Professional Documents
Culture Documents
Bài viết này nhằm xem xét một vấn đề chính: các đảng chính trị cầm quyền lãnh đạo
nhà nước như thế nào trong nhà nước pháp quyền phương Tây. Sự nan giải tổng quát của lựa
chọn cách tiếp cận có thể thấy rõ khi đặt câu hỏi “lãnh đạo là nghệ thuật hay là khoa học?”.
Nếu là “nghệ thuật” thì cái đặc thù [cá nhân người lãnh đạo] sẽ là nhân tố chính trong sự lãnh
đạo. Mặc dù, không ai phủ nhận tính khoa học trong sự lãnh đạo, việc luôn tính đến “tính
nghệ thuật” (tức các nhân tố có tính chủ quan của cá nhân, nhóm cá nhân lãnh đạo một đảng)
trong nghiên cứu này là cần thiết, để hạn chế các kết luận có thể thái quá về “các qui luật
thép có tính khách quan” trong lĩnh vực chính trị nói riêng, và ngay cả trong mọi lĩnh vực
hoạt động xã hội nói chung.
Ở đây có 3 khái niệm trung tâm cần đề cập ngắn gọn trước khi được dùng xuyên suốt
trong bài này: i) "nhà nước pháp quyền", ii) "đảng cầm quyền", và ii) "sự lãnh đạo".
Các nhà nước pháp quyền phương Tây được xây dựng trên cơ sở lấy hiến pháp (cũng
như các đạo luật hợp hiến khác) làm quy tắc hành xử chính trị tối cao. Vấn đề pháp quyền
và dân chủ, tuy là hai vấn đề khác nhau, thường lại hay được xem xét cùng nhau và nếu
không cẩn thận, dễ bị đồng nhất hoá một cách vô thức, như đã thấy trong nhiều nghiên cứu ở
ta hiện nay. Pháp quyền là vấn đề về hình thức tổ chức nhà nước. Hình thức này có thể
dùng để chuyển tải nội dung dân chủ hay cũng có thể phản dân chủ.
Hiến pháp các nước phát triển phương Tây thông thường được xây dựng trên nguyên
tắc tam quyền phân lập, và vì vậy, các quyền lập pháp, hành pháp, và tư pháp có tính độc lập
tương đối cao hơn so với các nước không theo nguyên tắc này. Mức độ độc lập này khác
nhau ở các thiết kế HTCT khác nhau, cũng như phụ thuộc vào văn hoá chính trị, thủ lĩnh
chính trị v.v. Trong sách báo nước ta, đảng cầm quyền (ở các nước phương Tây) được sử
dụng theo cả 2 nghĩa: i) đảng thắng cử ở cuộc bầu cử quốc hội (nắm quyền lập pháp) và ii)
đảng thắng cử trong bầu cử tổng thống (nắm quyền hành pháp). Trong bài này, đảng cầm
quyền được dùng với nghĩa thứ hai - tức là đảng nắm quyền hành pháp (thủ tướng, tổng
thống, thống chế .v.v.). Trong các chế độ nghị viện thì nghĩa 1 cũng trùng với nghĩa 2 vì
đảng thắng cử ở quốc hội sẽ thường nắm luôn chức thủ tướng, trừ một số trường hợp đặc
biệt.
Nội hàm chính của sự lãnh đạo ở đây được hiểu là phương thức đạt được các mục tiêu
chính trị - kinh tế - xã hội thông qua việc biến cương lĩnh, đường lối, chính sách của đảng
thành chính sách của nhà nước. Cách tiếp cận này lấy nội dung làm trọng tâm, và vì vậy,
một đảng có thể lãnh đạo (về hình thức) vẫn có thể là bị lãnh đạo (về nội dung) vì bị chi phối
bởi các thế lực chính trị ngoài đảng khác hay một nhóm đảng viên biến chất (Trường hợp
Liên xô?). Cần phải nói ngay rằng, vấn đề "đảng lãnh đạo nhà nước" hầu như vắng bóng
trong sách báo phương Tây do đặc điểm thiết kế hệ thống chính trị ở đó. Tuy nhiên, nội hàm
của sự lãnh đạo này, như trên đã đề cập, chắc chắn là một vấn đề nghiên cứu lớn dù có thể ẩn
giấu dưới các ngôn từ khác nhau. Các nghiên cứu về đảng chính trị ở phương Tây thông
thường nghiên cứu 3 khía cạnh chính (do nhận thức về 3 chức năng chính của đảng chính trị)
: đảng trong tổ chức lực lượng chính trị, đảng trong bầu cử, và đảng trong chính phủ. Chủ đề
thứ 3 “đảng trong chính phủ” là gần nhất với mục đích của bài này nhưng lại mang những
nội dung rất khác vì các điều kiện và môi trường về lịch sử, văn hóa, pháp lý, thể chế chính
trị của HTCT tại các nước phương Tây. (Xem chương 8 trong Schmidt, 2000). Phần lớn các
nghiên cứu về đảng chính trị này đều tập trung vào chủ đề thứ hai - cũng là mục đích chính
của mọi đảng, đó là “làm thế nào để nhận được nhiều phiếu bầu nhất”.
Như sẽ phân tích, không dễ dàng chỉ ra các hình thức, hay biện pháp cụ thể của sự lãnh
đạo của đảng cầm quyền đối với nhà nước. Một trong các lí do đó là sự đánh đồng giữa “ý
chí chung của đảng” (rất khó xác định như phần lịch sử phát triển của đảng chính trị sẽ đề
cập) với “ý chí của nhóm” các đảng viên cao cấp, đang giữ các cương vị quan trọng trong bộ
máy hành pháp. Khi đó sự lãnh đạo của đảng là mặc nhiên vì việc các đảng viên của đảng
đang nắm giữ các cương vị trọng yếu đó được coi là điều kiện đủ. Điều này sẽ không nhất
thiết đúng, đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi các đảng chính trị ở phương Tây chủ yếu là
các đảng mở, và các đảng viên lãnh đạo (đặc biệt ở Mỹ) ngày càng dựa ít hơn vào đảng để
thắng cử. Điều đó cho thấy không những ý chí chung của đảng (mà nhiều khi không thể xác
định được rõ ràng) có ảnh hưởng ngày càng giảm đối với các đảng viên lãnh đạo, mà ngay
bản thân khái niệm “ đảng chính trị” đã có những biến chuyển quan trọng, và cũng cần nhận
thức lại. Các trường hợp các thượng nghị sỹ Mỹ, Úc, Anh v.v sẵn sàng từ bỏ đảng của mình
khi bất đồng chính kiến cá nhân với lãnh đạo đảng (tranh cử với tư cách cá nhân trung lập),
hay các cuộc bỏ phiếu chéo (các nghị sỹ đảng này bỏ phiếu cho chính sách của đảng kia) là
các quan sát minh chứng cho sự lỏng lẻo trên. Do vậy, việc nhìn nhận lại lịch sử các đảng
chính trị và nhà nước pháp quyền từ góc độ nghiên cứu về sự lãnh đạo của đảng là cần thiết.
Nếu không, các cơ chế lãnh đạo sẽ khó có thể gọi là “cơ chế” theo nguyên nghĩa vì nó không
mang tính cụ thể, xác định, mà phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện cụ thể của quốc gia đó
từ thiết kế hệ thống chính trị, văn hoá chính trị, tổ chức đảng, kỷ luật đảng v.v.
Để phân tích vấn đề trên, bài này sẽ được trình bày làm 3 phần chính. Hai phần đầu đề
cập hai phạm trù chính (đảng chính trị và nhà nước pháp quyền), cũng như các khái niệm và
cách tiếp cần được sử dụng để phân tích trong bài này. Phần 3 cố gắng khái quát các cách
thức mà đảng cầm quyền thực thi các mục tiêu của mình khi kiểm soát chính phủ (đảng cầm
quyền), đi sâu vào các yếu tố ảnh hưởng đến sự lãnh đạo của đảng. Phần kết luận tóm tắt các
kết quả phân tích.
2
Tuy nhiên, sự khái quát như vậy là có ích vì các nước này đã thể hiện được tính ổn
định chính trị và hiệu quả điều hành nhà nước trong thời gian dài, và vì vậy kinh nghiệm của
họ là có ý nghĩa và cần nghiên cứu. Hơn nữa, Mỹ và châu Âu là hai nơi có nền dân chủ tư
sản lâu đời nhất. Sự đa dạng cả theo thời gian và không gian của chính trị các khu vực này
cũng như sự sẵn có dữ liẹu cho sự nghiên cứu của chúng khiến các nghiên cứu tập trung vào
khu vực này.
Sự phát triển về cơ sở ủng hộ, như trên đề cập, tất nhiên không thay đổi bản chất giai
cấp của một đảng, nhưng ít nhất cũng thay đổi phạm vi và tính chất của các hình thức biểu
hiện bản chất đó theo hướng ngày càng tinh vi hơn. Trong xã hội hiện đại, vì quyền lực
chính trị của một giai cấp chỉ có thể thực hiện được dưới cái vỏ bọc là quyền lực công cộng -
quyền lực nhà nước, mà sự giành quyền lực này là chủ yếu thông qua bầu cử, thì những sự
thay đổi này cũng đã có những hệ quả quan trọng. Các thiết kế hệ thống chính trị, đặc biệt
là về 3 tiẻu hệ thống bầu cử, phân quyền, và phân cấp, đã có những tác động quan trọng lên
hệ thống đảng chính trị, cũng như bản thân sự phát triển nội tại của từng chính đảng. Và
điều này cũng qui định các đặc điểm trong phương thức lãnh đạo của đảng trong mỗi quốc
gia như sẽ được đề cập ở phần 3 bài này.
3
cần thiết tìm kiếm liên minh cầm quyền giữa các đảng này, mà mẫu số chung của chúng cuối
cùng cũng qui về ý thức hệ, quan điểm chính trị, phát triển xã hội, quyền lợi giai cấp, nhóm
v.v.
4
II.2 Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền
Trải qua nhiều thế kỷ, tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã có những phát triển lớn và
nhận được sự đồng thuận ngày càng cao trên thế giới. Vậy, những đặc trưng nào, hay các
tiêu chí nào được dùng để xem xét tính pháp quyền của một nhà nước? Điều này liên quan
trực tiếp đến đối tượng nghiên cứu của bài này vì vậy được xem xét kỹ lưỡng hơn trong phần
này. Hiển nhiên, sẽ có nhiều cách chọn lọc ra các tiêu chí như vậy, và khái quát dưới đây
cũng chỉ là một trong nhiều cách. Cách khái quát trong bài này có mục tiêu là làm rõ các
khía cạnh có ảnh hưởng quan trọng đến phương thức lãnh đạo của một đảng cầm quyền đối
với một nhà nước sẽ phát triển theo hướng pháp quyền và dân chủ XHCN (của dân, do dân,
vì dân) như Đảng ta đã xác định.
5
khen thưởng và kỷ luật, qui định về ứng xử, đạo đức hay thông qua các bỏ phiếu bất tín
nhiệm của quốc hội, nghị viện.
Mặc dù có vẻ hiển nhiên, không phải nhà nước nào cũng thực hiện được khả năng qui
trách nhiệm. Lý do căn bản của điều này không chỉ nằm trong khuynh hướng tự nhiên của
chủ thể cầm quyền (ai cũng muốn có nhiều quyền nhất, và ít phải chịu trách nhiệm nhất), mà
ngay ở trong tính phức tạp của việc qui trách nhiệm, vì luật pháp thường không thể quá chi
tiết để có thể bao quát được toàn bộ phạm vi cũng như mức độ của việc chịu trách nhiệm.
Hơn thế nữa, bản thân việc qui trách nhiệm, trong khi nâng cao tinh thần trách nhiệm lại có
thể làm giảm tính sáng tạo và chủ động của các nhà lãnh đạo vì sợ "sai lầm không thể cứu
vãn" trong nhiệm kỳ của mình.
Tóm lại, một cơ chế để có thể qui trách nhiệm đối với những nhà lãnh đạo chính trị bao
giờ cũng được thiết kế trong các luật căn bản của nhà nước pháp quyền (hiến pháp)
III -Cơ chế lãnh đạo của Đảng cầm quyền tại một số nước TBCN
Để khái quát phương thức lãnh đạo phần sau đây sẽ xuất phát từ một số đặc điểm
chung của hệ thống chính trị các nước tư bản phát triển phương Tây như đã xem xét ở các
phần trên:
1) Hiến pháp và pháp luật có các qui định tương đối rõ ràng về phân quyền giữa các
ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp, và vì vậy, chính đảng nắm quyền hành pháp không
nhất thiết kiểm soát ngành lập pháp và tư pháp. Việc lãnh đạo chính trị như vậy có thể qui về
lãnh đạo 3 nhánh quyền lực căn bản này.
2) Mặc dù có nhiều hình thức, hai hình thức chính của HTCT phương Tây vẫn là tổng
thống (presidential system) và đại nghị (nghị viện - parliamentary system), mặc dù trong
những năm gần đây, khuynh hướng theo HTCT kiểu hỗn hợp (mixed system, như tại Pháp)
đang xuất hiện do các lo ngại về tập trung quyền lực. Trong hai hệ thống này, đảng cầm
quyền sẽ gặp các vấn đề khác nhau và vì vậy sự lãnh đạo cũng khác nhau và đòi hỏi các điều
6
kiện khác nhau.
3) Từ quan điểm Mác xít, các đảng chính trị tư sản có quan điểm giống nhau trên các
vấn đề căn bản (đặc biệt là trong thiết kế HTCT - theo nguyên tắc pháp quyền tư sản mà gốc
là tam quyền phân lập + sở hữu tư bản tư nhân), và vì vậy sự lãnh đạo sẽ nhằm vào các lĩnh
vực khác nhau không căn bản (vì phần căn bản đã được đưa thành thiết kế hệ thống). Hay
nói cách khác, sự cạnh tranh về tính chính đáng của cầm quyền sẽ diễn ra trong những vấn
đề ít mang tính hệ tư tưởng, mà là về hiệu quả, hiệu lực của việc triển khai hệ tư tưởng đó
với một hệ thống tiêu chí tương đối rõ về kinh tê - xã hội - quốc phòng - đối ngoại. Trong
các “vấn đề căn bản” có hai nguyên tắc quan trọng mà HTCT các nước phương Tây (đặc
biệt là Tây Âu và Anh-Mỹ) đưa vào thiết kế (đồng thời cũng là hệ quả của sự tuyên truyền
cho chúng) là i) tính tuân thủ của quân đội đối với chính quyền (bất kể đảng nào cầm quyền).
Thường được gọi là tính trung lập đảng phái của bộ máy vũ trang; và ii) Tính tối cao của các
cơ quan dân cử (nghị viện, chính phủ v.v.). Hay nói cách khác, quyền lực chính là sự ủy
quyền. Do vậy, lấy Anh làm ví dụ, Nữ hoàng mặc dù có những quyền lực trên giấy tờ rất
lớn, nhưng luôn phải theo Hạ viện (“phải” phê chuẩn các đạo luật của Hạ viện) vì nữ hoàng
không được dân ủy quyền.
Như vậy, việc xem xét sự lãnh đạo của các đảng cầm quyền được đặt trong môi trường
thể chế - pháp lý -văn hoá cụ thể, và bị các yếu tố này chi phối. Hệ quả cốt lõi của cách xem
xét này chính là để thực hiện những lợi ích tư (nhóm, giai cấp, tầng lớp v.v ) đảng cầm
quyền phải nhân danh quyền lực công (nhà nước), và vì vậy cũng phải tuân thủ các qui đinh,
thủ tục, luật lệ chung trong hoạt động chính trị. Tất nhiên, đảng cũng ảnh hưởng đến môi
trường thể chế pháp lý đó về mặt dài hạn, tuy nhiên đây là vấn đề rộng hơn vì có liên quan
đến các lý thuyết về phát triển xã hội, cũng như các điều kiện lịch sử, tự nhiên, văn hoá, v.v.
Việc đấu tranh để đưa hệ tư tưởng của đảng mình thành các qui định pháp lý (đặc biệt là hiến
pháp và luật về các quyền), mặc dù là quá trình quan trọng và dài lâu, vì vậy sẽ không được
xem xét chi tiết trong bài này.
Một điểm có thể thấy rõ là khi một đảng trở thành đảng cầm quyền thì các đảng viên
chủ chốt của đảng được bổ nhiệm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy hành pháp, đặc biệt
là các thành viên nội các. Tại Mỹ, đảng thắng cử có thể bổ nhiệm tới 3000 chức vụ chính
trị. Ngay ở cấp bộ, đảng thắng cử cũng có thể bổ nhiệm tới 100 chức vụ bộ, thứ trưởng
(thành viên nội các và các chức phó), đặc biệt là ở các nước theo chế độ nghị viện như Anh,
vì đảng thắng cử ở Hạ viện đồng thời cũng nắm quyền thành lập chính phủ, các đảng viên
của đảng cầm quyền đồng thời cũng nắm các chức vụ quan trọng của ngành lập pháp (trong
hạ viện).
Như vậy, việc lãnh đạo của đảng cầm quyền sẽ qui về vấn đề căn bản là thể chế hoá
các chính sách của mình và thực hiện chúng. Điều này trong thực tế liên quan chủ yếu đến
hai ngành: hành pháp và lập pháp. Trong hệ thống theo kiểu nghị viện và hai đảng nổi trội,
đảng kiểm soát chính phủ đồng thời cũng chiếm đa số trong nghị viện (hạ viện). Điều này
chưa chắc đã đúng trong hệ thống tổng thống (Mỹ) hoặc trong hệ thống nhiều đảng (Ý).
Từ các phân tích này, phương thức lãnh đạo không chỉ đơn thuần là sự bổ nhiệm các
đảng viên của mình vào các chức vụ nhà nước, mà rộng hơn, phương thức này còn bao gồm
các công cụ, biện pháp để đảm bảo các đảng viên, trước hết là nhóm lãnh đạo, tức các đảng
viên - quan chức nhà nước, hành động theo định hướng của đảng.
Tập hợp và tính chất của các công cụ như vậy sẽ khác nhau do các yếu tố thiết kế hệ
thống chính trị, văn hoá chính trị, lịch sử v.v. chi phối. Việc xem xét mối liên hệ giữa các
yếu tố này với sự lãnh đạo của đảng sẽ có thể có ích cho chúng ta trong việc thiết kế các qui
định luật pháp (trong điều kiện "nhà nước pháp quyền XHCN") và phương thức lãnh đạo của
đảng đối với nhà nước đó (đảm bảo được mục đích "của dân, do dân, vì dân").
Do các lý do trên, phần chính của mục này sẽ xem xét các yếu tố ảnh hưởng quan trọng
đến phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền. Tuy nhiên, ngay từ bây giờ có thể nói, các
đảng ở phương Tây có ảnh hưởng tương đối hạn chế đối với các đảng viên - công chức của
mình (Ít nhất từ tính chất "mở" của đa số các đảng chính trị phương Tây hiện nay). Thông
7
thường, đảng chỉ đưa ra các đường lối khá chung chung và ít có các qui định hữu hiệu để
kiểm soát việc thực hiện đường lối đó. Điều này có lý do một phần quan trọng từ tư cách
nhị nguyên của đảng viên-công chức. Một mặt, họ phải đại diện cho khu vực bầu cử của họ,
mặt khác họ đại diện cho đảng, mà quyền lợi của hai đối tượng này lại khác nhau. Sự dung
hoà để đạt được điểm tối ưu sẽ phụ thuộc vào cá nhân cụ thể rất nhiều.
8
con đường chính trị và vì vậy lợi ích dài hạn luôn được xem xét kỹ. Tại Anh, các hành động
đi ngược lại với chủ trương của đảng, mặc dù là có thể trong ngắn hạn, luôn chịu các tổn thất
lớn về dài hạn do tính tổ chức và kỷ luật đảng cao hơn ở Mỹ. Ngay cả thủ tướng Anh cũng
phải tìm kiếm sự đồng thuận của các bộ trưởng trong nội các, trước khi đem ra quốc hội xem
xét. (Thatcher mất ghế thủ tướng là do bầu cử trong đảng).
Tuy nhiên, cũng cần thấy khuynh hướng ngày càng cá nhân hóa các ứng cử viên của
đảng như trên đã nói, cũng như do đảng ngày càng ít quan trọng về mặt tài chính đối với họ
(sẽ phân tích trong phần III.2), vai trò tổ chức - kỷ luật trong sự lãnh đạo của đảng ngày càng
giảm đi (như trường hợp nhà tỉ phú R. Perot ra tranh cử độc lập, phi đảng phái năm 1992.
Mặc dù ông này cũng phải thành lập đảng của mình sau đó, nhưng kết quả cuộc bầu cử tổng
thống năm 1992 đã khiến giới nghiên cứu phương Tây phải xem xét lại một loạt các kết luận
về vai trò đảng chính trị.)
9
thức tự giác chấp hành của các đảng viên-quan chức. Tuy nhiên, công tác này không thấy ở
phương Tây dưới các hình thức cụ thể như chúng ta biết và quan niệm ở các nước XHCN,
đặc biệt là do các hình thức kiểm soát về ngôn luận không chặt. Tuy nhiên, điều này có lẽ
cần được hiểu là công tác này được tiến hành tinh vi và núp dưới bóng của một hệ thống
quan niệm, giá trị của xã hội (chứ không còn của một đảng hay giai cấp), kết quả của một
quá trình tiến hóa lâu dài, và đặc biệt là thông qua sự kiểm soát bằng tài chính của giai cấp tư
sản đối với các phương tiện truyền thông đại chúng như đã đề cập.
Trong các nghiên cứu hành vi đảng chính trị ở phương Tây, tư tưởng (hay hệ tư tưởng)
vì vậy thường được coi là biến số độc lập, không phụ thuộc [ngay lập tức] vào hoạt động của
đảng. Ngay cả trong dài hạn, hệ tư tưởng sẽ phát triển không phụ thuộc nhiều vào ý chí cá
nhân hay của một nhóm (dù là nhóm lãnh đạo cao nhất) của một đảng.
Các đảng chủ yếu của các nước phương Tây hiện nay thường ít mang tính hệ tư tưởng,
ít nhất là trong sự thể hiện bằng văn bản. Ngay cả Công đảng của Anh (hay nhiều đảng cánh
tả khác ở châu Âu), dù được đánh giá là tương đối nặng về hệ tư tưởng nhưng vẫn phải được
coi như là một đảng theo chủ nghĩa thực dụng, giống như nhiều đảng ở các nước phát triển
khác, nơi mà các tranh luận mang tính hệ tư tưởng thường không có tính quyết liệt (CNTB,
kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền cũng như nhiều yếu tố căn bản khác được coi là tự
nhiên). Điều này được thể hiện ở sự ít khác biệt về cơ bản giữa các đảng trong chương trình
tranh cử. (Chỉ có các đảng trung tả và trung hữu là tồn tại lâu dài. Các đảng cấp tiến thậm
chí có thể bị pháp luật cấm đoán hoặc tẩy chay, như phát triển chính trị tại Áo, hay Pháp gần
đây).
Trong vấn đề này, việc nắm các phương tiện thông tin đại chúng đóng vai trò quan
trọng, vì về mặt dài hạn, với trình độ dân trí cao, việc kiểm soát thông tin cũng chính là kiểm
soát sự diễn giải và vì vậy kiểm soát ý thức hệ một cách vô thức. Việc kiểm soát các nguồn
thông tin và ý kiến thông qua chi phí cao của các phương tiện thông tin đại chúng là hiện
tượng nổi bật ở các nước phương Tây. Đây cũng là một ví dụ cho sự dân chủ và công bằng
về hình thức trong khi về thực chất là mất dân chủ.
Vấn đề này cũng cần có những nghiên cứu sâu hơn, vì ngay cả ở Anh, khi nền kinh tế
trì trệ một thời gian dài vào những năm 1970, hay ở Mỹ khi các vấn đề xã hội ngày càng nổi
cộm, các sức ép về thay đổi các quan điểm cơ bản của hệ tư tưởng là không có. Do đó, tính
mặc nhiên của cả ý thức hệ còn liên quan đến cả tiến trình lịch sử lẫn văn hoá của nước đó,
và đặc biệt là các thành tựu kinh tế, chứ không đơn thuần là kết quả của các giáo dục chính
trị dưới mọi hình thức.
10
các đảng chính trị ở các nước phương Tây cũng như bởi khuynh hướng “chia đôi quyền lực”
của người dân (“ticket splitting”), đặc biệt ở các nước theo hệ thống tổng thống như Mỹ, khi
người dân bỏ phiếu cho đảng này trong cuộc bầu tổng thống nhưng lại bỏ phiếu cho đảng đối
lập trong bầu cử nghị viện. Lý do chính ở đây là với sự chia sẻ và đối trọng quyền lực, các
chính sách sẽ phải hướng tới tính tối ưu về kỹ thuật như một tiêu chí chứng minh sự nổi trội
của mỗi đảng. Trong cuộc thăm dò của Tạp chí phố Wall năm 1998, có tới 65% dân Mỹ
muốn chia đôi quyền lực như vậy cho 2 đảng. Trên thực tế, tình trạng này cũng đã tồn tại
suốt thời B. Clin-tơn. Trong các hệ thống đại nghị lưỡng viện, khuynh hướng “chia đôi
quyền lực” thể hiện ở việc bỏ phiếu cho 2 đảng khác nhau tại hai viện. Như ở Australia, là
nước có thượng viện thực quyền mạnh nhất trong các nước theo chế độ đại nghị, đảng chiếm
đa số ở hạ viện lại không chiếm đa số trong thượng viện và vì vậy không kiểm soát được
toàn bộ quá trình ra chính sách.
IV -Các suy nghĩ và Kết luận trong điều kiện nước ta hiện nay
Do không có điều kiện nghiên cứu thực chứng, các phân tích trong bài này cũng cần
được xem xét một cách thận trọng, đặc biệt là sự không tương ứng giữa hình thức và các
hoạt động thực chất của các quá trình chính trị (Vấn đề mà chúng ta thường gọi là "tể tướng
áo xám" – tức tể tướng nhưng có quyền lực thực sự hơn cả vua). Tuy nhiên, có thể rút ra
mấy kết luận bước đầu:
Điều quan trọng trong giai đoạn hiện nay của nước ta là không được đánh đồng giữa
nhà nước pháp quyền và tính dân chủ [tư sản]. Nói cách khác, với hình thức nhà nước pháp
quyền có thể và cần phải truyển tải nội dung dân chủ XHCN của Việt nam. Từ phân tích
kinh nghiệm các nước phương Tây, có thể thấy các yếu tố trọng yếu nhất trong đảm bảo sự
lãnh đạo của đảng có thể qui thành hai nhóm: 1) nhóm tư tưởng; và 2) nhóm thể chế.
Về nhóm thứ nhất, đây là nhóm các yếu tố có tính dài hạn, phải thông qua giáo dục và
bằng các thành quả thực tế để chứng minh được rằng sự lãnh đạo của đảng là cần thiết và
đúng đắn. Nếu không chống được tham nhũng, không phát triển được kinh tế, không quản lý
được đời sống xã hội v.v. thì không thể thuyết phục được nhân dân, làm sa sút uy tín của
đảng và càng khó huy động được nội lực của chúng ta. Trong khoa học chính trị, ngoài khía
cạnh hiệu lực, hợp hiến của quyền lực, còn có một khía cạnh được gọi là “tính chính đáng”
của quyền lực và của sự lãnh đạo nói chung. Quyền lực của một người (hay tổ chức) nếu
được coi là chính đáng, thì sự lãnh đạo sẽ rất thuận lợi, sự cần thiết của bộ máy kiêm tra,
giám sát và cưỡng chế được giảm đến tối thiểu, và hơn thế nữa, sự tự nguyện sẽ nâng cao
hiệu quả và hiệu lực của sự lãnh đạo.
Sự lãnh đạo chính là sự thể chế hoá và triển khai chính sách, quan điểm, đường lối của
đảng. Điều này liên quan đến cách nhìn thực chứng, (vai trò của các sự kiện có thể quan sát
được là lớn trong sự đánh giá - triết học thực dụng), mà trong điều kiện của ta là lấy các số
liệu và sự kiện thực tế chứ không phải lấy các hứa hẹn hay lời tuyên bố làm tiêu chí đánh giá
sự lãnh đạo.
Sự lãnh đạo của đảng tập trung vào sự lãnh đạo của các cá nhân chủ chốt, tầng lớp tinh
hoa của đảng. Các hình thức lãnh đạo phát triển theo hướng có tính gián tiếp (phi mệnh
lệnh) và có hình thức hợp lý và dân chủ cao. Điều này đôi khi che khuất các nội dung thực
của cả tính dân chủ lẫn sự hợp lý và đối lập chúng một cách siêu hình. Việc phát triển nhà
nước pháp quyền rõ ràng là đi theo hướng nhấn mạnh hình thức (thể chế, luật pháp, qui
định...), điều này là tốt, nếu nhấn đúng mức độ và lấy nội dung làm xuất phát điểm. Lập
luận này có cơ sở thực tế từ lịch sử phát triển của các nước phương Tây, vì rất dễ đi tới thái
cực "hình thức dân chủ chính là dân chủ, vì không thể quan sát được dân chủ bên ngoài các
hình thức của nó". Đây là quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu có cái nhìn tương đối tiêu
cực đối với các nhà chính trị, vì đối với họ, phần lớn các tuyên bố của các nhà chính trị đều
là mỵ dân, và đạo đức giả. Do vậy, bất kể tuyên bố, điều quan trọng cốt yếu của nền dân chủ
là tuân thủ "luật chơi dân chủ". Điều này, trong khi có sự hợp lý, và cơ sở thực tế nhất đinh
nhưng nếu không đi kèm với sự chú trọng về thực chất sẽ dẫn đến các vấn đề lớn về dân chủ
11
(Theo nhận xét của một nhà khoa học Mỹ thì chính Mỹ có thể là nước mất tự do ngôn luận
nhất về thực chất, vì chỉ có những người giầu mới có khả năng "ngôn luận" thực sự, do giá
cả quá cao của các phương tiện thông tin đại chúng.). Ngoài ra, do chú trọng đến hình thức,
hệ thông qui định luật pháp sẽ ngày càng phức tạp và chi tiết, để có thể bao quát được mọi
hoạt động của cuộc sống. Khuynh hướng này đặc biệt nổi rõ ở Mỹ, nơi mà số lượng của các
qui định luật pháp có thể đã vượt xa mức hợp lý.
Các công cụ lãnh đạo cũng có thể được qui về 3 phạm trù chính: tổ chức -kỷ luật, tài
chính, và kỹ trị. Cả ba kênh này cũng đều được thể chế hoá cao độ dưới các hình thức ổn
định trong bối cảnh sự thống trị của một hệ tư tưởng chủ đạo. Nội dung, vai trò của các công
cụ lãnh đạo sẽ bị ảnh hưởng rất lớn của thiết kế HTCT đặc biệt là hệ thống bầu cử, phân
quyền, phân cấp, cũng như các yếu tố về văn hoá và lịch sử chính trị khác.
12
Tài liệu tham khảo chính
Dye, T. và Zeigler, H., 1987. The Irony of Democracy, Brooks/Cole, CA.
Encyclopaedia Britannica, Inc., 1997. Britannica CD. Version 97.
Finifter, A.W. (Chủ biên), 1993. Political Science: The State of the Discipline, APSA,
Washington D.C.
Kavanagh, D., 1996. British Politics, OUP, NewYork.
Macridis R. C. và Burg S. L., 1991. Introduction to Comparative Politics, Harper
Collins, New York.
Ngô Đức Tính (chủ biên), 1999. Một số đảng chính trị trên thế giới, NXB Chính trị
quốc gia, Hà nội.
Nguyễn Đức Bình và nhiều tác giả, 1999. Đổi mới và Tăng cường Hệ thống Chính trị
nước ta trong giai đọan mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội.
Theen R. H. W. và Wilson F. L., 1992. Comparative Politics: An Introduction to Seven
Countries, Prentice Hall, New Jersey.
Thesing, J., và Hofmeister, W. (Chủ biên), 1995. Political Parties in Democracy, Sant
Augustin.
Roth, D. F., và Wilson F. L., 1980. The Comparative Study of Politics, Prentice Hall,
New Jersey.
Sullivan, M. J., 1996. Comparing State Polities: A Framework for Analyzing 100
Governments, Greenwood Press, Westport.
Schmidt S. W., Shelley M.C, Bardes B. A., 2000. American Government and Politics
Today, 1999-2000 edition, Wadsworth, New York.
Văn kiện Đại hội Đảng tòan quốc lần thứ IX, 2001.
13