« Home « Kết quả tìm kiếm

TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp.HCM CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN TRONG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC


Tóm tắt Xem thử

- CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN TRONG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC Lu Tùng Thanh, Nguyễn Thành Nhân* Khoa Giáo dục, Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đai Học Quốc Gia TP.HCM TÓM TẮT Thông qua việc nghiên cứu về Kỹ năng mềm, tìm hiểu sự phát triển Kỹ năng mềm trên Thế giới và hiện trạng đào tạo Kỹ năng mềm tại Việt Nam, bài viết đặt ra nền tảng khoa học cho vấn đề phát triển Kỹ năng mềm cho Sinh viên trong chương trình đào tạo Đại học.
- ĐẶT VẤN ĐỀ Sinh viên - Học sinh Việt Nam chúng ta rất tự hào về thành tích học tập của mình và vốn nổi tiếng ở tinh thần tự chủ trong học tập.
- Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện trạng này, trong đó, nguyên nhân nổi bật là Sinh viên Việt Nam còn thiếu và yếu Kỹ năng mềm.
- Theo số liệu của Viện Nghiên cứu Giáo dục Việt Nam, hiện nay có đến 83% sinh viên tốt nghiệp ra trường bị đánh giá là thiếu kỹ năng mềm, 37% sinh viên không tìm được việc làm phù hợp do kỹ năng yếu.
- Còn theo điều tra của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, trong tổng số các sinh viên tốt nghiệp hàng năm, hơn 13% phải được đào tạo lại hoặc bổ sung kỹ năng, gần 40% phải được kèm cặp lại tại nơi làm việc và 41% cần thời gian làm quen với công việc qua một thời gian nhất định mới có thể thích ứng [2].
- Qua đó, cho thấy những thiếu sót trong việc đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên bên cạnh bồi dưỡng kiến thức chuyên môn trên trường lớp.
- Sinh viên Việt Nam là nguồn nhân lực trẻ đầy tiềm năng, là trụ cột phát triển nền kinh tế quốc gia trong tương lai.
- Dưới sức ép của kinh tế thị trường, cơ hội giao thương mở cửa cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân nước ngoài, đòi hỏi sinh viên cần hoàn thiện hơn về kỹ năng mềm ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường để có thể tự tin và bản lĩnh khi bước chân ngoài xã hội.
- TỔNG QUAN VỀ KỸ NĂNG MỀM TRÊN THẾ GIỚI VÀ TẠI VIỆT NAM Trên dòng lịch sử những năm 70 - 80, nhiều tác giả đã đưa ra những quan niệm khác nhau về Kỹ năng, trong đó nổi bật là 2 khuynh hướng: xem xét kỹ năng nghiêng về mặt kỹ thuật của thao tác (khuynh hướng 1) và xem xét kỹ năng nghiêng về mặt năng lực hành động của con người (khuynh hướng 2).
- Kết hợp 2 khuynh hướng cho thấy kỹ năng vừa là mặt kỹ thuật của hành động hay còn gọi là cách thức thực hiện hành động hay công việc cụ thể nào đó, vừa là biểu hiện năng lực của con người.
- [3] Kỹ năng có thể được phân ra làm 2 loại: kỹ năng cứng và kỹ năng mềm.
- Theo Melih Arat (2014), kỹ năng cứng là những kỹ năng cụ thể mà chúng ta dễ dàng học được từ trường lớp và sử dụng ngay trong công việc.
- Còn Kỹ năng mềm là những kỹ năng khó nhìn thấy được, cần thông qua đào tạo phát triển cá nhân, sử dụng trong cả công việc và cuộc sống.
- Trong tác phẩm Trí tuệ xúc cảm (Emotional Intelligence, 1995) của Daniel Goleman [5], ông đã đề cập chỉ số xúc cảm EQ (Emotional Quotient) là chỉ số đo lường năng lực, khả năng hay cụ thể là kỹ năng của một người về việc cảm nhận, đánh giá và quản lý xúc cảm của bản thân, của người khác hay của một nhóm người.
- Trong tác phẩm Sự thật cứng về Kỹ năng mềm (The hard truth about soft skills Peggy Klaus cũng đã làm rõ thuật ngữ kỹ năng mềm, cho rằng Kỹ năng mềm bao gồm các hành vi cá nhân, xã hội, giao tiếp và khả năng kiểm soát bản thân.
- Ở mức độ nào đó, theo ông, IQ chính là thứ thước đo năng lực thiên phú, nhưng thái độ khôn ngoan trong ứng xử với xã hội (trí thông minh thực tiễn) lại là một loại kiến thức, nó là kỹ năng buộc người ta phải học.
- Năm 2013, trong bài viết “Các Kỹ năng mềm quan trọng cho Sinh viên Đại học ở thế kỉ 21” (Important Soft Skills for University Students in 21th Century), các tác giả Abbas Abdoli Sejzi, Baharuddin Aris và Chan Pey Yuh đã đưa ra khái niệm khá toàn diện về Kỹ năng mềm như sau: Kỹ năng mềm là thuật ngữ liên quan đến tập hợp các thuộc tính tích cực, mang tính cá nhân giúp tăng cường mối quan hệ, nâng cao hiệu suất công việc và đóng góp giá trị cho xã hội.
- Kỹ năng mềm được đề cập đến như tập hợp các kỹ năng quyết định cách thức chúng ta tương tác với người khác.
- Kỹ năng mềm đóng vai trò vô cùng quan trọng tại công sở cũng như trong lộ trình thành công của một cá nhân.
- [8] Nhiều nghiên cứu và đề xuất phân loại Kỹ năng mềm được tiến hành tại các Quốc gia trên thế giới, đơn cử như.
- 13 kỹ năng cơ bản cần thiết để thành công trong công việc của Bộ Lao động Hoa Kỳ cùng Hiệp hội Đào tạo và Phát triển Hoa Kỳ đưa ra TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp.HCM.
- 8 kỹ năng hành nghề cho tương lai của Hội đồng Kinh doanh Úc và Phòng thương mại & công nghiệp Úc với sự bảo trợ của Bộ Giáo dục, Đào tạo và Khoa học - 6 kỹ năng nghề cho thế kỷ 21 của Bộ Phát triển Nguồn Nhân lực và Kỹ năng Canada - 10 kỹ năng hành nghề trong hệ thống ESS do Cục phát triển lao động WDA – thuộc chính phú Singapore thiết lập.
- Trong đó nổi bật là “Kỹ năng thiết yếu thế kỷ 21” được Tổ chức Đánh giá và Giảng dạy Các Kỹ năng của Thế kỷ 21, gọi tắt là AT21CS (Assessment and Teaching of 21 Century Skills) tại Đại học Melbourne (Úc) nghiên cứu và phát triển vào năm 2002.
- Tại Việt Nam, thuật ngữ Kỹ năng mềm được phổ biến rộng rãi trong giai đoạn từ năm 2003.
- Năm 2009, Trung tâm hỗ trợ Sinh viên Tp.HCM tổ chức diễn đàn, cho ra mắt tài liệu “Những kỹ năng thực hành xã hội cần thiết cho Sinh viên” [11].
- Tài liệu là cẩm nang gồm các kỹ năng mềm dành cho bạn trẻ trong thời kỳ hội nhập và phát triển của đất nước.
- Chủ đề Kỹ năng mềm nhận được sự thu hút quan tâm của nhiều tác giả với những công trình nghiên cứu, biên soạn tài liệu như: Lê Công Phượng, Nguyễn Thị Oanh, Nguyễn Thanh Bình, Huỳnh Văn Sơn, Lại Thế Luyện,… Tất cả đều vì mục tiêu chung trong việc hệ thống các Kỹ năng mềm cần thiết mà Sinh viên Việt Nam cần được trang bị để có thể hợp tác và phát triển trong thế kỷ 21.
- VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG MỀM CỦA SINH VIÊN TRONG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC Theo nhận định của TS.Lê Thị Mai Thanh – Trưởng ban công tác Sinh viên ĐH Quốc Gia Tp.HCM trong đề án “Nâng cao hiệu quả đào tạo kỹ năng mềm ĐH Quốc gia TP.HCM giai đoạn đã chỉ ra rằng hầu hết Kỹ năng mềm các trường mới chỉ dừng lại ở tên gọi trong chuẩn đầu ra các chương trình giáo dục.
- Tại trường ĐH Bách Khoa, ngoài môn giao tiếp ngành nghề và một số buổi đào tạo kỹ năng mềm được tổ chức, thì nhìn chung hoạt động đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.
- Chương trình đào tạo tại Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn được biên soạn, cập nhật phong phú, có lồng ghép kiến thức chuyên môn, ứng dụng nghiệp vụ.
- Tuy nhiên, các khóa học vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của số đông sinh viên và thời lượng chỉ đủ trang bị kỹ năng cơ bản, chưa đủ để các em tham gia những tình huống thực tế.
- Sinh viên Trường ĐH Quốc tế có phần chưa hài lòng với chất lượng giảng viên và quy mô lớp đông.
- Việc đào tạo kỹ năng mềm tại trường ĐH Công nghệ Thông tin hiện nay còn phụ thuộc vào chương trình giáo dục ở từng Khoa, chưa có sự định hướng chung ở cấp trường.
- Chương trình đào tạo kỹ năng mềm tại Trường ĐH Kinh tế - Luật đa dạng nhưng còn mang tính tự nguyện, ngoại khóa, chưa có sự định hướng tổng thể từ phía trường.
- [12] Các vấn đề trên xuất phát từ những thiếu sót trong khâu: thiết kế xây dựng, tổ chức thực hiện và đánh giá kết quả đào tạo Kỹ năng mềm từ phía nhà trường.
- Để công tác tổ chức hoạt động đào tạo Kỹ năng mềm đạt hiệu quả, cần có những giải pháp mang tính hệ thống, toàn diện.
- Theo Edward F.Crawley (2007): CDIO (Conceive - hình thành ý tưởng, Design - thiết kế, Implement – triển khai và Operate - vận hành) là một đề xướng quốc tế lớn được hình thành để đáp ứng nhu cầu một thập kỷ mới của các doanh nghiệp và các bên liên quan khác trên toàn thế giới trong việc nâng cao khả năng của sinh viên tiếp thu các kiến thức cơ bản, đồng thời đẩy mạnh việc học các kỹ năng cá nhân và giao tiếp, kỹ năng kiến tạo sản phẩm, quy trình và hệ thống.
- Nội dung 1 (Chương trình đào tạo.
- Nội dung 2, 3 là cơ sở của phương thức tổ chức hoạt động đào tạo - Nội dung 5 là cơ sở của vấn đề kiểm tra, đánh giá chương trình - Nội dung 4 là cơ sở của việc tổ chức hoạt động trải nghiệm và môi trường phù hợp Không chỉ cho những môn chuyên ngành, mà việc áp dụng CDIO vào công tác phát triển Kỹ năng mềm trong chương trình đào tạo sẽ đảm bảo tính khoa học, toàn diện trong quá trình xây dựng và triển khai chương trình.
- Cơ sở lựa chọn Kỹ năng mềm PGS.TS.
- Cho nên, thực tế ở Việt Nam trong thời gian qua là buộc các đơn vị tuyển dụng lao động phải đào tạo lại hoặc bổ sung kiến thức, kỹ năng sau tuyển dụng.
- [15] Nghiên cứu sinh Ann-Marie Williams (2015) cho rằng có 4 đối tượng liên quan mà chúng ta cần khảo sát, lấy nhu cầu khi phát triển Kỹ năng mềm, bao gồm: Khoa chuyên môn, Sinh viên/Cựu Sinh viên, Doanh nghiệp và Các cơ quan quản lý.
- Trong đó, chủ đạo là 2 đối tượng: Doanh nghiệp và Sinh viên [16].
- Thông qua kết quả khảo sát 2 đối tượng chủ đạo trên (biết được nhu cầu thực tế của Doanh nghiệp, thực trạng Kỹ năng mềm của Sinh viên tại Khoa), kết hợp với việc xem xét đặc thù của từng chuyên ngành (tiêu chuẩn 1 của CDIO), và căn cứ vào mục tiêu đào tạo theo chương trình đào tạo của nhà trường, cụ thể là chuẩn đầu ra của các ngành đào tạo (tiêu chuẩn 2 của CDIO) từ đó làm cơ sở, căn cứ cho việc lựa chọn Kỹ năng mềm phù hợp với ngành Sinh viên theo học.
- Phương thức tổ chức và quản lý đào tạo Viện Doanh trí Văn Hiến trường Đại học Văn Hiến Tp.HCM, đã đưa ra những bất cập trong việc đào tạo Kỹ năng mềm hiện nay ở người học và người dạy, cụ thể Hiện nay vẫn tồn tại tình trạng người giảng dạy “đọc chép” theo kiểu truyền thống, có thực tế này vì giảng viên chưa được đào tạo để thay đổi suy nghĩ và quan trọng có được năng lực, kỹ năng truyền đạt đúng như phương châm dạy kỹ năng mềm phải khác hoàn toàn với dạy văn hóa.
- Nhận biết được sự bất cập này thì một số nơi đào tạo cũng có mời những chuyên gia, chuyên viên được đào tạo chuyên nghiệp, dạy đúng với đặc trưng bản chất của kỹ năng mềm.
- Chính vì vậy, năng lực giảng viên và phương thức dạy và học Kỹ năng là hai nội dung trọng tâm cần phân tích trong phương thức tổ chức và quản lý đào tạo Kỹ năng mềm.
- Kỹ năng giao tiếp: giảng viên cần truyền thông trôi chảy cả hai ngôn ngữ - ngôn ngữ quốc gia và ngôn ngữ quốc tế.
- Kỹ năng tư duy phản biện và giải quyết vấn đề: giảng viên có khả năng tư duy phản biện, đổi mới và sáng tạo, áp dụng kiến thức vào thực tế.
- Kỹ năng làm việc nhóm: giảng viên làm việc và phối hợp với nhiều đối tượng, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp và tôn trọng thái độ, hành vi và niềm tin khác biệt của học viên.
- Kỹ năng quản lý thông tin và học tập suốt đời: Giảng viên cần là người có năng lực tự nghiên cứu, tìm kiếm và quản lý hiệu quả thông tin liên quan từ nhiều nguồn khác nhau.
- Kỹ năng lãnh đạo: giảng viên có thể điều phối các hoạt động khác nhau, hiểu về lý thuyết lãnh đạo cơ bản để hướng dẫn các dự án.
- Trên đây là 7 năng lực về kỹ năng mà giảng viên đào tạo Kỹ năng mềm cần.
- Khía cạnh thứ hai cần xem xét: đó là phương thức dạy và học Kỹ năng mềm.
- Hướng phổ quát với quan điểm cho rằng kỹ năng mềm là những kỹ năng mang tính khái quát, do đó có thể được dạy riêng và sau đó ứng dụng trong bất kỳ trường hợp nào.
- Trong khi ngược lại, hướng chuyên biệt cho rằng thuộc tính của kỹ năng không thể tách rời khỏi bối cảnh liên quan đến nó.
- Hai cách tiếp cận này cũng là nền tảng để trả lời cho câu hỏi: Kỹ năng mềm nên được đào tạo như một môn học độc lập (hướng phổ quát) hay TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp.HCM.
- được lồng ghép vào các tình huống, bối cảnh ở môn chuyên ngành của sinh viên (hướng chuyên biệt).
- Quan điểm theo hướng phổ quát đề cao việc sinh viên nên học “các kỹ năng khái quát” để nắm các “nguyên lý đúng đắn tuyệt đối”, có thể sử dụng và phát triển trong nghề nghiệp và cuộc sống.
- Tổng quan ở khía cạnh này, các kỹ năng khái quát nên được tích hợp vào chuyên môn của Sinh viên.
- Tuy nhiên, vài kỹ năng khái quát như giao tiếp, làm việc nhóm, các kỹ năng học tập, có thể xem là đơn vị nền tảng, cho phép tách biệt khỏi chuyên môn của sinh viên mà giảng dạy.
- Đặc biệt với những sinh viên trước khi vào chương trình chuyên môn, môn kỹ năng mềm (theo hướng phổ quát) vẫn mang lại cho Sinh viên những giá trị nhất định.
- Vấn đề kiểm tra, đánh giá Theo CDIO, có 2 tiêu chuẩn dành cho việc kiểm tra, đánh giá, cụ thể là tiêu chuẩn 11 – Đánh giá học tập của sinh viên và tiêu chuẩn số 12 – Kiểm định chương trình đào tạo.
- Một là giảng viên cần trao đổi rõ với học viên về mục tiêu môn học (chuẩn đầu ra) lúc bắt đầu môn để sinh viên hiểu chính xác điều mà giảng viên mong đợi từ phía người học.
- Các chuẩn đầu ra này được thể hiện dưới dạng các chuẩn kiến thức, kỹ năng hay thái độ người học cần đạt được khi kết thúc môn.
- Hai là để đánh giá chính xác năng lực của sinh viên, đặc biệt ở khía cạnh kỹ năng mềm, cần xây dựng môi trường học tập tích cực, nơi mà sinh viên có thể cảm thấy thoải mái thể hiện bản thân và đón nhận thử thách.
- Nếu sinh viên không cảm thấy thoải mái trong việc tương tác, họ sẽ không phản hồi cho người dạy, từ đó việc xác định mức độ hiểu biết của người học trở nên khó khăn, đặc biệt khi đánh giá không chính thức (được nêu bên dưới).
- Việc đánh giá không chính thức (dùng để đánh giá quá trình) được tiến hành thông qua các bài tập, thuyết trình nhóm nhỏ, thực hiện dự án, sinh viên tự đánh giá.
- Kechagias, có nhiều phương pháp và cách thức đa dạng để đánh giá năng lực học tập Kỹ năng mềm của Sinh viên, việc ứng dụng chỉ một phương thức sẽ không hẳn hoàn toàn phù hợp.
- Về vấn đề kiểm định chất lượng chương trình, cần sự phối hợp giữa các bên liên quan: lực lượng bên ngoài nhà trường gồm: nhà tuyển dụng, cựu sinh viên và bên trong nhà trường gồm sinh viên, giảng viên, người quản lý chương trình.
- Theo EC-Council, hồ sơ minh chứng trong việc đánh giá Kỹ năng mềm là bản báo cáo đầy đủ 5 mục.
- Năng lực của Sinh viên (trình bày ở trên.
- Mức độ hài lòng của Sinh viên về Khóa học, Môi trường học tập và Giảng viên.
- Mức độ hài lòng của Giảng viên về Cấu trúc chương trình, Môi trường và Sinh viên - Đề nghị sửa đổi: Tất cả những vấn đề liên quan đến Kho học liệu cần hiệu chỉnh Hồ sơ này sau khi hoàn thành, được chuyển đến cho sinh viên, giảng viên, nhà tuyển dụng (nếu họ có liên kết đến chương trình), nhà thiết kế chương trình, nhà quản lý chương trình.
- Cách bố trí phòng học: có 4 cách sắp xếp như sau: Hàng ngang (Rows) Chữ U (U-shape) Tròn (Circle) Cụm (Cluster) Phù hợp khi Giảng Phù hợp cho thuyết Phù hợp nhất cho thảo Thích hợp nhất cho viên thuyết giảng hay giảng và thảo luận luận nhóm lớn tương tác các nhóm Sinh viên làm việc nhóm lớn nhỏ và làm việc độc độc lập lập.
- Trong 4 mô hình sắp xếp, mô hình theo cụm là mô hình lý tưởng nhất trong công tác đào tạo Kỹ năng mềm, giúp tăng sự tương tác giữa Sinh viên với Sinh viên trong cùng một nhóm và việc tổ chức hoạt động của Giảng viên cũng trở nên dễ dàng.
- Ánh sáng: chú ý lượng ánh sáng cần đầy đủ trong phòng, việc tắt mở hệ thống đèn cũng cần thời gian chờ để tránh tình trạng ánh sáng tăng giảm đột ngột, hại mắt Sinh viên.
- Thiết bị: kiểm tra độ hoạt động ổn định của thiết bị và đáp ứng tốt nhu cầu Giảng viên - Vật dụng: có thoải mái, thuận tiện cho Giảng viên và Sinh viên sử dụng, cũng như độ linh hoạt sắp xếp của bàn ghế.
- Ở khía cạnh hoạt động trải nghiệm, ODEP thuộc Bộ Lao động Hoa Kỳ [21] có đưa ra 3 phương pháp phổ biến cho việc tạo cơ hội nâng cao Kỹ năng mềm thông qua trải nghiệm.
- Đầu tiên là sự tương tác trong quá trình giảng dạy, giảng viên tạo hoạt động cung cấp cơ hội cho Sinh viên trải nghiệm, thực tập, củng cố và phản ánh năng lực.
- Mức độ khó của nhiệm vụ để hình thành kỹ năng cũng tăng dần.
- Cách tiếp cận này đòi hỏi giảng viên cần có kỹ năng và chuyên môn cao cộng với giáo trình được thiết kế tốt.
- Phương pháp thứ hai là tìm trợ giảng (người có kinh nghiệm làm việc tại môi trường công sở) phối hợp dạy Kỹ năng mềm cho Sinh viên.
- Khuyết điểm của phương pháp này là khó có chủ doanh nghiệp sẵn lòng cung cấp cơ hội và người hướng dẫn dành thời gian cho sinh viên hơn công việc.
- Cách tiếp cận này mang lại bối cảnh thực tế cho việc dạy và thực hành kỹ năng, nhưng đòi hỏi giảng viên phải kiểm soát tốt tiến độ giảng dạy và tạo ra môi trường học tập giúp nâng cao kỹ năng cho sinh viên, cũng như cần sự đầu tư cơ sở vật chất phù hợp.
- Về quan niệm Nếu như Kỹ năng cứng là kỹ năng quan trọng để sinh viên ra trường làm nghề, thì Kỹ năng mềm lại là kỹ năng cần thiết để sinh viên có thể ra trường làm việc.
- Hiện trạng cho thấy Kỹ năng mềm của Sinh viên đang ở mức báo động, và việc phát triển Kỹ năng mềm là vấn đề vô cùng quan trọng và cấp bách cho Sinh viên trong thế kỷ 21.
- Về phân loại Trên thế giới có nhiều những nghiên cứu và đề xuất phân loại Kỹ năng mềm, trong đó, nổi bật là “Kỹ năng thiết yếu thế kỷ 21” được Tổ chức Đánh giá và Giảng dạy Các Kỹ năng của Thế kỷ 21 tại Đại học Melbourne (Úc) nghiên cứu và phát triển.
- Về phát triển kỹ năng mềm trong chương trình đào tạo đại học Việc phát triển Kỹ năng mềm tại các trường Đại học vẫn còn những điểm khuyết, rất cần mô hình mang tính toàn diện và phương pháp khoa học đã qua nghiên cứu làm nền tảng cho sự phát triển.
- Hướng tiếp cận theo chuẩn CDIO vào công tác phát triển Kỹ năng mềm trong chương trình đào tạo sẽ đảm bảo tính khoa học, toàn diện trong quá trình xây dựng và triển khai chương trình.
- 12 tiêu chuẩn của CDIO là cơ sở vững chắc cũa bốn khía cạnh: lựa chọn & thiết kế, phương thức tổ chức đào tạo, kiểm tra đánh giá và tổ chức hoạt động trải nghiệm, lựa chọn môi trường phù hợp đào tạo Kỹ năng mềm.
- Đánh giá nhu cầu của sinh viên khoa kinh tế - quản trị kinh doanh đối với lớp kỹ năng giao tiếp.
- Các biện pháp rèn luyện kỹ năng dạy học cho sinh viên Cao đẳng sư phạm.
- Sự thật cứng về Kỹ năng mềm.
- Những kỹ năng thực hành xã hội cần thiết cho Sinh viên.
- Cần đánh giá hiệu quả đào tạo Kỹ năng mềm.
- Cải cách và xây dựng chương trình đào tạo kỹ thuật theo phương pháp tiếp cận CDIO.
- Đảm bảo chất lượng trong xây dựng và vận hành chương trình đào tạo theo phương pháp tiếp cận CDIO.
- Tiếp cận CDIO để nâng cao chất lượng đào tạo đại học.
- Vấn đề đào tạo các khóa ngắn hạn và kỹ năng mềm cho sinh viên