
Cách mạng Thanh giáo (Puritan Revolution, 1642-1649) và Cách mạng Vinh
quang (Glorious Revolution, 1688-1689). Kết quả là Hoàng gia Anh phải chấp
nhận Dự luật về các Quyền (the Bill of Rights) vào năm 1689, khẳng định
quyền tối cao của Nghị viện. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là nền dân chủ
Anh đã tiến một bước dài bởi vì Nghị viện lúc đó vẫn bị khống chế bởi giới quí
tộc, tầng lớp người giầu và Giáo hội Anh.
Phải đến thế kỷ 19 Hạ viện Anh (House of Commons) mới có những
bước biến chuyển để trở thành cơ quan lập pháp đại diện thực sự. Trước đó,
mỗi tỉnh (county) được cử hai quí tộc và mỗi hạt tự trị (borough) được bầu hai
công dân vào Hạ viện. Tuy nhiên chỉ có một số ít người thuộc giới trung lưu là
có quyền bầu cử. Do cuộc cách mạng công nghiệp, phân bổ dân số đã có
những thay đổi căn bản. Nhiều hạt tuy đã mất dân nhưng vẫn giữ nguyên ghế
trong Hạ viện. Trong khi đó, các thành phố công nghiệp mới như Manchester,
Leeds,... mặc dù có hàng trăm ngàn dân lại không có đại diện trong Hạ viện.
Đạo luật Cải cách Lớn (Great Reform Act, 1832) ra đời đã cải thiện sự bất
bình đẳng này một phần nào, bằng cách tăng số ghế đại diện cho các thành phố
công nghiệp lớn và giảm (hoặc huỷ bỏ) số ghế của các hạt đã trở nên nhỏ
(rotten boroughs). Ngoài ra, Đạo luật cũng mở rộng diện cử tri lên gấp đôi.
Tuy nhiên, số cử tri cũng mới chỉ chiếm 4% dân số.
Đạo luật cải cách tiếp theo vào 1867 tiến thêm một bước bằng cách mở
rộng diện cử tri, một lần nữa nâng tổng số cử tri lên gấp hai. Kết quả là những
người trung lưu lớp dưới, điền chủ, và một số công nhân cũng có quyền bầu
cử. Các cải cách tiếp theo cũng tăng thêm tính đại diện của Hạ viện như luật bỏ
phiếu kín (1872), và các cải cách năm 1884-85 đã điều chỉnh số ghế theo tỷ lệ
dân số.
Năm 1911, Đạo luật về Nghị viện (the Parliament Act) đã khẳng định
tính tối cao của Hạ viện so với Thượng viện (House of Lords). Trong trường
hợp mâu thuẫn giữa hai viện, Hạ viện sẽ có tiếng nói quyết định vì nó được
bầu bởi dân chúng trong khi Thượng viện được thiết lập trên cơ sở dòng dõi.
Sau Thế chiến I, Đạo luật về Đại diện của Dân chúng (the Representaion
of People Act, 1918) cho phép nam giới trên 21 tuổi và nữ giới trên 30 tuổi có
quyền bầu cử. Năm 1928, tuổi đi bầu của nữ cũng được giảm xuống bằng nam
giới (21 tuổi). Sau Thế chiến II, Đạo luật về Đại diện dân chúng năm 1948 đưa
ra nguyên tắc điều chỉnh số ghế theo sự thay đổi dân số và nguyên tắc một
người-một phiếu bầu (trước đó có một số người tầng lớp trên có thể được bỏ
tới 3 phiếu). Cuối cùng, vào những năm 1960, tuổi đi bầu được hạ xuống còn
18 cho cả nam và nữ.
Như vậy, có thể thấy nền dân chủ đại nghị trong khuôn khổ quân chủ lập
hiến của Vương quốc Anh là kết quả của một tiến trình chính trị lâu dài và đầy
biến động. Tiến trình này hoàn toàn không “hoà bình” và suôn sẻ như một số
người lầm tưởng khi họ chỉ dựa trên một sự kiện là nhiều thiết chế chính trị
quan trọng của Vương quốc Anh hiện đại đã có từ thời trung cổ. Các cuộc nội
chiến đẫm máu (Chiến tranh Hoa hồng, Cách mạng Thanh giáo) đã minh
chứng cho điều này.
Cơ cấu giai cấp
Hệ thống chính trị còn bị qui định một phần quan trọng bởi các điều
kiện xã hội cụ thể. Trong đó, các cơ cấu giai cấp, sắc tộc, tôn giáo là các dữ
kiện quan trọng.
Khác với nhiều nước phương tây, tầng lớp quí tộc Anh vẫn tồn tại và,
mặc dù ít ỏi về số lượng, vẫn còn được trọng vọng và có quyền lực chính trị
nhất định thông qua Thượng viện.
Qua các cuộc điều tra, nhận thức về tính giai cấp của người dân Anh
ngày càng bị nhòa. Nếu như vào năm 1964 có 50% số người được hỏi có thể tự
xác định được giai cấp của mình, thì tới năm 1981, con số đó chỉ còn 29%1.
Một số nghiên cứu khác cho rằng, mặc dù mức độ xác định giai cấp của người
dân còn khá cao nhưng ngày càng ít người cho rằng xung đột giai cấp là bản
chất của đời sống chính trị.

1
Theen và Wilson, tr 39
Trên bề mặt, xung đột giai cấp không thể hiện một cách gay gắt qua các
hành động mang tính cách mạng. Điều này có thể được giải thích bởi một số
quan sát sau:
Sự chuyển đổi thành viên giữa các giai cấp: một số những người ưu tú
của tầng lớp dưới chuyển lên tầng lớp trên. Với phát triển kinh tế, ngày
càng có nhiều người nghèo trở nên giàu có hơn. Tầng lớp trung lưu được
mở rộng. Cơ cấu kinh tế biến đổi cũng làm cho tỉ trọng của công nhân
trong tổng số người lao động giảm đi.
Chính phủ có những cải cách có lợi cho người lao động và những người
ở tầng lớp dưới (các luật về lao động, lương tối thiểu, bảo hiểm xã hội).
Phong trào công nhân được hoà nhập vào các hoạt động của Công đảng
Anh. Điều này cho phép giai cấp công nhân có thể đạt được một số mục
tiêu chính trị nhất định thông qua các hoạt động trong khuôn khổ hợp
pháp.
Cơ cấu giai cấp xã hội ngày càng phức tạp cùng với thu nhập ngày càng
tăng.
Mặc dù trên bề mặt như vậy, sự phân hoá giầu nghèo tại Anh cũng như
tại nhiều nước tư bản khác vẫn là những yếu tố tiềm ẩn cho sự bùng nổ của các
xung đột giai cấp.
Các vấn đề sắc tộc - tôn giáo
Về mặt địa lý, Vương quốc Anh bao gồm 4 vùng: Anh, Scotland, Wales,
và Bắc Irland. Anh, mặc dù chỉ chiếm 54% diện tích nhưng chiếm tới trên 80%
dân số. Cho đến những năm 1960, Vương quốc Anh vẫn được coi như một dân
tộc khá đồng nhất. Vào cuối những năm 1960, các phong trào dân tộc chủ
nghĩa ở Scotland, Wales, và Bắc Irland đòi một quyền tự trị lớn hơn cho họ đã
cho thấy những mầm mống của sự rạn nứt trong tính thống nhất dân tộc. Các
phong trào này, sau một loạt các thất bại, nay đã lắng xuống. Tuy nhiên, các
nguyên nhân kinh tế- xã hội - chính trị dẫn đến chúng vẫn còn đó.
Bên cạnh đó, mâu thuẫn giữa những người theo đạo Công giáo và Tin
lành tại Bắc Irland vẫn là vấn đề nan giải lớn cho chính phủ Vương quốc Anh
hiện nay.
II. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ: Cấu trúc quyền lực và hoạt động thực tế

Đây là phần quan trọng để hiểu hệ thống chính trị của một nước. Phần
này sẽ cố làm nổi bật các vấn đề về tổ chức quyền lực cũng như cơ chế kiểm
soát và cân bằng quyền lực.
1.1. “Hiến pháp” Anh
Một trong những mục tiêu quan trọng của khoa học chính trị là xác định
một “chính phủ tốt” và các điều kiện cho chính phủ đó tồn tại. Đối với nhiều
người, để tạo ra một chính phủ tốt cần phải có một loạt các thiết chế chính trị
tốt với các quyền lực thích hợp và các hạn chế thích hợp. Tóm lại là cần có
một hiến pháp qui định tổ chức bộ máy lập pháp, hành pháp và hệ thống toà án
cũng như xác định mối quan hệ giữa chúng. Tuy nhiên lịch sử cũng như thực
tế hiện nay cho thấy một hiến pháp được soạn thảo tốt cũng như các thiết chế
không qui định bản chất dân chủ của hệ thống chính trị nếu nó không phù hợp
với điều kiện xã hội, chính trị, kinh tế cụ thể.
Mặc dù trong nhiều trường hợp, các thay đổi chính trị đã bắt nguồn từ
các điều khoản của hiến pháp, đã có nhiều ví dụ cho thấy không phải hiến pháp
qui định tính chất của chính phủ mà ngược lại, sự tích tụ các thông lệ trong
hoạt động của chính phủ đã dẫn đến các thiết chế mới cũng như tạo nên nội
dung thực của hiến pháp. Mối quan hệ biện chứng như vậy cũng là dễ hiểu.
Vương quốc Anh là một ví dụ nổi bật cho trường hợp thứ hai.
Không giống như đa số các nước Tây Âu, Anh không có một văn bản
hiến pháp qui định các thủ tục, qui tắc căn bản cho chính phủ và các thể chế
chính trị một cách hệ thống. Hiến pháp Anh được thể hiện qua các thông lệ
truyền thống, cũng như trong một loạt các văn bản lịch sử và các đạo luật
(Acts) của nghị viện. Chúng chưa bao giờ được tập hợp lại thành một văn bản
duy nhất. Tuy nhiên, điều này không nhất thiết làm cho người dân kém tôn
trọng hiến pháp hơn cũng như không làm cho hệ thống chính trị kém hiệu quả
hơn trong việc tổ chức chính phủ và kiểm soát quyền lực của nó.
Chính nhờ sự không thành văn của hiến pháp mà nước Anh giữ được
các truyền thống lịch sử cũng như các thể chế vốn có ngay cả khi các nguyên
tắc hiến pháp có những thay đổi căn bản. Nói một cách khác, bản chất tích tụ
của hiến pháp đã giữ gìn được tính thống nhất và kế thừa lịch sử. Sự không
thành văn này cũng khiến cho hiến pháp dễ thích nghi với các đòi hỏi mới của
điều kiện lịch sử, và dễ thay đổi bởi các thông lệ mới và các thông hiểu không
chính thức. Ví dụ điển hình là mặc dù không có luật nào qui định, một nguyên
tắc hiến pháp bất thành văn được Anh tôn trọng là thủ tướng phải là hạ nghị sĩ,
tức là người được dân chúng bầu lên.
Tất nhiên, từ khía cạnh khác, sự dễ thay đổi như vậy dễ gây ra tính
không ổn định và rối loạn. Việc thiếu một tòa án hiến pháp đã dẫn đến tình
trạng đôi khi các nguyên tắc hiến pháp dễ bị vi phạm và thậm chí bị thay đổi
bởi các hành động từng được coi là không hợp hiến. Trong những trường hợp
này, các hành động đó thường được sự ủng hộ rộng rãi của tầng lớp lãnh đạo
và công chúng thông hiểu chính trị. Các nguyên tắc hiến pháp được bảo vệ
thông qua công luận và sự bầu cử của dân chúng. Đây là điểm đặc thù của Anh
trong cơ chế đối trọng với việc hiến pháp (tương đối) dễ bị vi phạm vì tính bất
thành văn của nó cũng như vì thiếu tòa án hiến pháp.
3 đặc điểm của hiến pháp (các đạo luật cơ bản) Anh:
i- Bất thành văn, theo nghĩa “không có một văn bản duy nhất’ như
thường thấy ở các nước khác
ii- Dễ thay đổi: thủ tục để thay đổi cũng như các đạo luật bình thường
khác
iii- Tính đơn nhất: tức chỉ có một nghị viện tối cao phân quyền và tước
quyền (khác với các nước liên bang)
5 nguồn chính của “hiến pháp”:
i- Luật thành văn của nghị viện (Statutory laws)
ii- Án lệ (Case law) – tức được diễn giải theo phán quyết của các thẩm
phán trong các trường hợp đã xử.
iii- Truyền thống, luật tục, tục lệ (Common law, customs, traditions)
iv- Thông lệ (Conventions)
v- Luật của Cộng đồng Châu Âu EU.
2.2. Nghị viện
Các thay đổi chính trị đã biến hệ thống chính trị Vương quốc Anh từ nền
quân chủ tuyệt đối thành nền quân chủ lập hiến.
Trong lý thuyết và theo luật định, mọi hành động của chính phủ đều
được thực thi với danh nghĩa của Nữ hoàng. Trên danh nghĩa, Nữ hoàng là
nguyên thủ quốc gia, người tuyên bố các luật, đàm phán các hiệp ước, lựa chọn
thủ tướng và nội các, ký lệnh ân xá... Tuy nhiên, trong thực tế, Nữ hoàng hầu
như không nắm giữ bất cứ một quyền lực chính trị nào, thậm chí còn bị hạn
chế hoạt động chính trị hơn một công dân bình thường. Bà không được tham
gia bất cứ một đảng phái nào, cũng như không được thể hiện quan điểm chính
trị của mình. Ngay cả các hành động trong cuộc sống cá nhân của Nữ hoàng
đôi khi cũng cần sự phê chuẩn của chính phủ - một cơ quan, trên danh nghĩa,
cấp dưới của Nữ hoàng.
Như vậy, vai trò chính trị của Nữ hoàng trên thực tế rất bị hạn chế. Việc
vượt quá những giới hạn này sẽ rất khó xảy ra vì nó sẽ bị dân chúng lên án
mạnh mẽ và có thể đe doạ bản thân sự tồn tại của nền quân chủ. Tuy nhiên, sự
tồn tại của Nữ hoàng mang lại những ích lợi nhất định, như giải phóng thủ
tướng khỏi các nghi lễ ngoại giao hình thức, và quan trọng hơn, với tư cách
một biểu tượng chính trị, nữ hoàng chính là sự kết nối hài hoà giữa quá khứ và
hiện tại, giữa truyền thống và hiện đại, làm tăng bản sắc và tự tin dân tộc cho
dân chúng.
Xét từ góc độ kỹ thuật làm luật, Nghị viện bao gồm 3 cấu phần chính:
Nữ hoàng, Thượng viện, và Hạ viện. Bảng 2 liệt kê các giai đoạn chính của
quá trình thông qua một dự luật (theo Roth và Wilson, 1980).
Bảng 2 Các giai đoạn thông qua một dự án luật tại Nghị viện Anh
Hạ viện 1. Trình dự luật (deposition of a bill): dự luật công (liên quan
tới toàn xã hội), dự luật tư (Liên quan tới một bộ phận xã
hội), dự luật hỗn hợp.
2. Đọc lần thứ nhất (First Reading): mang tính công bố cho
dân chúng
3. Đọc lần thứ hai: tranh luận về các nguyên tắc khái quát
chính của dự luật
4. Thông qua ủy ban: một trong tám uỷ ban thường trực
(standing commitee) sẽ xem xét và nghiên cứu kỹ lưỡng
từng điều khoản của dự luật.
5. Báo cáo trước Hạ viện: ủy ban báo cáo kết quả xem xét để
thảo luận trong phiên họp toàn thể và đưa ra các sửa đổi.
6. Đọc lần thứ ba: Hạ viện không thảo luận toàn thể, chỉ bỏ
phiếu thông qua dự luật (sau khi đã sửa đổi).
Thượng Cũng các giai đoạn như ở Hạ viện nhưng mang tính không
viện chính thức hơn.
Các giai 1.Nếu hai viện thống nhất: Luật được chuẩn y bởi Nữ hoàng
(Royal Assent)
đoạn cuối
2. Nếu hai viện không thống nhất: a) Xem xét các sửa đổi
của thượng viện. b) Nếu đó là dự luật tài chính (Money
Bill), Thượng viện không có quyền thay đổi hay trì hoãn.
Dự luật này sẽ vẫn được chuẩn y bởi Nữ hoàng. c) Nếu dự
luật thuộc loại khác, sẽ được chuyển lại cho Hạ viện. Nếu
Hạ viện vẫn thông qua ở kỳ họp tiếp, dự luật sẽ được
chuẩn y bất kể ý kiến của Thượng viện sau một năm.
Nguồn: Roth và Wilson, 1980, tr. 360; Britannica.
Vai trò của Nữ hoàng mang tính hình thức vì Nữ hoàng bao giờ cũng
chuẩn y. (Lần cuối cùng Nữ hoàng từ chối chuẩn y là vào năm 1707). Vai trò
của Thượng viện như vậy cũng hầu như không quan trọng. Hạ viện nắm thực
quyền trong lập pháp. Trên thực tế, người ta thường dùng từ Nghị viện để chỉ
Hạ viện.
Hạ viện
Hạ viện là trung tâm của HTCT Anh, nơi tập trung quyền lực do người
dân ủy nhiệm. Hạ viện có 3 chức năng chính: 1) Làm luật; 2) Thảo luận chính
sách (tức giám sát và điều tra các hoạt động của chính phủ); 3) Bầu chính phủ
và các thẩm phán.
Hạ viện Anh có gồm 646 nghị sĩ, trong đó 523 từ Anh, còn lại từ
Scotland, Wales, và Bắc Ireland (Năm 2007). Mỗi nghị sĩ đại diện cho một đơn
vị bầu cử theo địa lý. Hạ nghị sĩ không được dưới 21 tuổi. Các nhà quí tộc của
Anh, Scotland, Wales không có quyền tranh cử vào Hạ viện.
Cơ cấu đảng phái của Hạ viện (2007)
Công đảng (Labour) 352
Bảo thủ (Conservative) 194
Dân chủ tự do (Liberal Democrat) 63
Các đảng khác: 9 đảng, 30
Không đảng phái: 7

Thông thường, Đảng nào chiếm đa số ở Hạ viện sẽ đưa ra danh sách Thủ
tướng cùng nội các cho Nữ hoàng chỉ định. Trên lý thuyết, Hạ viện có thể bắt
chính phủ từ chức thông qua bỏ phiếu bất tín nhiệm (motion of censure). Điều
này trong thực tế không xảy ra vì tính kỉ luật đảng phái tại Anh rất cao. Rất ít
đảng viên đi ngược lại chủ trương của đảng. Họ luôn bỏ phiếu theo quan điểm
chung của đảng, mặc dù nó có thể ngược lại với quan điểm cá nhân của bản
thân họ.
Vì các thủ lĩnh đảng chiếm đa số đồng thời là thủ tướng và thành viên
nội các chính phủ, nên trên thực tế, chính phủ, về lý thuyết là dưới quyền Hạ
viện, lại có quyền hơn Hạ viện thông qua đa số và tính kỷ luật cao của đảng
mình. (Điều này không phải khi nào cũng đúng cho các nước khác). Điều này
có thể thấy khi so với Mỹ, quốc hội Mỹ tự xác định chương trình nghị sự,
trong khi ở Anh, chính phủ sẽ quyết định nội dung và thời gian của chương
trình nghị sự. Đảng đối lập, mặc dù luôn được giành thời gian để tranh cãi các
vấn đề, nhưng không kiểm soát được nội dung chương trình nghị sự trong các
hoạt động lập pháp.
Ngoài các hoạt động lập pháp, Hạ viện cón có một hoạt động thường
xuyên quan trọng khác là chất vấn chính phủ (question time). Các hoạt động
này được triển khai thông qua các ngày đối lập (opposition day), khi phe đối
lập kiểm soát chương trình nghị sự, đưa ra các câu hỏi chất vấn chính phủ. Một
năm có 19 ngày như vậy. Trong thời gian chất vấn này, các nghị sĩ có thể đưa
ra mọi câu hỏi về chính sách và hoạt động của chính phủ. Đây là một kênh
quan trọng để nghị viện cũng như dân chúng biết được thực chất và hiệu năng
hoạt động của chính phủ. Bởi vì được đông đảo công chúng quan tâm, đây là
một kênh kiềm chế và kiểm soát quyền lực chính phủ một cách hữu hiệu.

Thượng viện
Thượng viện, như trên đã đề cập, đóng một vai trò kém quan trọng hơn
Hạ viện trong đời sống chính trị của Vương quốc Anh. Đó là bởi vì Thượng
viện không có quyền phong toả các dự luật đã được Hạ viện thông qua, cùng
lắm cũng chỉ có quyền trì hoãn không quá một năm (cũng chỉ đối với một số
đạo luật không liên quan đến tài chính quốc gia).
4 chức năng chính của thượng viện là: 1) Làm luật; 2) Công việc tư pháp
(tòa phúc thẩm tối cao và xét xử những vụ án lớn); 3) Giám sát hoạt động của
chính phủ; 4) Thành lập các ủy ban nghiên cứu chuyên sâu.
Thành viên của Thượng viện gồm 4 loại:
i) Tất cả các quí tộc thế tập (hereditary peers)- những người mang các tước
vị quí tộc cha truyền con nối (công, hầu, bá, tử, nam).
ii) Tất cả các quí tộc không thế tập (life-time peers): những người được
phong tước vì có công lao với đất nước. Tước này không được truyền lại
cho con.
iii) Các tổng giám mục và giám mục các địa phận thuộc Giáo hội Anh
(Church of England): được gọi là các Thượng nghị sĩ tinh thần (Lords
Spiritual)
iv) Các thẩm phán toà án phúc thẩm tối cao: được gọi là các Thượng nghị sĩ
luật pháp (Law Lords)
Nhà nước không phải trả lương cho các thành viên thượng viện nhưng
phải trả chi phí cho các chuyến công tác và các lệ phí khác. Năm 1994, thượng
viện có 1.194 người. Cơ cấu của thượng viện tương ứng cho 4 loại trên là 773;
374; 26; 21. Như vậy, quí tộc thế tập chiếm đa số. Thành viên của thượng viện
là nghiễm nhiên, không cần qua dân bầu. Chính vì vậy, cơ cấu của thượng viện
hầu như không thay đổi trong nhiều năm. Từ năm 1999, do kết quả các tranh
luận, Thượng viện có sự thay đổi lớn về cơ cấu. Nghị viện Anh đã ra đạo luật
hủy bỏ việc các quý tộc thế tập là thượng nghĩ sỹ đương nhiên. Hiện tại, số này
chỉ còn 92 người giữ ghế nốt nhiệm kỳ. Tăng số lượng quý tộc không thế tập
(hiện tại là 607). Năm 2007, cấu trúc tương ứng là 92- 607-26-23 (748 thượng
nghị sĩ).
Chính vì các thượng nghị sĩ không phải lo lắng về tranh thủ phiếu bầu,
họ dám tranh luận những vấn đề căn bản, phức tạp, chưa ngã ngũ mà các nhà
chính trị hay né tránh. Hơn nữa, chương trình nghị sự của họ cũng không bận
rộn như Hạ viện nên họ có thể tranh luận các vấn đề này một cách sâu sắc hơn.
Thông thường, thượng viện tránh đối đầu trực tiếp với chính phủ, một
phần bởi họ không thể cản được, phần nữa, điều đó có thể đe dọa trực tiếp đến
sự tồn tại của họ. Trên thực tế, Công đảng Anh đã có những vận động nhằm
thay thượng viện này bằng một thượng viện mới, do dân bầu.
Các uỷ ban của nghị viện:
Hầu hết các công việc của hạ viện và thượng viện hiện nay được thực
hiện thông qua các uỷ ban. Các ủy ban này chính là nơi khảo sát kỹ lưỡng,
thảo luận chi tiết về các công việc của nghị viện. Một ủy ban thông thường có
từ 10 đến 50 thành viên là nghị sỹ. Có 2 loại uỷ ban chính:
1 - Ủy ban thường trực (General Committees): chỉ có ở Hạ viện. Đây là
các ủy ban quan trọng nhất, bao gồm cả ủy ban về ngân sách và tài chính. Các
ủy ban này có tính chuyên môn, chuyên xem xét kỹ và đề nghị sửa chữa các dự
luật trong quá trình lập pháp;
2- Uỷ ban lựa chọn (Select Comm.): Có cả ở hai viện. Được thành lập
tùy thuộc vào tính chất công việc. Ở Hạ viện, các ủy ban này được thành lập
tương ứng với các bộ, có chức năng theo dõi giám sát các bộ tưong ứng về 3
phương diện: chi tiêu ngân sách, chính sách, và hành chính. Ở Thượng viện,
các ủy ban này thành lập theo các vấn đề , để phát huy thế mạnh nghiên cứu
chuyên môn sâu và lâu dài, ví dụ như ủy ban lựa chọn về EU của Thượng viện.
Ngoài ra còn có:
3- Ủy ban chung (joint committees): là ủy ban gồm cả thành viên hai
viện.
4- Ủy ban lớn (Grand committees): Hạ viện có 3 ủy ban, chuyên về 3
vùng lãnh thổ: Walles, Scotland và Bắc Island). Trong khi đó Thượng viện có
1 ủy ban, cũng nhằm để thông qua những dự luật riêng, có thể giám sát chi tiêu
và các cơ quan hành pháp; các Ủy ban chung của toàn hạ viện giải quyết
những dự luật ngắn, những dự luật thuộc về tài chính và thể chế.
3. Chính phủ
Chính phủ là cơ quan hành pháp và chấp hành. Chính phủ bao gồm thủ
tướng, nội các, các bộ trưởng không thuộc nội các, các thứ trưởng (junior
ministers) và các trợ lý bộ trưởng (assistant ministers).
Người dân Anh không bầu thủ tướng trực tiếp, chỉ bầu hạ nghị sĩ trên cơ
sở đảng phái. Nữ hoàng chỉ định thủ lĩnh đảng chiếm đa số trong Hạ viện làm
thủ tướng. Thủ tướng sẽ lựa chọn các thành viên chính phủ, thông thường từ
các nghị sĩ của đảng mình. Có rất ít thành viên chính phủ không phải là hạ nghị
sĩ hay không phải là nghị sĩ. Việc lựa chọn như vậy không cần phải thông qua
quốc hội về mặt hình thức. Tuy nhiên, thủ tướng thường phải tránh các bổ
nhiệm không được ủng hộ từ phía quốc hội. Thủ tướng cũng có quyền cách
chức thành viên chính phủ mà không cần tham khảo quốc hội.
Sau khi lựa chọn thành viên chính phủ, thủ tướng chọn 20-25 bộ trưởng
các bộ quan trọng nhất để thành lập nội các (cabinet of ministers). Nội các họp
hàng tuần để thảo luận và thông qua các quyết định căn bản.
Về danh nghĩa, nội các chịu trách nhiệm tập thể (collective
responsibility) trước quốc hội và nhân dân. Tức là, mọi quyết định của nội các
đều được tán thành bởi mọi thành viên của nội các. Mọi thành viên nội các có
trách nhiệm ủng hộ các quyết định này bất kể quan điểm cá nhân. Nếu thành
viên nào không ủng hộ hoặc tỏ ý kiến đối lập một cách công khai, thành viên
đó thường phải tự từ chức hoặc bị thủ tướng cách chức. Tuy nhiên, thủ tướng
luôn phải thảo luận và tìm kiếm sự ủng hộ của đa số thành viên nội các. Một
thủ tướng không quan tâm đến lời khuyên của các bộ trưởng một cách hệ
thống thường khó giữ được vị trí của mình. Theo nghĩa này, thủ tướng Anh có
quyền lực ít hơn so với tổng thống Mỹ. Các bộ trưởng (ministers) Anh độc lập
hơn các bộ trưởng (secretary) Mỹ.
Cách hoạt động như vậy cho thấy hai điều: 1) Thực quyền của thủ tướng
rất lớn. Bởi vì thủ tướng luôn có sự ủng hộ của quốc hội và có quyền cách
chức các thành viên chính phủ theo ý mình. Theo nghĩa này, thủ tướng Anh có
quyền lực lớn hơn so với tổng thống Mỹ, là người đôi khi không kiểm soát
được quốc hội. 2) Chính vì quyền lực mạnh như vậy, thủ tướng chịu hoàn toàn
trách nhiệm trước mọi thất bại hoặc yếu kém của mọi chính sách. Khác với
Mỹ, thủ tướng khó có thể trút trách nhiệm cho quốc hội.
Các phân tích trên cho thấy thủ tướng có một quyền lực lớn. Đối với
mọi nền dân chủ, quyền lực như vậy cần có cơ chế kiểm soát và cân bằng.
Ngoài cơ chế kiểm soát truyền thống bằng bầu cử định kỳ và trưng cầu dân ý
(referendum), về mặt chính thức theo luật, hạ viện có thể thông qua bỏ phiếu
bất tín nhiệm và cưỡng bức chính phủ từ nhiệm. Tuy nhiên trên thực tế, điều
này rất khó xảy ra do tính kỷ luật đảng cao. (Chỉ xảy ra một lần trong 60 năm
gần đây, và cũng do đảng cầm quyền bị mất đa số sau cuộc bầu bổ sung giữa
kỳ chứ không phải thực sự vì mất tín nhiệm). Trong trường hợp, thủ tướng bị
thua trong cuộc bỏ phiếu tín nhiệm như vậy, thủ tướng có thể a) từ chức để
đảng đối lập thành lập chính phủ mới, hoặc b) đề nghị nữ hoàng giải tán quốc
hội và bầu lại quốc hội mới.
Việc lạm dụng quyền lực của chính phủ bị hạn chế chủ yếu bởi các
kênh không chính thức mà đầu tiên là chính phủ phải đảm bảo được sự thống
nhất trong đảng của mình. Các thành viên chính phủ ở Anh thường là những
người đã làm việc lâu năm cho đảng, bỏ nhiều tâm sức xây dựng đảng và họ
hiếm khi mạo hiểm phá vỡ tính thống nhất trong đảng bằng các hành động
mang tính độc đoán và phiêu lưu cá nhân. Đây cũng là điểm khác của Anh so
với Mỹ, là nước nhấn mạnh vào việc dùng các ràng buộc chính thức thông qua
các thể chế để kiểm soát và cân bằng quyền lực.
4. Tư pháp
Do truyền thống lịch sử và hệ tư tưởng, nguyên tắc phân quyền chỉ được
tôn trọng một cách không hoàn toàn trong đó ưu thế của nghị viện là lấn át so
với tư pháp.
* Cơ cấu, tổ chức của toà án
Hệ thống toà án Anh bao gồm các cấp toà sau:
+ Toà án địa phương (County Court) là toà án có cấp độ thấp nhất trong
hệ thống toà án Anh, xét xử phần lớn các vụ việc dân sự với thủ tục đơn giản,
không có bồi thẩm đoàn. Các thẩm phán của toà địa phương được bổ nhiệm từ
các luật sư có ít nhất 7 năm kinh nghiệm. Tên gọi của các toà án địa phương
không trùng với tên các địa danh hành chính. Các phán quyết của các toà địa
phương không được coi là án lệ.
+ Toàn cấp cao (High Court) được chia làm ba phân nhánh: toà Nữ
Hoàng (The Queen’s Bench Division); toà Gia đình (The Family Division) và
toà Công lý (The Chancery Division). Toà án cấp cao xét xử các vụ án dân sự
lớn, phức tạp và quan trọng hơn toà địa phương. Và từ đây cũng có thể kháng
cáo lên cấp cao hơn ở phân hệ toà hình sự của toà Thượng thẩm.
Toà án cấp cao tiến hành việc xét xử với thủ tục chặt chẽ. Hiện nay toà
cấp cao chỉ sử dụng bồi thẩm đoàn trong một vụ việc nhất định. Phán quyết
của toà cấp cao có giá trị như án lệ (chiếm khoảng 1/10), có giá trị bắt buộc đối
với toà địa phương. Do toà cấp cao có ba phân hệ nên phán quyết được cho là
án lệ của mỗi toà không có giá trị bắt buộc đối với các toà khác thuộc toà cấp
cao. Tuy vậy, các thẩm phán của các toà cấp cao luôn tôn trọng quyết định của
nhau. Các án lệ của toà cấp cao không có tính bắt buộc đối với toà án ở cấp cao
hơn.
+ Toà án Hoàng gia (Crown Court), về mặt cấp độ có thể coi ngang với
toà cấp cao, chủ yếu xét xử các các vụ án hình sự nghiêm trọng. Việc xét xử có
sự tham gia của bồi thẩm đoàn gồm 12 người. Toà án Hoàng gia được coi
trọng vì vai trò to lớn của nó dưới thời quân chủ và thể hiện truyền thống quân
chủ của nhà nước Anh. Toà án này có cơ sở khắp đất nước.
+ Toà Thượng thẩm, cấp độ cao hơn toà cấp cao và toà Hoàng gia, là toà
phúc thẩm xét xử trực tiếp các bản án, quyết định dân sự và hình sự của các toà
án cấp dưới. Do tính chất và thẩm quyền của mình, các bản án có giá trị
(khoảng 25%) được xuất bản thành các án lệ.
+ Thượng viện là cấp xét xử cuối cùng ở Anh. Quan trưởng ấn và các
thượng nghị sĩ luật hoạt động như toà án cao nhất của đất nước. Tuy nhiên họ
không xét xử mà đúng hơn là giải thích luật và đưa ra quan điểm của mình về
các vụ xét xử.
* Sự độc lập của tư pháp
Sự độc lập của tư pháp đối với kiểm soát và can thiệp chính trị là
nguyên tắc căn bản của hiến pháp Anh. Các thẩm phán cũng như một nhà cai
trị bị kiềm chế bởi dư luận công chúng về những vấn đề kiện tụng. Các thẩm
phán không thể là thành viên Hạ viện và nghị sĩ nào muốn trở thành thẩm phán
phải từ bỏ vị trí của mình ở Hạ viện. Lương của thẩm phán được trả ổn định từ
quỹ quốc gia và hiếm khi bị thay đổi bởi dự thảo ngân sách hàng năm cũng
như là chủ đề tranh cãi ở nghị viện. Các thẩm phán cấp cao còn được bảo đảm
về nhiệm kỳ làm việc. Họ có thể bị sa thải chỉ khi cả hai Viện đề xuất thông
qua sự chấp thuận của Nữ Hoàng. Yếu tố bảo đảm cuối cùng là các thẩm phán,
ít nhất là về mặt hình thức, đều được bổ nhiệm và thăng tiến trên cơ sở chuyên
môn hơn là cơ sở chính trị. Yếu tố này gây tranh cãi vì việc bổ nhiệm thẩm
phán thuộc thẩm quyền của Chánh án toà tối cao (Lord Chancellor) - là một
nhà chính trị và là thành viên của nội các. Các nghị sĩ, được bảo vệ bởi những
đặc quyền của nghị viện, nhìn chung cũng có quyền bình luận về các thẩm
phán và vấn đề pháp lý chưa được giải quyết, điều này được coi là xét xử phụ
cho đến khi tiến trình được hoàn tất. Ở đây có sự trao đổi sự tự kiềm chế lẫn
nhau giữa các nhà chính trị và các thẩm phán và sự thừa nhận phạm vi tách
biệt của họ.
Tuy nhiên không có sự tách biệt hoàn toàn giữa luật và chính trị. Chánh
án toà tối cao là thành viên của chính phủ, có ghế trong nội các và là chủ tịch
thượng viện. Các thẩm phán toà án tối cao (gọi là các Thượng nghị sĩ luật) nằm
ở thượng viện, hoạt động như một toà thượng thẩm tối cao. Các luật sư có đại
diện đáng kể ở hạ viện. Các thẩm phán cũng tự nhận thấy mình có liên quan
trong việc điểu khiển các toà án, các uỷ ban và những cuộc điều tra khác nhau
về những khiếu kiện mặt chính trị.
Vào những năm 1970s và 1980s, vai trò của các thẩm phán đã được nhìn
nhận ngày càng tăng vào lĩnh vực chính trị. Đối với những người ủng hộ thì
toà án là một yếu tố cơ bản trong một nền dân chủ tự do, hỗ trợ hệ thống kiềm
chế và cân bằng và cai trị theo luật, cung cấp một sự bảo vệ chống lại chính
phủ lạm quyền. Nhưng đối với những người chỉ trích, toà án là một phần của
trật tự chính trị “thống trị”, thường ra những quyết định có lợi cho nhà nước và
tầng lớp của mình. Các thẩm phán cũng thường xuyên bị tấn công vì những
định kiến chính trị từ nền tảng giáo dục, xã hội và đào tạo pháp lý mang tính
độc quyền của mình. John Grifith (1991) là người đề xuất mạnh mẽ luận thuyết
rằng, các thẩm phán thường xuyên thiên vị cho lợi ích của giới cầm quyền
trong những trường hợp liên quan đến tài sản, luật pháp và trật tự, và thường
gắn lợi ích công cộng với lợi ích của chính phủ. Các bộ trưởng thường viện
dẫn, sử dụng các thẩm phán như là những thành viên trung lập của các uỷ ban,
toà thẩm tra và các cơ quan điều tra, tư vấn khác để khẳng định lại trước công
chúng rằng một sự điều tra độc lập đã được tiến hành đối với những sự việc sai
trái hoặc thất bại. Sự nguy hiểm là những quan hệ trong hoạt động tư pháp từ
bên ngoài đó sẽ làm huỷ hoại huyền thoại về tính trung lập của tư pháp.
* Vai trò của toà án
Quyền tối cao của nghị viện đề cập đến quyền không giới hạn trong việc
làm luật và toà án không có khả năng bác bỏ một đạo luật, ngoài những vấn đề
gắn liền với EC. Trái lại ở Đức hoặc Mỹ, cả hai nước đều có hiến pháp thành
văn, toà án có vai trò quan trọng trong việc giải thích hiến pháp và đánh giá về
những gì ảnh hưởng đến chính sách công. Tuy nhiên, các thẩm phán Anh
không hoàn toàn thụ động. Quan điểm pháp lý về hoạt động của hành pháp cho
phép các thẩm pháp quyết định các bộ trưởng và công chức của họ có hoạt
động theo đúng quyền lực do luật quy định hay không. Các thẩm phán còn có
quyền quyết định rằng một quan chức nào đó đã vượt quá thẩm quyền hoặc vi
phạm luật. Tuy nhiên họ có những do dự khi tiến xa hơn và quyết định giá trị
hoặc quan điểm hợp hiến của những đạo luật cụ thể, vì nếu làm như vậy họ có
thể tự bộc lộ nỗ lực lấn chiếm chức năng lập pháp. Theo truyền thống họ tự
bằng lòng với việc đọc các đạo luật để quyết định các bộ trưởng hay quan chức
có hoạt động trong phạm vi quyền lực theo luật định hay không. Đây là một
khía cạnh của sự phân chia chức năng chính thức của hiến pháp Anh.
* Hoạt động xét xử
Một số người ủng hộ tư pháp chỉ ra sự suy yếu của nghị viện trong quan
hệ với hành pháp và nhìn nhận vai trò của toà án trong việc kiềm chế hành
pháp. Tuy nhiên, không có hiến pháp thành văn chống lại những vi phạm mà
toà án có thể phát hiện ra trong hoạt động của hành pháp, cũng như chưa có
truyền thống toà án thực hiện vai trò như thế. Trong khi ở Mỹ hoạt động tư
pháp của toà án tối cao đảm nhiệm vai trò này và các nhánh khác của nhà nước
cũng được thiết kế để tuân thủ sự kiểm soát của nó. Tuy nhiên, những phán
quyết của toà án ở một số lĩnh vực tranh chấp những năm gần đây cũng tạo ra
những phản ứng về quyền chính trị chống lại sự vi phạm của chính phủ.
Trong những năm gần đây, các toà án Anh đã sẵn sàng lật tẩy những
hoạt động của các bộ trưởng nếu hoạt động của họ dựa vào quyền lực được
hiểu một cách quá thái. Năm 1975, Toà thượng thẩm đã ra phán quyết đối với
Bộ nội vụ (Home Secretary); năm 1976 cũng như vậy đối với Bộ giáo dục; từ
năm 1979 đến lượt các bộ trưởng của đảng Bảo thủ bị phán quyết trong các
quyết định cuối cùng của toà án... Năm 1995 toà án Scotland phán quyết rằng,
cuộc phỏng vấn toàn cảnh với thủ tướng không thể được phát hình trước cuộc
bầu cử vì nó sẽ tạo sự bất cân bằng trong việc đưa tin về các đảng. Số lượng
các vụ áp dụng quan điểm pháp lý đã tăng mạnh trong những năm gần đây.
Một số yếu tố khác cũng ngày càng làm tăng vai trò chính trị của toà án.
Đầu tiên là sự sẵn sàng cầu viện đến toà án ngày một nhiều hơn của các nhóm
lợi ích khi bất bình với lập pháp và sự mở rộng của luật pháp vào những lĩnh
vực mới, đặc biệt trong lĩnh vực nghề nghiệp, phân biệt đối xử, quan hệ giữa
chính quyền trung ương - địa phương. Thứ hai là sự thay đổi quan niệm về
thẩm phán. Một số cuộc bổ nhiệm thẩm phán cao cấp gần đây đã ưu tiên cho
việc hợp nhất Hiệp ước của cộng đồng châu Âu về quyền con người vào Luật
của Anh và tin tưởng rằng thẩm phán sẽ đóng vai trò tích cực hơn trong hoạch
định chính sách. Hoạt động của toà án trong mấy thập kỷ qua có nghĩa rằng
“luật đã bắt kịp chính trị theo cách quyền lực được thực hiện và bị thách thức.
Các luật sư sẽ là người đưa chính phủ ra toà án nhiều hơn các nghị sĩ đối lập
hay phương tiện thông tin đại chúng, là người sẽ hạn chế chính sách của chính
phủ.
Ảnh hưởng của Cộng đồng châu Âu: việc Anh là thành viên của EC
cũng là một áp lực khác tạo cho thẩm phán một vai trò tích cực hơn nhiều.
Trong trường hợp lập pháp của Anh có yếu tố của EC hoặc ở đó có sự tranh
chấp về các hiệp ước của EC hoặc những vấn đề có liên quan, thì phải tham
khảo Toà án châu Âu cho quyết định cuối cùng. Nếu luật của nước Anh mâu
thuẫn với luật của EC, các thẩm phán Anh bắt buộc phải ưu tiên cho luật của
EC.
Nếu Đạo luật về các quyền dựa trên hiệp ước châu Âu được thông qua
và củng cố, sẽ cung cấp cho các thẩm phán một tài liệu khác mà họ có thể
tham khảo khi quyết định tính hợp hiến của hoạt động hành pháp.
* Tự do công dân
Nước Anh có niềm tự hào truyền thống về đảm bảo tự do cá nhân. Trong
thực tế, tự do và quyền của cá nhân và các nhóm có giới hạn vì chúng có thể
xung đột với các quyền khác hoặc với mục đích xã hội lớn hơn, chẳng hạn như
trật tự công cộng.
Tự do ngôn luận, hiệp hội, và biểu tình ở Anh được đảm bảo bởi truyền
thống và văn hoá chính trị nhiều hơn là đảm bảo bằng luật. Vì quan điểm thống
trị lâu dài là tự do của người Anh, xuất phát từ các thông luật và các quyết định
của toà án thông thường được bảo vệ tốt hơn các quyền được cất giữ trong hiên
pháp hoặc các đạo luật ở các nước khác. Tất nhiên không có tự do hội họp hay
hiệp hội tuyệt đối cho các công dân Anh.
Một số nước có đạo luật về các quyền hoặc những tuyên bố chính thức
về tự do dân sự của công dân và nhóm. Đạo luật này cung cấp những đảm bảo
tự do về mặt hiến pháp. Ở Anh không có những tài liệu như thế. Đạo luật về
quyền 1689 giải quyết phần lớn việc bảo vệ quyền của nghị viện chống lại
quốc vương. Người Anh ít đặt sự tín nhiệm vào những cơ sở bảo vệ chính thức
như thế và tin tưởng nhiều hơn vào hệ thống chính trị đa nguyên, tư pháp độc
lập, sự thừa nhận giới hạn hoạt động của chính phủ và ý nghĩa của “đạo đức
pháp lý” giữa nhân dân. Nước Anh từ lâu đã được coi là một đất nước mà tự
do công dân được bảo đảm bởi những yếu tố văn hoá này.
Tuy nhiên trong những thập kỷ gần đây quyền lực hành pháp và phạm vi
lập pháp ngày càng mở rộng thì mối quan tâm ngày càng lớn về khả năng của
nghị viện kiểm soát hành pháp, nhất là để bảo vệ tự do công dân. Yếu tố đảng
bị phê phán là cao hơn hiến pháp.
Tuy nhiên ngay cả các trường hợp phi đảng phái cũng cần thiết sửa đổi
hiến pháp. Để bảo vệ quyền cá nhân một cách hữu hiệu cần phải có một cơ
quan kiểm soát độc lập với chính phủ. Những bảo đảm truyền thống về tự do
cá nhân như dư luận công chúng, chia sẻ các giá trị chính trị, sự tự kiềm chế
của chính phủ không còn đủ nữa. Họ cho rằng Đạo luật về quyền sẽ củng cố
quyết tâm của toà án bảo vệ tự do và thúc đẩy nhân dân nhận biết những vấn
đề liên quan. Một số điều khoản của đạo luật về các quyền mô phỏng theo
Hiệp ước châu Âu về quyền con người đã được thông qua tất cả các giai đoạn
ở Thượng viện, nhưng chưa có thời gian tranh luận ở hạ viện. Nếu được thông
qua nó sẽ cho phép nhân dân hành động chống lại chính phủ vi phạm tự do
công dân. Các nhóm áp lực và các đảng nhỏ đã hứa ủng hộ các giải pháp này
và là một phần của chương trình cải cách hiến pháp nhưng hai đảng lớn chưa
thể hiện quan điểm của mình.
Tóm lại, hệ thống tư pháp được hình thành và kiểm soát bởi Thượng
viện. Chỉ với thời gian, chức năng tư pháp mới có tính tự chủ và được thực
hiện trong thực tế. Điều này thể hiện sự mất cân đối trong thể chế chính trị.
Song bù lại, sự tôn trọng hiến pháp và những quyền cơ bản là kết quả của
những đảm bảo chính trị và đạo đức nhiều hơn là những đảm bảo về mặt tư
pháp. Đây vừa là sự vĩ đại vừa là sự yếu đuối của hệ thống này.
5. Các đảng chính trị, các nhóm lợi ích và hệ thống bầu cử
Hệ thống đảng phái của Anh có thể được coi là hệ thống 2 đảng nổi trội,
vì trong thời gian dài, thường chỉ có hai đảng thay nhau cầm quyền (Công
đảng và đảng bảo thủ). Có nhiều đảng nhỏ khác, trong đó nổi bật là đảng dân
chủ tự do (nhưng cũng chỉ có được khoảng 10% số ghế). Hệ thống 2 đảng nổi
trội như vậy có liên quan đến hệ thống bầu cử, nhưng đông thời cũng phản ánh
quan niệm về đại diện cho lợi ích của các tầng lớp khác nhau. Tuy nhiên, ngay
cả các thủ lĩnh công đảng lại có thể thụoc tầng lợp thượng lưu, và ngược lại,
nhiều công nhân lại ủng hộ đảng Bảo thủ. Đường lối, nền tảng tư tưởng và
chính sách của hai đảng hiển niên có nhiều nét tương đồng (trung tả - trung
hữu). Sự phân cực tư tưởng như những năm thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 không
còn nữa.
* Hoạt động bầu cử
Anh áp dụng hệ thống bầu cử đa số tương đối. Các thành viên của Hạ
viện được bầu theo phương thức đa số tương đối mỗi hạt một thành viên.
Người chiến thắng là “người đầu tiên chạm mốc”: ứng cử viên chiếm đa số
phiếu hoặc nếu không có đa số thì với số phiếu lớn nhất. Hệ thống bầu cử của
Anh đơn giản hơn nhiều so với hệ thống bầu cử ở Mỹ. Các cử tri Anh chỉ phải
quyết định một lần ứng cử viên của đảng nào được bầu vào Hạ viện. Anh có
659 đơn vị bầu cử một thành viên tương đương với 659 quận với số dân xấp xỉ
bằng nhau.
Giống như các nền dân chủ nghị viện, Anh không có một cuộc bầu cử đại
cử tri. Đúng hơn, mỗi đảng có một quy trình riêng để lựa chọn ứng cử viên ra
cạnh tranh trong cuộc bầu cử vào Hạ viện. Ở Ba đảng lớn nhất, chính các nhà
hoạt động đảng chuyên nghiệp và các thành viên đảng đóng đảng phí ở mỗi khu
vực bầu cử sẽ là người lựa chọn các ứng cử viên của đảng họ. Đối với các đảng
nhỏ hơn, có ít các thành viên đảng đóng đảng phí, quy trình lựa chọn có xu
hướng bị kiểm soát chặt chẽ hơn bởi tầng lớp tinh hoa hoạt động đảng chuyên
nghiệp.
Có thể nói Đảng chính trị là trụ cột của quá trình bầu cử trong tất cả các
nền dân chủ nhưng có vị trí đặc biệt quan trọng hơn trong hệ thống chính trị
Anh. Các Đảng chính trị Anh được tổ chức tập trung và đóng vai trò trực tiếp
hơn trong việc xác định các mục tiêu chính trị so với các đảng Mỹ, chỉ định
các ứng cử viên cho các đơn vị bầu cử, tiến hành các chiến dịch tranh cử.
Việc lựa chọn các ứng cử viên mỗi khu vực bầu cử có vai trò quyết định
đến kết quả thắng, thua của các đảng. Vì vậy, công việc này được thực hiện rất
công phu và mang tính chuyên nghiệp. Các ứng cử viên khu vực bầu cử được
tổ chức đảng khu vực bầu cử xem xét, quyết định. Sau đó hồ sơ về các ứng cử
được cơ quan trung ương đảng xem xét cẩn thận và phỏng vấn riêng nếu cần.
Trong khi cơ quan trung ương đảng hiếm khi áp đặt các ứng cử viên của mình
tham gia bầu cử ở khu vực địa phương thì tất cả các ứng cử viên được bầu
chọn bởi đảng khu vực bầu cử phải được sự chấp thuận của các cơ quan trung
ương. Kết quả là các ứng cử viên vào Hạ viện – cũng như các thành viên nghị
viện có xu hướng phụ thuộc vào giới lãnh đạo đảng hơn là các ứng cử viên của
quốc hội Mỹ. Nếu như giới lãnh đạo đảng từ chối một ứng một ứng cử viên, thì
người này sẽ không thể chạy đua vào nghị viện với tư cách là ứng cử viên
chính thức của đảng. Một nghiên cứu về động cơ của việc lựa chọn ứng cử
viên cho thấy rằng, đảng lựa chọn các ứng cử viên vì khả năng giành phiếu
chiến thắng của họ chứ không phải vì những lý do thuộc về tư tưởng hay bất
kỳ lý do nào khác.
Trong các chiến dịch tranh cử, các đảng đưa ra khẩu hiệu bầu cử, phác
thảo cương lĩnh chính sách mà họ cam kết thực hiện nếu trúng cử. Việc xây
dựng khẩu hiệu được các đảng chính trị Anh thực hiện nghiêm túc hơn các
đảng Mỹ. Các lãnh đạo đảng coi những cam kết của khẩu hiệu bầu cử như là
một hợp đồng giữa đảng và các cử tri của mình. Khẩu hiệu bầu cử còn được
thiết kế để thuyết phục các cử tri, đưa ra những giải pháp cho những lĩnh vực
chính sách cụ thể. Đây cũng là cơ sở cho đảng đối lập chỉ trích khi chính phủ
được thành lập đưa ra những chính sách khá trái ngượi với cam kết ban đầu.
Những luật lệ chặt chẽ được áp dụng trong suốt thời gian tranh cử chính
thức ở Anh. Chỉ trong những tuần này, các đảng và ứng cử viên mới có thể chi
phí cho quảng cáo và gắn kết với mục đích bầu cử. Hầu hết tiền quảng cáo là
giành cho các bản thông cáo và yết thị vì luật của Anh cấm quảng cáo chính trị
trên vô tuyến và đài phát thanh. Nhà nước cung cấp cho mỗi đảng một thời
gian quảng bá miễn phí nhất định trên các phương tiện thông tin đại chúng
trong thời gian tranh cử. Ở Mỹ, các ứng cử viên và các đảng có thể tuỳ ý sử
dụng tiền vào tranh cử vào bất kỳ thời gian nào và có thể mua bất kỳ chương
trình quảng cáo trên truyềnt thông của quốc gia hay địa phương nếu họ có thể.
Hơn nữa ở đây thời gian tranh cử không bị giới hạn một cách chính thức.
Tuy nhiên, không có giới hạn về mặt pháp lý về việc đảng sử dụng bao
nhiêu tiền cho tranh cử. Trong những năm gần đây, chi phí cho tranh cử đã
tăng vọt, đặc biệt khi các đảng Anh đã áp dụng công nghệ bầu cử của Mỹ như
thuê các công ty quảng cáo đắt đỏ và phân phát các tài liệu quảng cáo màu mè,
tốn kém. Vì vậy, cả hai đảng Bảo thủ và Lao động rơi vào tình trạng nợ nần
suốt những năm 1990s. Đây cũng là nguyên nhân đảng cần tới sự đóng góp và
ủng hộ kinh phí của các nhóm lợi ích, các cá nhân. Chính vì vậy, đảng không
tránh khỏi việc chịu ơn đối với những ân nhân lớn của mình và phải tính toán,
nhượng bộ, thoả hiệp với các nhóm này trên nhiều lĩnh vực chính sách.
Quá trình bầu cử các thành viên hạ viện cũng đồng nghĩa với việc bầu
thủ tướng chính phủ. Mỗi đại biểu chỉ tranh cử trong khu vực của mình. Vì
vậy, các thủ tướng Anh được bầu ra bởi một nhóm cử tri nhỏ hơn rất nhiều so
với tổng thống Mỹ, chỉ ở một khu vực bầu cử. Năm 1997, Tony Blair là ứng
cử viên đảng Lao động chỉ ở Sedgefieid. Các ứng cử viên ở các khu vực bầu
cử khác muốn ủng hộ Bliar làm thủ tướng sẽ phải bỏ phiếu cho ứng cử viên
đảng Lao động ở khu vực bầu cử của mình với hy vọng đảng Lao động sẽ
giành được đa số các khu vực bầu cử một thành viên này. Ngược lại, tất cả các
cử tri Mỹ đều có cơ hội lựa chọn tổng thống từ các ứng cử viên cạnh tranh
nhau trong cuộc tổng tuyển cử.
Mặt khác, ở Anh với đặc trưng là tính kỷ luật đảng cao nên các cử tri
luôn tin tưởng rằng ứng cử viên của đảng luôn luôn ủng hộ vị trí của đảng. Do
vậy tính cách của mỗi cá nhân ít khi là nhân tố quan trọng trong bầu cử. Các cử
tri lựa chọn các ứng cử viên của họ trên cơ sở của Đảng. Tuy nhiên, sự vận
động của bản thân các ứng cử viên cũng góp phần không nhỏ vào việc thuyết
phục các cử tri.
Ở Anh sự tham gia chính trị là tự nguyện và không gò bó. Mức độ tham
gia công cộng phụ thuộc vào sở thích và động cơ của mỗi công dân. Bầu cử ở
Anh là tự do không bắt buộc. Các công dân Anh được khuyến khích quan tâm
đến các quá trình chính trị, được thông báo về các vấn đề và các đảng để có
khả năng quyết định hợp lý trong việc đấu tranh, tranh luận với các ứng cử
viên trong thời gian bầu cử. Nếu như trước đây các cử tri thường lựa chọn một
đảng và bỏ phiếu đều đặn cho đảng đó thì ngày nay sự lựa chọn là phụ thuộc
vào quan điểm của các đảng về những vấn đề cụ thể. Ở Anh có sự phân chia rõ
ràng giữa một đảng Chính phủ và đảng đối lập làm cho cử tri dễ dàng lựa chọn
ủng hộ, hay chống chính phủ đương nhiệm.
Kết quả bầu cử hạ viện sẽ quyết định đảng nào cầm quyền được thành
lập chính phủ và đảng nào ở vị trí đối lập. Có thể thấy hoạt động bầu cử ở Anh
mang nặng tính đảng phái. Một ứng cử viên nào muốn vào hạ viện thì điều đầu
tiên phải có được sự chỉ định chính thức của đảng, đứng ở cương vị là đại diện
của đảng đó (dĩ nhiên người đó có thể tự ứng cử một cách độc lập). Hệ thống
này hầu như không có chỗ cho những người ngoài đảng. Một đặc điểm đáng kể
là hệ thống bầu cử đa số tương đối đôi khi tạo ra một tỷ lệ không tương xứng
giữa các đảng về % tổng số phiếu và % số ghế có được ở Hạ viện. Sự không
tương xứng này rất lớn, chẳng hạn cuộc bầu cử năm 1997, đảng Lao động
chiếm 43% số phiếu nhưng lại có hơn 63% số ghế. Hệ thống bầu cử này trừng
phạt các đảng nhỏ. Các đảng nhỏ có thể có sự ủng hộ cơ bản tính trên toàn
quốc, nhưng các ứng cử viên không có đủ số phiếu để chiến thắng tại khu vực
bầu cử. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho tính đại diện ở hạ
viện thấp.
* Các loại hình nhóm lợi ích
Trong thực tế các cử tri hiếm khi thể hiện một ý chí tập thể chân thực,
ngay cả những người đã bỏ phiếu cho đảng cũng không đồng ý với chính sách
của chính phủ về một phương diện nào đó. Nhiều cử tri tìm cách hình thành
hoặc tham gia vào các nhóm áp lực. Có hơn một nửa dân số Anh thuộc về các
nhóm áp lực để ảnh hưởng, phản đối hoặc thay đổi chính sách của chính phủ.
Có thể phân biệt thành 4 nhóm lợi ích cố gắng ảnh hưởng tới chính phủ
đó là:
- Nhóm khuyến nghị: thường là các hiệp hội hay tổ chức đề xuất những
ý tưởng hay chính sách. Nhóm này tán thành mục đích và các thành viên tồn
tiềm năng của mình về mặt lý thuyết là chung sống với toàn thể nhân dân.
Chẳng hạn như Hiệp hội cải cách luật phá thai, các nhóm đề xuất ý tưởng
(think – tanks) mới xuất hiện những năm gần đây...
- Nhóm lợi ích dựa trên nghề nghiệp hoặc lợi ích kinh tế, chẳng hạn như
các tổ chức nghề nghiệp, công đoàn hoặc các nhóm doanh nghiệp.
Sự phân biệt giữa hai nhóm không phải lúc nào cũng rõ ràng. Một số
nhóm khuyến nghị có thể có những người theo đuổi mục đích lợi ích kinh tế
cũng như các nhóm lợi ích cố gắng xác định chiến lược của mình với một mục
đích rộng hơn.
- Nhóm đỉnh cao (peak groups): là nhóm phát ngôn thay mặt một loạt
các lợi ích - chẳng hạn như Đại hội công đoàn Anh và Liên hiệp công nghiệp
Anh. Ngoài ra có một số ít nhóm tạm thời (episodic group) mà hướng cơ bản
đến quá trình chính trị của quốc gia và lợi ích của họ trong lĩnh vực chính trị là
rất tản mạn. Đó là những nhóm đề xuất việc theo đuổi những dự án đặc biệt,
chẳng hạn như nghiên cứu vũ khí hạt nhân.
* Hoạt động của các nhóm lợi ích
Hoạt động của các nhóm lợi ích được định hình bởi bối cảnh chính trị. Ở
Anh quá trình hoạch định chính sách chính thức tập trung ở chính phủ, nội các,
vì vậy, các nhóm coi việc tiếp cận với cơ quan này là chủ yếu. Việc tiếp xúc
chính trị và phạm vi hoạt động khác (chẳng hạn như nghị viện và phương tiện
thông tin đại chúng) được sử dụng để ủng hộ thêm hoặc thay thế nếu ít có khả
năng tiếp cận ở cấp cao hơn.
Các kiểu hoạt động gây áp lực của các nhóm được tiến hành theo những
cách sau:
- Tác động đến chính phủ, nội các: các nhóm lợi ích cố gắng gây ảnh
hưởng trực tiếp tới chính phủ thông qua đàm phán trực tiếp với các bộ trưởng
về các vấn đề. Thường các vấn đề cụ thể của chính sách được bàn bạc, rút ra
giữa các nhóm, các bộ trưởng và công chức sau đó mới được trình ở nghị viện.
- Vận động hành lang MPs, những người sẽ chất vấn bộ trưởng; viết cho
các công chức; nêu vấn đề trong các cuộc họp đảng; trên bàn sửa chữa chính
sách; giới thiệu dự luật của thành viên cá nhân...
- Vận động dư luận công chúng thông qua các áp phích quảng cáo, thư
từ, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, những bài báo được ưa
thích của các hãng phát hành có chất lượng, diễu hành.
- Sử dụng các luật để đình công; tẩy chay; bạo lực với mục đích gây ảnh
hưởng tới công chúng, đòi hỏi hành động của chính phủ.
Các nhóm có thể gây áp lực thông qua một hoặc nhiều kênh cùng một
lúc. Hiệu quả hoạt động của một nhóm vào một thời điểm cụ thể phụ thuộc vào
các yếu tố như: khả năng tương thích giữa mục đích của nhóm với các chương
trình hiện tại của chính phủ; dư luận công chúng và mức độ ủng hộ đối với yêu
cầu của nhóm.
Về mặt kỹ thuật: các nhóm có thể sử dụng áp lực theo suốt chu kỳ của
chính sách và có thể tiếp cận được các thể chế khác nhau. Một số nhóm thành
công trong việc giành được vị thế bên trong (insider), giúp họ tiếp cận với nội
các và các giai đoạn chính sách cơ bản khi những chính sách cụ thể được hình
thành. Nhưng vị thế bên trong cũng đem lại những hạn chế về tự do hoạt động
của nhóm. Hình thức vận động công chúng được coi là biện pháp của các
nhóm yếu. Một số nhóm có thể sử dụng hoặc đe doạ sẽ sử dụng luật để gây áp
lực cho những đòi hỏi của mình – đây thường là biện pháp cuối cùng.
Có thể nhận thấy các nhóm lợi ích bổ xung cho hoạt động của chính phủ
bằng cách cung cấp:
- Thông tin chi tiết về những lĩnh vực cụ thể của hoạt động kinh tế và xã
hội mà thiếu chúng chính phủ không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
- Sự nối tiếp giao tiếp và tư vấn giữa chính phủ và công chúng giữa các
cuộc bầu cử
- Bảo vệ lợi ích của thiểu số, đặc biệt những lợi ích của đảng không cầm
quyền.
- Tăng sự tham gia vào các quá trình chính trị của nhân dân mà không
nhất thiết phải hoạt động trong các đảng chính trị
- Chống lại sự độc quyền của các đảng chính trị ở nghị viện. Các nhóm
sẽ đề xuất các chủ đề tranh luận nằm ngoài cương lĩnh của đảng, và các nhóm
kinh tế phớt lờ xung đột đảng phái luôn sẵn có, làm việc trực tiếp với các bộ
trưởng và công chức.
- Phân tán quyền lực xuống dưới từ các thiết chế tập trung quyền lực lập
pháp, hành pháp và trong quá trình này tạo ra sự kiềm chế quyền lực của
chúng.
Tuy nhiên thực tế cũng cho thấy các nhóm lợi ích có những tồn tại sau:
- Các nhóm lợi ích thường không có tính đại diện và rất hiếm khi phản
ánh được đông đảo các thành viên của nó. Các lãnh đạo công đoàn được bầu ra
bởi một thiểu số các nhà hoạt động mặc dù các tổ chức kinh tế và các nhóm lợi
ích khác thường bổ nhiệm các quan chức của mình. Không có quan chức nào
như thế có trách nhiệm trước toàn bộ công chúng bất chấp một thực tế rằng
những ảnh hưởng của họ đối với chính sách là đáng kể.
- Các nhóm lợi ích đã làm giảm quyền lực của nghị viện thông qua hoạt
động trực tiếp với các bộ trưởng và công chức. Trong thời gian nghị viện xem
xét các dự luật thì tất cả đã được quyết định, chỉ có một thiểu số rất ít bị sửa
chữa căn bản. Một số nhà bình luận đã nhận thấy sự xuất hiện một “nhà nước
hợp tác” mà các quyết định được hình thành thậm chí làm ra bởi các bộ trưởng
và quan chức, những người không phải do dân chúng bầu ra.
- Các nhóm lợi ích không đại diện cho bình đẳng xã hội. Họ là những
nhóm mạnh trong khi những nhóm nhỏ có sức mặc cả thấp và thường tổ chức
yếu. Sự không ngang nhau về nguồn lực, ảnh hưởng và khả năng tiếp cận giữa
các nhóm cũng như một số khu vực trong xã hội không thể tham gia, tạo nên
sự bất công bằng. Điều này đòi hỏi chính phủ phải nhận biết và có những chính
sách thiên vị cho một số nhóm.
- Hoạt động của nhiều nhóm dựa trên các kênh không chính thức, các
cuộc đàm phán và dàn hoà giữa các nhóm lợi ích và chính phủ thường bí mật.
Sự liên lạc giữa những người phát ngôn nhóm và quan chức chính phủ cũng
nằm ngoài sự kiểm soát của quần chúng. Những bí mật như vậy là có hại đối
với việc kiểm soát dân chủ của quần chúng.
Mặc dù có nhiều mặt hạn chế nhưng nhìn chung sự tham gia chính trị
của các nhóm được xem như là tăng cường sự đại diện và trách nhiệm của
chính phủ bằng cách bổ sung sự đại diện của các cá nhân với các đại diện chức
năng của các lợi ích cụ thể bởi các nhóm. Chính trị theo nhóm đó có thể là một
biện pháp làm việc dân chủ mặc dù không có sự tham gia của khối quần
chúng. Theo cách này, các nhóm thay thế cho sự tham gia của cá nhân và ít
nhất nuôi dưỡng sự tham gia chính trị trong những người quan tâm và bị ảnh
hưởng bởi chính sách của chính phủ.
6. Hệ thống chính trị trong thực tế
Những phân tích trong các phần trước cho thấy, trong thực tế hạ viện
nắm thực quyền trong lập pháp. Hầu hết các dự luật được thông qua là ý chí
của chính phủ. Tuy nhiên có một số đáng kể các trường hợp các nghị sĩ tự thức
tỉnh kiên quyết phủ nhận dự luật của chính phủ. Sự thất bại của chính phủ
Wilson đối với thượng viện và cải cách công đoàn năm 1969 là một trường
hợp nổi tiếng. Chính phủ Heath từ 1970- 1974 đã chịu thất bại 6 lần và chính
phủ đảng Lao động từ 1974- 1979 không ít hơn 42 lần.
- Kiểm soát hành pháp
Hạ viện kiểm soát hành pháp thông qua các ngày đối lập, các ủy ban lựa
chọn; các uỷ ban đảng.
+ Chất vấn chính phủ. Các hoạt động này được triển khai thông qua các
ngày đối lập. Các phe đối lập đưa ra các câu hỏi chất vấn chính phủ. Trong
thời gian chất vấn này các nghị sĩ có thể đưa ra mọi câu hỏi về chính sách và
hoạt động của chính phủ. Đây là một kênh quan trọng để nghị viện cũng như
dân chúng biết được thực chất và hiệu năng hoạt động của chính phủ.
Về mặt lý thuyết, chính phủ được lựa chọn bởi nghị viện nên phải có
trách nhiệm trước nghị viện, và thời gian chất vấn là thủ tục được đưa vào thời
gian biểu của nghị viện, tạo cơ hội cho các đảng đối lập kiểm soát hoạt động
của chính phủ. Thời gian chất vấn diễn ra một tiếng đồng hồ từ thứ hai đến thứ
năm. Các bộ trưởng luân phiên nhau trả lời. Thủ tướng phải trả lời những câu
hỏi về chính phủ trong 30 phút/1tuần vào ngày thứ tư, thứ năm. Trong vòng 48
giờ những câu hỏi phải được trả lời, tuy không cần phải đúng thứ tự và được
phép có câu hỏi bổ sung. Câu hỏi có thể bằng văn bản hoặc trả lời miệng.
Tuy nhiên trên thực tế, thủ tục chất vấn thường bị giảm tác dụng do các
kỹ xảo sau: bộ trưởng thường trả lời hết sức vắn tắt và các công chức rất giỏi
đoán trước được câu hỏi bổ sung; các câu hỏi thân thiện thường được gài vào
từ các bộ trưởng cùng đảng. Dùng câu trả lời dài có tính chất lãng tránh vấn
đề; quy trình có thể bị phá vỡ để cho hết thời gian trả lời và cho phép các bộ
trưởng tránh những câu hỏi nguy hiểm ở phần cuối danh sách.
+ Các uỷ ban lựa chọn: có quyền điều tra một lĩnh vực cụ thể của chính
phủ, với quyền được thu thập bằng chứng và hiệu triệu các nhân chứng. Uỷ
ban kế toán công có quyền lực nhất, nhiệm vụ của nó đảm bảo rằng ngân quỹ
của chính phủ đã được chi tiêu hợp lý và sự tồn tại của nó là để ngăn cản các
cơ quan hành chính thiếu hiệu quả và lạm dụng phi pháp.
+ Sự đối lập trong nghị viện
Tính chính đáng của hoạt động nghị viện của đảng đối lập có từ thế kỷ
XVIII và được phản ánh trong luật, trách nhiệm của chủ tịch hạ viện là bổ
nhiệm lãnh đạo của đảng lớn nhất không cầm quyền làm lãnh đạo phe đối lập.
Từ 1937, lãnh đạo đảng đối lập cũng được trả lương từ ngân khố quốc gia, tạo
cho nước Anh là nước duy nhất trong số các nước châu Âu có một cơ quan
như thế được nhà nước trả lương. Hoạt động và đặc điểm của hạ viện, đặc biệt
là sự tranh luận và phân chia nghị viện mang đậm tính chất đảng phái. Sự tồn
tại của đảng đối lập nhắc nhở công chúng rằng luôn có một chính phủ thay thế
với một nội các bóng và các chính sách của nó.
Trong những ngày đối lập, đảng đối lập có thể chỉ trích chính phủ theo
nghĩa tiêu cực và có cả chỉ trích mang tính xây dựng. Nhưng cũng giống như
thủ tướng, Lãnh đạo đảng đối lập cũng phải quan tâm đến tính thống nhất của
đảng và nội các bóng. Nhiệm vụ của đảng đối lập là chống đối, nhưng đảng đối
lập ở nghị viện cũng phải thể hiện tính xây dựng và cư xử theo cách phù hợp
nhất để chứng tỏ đảng có thể cầm quyền trong tương lai. Nguyên tắc trách
nhiệm tập thể được vận hành, thông qua sự trung thành của các bộ trưởng
bóng, chính sách của nội các bóng được bảo vệ và không bộ trưởng nào được
phát ngôn trái những với những chính sách của các đồng nghiệp.
Đảng đối lập nghị viện có một số nguồn lực tùy ý sử dụng. Đảng này
kiểm soát 1/3 thời gian nghị viện và có thể chọn chủ đề tranh luận vào những
ngày đối lập. Các đảng đối lập có đại diện trong các uỷ ban lựa chọn và thường
trực theo tỷ lệ ghế của mình ở Hạ viện. Cuối cùng theo truyền thống, một
thành viên nghị viện đảng đối lập được bầu làm chủ tịch Uỷ ban kế toán công
đầy quyền lực. So sánh về thời gian và cơ hội cho phép trong lập pháp, việc
sắp sếp ở hạ viện Anh được đánh giá là tương đối hào phóng cho đảng đối lập.
Đối với các bộ trưởng, những nghị sĩ quan trọng nhất là những nghị sĩ
thứ yếu của đảng mình. Các nhà lãnh đạo nghe các nghị sĩ này vì họ ở trong
cùng một đảng, một phần vì họ có thể thể hiện ý kiến bên ngoài nghị viện hoặc
trong đảng trên toàn quốc, và một phần vì hành pháp không vững chắc. Sự chia
tách giữa các nghị sĩ thứ yếu phản ánh sự chia tách trong nội các. Chính phủ có
thể quan tâm đến sự chống đối của các đảng khác nhưng sự an toàn của nó lại
phụ thuộc vào việc duy trì sự nguyên vẹn đa số đảng của chính nó. Có rất
nhiều trường hợp chính phủ phải nhượng bộ áp lực từ chính những người ủng
hộ mình và hoặc là phải từ bỏ hoặc phải điều chỉnh dự luật. Chính phủ lo lắng
sự đối lập từ trong đảng mình hơn là sự chỉ trích từ các phía khác ở Hạ viện.
* Sự suy yếu của nghị viện
Hạ viện được đánh giá là yếu hơn hành pháp so với giữa thế kỷ XIX.
Hiện tượng chính phủ đa số một đảng đã tạo cho chính phủ khá an toàn về sự
tồn tại của mình và quá trình lập pháp. Chính phủ kiểm soát tiến trình nghị
viện ngày càng nhiều thông qua kiểm soát thời gian, hạn chế thời gian tranh
luận và áp lực bỏ phiếu. Ở thế kỷ 20 chính phủ bị nghị viện giải tán chỉ hai lần
1924, 1979 và cả hai đều là chính phủ Lao động thiểu số. Vai trò của một nghị
viện tự do đã bị suy yếu bởi các yếu tố sau:
- Chính phủ can thiệp: chính phủ can thiệp này càng nhiều vào các lĩnh
vực buộc nghi viện phải đương đầu với một khối lượng lập pháp lớn; độ dài và
sự phức tạp của các dự luật tăng, giảm khả năng tranh luận và xem xét của
nghị viện, việc uỷ quyền lập pháp và thời gian hội họp của nghị viện cũng
tăng. Nhiều luật hiện nay được uỷ quyền có nghĩa rằng nghị viện thiết lập các
nguyên tắc khái quát và cho phép các bộ trưởng và công chức bổ sung chi tiết.
- Sự phát triển của các đảng chính trị có chương trình và kỷ luật đến nỗi
một số nhà quan sát gọi chính phủ đảng đúng hơn là chính phủ nghị viện.
- Các nhóm áp lực được tổ chức và đại diện nhiều lợi ích trong xã hội
đàm phán một cách trực tiếp với các bộ trưởng về nhiều vấn đề. Thường các
chi tiết cụ thể của chính sách được đàm phán giữa các nhóm, bộ trưởng và
công chức sau đó mới trình nghị viện.
- Là thành viên của cộng đồng EU có nghĩa rằng việc lập pháp được
thực hiện ở Brussels ngày càng tăng.
Như vậy, kỷ luật đảng phái, sự thống trị của hệ thống hai đảng và xuất
hiện chính phủ can thiệp đã góp phần làm suy yếu nghị viện theo nghĩa là thể
chế độc lập với sự kiểm soát của đảng. Các nhóm áp lực cũng như EU đa làm
yếu nghị viện với vai trò là diễn đàn của ý chí chung.
* Cải cách nghị viện
Có nhiều đề xuất cải các thượng viện về thành phần, quyền lực của nó
hoặc cả hai nhưng sự ủng hộ không đủ để cải cách một đề xuất cụ thể nào.
Điều này có nghĩa rằng việc cải cách cơ bản cho đến nay đều thất bại.
Khuynh hướng cải cách hạ viện đã có những động lực nhất định. Tuy
nhiên suốt thời gian qua xu hướng cải cách đã mất hiệu lực bởi một số những
mâu thuẫn cơ bản:
- Có một sự thoả thuận ngầm giữa chính phủ và các nghị sĩ, những
người trong khi muốn khẳng định quyền lực của nghị viện lại nhưng lại không
muốn hạn chế tự do của mình khi họ trở thành bộ trưởng.
- Những đề xuất cải cách tạo nên sự bất đồng lớn và mất nhiều thời gian
lập pháp có giá trị. Trong những năm 1960 và 1970s, cải cách thượng viện và
phân quyền cả hai ám ảnh nghị viện hàng năm và cả hai cuối cùng đều thất bại.
- Những nhà cải cách thường đưa ra những mục đích xung đột nhau:
chẳng hạn những nhà cải cách thuộc đảng Lao động có xu hướng ủng hộ chính
phủ mạnh trong khi lại muốn nghị viện phải được tăng cường.
* Một số cải cách của đảng Lao động trong thời gian gần đây
Cơ sở lý luận của cải cách là “con đường thứ ba”, lấy việc cơ cấu lại nhà
nước và thay đổi mô hình quản lý của chính phủ. Xác lập mô hình xã hội công
dân dựa vào giảm bớt quyền lực của nhà nước, đem quyền lực trả về cho khu
vực, thành thị, thôn, xã và công dân. Thông qua đó làm tăng tính mở cửa, mức
độ minh bạch và hiệu quả của bộ máy nhà nước, vừa là phản ứng mạnh mẽ đối
với sự tác động của toàn cầu hoá vừa là sự thể hiện dân chủ hoá chế độ.
Nội dung của cải cách: cải cách chế độ nghị viện, tăng cường quyền tư
pháp, hiện đại hoá chính phủ và tự do hoá thông tin, tăng cường sự giám sát
của công chúng. Xác định nhiệm vụ lớn của cải cách là: đạt kết quả liên tục;
dịch vụ công thoả mãn được nhu cầu công cộng, có hiệu quả, chất lượng cao.
Áp dụng kỹ thuật mới của thời đại thông tin.
Cải cách nghị viện gồm có: cải cách chế độ bầu cử nghị viện, hiện đại
hoá hạ viện và cải cách thượng viện. Nghị viện Anh vẫn dùng chế độ đa số
tương đối. Đảng Lao động trong quá trình giảm bớt quyền lực, áp dụng chế độ
bầu cử theo tỷ lệ trong bầu cử nghị viện Scotland, sứ Wales, N. Ireland và
England. Điều đó trên một mức độ nhất định đã làm tăng sức hoạt động và sức
ảnh hưởng của các đảng nhỏ, cải biến cục diện đảng lớn. Mục tiêu của cải cách
hạ viện là hiện đại hóa Hạ viện, bao gồm hiện đại hoá trình tự lập pháp và trình
tự biện luận. Thực hiện cơ cấu năm của nghị viện, giám sát tiến trình đề án lập
pháp châu Âu và nâng cao năng lực giám sát của nghị viện đối với chính phủ.
Mục tiêu cải cách của thượng viện là từng bước phế bỏ chế độ thế tục
cha truyền con nối. Vì vậy chính quyền đảng Lao động thiết lập Ủy ban hoàng
gia, chuyên môn phụ trách công việc cải cách thích hợp.
Cải cách tư pháp, năm 1998 đảng Lao động đã công bố dự luật nhân
quyền và đưa vào công ước nhân quyền Châu Âu. Điều đó một mặt làm cho
quyền con người nước Anh được bảo vệ có hiệu quả hơn và trực tiếp hơn. Mặt
khác đem lại cho toà án quyền lực lớn hơn, có thể đốc thúc nghị viện bổ sung
hoặc sửa đổi lập pháp cho phù hợp với công ước nhân quyền châu Âu; đồng
thời cho phép tư pháp có quyền giám sát mạnh hơn đối với hành pháp theo quy
định của công ước, tăng thêm độ chế ước đối với quyền hành pháp.
Cải cách chính phủ, Đảng Lao động coi “chính phủ công khai” là một
trong những mục tiêu cải cách chính trị của mình. Từ sau năm 1997, đảng Lao
động đã liên tiếp ban bố quyền được biết thông tin, “dự thảo nghị quyết tự do
thông tin” và sách tư vấn … quy định công dân có quyền được cơ quan dịch vụ
công cung cấp thông tin.
III. KẾT LUẬN VÀ NHẬN XÉT SO SÁNH

Hệ thống nghị viện của Anh thường được coi là hình mẫu đầu tiên, “bà
mẹ”, của các HTCT nghị viện khác. Các điểm đặc thù của HTCT này có thể
tổng kết thành các đặc điểm chính như sau:
1- Dù có 4 vùng lãnh thổ, đây là một quốc gia đơn nhất, khác với các
quốc gia liên bang (như Mỹ, Úc, Đức). Điều này hàm ý, quyền lực nhà nước
tập trung ở Trung ương. Quyền lực nhà nước của các vùng lãnh thổ được ủy
nhiệm từ chính quyền Trung ương, không phải là chủ quyền riêng của các
bang.
2- Anh chỉ có các luật cơ bản có tính hiến pháp (với nghĩa quy định các
mối quan hệ quyền lực nhà nước cơ bản (nghị viện – thủ tướng – tòa án, trung
ương – địa phương), mà không có một bản hiến pháp thành văn. Bản thân các
luật hiến pháp của Anh có nguồn gốc đa dạng, và thủ tục thay đổi là dễ dàng.
Các luật này cũng chỉ cần được một đa số đơn giản (50% +) ở Hạ viện thông
qua, như bất cứ một văn bản luật nào khác.
3- Hệ thống chính trị của Anh thể hiện tính tối cao của Nghị viện, và
tính pháp trị . Tính tối cao của nghị viện có nghĩa là nghị viện có quyền ban
hành hay hủy bỏ mọi luật, và không ai có thể hủy bỏ hay đứng ngoài phạm vi
các luật đó. Tính pháp quyền (rule of law) có nghĩa không ai có thể bị trừng
phạt trừ phi có bằng chứng vi phạm luật, và không ai có thể đứng trên luật bất
kể vị trí xã hội của người đó (luật pháp là tối thượng). Tính tối cao của nghị
viện, mà thực chất là của hạ viện, cũng đồng nghĩa với việc nhánh hành pháp
thường nhận được sự ủng hộ của nhánh lập pháp. Điều này là khác biệt quan
trọng đối với các hệ thống tổng thống.
4- Sự thể chế hóa đối lập chính trị: trong nghị viện, hoạt động của đảng
đối lập được bảo vệ và quy định bằng các văn bản pháp lý. Đảng chiếm đa số ở
Nghị viện luôn chịu sự giám sát, chất vấn bởi đảng đối lập.
5- Hệ thống bầu cử của Anh tổ chức theo một khu vực - một đại diện
theo đa số tương đối. Hệ thống đảng là hai đảng nổi trội, thay nhau cầm quyền.
Kỷ luật đảng, đặc biệt là kỷ luật bỏ phiếu, được chú trọng vì có ảnh hưởng
quan trọng đến mọi phương diện hoạt động chính trị của đảng.
6 – Các thiết chế chính trị của Anh cũng cho thấy, vai trò của nhân dân,
đặc biệt là thống qua công luận và bầu cử, là yếu tố quan trọng trong việc kiểm
soát và thực thi quyền lực nhà nước.
Chương 3
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỸ

I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI

1.1. Điều kiện tự nhiên và dân cư


Mỹ là tên gọi tắt của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Nước Mỹ gồm 50 bang,
với diện tích 9.631.420 km2, lớn thứ tư thế giới, thủ đô là Washington. Lãnh
thổ Mỹ gồm 3 bộ phận cách xa nhau: 48 bang thuộc lục địa Bắc Mỹ, bang
Alaska thuộc vùng Bắc cực và quần đảo Hawai ở ngoài biển Thái Bình Dương.
Địa hình nước Mỹ tuy rộng, nhưng tương đối đơn giản. Mỹ cũng là một trong
những quốc gia giàu khoáng sản nhất trên thế giới, cả về trữ lượng và chủng
loại.
Về dân cư, Mỹ là một trong những nước đông dân nhất thế giới. Năm
2009, dân số Mỹ khoảng 306,8 triệu người, mức tăng dân số 0,6% với thành
phần tương đối phức tạp bởi sự đa dạng của các yếu tố tôn giáo và dân tộc.
Trước thế kỷ XVI, đây là địa bàn cư trú của các bộ tộc Anh điêng. Tuy nhiên,
sau nhiều thế kỷ bị người da trắng tiêu diệt, cho đến nay, người Anh điêng chỉ
còn khoảng 1%. Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, có khoảng 4 triệu người da
đen từ châu Phi đã bị đưa tới Mỹ làm nô lệ. Hiện nay, khoảng 12,9% dân số
Mỹ là người da đen, 81,7% là người da trắng và 4,2% dân số còn lại thuộc các
màu da khác, chẳng hạn như người Mỹ gốc Tây Ban Nha, người Mỹ gốc Á. Phần
lớn dân Mỹ sống tại các đô thị (chiếm khoảng 77% dân số).

Địa lý và Dân số
Diện tích: 9.631.420 km2
Thủ đô: Washington.
Dân số (2009): 306,8 tr.
Tốc độ tăng dân số bình quân (2009): 0.6%.
Tôn giáo chính: đạo Tin lành 56%; Thiên chúa giáo (Roman
Catholic) 28%; Hồi giáo 2%; Do thái 2%; không tôn giáo 10%...
Ngôn ngữ: Anh, Tây Ban Nha (các dân tộc thiểu số)
Năm độc lập: 1776
Hiến pháp hiện tại: 1787, có hiệu lực 1789.
Mức độ đô thị: 77% dân số

1.2. Văn hoá và dân trí


Với hơn 200 năm lịch sử hình thành và phát triển, người Mỹ đã xây
dựng cho mình một chế độ “tư bản điển hình” - một điển hình về sự kế thừa
bản sắc văn hoá châu Âu, nhưng chịu ảnh hưởng bởi quan niệm về đạo lý và
lối sống Thanh giáo thời kỳ cải cách, thừa hưởng những thành tựu của cuộc
cách mạng công nghiệp và nguyên lý sống của chủ nghĩa tư bản. Đây là yếu tố
cốt lõi cho sự ra đời của nền văn hoá và xã hội Mỹ. Mặc dù là một quốc gia đa
sắc tộc, đa tôn giáo, đa thành phần dân cư và có nhiều nền văn hoá khác nhau
cùng tồn tại, nhưng vẫn không thể phủ nhận rằng, văn hoá Mỹ là một tổng thể
khá đồng nhất, có những giá trị chủ đạo.
Chủ nghĩa cá nhân: Chủ nghĩa cá nhân thể hiện qua việc mỗi người, mỗi
nhóm tự nguyện gia nhập cộng đồng, nhưng không từ bỏ cá tính và quyền lựa
chọn của mình. Chủ nghĩa cá nhân của người Mỹ còn bao hàm cả tính vị kỷ,
theo nghĩa trước hết vì bản thân mình, vì tương lai của bản thân và gia đình.
Sự cạnh tranh: Xã hội Mỹ là một xã hội cạnh tranh cao với những con
người có đầu óc thực dụng. Cuộc sống của người Mỹ luôn là cuộc cạnh tranh
quyết liệt để khẳng định giá trị của mỗi cá nhân trong cộng đồng.
Tính thực dụng: Đối với người Mỹ, hiệu quả công việc là yêu cầu tối ưu.
Họ không có thói quen tiến hành những thủ tục lễ tân rườm rà.
Ưa khám phá và thích ứng với cái mới: Người Mỹ năng động trong cuộc
sống, dễ dàng thích ứng với cái mới. Thêm vào đó, họ là những người luôn
hướng tới tương lai và sẵn sàng tiếp nhận những điều mới lạ.
Một xã hội dung hợp và đa dạng: Mỹ là một quốc gia được tạo thành bởi
những người nhập cư từ nhiều vùng khác nhau trên thế giới. Văn hoá Mỹ mang
tính đa bản sắc, do mỗi dân tộc đều tìm cách bảo vệ bản sắc dân tộc mình trước
dân tộc khác trong một môi trường cạnh tranh tự nhiên.
1.3. Sự hình thành thể chế chính trị
Lịch sử nước Mỹ chỉ thực sự bắt đầu từ năm 1607 khi người Anh chính
thức thành lập thành phố Jamestown, quản lý thuộc địa bằng pháp luật và hình
thành chính quyền. Năm 1714, Liên hiệp vương quốc Anh ra đời, khẳng định
vị thế của người Anh tại Bắc Mỹ. Năm 1768, cuộc đấu tranh giành độc lập của
Mỹ dưới sự lãnh đạo của Washington bắt đầu.
Năm 1776, Đại hội Lục địa tại Philadelphia đã thông qua bản Tuyên
ngôn độc lập của Mỹ, tuyên bố thành lập một nhà nước liên bang gồm 13 bang
đầu tiên. Tuy nhiên, vào giai đoạn này, cơ cấu liên bang còn rất lỏng lẻo, thực
chất đây chỉ là một hợp bang. Các điều khoản liên bang chính thức được ký
kết vào tháng 2 năm 1783. Tuy nhiên, văn bản pháp lý này đã bộc lộ nhiều
điểm khiếm khuyết. Không có một chính phủ quốc gia thực sự nào được đề
cập đến trong văn kiện này. Thay vào đó, một “liên minh hữu nghị” giữa các
bang đã được thành lập. Trung tâm của liên minh này là quốc hội một viện,
thường được gọi là Đại hội hợp bang. Mỗi bang có một lá phiếu, không phụ
thuộc vào quy mô của các bang. Phần lớn các hoạt động quan trọng đều phải có
sự đồng ý của ít nhất 9 bang và những sửa đổi đối với các nội dung trong điều
khoản liên bang phải do cả 13 bang đồng ý.
Hợp bang không có cơ quan hành pháp và hệ thống toà án quốc gia. Và
quan trọng hơn, quốc hội không có khả năng đánh thuế mà chỉ được yêu cầu
các bang hỗ trợ ngân quỹ. Mỗi bang vẫn giữ “chủ quyền, tự do và độc lập”.
Quốc hội cũng không có quyền hạn trực tiếp nào đối với các công dân, những
người nằm dưới sự cai trị của chính quyền bang. Trên thực tế, chính quyền
trung ương được trao quá ít quyền lực.
Một vấn đề quan trọng khác là vấn đề tài chính: các bang không cung
cấp đủ ngân quỹ. Cuộc nổi loạn của Shay vào cuối năm 1787 lại càng làm tăng
thêm nỗi sợ hãi của nhiều người thuộc giới tinh hoa tư sản. Họ nhận ra rằng,
cần phải có một chính phủ mạnh để kiềm chế “luật rừng” và sự đổ vỡ của nền
kinh tế.
Trong bối cảnh đó, mùa hè năm 1787, một hội nghị lập hiến được triệu
tập với sự tham dự của các đại biểu đến từ 13 bang để soạn thảo một bản hiến
pháp hoàn toàn mới cho nước Mỹ. Không thủ tiêu quyền độc lập của các bang,
nhưng hiến pháp tập trung quyền lực cho trung ương. Liên minh đã trở thành
liên bang. Đây là một thoả thuận đại cương mang tính nguyên tắc của các lực
lượng chính trị để làm nền tảng xây dựng lên toà nhà chính trị liên bang. Tuy
nhiên, do bản hiến pháp không ghi rõ những quyền không thể chuyển nhượng
của người dân, nên một số bang đã từ chối phê chuẩn. Phải đến khi hiến pháp
được bổ sung thêm những vấn đề trên thì các bang mới dần dần chấp nhận.
Hiến pháp Mỹ đã có hiệu lực vào tháng 6 năm 1788 sau khi đã có tối thiểu 9
chữ ký như đã thoả thuận tại hội nghị. Đây cũng đồng thời là thời điểm chính
thức đánh dấu sự ra đời của HTCT Mỹ.
II. CẤU TRÚC QUYỀN LỰC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH
TRỊ TRONG THỰC TẾ

2.1. Lập pháp


Cơ cấu tổ chức của quốc hội:
Theo quy định của hiến pháp Mỹ, quốc hội đóng vai trò là trung tâm của
hệ thống chính trị. Quốc hội Mỹ là một thể chế lưỡng viện, gồm hai nhánh:
thượng viện và hạ viện. Đây là kết quả của cuộc tranh cãi kéo dài giữa các đại
biểu tham dự hội nghị lập hiến năm 1787. Cuối cùng, các nhà lập hiến đã đi
đến một thoả hiệp nhằm điều hoà mâu thuẫn giữa các bang, theo đó quốc hội
được hình thành trên cơ sở kết hợp của hai luồng ý tưởng khác nhau – một hạ
viện được bầu dựa trên cơ sở dân số của mỗi bang và một thượng viện được
bầu dựa trên nguyên tắc bình đẳng giữa các bang. Giải pháp này được xem là
bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển chế độ nghị viện ở Mỹ.
Mặc dù cách thức lựa chọn đại biểu ở mỗi viện có khác nhau, nhưng về
cơ bản, quyền lực của hai viện gần như cân bằng. Viện này có thể thường
xuyên kiểm tra và giám sát viện kia, tạo ra một đối trọng quyền lực ngay trong
lòng Quốc hội.
Thượng viện: Quy mô của quốc hội Mỹ cũng phát triển theo quy mô
phát triển của đất nước. Với quy chế mỗi bang chỉ có hai thượng nghị sỹ, quốc
hội đầu tiên của Mỹ chỉ có 26 thành viên. Cứ mỗi khi có một bang mới nhập
vào liên bang, thượng viện sẽ tăng thêm 2 thành viên và vì vậy, thượng viện
Mỹ hiện nay có 100 thành viên, được bầu từ 50 bang khác nhau.
Ứng cử viên thượng viện phải từ 30 tuổi trở lên, là công dân Mỹ ít nhất
9 năm và là người cư trú tại chính bang mà họ đại diện. Các thượng nghị sỹ
phục vụ theo nhiệm kỳ 6 năm và được bầu bởi cử tri của các bang. Cứ hai năm
một lần, 1/3 số thành viên của thượng viện sẽ được bầu lại.
Quy mô của thượng viện nhỏ hơn so với hạ viện, và quy chế làm việc
cũng lỏng lẻo và tự do hơn so với hạ viện. Phó tổng thống Mỹ đồng thời là chủ
tịch thượng viện, nhưng không thường xuyên có mặt và không có quyền bỏ
phiếu, trừ trường hợp số phiếu hai bên ủng hộ và phản đối bằng nhau. Bên
cạnh chủ tịch thượng viện, để điều hành các phiên làm việc còn có một chủ
tịch lâm thời là người phục vụ lâu năm nhất của đảng chiếm đa số trong
thượng viện. Tuy nhiên, đây chỉ là người điều hành các phiên họp, còn trên
thực tế, quyền lực thường nằm trong tay các thượng nghị sỹ có thâm niên và
uy tín của phe đa số (thường là chủ tịch các uỷ ban chuyên môn của thượng
viện).
Lãnh tụ phe đa số trong thượng viện cũng gần giống như chủ tịch hạ
viện. Ông ta lên kế hoạch cho các cuộc tranh luận tại thượng viện, phân các dự
luật cho các uỷ ban, phối hợp chính sách của đảng và chỉ định các thành viên
của các uỷ ban đặc biệt. Đảng thiểu số trong thượng viện cũng bầu ra lãnh tụ
phe thiểu số và các nghị sỹ thành viên giúp việc những người này sẽ đưa ra các
quan điểm của đảng mình và giải quyết các vấn đề chiến lược tại thượng viện.
Hạ viện: So với thượng viện thì hạ viện có quy mô lớn hơn nhiều. Quốc
hội đầu tiên của Mỹ chỉ có 67 hạ nghị sỹ. Do dân số nước Mỹ tăng lên, quy mô
của hạ viện cũng tăng theo. Vào năm 1922, quốc hội đã thông qua một đạo luật
quy định số lượng thành viên cố định của hạ viện là 435 người. Tại quốc hội
đầu tiên, mỗi hạ nghị sỹ đại diện cho khoảng 30.000 dân. Còn hiện nay, con số
này vào khoảng 600.000 dân. Do hạ viện được bầu trên cơ sở dân số của từng
bang, cho nên bang nào có dân số đông hơn sẽ có nhiều đại diện hơn, và sự
điều chỉnh này được thực hiện sau mỗi mười năm, sau khi kết quả của cuộc
điều tra dân số được công bố.
Để trở thành một ứng cử viên hạ viện, người ứng cử phải là công dân
Mỹ từ 25 tuổi trở lên, đã có bảy năm mang quốc tịch Mỹ và là công dân của
bang mà họ đại diện trước ngày bầu cử. Hạ viện có nhiệm kỳ 2 năm và các
nghị sỹ được bầu lên từ các đơn vị bầu cử của các bang.
Do số lượng các thành viên lớn, các đại biểu đại diện cho các khu vực
cử tri khác nhau với các lợi ích đa dạng, hạ viện có xu hướng tổ chức chặt chẽ
hơn so với thượng viện. Chủ tịch hạ viện là người đứng đầu đảng đa số trong
hạ viện. Khác với thượng viện, chủ tịch hạ viện là người có quyền lực rất lớn.
Với những quyền hạn của quốc hội được ghi trong hiến pháp, thì chủ tịch hạ
viện có thể là người có thế lực lớn thứ hai trong nền chính trị Mỹ sau tổng
thống. Với tư cách là người đứng đầu phe đa số, chủ tịch hạ viện có vai trò
thúc đẩy, hoặc loại bỏ một số dự luật không có lợi cho đảng của mình.
Hệ thống các uỷ ban:
Một trong những đặc trưng của quốc hội là vai trò chi phối của các uỷ
ban trong tiến trình hoạt động của nó. Hầu hết các công việc của quốc hội đều
được tiến hành tại các uỷ ban hơn là tại phiên họp toàn thể của hạ viện, hay
thượng viện. Đây là kết quả của quá trình chuyên môn hoá để đảm bảo tính
hiệu quả trong hoạt động của quốc hội. Một ưu điểm của các uỷ ban là nó cho
phép các thành viên của quốc hội và đội ngũ nhân viên có được sự tinh thông
trong nghiệp vụ trong những lĩnh vực lập pháp khác nhau. Có bốn loại uỷ ban
tại quốc hội: uỷ ban thường trực, uỷ ban lâm thời, uỷ ban lựa chọn và uỷ ban
hỗn hợp.
Các uỷ ban thường trực là các chủ thể hoạt động chính của quốc hội.
Chúng được thiết lập ngay từ những ngày đầu trong lịch sử lập pháp Mỹ, do
quốc hội nhận thấy họ có thể tiến hành công việc hiệu quả hơn nhiều nếu chia
thành các nhóm làm việc nhỏ và chuyên biệt. Có 19 uỷ ban thường trực tại hạ
viện và 17 uỷ ban thường trực tại thượng viện. Mỗi hạ nghị sỹ thường là thành
viên của một hoặc hai ủy ban thường trực, còn mỗi thượng nghị sỹ thường là
thành viên của 3 hoặc 4 uỷ ban thường trực. Thông thường, các uỷ ban lại
được chia nhỏ thành các tiểu ban để phân công công việc được kỹ càng hơn.
Uỷ ban lâm thời là cơ chế tạm thời bao gồm các hạ nghị sỹ và thượng
nghị sỹ được lập ra nhằm giải quyết các vấn đề có ý kiến khác nhau giữa hạ
viện và thượng viện về một dự luật. Những khác biệt này xuất hiện khi một
viện đưa ra những sửa đổi trong một dự luật, nhưng viện khác lại không đồng
ý, hoặc hai viện cùng thông qua hai dự luật khác nhau về cùng một vấn đề. Uỷ
ban này do chủ tịch hạ viện và lãnh đạo phe đa số trong thượng viện chỉ định
cùng nhau thảo luận và thoả hiệp để tìm ra một phương pháp giải quyết tối ưu.
Một khi các công việc này kết thúc, uỷ ban cũng sẽ bị giải tán.
Trước khi các dự luật được chuyển sang xem xét tại phiên họp toàn thể
của hạ viện hoặc thượng viện, chúng phải được đa số các thành viên của các uỷ
ban chuyên môn có nhiệm vụ xem xét dự luật thông qua. Thông thường, các
dự luật sẽ được chuyển về các tiểu ban nghiên cứu và xem xét. Nếu toàn thể uỷ
ban đồng ý, dự luật sẽ được chuyển lên phiên họp toàn thể của hạ viện hoặc
thượng viện. Nếu các dự luật bị các uỷ ban cho là không cần thiết thì nó sẽ bị
bãi bỏ. Những người bảo trợ cho dự luật này có thể tiếp tục trình dự luật lên
phiên họp sau của quốc hội.
Hầu hết các dự luật được các uỷ ban của hạ viện thông qua đều phải
được thông qua tại Uỷ ban điều lệ trước khi nó được đưa ra thảo luận tại quốc
hội. Uỷ ban này có quyền trì hoãn, hoặc thậm chí là đình chỉ một dự luật. Nó
có thể sửa các dự luật hay gửi chúng trở lại để các uỷ ban xem xét lại.
Uỷ ban đường lối và giải pháp có nhiệm vụ xử lý các vấn đề liên quan
đến các dự luật về thuế, hoặc về kế hoạch tăng thu của chính phủ. Do tất cả các
dự luật về nguồn thu đều được đưa ra tại hạ viện, nên các dự luật về thuế trước
hết sẽ được chuyển tới Uỷ ban đường lối và giải pháp, làm cho uỷ ban này trở
thành một uỷ ban có quyền lực lớn tại quốc hội. Cùng với Uỷ ban tài chính của
thượng viện, uỷ ban này có vai trò quan trọng trong việc quyết định những lĩnh
vực nào sẽ bị cắt giảm chi tiêu.
Trong khi Uỷ ban đường lối và giải pháp thu tiền cho chính phủ thì Uỷ
ban phân bổ ngân sách lại giải quyết vấn đề chính phủ sẽ chi tiêu như thế nào.
Khi tổng thống đệ trình dự thảo ngân sách liên bang lên quốc hội hàng năm, dự
thảo ấy sẽ được chuyển tới Uỷ ban phân bổ ngân sách của hạ viện và 11 tiểu
ban của nó. Đây chính là bước đầu tiên trong quá trình xem xét dự luật này của
quốc hội.
Các uỷ ban quan trọng nhất của thượng viện là Uỷ ban ngân sách, Uỷ
ban phân bổ ngân sách, Uỷ ban đối ngoại và Uỷ ban tài chính. Uỷ ban phân bổ
ngân sách của thượng viện tiếp nhận các dự luật về ngân sách sau khi chúng
được hạ viện thông qua. Các thủ tục của uỷ ban này cũng giống như thủ tục
của uỷ ban tương tự tại hạ viện, có quyền thêm hoặc cắt bớt tiền từ số tiền mà
chính phủ đề nghị. Sau khi đã được thông qua tại hạ viện, các dự luật về thuế
sẽ được chuyển lên Uỷ ban tài chính của thượng viện - một uỷ ban tương
đương với Uỷ ban đường lối và giải pháp tại hạ viện.
Uỷ ban đối ngoại của thượng viện là một cơ quan giám sát vai trò của
tổng thống trong chính sách đối ngoại. Uỷ ban này có quyền phê chuẩn việc bổ
nhiệm các đại sứ Mỹ, cũng như thông qua hoặc bãi bỏ một hiệp định quốc tế.
Uỷ ban cũng có nhiệm vụ xem xét kế hoạch viện trợ nước ngoài của Mỹ và cơ
cấu lại bộ máy cơ quan ngoại giao.
Chủ tịch các uỷ ban và hệ thống thâm niên: Với các điều luật không
thành văn, chủ tịch của bất cứ uỷ ban nào trong quốc hội cũng thường là thành
viên của các đảng đa số, đã làm việc lâu năm nhất tại uỷ ban đó. Quyền lực của
chủ tịch các uỷ ban có được nhờ sự hiểu biết của họ về các thủ tục tại quốc hội
và quan hệ của họ đối với các quan chức chính phủ. Đây là kết quả của một
quá trình làm việc lâu dài tại quốc hội.
Sự chuyên môn hoá: Có hai quy tắc khác nhau giúp củng cố quyền lực
của các uỷ ban tại quốc hội: quy tắc chuyên môn hoá và quy tắc trao đổi ý
kiến. Sự chuyên môn hoá được hiểu rằng, một khi đã được chỉ định vào một uỷ
ban hay tiểu ban nào đó, thì các nghị sỹ sẽ chuyên phụ trách mảng công việc
đó và trở thành chuyên gia trong lĩnh vực này. Đặc biệt tại hạ viện, thông
thường các nghị sỹ sẽ không tham gia như nhau vào tất cả các luật tại quốc hội.
Kết quả của hệ thống này là các uỷ ban và các thành viên của uỷ ban sẽ trở
thành các chuyên gia trong công việc của họ, nhưng có thể họ sẽ không hiểu rõ
vấn đề của các uỷ ban khác.
Vấn đề trên được giải quyết thông qua quy tắc không chính thức là trao
đổi ý kiến. Theo quy tắc này, các nghị sỹ tìm kiếm sự hướng dẫn của các nghị
sỹ khác của đảng trong các uỷ ban chuyên môn trong việc quyết định bỏ phiếu
cho các dự luật không thuộc lĩnh vực chuyên môn của họ. Các nhà lập pháp
thường có xu hướng bỏ phiếu cho các dự luật theo cách mà các đồng nghiệp
cùng đảng của họ trong các uỷ ban chuyên môn có liên quan gần nhất đến dự
luật đó khuyên họ.
Sự phân công vào các uỷ ban hay các tiểu ban có tầm quan trọng đặc
biệt đối với quyền lực của các nhà lập pháp. Một khi các nghị sỹ đã được chỉ
định vào một uỷ ban, ông ta không thể chuyển sang một uỷ ban khác theo ý
muốn của mình, trừ trường hợp cán cân lực lượng giữa các đảng có sự thay
đổi, hoặc có sự thay đổi nhận sự trong nội bộ của một đảng.
Quá trình thông qua một đạo luật:
Chức năng chính của quốc hội Mỹ là làm luật. Tuy nhiên, để thông qua
một đạo luật không hề đơn giản. Đó là cả một quá trình đấu tranh không chỉ
giữa hai đảng trong quốc hội, mà còn là sự tương tác của những áp lực từ nhiều
phía liên quan đến những nhóm lợi ích khác nhau.
Theo quy định, các dự luật có thể được đưa ra tại hạ viện hoặc thượng
viện, hoặc đồng thời từ cả hai viện. Chỉ có một ngoại lệ, các dự luật về thuế và
ngân sách phải được đưa ra bàn thảo trước hết ở hạ viện. Trung bình hàng năm
có khoảng 20.000 dự luật được đưa ra bàn thảo tại quốc hội.
Sau khi được đệ trình, tuỳ theo vấn đề, các dự luật sẽ được chuyển đến
xem xét tại các uỷ ban chuyên môn và chủ tịch uỷ ban đó sẽ quyết định chuyển
dự luật cho tiểu ban nào thẩm định. Trên thực tế, những dự luật nào thu hút
được sự quan tâm của những nghị sỹ lâu năm, đặc biệt là chủ tịch các uỷ ban,
thì sẽ được chú ý nhiều hơn.
Sau khi đã hoàn tất phần tranh luận và chỉnh sửa tại các uỷ ban chuyên
môn, dự luật sẽ được chuyển đến hội nghị toàn thể của các viện để tranh luận
công khai. Tại thượng viện, các dự luật đã được các uỷ ban chuyên môn thông
qua được phép tranh luận một cách cởi mở trong toàn viện. Trong khi đó, tại
hạ viện, do số lượng nghị sỹ lớn, Uỷ ban điều lệ thường đặt ra một số quy định
về cách thảo luận đối với mỗi dự luật. Sau khi thảo luận, các thành viên sẽ bỏ
phiếu thông qua, sửa đổi hoặc bác bỏ, hoặc hoãn việc xem xét dự luật. Một dự
luật sau khi đã được thông qua tại một viện sẽ được chuyển đến viện kia để
tiếp tục xem xét. Nếu hai viện có những sửa đổi khác nhau đối với cùng một
dự luật thì một uỷ ban lâm thời sẽ được thành lập để dàn xếp những bất đồng.
Thông thường, các dự luật chỉ cần giành được quá bán số phiếu ủng hộ ở mỗi
viện là có thể được thông qua.
Sau khi đã được thông qua ở cả hai viện của quốc hội, dự luật sẽ được
trình lên tổng thống phê chuẩn. Nếu tổng thống phủ quyết, dự luật bị gửi lại
cho quốc hội tiếp tục xem xét. Dự luật bị tổng thống từ chối phê chuẩn vẫn có
cơ hội trở thành luật nếu nó được 2/3 số nghị sỹ ở cả hai viện của quốc hội
thông qua. Trong trường hợp tổng thống chỉ phủ quyết một phần của dự luật,
thì quốc hội chỉ cần sửa đổi những phần tổng thống phủ quyết, sau đó tiếp tục
trình lên tổng thống. Nếu trong vòng mười ngày (không kể chủ nhật) kể từ khi
nhận được dự luật mà không có hồi âm của tổng thống, thì dự luật đương nhiên
trở thành luật. Nếu dự luật bị tổng thống trả lại trong thời gian quốc hội nghỉ
họp, thì dự luật đó coi như đã bị phủ quyết.
Quyền hạn của quốc hội:
Hiến pháp Mỹ trao cho quốc hội quyền hành rất lớn, đó là quyền lập
pháp, quyền sửa đổi hiến pháp và pháp luật. Các quyền này được liệt kê trong
điều khoản thứ nhất, mục 8 của hiến pháp.
Quốc hội có quyền ban hành luật để điều tiết thương mại và tài chính,
được phép trao hoặc bác bỏ quyền tối huệ quốc cho các nước có quan hệ buôn
bán với Mỹ. Ngoài các luật trực tiếp điều tiết quan hệ đối ngoại, quốc hội còn
có quyền phê chuẩn hoặc sửa đổi các hiệp định thương mại đã được chính phủ
đàm phán, ký kết.
Ngoài quyền lập pháp, quốc hội còn có nhiều quyền khác. Những quyền
này có khả năng ảnh hưởng đến quá trình làm luật mới, trong đó có hai quyền
quan trọng là quyền giám sát hoạt động của chính phủ và quyền điều tra. Quốc
hội cũng có quyền thành lập một số cơ quan và giao cho các cơ quan này
những nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể. Các cơ quan này sẽ cho quốc hội biết,
nhánh hành pháp đang thực hiện những công việc gì. Chính quá trình phân bổ
ngân sách hàng năm đã trao cho quốc hội cơ hội để yêu cầu chính phủ giải
trình những việc mà mình đang thực hiện, yêu cầu họ phải làm những gì và
cuối cùng là cấp tiền cho những việc mà quốc hội muốn, hay thu hồi tiền đối
với những việc mà quốc hội không muốn.
Cơ quan Tổng kiểm toán là một cơ quan được thành lập để giúp quốc
hội trong việc giám sát. Quốc hội sử dụng cơ quan này để kiểm tra các chương
trình và các bộ thuộc chính quyền trung ương. Nhiều vụ xì-căng-đan trong
chính phủ đã bị vạch trần bởi báo cáo của cơ quan kiểm toán.
Hơn nữa, quốc hội cũng có quyền điều tra. Nếu quốc hội hay một uỷ ban
nào đó của quốc hội cho rằng, có một vấn đề đã được tiến hành không đúng
các thủ tục mà pháp luật quy định, thì một cuộc điều tra sẽ được tiến hành. Nói
tóm lại, quốc hội có thể điều tra về bất cứ điều gì mà họ muốn.
Bên cạnh đó, quốc hội cũng có quyền tư pháp nhất định. Hạ viện có thể
luận tội các quan chức liên bang thông qua một tỷ lệ phiếu quá bán. Sau đó,
thượng viện tổ chức một phiên toà để luận tội. Nếu 2/3 phiếu của thượng viện
đồng ý buộc tội các quan chức này, họ sẽ bị buộc phải từ chức.
Luận tội là một công việc khó khăn và phức tạp. Nhiều quan chức liên
bang đã từng bị luận tội và bị kết tội. Tổng thống Richard Nixon đã phải từ bỏ
ý định tranh cử nhiệm kỳ 1974 khi phải đối mặt với khả năng sẽ bị luận tội.
Bất chấp những khó khăn của việc luận tội, quá trình này tiếp tục là một quyền
lực tối cao của nhánh lập pháp.
2.2 Hành pháp
Mặc dù chỉ là người đứng đầu một trong ba cơ quan của chính phủ,
nhưng tổng thống vẫn là nhân vật quan trọng nhất trên bàn cờ chính trị nước
Mỹ. Tổng thống là quan chức duy nhất được người dân toàn quốc bầu lên, là
biểu tượng của cả quốc gia.
Theo quy định của hiến pháp, tổng thống Mỹ phải là người ít nhất 35
tuổi, phải là công dân Mỹ trong 14 năm và được sinh ra ở Mỹ. Nhiệm kỳ của
tổng thống được cố định là bốn năm, và mỗi tổng thống chỉ có thể giữ cương
vị tối đa hai nhiệm kỳ.
Các tổng thống được bầu thông qua lá phiếu của đại cử tri. Mỗi bang có
số đại cử tri bằng số thượng nghị sỹ và hạ nghị sỹ của bang đó cộng lại (riêng
quận Columbia có 3 phiếu). Vào ngày bầu cử, số phiếu trong mỗi bang được
cộng lại và ứng cử viên nào nhận được nhiều phiếu ủng hộ hơn sẽ giành được
toàn bộ số phiếu đại cử tri của bang đó. (Các bang đều áp dụng quy tắc “người
thắng được tất cả”, ngoại trừ bang Maine và bang Nebraska). Khi kiểm phiếu
đại cử tri ở mỗi bang, ứng cử viên nào chiếm được đa số phiếu đại cử tri (ít
nhất là 270 phiếu, tức là 50% +1), người đó sẽ trở thành tổng thống. Nếu
không có ứng cử viên nào nhận được đa số, lúc đó theo quy định của hiến
pháp, chức vụ tổng thống sẽ được quyết định bởi đa số phiếu trong hạ viện.
Vai trò và quyền hạn của tổng thống:
Tổng thống là nguyên thủ quốc gia và là người đứng đầu chính phủ.
Trên thực tế, tổng thống là cá nhân nắm giữ những quyền lực lớn nhất trong
toàn bộ HTCT Mỹ. Với tư cách là nguyên thủ quốc gia, tổng thống đảm nhận
nhiều chức năng quan trọng từ lễ nghi, cho đến viếng thăm các quốc gia trên
thế giới. Xuất phát từ vai trò này, người dân thường xem tổng thống là biểu
tượng của đất nước.
Là người đứng đầu hành pháp, tổng thống có toàn quyền trong việc thi
hành các chính sách, luật lệ được quốc hội thông qua trên phạm vi toàn quốc.
Tổng thống có quyền bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm các quan chức cao cấp của
nhánh hành pháp và lãnh đạo hoạt động hành pháp. Hiện nay tổng thống Mỹ
quản lý tất cả 16 bộ, rất nhiều cơ quan, trung tâm và uỷ ban. Tổng thống điều
hoà sự phối hợp hoạt động của tất cả các bộ và các cơ quan này nhằm tạo ra sự
nhất quán trong việc hoạch định và thực thi chính sách.
Theo quy định, tổng thống có quyền ban hành nhiều loại văn bản khác
nhau để lãnh đạo các cơ quan thuộc nhánh hành pháp như các lệnh thừa hành,
các quy tắc, quy chế… Các loại văn bản này ngày càng trở nên thông dụng và
chiếm ưu thế hơn so với các đạo luật do quốc hội thông qua. Chính phủ cũng
có nhiệm vụ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm triển khai thực
hiện các đạo luật đã được quốc hội thông qua. Những văn bản này không chỉ
bổ sung, mà đôi khi nó đóng vai trò thay thế cả pháp luật trong việc điều chỉnh
các vấn đề khác nhau của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Chúng giúp cho
nhánh hành pháp quản lý xã hội một cách chi tiết, bởi quốc hội thường chỉ ban
hành những đạo luật chung chung.
Tổng thống cũng là nhà ngoại giao hàng đầu. Tổng thống có quyền thiết
lập quan hệ ngoại giao với nước ngoài, bổ nhiệm đại sứ, ký kết các hiệp ước
với sự chấp thuận của 2/3 số thành viên của thượng viện. Tổng thống trên thực
tế là người hoạch định đồng thời là người thực thi chủ yếu chính sách đối
ngoại của Mỹ. Hàng năm, một vị tổng thống có thể phải ký hàng trăm các loại
hiệp định khác nhau về các vấn đề liên quan đến chính sách đối ngoại của Mỹ.
Tổng thống Mỹ đồng thời là tổng tư lệnh quân đội. Mặc dù hiến pháp
trao cho quốc hội quyền tuyên bố chiến tranh, nhưng quốc hội chưa từng thực
hiện quyền này kể từ năm 1941 khi Mỹ bước vào cuộc chiến tranh thế giới lần
thứ II. Các tổng thống, với tư cách là tổng tư lệnh, chính là những người đưa
đến sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam và sự tham dự của Mỹ trong cuộc chiến
tranh Triều Tiên. Quốc hội đã ủng hộ những hành động này thông qua quyết
định cấp tiền cho quân đội.
Tổng thống cũng là một nhà lập pháp quan trọng. Hàng năm, tổng thống
gửi kế hoạch lập pháp của chính phủ tới quốc hội. Tổng thống cũng trình bày
kế hoạch ngân sách hàng năm trước quốc hội. Hiến pháp Mỹ không có quy
định rõ ràng cho phép tổng thống đưa ra các sáng kiến lập pháp nhằm mục
đích thể hiện sự phân quyền tuyệt đối giữa các nhánh quyền lực, nhưng trên
thực tế, hầu hết các dự luật do quốc hội thông qua đều xuất phát từ nhánh hành
pháp.
Quyền lực chủ yếu mà hiến pháp trao cho tổng thống với tư cách là nhà
lập pháp hàng đầu chính là quyền phủ quyết. Nếu tổng thống không đồng ý với
một dự luật do quốc hội thông qua, ông ta có thể không ký nó và trả lại cho
quốc hội. Tổng thống cũng có thể ngầm phủ quyết một dự luật bằng cách từ
chối phê chuẩn trong vòng 10 ngày sau khi quốc hội đã ngừng họp. Quốc hội
cũng có thể phủ quyết lại với 2/3 số phiếu ủng hộ ở mỗi viện của quốc hội.
Cơ cấu của chính phủ:
Chính phủ liên bang Mỹ ngoài tổng thống còn có nhiều bộ phận khác
như Văn phòng điều hành của tổng thống và nội các, các bộ, các uỷ ban điều
hành độc lập, các trung tâm…
Văn phòng điều hành của tổng thống được thiết lập nhằm cố vấn và hỗ
trợ tổng thống trong việc điều hành bộ máy. Văn phòng này gồm 8 cơ quan và
khoảng gần 1.400 nhân viên. Ba cơ quan quan trọng nhất của văn phòng điều
hành là: Văn phòng Nhà trắng, Hội đồng an ninh quốc gia và Văn phòng quản
lý và ngân sách.
Văn phòng Nhà trắng là những cộng sự thân cận nhất của tổng thống.
Họ là các trợ lý đặc biệt của tổng thống về các vấn đề đối nội và đối ngoại,
đảm bảo công việc hàng ngày, giúp tổng thống quan hệ với quốc hội, báo chí
và công chúng, đảm bảo việc thông qua quyết định của tổng thống, giúp tổng
thống soạn thảo và vạch ra các phương hướng chủ đạo. Các thành viên Văn
phòng Nhà trắng không cần thiết phải được thượng viện thông qua. Trong
những năm gần đây, quá trình tập trung hoá quyền hành pháp đã tăng cường
quyền hạn của đội ngũ quan chức Nhà trắng, trong khi quyền hạn của các quan
chức nội các lại bị suy giảm.
Hội đồng an ninh quốc gia (NSC) được thành lập vào đầu thời kỳ chiến
tranh lạnh (1947) để giúp tổng thống phối hợp các chính sách quân sự và đối
ngoại. Những chính sách này có thể liên quan đến Bộ ngoại giao và Bộ quốc
phòng nên hai bộ này có đại diện trong Hội đồng. Mức độ sử dụng Hội đồng
an ninh quốc gia của các tổng thống cũng rất khác nhau.
Văn phòng quản lý và ngân sách (OMB) được thành lập vào năm 1970.
Chức năng chính của văn phòng này là chuẩn bị dự thảo ngân sách liên bang
để trình quốc hội và thông qua toàn bộ các yêu cầu chi tiêu của các bộ và các
cơ quan. Công việc chuẩn bị dự toán và quản lý ngân sách hàng năm (sau đó
được quốc hội phê chuẩn) được trao cho cơ quan này khiến cho nó có một
quyền lực rất lớn trong chính phủ.
Các bộ thuộc nội các: Các bộ thuộc nội các là những cơ quan chủ chốt
trong chính phủ liên bang. Ngày nay nội các Mỹ có 16 bộ. Việc mở rộng nội
các xuất phát từ nguyên nhân chủ yếu là sự gia tăng các vấn đề mà người dân
đòi hỏi chính quyền liên bang phải giải quyết. Mỗi bộ thuộc nội các do một bộ
trưởng đứng đầu. Bộ trưởng do tổng thống bổ nhiệm với sự đồng ý của thượng
viện. Thời gian làm việc của các bộ trưởng phụ thuộc vào tổng thống. Sự thay
đổi định kỳ của tổng thống sau các cuộc bầu cử cũng dẫn đến sự thay đổi các
bộ trưởng. Các bộ trưởng thực chất ảnh hưởng không nhiều đến hoạt động của
các bộ mà họ quản lý do tính kế thừa, ổn định trong hoạt động của bộ máy
công chức chuyên nghiệp tại các bộ.
Các cơ quan điều hành: là những cơ quan quan trọng của nhánh hành
pháp không thuộc nội các. Người đứng đầu các cơ quan này do tổng thống bổ
nhiệm với sự phê chuẩn của thượng viện. Tầm quan trọng của các cơ quan này
chưa đủ để được thành lập một bộ. Trong số này có Văn phòng quản lý nhân
sự (OPM), Cơ quan hàng không và vũ trụ quốc gia (NASA), và Cục tình báo
trung ương (CIA).
Các uỷ ban điều tiết: Các uỷ ban này chịu trách nhiệm điều tiết và thiết
lập các quy định cho một số thành phần nhất định của nền kinh tế. Chẳng hạn,
Uỷ ban thương mại liên tiểu bang (ICC) chịu trách nhiệm điều hành mạng lưới
đường sắt, xe buýt và xe tải; Uỷ ban bưu chính liên bang (FCC) giám sát các
hoạt động liên lạc điện thoại, vô tuyến và truyền hình... Mặc dù tổng thống chỉ
định các thành viên của các uỷ ban này và bổ nhiệm chức chủ tịch, nhưng các
uỷ ban vẫn tương đối độc lập với tất cả các nhánh của chính phủ. Các uỷ ban
cũng mang tính chất lưỡng đảng (các thành viên của nó phải đến từ hai đảng
lớn); tổng thống chỉ có quyền lực hạn chế trong việc bãi nhiệm các uỷ viên -
những người thường làm việc với nhiệm kỳ lâu hơn tổng thống và tổng thống
cũng không có quyền phủ quyết đối với các hành động của họ.
Nguyên nhân của việc hình thành các uỷ ban là do quốc hội và tổng
thống cho rằng, một số bộ phận của nền kinh tế đòi hỏi phải có sự giám sát chi
tiết về các vấn đề phức tạp mà quốc hội không có khả năng chuyên môn hoá để
đảm nhận. Đây là những uỷ ban độc lập, bởi người ta cho rằng, các quyết định
của chúng không xuất phát từ tinh thần đảng phái, mà là từ năng lực chuyên
môn của các thành viên. Tuy nhiên, tính độc lập của các uỷ ban đối với chính
phủ cũng có nghĩa là khả năng kiểm soát chúng bị hạn chế. Các uỷ ban thường
phải chịu những áp lực từ các nhóm mà chúng có trách nhiệm điều tiết, và đôi
khi do thiếu sự kiểm soát của chính phủ nên dẫn tới tình trạng các uỷ ban
thương lượng với các nhóm lợi ích, chứ không phải là điều tiết chúng.
Ngoài ra, nhánh hành pháp còn bao gồm cả một bộ máy quan chức liên
bang gồm khoảng 3 triệu người, giúp tổng thống tiếp cận với nhiều luồng
thông tin và cho phép tổng thống đưa ra các sáng kiến chính sách.
Nhìn chung, bộ máy quan chức trong nhánh hành pháp củng cố thêm
quyền lực của tổng thống. Tuy nhiên, do quy mô lớn, vai trò đa dạng và tính
phức tạp trong nội bộ, từ Văn phòng điều hành cho đến các bộ thuộc nội các,
các cơ quan hành pháp và các uỷ ban điều tra, cũng làm hạn chế khả năng
kiểm soát của tổng thống đối với toàn bộ bộ máy công chức.
Mặc dù vậy, tổng thống với tư cách là một cá nhân và là một thể chế,
vẫn tiếp tục đóng vai trò là trung tâm trên bàn cờ chính trị Mỹ. Người dân vẫn
có xu hướng chĩa sự bất bình của họ đối với chính phủ vào cá nhân các tổng
thống, chứ không phải là vào các bộ trưởng hay các nghị sỹ quốc hội.
2.3. Tư pháp
Nhánh thứ ba của chính phủ liên bang được quy định trong hiến pháp là
nhánh tư pháp. Trong ba bộ phận của chính phủ liên bang, nhánh tư pháp có lẽ
được trao ít quyền lực nhất. Nhìn chung, nhánh tư pháp có vai trò quan trọng
nhất trong những quyết định liên quan đến quyền của các cá nhân. Xét cả về
quy định và hoạt động thực tiễn, nhánh tư pháp có những nhiệm vụ chủ yếu
như: bảo vệ hiến pháp và pháp luật thông qua hoạt động xét xử mọi hành vi vi
phạm; giải thích hiến pháp và pháp luật phục vụ cho quản lý xã hội; kiềm chế
các thiết chế khác trong hệ thống chính trị.
Cơ cấu tổ chức của hệ thống toà án Mỹ:
Hệ thống toà án Mỹ được quốc hội thành lập sau khi thông qua đạo luật
về tư pháp năm 1789 và những đạo luật sau đó. Hệ thống toà án được phân
chia thành những cấp bậc từ thấp đến cao. Tuy nhiên, chế độ liên bang đã dẫn
đến sự tồn tại song song của hai hệ thống toà án: toà án liên bang và toà án các
bang. Hệ thống toà án liên bang được điều chỉnh bởi pháp luật liên bang và hệ
thống toà án của các bang chịu sự điều chỉnh của pháp luật các bang. Tuy
nhiên, hai hệ thống này không hoàn toàn tách biệt nhau, bởi theo quy định,
hiến pháp và các đạo luật của các bang phải phù hợp với luật pháp liên bang.
Hệ thống toà án liên bang:
Hệ thống toà án liên bang gồm ba cấp xét xử:
- Toà sơ thẩm là các toà án khu vực liên bang.
- Toà phúc thẩm là các toà phúc thẩm lưu động liên bang.
- Toà án tối cao liên bang.
Toà án khu vực liên bang do quốc hội thành lập và quy định các vấn đề
về tổ chức và hoạt động. Toà này được thành lập để xét xử các vụ án của liên
bang tại bang đó. Mỗi bang có ít nhất một toà án khu vực và những bang đông
dân có thể có tới bốn toà án như vậy. Hiện nay ở Mỹ có khoảng 94 toà án khu
vực liên bang với 649 thẩm phán đang làm việc.
Trên toà án khu vực liên bang là các toà phúc thẩm liên bang. Các toà
này cũng do quốc hội thành lập để xét xử phúc thẩm các bản án của toà án khu
vực liên bang và giải quyết các kháng cáo của các uỷ ban hay cơ quan thuộc
liên bang, có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ pháp luật liên bang. Nếu một
người bị xử thua tại một toà án khu vực liên bang trong một vụ kiện dân sự,
anh ta có thể kháng án lên toà phúc thẩm liên bang. Nước Mỹ có 13 toà phúc
thẩm liên bang như vậy. Mỗi toà nói trên có từ 6 đến 28 thẩm phán, tuỳ thuộc
vào khối lượng công việc.
Ngoài ra, Mỹ còn có các toà án liên bang đặc biệt. Các toà án này được
quốc hội thành lập để giải quyết một số vụ án nhất định. Chẳng hạn, toà bồi
thường xử lý những vụ người dân đòi chính phủ phải bồi thường do việc tịch
thu tài sản của họ; toà án quân sự đưa ra phán quyết cuối cùng đối với những
vụ án có liên quan đến chiến tranh, đến lĩnh vực quân sự.
Toà án tối cao liên bang là cơ quan xét xử cao nhất của nước Mỹ. Biên
chế của toà án này chỉ có 9 người, trong đó có một chánh án. Dù toà án tối cao
có một số thẩm quyền xét xử sơ thẩm, song cơ quan này chủ yếu nhận đơn
kháng cáo đối với các quyết định từ các toà án cấp dưới – đây chính là quyền
xét xử phúc thẩm. Nếu một người bị thua kiện tại toà sơ thẩm và phúc thẩm,
anh ta có thể đệ đơn kháng án lên toà án tối cao.
Trên thực tế chỉ có một số rất ít các vụ án được đưa đến toà án tối cao.
Trong số hàng triệu vụ án hàng năm tại Mỹ, chỉ có khoảng 8.000 vụ được xem
xét đệ trình lên toà này. Nhiều vụ án mà toà án tối cao thụ lý có liên quan đến
hiến pháp. Thông thường, toà án tối cao sẽ bác đơn của khoảng 85 - 90%
những lá đơn kháng án. Thủ tục này giúp cho toà án tối cao giữ được quyền
khống chế đối với quá trình kháng án, cho phép giữ mức tối đa các quyết định
của toà án cấp thấp hơn.
Toà án tối cao luôn nổi bật trong lịch sử chính trị Mỹ bởi người ta nghĩ
rằng, toà này có tiếng nói cuối cùng trước những vấn đề liên quan đến hiến
pháp liên bang. Tuy nhiên, trong lịch sử, không phải bao giờ phán quyết của
toà án tối cao cũng là quyết định cuối cùng. Bản thân toà cũng đã phải tự huỷ
bỏ quyết định do mình đưa ra. Nếu toà giải thích một đạo luật nào đó không
được quốc hội ủng hộ, thì quốc hội sẽ chế áp toà bằng cách viết lại quy chế của
toà. Những sửa đổi trong hiến pháp liên bang cũng có thể làm thay đổi những
quyết định của toà.
Quyền quyết định của toà án tối cao còn bị chi phối bởi các cơ quan
khác trong chính quyền. Quốc hội, tổng thống cũng như toà án tối cao đều lần
lượt giải thích các phần mập mờ trong hiến pháp liên bang nhằm đáp ứng
những đòi hỏi về thời gian và nhu cầu của những người nắm quyền lực. Mặc
dù có sự phân chia vai trò trong việc thay đổi hiến pháp, toà án tối cao Mỹ với
những giải thích thông qua các phán quyết của mình, đã truyền sức sống cho
những từ ngữ đã có hơn 200 năm tuổi của hiến pháp.
Tất cả các thẩm phán của toà án liên bang, bao gồm cả các thẩm phán
của toà án tối cao, đều được tổng thống bổ nhiệm và phải được sự thông qua
của thượng viện. Mặc dù các quyết định của tổng thống phần lớn được chấp
nhận một cách đương nhiên, song sự thừa nhận của thượng viện không đơn
giản chỉ là nghi thức, mà nó vẫn đóng vai trò khá quan trọng.
Theo hiến pháp, tất cả các thẩm phán liên bang sẽ giữ chức vụ suốt đời
và chỉ bị bãi nhiệm nếu bị điều trần. Nhưng những trường hợp này hiếm khi
xảy ra. Để bảo vệ các thẩm phán khỏi các áp lực chính trị, mức lương của họ
sẽ không bị cắt giảm trong suốt thời gian đương nhiệm.
Bất chấp sự bảo vệ nói trên, việc bổ nhiệm một thẩm phán luôn luôn là
một vấn đề mang nặng tính chính trị. Thẩm phán gần như lúc nào cũng được
lựa chọn dựa trên những cơ sở mang tính đảng phái, và chức thẩm phán
thường là một sự trả công xứng đáng cho những đóng góp của họ cho đảng
phái đó.
Thẩm quyền của cơ quan tư pháp:
Thẩm quyền xét xử: Thẩm quyền xét xử là việc cơ quan tư pháp thực thi
quyền lực của nó đối với một sự việc cụ thể. Theo quy định, ngành tư pháp có
thẩm quyền xét xử các vụ án liên quan đến những quy định của hiến pháp, đến
các nhân tố nước ngoài và các hiệp định của Mỹ, các vụ rắc rối trong đó Mỹ là
một bên liên quan; các tranh chấp giữa hai bang hoặc nhiều bang, giữa một
bang và công dân Mỹ, hay giữa một bang với một công dân nước ngoài. Phần
lớn các vụ án của hệ thống toà án liên bang là các vụ kiện giữa công dân của
các bang khác nhau.
Toà án liên bang cũng có những thẩm quyền riêng biệt trong một số vụ
án. Trong một số trường hợp, họ đồng thời chia sẻ quyền lực với toà án các
bang. Ví dụ, một số vụ kiện giữa các công dân các bang khác nhau có thể được
thụ lý ở các toà án liên bang hoặc các toà án bang.
Các quy định này rõ ràng đã khẳng định vị trí trung lập của ngành tư
pháp trong việc bảo vệ hiến pháp và pháp luật. Nó vạch ra một phạm vi quyền
lực cho ngành tư pháp, không lấn sang thẩm quyền của các cơ quan quyền lực
khác, nhưng vẫn có thể ngăn cản sự bành trướng của các nhánh quyền lực
khác.
Quyền định hướng xét xử: Thẩm quyền này phái sinh từ thẩm quyền xét
xử. Trong quá trình xử lý các vụ việc, toà án phải căn cứ vào các quy định của
pháp luật. Nhưng trên thực tế, các quy định của pháp luật chỉ dừng lại ở các
nguyên tắc chung. Do vậy, để có thể xét xử theo đúng pháp luật, toà án phải
giải thích các quy định đó. Nhiệm vụ này làm cho toà án có vai trò như những
người vạch ra định hướng cho việc xét xử.
Thẩm quyền kiềm chế và đối trọng: Theo cách thiết kế tổ chức bộ máy
nhà nước Mỹ, cơ quan tư pháp có nhiệm vụ kiềm chế và đối trọng đối với hai
nhánh quyền lực còn lại. Đối với cơ quan lập pháp, ngành tư pháp có thể căn
cứ vào các quy định của hiến pháp để tuyên bố một đạo luật nào đó đã được
quốc hội thông qua là trái với hiến pháp và nó sẽ bị vô hiệu hoá. Trong trường
hợp có hai đạo luật cùng quy định về một vấn đề, nhưng lại mâu thuẫn với
nhau thì cơ quan tư pháp có quyền tuyên bố bãi bỏ một trong hai đạo luật.
Đối với cơ quan hành pháp, toà án tối cao có quyền luận tội tổng thống
và các quan chức chính phủ nếu như những người này bị phát hiện có dấu hiệu
phạm pháp. Toà án cũng có quyền ban hành các bản án, quyết định chống lại
các cơ quan cụ thể của ngành hành pháp do vi phạm pháp luật.
Những hạn chế đối với quyền lực của toà án tối cao:
Mặc dù có quyền lực rất lớn trong việc xem xét lại các bản án, nhưng
toà án tối cao vẫn là nhánh quyền lực yếu nhất. Toà án tối cao phải dựa vào các
bộ phận khác của chính phủ để thực thi các quyết định của mình. Hiếm khi toà
án tối cao sử dụng đến thẩm quyền bãi bỏ hoạt động của những cơ quan khác
trong chính phủ liên bang, và thẩm quyền này cũng bị hạn chế nghiêm ngặt.
Phần lớn những hạn chế đối với quyền lực của toà án nằm bên trong hệ
thống tư pháp. Chẳng hạn, khi có một trường hợp gây tranh cãi về việc một
người nào đó bị pháp luật làm tổn hại, toà án tối cao phải đợi cho vụ việc này
được xét xử ở toà án cấp dưới. Điều này có nghĩa là có thể nhiều năm trôi qua,
toà án tối cao mới có thể phán quyết về vụ việc đó.
Toà án tối cao thường cố lảng tránh các vấn đề chính trị và đồng thời
cũng tránh các vấn đề thuộc về hiến pháp. Toà án sẽ không phán quyết một vụ
việc có liên quan đến hiến pháp trừ phi không còn cách lựa chọn nào khác. Toà
án tối cao thường không tuyên bố một điều luật là không hợp hiến nếu nó
không vi phạm hiến pháp một cách quá rõ ràng.
Một hạn chế nữa của toà án là vấn đề tiền lệ án. Các thẩm phán nhìn
chung đều tuân theo các quyết định trước đây của toà án trong những vụ việc
về các vấn đề tương tự. Tuy nhiên, đôi khi các thẩm phán cũng không tuân
theo những tiền lệ án nếu họ cảm thấy những vụ trước đây không tuân thủ hiến
pháp. Đôi khi toà án tối cao cố gắng tìm kiếm sự nhất quán với tiền lệ án, thậm
chí cả khi phải thay đổi luật. Do những lý do về chính trị cũng như pháp lý, toà
án tối cao thường tránh những vấn đề gây quá nhiều tranh cãi, luật pháp liên
quan đến vấn đề còn chưa rõ ràng, hoặc thiếu một sự đồng thuận về mặt chính
trị.
Sức mạnh của toà án tối cao bắt nguồn từ sự phân đoạn của hệ thống nhà
nước Mỹ. Với sự phân chia quyền lực giữa các nhánh của nhà nước liên bang
và giữa nhà nước liên bang với các bang, thì mâu thuẫn xảy ra là điều không
thể tránh khỏi. Sự phân chia quyền lực này tạo ra yêu cầu phải có một người
phân xử và toà án tối cao chính là người đảm nhận vai trò này.
Mặc dù có rất ít vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của toà án tối cao,
nhưng toà án này vẫn giữ vai trò của cơ quan quyền lực cuối cùng có quyền
xét xử theo quy định của hiến pháp. Tuy nhiên, những quyết định của toà án
tối cao vẫn thường xuyên thay đổi tuỳ thuộc vào các bối cảnh chính trị.
Với quyền được phép bác bỏ những đạo luật của các cơ quan dân bầu,
toà án tối cao đã thực sự can thiệp sâu sắc vào việc hoạch định chính sách quốc
gia, đặt ra những thể thức trên bàn cờ chính trị và thu hút sự chú ý của người
dân trước những vấn đề xã hội bức xúc.
2.4. Các đảng chính trị, các nhóm lợi ích và hệ thống bầu cử
2.4.1. Các đảng chính trị
+ Cơ cấu tổ chức của hai đảng cầm quyền
Ở Mỹ tại mỗi bang lại có sự khác biệt rất lớn về mặt tổ chức đảng phái.
Có thể hình dung, cơ cấu đảng Dân chủ hay đảng Cộng hoà giống như hình
kim tự tháp với các tổ chức đảng địa phương nằm ở dưới cùng (khu dân cư,
phường, thị trấn), các uỷ ban cấp hạt ở trên, tiếp theo là uỷ ban cấp bang. Uỷ
ban toàn quốc của mỗi đảng đứng trên tất cả và các đại hội đảng toàn quốc là
cơ quan quyền lực tối cao.
Tuy nhiên, mô hình kim tự tháp không phản ánh chính xác quyền hạn
của các tầng tổ chức. Quyền lực ở mỗi tầng bậc độc lập với nhau với đặc trưng
nổi bật là tính tự trị rất cao.
- Tổ chức đảng cấp địa phương:
Tổ chức đảng ở địa phương là tầng thấp nhất trong bộ máy đảng phái ở
Mỹ. Ở cấp này, đơn vị đảng nhỏ nhất là khu dân cư. Đây đồng thời cũng là
một khu vực bỏ phiếu. Những hoạt động tích cực của cơ sở đảng tại các khu là
một trong những nhân tố quan trọng góp phần giành thắng lợi của đảng trong
các kỳ bầu cử. Tiếp theo là uỷ ban cấp phường, thành phố và cấp hạt. Ở cấp
hạt cũng có uỷ ban đảng với một chức chủ tịch đảng. Hoạt động của đảng cấp
địa phương chủ yếu tập trung vào các cuộc vận động bầu cử bầu chính quyền
địa phương.
- Tổ chức đảng cấp bang:
Ở 50 bang và các vùng lãnh thổ của nước Mỹ đều có tổ chức của hai
đảng Dân chủ và Cộng hoà. Mỗi bang đều có một uỷ ban trung ương của bang,
một chủ tịch đảng bang và một bộ máy giúp việc chuyên nghiệp được trả
lương.
Các uỷ viên của uỷ ban trung ương bang được lựa chọn từ các đại hội
cấp hạt, từ các cuộc bầu cử sơ bộ, và từ các hội nghị của đảng. Ngoài ra, một
bộ phận các thành viên đại diện cho các khu vực bầu cử quốc hội, nghị viện
bang…
Chức năng chính của uỷ ban trung ương bang là đề cử ứng cử viên cho
các cơ quan chính quyền bang, đồng thời tiến hành vận động tranh cử cho các
ứng cử viên của đảng mình. Uỷ ban cũng có nhiệm vụ quảng cáo, giới thiệu
các hoạt động của đảng, quyên tiền, vạch ra đường lối chung cho đảng, đồng
thời thi hành các quyết định được thông qua tại đại hội đảng cấp bang.
Chủ tịch đảng cấp bang là người hưởng lương và làm việc thường trực,
chỉ đạo trực tiếp việc hoạch định chính sách và các hoạt động của đảng như:
tăng nguồn quỹ, xây dựng tổ chức đảng, xây dựng chiến lược cho chiến dịch
vận động tranh cử.
- Tổ chức đảng cấp quốc gia:
Mỗi đảng được điều hành bởi một uỷ ban đảng toàn quốc bao gồm
những đại diện được lựa chọn từ tổ chức đảng cấp bang và các nhóm khác
nhau của đảng. Lãnh đạo uỷ ban là một vị chủ tịch thường do ứng cử viên tổng
thống của đảng lựa chọn cứ 4 năm một lần. Dưới cơ quan quyền lực này là đội
ngũ nhân viên chuyên nghiệp của đảng. Đây là những chuyên gia nắm vững và
hiểu biết công nghệ vận động tranh cử hiện đại và các đạo luật phức tạp điều
chỉnh việc quyên góp và chi tiêu tài chính.
- Hội nghị đảng toàn quốc:
Hội nghị đảng toàn quốc thường được tổ chức vào mùa hè trước khi diễn
ra cuộc bầu cử tổng thống. Các đại biểu được lựa chọn bằng nhiều cách khác
nhau từ các tổ chức đảng ở cấp bang. Hội nghị đảng toàn quốc của đảng Cộng
hoà năm 1996 có 2210 đại biểu và đại hội của đảng Dân chủ có 4303 đại biểu
tham dự. Các đại biểu dự đại hội thông qua cương lĩnh của đảng, bầu ra ứng cử
viên tổng thống của đảng. Hội nghị đảng toàn quốc đóng vai trò là cơ quan
lãnh đạo tối cao của đảng trên phạm vi toàn quốc.
Nhìn chung, hệ thống tổ chức của các đảng ở Mỹ bị phi tập trung hoá
cao độ. Điều này bắt nguồn từ những điều khoản quy định trong hiến pháp Mỹ,
theo đó sự phân quyền cho chính quyền bang và chính quyền các địa phương
là khá mạnh. Tổ chức và hoạt động của các đảng chủ yếu bị điều chỉnh bởi luật
pháp của bang. Mỗi bang có những quy định riêng cho hoạt động của các đảng
phái. Do vậy, tổ chức và sinh hoạt của đảng Dân chủ và đảng Cộng hoà ở mỗi
bang không giống nhau. Nhiều người cho rằng, trên thực tế, không phải chỉ có
một đảng Dân chủ và một đảng Cộng hoà, mà nước Mỹ có tới 50 đảng Dân
chủ và 50 đảng Cộng hoà khác nhau. Cái gọi là đảng Dân chủ hay đảng Cộng
hoà thực chất chỉ là những liên minh lỏng lẻo của 50 đảng kia mỗi khi đến kỳ
bầu cử.
Sự phi tập trung còn được thể hiện ở sự độc lập của các đảng cấp dưới
đối với đảng cấp trên. Đối với cả đảng Dân chủ và đảng Cộng hoà, tổ chức
đảng ở cấp bang, hạt, và thành phố không chịu sự chỉ dẫn, hoặc kiểm soát của
uỷ ban trung ương hoặc chủ tịch đảng cấp trung ương. Uỷ ban đảng ở mỗi cấp
có một chương trình hoạt động riêng, có một chương trình gây quỹ và gây
dựng cơ sở của riêng mình. Về nguyên tắc, các uỷ ban đảng của các địa
phương không phải là cấp dưới của uỷ ban đảng ở cấp bang và cấp trung ương,
và không nhất thiết phải nghe theo mệnh lệnh của đảng cấp trên. Trong công
việc hàng ngày, các đơn vị đảng ở các cấp này là những đơn vị tự quản và độc
lập.
Việc đăng ký trở thành đảng viên (hay cử tri) của một đảng là hoàn toàn
dựa trên cơ sở tự nguyện. Sau khi đã trở thành đảng viên, một người không
phải thực hiện bất kỳ một cam kết hay giàng buộc nào, không phải đóng đảng
phí hoặc phải thực hiện một nghĩa vụ nào đối với đảng. Khi một người cảm
thấy đảng không đem lại lợi ích gì cho mình, họ có thể bỏ đảng mà không gặp
phải bất kỳ một thủ tục phiền toái nào và người đó lại có thể đăng ký để trở
thành đảng viên của một đảng khác, hoặc trở thành một cử tri độc lập.
2.4.2 Các nhóm lợi ích
Nhiều người cho rằng, các nhóm lợi ích có một sự tác động rất lớn đến
nền chính trị nước Mỹ. Các nhóm lợi ích được coi là những quyền lực đứng
đằng sau giật dây hệ thống chính trị để phục vụ cho những nhu cầu của họ.
Các nhóm lợi ích tạo cho người Mỹ một phương tiện để bày tỏ quan
điểm của họ đối với các nhà hoạch định chính sách. Trong khi các đảng chính
trị cạnh tranh với nhau để giành được các vị trí quyền lực trong bộ máy công
quyền, thì các nhóm lợi ích chỉ cố gắng gây ảnh hưởng đến kết quả bầu cử.
Một ứng cử viên có thể tỏ ra thân thiện với một nhóm lợi ích nào đó, hoặc là
thành viên của một nhóm lợi ích, nhưng ứng cử viên đó sẽ không tranh cử với
tư cách là người của một nhóm lợi ích.
Các dạng nhóm lợi ích:
Nhóm lợi ích kinh doanh: Hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng, các
tổ chức kinh doanh đóng vai trò then chốt trong nền chính trị Mỹ. Các tổ chức
này sử dụng những đòn bẩy ảnh hưởng trực tiếp tới các chính sách của chính
phủ để phục vụ cho lợi ích của họ. Các công ty đa quốc gia thường sử dụng
những nguồn lực to lớn của mình để đạt được các mục tiêu chính trị. Họ
thường là thành viên của nhiều hiệp hội thương mại đại diện cho quan điểm
của toàn bộ ngành công nghiệp trong tiến trình chính trị. Phòng thương mại,
Hiệp hội các nhà sản xuất quốc gia và Hiệp hội các doanh nghiệp nhỏ quốc gia
là những nhóm kinh doanh nổi tiếng. Những công ty lớn và đầy quyền lực như
Công ty điện tín và điện thoại Mỹ (AT&T), Tập đoàn thép Mỹ và Tập đoàn
General Motors thường hoạt động như một nhóm lợi ích.
Nhóm công đoàn: Ðầu thế kỷ XX, phong trào công đoàn phát triển
chậm, nhưng vào những năm 1930 công đoàn đã giành được vị trí quan trọng
trong hệ thống chính trị Mỹ. Vào những năm 1950, số lượng thành viên công
đoàn đã chiếm tới 35% lực lượng lao động. Vào những năm 1960, số lượng
thành viên công đoàn bắt đầu giảm xuống ở mức hiện hành, khoảng 15% lực
lượng lao động, và sức mạnh chính trị của nó bị suy giảm. Tuy nhiên, các tổ
chức công đoàn vẫn có ảnh hưởng đáng kể khi họ tập trung năng lực vào một
cuộc bầu cử, hoặc một vấn đề cụ thể nào đó. Hiện nay, các tổ chức công đoàn
nằm trong số những nhóm lợi ích có ảnh hưởng nhất ở Mỹ.
Nhóm nghề nghiệp: Một hình thức quan trọng khác của các nhóm lợi ích
là hiệp hội nghề nghiệp. Các nhóm này được tổ chức trên cơ sở cùng có công
việc giống nhau như: nhóm các nhà thương nghiệp, nhóm các nhà giáo, nhóm
những người làm nghề y…Những người cùng nghề này hình thành các hiệp
hội hoạt động từ cấp cơ sở tới cấp trung ương.
Hầu hết các ngành chuyên môn đều có tổ chức toàn quốc của riêng
mình. Chẳng hạn, trong lĩnh vực chính sách nhà ở có các nhóm sau: Hiệp hội
quốc gia của các quan chức về nhà ở và tái phát triển, Hội đồng các nhà chức
trách về nhà ở công. Những nhóm này bị luật liên bang và luật của bang hạn
chế tham gia các hoạt động đảng phái.
Các nhóm lợi ích công: Hình thức nhóm lợi ích phát triển nhanh nhất từ
những năm 1970 là các nhóm lợi ích công. Đây là những nhóm không ủng hộ
những lợi ích vật chất trực tiếp đối với thành viên của họ, mà bày tỏ những
quan tâm đối với các giá trị xã hội. Những nhóm lợi ích công đầu tiên được
hình thành từ các phong trào đòi quyền dân sự, quyền của phụ nữ và các phong
trào môi trường trong những năm 1960. Theo thời gian, những phong trào này
đã trải qua một quá trình phát triển, chuyển từ cách bày tỏ quan điểm trên
đường phố sang hành động có tổ chức trong hệ thống chính trị. Các nhóm còn
vận động cho những vấn đề mới như: quyền của người tàn tật, ngăn chặn lạm
dụng trẻ em hoặc bạo lực trong gia đình. Đây cũng là những nhóm ủng hộ
mạnh mẽ các chương trình làm lợi cho người nghèo.
Một số nhóm lợi ích được tổ chức trên cơ sở những mối quan tâm tôn
giáo, xã hội hay chính trị. Những nhóm như Liên đoàn thành thị, Hội nghị lãnh
đạo Cơ đốc giáo miền Nam tập trung vào các cử tri tôn giáo trong cộng đồng
người da màu mà họ là đại diện trên diễn đàn quốc gia. Nhóm Hoà bình Xanh
là một nhóm gồm những người hoạt động để bảo vệ môi trường. Một số nhóm
đại diện cho những người có chung chính kiến, chẳng hạn như nhóm Những
người theo cách Mỹ (People for the American Way), nhóm Sự nghiệp chung
(Common Cause) là những nhóm thúc đẩy việc cải cách hệ thống chính phủ do
hai đảng kiểm soát.
Hoạt động của các nhóm lợi ích:
Các nhóm lợi ích tham gia vào mọi loại hình và tất cả các giai đoạn của
hoạt động chính trị. Các hoạt động của nhóm lợi ích có thể chia ra làm 2 loại:
vận động hành lang và tham gia vào quá trình bầu cử.
Vận động hành lang:
Vận động hành lang là hoạt động của các cá nhân, hay các nhóm lợi ích
nhằm gây áp lực đối với chính phủ để chính phủ hành động theo ý muốn của
họ. Các nhóm vận động ngày nay duy trì đội ngũ chuyên vận động hành lang,
hoặc thuê các công ty chuyên nghiệp ở Washington để bảo vệ lợi ích của mình.
Theo luật vận động hành lang năm 1995, những người vận động hành lang
phải báo cáo ai đã trả tiền thuê họ, họ được trả bao nhiêu tiền và làm việc trên
những lĩnh vực nào. Biện pháp này đỏi hỏi 14.000 chuyên gia vận động hành
lang ở Washington phải đăng ký hành nghề với yêu cầu giới hạn việc quà cáp
và mời cơm các nghị sỹ của bất cứ nhà vận động hành lang nào xuống còn 100
USD/năm/ người.
Vận động trực tiếp thường diễn ra trong các uỷ ban của quốc hội và
trong các nhà lãnh đạo hành pháp. Đôi khi các quyết định thực sự của chính
phủ là do các nhà vận động hành lang, các quan chức hành chính và các uỷ ban
của quốc hội (cái gọi là tam giác sắt) đưa ra. Các nhà vận động hành lang cung
cấp thông tin về các ngành công nghiệp, hay về nhóm của họ cho các nghị sỹ
quốc hội và họ có thể tạo điều kiện cho những khách hàng của mình nói
chuyện trực tiếp với các nhà hoạch định chính sách. Kiến thức, các mối quan
hệ cá nhân, và sự có mặt thường xuyên tại các chuyến vận động gây quỹ, đã
đặt các nhà vận động hành lang vào một vị thế hết sức quan trọng.
Một dạng vận động hành lang gián tiếp khác là các nhóm lợi ích thuyết
phục các nhóm khác cùng tham gia vào một cuộc vận động. Họ sẽ thành lập
- Tải bản FULL (183 trang): https://bit.ly/3nwaYNz
- Dự phòng: https://bit.ly/3l68gwc
một liên minh bao gồm nhiều nhóm khác nhau cùng sử dụng một khẩu hiệu
hành động. Đôi khi các cuộc vận động nhằm gây ảnh hưởng đến chính kiến
của các nhà lãnh đạo địa phương.
Tham gia vào hoạt động bầu cử:
Các nhóm lợi ích tham gia vào các cuộc vận động bầu cử thông qua sự
giúp đỡ các đảng phái chính trị và các ứng cử viên tự do. Bằng cách góp tiền
cho một cuộc vận động chính trị, các nhóm lợi ích có thể ủng hộ một chính trị
gia - người có thể trước đây đã hỗ trợ các nhóm này, hoặc kỳ vọng ông ta sẽ
ủng hộ mình trong tương lai. Các nhóm có thể góp tiền ủng hộ đối thủ của một
chính trị gia nhằm trừng phạt người này do đã chống lại họ. Các nhóm thậm
chí có thể chơi trò “nước đôi” bằng cách giúp đỡ tài chính cho chiến dịch vận
động của cả hai ứng cử viên đang chạy đua với nhau.
Một thay đổi quan trọng trong vai trò của các nhóm lợi ích tại các cuộc
bầu cử là sự nổi lên của các Uỷ ban hành động chính trị (PAC). Các PAC là
những tổ chức do các nhóm tư nhân như các doanh nghiệp hay công đoàn lao
động thành lập nhằm gây ảnh hưởng đến quá trình chính trị thông qua việc gây
quỹ từ chính các thành viên của mình. Các tổ chức này không phải là hiện
tượng mới trong đời sống chính trị nước Mỹ. Sự mở rộng của các PAC thuộc
giới kinh doanh xuất hiện từ những năm cuối thập kỷ 70 như một kết quả ngoài
mong đợi của những chiến dịch vận động cải cách tài chính cho chiến dịch vận
động tranh cử. Những đạo luật này với sự hậu thuẫn của công đoàn, đã đặt ra
những giới hạn chặt chẽ đối với những món quà biếu xén cá nhân và công khai
cho công chúng được biết
2.4.3 Hệ thống bầu cử
Bầu cử ở Mỹ là thủ tục nhằm lựa chọn những người có cương vị lãnh
đạo quan trọng nhất của bộ máy ở các cấp, gồm những người đứng đầu cơ
quan thuộc bộ máy nhà nước từ cấp trung ương tới cấp địa phương.
Trong những năm đầu khi nước Mỹ mới được thành lập, bầu cử là đặc
quyền của những đàn ông da trắng, trưởng thành và có tài sản. Các đối tượng
như: phụ nữ, người da đen, người nghèo, những thổ dân da đỏ, không có quyền
bầu cử. Những hạn chế này dần dần bị vô hiệu hoá Đến năm 1920, khi điều
khoản sửa đổi thứ 19 của hiến pháp được thông qua và áp dụng trên phạm vi
toàn quốc, thì toàn bộ phụ nữ sống trên đất Mỹ mới chính thức được hưởng
quyền dân chủ nói trên.
Vào năm 1964, với điều khoản bổ sung thứ 24 được đưa vào hiến pháp,
thì những rào cản về thuế bầu cử vốn còn tồn tại ở một số bang miền Nam
trước đó đã bị dỡ bỏ. Các cử tri có quyền tham gia bầu cử mà không cần phải
đóng bất cứ một khoản gì.
Trước khi có điều khoản sửa đổi thứ 26 trong hiến pháp thông qua năm
1971, thì các công dân Mỹ từ 21 tuổi trở lên mới có quyền bầu cử. Quy định
này đã gạt ra khỏi đời sống chính trị một số lượng lớn thanh niên Mỹ. Sau sửa
đổi này, độ tuổi được phép đi bầu cử giảm xuống còn 18 tuổi.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là những điều kiện cần, chưa phải là điều kiện đủ.
Một công dân đủ tư cách ngoài những điều kiện về tuổi như đã trình bày ở
phần trên phải thường trú tại khu vực bầu cử ít nhất một tháng trước ngày bầu
cử tuỳ theo quy định của từng bang và phải đăng ký vào danh sách cử tri tại
khu vực bầu cử mà mình sẽ đi bầu.
Để đảm bảo cho nguyên tắc bình đẳng “mỗi người một phiếu” có chỗ
đứng vững chắc trong đời sống chính trị, năm 1964, toà án tối cao Mỹ đã đưa
ra một quy định theo đó số cử tri trong mỗi đơn vị bầu cử bầu các thành viên
hạ viện ở mỗi bang phải bằng nhau.
Không giống như một số nước phương Tây áp dụng chế độ bầu cử bắt
buộc, luật pháp Mỹ không có quy định buộc người dân phải thực hiện quyền
bầu cử của mình. Việc áp dụng nguyên tắc bầu cử tự do đã đưa đến một thực tế
là số cử tri tham gia bầu cử ở Mỹ thường thấp. Các số liệu nghiên cứu cho
thấy, tỷ lệ cử tri đi bầu trong các cuộc bầu cử tổng thống đã giảm mạnh trong
những năm từ 1960 đến 1988 (năm 1960 là 63% và năm 1988 là 50%). Đến
năm 1992, tỷ lệ này đã nhích lên một chút (55%), nhưng trong những cuộc bầu
cử tổng thống các năm 1996, 2000 và 2004 thì số cử tri đi bầu cũng chỉ duy trì
ở mức trên dưới 50 %.
Có thể nói, hệ thống luật pháp Mỹ hiện nay đã đảm bảo về mặt hình
thức quyền tham gia lựa chọn các nhân vật chủ chốt trong bộ máy nhà nước
của mọi người dân.
Bầu cử tổng thống:
Trong các cuộc đua thì cuộc chạy đua vào Nhà trắng giành chức vụ tổng
thống Mỹ là điển hình và quyết liệt nhất. Về thực chất đây là cuộc cạnh tranh
giữa hai đảng lớn là đảng Dân chủ và đảng Cộng hoà. Để giành được vị trí
quyền lực này, mỗi đảng đều xây dựng cho mình một cương lĩnh tranh cử, lựa
chọn ứng cử viên, tìm nguồn tài trợ cho chiến dịch vận động tranh cử.
Hiến pháp Mỹ quy định bầu cử tổng thống được tiến hành một cách gián
tiếp. Tổng thống không phải do người dân trực tiếp bầu ra, mà do cử tri đoàn
bỏ phiếu lựa chọn. Thành viên của cử tri đoàn được gọi là đại cử tri. Mỗi bang
có số đại cử tri bằng số thượng nghị sỹ và hạ nghị sỹ của bang đó cộng lại. Để
trở thành tổng thống, một ứng cử viên phải giành được ít nhất 270 phiếu của
cử tri đoàn. Theo quy định của hiến pháp, các đại cử tri không được là quan
chức của chính phủ hoặc nghị sỹ quốc hội, nhưng những người này lại mang
tính đảng phái rõ rệt. Hầu hết các đại cử tri phải cam kết bỏ phiếu cho đảng mà
họ đứng tên đại diện. Cũng đã có trường hợp các đại cử tri không thực hiện
cam kết, (điều này rất hiếm khi xảy ra), nhưng chưa bao giờ nó đủ sức nặng để
thay đổi kết quả của cuộc bầu cử. Do vậy, nhìn vào thành phần đại cử tri người
ta có thể biết trước được ứng cử viên nào sẽ trở thành tổng thống.
Về cơ bản, quá trình bầu cử tổng thống Mỹ trải qua ba giai đoạn.
Giai đoạn bầu cử sơ bộ: Cách thức cơ bản để lựa chọn ứng cử viên tổng
thống của một đảng thường được tiến hành thông qua các cuộc bầu cử sơ bộ.
Để được đề cử chính thức tại hội nghị đảng toàn quốc, một ứng cử viên tổng
thống phải giành được tối đa số phiếu bầu tại cuộc bầu cử sơ bộ. Hiện nay, hầu
hết các bang ở Mỹ đã tổ chức các cuộc bầu cử sơ bộ để lựa chọn ứng cử viên
tổng thống. Mục đích của các cuộc bầu cử sơ bộ là nhằm tìm hiểu mức độ ủng
hộ của cử tri đối với các ứng cử viên của đảng sẽ tham gia tranh cử trong cuộc
tổng tuyển cử.
Cuộc bầu cử sơ bộ thực sự là trận đấu đa phương giữa các ứng cử viên
trong cùng một đảng. Mỗi ứng cử viên cùng với những người ủng hộ ông ta
phải tích cực tiến hành vận động ở các bang để họ có thể có nhiều đại diện
nhất được bầu đi dự đại hội đảng toàn quốc. Người nào có nhiều đại diện ủng
hộ tại các bang lọt vào đoàn đại biểu đi dự hội nghị đảng toàn quốc, người đó
có nhiều khả năng được lựa chọn làm ứng cử viên duy nhất của đảng.
Cách thức tiến hành bầu cử sơ bộ của đảng Dân chủ và đảng Cộng hoà
cũng có những điểm khác biệt. Để củng cố tính thống nhất tổ chức đảng của
mình, đảng Dân chủ đã đưa ra các nguyên tắc bầu cử áp dụng trên phạm vi
toàn quốc. Đảng Dân chủ cũng yêu cầu 75% số đại biểu của mỗi bang phải
được bầu ở những khu vực bầu cử có dân số tương đương với khu vực bầu cử
quốc hội để tăng cường sự đại diện của các nhóm thiểu số.
Về mặt lý thuyết, quá trình đề cử ứng cử viên tổng thống thông qua các
cuộc bầu cử sơ bộ là một bước tiến trong quá trình dân chủ hoá đời sống chính
trị nước Mỹ. Nó đã tạo điều kiện cho đông đảo người dân tham gia vào một
trong những sự kiện quan trọng nhất của đời sống chính trị. Mặt khác, theo
cách này, các ứng cử viên cũng không còn phải phụ thuộc vào một nhóm nhỏ
các nhà lãnh đạo đảng, những người trước đây vốn giữ đặc quyền giới thiệu
ứng cử viên.
Giai đoạn hội nghị đảng toàn quốc: Người được chọn là ứng cử viên
tổng thống của đảng Dân chủ và đảng Cộng hoà phải giành được đa số tuyệt
đối phiếu bầu của những người tham dự hội nghị đảng. Nếu như vòng bỏ phiếu
đầu tiên không thành, các vòng bỏ phiếu tiếp theo sẽ được thực hiện cho đến
khi nào đạt kết quả mới thôi. Sau các vòng bỏ phiếu đầu tiên, các ứng cử viên
được ít phiếu thường được vận động rút khỏi danh sách để cho phiếu bầu được
tập trung. Bản thân hội nghị đảng toàn quốc hiện nay cũng ít ý nghĩa hơn so
với trước đây. Thực ra đây chỉ là cuộc họp để phê chuẩn những phán quyết của
các cuộc bầu cử sơ bộ. Ngoài việc chính thức đề cử các ứng cử viên tổng thống
và phó tổng thống, hội nghị cũng có nhiệm vụ thông qua cương lĩnh tranh cử
của đảng.
- Tải bản FULL (183 trang): https://bit.ly/3nwaYNz
- Dự phòng: https://bit.ly/3l68gwc
Ngay sau khi các ứng cử viên chính thức được đề cử thì cuộc vận động
tranh cử cũng thực sự bắt đầu. Lúc này, đối thủ của họ không phải là người
trong nội bộ đảng nữa, mà là đại diện của các đảng khác. Công việc quan trọng
trước tiên đối với ứng cử viên là phải thành lập một tổ chức vận động tranh cử
cho mình. Để giành chiến thắng trong bầu cử đòi hỏi các ứng cử viên phải
vạch ra được một chiến lược tranh cử rõ ràng. Đây là vấn đề có ý nghĩa then
chốt quyết định sự thành bại của chiến dịch.
Có thể nói, chiến dịch vận động tranh cử nhằm tạo cho người dân hình
ảnh một vị tổng thống tương lai đầy ấn tượng. Hàng loạt các tài liệu được in
ấn, các buổi phỏng vấn được đưa tin trên đài phát thanh và truyền hình, các bài
diễn văn được đọc ở khắp mọi nơi. Tất cả các động thái đó của các ứng cử viên
là nhằm gây ấn tượng mạnh với các cử tri với một thông điệp duy nhất: “Hãy
bỏ phiếu cho tôi!”.
Giai đoạn bầu tổng thống và phó tổng thống: Trong cuộc bầu cử tổng
thống, người dân Mỹ không trực tiếp lựa chọn người thắng cử. Thay vì lẽ đó,
họ bỏ phiếu bầu các đại cử tri và những người này sẽ thay măt họ bỏ phiếu bầu
tổng thống. Dựa trên nguyên tắc “người thắng được tất cả”, các ứng cử viên
của đảng nào thu được đa số tương đối phiếu bầu ở một bang sẽ giành được
toàn bộ số phiếu đại cử tri của bang đó.
Sau khi được bầu, các đại cử tri sẽ gặp nhau tại thủ phủ của bang mình
và chính thức bầu tổng thống vào một ngày đã định. Theo quy định, khi một
người được đề cử làm tổng thống thì anh ta cũng chọn một người làm phó tổng
thống cho mình. Cho nên khi bầu chức tổng thống đồng thời người ta bầu luôn
cả chức phó tổng thống. Kết quả bỏ phiếu được gửi đến Washington. Vào ngày
mùng 6 tháng Giêng của năm sau, tại phiên họp chung của quốc hội, dưới sự
chủ toạ của chủ tịch thượng viện, các phiếu bầu sẽ được mang ra đếm. Ứng cử
viên nào giành được đa số tuyệt đối phiếu bầu đại cử tri sẽ là người thắng cử.
Tuy nhiên, công đoạn này chỉ có tính hình thức, vì thực tế sau ngày tổng tuyển
cử, người ta chỉ cần đếm số đại cử tri của mỗi đảng là đã có thể xác định được
ai là tổng thống.
Với một hệ thống như vậy, về mặt lý thuyết, tổng thống có thể được bầu
với số phiếu phổ thông ít hơn đối thủ của mình. Thậm chí, tổng thống Mỹ chưa
chắc đã là đại diện cho đa số cử tri. Cuộc bầu cử tổng thống năm 2000 giữa
ứng cử viên George Bush của đảng Cộng hoà và Al Gore của đảng Dân chủ là
một ví dụ. Ứng cử viên Bush đã thắng cử với số phiếu phổ thông ít hơn đối thủ
của mình.
Bầu cử quốc hội:
Sau bầu cử tổng thống, bầu cử quốc hội là một sự kiện quan trọng thứ
hai do vai trò của cơ quan này trong quá trình hoạch định chính sách quốc gia.
Bầu cử quốc hội nhìn chung đơn giản hơn nhiều so với bầu cử tổng thống. Có
thể chia bầu cử quốc hội ra làm hai giai đoạn: giai đoạn bầu cử sơ bộ để lựa
chọn ứng cử viên của mỗi đảng và giai đoạn bầu chính thức quyết định người
thắng cuộc. Tuy nhiên, ở các cuộc bầu cử quốc hội, mỗi đại biểu chỉ phải tranh
cử trong khu vực bầu cử của mình, tại bang mình. Các cuộc bầu cử được quyết
định theo phương pháp đa số tương đối (The first past the post). Người trúng
cử là người giành được số phiếu cao hơn đối thủ của mình, kể cả trường hợp số
phiếu bầu không vượt quá 50%. Việc áp dụng phương pháp tính phiếu này
trong các đơn vị bầu cử một đại diện thường dẫn tới sự tồn tại của hệ thống hai
đảng. Các ứng cử viên độc lập hoặc ứng cử viên của các đảng thứ ba thường ít
có cơ hội thắng cử. Chính vì vậy, cách tốt nhất để một ứng cử viên có cơ hội
thắng cử là anh ta phải trở thành đảng viên của một trong hai đảng lớn. Trong
suốt tiến trình lịch sử nước Mỹ, hầu như chỉ có hai đảng Dân chủ và Cộng hoà
thay nhau nắm quyền.
Trong thời gian trước đây, các cuộc bầu cử quốc hội mang nặng tính
đảng, các ứng cử viên do ban lãnh đạo đảng quyết định. Công việc vận động
tranh cử cũng chủ yếu do các đảng đảm nhận. Ngày nay, người Mỹ ngày càng
có xu hướng đặt trọng tâm vào các ứng cử viên nhiều hơn là vào tổ chức đảng
trong các cuộc bầu cử. Những cuộc tranh luận của các ứng cử viên trên truyền
hình, những cuộc tiếp xúc, gặp gỡ, thư từ… và các khía cạnh khác của cuộc
bầu cử hiện đại đã làm cho cử tri ý thức rõ hơn về vai trò của các ứng cử viên
với tư cách cá nhân. Và kết quả là ngoài sự cân nhắc tính đảng của mình, cử tri
đã bắt đầu tính đến điểm yếu và điểm mạnh của từng ứng cử viên.
Một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định cho sự thành công của
một cuộc bầu cử là vận động tranh cử. Theo các chuyên gia trong lĩnh vực này
thì trở ngại lớn nhất trong các cuộc đua của các ứng cử viên vào quốc hội là
khả năng thanh toán cho những chi phí của cuộc vận động. Điều này đòi hỏi
những người tham gia phải có một khả năng tài chính dồi dào. Nếu không, mọi
cố gắng của họ có thể sẽ trở nên vô nghĩa.
Nhìn chung, hoạt động bầu cử ở Mỹ về hình thức là công việc lựa chọn
người đại diện cho người dân, nhưng về thực chất, đó là một cuộc đua giành
quyền lực giữa các đảng phái, các lực lượng xã hội, với sự tham gia, tác động
và ảnh hưởng của tất cả các thành tố trong hệ thống chính trị.
2.5. Hoạt động của HTCT
2.5.1. Hệ thống đảng phái
Trong nền chính trị Mỹ, các đảng phái chính trị có một vai trò đặc biệt
quan trọng. Các đảng không chỉ cung cấp ứng cử viên cho các cuộc bầu cử, mà
còn có ảnh hưởng về tổ chức, về các quyết định của đảng trong cơ quan lập
pháp. So với các nền dân chủ phương Tây khác, hệ thống đảng phái ở Mỹ cũng
có những điểm khác biệt đáng kể.
- Các đảng chính trị ở Mỹ thực chất chỉ là những đảng bầu cử: Đó là
những liên minh rộng lớn, lỏng lẻo và không có một chương trình nhất quán.
Cứ bốn năm một lần, vào dịp chuẩn bị bầu cử tổng thống, các đảng lại thông
qua quan điểm chung về chương trình trong hội nghị đề cử ứng cử viên tổng
thống. Thông thường, các đảng chính trị Mỹ quan tâm hàng đầu tới việc phải
chiến thắng trong các cuộc bầu cử và giành được các vị trí trong chính phủ.
Chính vì vậy, cả hai đảng cầm quyền không tìm cách nhấn vào sự khác biệt
trong chính sách, không đại diện cho các giá trị khác nhau, bởi điều này có thể
gây khó khăn cho bản thân các đảng, làm chia rẽ và xói mòn sự đoàn kết bề
ngoài của liên minh rộng lớn, đa thành phần của các đảng. Nguyên nhân của
tình trạng này là do Mỹ là một quốc gia rộng lớn và hết sức đa dạng, nên để
3477426

You might also like