You are on page 1of 12

CHƯƠNG TRÌNH VÀ SÁCH GIÁO KHOA TIẾNG ANH 10 NĂM:

MỘT SỐ ĐIỂM ĐỔI MỚI

GS. TS. HOÀNG VĂN VÂN

Trung tâm Ngôn ngữ và Quốc tế học – Trường Đại học Ngoại ngữ 

Đại học Quốc gia Hà Nội

Tổng chủ biên bộ sách giáo khoa tiếng Anh 10 năm

Điện thoại: 0946296999; email: vanhv@vnu.edu.vn; vanhv.sdh@gmail.com

Tóm tắt

Có nhiều giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ nói chung, dạy và học tiếng Anh nói riêng với
tư cách là một môn học ở trường phổ thông Việt Nam. Tuy nhiên, một trong những giải pháp quan trọng nhất
mà mọi nền giáo dục dường như đều lấy làm xuất phát điểm là đổi mới chương trình và sách giáo khoa. Đây
là trọng tâm của báo cáo này: trình bày và nêu một số điểm đổi mới của chương trình và bộ sách giáo khoa
tiếng Anh 10 năm theo Đề án Ngoại ngữ Quốc gia 2020. Báo cáo được tổ chức xung quanh năm phần. Phần
1 đặt vấn đề. Phần 2 trình bày khái quát Đề án ngoại ngữ quốc gia 2020 và nêu một số điểm trong Đề án liên
quan đến việc thiết kế chương trình và biên soạn bộ sách giáo khoa tiếng Anh 10 năm ở trường phổ thông
Việt Nam. Phần 3 tổng quan ba chương trình tiếng Anh thí điểm và nêu một số điểm mới nổi bật của ba
chương trình. Phần 4 trình bày việc biên soạnbộ sách giáo khoa tiếng Anh phổ thông 10 năm theo Đề án
ngoại ngữ quốc gia 2020 và nêu một số điểm đổi mới nổi bật của bộ sách. Phần 5 tóm lược lại những điểm
chính đã trình bày trong báo cáo và nêu bật tầm quan trọng của mối quan hệ qua lại giữa người viết sách,
người tổ chức tập huấn sử dụng sách và người sử dụng sách trong tiến trình nâng cao chất lượng dạy và
học tiếng Anh ở trường phổ thông.

Từ khoá: Đề án ngoại ngữ quốc gia 2020, ba chương trình tiếng Anh thí điểm, bộ sách giáokhoa tiếng Anh
10 năm.

1. Đặt vấn đề

Trong thế giới ngày nay, giao lưu quốc tế càng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của giao lưu quốc tế, giao tiếp giữa các quốc gia, các tổ chức, và giữa người với người thông qua ngôn
ngữ cũng không ngừng phát triển. Phương tiện giao tiếp hữu hiệu nhất không thể thiếu được để duy trì và
phát triển các mối giao lưu quốc tế chính là ngoại ngữ trong đó tiếng Anh, với tư cách là “một ngôn ngữ toàn
cầu” (Crystal, 2003), có vai trò đặc biệt quan trọng. Chính vì thực tế này mà mục đích của dạy và học ngoại
ngữ ngày nay không còn giới hạn vào việc tìm hiểu bản chất của ngoại ngữ để qua đó phát triển trí tuệ của
người học theo hướng tầm chương trích cú, không còn giới hạn vào việc chỉ yêu cầu người học làm các bài
tập về từ vựng, ngữ pháp, dịch hay học một hoặc hai kĩ năng ngôn ngữ như đọc hiểu hay viết. Trái lại, dạy và
học ngoại ngữ ngày nay là nhằm mục đích giao tiếp trong đó chất liệu ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ
pháp) chỉ là một khía cạnh được dạy nhằm phát triển năng lực ngôn ngữ (linguistic competence) của người
học để thông qua đó phát triển năng lực giao tiếp (communicative competence) của họ dưới các hình thức
nghe, nói, đọc, viết, và để cuối cùng khi giao tiếp với người nước ngoài mình có thể hiểu được họ và họ có
thể hiểu được mình.[1] Hai mệnh đề “mình có thể hiểu được họ” và “họ có thể hiểu được mình” bằng ngoại
ngữ tưởng chừng đơn giản nhưng đã làm cho nhiều quốc gia, kể cả Việt Nam, phải đổ rất nhiều công sức và
nguồn lực (nhân lực, vật lực và tài lực) vào nhằm tìm ra những giải pháp hữu hiệu để nâng cao trình độ
ngoại ngữ của người học và người sử dụng của nước mình.

Có nhiều giải pháp nâng cao chất lượng một môn học. Ở mức độ khái quát nhất có thể nhóm chúng vào ba
cấp độ: vĩ mô, trung mô và vi mô. Ở cấp độ vĩ mô, giải pháp có tác động mạnh mẽ nhất là quyết định đổi mới
môn học (trong trường hợp này là môn ngoại ngữ)của Nhà nước. Đi kèm theo giải pháp này là các chính
sách, các hoạt động quảng bá và tuyên truyền để các cấp quản lí và người dân nhận thức rõ chủ trương đổi
mới và chuẩn bị thực hiện.Ở cấp độ trung mô, giải pháp quan trọng nhất thường được mọi nền giáo dục
chọn làm xuất phát điểm cho công cuộc đổi mới là thiết kế chương trình mới và biên soạn sách giáo khoa
mới. Và ở cấp độ vi mô, song song với thiết kế chương trình mới và biên soạn sách giáo khoa mới là một loạt
các giải pháp (hoạt động) nâng cao chất lượng dạy và học môn học như đào tạo, bồi dưỡng và thậm chí đào
tạo lại đội ngũ giáo viên để đạt chuẩn đã đề ra; nâng cấp cơ sở vật chất trong lớp học; hiện đại hoá trang
thiết bị dạy học; tập huấn giáo viên về những phương pháp và thủ thuật dạy học mới phù hợp với chương
trình và sách giáo khoa mới; ban hành một số chính sách khuyến khích dạy và học môn học, v.v.

Trong các giải pháp thuộc ba cấp độ đã đề cập ở trên, báo cáo này chọn đi sâu vào một khía cạnh quan
trọng của nhóm giải pháp ở cấp độ trung mô với chủ đề cụ thể là: “Chương trình và sách giáo khoa tiếng
Anh 10 năm: Một số điểm đổi mới”. Báocáogồm năm phần. Phần 1 đặt vấn đề. Phần 2 trình bày khái quát
Đề án ngoại ngữ quốc gia 2020 và nêu một số điểm trong Đề án liên quan đến thiết kế chương trình và biên
soạn sách giáo khoa tiếng Anh ở trường phổ thông. Phần 3 tổng quan ba chương trình tiếng Anh thí
điểm của Bộ Giáo dục và Đào tạo và nêu một số điểm nổi bật của ba chương trình. Phần 4 trình bày việc
biên soạnbộ sách giáo khoa tiếng Anh phổ thông 10 năm theoba chương trình tiếng Anh thí điểm và nêu một
số điểm đổi mới nổi bật của bộ sách. Phần 5 tóm lược lại những điểm chính đã trình bày trong báo cáo và
nêu bật tầm quan trọng của mối quan hệ qua lại giữa người viết sách, người tổ chức tập huấn sử dụng sách
và người sử dụng sách trong tiến trình nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh ở trường phổ thông. Trong
5 phần, Phần 4 là trọng tâm của báo cáo và được trình bày chi tiết nhất.

2. Đề án ngoại ngữ quốc gia 2020

Dạy và học ngoại ngữ luôn nhận được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Chính phủ. Nhìn lại lịch sử dạy và
học ngoại ngữ ở Việt Nam, chúng ta có thể khẳng định rằng ngay từ những năm 1960 của thế kỉ 20, ngoại
ngữ luôn nhận được một vị trí xứng đáng trong chính sách ngôn ngữ của Việt Nam như là một môn học bắt
buộc ở bậc trung học phổ thông, và sau này là từ bậc trung học cơ sở đến bậc sau đại học. Chúng ta cũng
có thể khẳng định mà không cần phải do dự rằng nhờ vào sự quan tâm thường xuyên của Đảng và Chính
phủ, Việt Nam đã đạtđược những tiến bộ rất đáng khích lệ trong lĩnh vực giáo dục ngoại ngữ nói chung và
giáo dục tiếng Anh nói riêng. Từ giai đoạn trong đó tiếng Anh được dạy mà không có chương trình và sách
giáo khoa được thiết kế và biên soạn một cách hiển ngôn trong những năm 1970 tới giai đoạn trong đó tiếng
Anh được dạy 3 năm (từ lớp 10 đến lớp 12) ở các tỉnh phía Bắc và 7 năm (từ lớp 6 đến lớp 12) ở các tỉnh
phía Nam với hai chương trình được tích hợp ngầm ẩn vào trong nội dung của hai bộ sách giáo khoa tương
ứng ở cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980, tới giai đoạn trong đó tiếng Anh được dạy 7 năm (từ
lớp 6 đến lớp 12) trong cả nước trong đó chương trình được thiết kế một cách hiển ngôn, khá bài bản và có
hệ thống với một bộ sách giáo khoa tiếng Anh ở bậc trung học cơ sở và hai bộ sách giáo khoa tiếng Anh ở
bậc trung học phổ thông (bộ chuẩn và bộ nâng cao) được biên soạn dựa trên các nguyên tắc và nội dung
được quy định trong Chương trình giáo dục phổ thông môn tiếng Anhnăm 2006 của Bộ Giáo dục và Đào
tạo(chi tiết, xin xem Bộ giáo dục và Đào tạo, 2006; Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, 2008, 2012).

Cùng với những tiến bộ trong thiết kế chương trình và biên soạn sách giáo khoa, trình độ chuyên môn và kĩ
năng giao tiếp của giáo viên ngoại ngữ nói chung và giáo viên tiếng Anh nói riêng đã đạt được những tiến
bộ rất đáng khích lệ. Một số giáo viên tiếng Anh có thể điều khiển một giờ dạy trên lớp hoàn toàn bằng tiếng
Anh; nhiều học sinh phổ thông, đặc biệt là những học sinh giỏi có thể giao tiếp khá thoải mái bằng tiếng
Anh, đặc biệt, nhiều em đã đạt được điểm số rất cao ở hai bài thi chuẩn quốc tế TOEFL và IELTS. Tuy nhiên,
trong một thế giới, trong đó quốc tế hóa và hội nhập đang trở thành một xu thế tất yếu, sự cần thiết phải có
nguồn nhân lực có trình độ cao có thể giao tiếp được bằng ngoại ngữ, đặc biệt là bằng tiếng Anh đã trở
thành một yêu cầu bức thiết đối với Việt Nam. Yêu cầu bức thiết này đã làm cho các chuẩn hiện
hành của dạy, học và sử dụng ngoại ngữ ở Việt Nam trở nên không còn phù hợp. Càng ngày chúng ta càng
ý thức được rằng nếu không đổi mớicăn bản về chính sách, chương trình, sách giáo khoa, phương pháp
giảng dạy, phương thức kiểm tra-đánh giá, thì dạy ngoại ngữ nói chung và dạy tiếng Anh nói riêng ở Việt
Nam sẽ rơi vào nguy cơ bị tụt hậu. Nhận rõ được tầm quan trọng đặc biệt của ngoại ngữ trong thời kì hội
nhập, ngày 30 tháng 9 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã kí
Quyết định Số: 1400/QĐ-TTg ban hành Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong trong hệ thống giáo dục quốc
dân, giai đoạn 2008-2020”(từ đây gọi tắt là Đề án 2020).

Mục tiêu chung của Đề án 2020 là

Đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, triển khai chương trình dạy
và học ngoại ngữ mới ở các cấp học, trình độ đào tạo, nhằm đến năm 2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về
trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên; đến năm
2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiê ̣p trungcấp, cao đẳng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ
sử dụng độc lập, tự tin trong giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa
văn hoá; biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam,[2]phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.

Theo Quyết định Số: 1400/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, lộ trình triển khai của Đề án2020 bao gồm ba
giai đoạn: Giai đoạn 1 từ năm 2008- 2010, Giai đoạn 2  từ năm 2011-2015, Giai đoạn 3 từ năm 2016-2020.
Liên quan đến giáo dục ngoại ngữ ở phổ thông Việt Nam, Đề án 2020xác định rõ nhiệm vụ của từng giai
đoạn như sau:

·        Giai đoạn 1: triển khai thực hiện chương trình giáo dục 10 năm từ lớp 3 môn ngoại ngữ bắt buộc ở các
cấp học phổ thông;

·        Giai đoạn 2: triển khai dạy ngoại ngữ theo chương trình mới cho khoảng 20% số lượng học sinh lớp 3
và mở rộng dần quy mô để đạt khoảng 70% vào năm 2015-2016;

·        Giai đoạn 3: triển khai dạy ngoại ngữ theo chương trình 10 năm trên quy mô cả nước vào năm 2018-
2019 (chi tiết hơn, xin xem, Thủ tướng Chính phủ, 2008: 1).

Về chuẩn năng lực, Đề án 2020 công nhận dứt khoát 6 bậc năng lực củaKhung tham chiếu chung châu Âu
về ngôn ngữ: học tập, giảng dạy, đánh giá (Common European Framework of Reference for Languages:
Learning, Teaching, and Assessment, 2001 [gọi tắt là Khung CEFR]), lấy đó làm các tiêu chuẩn cơ bản cho
việc thiết kế chương trình, biên soạn sách giáo khoa, phát triển phương pháp giảng dạy và thiết kế các hình
thức kiểm tra, đánh giá (xem thêm Hoàng Văn Vân, 2010, 2011).

Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau về mục tiêu của Đề án 2020, nhưng có thể khẳng định rằng sự ra đời của
Đề án 2020 là đúng lúc. Nó là một giải pháp có tính chất quyết định nhằm thúc đẩy việc nâng cao năng lực
ngoại ngữ nói chung và năng lực tiếng Anh nói riêng cho người Việt Nam. Kể từ khi được ban hành, Đề án
2020 đã là chỗ dựa, là điểm tham chiếu cho hàng loạt các hoạt động triển khai ở hai cấp độ trung mô và vi
mô, và đặc biệt, là hành lang pháp lí vững chắc cho việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa ngoại ngữ
nói chung, chương trình và sách giáo khoa tiếng Anh nói riêng mà chi tiết sẽ được trình bày trong hai Mục 3
và 4 dưới đây.

3. Ba chương trình tiếng Anh thí điểm và những điểm mới

Thách thức mới yêu cầu phải có những mục tiêu mới; mục tiêu mới yêu cầu phải có chương trình mới (cf.
Hawkins, 1981). Thực hiện Quyết định Số: 1400/QĐ-TT của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã chỉ đạo Viện Khoa học và Giáo dục Việt Nam tổ chức thiết kế ba chương trình tiếng Anh dành cho
ba cấp học ở phổ thông Việt Nam.Kết quả là,Chương trình tiếng Anh thí điểm tiểu họcđược ban hành theo
Quyết định Số: 3321/QĐ-BGDĐT ngày08 tháng 12 năm 2010 (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2010); Chương trình
giáo dục phổ thông môn tiếng Anh thí điểm cấp trung học cơ sở được ban hành theo Quyết định Số:01/QĐ-
BGDĐT ngày 03 tháng 01 năm 2012 (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2012a); và Chương trình giáo dục phổ thông
môn tiếng Anh thí điểm cấp trung học phổ thông được ban hành theo Quyết định Số: 5209/QĐ-BGDĐT ngày
23 tháng 11 năm 2012(Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2012b).

Ba chương trình tiếng Anh thí điểm dành cho ba cấp học ở phổ thông Việt Namđược thiết kế với sự cộng tác
chặt chẽ của các nhà khoa học giáo dục thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam và một số nhà khoa học
giáo dục ngoại ngữ ở các trường đại học chuyên ngữ; đặc biệt, chúng được thiết kế với sự tham gia trực tiếp
của hai nhà ngôn ngữ học ứng dụng có uy tín cao người Anh của Hội đồng Anh: Giáo sư Rhona Stainthrop
(cho Chương trình tiếng Anh thí điểm tiểu học) và Giáo sư David Hay (cho Chương trình giáo dục phổ thông
môn tiếng Anh thí điểm cấp trung học cơ sở và Chương trình giáo dục phổ thông môn tiếng Anh thí điểm cấp
trung học phổ thông).Ba chương trình tiếng Anhthí điểm được thiết kế dựa vào các nguyên tắc của đường
hướng dạy ngôn ngữ giao tiếp (cf. Breen & Candlin, 1980; Munby, 1997; Richards, 2001; Richards &
Rodgers, 2001; Savignon, 1991, 2002; Littlewood, 2002; xem thêm Hoàng Văn Vân, 2015a) kết hợp
với những phân tích về thực tế văn hoá và xã hội (cf. Taba, 1962) của Việt Nam trong hiện tại và tương lai,
thực tế dạy và học tiếng Anh ở Việt Nam, tham khảo và tiếp thu có phê phán trí tuệ từ nhiều chương
trình dạy tiếng Anh như một ngoại ngữ và như một ngôn ngữ thứ hai của các nước trong khu vực và trên thế
giới như Hoa Kì, Anh, Singapore, Malaysia, Indonesia, Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản,v.v.. Về
kết cấu, đây là các chương trình đa thành phần, lấy phát triển năng lực giao tiếp thông qua các kĩ năng nghe,
nói, đọc, viếtlàm trọng tâm; lấy các thành phần khác như chủ đề, ngữ liệu (ngữ âm, từ vựng, ngữ
pháp) và các khía cạnh văn hoá và giao văn hóa làm các bộ phận cấu thành góp phần vào việc phát triển
năng lực giao tiếp toàn diện bằng tiếng Anh của học sinh phổ thông Việt Nam.

Có ba điểm nổi bật của ba chương trình tiếng Anh thí điểm. Thứ nhất, khác với Chương trình giáo dục phổ
thông môn tiếng Anhđược Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành năm 2006,[3] ba chương trình tiếng Anh thí
điểm, như đã đề cập ở trên, được thiết kế có sự tham gia trực tiếp của các chuyên gia tiếng Anh bản ngữ.
Thứ hai, ba chương trình tiếng Anh thí điểm xác định rõ ràng, nhất quán, và thống nhất mức độ năng lực giao
tiếp học sinh phổ thông phải đạt được sau mỗi lớp, mỗi cấp học, thể hiện sự kế tiếp liên tục từ bậc tiểu học,
đến trung học cơ sở, và đến trung học phổ thông. Thứ ba, ba chương trình tiếng Anh thí điểm lấy chuẩn đầu
ra tương đương[4] với các bậc năng lực giao tiếp của Khung CEFR[5] làm cơ sở để thiết kế chương trình,
biên soạn sách giáo khoa và phát triển khung năng lực cho từng lớp, từng cấp học. Đây là một cách làm bài
bản, xác định và phân vai rõ các khâu thiết kế (chương trình), thi công (biên soạn sách giáo khoa) và thực
hiện (dạy, học và kiểm tra-đánh giá), thể hiệntính liên hoàn trong chu trình: thiết kế chương trình↔ biên soạn
sách giáo khoa↔ định hướng phương pháp dạy học,phương thức kiểm tra-đánh giá, và, đặc biệt, quy định
chuẩn đầu ra cho từng bậc họcở phổ thông đểgiáo dục ngoại ngữ của Việt Nam có thể tiến kịp với giáo dục
ngoại ngữ của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, nhanh chóng đưa Việt Nam hội
nhập vào chuẩn khu vực và chuẩn quốc tế trong lĩnh vực giáo dục ngoại ngữ (chi tiết hơn, xin xem Hoàng
Văn Vân,2015a). Theo đó:

·         Ở bậc tiểu học: học sinh được yêu cầu phải đạt được trình độ tương đương với Bậc A1 của Khung
CEFR hay Bậc 1 trong Khungnăng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.

·         Ở bậc trung học cơ sở: học sinh được yêu cầu phải đạt được trình độ tương đương với Bậc A2 của
Khung CEFR hay Bậc 2 trong Khungnăng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.

·         Ở bậc trung học phổ thông: học sinh được yêu cầu phải đạt được trình độ tương đương với bậc B1
của Khung CEFR hay Bậc 3 trong Khungnăng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam. (Chi tiết hơn, xin xem
Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2014).

Để làm rõ hơn, dựa vào Khung CEFR, ba chương trình tiếng Anh thí điểm đã trình bày năng lực giao tiếp của
từng bậc học như sau:

·         Bậc tiểu học. Có thể hiểu và sử dụng các kiểu diễn đạt quen thuộc hằng ngày và những cụm từ đơn
giản nhằm thỏa mãn nhu cầu giao tiếp cụ thể. Có thể tự giới thiệu mình hoặc người khác, có thể hỏi và trả lời
các câu hỏi về thông tin cá nhân như nơi ở, những người mà mình biết và những thứ mình có. Có thể giao
tiếp một cách đơn giản với điều kiện người cùng giao tiếp nói chậm, rõ ràng và sẵn sàng trợ giúp.[6]

·         Bậc trung học cơ sở. Có khả năng hiểu các câu nói và các cách diễn đạt được sử dụng thường
xuyên liên quan đến những lĩnh vực gần gũi nhất trong đời sống thường nhật (ví dụ như các thông tin rất cơ
bản về cá nhân, gia đình, mua bán, cộng đồng địa phương và công việc). Có thể giao tiếp trong các tình
huống cơ bản và đơn giản đòi hỏi các trao đổi về thông tin đơn giản và trực tiếp về các vấn đề gần gũi và
quen thuộc. Có thể sử dụng các cách nói đơn giản để nói về bản thân, môi trường gần gũi và những vấn đề
liên quan đến nhu cầu trực tiếp.[7]

·        Bậc trung học phổ thông. Có thể hiểu được những điểm chính của ngôn ngữ đầu vào chuẩn mực về
các vấn đề thường xuyên gặp phải trong công việc, ở trường, trong lúc rảnh rỗi, v.v. Có thể xử lí được hầu
hết các tình huống có thể xuất hiện trong khi đi lại ở nơi mà ngôn ngữ (ngoại ngữ) đó được nói. Có thể tạo ra
được văn bản đơn giản, mạch lạc về các chủ đề quen thuộc hay các chủ đề mà cá nhân quan tâm. Có thể
mô tả được những kinh nghiệm, các sự kiện, những ước mơ, những hi vọng và hoài bão và nêu vắn tắt
những lí do hay những giải thích cho quan điểm và kế hoạch của mình.[8]

4. Bộ sách giáo khoa tiếng Anh 10 năm và một số điểm mới

4.1. Một số điểm mới trong tổ chức biên soạn

Cùng với đổi mới chương trình, đổi mới sách giáo khoa cũng là một khâu có tầm quan trọng đặc biệt bởi vì
sách giáo khoa là “một tác nhân của sự thay đổi” (Hutchinson & Hutchinson, 1997: 307); nó tác động trực tiếp
vào việc dạy của giáo viên, việc học của học sinh và, quan trọng hơn, nó góp phần trực tiếp vào việc nâng
cao hiệu quả của quá trình dạy và học. Nhận rõ được tầm quan trọng đặc biệt này, Bộ giáo dục và Đào tạo
đã giao Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam nhiệm vụ tổ chức việc thiết kế và biên soạn bộ sách giáo khoa
tiếng Anh 10 năm theo Đề án ngoại ngữ quốc gia 2020. Đồng thời Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã kí quyết
định thành lập Ban biên soạn bộ sách giáo khoa tiếng Anh 10 năm bao gồm một Tổng chủ biên,các Chủ biên
và các tác giả cho ba cấp: tiểu học, trung học cơ sở, và trung học phổ thông.

Công việc biên soạn bộ sách giáo khoa tiếng Anh 10 năm được bắt đầu từ cuối năm 2010. Trước yêu cầu
cần phải có một bộ sách giáo khoa tiếng Anh 10 năm ngang tầm khu vực và quốc tế, Nhà xuất bản Giáo dục
Việt Nam đã chủ động hợp tác với hai nhà xuất bản danh tiếng trên thế giới là MacMillan Education cho bộ
sách giáo khoa tiếng Anh tiểu học và Pearson Education cho hai bộ sách giáo khoa tiếng Anh trung học cơ
sở và trung học phổ thông.Đây là điểmmới nổi bật thứ nhất trong tổ chức biên soạn sách giáo khoa ngoại
ngữ ở Việt Nam:lần đầu tiên phía Việt Namchủ động tìm đối tác nước ngoài và hợp tác với họ trên cơ sở
bình đẳng về tất cả các khía cạnh quản lí, chuyên môn, và nghiệp vụ.[9]Dựa trên khuôn khổ của sự hợp tác
này, ba nhóm tác giả phía Việt Nam (tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông) và ba nhóm tác giả
tương ứng phía đối tác đã phối hợp và cùng nhau làm việc gần như trong cùng một thời gian dựa vào những
nguyên tắc và nội dung được quy định trong ba chương trình tiếng Anh thí điểm của Bộ giáo dục và Đào tạo.

Điểm mới thứ hai đáng lưu ý là, khác với việc biên soạn bộ sách giáo khoa tiếng Anh 7 năm theoChương
trình giáo dục phổ thông môn tiếng Anhnăm 2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, lần biên soạn này Bộ Giáo
dục và Đào tạo bổ nhiệm một Tổng chủ biên xuyên suốt từ lớp 3 đến lớp 12. Nhiệm vụ của Tổng chủ biên là
nghiên cứu ba chương trình tiếng Anh thí điểm, đề xuất các nguyên tắc biên soạn;cùng với Chủ biên và các
tác giả của từng lớp trong sự cộng tác chặt chẽ với các tác giả của hai nhà xuất bản đối tác thiết kế cấu
trúc sách cho từng năm học, cấu trúc của từng đơn vị bài học, cấu trúc của một tiết học, xác định những nội
dungliên quan đến các kĩ năng ngôn ngữ, khối lượng kiến thức ngôn ngữ và khối lượng kiến thức văn hoá và
giao văn hoá, độ khó dễ của kiến thức và kĩ năng trong từng lớp, từng cấp; điều phối để tạo sự nhất quán
và sự kế tiếp về kiến thức ngôn ngữ, kiến thức văn hoá và kĩ năng ngôn ngữ giữa các lớp và các cấp học
trong toàn bộ bộ sách. Những việc làm này giúp tạo sự liên thông giữa các lớp, các cấp và trong toàn bộ ba
cấp học, tránh được những “vết gãy” về nội dung kiến thức và kĩ năng ngôn ngữ như thường thấy trong biên
soạn sách giáo khoa trước kia khi mỗi cấp học có một tổng chủ biên riêng biệt.

Điểm đổi mới thứ ba trong tổ chức biên soạn bộ sách giáo khoa tiếng Anh 10 năm là sự “cộng tác giao văn
hoá” (Hoàng Văn Vân, 2015a) có hiệu quả giữa các tác giả Việt Nam với các tác giả của hai nhà xuất bản đối
tác nước ngoài mà tiếng Anh là môn học có vinh dự được Bộ Giáo dục và Đào tạo giao cho nhiệm vụ đi tiên
phong. Qua gần bốn năm cùng nhau làm việc, sự cộng tác này tỏ ra rất có hiệu quả. Nó kết hợp được trình
độ chuyên môn và kinh nghiệm trong nướctrong biên soạn sách giáo khoa tiếng Anh của các tác giả Việt
Nam và trình độ chuyên môn và kinh nghiệm quốc tế trong biên soạn sách giáo khoa tiếng Anh của các tác
giả tiếng Anh bản ngữ. Nó vừa phản ánh được những giá trị Việt Nam vừa phản ánh được những giá trị quốc
tế vào trong bộ sách giáo khoa. Nó thách đố với các tác giả Việt Nam nhưng lại giúp họ nâng cao trình độ
chuyên môn và mở rộng tầm nhìn của họ trong việc biên soạn sách giáo khoa tiếng Anhtrong bối cảnh hội
nhập.Nó cũng thách đố với các tác giả tiếng Anh bản ngữ của hai nhà xuất bản đối tác nhưng lại giúp họ có
thêm kinh nghiệm và hiểu thêm được rằng biên soạn sách tiếng Anh của những tác giả “bên ngoài” nhằm
phục vụ cho đối tượng người học cụ thể trong một quốc gia cụ thể như họ vẫn làm và như một số người Việt
Nam sính ngoại vẫn nghĩ là không còn phù hợp, nhất là khi chúng ta đang sống trong một thế giới tương tác
lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau chứ không phải là trong một thế giới trong đó quốc gia này lệ thuộc vào quốc
gia kia.

Những gì mà các tác giả Việt Nam và các tác giả của hai nhà xuất bản đối tác đã cùng nhau cộng tác
trong gần bốn(từ 2012 đến 2016) đã chứng minh được rằng mặc dù trải qua những khác biệt về văn hoá,
thậm chí cả vềcách tiếp cận và quan điểm biên soạn sách, nhưng với mục đích muốn có những cuốn sách
giáo khoa chất lượng cao phục vụ cho việc dạy và học tiếng Anh có hiệu quả hơn ở Việt Nam, các tác giả đã
tạo ra được những sản phẩm mới có chất lượng cao với những điểm đổi mới nổi bật mà sẽ được trình bày
trong Mục 4 dưới đây.

4.2. Một số điểm mới trong bộ sách giáo khoa tiếng Anh 10 năm

Nói về những điểm mới của sản phẩm mà mình tạo ra thường là một việc làm khó khăn nếu như không nói là
nhạy cảm. Tuy nhiên, từ góc nhìn của các tác giả, có thể nêu ra một số điểm mới của bộ sách giáo khoa
tiếng Anh 10 năm như sau:

1. Bộ sách giáo khoa tiếng Anh phổ thông 10 năm bám sát vào những nguyên tắc, yêu cầu và nội dung của
ba chương trình tiếng Anh thí điểm của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

2. Bộ sách giáo khoa tiếng Anh phổ thông 10 năm được biên soạn theo quan điểm đa thành phần, lấy phát
triển năng lực giao tiếp thông qua các kĩ năng (nghe, nói, đọc, viết)làm trọng tâm; lấy các thành phần khác
như chủ đề, ngữ liệu (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) và các khía cạnh văn hoá, giao văn hóa làm các bộ phận
cấu thành góp phần vào việc phát triển năng lực giao tiếp toàn diện bằng tiếng Anh của học sinh phổ
thông Việt Nam.

3. Bộ sách giáo khoa tiếng Anh 10 năm chủ trương nhấn mạnh vào hai kĩ năng khẩu ngữ (nghe và nói) ở bậc
tiểu học, giảm dần ở bậc trung học cơ sở và đến bậc trung học phổ thông bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết
được quan tâm ngang nhau. Chi tiết được trình bày trong Bảng 1.

Bảng 1. Tỉ lệ các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết trong các cấp học của bộ sách giáo khoa tiếng Anh 10 năm

  Nghe Nói Đọc Viết


Tiểu học 35% 35% 15% 15%
Trung học cơ sở 30% 30% 20% 20%
Trung học phổ thông 25% 25% 25% 25%
 

4. Bộ sách giáo khoa tiếng Anh 10 năm được thiết kế xoay quanh các chủ đề quen thuộc với học sinh Việt
Nam, phù hợp với tâm lí lứa tuổicủa từng cấp học.

5. Bộ sách giáo khoa tiếng Anh 10 năm được thiết kế chi tiết dựa vào khung thời lượng quy định trong 3
chương trình tiếng Anh thí điểm của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Theo đó, tổng thời lượng dành cho cả ba cấp
học là 1155 tiết, trong đó bậc tiểu học là 420 tiết, 140 tiết mỗi năm học; bậc trung học cơ sở
là420 tiết, 105 tiết mỗi năm học; và bậc trung học phổ thông là 315 tiết, 105 tiết mỗi năm học. Thời lượng
phân bổ cho từng cấp học và từng năm học sau đó được phân nhỏ ra thànhthời lượng giảng dạy trên lớp
cho mỗi cấp/mỗi năm học và thời lượng dành cho ôn tập, kiểm tra và dự phòng cho mỗi cấp/mỗi năm học.
Chi tiết được trình bày trong Bảng 2.

Bảng 2. Thời lượng dành cho mỗi cấp/mỗi năm học và thời lượng dành cho giảng dạy trên lớp, ôn tập, kiểm
tra và dự phòng mỗi cấp/mỗi năm học

  Thời lượng cho mỗi Thời lượng giảng dạy Thời lượng ôn tập, kiểm tra và
cấp/mỗi năm học trên lớpcho mỗi dự phòng cho mỗi cấp/mỗi năm
cấp/mỗi năm học học
Tiểu học 420/140 360/120 60/20
TH cơ sở 420/105 336/84 84/21
TH phổ thông 315/105 264/88 51/17
Tổng thời lượng 1155 960 195
 
6. Bộ sách giáo khoa tiếng Anh 10 năm có cấu trúc rõ ràng cho từng cấp học: 20 đơn vị bài học và 4 đơn vị
bài ôn cho bộ sách sách tiếng Anh tiểu học, 12 đơn vị bài học và 4 đơn vị bài ôn cho bộ sách tiếng Anh trung
học cơ sở, và 10 đơn vị bài học và 4 đơn vị bài ôn cho bộ sách tiếng Anh trung học phổ thông. Chi tiết được
trình bày trong Bảng 3.

Bảng 3. Cấu trúc của bộ sách giáo khoa tiếng Anh 10 năm

  Số đơn vị bài học/ Số tiết/một đơn vị bài Thời lượng ôn tập, kiểm tra và
năm học dự phòng
Tiểu học 20 6 20
TH cơ sở 12 7 21
TH phổ thông 10 8 24
 

7. Bộ sách giáo khoa tiếng Anh 10 năm có cấu trúc của một đơn vị bài học trong mối quan hệ với thời lượng
giảng dạy được thiết kế rõ ràng cho từng cấp học. Theo đó, một đơn vị bài học của bộ sách giáo khoa tiếng
Anh tiểu học bao gồm 3 bài học (bao gồm Lesson 1, Lesson 2, Lesson 3), mỗi bài 2 tiết, mỗi tiết 35 phút;
một đơn vị bài học của bộ sách giáo khoa tiếng Anh trung học cơ sở bao gồm 7 bài học (bao gồm Getting
Started, A Closer Look 1, A Closer Look 2, Communication & Culture, Skills 1 (Reading &
Speaking), Skills 2 (Listening & Writing), Looking Back & Project), mỗi bài 1 tiết, mỗi 45 phút; và một đơn vị
bài học của bộ sách giáo khoa tiếng Anh trung học phổ thông bao gồm 8 bài học (bao gồm Getting
Started, Language (Vocabulary, Pronunciation, and
Grammar), Skills (Reading, Speaking, Listening, Writing), Communication &Culture, Looking Back &
Project), mỗi bài 1 tiết, mỗi tiết 45 phút.Chi tiết được trình bày trong Bảng 4.

Bảng 4. Số lượng các đơn vị bài học, các thành phần và nhan đề các thành phần của một đơn vị bài học ở
ba cấp học

  Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông


Số lượng các đơn vị bài học 20 12 10
Số lượng các thành phần của 3 7 8
một đơn vị bài học
 
Nhan đề các thành phần § Lesson 1 § Getting Started § Getting Started

§ Lesson 2 § A Closer Look 1 § Language (Vocabulary,


Pronunciation, Grammar)
§ Lesson 3 § A Closer Look 2
§ Reading
§ Communication &
Culture § Speaking

§ Skills 1 (Reading & § Listening


Speaking)
§ Writing
§ Skills 2 (Listening &
Writing) § Communication & Culture

§ Looking Back & Project § Looking Back & Project

 
Thời lượng dành cho mỗi 2 tiết 1 tiết 1 tiết
nhan đề
 
8. Bộ sách giáo khoa tiếng Anh 10 năm lấy giọng Anh-Anh để thu âm; việc thu âm đượchai nhà xuất bản đối
tác đảm nhiệm, với những giọng nói tiếng Anh chuẩn mực, khá đa dạng, đạt chất lượng âm thanh quốc tế.

9. Sách (hướng dẫn) giáo viên của bộ sách giáo khoa tiếng Anh 10 năm được viết bằng tiếng Anh và được
viết tích hợp cùng với Sách học sinh, giúp giáo viên vừa nâng cao trình độ tiếng Anh, vừa sử dụng sách
thuận lợi hơn.

10. Bộ sách giáo khoa tiếng Anh 10 năm có hình thức sách đẹp, in bốn màu, chất lượng trình bày và tranh
ảnh đạt trình độ tương đương với các bộ sách tiếng Anh ở khu vực và trên thế giới.

11. Bộ sách giáo khoa tiếng Anh 10 năm được thẩm định bởi các Hội đồng thẩm định quốc gia bao gồm các
chuyên gia về giáo dục tiếng Anh cả trong và ngoài nước, các giáo viên phổ thông có kinh nghiệm và có trình
độ chuyên môn cao để đảm bảo bộ sách đạt được tất cả các yêu cầu về kiến thức ngôn ngữ, kĩ năng ngôn
ngữ, kiến thức văn hoá, đặc biệt là các yêu cầu về văn hóa, chính trị và xã hội của Việt Nam.

4.3. Những kết quả đạt được

Sau gần 6 năm thực hiện nhiệm vụ được Bộ giáo dục và Đào tạo giao,gần 4 năm hợp tác với các tác giả và
biên tập viên của hai nhà xuất bản đối tác nước ngoài, Ban biên soạn bộ sách giáo khoa tiếng Anh 10 năm
theo Đề án Ngoại ngữ quốc gia 2020 đã hoàn thành nhiệm vụ; đã biên soạn xong 54 cuốn sách bao gồm
Sách học sinh, Sách giáo viên, Sách bài tập và 20 đĩa CD. Cụ thể như sau.

·      Bậc Tiểu học:

Tiếng Anh 3 (2 tập Sách học sinh, Sách giáo viên, Sách bài tập, 2 đĩa CD)

Tiếng Anh 4 (2 tập Sách học sinh, Sách giáo viên, Sách bài tập, 2 đĩa CD)

Tiếng Anh 5 (2 tập Sách học sinh, Sách giáo viên, Sách bài tập, 2 đĩa CD)

·      Bậc Trung học cơ sở:

Tiếng Anh 6 (2 tập Sách học sinh, 2 tập Sách giáo viên, 2 tập Sách bài tập, 2 đĩa CD) Tiếng Anh 7 (2 tập
Sách học sinh, 2 tập Sách giáo viên, 2 tập Sách bài tập, 2 đĩa CD) Tiếng Anh 8 (2 tập Sách học sinh, 2 tập
Sách giáo viên, 2 tập Sách bài tập, 2 đĩa CD) Tiếng Anh 9 (2 tập Sách học sinh, 2 tập Sách giáo viên, 2 tập
Sách bài tập, 2 đĩa CD)

·      Bậc Trung học phổ thông:

Tiếng Anh 10 (2 tập Sách học sinh, 2 tập Sách giáo viên, 2 tập Sách bài tập, 2 đĩa CD)

Tiếng Anh 11 (2 tập Sách học sinh, 2 tập Sách giáo viên, 2 tập Sách bài tập, 2 đĩa CD)

Tiếng Anh 12 (2 tập Sách học sinh, 2 tập Sách giáo viên, 2 tập Sách bài tập, 2 đĩa CD).

5. Kết luận

Việc ban hành Đề án Ngoại ngữ Quốc gia 2020 là một quyết định đúng đắn của Chính phủ. Việc thiết kế
thành công ba chương trình tiếng Anh thí điểm ở bậc phổ thông và biên soạn thành công bộ sách giáo khoa
tiếng Anh 10 năm theo Đề án 2020 là một giải pháp đột phácủa Bộ Giáo dục và Đào tạo trong tiến trình nâng
cao chất lượng dạy và học tiếng Anh ở trường phổ thông.
Bộ sách giáo khoa tiếng Anh 10 năm được biên soạn với nhiều điểm mới; có chất lượng cả về hình thức và
nội dung; có cấu trúc rõ ràng; được biên soạn theo ba chương trình tiếng Anh thí điểm, với sự cộng tác chặt
chẽ của các tác giả và biên tập viên của hai nhà xuất bản đối tác nước ngoài; bước đầu được nhiều giáo viên
trong các trường dạy thí điểm công nhận là có chất lượng cao, thân thiện với người dạy và người học, gần
với chuẩn quốc tế, trong khi giá cả lại phù hợp với điều kiện của những gia đình có thu nhập trung bìnhở Việt
Nam (chi tiết hơn, xin xem Hoàng Văn Vân, 2015b).

“Good materials must be propagated through intensive practical workshops. A training corps needs to be
trained by the authors themselves to familiarize the teachers with the paradigm behind the textbooks, the
rationale, the techniques and practices, and to help them demonstrate their actual classroom use in simulated
or live classes.” (Gonzales, 1995: 7).(Các tài liệu giảng dạy tốt phải được phổ biến rộng rãi thông qua các
cuộc hội thảo thực hành và chuyên sâu sâu. Một đội ngũ cán bộ làm công tác bồi  dưỡng cần phải được
chính các tác giả huấn luyện để các giáo viên [phổ thông] được làm quen với mô hình nằm ở phía sau các tài
liệu đó, lí do, các thủ thuật và thực tiễn, và để giúp họ thể hiện/chứng minh thực tế lớp học của mình trong
các lớp học mô phỏng hoặc trong các lớp học trực tiếp). Nhận định của tác giả sách giáo khoa nổi tiếng
người Philippines Gonzalez có những nội dung rất phù hợp với những gì Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại
học Quốc gia Hà Nội của chúng ta đang làm hôm nay: Tổ chức Hội nghị cấp quốc gia “Giới thiệu bộ tài liệu
bồi dưỡng giáo viên sử dụng sách giáo khoa tiếng Anh mới theo mô hình bồi dưỡng giáo viên mới (kết hợp
trực tiếp và trực tuyến)”, kết nối giữa sách với người sử dụng sách. Thông qua danh sách các thành phần
tham dự, Hội nghị có thể được xem như là một dàn nhạc khá hoàn chỉnh, bao gồm cả người viết nhạc (tác
giả sách giáo khoa), người đạo diễn (Trường Đại học Ngoại ngữ), người dạy nhạc (các cán bộ giảng dạy
tiếng Anh của Trường Đại học Ngoại ngữ – những người sử dụng bộ tài liệu bồi dưỡng để tập huấn cho giáo
viên phổ thông), và các nhạc công (các thày cô giáo tiếng Anh của các trường phổ thông – những người tiếp
thu kiến thức từ bộ tài liệu bồi dưỡng để khai thác bộ sách giáo khoa tiếng Anh mới có hiệu quả). Trong dàn
nhạc này, người viết nhạc có thể đã viết ra một bản nhạc chưa hoàn toàn ưng ý, nhưng nếu nó được đạo
diễn, được dàn dựng bài bản, và được thể hiện bởi các nhạc công chuyên nghiệp, chơi nhạc không còn lệ
thuộc nhiều vào bản nhạc mà bằng những biến tấu (variations) phù hợp thì bản nhạc có thể vẫn được công
chúng (học sinh) đón nhận và đánh giá cao. Về phía cá nhân, tôi cho rằng Hội nghị hôm này là một sáng kiến
mới của nhà trường. Thay mặt các tác giả tôi xin chân thành cảm ơn nhà trường đã cho chúng tôi được tham
gia như là một phần của sáng kiến tuyệt vời này. Tôi tin tưởng rằng sau Hội nghị quan trọng hôm nay, sự kết
hợp giữa người viết sách, người đạo diễn và người sử dụng sách trong bản phối có nhan đề “Giới thiệu bộ
tài liệu bồi dưỡng giáo viên sử dụng sách giáo khoa tiếng Anh mới theo mô hình bồi dưỡng giáo viên mới
(kết hợp trực tiếp và trực tuyến)” sẽ ngày càng chặt chẽ, sẽ được nhân rộng và đi xa hơn nữa vào đời sống
dạy và học tiếng Anh ở trường phổ thông Việt Nam, góp phần vào tiến trình nâng cao chất lượng dạy và học
môn học, “phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (Thủ tướng Chính phủ, 2008: 1) trong
thời kì hội nhập và toàn cầu hoá.

Tài liệu tham khảo

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006). Chương trình giáo dục phổ thông môn tiếng Anh(English Curriculum for
Vietnamese Schools). (Ban hành theo Quyết định Số: 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05 tháng 5 năm 2006 của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010). Chương trình tiếng Anh thí điểm tiểu học (Pilot English Curriculum for
Vietnamese Primary Schools). (Ban hành theo Quyết định Số: 3321/QĐ-BGDĐT ngày 12 tháng 8 năm 2010
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012a). Chương trình giáo dục phổ thông môn tiếng Anh thí điểm cấp trung học cơ
sở(Pilot English Curriculum for Vietnamese Lower Secondary Schools). (Ban hành theo Quyết định Số:
01/QĐ-BGDĐT ngày 03 tháng 01 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012b). Chương trình giáo dục phổ thông môn tiếng Anh thí điểm cấp trung học phổ
thông (Pilot English Curriculum for Vietnamese Upper Secondary Schools). (Ban hành theo Quyết định Số:
5290/QĐ-BGDĐT ngày 23 tháng 11 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014). Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam (Six-level Foreign
Language Competency Framework for Vietnam).(Ban hành kèm theo Thông tư Số: 01/2014/TT-BGDĐT ngày
24 tháng 01 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).

Breen, M. P. & C. N. Candlin (1980). The Essentials of a Communicative Curriculum in Language Teaching.
(In) Applied Linguistics, Vol. 1, No. 2. Pp. 89-112.

Common European Framework of Reference for Languages: Learning, Teaching, and Assessment (CEFR).
(2001). Cambridge: Cambridge University Press.

Crystal, D. (2003). English as a Global Language. Second Edition. Cambridge: Cambridge University Press.

Gonzales, A. (1995). Materials Across Three Paradigmatic Generations. (In) Getting Started: Material Writers
on Materials Writing. SEMEO Regional Language Centre: Singapore.

Hawkins, E. (1981). Modern Languages in the Curriculum. Cambridge: Cambridge University Press.

Hoàng Văn Vân (2010). The Current Situation and Issues of the Teaching of English in Vietnam. Ritsumikan
Studies in Language and Culture, Vol. 22 No.1. Pp. 7-18.

Hoàng Văn Vân (2011). The Role of Textbooks in the Implementation of the National Project “Teaching and
Learning Foreign Languages in the National Education System, Period 2008-2020”. Proceedings of
the International Conference on Textbooks for the 21th Century. Reprinted in Khoa học Ngoại ngữ, Số 30,
Năm 2012. Trang 75-89.

Hoàng Văn Vân (2015a). The Development of the Ten-year English Textbook Series for Vietnamese Schools
under the National Foreign Language 2020 Project: A Cross-cultural Collaborative Experience. Paper
Addressed at the Plenary Session of the International TESOL Symposium: English Language Innovation,
Implementation, and Sustainability, Held in Danang, Vietnam on 28-29 July, 2015. Reprinted in VNU Journal
of Science – Foreign Studies. Vol. 31. N0. 3. 2015. Pp. 1-17.

Hoàng Văn Vân (2015b). Teacher’s Evaluation of Primary English Textbooks for Vietnamese Schools under
the National Foreign Language Project 2020: A Preliminary Internal Survey. Proceedings of the VietTESOL
International Conference Held at Hanoi University of Education on November 27, 2015. Reprinted in VNU
Journal of Science – Education Research. Vol. 31. N0. 4. 2015. Pp. 1-15.

Hutchinson, T. & U. G. Hutchinson (1997). Textbook as Agent of Change. (In) Power, Pedagogy and Practice.
Hedge, T. & N. Whitney (Eds.). Oxford: Oxford University Press.

Littlewood, W. (2002). Communicative Language Teaching: An Introduction. Twenty Second Printing.


Cambridge: Cambridge University Press.

Munby, J. (1997). Communicative Syllabus Design. Cambridge: Cambridge University Press.

Richards, J. C. & T. S. Rodgers (2001). Approaches and Methods in Language Teaching. Second Edition.
Cambridge: Cambridge University Press.

Richards, J. C. (2001). Curriculum Development in Language Teaching. Cambridge: Cambridge University


Press.

Savignon, S. J. (1991). Communicative Language Teaching: State of the Art. (In) TESOL QUARTERLY. Vol.
25, No. 2. Summer 1991. Pp. 261-276.

Savignon, S. J. (2002). Interpreting Communicative Language Teaching: Context and Concerns in Teacher


Education. New Haven & London: Yale University Press.

Taba, H. (1962). Curriculum Development: Theory and Practice. New York: Harcourt, Brace & World, Inc.

Thủ tướng Chính phủ (2008). Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, giai đoạn
2008-2020” (Teaching and Learning Foreign Languages in the National Education System, Period 2008-
2020). (Ban hành theo Quyết định Số: 1400/QĐ-TTg ngày 30 tháng 9 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ).
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam (2008). Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai
đoạn 2008-2020(Teaching and Learning Foreign Languages in the National Education System, Period 2008-
2020). Tài liệu không xuất bản. Hà Nội - 2008.

Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam (2012). Tổng kết nghiên cứu về chương trình giáo dục phổ thông Việt
Nam từ năm 1945 đến nay (An Evaluative Report on the Development of Vietnamese General Education
Curricula from1945 to the Present). Tài liệu không xuất bản. Hà Nội - 12/2012.

[1]Phần in đậm là do chúng tôi nhấn mạnh

[2]Phần in đậm là do chúng tôi nhấn mạnh.

[3]Chương trình giáo dục phổ thông môn tiếng Anh (cho hai bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông)
được thiết kế vào cuối những năm 1990 và được chính thức ban hành theo Quyết định Số: 16/2006/QĐ-
BGDĐT ngày 05 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.

[4] Phần in đậm là do chúng tôi nhấn mạnh. Hàm ý ở đây là chuẩn đầu ra của ba chương trình tiếng Anh thí
điểm cho ba bậc học ở trường phổ thông Việt Nam tương đương với chuẩn đầu ra của các nước tiên tiến
trên thế giới. Cụ thể của những sự tương đương này do chúng ta xác định, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam.

[5]Khung tham chiếu chung châu Âu về ngôn ngữ: học tập, giảng dạy, đánh giá được thiết kế và ban hành từ
những năm 1970 của thế kỉ XX. Khung tham chiếu này đã được các nước trong cộng đồng châu Âu công
nhận và được áp dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới. Trong những năm gần đây, Khung tham chiếu
chung châu Âu về ngôn ngữ: học tập, giảng dạy, đánh giá cũng đã được nhiều quốc gia châu Á, kể cả Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc dựa vào để phát triển chương trình, biên soạn sách giáo khoa và xây dựng
khung năng lực ngoại ngữ dành riêng cho quốc gia mình.

[6] Sách đã dẫn, trang 24. Đoạn trích xuất hiện trong nguyên bản tiếng Anh như sau:

Can understand and use familiar everyday expressions and very basic phrases aimed at the satisfaction of
needs of a concrete type. Can introduce himself/herself and others and can ask and answer questions about
personal details such as where he/she lives, people he/she knows and things he/she has. Can interact in a
simple way provided the other person talks slowly and clearly and is prepared to help.

[7] Sách đã dẫn, trang 24. Đoạn trích xuất hiện trong nguyên bản tiếng Anh như sau:

Can understand sentences and frequently used expressions related to areas of most immediate relevance
(e.g. very basic personal and family information, shopping, local geography, employment). Can communicate
in simple and routine tasks requiring simple and direct exchange of information on familiar and routine
matters. Can describe in simple terms aspects of his or her background, immediate environment and matters
in areas of immediate need.

[8] Sách đã dẫn, trang 24. Đoạn trích xuất hiện trong nguyên bản tiếng Anh như sau:

Can understand the main points of clear standard input on familiar matters regularly encountered in work,
school, leisure, etc. Can deal with most situations likely to arise whilst travelling in an area where the
language is spoken. Can produce simple, connected text on topics which are familiar or of personal interest.
Can describe experiences and events, dreams and hopes and ambitions and briefly give reasons and
explanations for opinions and plans.

[9]Hợp tác với nước ngoài trong biên soạn sách giáo khoa ở Việt Nam đã có từ trước đó. Tuy nhiên, trong
những sự hợp tác này Việt Nam chúng ta thường ở thế yếu, thế bị động, phần nhiều đường hướng biên
soạn và nội dung biên soạn trong sách đều do người nước ngoài đề xuất và quyết định bởi vì họ là các nhà
tài trợ, tác giả của họ là những “người bản ngữ”, còn chúng ta là những người nhận tài trợ và tác giả của
chúng ta là những người “không phải là những người bản ngữ”.

You might also like