« Home « Kết quả tìm kiếm

Phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận


Tóm tắt Xem thử

- Phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá – Huy CậnLê Quý Đôn từng cho rằng: “Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt không có cảnhnúi sông kì lạ của thiên hạ thì không thể làm thơ được.” Nhưng có lẽ, theo Hoài Thanh và HoàiChân nhận xét, nhà thơ Huy Cận chỉ “đi lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nênnhững vần thơ ảo não.
- Trước năm 1945, vần thơ của ông sao mà tha thiết, não nề đến thế:“Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lòngNỗi nhớ thương không biết đã tan chưaHay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu mưaCùng đất nước mà nặng buồn sông núi.”Sau năm 1945, khi cả đất nước dữ dội, sôi nổi trong cơn sóng của cách mạng, nhiều thi sĩ đã lỡbước, trượt chân, sa lầy vào thuở quá khứ buồn tủi mà lạc mất giữa nhịp thời sôi nổi.
- Đánh dấu sự trở lại với một “chàng Huy Cận” mới, phải kể đến bài thơ được introng tập “Trời mỗi ngày lại sáng” như một khát vọng được nhìn thấy khung cảnh huy hoàng, đấtnước được thống nhất hai miền Nam – Bắc, đó là “Đoàn thuyền đánh cá”.
- Nổi bật lên là khungcảnh thiên nhiên ẩn chứa bao điều mà nhà thơ Huy Cận muốn gửi gắm.Không giống cách người ta ví von thiên nhiên sao cho to lớn mà rợn ngợp, tựa một vị ẩn sĩ khóđoán, thất thường như cảnh biển được miêu tả trong “Đoạn trường tân thanh”:“Buồn trông cửa bể chiều hômThuyền ai thấp thoáng, cánh buồm xa xa”Bởi lẽ cảnh biển hay cảnh chiều tối lại gợi lên một không gian rộng lớn khiến cho con ngườikhông tránh khỏi cảm giác cô đơn, lạc lõng, lẻ loi.
- Tuy nhiên vẫn là không gian, thời gian ấy, vầnthơ của Huy Cận lại đem đến xúc cảm ấm áp, ôm ấp, chở che cho cuộc hành trình ra khơi củanhững người dân chài:“Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập cửa”Mặt trời – thứ ta vốn coi thật xa xôi, vĩnh hằng, thậm chí ta còn chưa một lần dám nhìn thẳng, ấyvậy lại được Huy Cận so sánh với hòn lửa – một vật tưởng chừng như hoàn toàn đối lập, nhỏ bé,tầm thường, thứ ngày nào ta cũng thấy trong đời sống hàng ngày.
- Bằng cách coi mặt trời như mộthòn lửa, nhà thơ đã khéo léo khiến cảnh sắc thiên nhiên không còn vời vợi như thực tại mà đemlại cảm giác gần gũi, sinh động hơn bao giờ hết.
- Đối với Huy Cận, thiên nhiên không phải kẻ thùđể ta chinh phục, cũng chẳng phải điều gì đó nguy hiểm mà ta phải tránh xa.
- Thiên nhiên là mộtngười bạn đồng hành, một người mẹ có tấm lòng bao la, thấm thía tình cảm với con người, cho tamiếng ăn cái mặc.
- Nhà thơ so sánh như vậy sở dĩ không phải để làm mất đi tầm vóccao cả của thiên nhiên mà là nhằm đưa những điều tưởng chừng vĩ đại, bất tận như sóng hay mànđêm đều bỗng hóa thành một ngôi nhà thân thương của những người dân, luôn chào đón họ trở vềtrong vòng tay mỗi khi hoàng hôn dần buông.
- Lao động lúc nào không còn là một nghĩa vụ mà đãtrở thành một niềm vui, một chuyến ngao du độc tấu lên những câu hát cùng ngọn gió, cùng thiênnhiên:“Biển bằng không có dòng xuôi ngược,Cơm giữa ngày mưa gạo trắng thơm.”Trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ Huy Cận không chỉ làm rõ nội dung câu hát là ca ngợi sự giàu có,trù phú của biển cả quê hương mà còn lồng ghép trong đó là lòng biết ơn dào dạt của những ngườidân, đã cho họ được sống vì những vẻ đẹp non nước của thiên nhiên hữu tình, đa dạng này:“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặngCá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sángĐến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”Quả đúng nhứ ta vẫn thường hay nhắc nhở con cháu từ đời này sang đời sau “Rừng vàng biểnbạc”.
- Nhà thơ Huy Cận sử dụng hình ảnh cá bạc mang giàu tính liên tưởng, vừa phác họa rõ nétcái màu bạc của vẩy cá lấp lánh trên mặt biển.
- Đồng thời cũng khiến người đọc cảm nhận sâu sắc biển cả quê hương, đất nước ta có chăngtừng đẹp đẽ, quý báu đến nhường này.
- Có lẽ đọc những dòng thơ của Huy Cận, ta cũng đôi lần tựhỏi như nhà thơ Chế Lan Viên rằng “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?” Hơn thế nữa, nhà thơcòn đan xen vào đó là hình ảnh so sánh “cá thu như đoàn thoi” được nhân hóa lên “đêm ngày dệtbiển muôn luồng sáng” đã thể hiện khung cảnh biển cả qua “lăng kính” của ông trở nên phongphú, thú vị đến kì lạ.
- Cả đại dương trở nên lấp lánh, rực rỡ vì tấm vải khổng lồ được dệt nên bởimuôn vàn loài cá quý.Càng hân hoan hơn nữa khi người lao động cũng dành tình cảm cho biển cả như biển cả luôn dànhcho họ.
- Họ thân thương gọi rằng “đoàn cá ơi” và xưng “ta”, dường như giữa con người và thiênnhiên không còn là bức tưởng xa cách mà trở nên khăng khít tựa những người bạn, người thânđáng mến.
- Điều ấy khiến ta chợt nhớ đến những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu:“Hỏi núi non cao, đâu sắt đâu vàng?Hỏi biển khơi xa, đâu luồng cá chạy?Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông ChảyHỏi đâu thác nhảy, cho điện quay chiều?”Nếu con người không trân trọng, mến yêu thiên nhiên đến vậy, thì có lẽ chẳng nơi đâu có sắt cóvàng, chẳng nơi đâu còn luồng cá chạy và cũng chẳng nơi đâu cho điện quay chiều.
- Chính vì tìnhcảm ấy vẫn luôn sâu đậm, có trước có sau nên thiên nhiên và con người vẫn luôn đồng hành cùngnhau:“Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằng”Gọi Huy Cận là một nhà thơ, chẳng bằng gọi ông là một họa sĩ.
- Hình ảnh “mây cao với biển bằng” đã trả lạicho thiên nhiên cảm giác vũ trụ bạt ngàn, kì vĩ quen thuộc trong thơ Huy Cận.
- Nhưng điều ấykhông đồng nghĩa với việc con người được đặt giữa không gian ấy sẽ trở nên đơn lẻ, lo lắng màcàng thêm vẻ hào hứng, phấn khởi.
- Họ không chỉ mang trong mình vẻ đẹp của những người laođộng mới, mà họ còn mang vẻ đẹp tâm hôn say mê trước cái đẹp của một thi sĩ:“Cá nhụ cá chim cùng cá đéCá song lấp lánh đuốc đen hồngCái đuôi em quẫy trăng vàng chóeĐêm thở: sao lùa nước Hạ Long”Hai câu thơ đầu được nhà thơ sử dụng nghệ thuật liệt kệ làm nổi bật lên sự giàu có của biển cả quêhương.
- Đặc biệt nhất trong số đó,được Huy Cận quan sát tỉ mỉ nhất là loài cá song.
- Biển khơi vốn mang tính thủy nhưng qua biệnpháp ẩn dụ độc đáo “cá song lấp lánh đuốc đen hồng” đã đưa tính thủy đứng cùng với tính hỏa,tạo thành sự đối lập mới mẻ, thú vị trong câu thơ của ông.Hai câu thơ cuối, Huy Cận tiếp tục sử dụng nghệ thuật nhân hóa, tưởng chừng đơn giản nhất làgọi chú cá song là “em” nhưng lại đem đến sự thân thương, gẫn gũi gắn kết giữa những người dânchài với thiên nhiên một cách bất ngờ.
- Câu thơ cuối là một vết chấm phá độc đáo khác của nhà thơ Huy Cận.Ta có thể hiểu từ “thở” nhằm chỉ hơi thở của biển khơi, như thế một cơ thể tràn đầy sức sống, cóhơi thở, nhịp đập của riêng mình.
- Đây cũng là đặc trưng của bút pháp Huy Cận sau năm 1945.
- Khi thiên nhiên trong thơ ôngkhông còn một vẻ ủ ê, xót xa mà đã tươi sáng và có hồn hơn.
- Chẳng còn bóng hình thiên nhiên“lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” của “một chiếc linh hồn nhỏ mang thiên cổ sầu” đâu nữa.Thiên nhiên đôi lúc cũng nghiêm khắc, soi sáng để thức tỉnh con người khỏi những điều sai tráinhư trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy:“Trăng cứ tròn vành vạnhkể chi người vô tìnhánh trăng im phăng phắcđủ cho ta giật mình.”Nhưng đồng thời thiên nhiên vẫn luôn vị tha, cho phép con người nương nhờ, dựa dẫm, bảo hộ họtrên những chuyến đi xa xôi bất tận, gắn bó với họ từ thuở khai thiên lập địa:“Ta hát bài ca gọi cá vàoGõ thuyền đã có nhịp trăng caoBiển cho ta cá như lòng mẹNuôi lớn đời ta tự buổi nào”Mặt trăng không chỉ dát bạc cho cánh buồm, đưa con thuyền ra khơi mà nó còn phác họa mộtkhung cảnh mờ ảo, cùng với sóng xô vào mạn thuyền, tạo nhịp điệu cho bài ca gọi cá đến.
- Biển cả chohọ miếng cơm manh áo, dù đôi lần bão táp gió mưa nhưng không có biển cả, họ cũng chẳng còn làmột người dân chài được nữa.
- Đó là một lối liên kết từ ngàn đời, từ thật xa xưa khó nhớ, nhưng nó khó mà chặt đứt, từ bỏ.Ca dao cũng từng dùng cái dạt dào của nước để nói về lòng mẹ:“Công cha như núi Thái SơnNghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”In sâu vào trong tâm thức người Việt, không chỉ là cảnh núi non hùng vĩ, bao là mà còn là mộttình thương vô tận: bao dung, vị tha, che chở cho con người như một người mẹ.
- Đối với người dânnơi đây, biển cả còn hơn cả một kế sinh nhai, nó đã trở thành nhà, trở thành quê hương sẽ mở rộngvòng tay chào đón, ôm ấp ta mỗi khi ta quay về.
- Và dù người dân chài có đến hay đi, thiên nhiênnói chung và biển cả nói riêng đều đồng hành cùng họ như một lời động viên âm thầm, lặng lẽ màchân thành, ý nghĩa hơn bất cứ thứ hình thức gì khác:“Câu hát căng buồm với gió khơiĐoàn thuyền chạy đua cùng mặt trờiMặt trời đội biển nhô màu mớiMắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”Khổ thơ cuối, khép lại bài thơ, tạo ra kết thúc đầu cuối tương ứng.
- Không giống như con người trước Cách mạng Tháng tám, luôn phải trôngmong một cách mơ hồ, khắc khoải về một niềm hi vọng đổi thay cuộc sống của mình như hìnhảnh những người dân nơi phố huyện hàng đêm trông chờ sự xuất hiện của đoàn tàu trong truyệnngắn “Hai đứa trẻ.
- Con người, giờ đã dám chạy đua cùng thiên nhiên, có lẽ vì sứcmạnh mà vẻ đẹp thiên nhiên đem lại là vô tận, là hi vọng về một “màu mới”, một tương lai mớicho đất nước đã bị bao trùm trong xiềng xích và kiếp nô lệ bấy lâu.
- Từ một hình ảnh tảthực khi ánh mặt trời chiếu long lanh trên mắt cá, nhà thơ đã tạo nên một tuyệt tác hào hùng vềmột tương lai vĩ đại phía trước sẽ được sẽ được dựng xây lên từ những người dân lao động, từthiên nhiên của ngay hôm nay, những điều giản dị nhất.Cảnh sắc thiên nhiên trong “Đoàn thuyền đánh cá” không đơn thuần chỉ bộc lộ gián tiếp vẻ đẹpcủa con người qua từng bức tranh mà còn thể hiện những thông điệp, ý nghĩa mà Huy Cận khéoléo gửi gắm

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt