You are on page 1of 13

Phâ n tích MÙ A XUÂ N NHO NHỎ - THANH HẢ I

Lắng tai nghe…


Khúc nhạc mùa xuân đang mời gọi
Dõi mắt nhìn…
Sắc xuân lung linh tràn ngập cả đất trời.
Vâng! Xuân về đánh thức ngàn cây cỏ nội đâm chồi nảy lộc. Xuân đến còn đánh thức nguồn cảm xúc
vô tận của thi nhân. Lắng lòng lại, ta nghe đâu đây sắc xuân, tình xuân đang hòa quyện trong vũ
điệu giao mùa, đang rạo rực trong tâm hồn Thanh Hải để “Mùa xuân nho nhỏ” ra đời. Bài thơ với
lời giản dị, tứ thơ sâu lắng nhưng ôm trọn tâm hồn đôn hậu, bình dị, thiết tha yêu cuộc sống
của nhà thơ.
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được Thanh Hải viết vào tháng 11 năm 1980, ngay trên giường bệnh và
chỉ ít lâu sau tháng 12 năm 1980, nhà thơ mãi mãi ra đi. Ở giữa mùa đông giá rét của xứ Huế,
đối mặt với biên giới giữa sự sống và cái chết nhưng không làm trái tim nhà thơ nguội lạnh.
Ngược lại, tâm hồn thi nhân càng nảy nở, bừng sức sống để cảm nhận sâu sắc về một mùa xuân nồng
ấm tình người, khiến ngòi bút nở hoa để một “Mùa xuân nho nhỏ” ấm áp tâm tình của thi nhân
trước thiên nhiên, con người, cuộc sống.
Mùa xuân là mùa khởi đầu cho một năm mới, là mùa muôn hoa đua nở đem đến hương sắc, vị ngọt của
sức sống, tình yêu, hạnh phúc. Trước vẻ đẹp diệu kỳ của mùa xuân, các thi nhân đều cảm nhận
bằng con mắt trìu mến, thân thương. Mùa xuân hiện ra với muôn vàn sắc màu rực rỡ:
“Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời.”
(Nguyễn Trãi)
Vũ điệu của mùa xuân đã rót vào tâm hồn Thanh Hải niềm cảm xúc dâng trào. Thật đơn sơ, lặng lẽ
mà mùa xuân vẫn hiện về tràn đầy sức sống trào dâng:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc.”
Giản dị mà đầm ấm xiết bao! Thanh Hải đã khéo chọn cho mình một bức tranh xuân với gam màu ấm
áp, mà dịu dàng, trang nhã. Một màu xanh của dòng Hương Giang mênh mông, êm đềm, một màu tím
biếc của bông hoa nhỏ bé. Sự sắp xếp hết sức cân đối hài hòa của bức tranh thơ, cái to lớn bao
la không lấn át cái nhỏ nhoi, bé bỏng. Màu xanh của dòng sông làm nền cho sắc tím của hoa càng
nổi bật. Chỉ vài nét phác thảo, Thanh Hải đã vẽ nên bức tranh xuân thơ mộng hài hòa. Bằng biện
pháp đảo ngữ “mọc giữa dòng sông xanh”, tác giả đã tô đậm hình ảnh một bông hoa tím bé nhỏ mà
tràn đầy sức sống mãnh liệt, vươn lên sự sống trong điều kiện có phần khắc nghiệt để hòa cùng
vạn vật giữa vũ trụ bao la vô tận. Hình ảnh thơ thật nhẹ nhàng, thanh thoát, màu hoa tím biếc
nhè nhẹ xuôi dòng Hương Giang xanh thẳm thật thơ mộng lãng mạn, quyến rũ đến lạ thường! Một màu
tím thủy chung đặc trưng của con người xứ Huế mộng mơ, trầm tư, cổ kính.
Trong không gian tĩnh lặng của mùa xuân bị khuấy động bởi âm thanh ngân vang đầy trìu mến chất
chứa niềm vui rộn rã:
“Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.”
Mùa xuân không chỉ với sắc màu hài hòa mà bức tranh xuân ấy bỗng nhộn nhịp hẳn lên với tiếng
chim hót vang trời chào đón ngày mới. Không gian tươi vui ấy làm xao động đến tâm hồn nhạy cảm
của thi nhân. Thanh Hải đang lắng tai nghe tiếng chim chiền chiện cao vút trong không trung.
Tác giả đặt từ “Ơi” vào câu thơ như một lời thốt lên ngạc nhiên thích thú, như một nốt nhạc
ngân vang trong bản trường ca mùa xuân vô tận. Tiếng chim hót như rót vào tâm hồn nhà thơ một
niềm trìu cảm. Tâm hồn nhà thơ đang tràn ngập niềm vui để ngôn từ thốt lên “hót chi mà” như một
lời trách yêu đầy thân thương. Tiếng chim chiền chiện hát vang lừng trong trẻo cao vút như nốt
thăng rộn rã của mùa xuân. Tiếng hát ấy cứ kéo dài, ngân nga rồi lan tỏa hòa quyện vào bầu trời
xuân kèm không gian bừng sáng, rộn ràng. Trong dòng cảm xúc tuôn trào trước mùa xuân, Thanh Hải
như cảm nhận được hơi thở nồng ấm của mùa xuân, hương vị ngọt ngào của mùa xuân, sắc xuân tình
xuân chan chứa:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”
Nhà thơ đón nhận mùa xuân bằng thị giác, thính giác và cả xúc giác. Nhà thơ đưa tay hứng lấy
từng giọt gì đang long lanh rơi? Giọt sương chăng? Hay giọt nắng? Hay những giọt âm thanh của
tiếng chim? Mà đó chính là những giọt mùa xuân, giọt hạnh phúc của tình đời như đượm thắm cả
đất trời, hòa nguyện vào tâm hồn thi sĩ. Thanh Hải xòe bàn tay mình ra để cảm nhận những hương
vị ngọt ngào của mùa xuân bằng thái độ trân trọng, nâng niu áp vào trái tim mình. Tác giả đã cụ
thể hóa từng giọt mùa xuân như chan hòa vào lòng đất mẹ để muôn hoa khoe sắc thắm để sức sống
dâng trào, để tâm hồn con người tràn ngập niềm vui.
Trong vũ điệu của mùa xuân, ta không chỉ thấy được vẻ đẹp quyến rũ của mùa xuân thiên nhiên mà
con người bắt gặp mùa xuân trẻ trung, sôi nổi của con người Thanh Hải đưa ra hai hình ảnh cụ
thể, tiêu biểu của đất nước đó là người lính và người nông dân:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ.”
Hình ảnh lộc non là biểu tượng cho sức sống mới vươn lên. Lộc của lính là cành lá ngụy trang.
Những cành lá ngụy trang biến thành lộc đầu mùa được mang đến theo từng bước chân người lính.
Lộc mà người chiến sĩ mang đến cho chúng ta là xương máu mà các anh đổ xuống, là công sức bảo
vệ mùa xuân thanh bình của dân tộc, gieo niềm hạnh phúc đến mọi nhà. Người lính biểu trưng cho
những con người bảo vệ Tổ quốc và người nông dân là những con người tiêu biểu trong công cuộc
xây dựng đất nước. Bằng hình thức sóng đôi hài hòa, âm hưởng câu thơ trở nên nhịp nhàng, cân
đối. Từ bàn tay người nông dân “lộc trải dài nương mạ”. Bàn tay của “người ra đồng” tô điểm cho
mùa xuân đất nước. Đôi bàn tay kì diệu của những người họa sĩ ấy đã vẽ nên những mảng xanh của
niềm tin, hi vọng lên đất nước. Cũng như người cầm súng, lộc của người ra đồng mang đến cũng
đáng trân trọng biết bao. Lộc mà người nông dân tặng là mồ hôi, là bát cơm gạo, là cơm no áo
ấm. Người cầm súng, người ra đồng là hình ảnh rất tiêu biểu cho những con người đóng góp, cống
hiến cả thân mình để làm nên mùa xuân Tổ quốc.
Giai điệu rộn rã của mùa xuân, nhịp sống con người chừng như hối hả hơn, xôn xao hơn:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao.”
Tâm hồn con người hòa quyện vào thiên nhiên, hòa quyện vào giai điệu mùa xuân. Điệp từ “tất cả”
như nhấn mạnh nhịp điệu cuộc sống, mùa xuân. Lời thơ thể hiện niềm hân hoan, rung động trong
tâm hồn tác giả. Các cặp từ láy “hối hả”, “xôn xao” vừa gợi cảm vừa gợi hình, nhịp điệu khẩn
trương, phấn khởi, rộn rịp, tưng bừng khơi gợi niềm vui náo động trong lòng người.
Âm hưởng của mùa xuân tràn ngập cả thiên nhiên, hòa vào tâm hồn con người những niềm rung động.
Bất giác Thanh Hải chạnh lòng nghĩ đến quê hương đất nước, âm hưởng câu thơ bỗng trầm buồn, sâu
lắng:
“Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”
Trong giai điệu trầm lắng suy tư, câu thơ như đưa ta trở về với quá khứ bốn ngàn năm lịch sử.
Trải dài suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước, Tổ quốc ta đã trải qua bao biến động,
thăng trầm. Ngày từ buổi đầu dựng nước, dựng nước đã đứng trước nguy cơ xâm lược của kẻ thù.
Câu chuyện mang màu sắc huyền sử về Thánh Gióng, cậu bé ba tuổi làng Phù Đổng cất tiếng nói đầu
tiên là tiếng nói yêu nước. Một ngàn năm nô lệ cho phong kiến phương Bắc đầy đau thương, tủi
nhục, những hình ảnh của những người phụ nữ kiên trinh “chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng
sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ
không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”. Năm 938, với chiến thắng oanh liệt của Ngô Quyền
trên sông Bạch Đằng đã mở ra một kỉ nguyên mới của độc lập tự chủ. Những vần thơ bỗng trầm lắng
suy tư như gợi nhớ về một thời kỳ đau thương mà anh dũng. Trong thời kỳ ấy sản sinh ra những
người con trưởng thành từ đất mẹ đầy gian nan, vất vả nhưng luôn giành chiến thắng:
“Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu chảy lại vùng đứng lên.”
(Nguyễn Đình Thi)
Đã qua bao cuộc biến động của lịch sử, đất nước, con người Việt Nam vẫn kiên cường anh dũng,
hiên ngang vượt qua những thử thách đầy cam go, quyết liệt. Từ “cứ” vang lên như một lời khẳng
khái hùng hồn, một niềm tin bất diệt của Thanh Hải về tương lai đất nước đẹp lung linh, lấp
lánh như những vì sao trên bầu trời Tổ quốc. Đó là cách so sánh thật độc đáo và mới lạ, là sức
liên tưởng vừa hiện thực vừa lãng mạn như khơi gợi trong lòng người đọc một hình ảnh đẹp về
tình yêu quê hương đất nước.
Trong cảm xúc về mùa xuân đang dâng trào nhà thơ bỗng muốn hóa thân:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.”
Cái giai điệu nhè nhẹ, du dương, êm ái, ngọt ngào của những thanh bằng liên tiếp, những luyến
láy, điệp ngữ “ta làm…, ta làm…, ta nhập” cứ xôn xao, réo rắt mãi trong lòng người đọc, chừng
như ta được bay bổng theo ước mơ của tác giả. Các động từ “làm”, “nhập” thể hiện một sự hóa
thân kì diệu. Cái “ta” bây giờ không còn riêng là cái ta của tác giả mà nó đã hòa nhập, đồng
điệu với cái ta của tất cả mọi người. Các hình ảnh “con chim hót”, “một cành hoa”, “một nốt
trầm xao xuyến” mang ý nghĩa biểu lộ một lẽ sống, niềm tâm niệm của Thanh Hải đối với Tổ quốc,
Nhân dân. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh – Hoài Chân đã từng nhận xét: “Mỗi bài thơ hay là một
cánh cửa mở cho tôi đi vào tâm hồn” (Thi nhân Việt Nam). Vâng! Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của
Thanh Hải đã mở cửa cho tất cả chúng ta cảm nhận một trái tim khiêm tốn bình dị, đôn hậu, chân
thành của nhà thơ. Không ước mơ cao xa, Thanh Hải chỉ nhỏ nhẹ xin làm một tiếng chim hót góp
tiếng ca tươi vui vào giai điệu rộn rã của mùa xuân, một cánh hoa nhỏ bé giữa rừng hoa muôn
ngàn sắc thắm của dân tộc. Thanh Hải đã khéo mượn vẻ đẹp thanh khiết của thiên nhiên, cuộc đời
để thể hiện niềm mong ước thiết tha được sống có ích, đem lại hương sắc, niềm vui tô điểm cho
mùa xuân đất nước. Khát vọng sống là trọn đời hiến dâng của Thanh Hải cũng gặp được nét đồng
điệu trong tâm hồn các nhà thơ khác:
“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là đâu chỉ nhận riêng mình.”
(Tố Hữu)
Nhà thơ cũng có ước mơ nguyện sống là phải cho, phải cống hiến. Đó là quan niệm sống đẹp đúng
đắn. Say trong vũ khúc mùa xuân, khúc nhạc lòng Thanh Hải cứ ngân lên như cây đàn muôn điệu.
Đọc khổ thơ ta mới cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, cuộc sống và khát vọng cháy bỏng cống
hiến cho đời. Trong bản hòa ca trầm bổng của mùa xuân, Thanh Hải chỉ mong được làm một và chỉ
một “nốt trầm xao xuyến”. Một nốt trầm ấy lặng lẽ, đơn sơ, nhỏ nhẹ nhưng lại không thể thiếu
trong bản giao hưởng mùa xuân. Cái âm thanh trầm lắng của nốt trầm trong bản hòa ca càng làm
tăng thêm sức gợi cảm trong giai điệu gọi mùa “Em ơi! Mùa xuân đến rồi đó!”. Cảm hứng ấy càng
thêm mãnh liệt khi ta ngâm khẽ những vần thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải. Âm hưởng của nốt
trầm ấy cứ mãi du dương để lại dư âm ngọt ngào trong lòng người sau những nốt thăng cao vút,
rộn rã của cuộc đời. Thật khiêm nhường nhà thơ nguyện được hóa thân thành “nốt trầm xao xuyến”
để nhập vào khúc ca tiếng hát của cuộc đời một cách âm thầm, lặng lẽ, muốn đem tài năng, sức
lực nho nhỏ của mình để góp phần cho sự nghiệp xây dựng hòa bình, đổi mới của đất nước.
Tất cả khát vọng như lắng lại trong tâm hồn nhà thơ như một niềm cảm xúc:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời.”
Mùa xuân là khái niệm trừu tượng chỉ thời gian. Thanh Hải đã cụ thể hình ảnh “nho nhỏ” thể hiện
một tâm hồn bình dị, lặng lẽ cống hiến. Lặng lẽ thôi mà sao đẹp biết bao, dạt dào như sóng
triều dâng. Trong lời tự tình của tác giả làm chúng ta liên tưởng đến những con người trong
“Lặng lẽ SaPa” của Nguyễn Thành Long, người chiến sĩ của Lê Anh Xuân trong “Dáng đứng Việt
Nam”:
“Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.”
(Lê Anh Xuân)
Lật tiếp những dòng thơ của Thanh Hải, ta lại liên tưởng đến những chiến sĩ, những cô gái thanh
niên xung phong đã miệt mài, âm thầm cống hiến cả tuổi xuân phơi phới tươi đẹp cho Tổ quốc:
“Em đã lấy tình yêu Tổ quốc thắp lên ngọn lửa
Đánh lạc hướng thù hứng lấy luồng bom.”
(Lâm Thị Mỹ Dạ)
Trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại bảo vệ Tổ quốc, cống hiến luôn là khát vọng cháy bỏng ngày
đêm thường trực trong tâm hồn Thanh Hải. Trở về với dòng chảy lịch sử cách đây sáu trăm năm,
Nguyễn Trãi đã khẳng định tấm lòng trung hiếu sắt son với đất nước:
“Bui có một lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.”
(Thuật hứng XXIV)
Thanh Hải ngay trên giường bệnh trong điều kiện khắc nghiệt vẫn khẳng định khát vọng cống hiến
trọn cả cuộc đời cho Tổ quốc:
“Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”
Điệp ngữ “dù là” thể hiện một chân lý, một giá trị sống, cống hiến trọn đời mình. Câu thơ mang
âm hưởng mạnh mẽ, khẳng khái như lời nguyện cầu thành tâm nhất của Thanh Hải trước lúc ra đi.
Lời tâm nguyện ấy thật thủy chung, son sắt vững bền. Ngay trong tuổi xanh tràn đầy sức sống hay
khi đã về già, ngọn lửa nhiệt tình vẫn không bao giờ lịm tắt. Thanh Hải chỉ xin làm một mùa
xuân nho nhỏ trong hàng triệu mùa xuân nho nhỏ khác để được suốt đời góp phần cho “Tổ quốc bay
lên bát ngát mùa xuân” (Lê Anh Xuân)
Khổ thơ cuối đã kết thúc bài thơ trong âm điệu nhẹ nhàng êm ả như giọng hò xứ Huế:
“Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.”
Vẫn trái tim dào dạt yêu quê hương, Thanh Hải chọn khúc hát giữa mùa xuân. Giai điệu êm ái Nam
ai, Nam bình, thiết tha hiền hòa như con người Việt Nam. Dù ở trên mảnh đất “nước non nghìn
dặm” hay ở bất đâu cũng đẹp, cũng gắn liền với tình cảm con người:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.”
(Chế Lan Viên)
Thanh Hải với niềm tin yêu trìu mến quê hương, nhà thơ hết sức khéo léo khi chọn dòng sông, sắc
màu, âm thanh, điệu hát đều gắn chặt với quê hương và dường như nhà thơ muốn ôm trọn tất cả
hình ảnh ấy trước khi về cõi vĩnh hằng. Bằng điệp ngữ “nước non ngàn dặm” kết hợp gieo vần bằng
“bình, mình, tình” đã tạo âm hưởng bài thơ nhẹ nhàng như câu hò xứ Huế cứ ngân dài mãi ra rồi
lắng đọng lại trong lòng chúng ta những cảm xúc chân thành, ru hồn người đọc trên con đò xứ Huế
êm ả trôi nhẹ trên sông Hương rồi khép lại trong ân hưởng rộn ràng, xao động của “nhịp phách
tiền” đầy xao xuyến.
Trang sách đã khép lại nhưng dư âm của nó vẫn còn đọng mãi như khơi gợi trong lòng chúng ta về
một tình cảm cao đẹp của con người. Chính tình yêu thiên nhiên, khát vọng dâng hiến của Thanh
Hải làm xao xuyến rung động biết bao trái tim người đọc. Bài thơ cứ nhẹ nhàng, thấm thía tự
nhiên đi vào lòng người như một bài học sâu sắc về lẽ sống đẹp, cách ứng xử đầy nhân văn, tấm
gương cao thượng trong sáng của Thanh Hải làm ta trân trọng, khâm phục và tự ngẫm phải sống sao
cho xứng đáng với Tổ quốc, Nhân dân.

Cả m nhậ n về bà i thơ “Viế ng lă ng Bá c” củ a nhà thơ


Viễ n Phương.
Bài làm:
“Bác Hồ”- tiếng gọi sao mà thân thương đến thế! Người là một nguồn cảm hứng bất tận trong thơ
ca Việt Nam, thơ về Người rất nhiều nhưng mỗi bài thơ lại dẫn ta đến những vùng đất khác nhau.
Thật vậy, nếu “Sáng tháng năm” của Tố Hữu là tình cảm tha thiết, sôi nổi của nhà thơ với Bác
khi ở chiến khu, hay “Đêm nay Bác không ngủ” của nhà thơ Minh Huệ là niềm xúc động của ông
trước tình thương bao la của nguồn sáng dân tộc với mọi người,...Trong khi đó” Viếng lăng Bác”
của Viễn Phương lại là bài ca chân thành, cảm động của nhà thơ đối với Người, và có lẽ đây
chính là một trong những bài thơ hay nhất viết về Người!
Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng giải phóng miền Nam trong
thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc. Bài thơ” Viếng lăng Bác” được in trong tập”
Như mây mùa xuân”( 1978), bài thơ ra đời khi cuộc kháng chiến chống Mĩ thắng lợi, đất nước được
thống nhất và lăng Chủ tịch cũng vừa được khánh thành năm 1976.
Bài thơ mở đầu thật tự nhiên, như một lời kể chuyện mà chứa chan trong đó là biết bao xúc cảm
của nhà thơ:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Giọng điệu câu thơ thật nhẹ nhàng, thiết tha mà sâu lắng, với việc sử dụng cách xưng hô thân
thiết “con”- “Bác” nghe thật thân thiết, gắn bó như người một nhà- nơi mà họ cùng nhau vượt qua
khó khăn, thử thách, cùng nhau trao nhau những yêu thương đầm ấm, cũng như có nhà thơ từng
viết:
“Người là cha, là bác, là anh
Quả tim lớn bọc trong dòng máu đỏ”
Bác đã mất... Nhưng không, trong lòng Viễn Phương cũng như hàng triệu người con đất Việt khác,
Bác mãi sống trong lòng chúng ta! Tác giả đã dùng từ “thăm”, một cách nói giảm nói tránh đầy
tinh tế như muốn nhấn mạnh rằng Bác vẫn còn sống và đây chỉ là một chiến thăm từ miền Nam.
Chuyến thăm từ miền đất đau thương, quật cường trong bao năm gian khó kháng chiến chống Mĩ, nơi
mà Bác đã gửi gắm biết bao yêu thương, niềm tin và hi vọng cũng là nói gửi gắm yêu thương của
hàng vạn người dân nơi đây đến Bác “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà/ Miền Nam mong Bác nỗi mong
cha”.
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Chẳng phải tự nhiên mà Viễn Phương nhắc tới những hàng tre, ta đều biết rằng tre là loài cây
dẻo dai, bất chấp mọi khó khăn của thiên nhiên mà chúng vẫn kiên cường chính vì vậy nó đã thành
biểu tượng cao đẹp nhất của người dân Việt Nam ta. Hình ảnh tre đã có trong “Cây tre Việt Nam”
của Nguyễn Duy hay “Tre Việt Nam” của Thép Mới đều mạnh mẽ như vậy và tre của Viễn Phương cũng
không ngoại lệ:” Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. Thán từ “Ôi!” như để bộc lộ cảm xúc, một cảm
xúc mãnh liệt, tha thiết khi nhìn thấy lại hàng tre bất khuất muôn thuở trong kháng chiến ngày
nào của dân tộc khi mà” Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”. Tre của
Viễn Phương còn ẩn dụ cho những người lính canh tận tuỵ canh giữ chốn thiêng liêng, bảo vệ giấc
ngủ của Người.
Khổ thơ tiếp theo chính là cảm xúc của Viễn Phương khi hoà vào dòng người thăm lăng Bác.
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Mặt trời chính là nguồn sáng bất tận của vũ trụ, nó không thể thiếu trên trái đất này được. Bác
cũng vậy, Bác cũng không thể thiếu trong con đường cứu nước trường kì của dân tộc. Nếu ánh sáng
của mặt trời soi sáng đường đi, giúp sinh vật phát triển, lớn lên còn mặt trời trong lăng kia
đã soi sáng cho cách mạng Việt Nam, soi sáng cho tâm can lòng người, chính mặt trời ấy đã cứu
biết bao sinh mệnh trước chiến tranh đau thương, và ánh dương ấy dẫn ta đến niềm vui, hạnh
phúc... Bác được Viễn Phương ngợi ca như mặt trời- thứ ánh sáng bật diệt của thế gian, phải
chăng nhà thơ đang gửi gắm một niềm tin về sự trường tồn mãi mãi của Người đối với đất nước.
Với nghệ thuật nhân hoá” Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” đó như một đòn bẩy ngợi ca Bác,
ngay cả mặt trời vĩ đại của vụ trụ cũng phải ngước nhìn sự sáng bừng vĩ đại trong lăng kia. Mặt
trời “rất đỏ” đã gợi cho ta đến trái tim nhiệt huyết của Bác, một trái tim nhiệt huyết với cách
mạng, với nhân dân, với đất nước,...
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.”
“Ngày ngày” được lặp lại hai lần như thể hiện sự nối tiếp thời gian, tạo một nhịp điệu chẫm rãi
và rất lắng sâu của dòng người đi thăm lăng Bác. Và rồi Viễn phương đã khéo léo sử dụng nghệ
thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, dường như những con người ấy đi ”trong thương nhớ” và đó là
niềm thương nhớ khôn nguôi đối với Người, để rồi họ” kết tràng hoa” gửi tặng đến Bác, đó là
những tràng hoà đẹp nhất, thơm nhất, lung linh nhất để tỏ lòng biết ơn.
“ kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Ở đây “bảy mươi chín mùa xuân” không những chỉ tuổi của Bác mà tác giả còn nhấn mạnh một điều
rằng trong bảy mươi chín mùa xuân ấy Bác đã không ngừng cống hiến hết mình để mang tới biết bao
mùa xuân ấm êm hạnh phúc cho muôn dân và giờ đây dòng người kia muốn tỏ lòng biết ơn tới Bác
bằng những bông hoa tươi thắm nhất.
Đến khổ thơ tiếp, cảm xúc của nhà thơ thật mãnh liệt biết bao khi thấy Người, nhìn thấy bị cha
già kính yêu của dân tộc:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Tác giả lại một lần nữa sử dụng nghệ thuật nói giảm nói tránh, chẳng là Bác chỉ mệt quá chỉ ngủ
chút thôi? Cả cuộc đời Bác có lẽ chẳng có nổi một giấc ngủ yên bời vì Bác lo cho nước nhà, cho
Tổ quốc và Bác” chỉ viết quên mình cho tất cả”. Câu thơ như khẳng định lại Bác mãi sống trong
lòng nhân dân Việt Nam, cũng như Tố Hữu đã từng viết:
“Suốt cuộc đời Bác có ngủ yên đâu
Nay Bác ngủ chúng con canh giấc ngủ”
Chúng ta đều biết rằng, trong thơ của Bác trăng đã thành tri kỉ và cũng đã từng có người nói
rằng:” thơ của Bác đầy trăng”. Từ chiến khu Việt Bắc” Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” rồi đến
lúc bàn việc quân” Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền” hay là cả khi trong tù” Người ngắm
trăng soi ngoài cửa sổ / Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Và giờ đây khi đã nhắm mắt, trăng
vẫn luôn theo Bác, vẫn luôn là người bạn tri kỉ của Người.
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Viễn phương lại một lần nữa cho ta thấy cách sử dụng ngôn từ khéo léo của mình qua cách nói”
Vẫn biết- Mà sao” khiến người đọc đau nhói vô cùng khi mà không thể phủ nhận một quy luật của
tạo hoá đó là có sinh có tử. “Trời xanh”- biểu tượng vĩnh hằng của thiên nhiên, vũ trụ và đó
cũng là ẩn dụ cho Bác. Người vẫn còn sống với non sông, dân tộc, còn mãi trong tim mỗi người
dân Việt Nam cũng như nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
“Bác còn đó lớn mênh mông
Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non”
Dù lí trí vẫn tin là thế nhưng hàng triệu con đất Việt vẫn không nguôi đau xót, tiếc thương
trước sự ra đi của Người. Nỗi đau mà quặn thắt, tê tái tận đáy sâu tâm hồn như hàng nghìn mũi
kim đâm vào trái tim thổn thức của nhân dân ta, và rồi chính sự ra đi của Bác cũng khiến thiên
nhiên nhỏ lệ tiếc thương:
“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
“Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa”
Đến bên Bác để khóc, người con miền Nam đã vô cùng xót đau, thương tiếc cứ trào dâng rồi vỡ oà
trong lời nguyện ước của nhà thơ trước lúc ra về:
“Mai về........
........................chốn này”
Bao tình yêu thương , nỗi nhớ giờ lại càng đau hơn bởi ông sắp phải xa Bác, xa người cha kính
yếu.... Và rồi trong dây phút nghẹn ngào ấy, tác giả có những ước nguyện hoá thân rất đỗi bình
dị và khiêm nhường. Ông chỉ muốn hoá thân thành con chim nhỏ bé để hót những âm thanh thật
trong trẻo cho Người nghe mỗi ngày và ông cũng chỉ muốn hoá thành đoá hoa, gửi những hương thơm
bát ngát quanh lăng. Và một lần nữa hàng tre lại xuất hiện ở cuối bài thơ tạo kết cấu đầu cuối
tương ứng trọn vẹn. Nếu như đầu bài cây tre xuất hiện với hình tượng, phẩm chất rất Việt Nam
của nó” Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” thì ở đây hàng tre lại được nhà thơ nhấn mạnh phẩm
chất”trung hiếu”. Đó như một điều khắc cốt ghi tâm những gì Bác đã nói” Trung với nước, hiếu
với dân”. Cả khổ thơ Viễn Phương đã dùng nghệ thuật ẩn chủ ngữ, đó chính là để khẳng định một
điều rằng ước nguyện trên không chỉ của riêng ông mà còn biết bao người con Việt Nam khác nữa.
Họ luôn thực hiện những lời Bác dạy: quyết tâm theo lí tưởng, đi theo sự nghiệp cách mạng đúng
đắn của Người.
Bài thơ có giọng điệu trầm lắng, trang trọng, tha thiết với nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi
cảm, ngôn ngữ bình dị mà cô đúc. Bài thơ như chạm đến trái tim người đọc, để lại trong họ niềm
xúc động sâu xa trong một nỗi buồn man mác: ôm cả non sông một kiếp người, Bác đã đi rồi sao
Bác ơi!

SANG THU
“Thơ là viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời’” (Sóng Hồng). Viên kim cương ấy sẽ lấp lánh
một màu sắc riêng biệt của cuộc đời, như cách mà Hữu Thỉnh đã chạm khắc tiếng thơ của mình vào
thế giới thi ca bốn mùa nhiều dư vị. Năm 1997, người thi sĩ ấy khi đứng trước điểm cuối cùng
của tuổi trẻ đã không ngần ngại thổ lộ hết những tâm tư của lòng mình bằng những tiếng thơ khắc
khoải. Và “Sang thu” chính là như thế, với giọng thơ sâu lắng và đầy chất trữ tình, thi phẩm
dường như đã vỗ vào xúc cảm của xúc cảm của độc giả thật nhẹ nhàng. Có chăng, đó chính là những
tâm sự, hoài niệm của Hữu Thỉnh khi đứng giữa khúc ca giao mùa đầy rung động của đất trời...
Tại sao không phải là “ Thu sang” mà là “Sang thu” ? Tất cả đều là dụng ý của tác giả cả. Với
tiêu đề “sang thu”, ta dường như cảm được sự chuyển động của sự vật, mọi thứ như có hồn hơn,
sinh động và không bị tĩnh lặng, nghệ thuật đảo ngữ như trên phải chăng ta đã bắt gặp trong câu
thơ “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” (Truyện Kiều) của đại thi hào Nguyễn Du. “Sang thu”
làm ta có cảm giác như mùa hạ đang chủ động chuyển mình thành một sắc trời mới, dịu dàng, mát
mẻ hơn là nàng thu mộc mạc. Đây là một cách làm tuy không mới nhưng rất riêng của Hữu Thỉnh,
hữu ý tạo nên sự chiêm nghiệm len lỏi trong lòng độc giả.
Nhật Chiêu từng tâm sự: “Thơ ca, trong bản chất của nó là mây, là một thể vô định và huyền ảo.
Và thơ ca, cũng còn là bão tố.” Và có lẽ, lúc đó cái đám mây “vô định và huyền ảo” kia bỗng
dưng ùa về lấp kín hồn thơ của Hữu Thỉnh, cũng đầy bất ngờ và hư ảo như cái hương thơm quen
thuộc từ đâu xộc thẳng vào hồn ông, để rồi thi nhân phải giật mình thảng thốt:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”
Trước tiên, từ “bỗng” mở đầu bài thơ như dấu hiệu báo trước cho sự xuất hiện của không gian và
thời gian. Phải chăng, nhân vật trữ tình đã cảm nhận được biết bao điều trong sự xuất hiện ấy,
nó như đã cố ý đợi sẵn người ta từ lâu, mang về một chút thân thuộc vấn vươn, len lỏi:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”
Kỳ lạ thay, tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu lại chính là hương ổi- một thứ hương
thơm mộc mạc mà lại giản dị, thân quen của trời thu phương Bắc. Thu đến trong thơ Hữu Thỉnh một
cách rất riêng, không phải là “ao thu lạnh lẽo” như Nguyễn Khuyến, không như “rặng liễu điều
hiu” và “lá mơ phai” của Xuân Diệu, lại càng khác với “hương cốm mới” của Nguyễn Đình Thi. Ông
chẳng đi theo lỗi mòn sáo rỗng của những dấu chân cũ, với tâm hồn lãn mạn ấy, thu không chỉ đơn
giản là trời xanh, là hoa cúc, là hương cốm hay nắng vàng. Thu còn là mùi hương ổi chín nơi quê
nhà mộc mạc, ấm nồng. Sớm thu khơi gợi nên bao xúc cảm nhân gian, gợi lại kí ức tuổi thơ của
những ngày xưa cũ mà ta chẳng thể quay về. Chính tác giả cũng từng tâm sự: “Giữa đất trời mênh
mang, giữa cái khoảng khắc giao mùa kì lạ thì điều khiến cho tâm hồn lay động phải giật mình
nhận ra đó chính là mùi hương ổi...Nó giống như mùi bờ bãi, mùi non trẻ...hương ổi tự nó xộc
thẳng vào miền thơ ấu thân thiết trong tâm hồn chúng ta”. Thứ hương kia không “bay”, không
“quyện” mà “phả”, là xộc thẳng vào khứu giác. Thi sĩ đã sự dụng rất đắt từ ngữ gợi tả, chỉ một
từ ấy cũng đủ gợi hương thơm như đang đặc sánh lại, ngào ngạt, đậm đặc nồng nàn thư thành luồn
trong gió, được làn gió se khô, lạnh mang đi khắp ngõ ngách của làng quê. Các dư vị của hương
ổi kia như neo đậu lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng khó phai.
Ở hai câu thơ tiếp theo, không gian được mở rộng, vờn ra ngõ với khung cảnh mang màu sắc huyền
ảo:
“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”
Những hàng sương nhỏ li ti giăng màn khắp nơi được tác giả nhân hóa qua từ láy “chùng chình”
gợi cảm giác như sương như đang bị thời gian níu lại, chập chừng lưu luyến chưa muốn tan vào
không gian. Từ láy ấy phải chăng chính là tâm trạng của Hữu Thỉnh, mang chút tiếc nuối, mang
chút quyến luyến lại pha thêm vài giọt bịn rịn của thi nhân khi bồi hồi nhận ra mùa hạ đã đi
qua từ lúc nào... Không gian “ngõ” mà sương theo gió đi qua ấy vừa là ngõ thực, vừa là cửa ngõ
của của thời gian, không gian giao mùa. Ông đã cảm nhận dấu hiệu của mùa thu bằng tất cả các
giác quan và sự tinh tế trong tâm hồn nhạy cảm của một nhà thơ thực thụ. Trong sự ngỡ ngàng, cả
khứu giác, xúc giác và thị giác đều đang mách bảo rằng thu đã về mà con người vẫn chưa còn chưa
dám tin, chưa dám chắc. Thành phần tình thái “hình như” tựa sự phỏng đoán nửa tin nửa ngờ, nửa
khẳng định, nửa kia lại hoài nghi, là cái ngỡ ngàng ngạc nhiên, bâng khuân xao xuyến của thi sĩ
trước khung cảnh dao động của đất trời sang thu.
Nếu ở khổ thơ đầu tiên, bằng sự cảm nhận rất riêng của tác giả, tiết trời được gợi nên từ những
gì vô hình như “hương ổi” và “ gió”, cái mờ mờ ao ảo của “sương” hay không gian “ngõ” nhỏ hẹp
gần gũi thì sang khổ thơ thứ hai, mọi vật dường như đã chân thật và hữu hình hơn rất nhiều :
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”
Tới đây, cái bỡ ngỡ ban đầu đã tan biến đâu mất, nhường lại chỗ cho những rung cảm mãnh liệt
của hồn thơ. Bức trang sang thu được miêu tả ở tầm nhìn xa hơn, cao rộng hơn của bầu; dài ra và
rộng thêm của dòng sông. Hai câu thơ đầu tuy dùng cấu trúc đối nhưng lại như một nét chấm phá
vô cùng đặc trưng của sắc thu:
“Chim được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã.”
Thiên nhiên trong thơ được tác giả tinh tế nhân hóa trở nên vừa có hồn vừa có tình. Dòng sông
lúc sang thu không còn cuồn cuộn gấp gáp như ngày hạ mà bỗng trở nên thong thả dềnh dàng, lờ
lững trôi như đang còn ngẫm ngợi suy tư. Đối lập với dòng sông là những cánh chim bắt đầu vội
vã, gấp rút như đứa con sợ lỡ mất chuyến xe cuối cùng trở về nhà. Có lẽ nó đang chuẩn bị cho
cuộc hành trình bay đi tránh rét ở phương xa, hay cũng có thể nó chỉ đang vội vã quay về tổ
trước lúc những ánh mặt trời cuối cùng vỡ tan vào trong màn đêm. Phải tinh tế biết bao để Hữu
Thỉnh nhận ra được cái “được lúc” và cái “dềnh dàng” của thời gian tưởng như luôn nhịp đều đều
không thay đổi. Đại thi hào M.Gorki từng nói: “ thơ là tâm hồn”, vậy ắt hẳn hồn nhà thơ phải
luôn đong đầy cảm xúc mới có thể cho ra đời những dòng thơ sâu sắc như vậy.
Thế nhưng, đấy chưa phải là tất cả những tinh hoa của vị thi sĩ tài hoa, hai câu thơ tiếp theo
mới thật sự thể hiện những gì đẹp nhất của tác phẩm:
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Hiện lên trước mắt ta là bức tranh thu đầy lãng mạn cà trữ tình của đất trời. Thu chỉ đang ở
nơi cửa ngõ của mùa, vì vậy đám mây chỉ vừa mới “vắt nửa mình” mà thôi. Nghệ thuật ẩn dụ đặc
sắc “vắt nửa mình” khiến câu thơ thêm đậm ý vị, duyên dáng và vô cùng gợi ảnh. Có lẽ, ta cũng
từng bắt gặp ở đâu đó đám mây như vậy trong thơ của Lê Thu An:
“Mây trời một dải trắng phau
Vắt ngang sườn núi chiều thu ngập ngừng”
Mây của Lê Thu An “ vắt ngang” sườn núi- là một sự vật hữu hình và ta có thể nhìn, có thể cảm.
Thế nhưng đám mây của Hữu Thỉnh lại khác, nó tựa như một dải lụa bồng bềnh vắt nửa mình sang
thu. Trên đời này giữa hạ và thu làm gì có một “ranh giới” rạch ròi nào phân cách? Ấy vậy mà
Hữu Thỉnh lại vẽ nên ranh giới cho một thứ vô hình như thế. Ông tinh tế dùng hình ảnh của không
gian để diễn tả lại sự vận động diệu kỳ của thời gian. Đám mây kia là thật, nhưng ranh giới của
mùa là ảo. Bầu trời ấy như nhuộm nửa sắc thu để rồi đến một lúc nào đó sẽ là cả một bầu trời
trong vắt như pha lê:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”
(Thu điếu- Nguyễn Khuyến)
Hai câu thơ ấy không chỉ hát về khúc ca mùa mà còn như chất chứa cả những suy tư, trăn trở của
chính nhà thơ. Khi viết bài thơ này, tác giả tâm sự rằng ông đã từng liên tưởng đến những đám
mây thu trọn vẹn. Thế nhưng, dường như đã có gì níu giữ tâm trí ông theo chiều hướng “một nửa”
ấy. Có lẽ mây mùa hạ đã mang theo tất cả những hoài bão, những ước mơ của tuổi trẻ, cuốn theo
bao sức sống mãnh liệt của tuổi vô ưu vô lo, tô nên một mùa hạ ngập tràn màu sắc, sặc sỡ và nên
thơ hơn bao giờ hết. Vậy mà, giữa mơ và thực luôn bị ngăn cách giữa một ranh giới vô hình nào
đó khiến chúng khó mà trọn vẹn. Sự dở dang, mất mát là một hiện thực mà ta buộc phải học cách
chấp nhận, có chăng vì vậy, đám mây chỉ có thể vắt nửa mình sang thu mà thôi. Những đồng đội,
những người lính ngoài chiến trường của ông năm ấy cũng thế, họ đã ra đi, đã “gục lên súng mũ
bỏ quên đời” (Tây Tiến), bỏ quên cả tuổi trẻ và tương lai tươi sáng phía trước. Cùng với họ,
những hoài bão kia sẽ mãi mãi nằm lại nơi chiến trường mà chẳng bao giờ có thể trở về được
nữa,tựa hồ nửa đám mây còn vắt vẻo phía bên mùa hạ, tất cả sẽ chỉ còn là hồi ức...
Có câu: “Xuân sinh, hạ trưởng, thu liễn, đông tàn.” Những biến chuyển của tạo vật tới đây đã
hóa hành những suy tư của đời người lúc khoảng khắc thu vừa chớm nở. Trong khổ thơ cuối này,
Hữu Thỉnh đã bộc lộ ra hết những trăn trở từ tận đáy lòng mình:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm đã bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”
Cuối cùng, tới những câu thơ cuối, thu đã hiện ra rõ ràng hơn bao giờ hết, cùng với cách tác
giả lắng động lại để suy tư, để hoài niệm về cuộc đời. Vẫn là nắng đấy, nhưng đã mờ phai. Vẫn
là mưa, là sấm nhưng đã chẳng còn bất ngờ ồn ã như lúc trước. “Nắng”, “mưa”, “sấm” khi kết hợp
với các phó từ “đã”, “vẫn”, “cũng” thì mức độ đã khác, chúng lắng lại, chừng mực và ổn định hơn
những ngày hạ, không còn dữ dội, cũng chẳng còn gay gắt, nặng nề. Hạ nhạt dần, thu đậm nét hơn.
Ở hai câu thơ cuối không còn đơn thuần chỉ là miêu tả bức tranh mùa thu nữa mà đã trở thành một
triết lý sống sâu sắc Hữu Thỉnh ẩn ý đan cài vào bài thơ. Cũng như chính tác giả đã từng tự
bạch: “Có thể hiểu, hàng câu đã lớn, đã trải qua bao mùa thay lá sẽ trở nên vững vàng hơn trước
những tiếng sấm bất ngờ”.Phép nhân hóa và ẩn dụ như ẩn ý rằng tiếng sấm là những vang động bất
thường, những khó khăn, chông chênh của cuộc đời mỗi người. Khi càng trưởng thành, càng trải
nghiệm nhiều, ta lại càng trở nên bình tâm hơn khi đối mặt với nhưng cơn sấm mà cuộc đời ban
tặng, không còn bồng bột như xưa. Đến đây, người đọc như vỡ òa đi khi nhận ra “sang thu” không
chỉ có ở thời gian, ở thiên nhiên mà còn là sự “sang thu” của đời người.
Cùng nhìn lại cả bài thơ, ta thấm thía vì sao lại có sự bịn rịn, “chùng chình” lúc sang thu. Vì
sao lại có sự “dềnh dàng” mà lại “vội vã”, có lẽ khi mái tóc đã dần phai sương, ta lại càng
luyến tiếc những ngày xanh lúc trước để rồi phải càng vội vã để sống, để cống hiến và tận hưởng
thời giờ ít ỏi còn lại của cuộc đời. Ta biết rằng mình đã không còn nhiều cơ hội để dây dưa,
lãng phí nữa. Có câu nói rằng: “Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa ân
hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí”, cho khỏi nuối tiếc vì lỡ đã đánh mất quá nhiều
thời gian của chính mình.
Hạ đi, thu đến mang theo những cảm xúc bất chợt để rồi gieo lại trong lòng ai những bồi hồi về
một nàng thu nồng nàn êm ái. Hữu Thỉnh đã khắc họa nên bức tranh giao mùa ấy bằng ngòi bút sắc
nét mang đầy hơi thở trữ tình cùng những triết lý sâu xa. Với những dòng thở bốn chữ vỏn vẹn,
bài thơ mộc mạc một tình yêu thiên nhiên đằm thắm, về khát khao yêu đời mà tác giải mong muốn
gửi gắm cho bạn đọc cũng như gửi lại cho tuổi trẻ của chính mình đã đi qua tự thuở nào. Tác
phẩm như viên pha lê đầy góc cạnh, trải qua bao thăng trầm để trọn vẹn lung linh. “Sang thu”
chính là như thế! Sinh ra trên đời để lặng lẽ yêu thương và du dương suốt dặm đường.

Đề bà i: Cả m nhậ n nhâ n vậ t Phương Định trong


truyệ n ngắ n "Nhữ ng ngô i sao xa xô i" củ a Lê Minh
Khuê .

I.Mở bài:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
Đó là tinh thần của cả thời đại chống Mĩ. Đó là hình ảnh những anh bộ đội, những cô thanh niên
xung phong trên tuyến đường Trường Sơn đã đi vào văn chương và trở thành mạch nguồn cảm xúc
xuyên suốt văn học một thời. Đó là những người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không
kính” của Phạm Tiến Duật; “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu; những cô gái mở đường
trong “Khoảng trời hố bom” của Lâm Thị Mĩ Dạ…Cũng được khơi nguồn từ cảm hứng ấy, truyện ngắn
“Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê lại đem đến cho người đọc những cảm xúc mới mẻ về hình
ảnh những nữ thanh niên xung phong trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Họ vừa mang vẻ đẹp của
những cô gái tuổi mười tám, đôi mơi hồn nhiên giàu mộng mơ, lại vừa mang vẻ đẹp của người lính
giữa chiến trường gan dạ, dũng cảm không sợ hi sinh. In đậm nhất trong tâm trí bạn đọc là hình
ảnh nhân vật chính, cô thanh niên xung phong, cô “hoa hậu” trong lòng bom đạn – Phương Định.

II. Thân bài:


1. Khái quát ( Dẫn dắt vào bài ):
- Lê Minh Khuê là nữ nhà văn đã từng có năm tháng tuổi trẻ gắn bó với những con đường Trường
Sơn mưa bom, bão đạn, từng chứng kiến, trải qua và chia sẻ những gian khổ, hi sinh của người
lính giữa chiến trường. Bởi vậy những trang viết của bà về con người và cuộc sống nơi đây thật
chân thực và xúc động vô cùng. Ở “Những ngôi sao xa xôi” cũng vậy, hiện thực cuộc sống giữa
chiến trường và hình ảnh những nữ thanh niên xung phong với cuộc sống gian khổ một thời cứ hiện
lên sống động sau từng câu chữ.
- Ấn tượng sâu đậm nhất mà Lê Minh Khuê để lại trong lòng bạn đọc ở “Những ngôi sao xa xôi” là
hình ảnh những con người dũng cảm, có tinh thần trách nhiệm cao, có tình đồng chí, đồng đội
sáng ngời, có tâm hồn trong trẻo, giàu mơ mộng, và nhạy cảm. Tất cả những vẻ đẹp ấy được thể
hiện tập trung nhất ở nhân vật Phương Định, và chủ yếu qua đời sống nội tâm của cô.

2. Hoàn cảnh sống và chiến đấu đầy gian khổ:


- Phương Định cùng những người đồng đội của mình ở trong một cái hang dưới chân cao điểm, giữa
một vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn, nơi tập trung nhiều nhất bom đạn, sự nguy hiểm
và ác liệt, từng ngày từng giờ phải đối mặt với bom rơi, đạn nổ. Có biết bao thương tích vì bom
đạn giặc: “Đường bị đánh lở loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đường không có lá xanh.
Chỉ có những thân cây bị tước khô cháy. Những cây nhiều rễ nằm lăn lóc. Những tảng đá to. Một
vài cái thùng xăng hoặc thành ô tô méo mó, han gỉ nằm trong đất”. Đó là hiện thực đầy mùi chiến
tranh, không có màu xanh của sự sống, chỉ thấy thần chết luôn rình rập.
- Công việc của các cô đặc biệt nguy hiểm. Họ phải chạy trên cao điểm giữa ban ngày, phơi mình
ra giữa vùng trọng điểm đánh phá của máy bay địch để đo và ước tính khối lượng đất đá lấp vào
hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom. Nhiệm vụ của họ thật quan trọng nhưng cũng đầy
gian khổ, hi sinh, phải mạo hiểm với cái chết, luôn căng thẳng thần kinh, đòi hỏi sự dũng cảm
và bình tĩnh hết sức.

3. Vẻ đẹp của Phương Định:


- Cuộc sống gian khổ giữa chiến trường ác liệt, công việc đầy nguy hiểm và luôn phải đối mặt
với cái chết, nhưng Phương Định vẫn giữ được sự hồn nhiên, trong sáng của tuổi trẻ, luôn thể
hiện tinh thần dũng cảm không sợ hi sinh, lòng lạc quan và tình đồng đội gắn bó sâu sắc. Cô
ngời sáng lên vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu, vẻ đẹp của thế hệ trẻ
Việt Nam thời chống Mĩ.
a. Lí tưởng sống cao đẹp, tinh thần dũng cảm:
- Vẻ đẹp của nhân vật Phương Định được tỏa sáng ở lí tưởng sống cao đẹp và tinh thần dũng cảm,
không sợ gian khổ, hi sinh
+ Rời ghế nhà trường phổ thông, Phương Định xung phong ra mặt trận, cùng thể hệ của mình “Xẻ
dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai” để giành độc lập, tự do của Tổ
quốc. Cô ra đi mà không tiếc tuổi thanh xuân, nguyện dâng hiến hết mình cho đất nước:
“Ôi Tổ quốc!Nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…”.
+ Đối mặt với nguy hiểm, cô và những người đồng đội của mình thật sự là những anh hùng. Phương
Định nghĩ về hoàn cảnh sống nơi đây một cách giản dị và cho là có cái thú riêng: “Có ở đâu như
thế này không: đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang ầm ì xa dần. Thần kinh căng như
chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh có nhiều quả
bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ nổ…”. Công việc phá bom đầy
nguy hiểm và phải luôn đối mặt với thần chết được cô kể với giọng điệu bình thản, pha sự hóm
hỉnh: “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần”. Thật là biết đùa
trước gian khó.
+ Đặc biệt, hi sinh mất mát của bản thân cũng được Phương Định coi hết sức nhẹ nhàng: “Tôi bây
giờ vẫn còn một vết thương chưa lành miệng ở đùi. Tất nhiên Tôi không vào viện quân y”. Nếu
không có cái nhìn lạc quan và một tinh thần dũng cảm thì Phương Định không thể có cách nói bình
thản như thế.
+ Cuộc sống nơi chiến trường luôn đối mặt với thử thách, nguy hiểm và cái chết đã tôi luyện ở
Phương Định lòng quả cảm, không sợ hi sinh. Tâm lí Phương Định trong một lần phá bom được miêu
tả rất cụ thể, tinh tế đến từng cảm giác. Khung cảnh và không khí chưa đầy sự căng thẳng nhưng
Phương Định vẫn có nét tâm lí rất con gái, cảm giác: “Có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình” để
rồi sự dũng cảm ở cô như được kích thích bởi lòng tự trọng: “Tôi đến gần quả bom,… tôi không sợ
nữa. Tôi sẽ không đi khom. Các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đường hoàng mà
bước tới”. Ở bên quả bom, cận kề với cái chết im lìm và bất ngờ, từng cảm giác của con người
cũng trở nên sắc nhọn: “Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai
người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một
tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành”. Tiếp đó, là cái giây phút căng thẳng chờ đợi
tiếng nổ của quả bom. Phương Định có nghĩ đến cái chết nhưng là “một cái chết mờ nhạt, không cụ
thể”, còn cái chính vẫn là: “liệu mìn có nổ, bom có nổ không?”. Đây là một trách nhiệm rất cao
trong công việc, là lòng dũng cảm vô song. Có thể khẳng định rằng: Phương Định và những đồng
đội của cô thực sự là những người anh hùng, nhưng là những anh hùng mà không tự biết. Chính
điều đó, khiến cho nhân vật Phương Định trở nên đáng mến.
b. Tính hồn nhiên, mơ mộng, và tinh nghịch của Phương Định:
- Nét nổi bật và cũng là điểm hấp dẫn nhất ở Phương Định chính là vẻ đẹp của một tâm hồn trong
sáng, hồn nhiên và mơ mộng:
+ Phương Định là nữ sinh của thủ đô thanh lịch bước vào chiến trường. Cô có một thời học sinh –
cái thời áo trắng ngây thơ, hồn nhiên và vô tư sống bên mẹ trong một căn buồm nhỏ ở một đường
phố yên tĩnh. Những hoài niệm của cô về thời học trò thật đáng yêu, luôn sống trong cô ngay
giữa chiến trường dữ dội. Nó vừa là niềm khao khát, vừa làm dịu mát tâm hồn trong hoàn cảnh
căng thẳng, khốc liệt của chiến tranh.
+ Sau những giây phút căng thẳng ở cao điểm, xong việc là thở phào chạy vào hàng, là sà ngay
vào một thế giới khác – thế giới con gái với những mơ mộng: nằm dài trên nền ẩm, lười biếng
nheo mắt nghe ca nhạc từ cái đài bán dẫn nhỏ, có thể nghe, có thể nghĩ ngợi lung tung… Phương
Định mê hát và thích nhiều bài hát: những bài hành khúc bộ đội hay hát trên những ngả đường mặt
trận; thích dân ca quan họ mềm mại, dịu dàng; thích Ca-chiu-sa của hồng quân Liên Xô; thích
ngồi bó gối mơ màng trước lời bài hát dân ca Ý trữ tình… Thích hát, Phương Định còn bịa ra lời
mà hát, ngồi dựa vào thành đá và khe khẽ hát. Rõ ràng, thích hát là nét tâm lí của thời đại –
cái thời tiếng hát át tiếng bom, nhưng đây cũng là nét cá tính ở Phương Định hé lộ vẻ đẹp phong
phú của tâm hồn. Trong tiếng hát, có ý thức về lý tưởng, có khao khát về quê hương, tình yêu
của tuổi trẻ và có cả khát vọng được trở về cuộc sống thanh bình.
+ Cũng như bao cô gái mới lớn, Phương Định rất nhạy cảm và quan tâm đến hình thức của mình.
Phương Định đẹp với “hai bím tóc dày tương đối mềm, một cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa loa
kèn” và “đôi mắt nâu nâu dài dài hay nheo lại như chói năng, hay có cái nhìn xa xăm”. Biết mình
đẹp, cô thích ngắm mình trong gương, có chút kiêu ngầm khi biết mình được các anh pháo thủ và
lái xe thăm hỏi. Cô vui và tự hào về điều đó nhưng không hay biểu lộ tình cảm của mình mà
thường rỏ ra kín đáo giữa đám đông. Lê Minh Khuê đã rất tinh tế khi phát hiện ra cái nét tâm lí
kiêu ngầm ấy ở Phương Định. Đó là cái kiêu ngầm của một cô gái trẻ có ý thức sâu sắc về vẻ đẹp
cuộc sống. Chính nét tâm lí rất đời thường, rất con gái này khiến nhân vật Phương Định càng trở
nên gần gũi, chân thực và đáng yêu.
+ Vẻ đẹp tâm hồn Phương Định ngời sáng nhất khi cơn mưa đá bất ngờ ập đến. Chỉ một cơn mưa đá
mà bao ngột ngạt, căng thẳng, hiểm nguy của chiến trường tan biến, để nhường chỗ cho niềm vui
con trẻ òa nở, cuống cuồng:” Mưa đá!Cha mẹ ơi!Mưa đá!”. Chỉ một trận mưa đá vụt đi qua cũng
đánh thức ở Phương Định rất nhiều kỉ niệm và nỗi nhớ về thành phố, quê hương, về gia đình, về
tuổi thơ thanh bình của mình. Sau cái say sưa của niềm vui con trẻ là nỗi nhớ da diết khôn
nguôi. Nhớ rất nhiều: người mẹ, cái cửa sổ ngôi nhà, những ngôi sao to trên bầu trời thành phố,
cái cây, vòm trời của nhà hát, bà bán kém và đám trẻ háo húc vây quanh; con đường nhựa sau cơn
mưa, những ngọn đèn trên quảng trường lung linh như những ngôi sao trong truyện cổ tích nói về
xứ sở thần tiên… Tất cả vừa rõ ràng, vừa mờ ảo; vừa đồng hiện, vừa vụt hiện trong tâm trí; vừa
gần gũi, vừa xa xôi. Những hòai niệm làm dịu cơn khát, những cơn khát cháy lòng, những hi vọng
xa xôi. Tất cả ào đến, xoáy mạnh cũng mãnh liệt, dữ dội như con mưa đá. Tất cả làm thành hành
trang tâm hồn của cô thanh niên xung phong, tiếp cho cô sức mạnh, thắp cho cô niềm tin và tỏa
sáng vẻ đẹp của người chiến sĩ Trường Sơn, của những ngôi sao xa xôi.
c. Tình đồng chí, đồng đội nồng ấm:
- Ở Phương Định nét đẹp còn được ngời sáng trong tình đồng đội thắm thiết. Cô luôn yêu thương
trìu mến và quan tâm đến đồng đội. Cô lo lắng cho chị Thao và Nho lên cao điểm chưa về đến nỗi
“nói như gắt vào máy” khi đại đội trưởng hỏi tình hình. Cô hiểu chị Thao và Nho như biết về
những chị em ruột thịt. Đó là chị Thao sợ máu và vắt nhưng khi chiến đấu lại rất dũng cảm.
Trong cuộc việc, ai cũng gờm chị bởi sự bình tĩnh, cương quyết, táo bạo. Với Nho, cô em út của
tổ trinh sát thì Phương Định rất muốn bế trên tay. “trông nói nhẹ mát như một que kem trắng.
Biết bao trìu mến, yêu thương trong cái nhìn ấy. Khi Nho bị thương, cô vỗ về và chăm sóc như
một người y tá: “moi đất, bế Nho đặt lên đùi”,”rửa cho Nho bằng nước đun sôi trên bếp
than”,”tiêm cho Nho” rồi “pha sữa trong cái ca sắt…”. Đặc biệt, cô dành tình yêu và niềm cảm
phục cho tất cả những chiến sĩ mà cô gặp ngày đêm trên con đường ra mặt trận. Với cô “những
người đẹp nhất, thông minh, cam đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục có ngôi sao
trên mũ”.
-> Tình đồng chí đồng đội của Phương Định thật thiêng liêng, cao cả và đáng quý! Chính điều đó
đã tiếp thêm sức mạnh cho cô để cô hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.

4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:


- Có thể nói, xây dựng nhân vật Phương Định, Lê Minh Khuê đã chọn được những phương thức trần
thuật hợp lí khi nhà văn đặt điểm nhìn vào nhân vật chính của mình để nhân vật tự kể chuyện.
Nhờ vậy, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật – tâm lí Phương Định đạt đến độ tinh tế nhất. Ngôn
ngữ trần thuật qua nhân vật chính làm cho tác phẩm có giọng điệu, ngôn ngữ tự nhiên gần với
khẩu ngữ, trẻ trung, nữ tính. Lời kể linh hoạt, cùng câu ngắn dài, nhịp nhanh tạo không khí
chiến trường, nhịp kể chậm lại khi hồi tưởng như gợi nhớ kỉ niệm của tuổi thơ êm đềm… Tất cả
góp phần tạo nên một nhân vật chính- một Phương Định thật như ở ngoài đời và một Phương Định
rất Hà Nội.

5. Ý kiến đánh giá, bình luận:


- Qua dòng suy nghĩ và tâm trạng của nhân vật Phương Định, cuộc sống chiến đấu của các cô thanh
niên xung phong được tái hiện đầy đủ, chân thực và sinh động với vẻ đẹp tỏa sáng. Hình tượng về
những nữ thanh niên xung phong Trường Sơn không hiếm trong văn học chống Mĩ, song với những
sáng tạo riêng của mình, Lê Minh Khuê trong truyện ngắn "Những ngôi sao xa xôi" đã làm nổi bật
tâm hồn trong sáng giàu mơ mộng, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, sự hi sinh và rất lạc quan
của họ. Đó là hình ảnh đẹp, tiêu biểu cho thể hệ trẻ Việt Nam đã sống và chiến đấu, hi sinh
tuổi thanh xuân của mình cho Tổ quốc thân yêu:
“Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.
( “Đất nước” – Nguyễn Khoa Điềm).

III. Kết bài:


- Đọc truyện ngắn "Những ngôi sao xa xôi" khám phá vẻ đẹp nhân vật Phương Định, ta yêu mến, tự
hào về các cô thanh niên xung phong, Phương Định, Nho,chị Thao, mười cô gái ngã ba Đồng Lộc và
bao nhiêu cô gái mở đường khác trên tuyến lửa Trường Sơn đã “Xẻng tay mà viết nên trang sử
hồng” (Tố Hữu). Vẻ đẹp của họ mãi mãi tỏa sáng như vì sao lấp lánh trên bầu trời, trong sự cảm
phục và lòng biết ơn của cả dân tộc:
“Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng
Những vì sao ngời chói lung linh”
(“Khoảng trời hố bom” – Lâm Thị Mĩ Dạ)

Đề bà i: Cả m nhậ n cá c nhâ n vậ t trong tá c phẩ m”


Lặ ng lẽ Sa pa” củ a tá c giả Nguyễ n Thà nh Long.
Có những tác phẩm đã trải qua biết bao năm tháng nhưng nó ngân vang trong lòng ta những rung
động nhẹ nhàng mà thú vị, đẹp đẽ mà không khoa trương, giản dị mà chẳng kém phần tinh tế bởi
“Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp” (Pautopxki)
và ta đã thực sự đã đến được với “xứ sở” ấy qua truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành
Long. Ông được đánh giá là một trong những cây bút đáng chú ý nhất của thế kỉ trước khi chuyên
viết về truyện ngắn và kí. Các tác phẩm của ông thường có lối viết nhẹ nhàng, trong sáng, giàu
chất thơ và “Lặng lẽ Sa Pa” được in trong tập “Giữa trong xanh” cũng không ngoại lệ. Câu chuyện
gửi gắm tới người đọc, giúp người đọc thấm nhuần vẻ đẹp của những con người lao động mới khi họ
đã dệt lên một bài ca về tình yêu đất nước và đã dệt trong lòng ta những suy nghĩ đẹp đẽ đến
khó quên!
Anh thanh niên là nhân vật chính của truyện ngắn, anh ấy không xuất hiện ngay từ đầu mà chỉ
hiện ra trong cuộc gặp gỡ giữa các nhân vật khác. Và anh cũng chỉ hiện ra trong chốc lát nhưng
đủ cho các nhân vật khác ghi lại một ấn tượng mạnh, một kí hoạ chân dung về anh rồi dường như
anh lại khuất trong mây mù bạt ngàn và cái lặng lẽ muôn thuở của rừng núi Sa Pa.
Qua tác phẩm, ta có thể thấy rõ người thanh niên ấy có niềm yêu, đam mê công việc rất sâu sắc
hiếm ai có được. Nơi sống và làm việc của anh rất đặc biệt, đó là nơi cao 2600 mét tại đỉnh núi
Yên Sơn, nơi đây anh đang thực hiện công việc của mình đó là làm khí tượng kiêm vật lí địa cầu.
Quanh năm suốt tháng giữa cỏ cây mây núi, đo nắng, đo mưa, đo gió,... để phục vụ cho dự báo
thời tiết, cho sản xuất chiến đấu. Công việc ấy đòi hỏi có sự tỉ mỉ, chính xác cao và có trách
nhiệm với công việc của mình,...Hoàn cảnh sống là thế đấy nhưng bằng tất cả nghị lực của mình,
người thanh niên ấy đã vươn lên và vượt qua mọi khó khăn kia để rồi thích nghi với nó và yêu nó
lúc nào không hay. Anh yêu công việc của mình, yêu tới mức khi mọi người ái ngại về công việc
ấy còn anh thì không hề mà còn cho rằng làm việc ở độ cao 3100 mét mới là lí tưởng. Trong khi
ai lấy đều chọn những công việc thuận lợi đó là tiện nghi trong đi lại, công việc thì nhẹ
nhàng, có nhiều đồng nghiệp để cùng buôn chuyện hằng ngày... nhưng anh lại chon nó mà theo suy
nghĩ của mọi người công việc ấy vô cùng khó khăn, vì sao chứ? Là vì anh có những suy nghĩ rất
sâu sắc và đúng đắn về công việc, cuộc sống của chính mình” Khi ta làm việc ta với công việc là
đôi”. Anh hiểu rằng công việc của mình gắn bó với rất nhiều người, anh coi công việc của mình
là nhu cầu trong cuộc sống cũng như là cầu nối với mọi người” Công việc của cháu gắn liền với
việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ là thế đấy chứ cất nó đi
cháu buồn chết mất” Trên cuộc đời này thử hỏi có ai như anh chứ, trong khi ta chỉ muốn vứt bỏ
lại mọi công việc phía sau và chẳng bao giờ muốn làm chúng, còn anh thì lại” cất nói đi cháu
buồn chết mất” thật là một con người đặc biệt. Cũng chính vì yêu công việc mà anh tự giác hoàn
thành nhiệm vụ, công việc chẳng có người giám sát, có lẽ với điều kiện ấy nhiều người sẽ lười
biếng làm qua cho xong hoặc là viết báo cáo giả gửi đi nhưng anh lại làm việc một cách nghiêm
túc, tự giác và trách nhiệm cao. Vượt qua gian khổ của hoàn cảnh, cứ ngày nào cũng vậy, anh làm
việc một cách đều đặn, chính xác đủ 4 lần trong ngày: 4 giờ , 11 giờ, 7 giờ tối và 1 giờ sáng.
Thời tiết Sa Pa rất khắc nhiệt, nửa đêm có mưa tuyết hay băng giá nhưng anh vẫn cứ trở dậy ra
ngoài trời làm việc” Nửa đêm đang nằm trong chăn nghe chuông đồng hồ chỉ muốn đưa tay tắt đi”,
anh” muốn đưa tay tắt đi” rồi đấy nhưng lại thôi chỉ vì anh có trách nhiệm , có sự tự giác và
chúng đều bắt nguồn từ niềm yêu công việc của anh.
Người thanh niên ấy còn có phong cách sống đẹp, có những suy nghĩ tiến bộ về cuộc sống. Hạnh
phúc- một quan niệm chắc hẳn vô cùng sâu xa, rộng lớn khó mà diễn tả được hạnh phúc là như thế
nào, còn anh có một quan niệm rất đơn giản và rất đẹp về nó đó là được làm việc, được cống hiến
cho mọi người, cho đất nước. Anh đã” phát hiện một đám mây khô mà ngày ấy, tháng ấy, không quân
ta hạ được bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng” và rồi” từ hôm ấy cháu sống thật hạnh
phúc”. Đấy, đơn gian thế thôi chứ đâu phải cứ yêu nhau, giàu sang, quyền lực mới đem lại hạnh
phúc. Còn sự hạnh phúc của anh mang đến niềm tin, cống hiến với công việc và rồi lớn hơn thế là
hạnh phúc của toàn đất nước. Sống trên đỉnh núi của vùng đất sương mù hẻo lánh, anh không hề
thấy cô đơn buồn tủi như mọi người nghĩ bởi vì anh biết tạo niềm vui trong công việc, cuộc sống
đó là đọc sách. Anh coi sách là người bạn để anh trò truyện, rồi chính sách giúp anh chống chọi
lại sự vắng lặng quanh năm suốt thắng của nơi đây. Nhờ có sách anh biết được nhiều thứ, mở mang
kiến thức mà tại đây thật khó khăn để tìm hiểu chúng. Và người thanh niên ấy thật đáng yêu khi
có hành động vô cùng trẻ con và ngộ nghĩnh. Ta đều biết rằng gian khổ nhất ở tại nơi cao 2600
mét đó là vượt qua sự cô đơn, vắng vẻ không một bóng người. Mới đâu anh còn thèm người tới mức
phải lấy cây ghỗ chắn ngang đường ô tô chỉ để được nghe tiếng người! Để rồi trưởng thành theo
thời gian, anh có một suy nghĩ thật sâu sắc” Nếu đó chỉ là nỗi nhớ phồn hoa đô thị thì thật
xoàng”.Suy nghĩ của anh thật tuyệt vời, chính cái suy nghĩ ấy sẽ truyền cảm hứng cho biết bao
nhiêu người. “Con người cô độc nhất thế gian” ấy có một nếp sống đẹp, anh tự sắp xếp cuộc sống
một mình ở trạm rất ngăn nắp, gọn gang. “Một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách,
biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm” Anh có một vườn rau xanh tốt, một đàn gà đẻ trứng, một vườn hoa
rực rỡ để tạo niềm vui cho mình. Anh cho rằng cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi hiểu rõ phải đóng
góp cho quê hương đất nước, anh đã tự hỏi bản thân mình rằng “mình sinh ra là gì, mình đẻ ở
đâu, mình vì ai mà làm việc” nhờ suy nghĩ nội tâm ấy mà anh đã vượt qua tất cả-mọi khó khăn của
ngoại cảnh!
Mặc dù là “người cô độc nhất thế gian” nhưng anh chẳng hề mất đi đức tính tốt đẹp của mình, đó
là tấm lòng hiếu khách, sống chân thành và cởi mở, quý trọng tình cảm của mọi người, luôn quan
tâm đến người khác: anh chàng tốt bụng này gửi biếu quà-gói tam Thất cho vợ bác lái xe vừa bị
ốm, tặng cho cô gái, mời bác lái xe uống trà và tặng cho người đi xa mọt giỏ trứng tươi, rồi
anh còn rất xúc động khi những vị khách tới nhà mình.
Người thanh niên ấy còn toát lên sự khiêm tốn, đáng mến, anh luôn coi những đóng góp của mình
chỉ là nhỏ bé, khi ông họa sĩ già muốn khắc họa chân dung anh, anh từ chối và nhiệt tình giới
thiệu cho ông những người đáng vẽ hơn mình (người kỹ sư lai tạo su hào và người nghiên cứu
sét).
Tại vùng đất Sa Pa bạt ngàn mây mù này, ta còn bắt gặp những con người thầm lặng cống hiến cho
đất nước qua lời kể của anh thanh niên đó là ông kỹ sư lai tạo su hào và anh cán bộ nghiên cứu
sét. Người kỹ sư kia ngày qua ngày ngồi trong vườn chăm chú rình xem cách lấy mật của ong và tự
tay thụ phấn cho hàng vạn cây su hào trên toàn miền Bắc làm ra to hơn, ngọt hơn. Mặc dù chỉ là
cống hiến nhỏ nhoi nhưng từng ấy đã đủ cho ta, cảm nhận được ông ấy thật là tâm huyết với công
việc của mình khi mà ngày này sang ngày khác “ông vẫn cứ tiếp tục công việc của mình”. “Mười
một năm không ngày nào xa cơ quan” luôn “trong tư thế sẵn sàng,suốt ngày chờ sét” đó không ai
khác chính là anh cán bộ nghiên cứu sét. Công việc của anh thật đặc biệt, lúc nào anh cũng chỉ
sợ “có sét lại vắng mặt mình” chính vì điều ấy mà anh không đi đến đâu tìm vợ. Những con người
này làm cho anh thanh niên thấy “cuộc đời đẹp quá, đâu còn buồn tẻ” và những con người ấy cho
ta thật nhiều suy nghĩ về câu văn: “trong cái lặng im của Sa Pa, dưới dinh thự cũ kỹ của Sa Pa.
Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo
nghĩ như vậy cho đất nước”
Dù không phải nhân vật chính nhưng ông họa sĩ đóng vai trò rất quan trọng đó là người kể chuyện
đã nhập vai vào cái nhìn và những ý nghĩ của ông, để trần thuật, để quan sát ,để miêu tả từ
cảnh thiên nhiên bạt ngàn đến nhân vật anh thanh niên, ông ấy là một người nghệ sĩ chân chính,
một người am hiểu cuộc sống, một tri thức lịch duyệt hay một nhân cách đẹp có một đời sống nội
tâm phong phú. Ngòi bút như là một quả tim nữa của ông vì suốt đời ông chỉ vẽ và đi, ông khao
khát nghệ thuật, có tình yêu cuộc sống, yêu con người. Cả đời ông luôn theo đuổi, đi tìm cái
đẹp để phản ánh tác phẩm của mình. Ngay từ phút đầu gặp gỡ anh thanh niên bằng sự từng trải của
sự nghiệp, người nghệ sĩ già đã nhìn ra vẻ đẹp từ tâm hồn anh và thực sự bối rối, xúc động “vì
thật ra họa sĩ đã bắt gặp một điều mà ông vẫn ao ước được biết. Ôi! Một nét thôi cũng khẳng
định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác. Chính sự từng trải của ông, ông phát hiện ra một vẻ
đẹp mới của SaPa mà có lẽ còn đẹp hơn cả thiên nhiên của SaPa, đó là vẻ đẹp của con người ở nơi
đây. Người họa sĩ già muốn kí họa hình ảnh anh thanh niên và ông nghĩ rằng người con trai ấy
đáng yêu thật, nhưng làm ông nhọc quá. Với những điều làm cho ta suy nghĩ về anh”. Từ ông ta
thấy được mục đích của người làm nghệ thuật là tìm ra cái đẹp trong cuộc sống, trong con người,
ông bộc lộ niềm say mê lao động, sáng tạo, từng trải, có thể cảm nhận được đối tượng nghệ thuật
là những con người lao động chân chính. Qua đó ta càng thêm cảm phục và kính trọng.
Cô kỹ sư góp phần làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn và làm nổi bật tính cách của anh thanh niên.
Cô điểm một nét vẽ nhẹ nhàng mà duyên dáng vào câu chuyện. Là một cô kỹ sư trẻ mới ra trường,
vẫn bỡ ngỡ vì vừa bước qua ngưỡng cửa của một thế giới chật hẹp-cuộc đời học trò và sang một
cuộc sống mới, bát ngát mới tinh, làm bất cứ việc gì. Cô khao khát được đi,cũng có vài háo hức
rực lửa của tuổi trẻ. Nhưng khi gặp anh thanh niên, được lắng nghe anh, được chứng kiến cuộc
sống của người thanh niên, cô trầm ngâm, lặng lẽ, xúc động, và vững tin hơn vào cuộc sống.
Người thanh niên tựa như một tấm gương như những ánh sáng dịu hiền mà rất mới mẻ để cô tự soi
mình, tự hiểu mình và quên đi mối tình nhạt nhẽo mà cô đã chối bỏ. Nghe anh thanh niên nói, cô
mới “bàng hoàng” nhận ra đường đi của chính mình, càng vững tin vào những gì mình sẽ làm.
Để tạo ra chuyến đi này không thể thiếu bác lái xa. Bác ấy là một người tốt bụng, vui vẻ cởi
mở, như một người dẫn chuyện khiến ta khó quên.Bác đã dẫn dắt câu chuyện, kích thích tò mò cho
ông họa sĩ và cô kỹ sư “tôi sắp giới thiệu với bác một người cô đọc nhất thế gian,thể nào bác
cũng thích vẽ hắn”.
“Lặng lẽ Sa Pa” không chỉ thành công về nội dung mà còn thành công về cả nghệ thuật, cốt truyện
đơn giản, nghệ thuật xây dựng tình huồng truyện rất độc đáo , đặc sắc là cuộc gặp gỡ bất ngờ
giữa các nhân vật. Cách kể tự nhiên giúp người đọc dễ hiểu. Có lẽ thành công nhất là kết hợp tự
sự, bình luận và trữ tình. Truyện có dáng dấp như một bài thơ, chất thơ bàng bạc với đầy đủ
hình ảnh từ núi non hung vĩ, vẻ đẹp thơ mộng của chốn Sa Pa cho đến những con người làm việc
miệt mài mà lặng lẽ.
Truyện đã ra đời từ những năm bảy mươi của thế kỷ trước nhưng nó vẫn ngân vang trong lòng ta
những rung động nhẹ nhàng mà thú vị về những con người âm thầm lặng lẽ nhưng thật đáng yêu. Họ
đã làm lên một bài ca về tình yêu thương đất nước và khắc hoạ trong lòng ta những suy nghĩ rất
sâu sắc, đáng học tập và noi theo!

You might also like