Academia.eduAcademia.edu
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON LỚP CAO HỌC K29 Họ và tên: Trần Thị Tuyết Dung Hà Nội, ngày 27/12/2019 CHUYÊN ĐỀ: CÁC LÝ THUYẾT VỀ GIÁO DỤC MẦM NON Bài tập: Trình bày một thuyết GDMN đã và đang được áp dụng trên thế giới cũng như ở trong nước mà em biết. Bài làm I. Sơ lược chung về nguồn gốc GDMN và các nhà lý luận GDMN: Nguồn gốc của giáo dục mầm non bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ 15, nơi khái niệm giáo dục trẻ em được cho là của Martin Luther (1483-1546). Tại thời điểm đó, rất ít người biết đọc và rất nhiều người bị mù chữ. Martin Luther tin rằng giáo dục nên được phổ cập và cho rằng việc giáo dục làm bền vững gia đình và cộng đồng là một việc rất quan trọng. Luther cho rằng trẻ con nên được dạy biết đọc để chúng có thể tự đọc Kinh thánh. Điều này có nghĩa là việc dạy trẻ biết đọc sớm ở độ tuổi mầm non sẽ là một lợi thế rất lớn cho xã hội.   Dựa trên ý tưởng này, người tiếp theo cống hiến cho những khởi đầu của giáo dục mầm non là John Amos Comenius (1592 – 1670), ông tin tưởng sâu sắc rằng việc học của trẻ là dựa trên khám phá giác quan. Comenius viết quyển truyện tranh đầu tiên để giúp trẻ biết đọc. Sau đó, John Locke (1632-1704), người sáng tác ra cụm từ nổi tiếng “blank slate”, hay còn gọi là tấm bảng trắng để mặc định rằng tấm bảng ấy chính là điểm khởi đầu của trẻ và môi trường sẽ lấp đầy “tấm bảng” ấy của trẻ ra sao.   Người có tầm ảnh hưởng lớn là Friedrich Froebel (182-1852), tin rằng trẻ học thông qua chơi. Ông đã thiết kế ra một chương trình đào tạo giảng dạy mà ở đó, ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quan sát và phát triển các chương trình cũng như các hoạt động dựa trên mức độ kỹ năng và sẵn sàng của trẻ. Froebel bắt đầu xây dựng nền tảng mầm non và thành lập trường mầm non đầu tiên.   Phát triển xa hơn từ khái niệm này, Maria Montessori (1870-1952) đã xem trẻ là một nguồn kiến thức và xem người dạy như một kỹ sư xã hội. Coi giáo dục như một phương cách để đẩy mạnh ý nghĩa cuộc sống của trẻ, môi trường học cũng quan trọng như chính việc học, bà đã xác định rằng tri giác của trẻ nên được giáo dục trước rồi mới đến trí tuệ.   Jean Piaget (1896-1980) đã thành lập ra một học thuyết về việc học mà ở đó việc phát triển của trẻ được chia ra thành các giai đoạn (vận động giác quan, tiền hoạt động, hoạt động cụ thể -sensory motor, preoperational, concrete operation). Piaget đặt ra lý thuyết rằng trẻ học thông qua các tương tác tích cực và trực tiếp với môi trường xung quanh.   Lev Vygotsky (1896-1934) lại đề cao vị trí văn hóa – xã hội đối với sự phát triển của trẻ. Ông cho rằng tác động qua lại của xã hội là phương tiện cho sự phát triển nhận thức, ngôn ngữ và xã hội của trẻ. Vygotsky tin rằng trẻ học thông qua việc tạo bước đệm gợi ý cho kỹ năng của trẻ; nghĩa là giáo viên, hoặc cha mẹ, hoặc bạn đồng lứa có kiến thức vượt trội hơn có thể giúp một đứa trẻ hoàn thành nhiệm vụ của mình trong tầm khả năng của chúng, hoặc thậm chí là cao hơn khả năng vốn có của đứa trẻ đó, hay còn gọi là vùng phát triển gần nhất (ZPD). Vygotsky nhấn mạnh sự cộng tác và thực hiện trong một nhóm có các độ tuổi khác nhau sẽ hỗ trợ rất nhiều cho việc thu nhận kiến thức/kỹ năng của trẻ.   John Dewey (1859 – 1952) tin tưởng sâu sắc rằng việc học nên bắt nguồn từ sự thích thú của trẻ, là tiền đề cho phương pháp tiếp cận với dự án. Người dạy có nhiệm vụ kích thích trẻ đam mê khám phá và đặt câu hỏi. Dewey coi lớp học là nơi nuôi dưỡng những hiểu biết về xã hội và do đó, lớp học nên được hoạt động một cách dân chủ.   Rudolf Steiner (1861-1925), người xây dựng lên triết lý giáo dục và các trường học Waldorf, thì tập trung vào phát triển trẻ như các cá thể tự do và đạo đức với trình độ năng lực xã hội cao. Steiner chia ra thành ba quá trình phát triển của trẻ: Từ mầm non đến 6 tuổi (giáo dục trải nghiệm), từ 6-14 tuổi (giáo dục phổ thông), và trên 14 tuổi (giáo dục trung học).   Erik Erikson (1902-1994) phát triển các quá trình phát triển tâm lý của trẻ mà cha mẹ và người dạy đóng vai trò nòng cốt trong việc nuôi dưỡng sự thành công của trẻ ở từng quá trình để có một kết quả tích cực. Erikson nhấn mạnh rằng quy định về sự phát triển cảm xúc xã hội là một yếu tố chủ chốt của chương trình học mầm non.   Loris Malaguzzi (1920-1994), người sáng lập ra phương pháp Reggio Emilia, có cơ sở trông trẻ đầu tiên mở ở thị trấn Reggio Emilia, là một minh chứng cho niềm yêu thích và học tập của trẻ nhỏ mà rất nhiều các nhà giáo dục học đã áp dụng phương pháp này vào trong chương trình học của họ sau này.   David Weikart (1931-2003), người sáng lập ra phương pháp HighScope, đã đúc rút từ lý thuyết của Piaget, Dewey và Vygotsky, đã tập trung vào sự trưởng thành trí óc của trẻ. Bước ngoặt mà khiến cho HighScope có giá trị là dự án tiền tiểu học Perry năm 1962. Một nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên của 123 trẻ có trình độ kỹ năng tương đương nhau tham gia nghiên cứu, được chia thành hai nhóm, một nhóm được hoạt động theo phương pháp HighScope, còn nhóm còn lại thì theo phương pháp truyền thống. Các kết quả chỉ ra rằng có sự gia tăng về thành công trong học tập, sự đi lên trên con đường học vấn và mức lương cao hơn cho nhóm này.   Nhìn chung, tất cả các nhà lý luận giáo dục mầm non đều muốn đạt được một mục tiêu chung – là nhìn thấy trẻ phát triển thành công khi học tiểu học. Mỗi cấu trúc chương trình giảng dạy sẽ có một cách khác nhau để đạt được mục tiêu đó.   II. Các phương pháp GDMN hiện nay: Phương pháp giáo dục này dựa trên các chủ đề cụ thể có thể phát sinh từ các nguồn khác nhau, như sự thay đổi về mùa/thời tiết, các sự kiện sắp diễn ra, các sự kiện tôn giáo. Học theo chủ đề cũng có hướng dẫn trực tiếp. Việc học không dựa trên sự yêu thích của trẻ, mà dựa trên việc chuyển tại nội dung của giáo viên. Điều này nghĩa là chương trình học được xây dựng từ đầu tuần hoặc đầu tháng. Lợi thế của phương pháp này là người dạy sẽ biết được chính xác họ định dạy trẻ những gì. Bất lợi của việc này là những thứ giáo viên dạy có thể lại chưa chắc là mối quan tâm hiện tại của trẻ, khiến trẻ không thích tham gia vào hoạt động. Việc học trong lớp phải luôn theo cấu trúc nhất định và phụ thuộc vào chủ đề hiện tại. Điều này nghĩa là tất cả những tài liệu trong lớp sẽ phải liên quan/kết nối đến chủ đề đó.   Montessori Các cơ sở mầm non hoạt động theo phương pháp Montessori hiện đã phổ biến trên toàn cầu. Vì Montessori là một phương pháp rất chi tiết, cụ thể, và còn là một tổ chức chính thức cho các trường và người dạy Montessori, nên khi làm việc tại các trường này, người dạy nên có chứng chỉ Montessori. Cần lưu ý rằng có nhiều trường tuyên bố mình là trường hoạt động theo phương pháp “Montessori”, nhưng lại không thực sự chuyển tải đúng hết được phương pháp này. Khi cân nhắc cho con theo học lớp Montessori, bố mẹ cần hiểu rằng lớp học sẽ được sắp xếp tài nguyên dựa trên từng cá thể trẻ và mối quan tâm của chúng. Điều này có nghĩa là học sinh trong lớp được quyền tự quản và có một bộ tài liệu học riêng trong lớp. Điều này có thể không hiệu quả đối với các học sinh muốn có một môi trường học có cấu trúc hơn. Và cũng có thể có những thử thách cho các học sinh sau này chuyển vào học tại các trường truyền thống hoặc “đại trà”.   High Scope Phương pháp này cũng rất độc đáo ở chỗ việc học được chia thành ba phần - “lập kế hoạch – thực hiện – ôn tập”. Trẻ sẽ có một khoảng thời gian để lập kế hoạch về những việc cần phải làm trước khi hoạt động. Đây là việc mô tả các tài liệu mà trẻ sử dụng để tương tác với các trẻ khác. Khi trẻ “thực hiện”, trẻ sẽ thực hiện kế hoạch của mình rất có mục đích. Bám sát với hoạt động, trẻ sẽ “ôn tập” hoặc thảo luận với người lớn và/hoặc với bạn của mình về những gì trẻ vừa được làm và được học. High Scope đánh giá trẻ dựa trên các ghi chép về từng trẻ qua các lĩnh vực sau: cách tiếp cận việc học, phát triển cảm xúc và xã hội, phát triển thể chất và sức khỏe, ngôn ngữ/đọc chữ/giao tiếp, toán, nghệ thuật sáng tạo, khoa học và kỹ thuật, và các nghiên cứu xã hội. Khi họp phụ huynh, nhà trường sẽ chia sẻ những ghi chép này với bố mẹ để mô tả việc học của trẻ được diễn ra trong các lĩnh vực này. Các trường High Scope cần phải được chứng nhận qua tổ chức chính thức của High Scope tương tự như các trường Montessori thay vì như hiện nay các trường tự nhận mình là các trường High Scope nhưng chưa được chính thức đánh giá hay công nhận.   Reggio Emilia Phương pháp tiếp cận này tập trung vào việc ghi chép lại việc học của trẻ cũng như cho trẻ thực sự thể hiện được niềm đam mê của mình. Phụ huynh hay người dạy sẽ là một cộng đồng để khuyến khích trẻ học trong suốt thời gian ở các trường Reggio hoặc mang tinh thần Reggio. Việc học được chia thành các dự án mở. Trẻ được cung cấp những khái niệm nhất định mà trẻ cần để xử lý thông qua nghiên cứu, đặt câu hỏi và làm thí nghiệm. Phương pháp này tập trung mạnh vào nghệ thuật, một phương tiện giúp trẻ diễn tả được cảm xúc và suy nghĩ của mình thông qua các loại dụng cụ đa dạng. Reggio cũng luôn mong muốn trẻ được tiếp cận với thiên nhiên, có rất nhiều hoạt động ngoài trời mà trẻ có thể sử dụng các nguyên vật liệu thiên nhiên ngoài môi trường để cho vào hoạt động chơi của trẻ. Không có bản đánh giá tiêu chuẩn hóa nào và việc học được thể hiện thông qua các dự án mà trẻ khám phá, và được người dạy ghi lại.   Waldorf Với phương pháp giáo dục này, trẻ được đào tạo trong một chế độ theo chủ nghĩa nhân đạo, có lòng yêu thương và tinh thần trách nhiệm xã hội. Một điều nổi bật là các giáo viên sẽ theo lớp học đó cho tới khi trẻ ra trường. Các tác phẩm nghệ thuật và có tính chất học thuật được hợp nhất trong một bài học. Những trường này không sử dụng công nghệ trong lớp học. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ tập trung vào kỹ năng đọc khi trẻ lên 7 tuổi, nhấn mạnh vào kể chuyện và học qua chơi. Một phần đào tạo giáo viên Waldorf là học về Nhân linh học (hiểu biết về con người) của Rudolf Steiner. Mặc dù không trực tiếp dạy trẻ điều này, nhưng triết học tâm linh này được truyền bá trong một phạm vi nhất định thông qua các tương tác hàng ngày.   III. ỨNG DỤNG VÀO CHƯƠNG TRÌNH HỌC: PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN KẾT HỢP (BLENDED) HAY TIẾP CẬN TRUYỀN THỐNG ĐƠN THUẦN?   Đưa ra những các tiếp cận khác nhau vào giáo dục mầm non, điều này đặt ra câu hỏi: phương pháp nào là tốt nhất? Hay phương pháp này liệu có thống trị phương pháp kia? Câu trả lời ngắn gọn là nó còn tùy thuộc. Một số chương trình thích cách tiếp cận truyền thống, gắn với chương trình học thuần túy. Montessori và Waldorf là hai phương pháp có thể được duy trì từ mầm non đến tận cấp ba.   Điều này chỉ ra rằng rất quan trọng để hiểu rằng các phương pháp và giáo dục học là mô hình để truyền cảm hứng cho việc thực hành hơn là cách đưa vào cứng nhắc. Hiện tại, đã có sự gia tăng đáng kể các chương trình học được xây dựng theo cách tiếp cận pha trộn, kết hợp hai hay nhiều phương pháp giảng dạy trong chương trình học. Điều này chứng tỏ rằng mỗi phương pháp đều có những lợi ích nhất định và thích ứng được với từng trẻ. Hãy tưởng tượng một chương trình được xây dựng bằng sự kết nối các phương pháp khác nhau cho phép giáo viên cân bằng giữa việc dạy có hướng dẫn và việc học có tính xây dựng. Hãy thử nghĩ tới một thí nghiệm xa hơn mà ở đó, một học sinh có thể vẽ theo Reggio với tính cộng đồng và có sự ghi chép lại; Montessori với việc học tự chủ và độc lập; Waldorf với sự kết hợp giữa nghệ thuật và ý thức xã hội, và cuối cùng là High Scope với quá trình ba bước vô giá để đảm bảo quá trình học có mục đích, có kế hoạch và có phản hồi.   Cuối cùng, sự lựa chọn chương trình học suy cho cùng là sứ mệnh của một trường học. Liệu mục tiêu là để nuôi dưỡng cộng đồng, để mang lại cấu trúc và quá trình, để đưa trẻ gắn bó với thiên nhiên, hay là một thứ gì đó hoàn toàn mới mẻ? Đây là những câu hỏi sẽ giúp cho trường học điều chỉnh chương trình học.  Bạn thích cách tiếp cận thuần túy hay kết hợp? Còn bản thân tôi, trên cương vị đã là người giáo viên, là người quản lý và xây dựng chương trình học cho chính trường Mầm non tư thục của mình, tôi đã lựa chọn PP HighScope – Phương pháp học chủ động tích cực. 5 LÝ DO ĐỂ VƯỜN HOÀNG GIA LÀ TRƯỜNG HỌC HIGHSCOPE - Phương pháp Highscope nhiều nét tương đồng với Chương trình giáo dục mầm non thực nghiệm Quốc gia. Giáo viên thuận lợi trong việc tiếp thu trau dồi bồi dưỡng chuyên môn và tổ chức thực hiện. - Phương pháp Highscope là phương pháp quốc tế, đảm bảo cho cho trẻ được phát triển đầy đủ các điều kiện để hội nhập với thế giới và đặt nền móng trở thành công dân toàn cầu: Chủ động và sáng tạo - Chi phí cho các giáo cụ trực quan không quá đắt, dễ tìm, dễ sáng tạo ----> giảm chi phí đóng góp cho phụ huynh học sinh. - Trẻ được phát huy năng lực cá nhân một cách tự nhiên, được tương tác trong nhóm và được khuyến khích bộc lộ những tố chất đặc biệt để Trẻ là chính mình: vui vẻ, hạnh phúc và Tử tế - Highscope tạo ra một môi trường giáo dục có tính tương tác cao, dễ kết hợp với các phương pháp giáo dục khác như Reggio Emilia, Montessori tạo ra những sự đột phá trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách trẻ, đặc biệt là EQ và IQ. IV. Phương pháp Highscope Triết lý giáo dục đằng sau mô hình HighScope là dựa trên nghiên cứu và học thuyết phát triển trẻ em của hai nhà tâm lý học nổi tiếng thế giới là Jean Piaget and John Dewey. Từ đó đến nay, Mô hình giáo dục HighScope đã có những nghiên cứu về sự phát triển nhận thức và não bộ. - Phương pháp Highscope : được xây dựng dựa trên kết quả của các nghiên cứu chuyên sâu cho rằng, trẻ tiếp thu tốt nhất khi được chủ động tham gia vào quá trình học tập. Trẻ khám phá thế giới xung quanh dựa trên những trải nghiệm của trẻ với những người xung quanh, với các sự vật, các sự kiện, hiện tượng và các ý tưởng của trẻ. - Môi trường học tạo cho trẻ có các cơ hội được tìm tòi, khám phá theo sở thích, được chủ động lựa chọn và làm theo kế hoạch của chính bản thân mình. Chương trình HighScope mang lại phương pháp giáo dục toàn diện, giúp trẻ phát triển về mọi lĩnh vực. 8 lĩnh vực phát triển HighScope hướng đến bao gồm: Tiếp cận học tập, Phát triển xã hội và cảm xúc, Phát triển thể chất và sức khỏe, Ngôn ngữ và giao tiếp, Toán học, Nghệ thuật sáng tạo, Khoa học và công nghệ, Học tập các qui tắc xã hội. - Lớp học theo phương pháp Highscope cần đảm bảo 3 yếu tố quan trọng sau: * Sự tương tác giữa giáo viên và trẻ. * Cách bài trí lớp học và các giáo cụ học tập. * Các hoạt động theo lịch trình hàng ngày. Sự tương tác giữa giáo viên và trẻ là quá trình làm việc và giao tiếp với trẻ hàng ngày thông qua lời nói và hành động nhằm khuyến khích trẻ tích cực tham gia quá trình học tập. - Trong phương pháp HighScope, ngoài việc hướng dẫn, giúp đỡ, hỗ trợ, khuyến khích và tạo nhiều cơ hội cho trẻ, giáo viên còn trực tiếp tham gia hoạt động với trẻ, cùng chia sẻ các vai trò: người lãnh đạo nhóm, thành viên của nhóm, người nói và người nghe. Giáo viên tương tác với trẻ bằng cách chia sẻ quyền quyết định với trẻ, chú trọng vào các điểm mạnh của trẻ, tạo nên các mối quan hệ thân thiết, hỗ trợ trẻ thực hiện các ý tưởng của trẻ và gợi mở cho trẻ các cách giải quyết vấn đề khi có khúc mắc nảy sinh. Giáo viên tôn trọng trẻ và những lựa chọn của trẻ, khuyến khích tính độc lập và sự sáng tạo của trẻ. Giáo viên cung cấp cho trẻ các học cụ (đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu…) và các kinh nghiệm mà trẻ cần để học hỏi. - Lớp học theo trường phái Highscope được chia ra thành các góc học tập theo các chủ đề mà trẻ yêu thích với các học cụ phong phú như góc gia đình, góc nghệ thuật, góc xây dựng, góc ghép hình, góc chơi hóa trang, góc học đọc học viết… Các đồ dùng đồ chơi được sắp xếp ở các vị trí phù hợp với trẻ nhằm giúp trẻ có thể tự lấy và cất đồ dễ dàng. Việc sắp xếp lớp học giúp trẻ cảm nhận được “thế giới” được sắp xếp như thế nào, tưởng tượng và hình dung ra hoạt động của thế giới xung quanh. - Phương pháp HighScope nhấn mạnh việc bố trí các Hoạt động hàng ngày theo một trình tự nhất định, nhằm mang lại cho trẻ một ngày hoạt động cân bằng với các trải nghiệm và các cơ hội vui chơi, học tập. Một ngày hoạt động sẽ bao gồm các khoảng thời gian trẻ được làm việc theo nhóm nhỏ, khoảng thời gian làm việc theo nhóm lớn, thời gian luyện tập cơ bắp, phát triển các kĩ năng … Một phần quan trọng của các hoạt động hàng ngày là trẻ có thể tự lựa chọn hoạt động và lên kế hoạch thực hiện nó theo các ý tưởng của bản thân và chia sẻ suy nghĩ về các hoạt động đó cùng làm với cô và bạn khác. - Hoạt động tự chọn theo nhóm nhỏ: Trong các khoảng thời gian trẻ làm việc theo nhóm nhỏ, giáo viên giới thiệu cho trẻ những học cụ mới, những ý tưởng, các hoạt động và sau đó trẻ có thể tiếp tục quá trình khám phá trong thời gian “hoạt động”. Trẻ cần có khoảng thời gian lên kế hoạch thực hiện để tạo ra sản phẩm gì đó như việc chọn bạn để cùng hoạt động, chọn nơi để ngồi, chọn các nguyên liệu cần dùng, thời gian nhắc lại với cô giáo và bạn bè những điều vừa học hay vừa làm được và thời gian thu dọn học cụ, lưu giữ những sản phẩm mà trẻ đã hoàn thành và chưa hoàn thành. Các trải nghiệm trong các hoạt động tự chọn theo nhóm mang lại rất nhiều lợi ích cho trẻ, giúp trẻ trưởng thành hơn từ những sở thích của bản thân, học được các kỹ năng giao tiếp xã hội như biết cách trình bày ý tưởng của mình, biết giải quyết vấn đề khi có mâu thuẫn nảy sinh, biết lắng nghe để hiểu quan điểm của người khác. - Hoạt động theo nhóm lớn: Làm việc theo một nhóm lớn tạo cảm giác cộng đồng cho trẻ. Trẻ và giáo viên cùng di chuyển, cùng tham gia các hoạt động Âm nhạc, Văn học, Nghệ thuật, Toán, Khám phá môi trường…và chia sẻ về các trải nghiệm của bản thân. - Thời gian vui chơi ngoài trời: Theo chương trình Highscope, hàng ngày trẻ nên được dành 30 phút để chơi ngoài trời, tham gia các hoạt động sôi nổi, vui vẻ ngoài sân chơi và tận hưởng không khí trong lành. Ngoài bốn bức tường của lớp học, trẻ được thoải mái, tự do chơi, chuyển động và hò hét. Trẻ được chạy, trèo, lăn, nhảy và thỏa sức hò hét. Trẻ khám phá thiên nhiên cây cỏ, chim muông và những sinh vật trong vườn khác => High Scope- Dạy con kiểu Mỹ- phương pháp giáo dục hiện đại, giúp trẻ độ tuổi mầm non phát triển trí thông minh vượt trội. ---------------------------------------------------------------------------------------------------- Nguồn: https://www.encompasswi.org/curriculum/highscope-curriculum/?fbclid=IwAR2u_NMoCqYFqjd6DlqUsieM8LuslRaVbgDzz4WbT6F38kBx2oo2CmL1v5s http://thespoke.earlychildhoodaustralia.org.au/early-childhood-education-now/?fbclid=IwAR2v0RiRq6WhrMNKtqr065MWhaYee_R-ajEXLvnZPOwQp1d5jO_uBtsDdyA http://www.scielo.org.za/scielo.php?script=sci_arttext&pid=S0256-01002014000200006&fbclid=IwAR0ee_HXZ153WTWA_Z7QjLIFa1dJ5mGld2hAwllVyteGJv_RIsLLPAg0_l0 https://thientaiviet.com/phuong-phap-giao-duc-highscope/?fbclid=IwAR1hhZeSqsWIE_V9kp2rNlPfrCmOnfCVP3biUyBQV0ptqQl64JpJoymvSuQ https://youtu.be/ZFKpaI7kKEE?fbclid=IwAR3dh51YXaycZeWGLLu5AjRYRZrSTYVnxw-HJh5ETt4qI6BzovxxXaTNSbY Phụ lục Cấu trúc hoạt động 1 ngày của Highscope ETO M-DCPS VPK ECE HIGHSCOPE DAILY LESSON PLAN (Four Year Olds) Adult: Date: GREETING TIME: (15 min.) To develop a sense of community and give children and adults a chance to share important information for the day. The student will learn strategies to help transition from home to school. Adult at door: ____________________________ Adult with children: ______________________________ Objective: Activity: Daily sign-in, create message for the day Materials: Sign-in sheet, message board Messages: Evaluation: Teacher Observation, COR, Work Samples VPK Standards/K.E.__________________________________ LITERACY TIME: (15 min.) Children will identify word, rhymes, beginning sounds, and isolate sounds. Objective: Activity: Materials: Evaluation: Teacher Observation, COR VPK Standards/K.E.__________________________________ LARGE GROUP TIME/MUSIC & MOVEMENT (20min.) Children and adults come together for singing, music and movement activities and re-enactments of stories and events. Objective: Activity: Materials: Evaluation: Teacher Observation, COR VPK Standards/K.E.__________________________________ SMALL GROUP TIME: (20 min.) Children experiment, explore and use materials to make connections. Group _____________________________ (Adult) Objective: Activity: Individualized Instruction: Materials: Evaluation: Teacher Observation, COR, Work Samples VPK Standards/K.E.__________________________________ SMALL GROUP TIME: (20 min.) Children experiment, explore and use materials to make connections. Group _____________________________ (Adult) Objective: Activity: Individualized Instruction: Materials: Evaluation: Teacher Observation, COR, Work Samples VPK Standards/K.E.__________________________________ PLANNING TIME: (15 min.) Each child discusses with adult what they intend to do. Adults should ask open-ended questions to help children shape their ideas. Group___________________________ (Adult) Objective: Activity: Individualized Instruction: Materials: Evaluation: Teacher Observation, COR VPK Standards/K.E.__________________________________ PLANNING TIME: (15 min.) Each child discusses with adult what they intend to do. Adults should ask open-ended questions to help children shape their ideas. Group___________________________ (Adult) Objective: Activity: Individualized Instruction: Materials: Evaluation: Teacher Observation, COR VPK Standards/K.E.__________________________________ WORK TIME: (50 min) Children carry out their plans using materials from the environment. They continue working until they complete or change their plans. Adults use specific interaction strategies to support and extend children’s engagement. Objective: Individualized Instruction: Materials to add: Evaluation: Teacher Observation, COR, Work Sample VPK Standards/K.E.__________________________________ CLEAN UP: (15 min.) Children clean up by storing unfinished projects and putting materials away in their designated places. ETO M-DCPS VPK ECE HIGHSCOPE DAILY LESSON PLAN (Four Year Olds) RECALL TIME: (15 min.) Invite children to reflect on and discuss what they did at work time. Group________________________________ (Adult) Objective: Activity: Individualized Instruction: Materials: Evaluation: Teacher Observation, COR, Work Samples VPK Standards/K.E.__________________________________ RECALL TIME: (15 min.) Invite children to reflect on and discuss what they did at work time. Group______________________________ (Adult) Objective: Activity: Individualized Instruction: Materials: Evaluation: Teacher Observation, COR, Work Samples VPK Standards/K.E.____________________________________________ SHARED READING: (15 min.) Adult reads a big book using a variety of interactive models, focusing on concept of print, vocabulary development and modeling appropriate reading behaviors. Objective: Activity: Materials: Evaluation: Teacher Observation, COR VPK Standards/K.E.__________________________________ LUNCH TIME: (30 min.) Children eat in a relaxed social setting. Adults support children’s efforts to be self-sufficient. OUTSIDE TIME: (30 min.) Children use a variety of materials to engage in physical activities which foster overall development. Objective: Activity: Materials: Evaluation: Teacher observation, COR, Work Samples VPK Standards/K.E.__________________________________ REST TIME: (30 min.) A quiet time for solitary on-your-own resting, sleeping or reading. SNACK TIME: (20 min.) Children eat in relaxed social setting. Adults support children’s efforts to be self-sufficient. LARGE GROUPTIME/MUSIC & MOVEMENT: (15 min.) Children and adults come together for singing, music and movement activities and re-enactments of stories and events. Objective: Activity: Materials: Evaluation: Teacher Observation, COR VPK Standards/K.E.__________________________________ STORY TIME: (15 Min.) To listen to stories for oral language development, comprehension and to foster a joy of reading. Group ___________________________________ (Adult) Objective: Activity: Materials: Evaluation: Teacher Observation COR VPK Standards/K.E.__________________________________ STORY TIME: (15 Min.) To listen to stories for oral language development, comprehension and to foster a joy of reading. Group ___________________________________ (Adult) Objective: Activity: Materials: Evaluation: Teacher Observation, COR VPK Standards/K.E.__________________________________ DISMISSAL: (10 min.) Greet parents and share day’s experiences. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP KHÁC Howard Gardner – Cha đẻ của Thuyết Trí Thông minh Đa dạng “Chúng ta thường rơi vào lối mòn khi nghĩ rằng cách duy nhất để tìm hiểu cái gì đó là đọc sách giáo khoa hoặc nghe một bài thuyết trình về nó. Và cách duy nhất cho thấy rằng chúng ta đã hiểu về một vấn đề là trả lời được các câu hỏi kiểm tra. Tuy nhiên, điều đó hoàn toàn vô nghĩa. Tất cả mọi thứ đều có thể được giảng dạy bằng nhiều cách.” Tiểu Sử của Howard Gardner, cha đẻ của Học thuyết Trí Thông minh Đa dạng Howard Gardner sinh ngày 11 tháng 7 năm 1943 ở Scraton, Pennylvania. Ông đã hoàn thành giáo dục sau trung học của mình tại đại học Harvard, lấy bằng đại học năm 1965 và bằng tiến sĩ năm 1971. Ban đầu, ông dự định sẽ học luật. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của nhà phân tâm học nổi tiếng  Erik Erikson, ông đã bắt đầu chuyển sang nghiên cứu về trí thông minh của con người. “Ý định của tôi thực sự được củng cố thêm khi tôi bước chân vào Harvard và có cơ hội nghiên cứu giống như nhà phân tâm học Erik Erikson, nhà xã hội học David Riesman và nhận thức tâm lý học Jerome Bruner . Điều này góp phần thúc đẩy để tôi nghiên cứu thêm về bản chất con người, đặc biệt là cách mà họ suy nghĩ.” Sự nghiệp của Howard Gardner và Trí Thông minh Đa dạng Sau khi dành thời gian làm việc với hai nhóm khác nhau: Trẻ em bình thường và có năng khiếu, người lớn nhưng có vấn đề về trí não, Gardner đã bắt đầu phát triển một lý thuyết để tổng hợp lý thuyết và khảo sát của mình. Năm 1983, ông nêu ra lý thuyết về “Trí Thông minh Đa dạng”. Theo lý thuyết này, người ta có rất nhiều cách khác nhau để học tập. Không giống như cách truyền thống, trí thông minh là duy nhất và chỉ tập trung vào một, Gardner tin rằng mọi người có nhiều cách khác nhau để suy nghĩ và học tập. Ông đã xác định và mô tả được tám loại khác nhau của trí thông minh: Thông minh ngôn ngữ Thông minh logic – toán học Thông minh thể chất Thông minh về không gian Thông minh về giao tiếp xã hội Thông minh nội tâm Thông minh âm nhạc Thông minh về tự nhiên Ngoài ra, ông cũng đề xuất việc bổ sung của một loại thứ 9 mà ông gọi là “Thông minh sinh tồn”. Lý thuyết của Howard  có ảnh hưởng lớn trong lĩnh vực giáo dục. Trong môi trường này, học thuyết Trí Thông minh Đa dạng được chú ý và sử dụng rất nhiều, ông đã gợi ý, mở cửa cho các nghiên cứu sâu hơn và hướng mọi người đến những suy nghĩ đa dạng khi nhắc đến trí thông minh. Học thuyết này không chỉ giúp chúng ta tự tin hơn vào khả năng của bản thân mà còn làm thay đổi sâu sắc phương pháp học tập của trẻ em trên toàn thế giới. Ngày nay các nền giáo dục nổi tiếng đã áp dụng Trí Thông minh Đa dạng vào học tập như thế nào? Trường học đã tạo cơ hội cho mọi đứa trẻ khám phá năng lực của mình qua việc học tập với âm nhạc, vận động, được nói lên suy nghĩ của mình, được tương tác với bạn bè và được học tập trong môi thiên nhiên, khi được tiếp xúc trực tiếp trẻ sẽ bộc lộ những điểm mạnh điểm yếu của mình và tự rút ra được cách thức học tập nào phù hợp nhất với bản thân. STEAM – PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC HIỆN ĐẠI VÀ LÝ TƯỞNG Là khởi đầu cho một sự thay đổi lớn ở Mỹ và là tương lai của cả một nền giáo dục, STEAM được tạo thành từ thuật ngữ “STEM” và “Nghệ thuật – Art”. Ra đời từ thập kỷ trước, STEM (viết tắt của Khoa học – Science, Công nghệ – Technology, Kỹ thuật – Engineering, và Toán học – Mathematics) đã luôn là một phương pháp giáo dục hàng đầu tại thời điểm lúc bấy giờ. STEM tập trung vào việc đào tạo cho học sinh về 4 lĩnh vực trên. Tuy nhiên, chủ trương của nền giáo dục hiện đại, ngày nay lại đánh giá cao tầm quan trọng của Nghệ thuật trong việc thúc đẩy sự đổi mới và sáng tạo, đó cũng chính là lý do tại sao phương pháp giáo dục STEAM ra đời. STEAM là ý tưởng sáng tạo ban đầu của Trường Thiết Kế Rhode Island (Mỹ), sau đó được sử dụng bởi nhiều nhà giáo dục và dần dần lan rộng ra cả Hoa Kỳ. Đây là một phương pháp tiếp cận giáo dục kiểu mới, trong đó Khoa Học, Công Nghệ, Kỹ Thuật, Nghệ Thuật, và Toán Học cùng được sử dụng để giảng dạy và hướng dẫn cho học sinh. STEAM là một sự chuyển đổi từ cách thức giáo dục truyền thống, dựa vào tiêu chuẩn điểm số để đánh giá, sang một phương pháp giáo dục hiện đại và lý tưởng, trong đó quá trình học tập và kết quả cùng được xem trọng như nhau. Phương pháp giáo dục STEM & Art là gì? STEM là viết tắt của SCIENE (khoa học), TECHNOLOGY (công nghệ), ENGINEERING (quy trình sáng tạo kĩ thuật),  MATHEMATICS (toán học). STEM & Art là phương pháp giáo dục sớm Stem tích hợp nghệ thuật, được coi là một chiến lược giáo dục cải tiến theo phương pháp mới, pha trộn chương trình nghệ thuật – nhảy múa, âm nhạc, nghệ thuật hình ảnh với chương trình giáo dục tiêu chuẩn. Stem & Art là một trong những phương pháp giáo dục sớm giành cho trẻ mầm non của Mỹ – đất nước đầu tiên phổ cập giáo dục phổ thông cho cả nước. Do đó, chúng ta hoàn toàn có đủ căn cứ để tin vào một nền giáo dục sớm hiện đại này. Phương pháp giáo dục sớm STEM & ART (STEAM) cung cấp cho trẻ những kỹ năng gì? Không phải là những cách đào tạo, những bí quyết học cao siêu để dạy học sinh thành tài, thành những nhà toán học, khoa học vĩ đại… mà phương pháp này sẽ phát triển các kỹ năng cho trẻ để chúng có thể sử dụng trong cuộc sống tương lại, đặc biệt với môi trường công nghệ hóa, hiện đại hóa như hiện nay. Kỹ năng STEM là sự tích hợp hài hòa bốn nhóm kỹ năng riêng lẻ: khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học. -Kỹ năng khoa học: Phương pháp này xây dựng khả năng liên kết những định luật, khái niệm, nguyên lý và cả những cơ sở lý thuyết trong công cuộc giáo dục khoa học – công nghệ để thực hành và giải quyết những vấn đề trong thực tiễn cuộc sống. -Kỹ năng công nghệ: Mang đến khả năng sử dụng, quản lý, sự nhận thức về công nghệ từ những vật dụng đơn giản hàng ngày như bút chì, bút màu đến những vật dụng phức tạp hơn. Cho trẻ hiểu theo hướng tất cả các thay đổi của thế giới tự nhiên đều phục vụ các hoạt động của con người đều được coi là công nghệ. -Kỹ năng kỹ thuật: Giúp trẻ hình thành các khả năng giải quyết vấn đề thực tiễn trong đời sống, hiểu được quy trình sản xuất ra một đối tượng cụ thể. –Kỹ năng toán học: Trẻ hình thành kỹ năng toán học từ sớm sẽ có các ý tưởng chính xác, áp dụng hiệu quả các khái niệm, kỹ năng toán học vào cuộc sống hàng ngày. Giáo dục STEM giúp trẻ hình thành sớm các kỹ năng giải quyết vấn đề, tư duy phản biện, kỹ năng cộng tác, kỹ năng giao tiếp… STEM kết hợp với ART Phương pháp STEM kết hợp với Art mang đến một chiến lược giáo dục cải tiến hiệu quả cao cho lĩnh vực giáo dục mầm non. Thông qua hình thức tích hợp với nghệ thuật, trẻ sẽ dễ dàng khám phá ra các giai đoạn khác nhau của vấn đề thông qua bài múa. Tại các trường học đào tạo theo phương pháp STEAM, múa trở thành một môn học cụ thể trong chương trình giáo dục, trẻ sẽ tự nhận thức được khái niệm thông qua thị giác. Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần những chương trình đào tạo kết hợp hài hòa giữa các bộ môn Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán học và Nghệ thuật để đào tạo ra những thế hệ trẻ toàn diện cả về học thuật, và thúc đẩy sự sáng tạo bên trong của mỗi người. Chúng ta cần những ý tưởng mới, những giải pháp mới cho các vấn đề hiện tại và sau này. Chúng ta cần đánh thức những “nghệ sĩ” bên trong chính những thế hệ học sinh nhỏ tuổi để các em có thể trở thành những công dân toàn cầu thực thụ.