Academia.eduAcademia.edu
GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC - TẬP 2 GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC - TẬP 2 (Dành cho sinh viên Đại học sư phạm) Trần Thị Tuyết Oanh (Chủ biên) Phần 3: LÝ LUẬN GIÁO DỤC Lí luận giáo dục là hệ thống lí luận về tổ chức quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp) hướng chủ yếu vào việc hình thành cho người được giáo dục những quan điểm, niềm tin, giá trị, động cơ thái độ, hành vi, thói quen phù hợp với những chuẩn mực của xã hội, góp phần phát triển toàn diện nhân cách theo mục đích giáo dục. Hệ thống lí luận này bao gồm những vấn đề cơ bản về bản chất, đặc điểm, quy luật của quá trình giáo dục; về nguyên tắc, phương pháp và nội dung giáo dục, sự thống nhất các môi trường giáo dục, đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt hiệu quả. Chương 12: QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC I. KHÁI NIỆM QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC 1. Quá trình giáo dục là gì? Quá trình giáo dục ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp, là bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể. Quá.trình giáo dục theo nghĩa hẹp và quá trình dạy học và đều hướng vào hình thành nhân cách toàn diện theo mục tiêu giáo dục đã xác định. Trong đó quá trình giáo dục với chức năng trội là làm cho học sinh có nhận thức đúng đắn về các yêu cầu, chuẩn mực xã hội và có hành vi, thói quen hành động tương ứng, nó là một trong những kết quả, mục đích quan trọng nhất của hoạt động dạy học trong nhà trường. Quá trình dạy học có nhiệm vụ là truyền thụ cho học sinh tri thức và rèn luyện các kĩ năng, kĩ xảo tương ứng, phát triển trí tuệ, trên cơ sở đó hình thành cho họ những giá trị đạo đức phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội. Như vậy dạy học với chức năng trội là truyền thụ tri thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo tương ứng cho học sinh sẽ phải dẫn đến quá trình giáo dục, nó được xem là một con đường, phương tiện hữu hiệu nhất để thực hiện quá trình giáo dục. Như vậy quá trình giáo dục là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức của giáo viên và học sinh, hình thành những quan điểm, mềm tin, giá trị, động cơ, thái độ, hành vi, thói quen phù hợp với những chuẩn mực chính trị, đạo đức, pháp luật, thẩm mĩ, văn hoá, làm phát triển nhân cách học sinh theo mục đích giáo dục của nhà trường và xã hội. 2. Cấu trúc của quá trình giáo dục Theo cách tiếp cận hệ thống, quá trình giáo dục là một hệ thống bao gồm trong nó các thành tố cấu trúc như: mục đích và nhiệm vụ giáo dục; nội dung giáo dục; phương pháp giáo dục; nhà giáo dục; người được giáo dục; kết quả giáo dục. Mỗi thành tố có chức năng riêng và có mối quan hệ biện chứng với nhau. Mục đích giáo dục là một mô hình dự kiến về nhân cách học sinh đáp ứng được các yêu cầu khách quan của xã hội, của đất nước trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Để thực hiện được mục đích đó, nhiệm vụ giáo dục của nhà trường phải hình thành và phát triển các mặt tư tưởng, chính trị, tình cảm, thái độ, hành vi đạo đức, pháp luật, trí tuệ, thể chất, lao động - kĩ thuật - nghề... góp phần phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Mục đích giáo dục là thành tố hàng đầu, có vai trò định hướng cho sự vận động, phát triển của các thành tố khác của quá trình giáo dục (nội dung, phương pháp, phương thức giáo dục...) và định hướng cho toàn bộ quá trình giáo dục. Mục đích giáo dục được ví là "đơn đặt hàng của xã hội". Nhà giáo dục là chủ thể của quá trình giáo dục giữ vai trò chủ đạo, nhà giáo dục cần quán triệt mục đích, nhiệm vụ giáo dục và chuyển tải nó tới học sinh (đối tượng giáo dục). Đồng thời, nhà giáo dục lựa chọn nội dung, phương pháp, các hình thức tổ chức giáo dục và tổ chức quá trình giáo dục học sinh. Nhà giáo dục ở nhà trường là các thầy cô giáo, tập thể sư phạm, ở gia đình là các bậc cha mẹ, ông bà, người lớn và các mối quan hệ khác. Vai trò của giáo viên trong quá trình giáo dục thể hiện ở những mặt sau: - Định hướng sự phát triển nhân cách học sinh theo mục đích giáo dục của Đảng, Nhà nước và mục tiêu giáo dục cụ thể của nhà trường. - Có kế hoạch, phương pháp tổ chức hợp lí, khoa học, hệ thống các hoạt động giáo dục ở trong và ngoài nhà trường. - Phát huy được ý thức tự giáo dục của học sinh. - Phối hợp giữa tác động sư phạm của giáo viên với tác động giáo dục đồng bộ, thống nhất của Hội đồng giáo dục trong nhà trường và các lực lượng, tổ chức giáo dục khác. Học sinh với tư cách là khách thể của quá trình giáo dục nhận sự tác động có định hướng, có kế hoạch, có phương pháp, có tổ chức và có hệ thống của giáo viên, nhà giáo dục. Quá trình giáo dục luôn có sự tác động qua lại, thống nhất giữa chủ thể giáo dục (nhà giáo dục) và khách thể giáo dục (người được giáo dục). Tuy nghiên, học sinh trong quá trình giáo dục tiếp nhận có chọn lọc các tác động giáo dục và tự vận động để biến các tác động, các yêu cầu giáo dục từ bên ngoài thành nhu cầu được giáo dục bên trong của bản thân. Trong quá trình giáo dục, học sinh luôn nhận các tác động giáo dục từ phía nhà giáo dục và các lực lượng giáo dục, khi đó, học sinh là khách thể của quá trình giáo dục. Khi tiếp nhận các tác động giáo dục đó, người học không thụ động mà là một thực thể xã hội có ý thức, người học ý thức được mục đích, ý nghĩa, các yêu cầu giáo dục đối với mình, rồi diễn ra quá trình đấu tranh động cơ trong khi lựa chọn và định hướng giá trị. Tức là khi đứng trước những tác động giáo dục dưới nhiều hình thức khác nhau, người được giáo dục tiếp nhận nó theo nhu cầu và ý thức của mình, nên mọi tác động giáo dục bị khúc xạ theo lăng kính chủ quan của họ, khi đó học sinh được xem là chủ thể của quá trình giáo dục. Hiệu quả của quá trình giáo dục phụ thuộc rất lớn vào tính chủ thể này, với tư cách là chủ thể, học sinh sẽ tự giáo dục, tự tu dưỡng và rèn luyện để phát triển và hoàn thiện nhân cách. Nội dung giáo dục là hệ thống những tri thức, những chuẩn mực đạo đức cần giáo dục cho học sinh, những tình cảm, thái độ, hành vi - thói quen trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nội dung giáo dục chịu sự quy định, chi phối, định hướng của mục đích giáo dục và là cơ sở để xác định các phương pháp giáo dục. Phương pháp giáo dục là những cách thức, biện pháp hoạt động phối hợp thống nhất giữa nhà giáo dục và người được giáo dục để giúp cho người được giáo dục chuyển hoá các yêu cầu, các chuẩn mực xã hội thành hành vi và thói quen ứng xử, tức là hình thành và phát triển ở các em những phẩm chất và hành vi, thói quen đạo đức phù hợp với các chuẩn mực đã được xã hội quy định. Kết quả giáo dục là thành tố biểu hiện tập trung kết quả vận động và phát triển của quá trình giáo dục nói chung và kết quả làm hình thành thói quen hành vi, thái độ nói riêng ở học sinh theo mục đích, nhiệm vụ, mục tiêu giáo dục của nhà trường. Nếu mục đích giáo dục là dự kiến mô hình giáo dục - đào tạo mong muốn thì kết quả giáo dục là đích cần đạt được, là mục tiêu thực tế của quá trình giáo dục. Giữa mục đích giáo dục (M) và kết quả giáo dục (Kq) sẽ có các mối tương quan sau: Kq -> M; Kq ~ M; Kq < M; Kq trái (lệch hoặc ngược) với M. Các thành tố của quá trình giáo dục nêu trên liên quan mật thiết, thống nhất biện chứng và tác động qua lại, tương hỗ lẫn nhau. Mặt khác chúng lại có quan hệ và bị chi phối bởi môi trường kinh tế - văn hoá - KHKT và các quan hệ sản xuất. Sản phẩm của quá trình giáo dục là nhân cách học sinh được phát triển. Sản phẩm đó phải thoả mãn được hai tiêu chí cơ bản: - Một là phù hợp với các chuẩn mực đã được xã hội quy định mang tính bền vững, phổ biến. - Hai là phải đáp ứng, phục vụ được các yêu cầu tồn tại, phát triển không ngừng của xã hội, tạo ra sự thích ứng cao giữa cá nhân và sự biến đổi của môi trường kinh tế - xã hội. Từ sự phân tích các mối quan hệ biện chứng giữa các thành tố của quá trình giáo dục, ta có thể thiết lập sơ đồ về mối quan hệ đó như sau: M: Mục đích giáo dục C: Chủ thể giáo dục (giáo viên) N: Nội dung, nhiệm vụ giáo dục P: Phương pháp giáo dục Pt: Phương tiện giáo dục HTTC: Hình thức tổ chức giáo dục Kq: Kết quả giáo dục K: Khách thể giáo dục (học sinh) II. BẢN CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC 1. Bản chất của quá trình giáo dục Bản chất quá trình giáo dục được xác định căn cứ vào những cơ sở sau: Thứ nhất, quá trình giáo dục là quá trình hình thành một kiểu nhân cách trong xã hội. Sự phát triển cá nhân con người được quy định bởi tác động qua lại của các nhân tố xã hội và nhân tố học sinh, trong đó sự ưu tiên hàng đầu thuộc về các nhân tố xã hội. Cá nhân được phát triển dưới ảnh hưởng của chương trình. Quá trình xã hội hoá cá nhân là quá trình biến cá nhân thành một thành viên của xã hội (ứng với các giai đoạn phát triển lịch sử cụ thể của xã hội); có đầy đủ các giá trị xã hội để tham gia vào những hoạt động của xã hội. Do đó muốn xác định được bản chất của quá trình giáo dục phải xuất phát từ cơ chế có tính xã hội của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ trước trong các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Nhờ đó cá nhân chiếm lĩnh được các giá trị văn hoá của loài người. Thứ hai, trong quá trình giáo dục luôn có mối quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo dục (cá nhân hoặc tập thể), đó là quan hệ sư phạm - một loại quan hệ xã hội đặc thù. Quan hệ sư phạm này luôn luôn chịu sự chi phối của các quan hệ chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội, kinh tế, khoa học - kĩ thuật..., đặc biệt là những quan hệ chính trị - xã hội. Quan hệ sư phạm là cơ sở để xác định bản chất của quá trình giáo dục, đó là sự thống nhất giữa sự tác động giáo dục của nhà giáo dục và sự tiếp nhận, tự điều chỉnh của người được giáo dục trong quá trình giáo dục. Bản chất của quá trình giáo dục là gì? Quá trình giáo dục - một quá trình xã hội nhằm hình thành và phát triển cá nhân trở thành những thành viên xã hội, những thành viên đó phải thoả mãn được hai mặt: vừa phù hợp (thích ứng) với các yêu cầu của xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển, vừa có khả năng tác động cải tạo, xây dựng xã hội, làm cho nó tồn tại và phát triển. Những nét bản chất của cá nhân là do các mối quan hệ xã hội hợp thành. Quá trình giáo dục là quá trình làm cho người được giáo dục (học sinh) ý thức được các quan hệ xã hội và các giá trị của nó (các quan hệ chính trị - tư tưởng, kinh tế, pháp luật, đạo đức) để rồi biết vận dụng vào các lĩnh vực: kinh tế, văn hoá - xã hội, đạo đức, tôn giáo, pháp luật, gia đình... Quá trình vận dụng, trải nghiệm các quan hệ xã hội đó sẽ giúp học sinh (người được giáo dục) tích luỹ được kinh nghiệm xã hội (thực tiễn) tốt và có nhu cầu, hành vi, thói quen, biết thể hiện đúng đắn các quan hệ xã hội. Chính trong quá trình tham gia vào các quan hệ xã hội như vậy sẽ giúp cho học sinh khẳng định những quan hệ mới, tích cực trong mọi lĩnh vực của cuộc sống và biết loại bỏ khỏi bản thân những quan niệm, những biểu hiện tiêu cực, tàn dư cũ, lạc hậu không còn phù hợp với xã hội ngày nay. Quá trình giáo dục là quá trình hình thành bản chất người - xã hội trong mỗi cá nhân một cách có ý thức, là quá trình tổ chức để mỗi cá nhân chiếm lĩnh được các lực lượng bản chất xã hội của con người, được biểu hiện ở toàn bộ các quan hệ xã hội của họ. Triết học mác xít đã khẳng định: Bản chất xã hội của con người chỉ có được khi nó tham gia vào đời sống xã hội đích thực thông qua hoạt động và giao lưu ở một môi trường văn hoá (văn hoá vật chất và tinh thần). Do đó việc tiếp cận bản chất quá trình giáo dục buộc chúng ta phải xem xét quá trình tổ chức đời sống, hoạt động và giao lưu của đối tượng giáo dục. Mỗi con người đều sống trong một môi trường lịch sử xã hội cụ thể. Quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống cho mỗi cá nhân hoặc nhóm, tầng lớp xã hội theo các chuẩn mực các yêu cầu của sự phát triển xã hội, làm cho cá nhân biết sống phù hợp với các quan hệ xã hội. Hoạt động và giao lưu là hai mặt cơ bản, thống nhất trong cuộc sống của con người và cũng là điều kiện tất yếu của sự hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân. Các lí thuyết về hoạt động đã chứng tỏ là con người muốn tồn tại và phát triển phải có hoạt động và giao lưu. Nếu các hoạt động và giao lưu của cá nhân (hoặc nhóm người) được tổ chức một cách khoa học với các điều kiện, phương tiện hoạt động tiên tiến, phong phú, đa dạng; cá nhân được tham gia vào các hoạt động và giao lưu đó thì sẽ có nhiều cơ hội tốt cho sự phát triển. Vì bất kì một hoạt động nào của con người cũng đều phải đặt vào (có quan hệ) những mối quan hệ xã hội và những hình thái giao lưu nhất định. Chính vì vậy quá trình giáo dục vừa mang bản chất của hoạt động vừa mang bản chất của giao lưu. Giáo dục là một quá trình tác động qua lại mang tính xã hội giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, giữa những người được giáo dục (học sinh) với nhau và với các lực lượng, các quan hệ xã hội trong và ngoài nhà trường. Như vậy bản chất của quá trình giáo dục là quá trình tổ chức các hoạt động và giao lưu trong cuộc sống nhằm giúp cho người được giáo dục tự giác, tích cực, độc lập chuyển hoá những yêu cầu và những chuẩn mực của xã hội thành hành vi và thói quen tương ứng. 2. Đặc điểm quá trình giáo dục a. Giáo dục là một quá trình có mục đích xuất phát tư yêu cầu của xã hội và diễn ra lâu dài Quá trình giáo dục nhằm hình thành những phẩm chất, những nét tính cách của cá nhân nên nó đòi hỏi một thời gian lâu dài mới đạt được kết quả. Tính chất lâu dài của quá trình giáo dục được xem xét ở các góc độ sau: - Quá trình giáo dục được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của cuộc đời con người, từ lúc sinh ra cho đến khi không còn sống nữa. - Việc hình thành và trở nên bền vững, ổn định của một hành vi, thói quen của cá nhân đòi hỏi một thời gian lâu dài không thể một sớm, một chiều mà có ngay được. Những phẩm chất mới của nhân cách (niềm tin, động cơ đúng, tình cảm mới...) chỉ có được và trở nên vừng chắc khi người được giáo dục tiếp nhận và trải qua một thời gian tập luyện, thể nghiệm, đấu tranh bản thân (đấu tranh động cơ) trong cuộc sống thực để trở thành kinh nghiệm sống của chính mình càng đòi hỏi một thời gian lâu dài. - Kết quả tác động giáo dục, nhất là các tác động nhằm hình thành nhận thức mới, niềm tin... thường khó nhận thấy ngay (khó đánh giá, lượng hoá một cách cụ thể) và có khi kết quả đó lại bị biến đổi hoặc mất đi. Do đó công tác giáo dục phải được tiến hành bền bỉ, liên tục theo một kế hoạch ổn định, lâu dài, đồng thời trong quá trình giáo dục lại phải phát huy được cao độ tính tự giác, nỗ lực tự giáo dục kéo dài, liên tục của người được giáo dục thì mới đạt được hiệu quả giáo dục, kinh nghiệm thực tiễn giáo dục đã chứng tỏ điều đó. - Việc sửa chữa, thay đổi những nếp nghĩ; thói quen cũ, lạc hậu, không đúng, nhất là những thói quen - hành vi xấu thường diễn ra dai dẳng, trở đi trở lại mãi trong ý thức, hành vi của mỗi người nên việc khắc phục chúng rất khó khăn và lâu dài. b. Quá trình giáo dục diễn ra với sự tác động của rất nhiều nhân tố Quá trình giáo dục là quá trình tổ chức các hoạt động phong phú, các dạng giao lưu đa dạng để hình thành những phẩm chất nhân cách bền vững cho người được giáo dục, có rất nhiều nhân tố tác động đến quá trình này như: Các sự kiện, quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng - văn hoá, phong tục, tập quán; các hoạt động giáo dục ở trong và ngoài nhà trường; các nội dung thông tin - văn hoá - nghệ thuật tuyên truyền qua các phương tiện và các kênh thông tin khác nhau; các thành tố của quá trình giáo dục (mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện) cách tổ chức được chủ thể và khách thể quá trình giáo dục tác động để nó vận hành và phát triển nhằm đem lại hiệu quả giáo dục; các yếu tố tâm lí, trình độ được giáo dục, điều kiện, hoàn cảnh riêng tư... của người được giáo dục; các mối quan hệ sư phạm được tạo ra trong quá trình tác động qua lại giữa học sinh với giáo viên, giữa học sinh với các lực lượng giáo dục khác. Các yếu tố tác động từ nhiều phía đan kết, xen kẽ, bổ sung cho nhau tạo thành một thể thống nhất hướng tới việc hoàn thiện nhân cách. Tuy nhiên, các yếu tố tác động đến quá trình giáo dục với nhiều mức độ khác nhau, chúng có thể thống nhất hỗ trợ cho nhau trong quá trình giáo dục, cũng có thể có mâu thuẫn làm hạn chế, suy giảm, thậm chí làm vô hiệu hoá kết quả của quá trình giáo dục. Điều này đòi hỏi nhà giáo dục cần chủ động phối hợp thống nhất các tác động giáo dục, đồng thời phải linh hoạt vận dụng các nguyên tắc, phương pháp giáo dục để hạn chế tới mức tối đa những tác động tiêu cực, tự phát, và phát huy những tác động tích cực đối với quá trình giáo dục. c. Quá trình giáo dục mang tính cụ thể Quá trình giáo dục được thực hiện trong cuộc sống, hoạt động và giao lưu của mỗi cá nhân. Với tư cách là người được giáo dục, cá nhân tiếp nhận các tác động giáo dục theo những quy luật chung, đồng thời lại phải chú ý đến những điểm riêng biệt cụ thể thì mới có hiệu quả và tránh được những tác động giáo dục một cách cứng nhắc, công thức, giáo điều. Tính cụ thế của quá trình giáo dục được thể hiện như sau: - Tác động giáo dục theo từng cá nhân người được giáo dục với những tình huống giáo dục cụ thể, riêng biệt. Quá trình giáo dục luôn phải giải quyết các mâu thuẫn xung đột cụ thể giữa yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục với phẩm chất, năng lực, tâm lí chủ quan của người được giáo dục. - Quá trình giáo dục phải tính đến những đặc điểm của từng loại đối tượng cụ thể. Mỗi học sinh đều là một cá nhân có tính độc lập tương đối của nó về trình độ được giáo dục, về kinh nghiệm sống, về thái độ, tình cảm, thói quen.. đặc điểm tâm lí lứa tuổi, điều kiện hoàn cảnh sống, những diễn biến phức tạp, éo le của từng tình huống cụ thể. Nhà giáo dục cần phải nhìn thấy hoặc dự đoán được những nguyên nhân (sâu xa và trước mắt) của các biểu hiện (tốt, xấu) của thái độ, hành vi, thói quen... từ đó mới có biện pháp tác động phù hợp. Quá trình giáo dục được diễn ra trong thời gian, thời điểm, không gian với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Kết quả giáo dục cũng mang tính cụ thể đối với từng loại đối tượng giáo dục. Quá trình giáo dục phải đặc biệt chú ý rèn luyện, luyện tập phương thức, thao tác, kĩ năng thể hiện các yêu cầu, nội dung, chuẩn mực xã hội về nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, biến những yêu cầu đó từ bên ngoài thành nét tính cách riêng, độc đáo của mỗi con người. Tóm lại quá trình giáo dục luôn diễn ra cụ thể trong những tình huống giáo dục, điều kiện giáo dục và với những con người (đối tượng giáo dục) cụ thể. d. Quá trình giáo dục thống nhất biện chứng với quá trình dạy học Giáo dục và dạy học là hai quá trình có cùng mục đích là hình thành và phát triển nhân cách, tuy nhiên chúng không đồng nhất. Dạy học nhằm tổ chức, điều khiển để người học chiếm lĩnh có chất lượng và hiệu quả nội dung học vấn; giáo dục hình thành những phẩm chất đạo đức, hành vi, thói quen... hai hoạt động này không tách biệt mà có quan hệ biện chứng với nhau. Trên cơ sở thực hiện các nhiệm vụ dạy học thì thế giới quan và các phẩm chất đạo đức của học sinh được hình thành và phát triển, ngược lại, giáo dục tốt các phẩm chất sẽ thúc đẩy hoạt động đạt kết quả cao, dạy học là quá trình điều khiển được, còn quá trình giáo dục là quá trình phức tạp khó kiểm soát. III. ĐỘNG LỰC VÀ CÁC KHÂU CỦA QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC 1. Động lực của quá trình giáo dục Theo quan điểm triết học biện chứng, các sự vật, hiện tượng, quá trình luôn vận động và phát triển, động lực của sự phát triển được hình thành trong quá trình giải quyết có hiệu quả các mâu thuẫn cơ bản, nội tại của chúng. Trong cuộc sống, con người luôn chịu những tác động khách quan từ môi trường, chúng có thể tác động ngẫu nhiên, tự phát hoặc tác động có mục đích. Mỗi cá nhân cần tiếp thu những tác động để chuyển hoá nó thành ý thức, hành vi phù hợp với các chuẩn mực được xã hội chấp nhận. Trong quá trình đó tồn tại rất nhiều mâu thuẫn phải được giải quyết, giữa cái tốt và cái xấu, cái tích cực và cái tiêu cực, giữa cái mới có tính tích cực với thói quen cũ lạc hậu. Chính sự đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn sẽ thúc đẩy sự hoàn thiện nhân cách. Quá trình giáo dục có nhiều mâu thuẫn, trong đó mâu thuẫn cơ bản của bản thân quá trình giáo dục, trở thành động lực chủ yếu của quá trình giáo dục. Động lực của quá trình giáo dục chính là kết quả giải quyết tốt mâu thuẫn giữa một bên là các yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục mới đang đặt ra cho người được giáo dục với một bên là trình độ được giáo dục và phát triển hiện có của người được giáo dục. Các nhiệm vụ giáo dục luôn được đặt ra trước những nhu cầu, động cơ muốn vươn lên hoàn thiện nhân cách, đòi hỏi người được giáo dục tự giác, tính cực tìm các cách thức, phương tiện khác nhau để thực hiện các nhiệm vụ giáo dục, trình độ được giáo dục được nâng cao. Tiếp tục là những yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục mới khác cao hơn, phức tạp hơn được đặt ra lại mâu thuẫn với trình độ được giáo dục đang có, học sinh lại có nhu cầu muốn giải quyết nhiệm vụ giáo dục mới đó. Cứ như vậy, quá trình giáo dục vận động và phát triển không ngừng, ngày một đi lên. 2. Các khâu của quá trình giáo dục Quá trình giáo dục mang tính toàn vẹn. Để hình thành và phát triển bất kì một phẩm chất nhân cách nào đều phải tác động vào tất cả các mặt của đời sống tâm lí cá nhân: nhận thức, ý chí, niềm tin, tình cảm, kĩ năng hành động... Từ lí luận và thực tiễn giáo dục ta có thể nêu ra các khâu của quá trình giáo dục như sau: a. Bồi dưỡng, nâng cao nhận thức làm cơ sở cho hành động Quá trình giáo dục trước hết phải làm cho học sinh nhận thức đúng, đủ, chính xác các nội dung khái niệm về tư tưởng, chính trị, đạo đức, văn hoá, thẩm mĩ, quyền lợi, nghĩa vụ, bơn phận, các quy định, chuẩn mực hành vi trong các quan hệ xã hội... Từ nhận thức đúng đắn, học sinh mới có thể biết và hành động như thế nào trong các tình huống của đời sống xã hội. Nhận thức làm kim chỉ nam cho hành động. Nếu có nhận thức đúng sẽ có cơ hội để dẫn đến hành động đúng. Quá trình giáo dục là quá trình giúp học sinh phát triển về mặt nhận thức từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ biết những điều đơn giản đến phức tạp hơn, cao hơn... để rồi biết vận dụng vào đời sống xã hội. Chính quá trình vận dụng, trải nghiệm những điều đã thu nhận được trong quá trình giáo dục lại củng cố nhận thức, xây dựng được ý thức niềm tin cho cá nhân. b. Bồi dưỡng những tình cảm đúng đắn, lành mạnh phù hợp với các quan niệm, chuẩn mực đạo đức, quan hệ - ứng xử xã hội Quá trình giáo dục, trên cơ sở làm cho cá nhân có nhận thức đúng đắn sẽ hình thành thái độ, niềm tin và tình cảm đúng. Thái độ, tình cảm là sự biểu hiện cụ thể của quan điểm sống với những giá trị, chuẩn mực xã hội và của bản thân. Từ nhận thức đến hành động phải có sự thúc đẩy của tình cảm. Tình cảm - sức mạnh tinh thần to lớn để chuyển hoá nhận thức thành hành động. Với vai trò là động cơ thúc đẩy hành động nên trong quá trình giáo dục cần phải bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp đúng đắn cho học sinh. Thực tiễn đời sống đã cho thấy: Có nhận thức đúng nhưng do tình cảm sai lệch thì chưa chắc đã dẫn đến hành động đúng, có khi còn làm sai lệch, xuyên tạc, bóp méo sự thật. Ví như "yêu nên tốt, ghét nên xấu", "yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng vuông...". Để bồi dưỡng, hình thành được những tình cảm tốt đẹp cho học sinh phải dựa vào cơ chế hình thành của tình cảm: tạo nhiều cơ hội nảy sinh các xúc cảm đồng loại và được tổng hợp lại. Muốn vậy, các quan hệ giáo dục (quan hệ sư phạm) thầy - trò phải tốt đẹp, tạo được nhiều ấn tượng tình cảm ở học sinh. Quá trình giáo dục cũng cần chú ý uốn nắn, sửa chữa, khắc phục những xúc cảm, tình cảm sai lệch, thiếu trong sáng ở học sinh.. c. Rèn luyện hình thành hành vi thói quen Quá trình giáo dục không dừng lại ở chỗ nhận thức như thế nào, mà phải dẫn đến đích là con người phải biết thể hiện nhận thức bằng hành động. Hành vi đạo đức là bộ mặt đạo đức của cá nhân. Trong thực tiễn nhiều khi không có sự thống nhất giữa nhận thức và hành vi đạo đức, như "nói hay, làm dở", "chỉ nói mà không làm", hành động trái với nhận thức "nghĩ một đằng, làm một nẻo". Qua đây ta thấy: hình thành hành vi thói quen, tức là hành vi của cá nhân đã vững chắc trong mọi trường hợp, là kết quả của quá trình giáo dục, và cũng chính là kết quả của việc thực hiện tốt hai khâu bồi dưỡng nhận thức và tình cảm trong quá trình giáo dục. Trong thực tiễn giáo dục, cần căn cứ vào nội dung và yêu cầu giáo dục cụ thể, vào đối tượng giáo dục cụ thể mà vận dụng các khâu của quá trình giáo dục theo trình tự và mức độ khác nhau. Ví dụ, để giáo dục cho học sinh ý thức tổ chức, kỉ luật, trật tự, vệ sinh thì chú ý tác động thường xuyên vào khâu rèn luyện thói quen. Hoặc để nâng cao tình yêu quê hương, đất nước thì vừa bồi dưỡng về nhận thức vừa đặc biệt gây nhiều ấn tượng tốt về quê hương, đất nước. Như vậy, trong quá trình giáo dục phải tác động đầy đủ vào cả ba khâu (nhận thức, tình cảm, hành vi). Tuy nhiên do tính không đồng đều của sự hình thành, phát triển nhân cách của mỗi cá nhân về nhận thức, tình cảm, hành vi thói quen, nên có khi phải tập trung nhiều hơn vào một nhiệm vụ trong một thời gian nhất định để giải quyết dứt điểm nhiệm vụ đó. Mặt khác khi tác động vào khâu này, đồng thời lại có tác động đến khâu khác trong quá trình giáo dục. Ví dụ, khi ta giảng giải về một yêu cầu, một chuẩn mực đạo đức, làm cho học sinh nhận thức được nó thì đồng thời cũng tác động đến việc hình thành tình cảm đạo đức và có phương hướng trong hành vi. Tóm lại: Ba khâu nhận thức, tình cảm, hành vi thói quen trong quá trình giáo dục không tách biệt nhau mà có quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể thiếu được khâu nào bởi vì giáo dục là một quá trình toàn vẹn. Khi vận dụng các khâu của quá trình giáo dục đòi hỏi nhà giáo dục phải tuỳ theo đối tượng, yêu cầu, nhiệm vụ giáo đục cụ thể, đối tượng và hoàn cảnh cụ thể để lựa chọn và vận dụng linh hoạt, sáng tạo các khâu cho phù hợp. IV. TỰ GIÁO DỤC VÀ GIÁO DỤC LẠI 1. Tự giáo dục Tự giáo dục là một bộ phận của quá trình giáo dục. Tự giáo dục là hoạt động có ý thức, có mục đích của mỗi cá nhân để tự hoàn thiện những phẩm chất nhân cách của bản thân theo những định hướng giá trị nhất định. Ví dụ, tự mình nỗ lực khắc phục khó khăn vươn lên trong học tập đạt đến một trình độ học vấn cao hơn. Tự học hỏi những điều hay, điều tốt đẹp trong quan hệ ứng xử... Nhu cầu tự giáo dục nảy sinh theo từng giai đoạn phát triển của cá nhân. Trẻ em thường bắt chước những gì ở người lớn mà chúng yêu thích, hấp dẫn bởi những biểu hiện bề ngoài. Học sinh trung học có nhu cầu tự giáo dục mạnh mẽ, đã tự ý thức, khao khát những giá trị mà các em cho là hữu ích với cuộc sống. Ví dụ như, tự tìm cách tập luyện thể dục, thể thao, rèn luyện thể lực để có cơ thể cường tráng, khoẻ mạnh. Tự tu dưỡng theo các mẫu hình nhân cách trong các tác phẩm văn học - nghệ thuật, tự đề ra kế hoạch cho mình những thói quen tốt, những phẩm chất ý chí của nhân cách. Tuổi thanh niên - các lớp cuối phổ thông trung học luôn tự ý thức về nghề nghiệp, lập nghiệp trong tương lai, tự phấn đấu, nỗ lực học tập để thực hiện được ước mơ hoài bão của mình. Quá trình tự giáo dục bao gồm những yếu tố cơ bản sau: - Năng lực tự ý thức của học sinh về sự phát triển nhân cách của bản thân, về một phẩm chất hay năng lực nào đó cần được phát triển hơn, hoặc cần phải thay đổi, sửa chữa cho phù hợp, đáp ứng được yêu cầu mới cao hơn. Năng lực tự ý thức này được thôi thúc bởi ước nguyện lí tưởng của cá nhân muốn vươn tới, đạt được những mục đích tốt đẹp trong cuộc sống, đòi hỏi người được giáo dục phải có khả năng phân tích và tự đánh giá những phẩm chất và hành động, thói quen của bản thân. Trình độ được giáo dục của cá nhân phải được phát triển đến một mức độ nhất định mới có khả năng tự đánh giá đúng đắn những phẩm chất và năng lực của bản thân, từ sự tự đánh giá này, học sinh thấy cần phải hướng đích đến những giá trị mong muốn. - Năng lực tổ chức tự giáo dục như: l) lập kế hoạch, đòi hỏi người được giáo dục tự nêu cho mình yêu cầu, nội dung, mức độ cần và sẽ thực hiện nhằm đạt được một vấn đề, một hoạt động hay một công việc nhất định, dự định thời gian thực hiện, hoàn thành kế hoạch. Bước lập kế hoạch trong tự giáo dục tiến hành tốt được xem là tự cam kết phấn đấu, rèn luyện bản thân. 2) lựa chọn các phương pháp, phương tiện để thực hiện các cam kết dobản thân đề ra. - Sự nỗ lực của bản thân để vượt qua được những khó khăn, trở ngại gặp phải trong quá trình thực hiện kế hoạch tự giáo dục. Tính tự giáo dục tích cực cao giúp cho người được giáo dục vượt lên chính bản thân mình, hình thành được các phẩm chất ý chí. - Tự kiểm tra xem đã đạt được những kết quả tự giáo dục như thế nào, cần phải phấn đấu tiếp như thế nào để hoàn thiện những điều đã dự kiến trong kế hoạch tự giáo dục. Tự đánh giá và tự rút ra những bài học kinh nghiệm cho bản thân. 2. Giáo dục lại Do ảnh hưởng của môi trường xã hội, gia đình, nhà trường và do những thiếu sót, sai lầm trong phương pháp, điều kiện giáo dục, một số, một bộ phận thanh thiếu niên học sinh đã hình thành những ý nghĩ tình cảm, thái độ, hành vi, thói quen xấu, trái ngược với những quy định có tính chuẩn mực trong các lĩnh vực, trong các mối quan hệ xã hội và đời sống... Chẳng hạn thanh thiếu niên chơi bời lêu lổng, sống tuỳ tiện, buông thả, liều lĩnh... Những biểu hiện như thế (hành vi lệch chuẩn) cần được giáo dục, uốn nắn để trở thành người tốt. Quá trình giáo dục đó gọi là giáo dục lại. Giáo dục lại là hoạt động tổ chức giáo dục nhằm uốn nắn, sửa chữa, điều chỉnh làm thay đổi những quan điểm, tình cảm, thái độ, lối sống... đặc biệt là những thói quen, hành vi không đúng, không tốt đã hình thành ở học sinh trong quá trình sống. Giáo dục lại được xem là một quá trình giáo dục đối với những cá nhân có những biểu hiện lệch chuẩn để họ trở thành những con người có ích cho xã hội, biết sống theo những yêu cầu, chuẩn mực của xã hội. Giáo dục lại là một quá trình khó khăn, phức tạp hơn quá trình giáo dục bình thường rất nhiều. Vì khi những sai lệch, những tật xấu của hành vi đã trở thành thói quen mà muốn thay đổi được là rất khó, rất lâu dài. Đối với những cá nhân đã bị nhiễm những tư tưởng, quan điểm sai lầm, đạo đức suy thoái, có những hành vi xâm hại đến xã hội và người khác thì phải được giáo dục trong các tổ chức giáo dục lại đặc biệt (giáo dục - cải tạo). Những tổ chức giáo dục lại đó có những điều kiện, phương tiện và lực lượng cán bộ chuyên làm công tác giáo dục lại như: các trung tâm giáo dục cải tạo trẻ em hư, lang thang - phạm pháp, nghiện ngập.... Khi tiến hành quá trình giáo dục lại cần chú ý một số yêu cầu sau: - Xác định đúng, cụ thể hệ thống các nguyên nhân gây ra những sai lệch trong quá trình phát triển nhân cách. Chú ý những nguyên nhân sâu xa được xem như là sự "tiềm ẩn" để dẫn đến những hành vi lệch chuẩn, đồng thời phải xác định được những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hành vi sai lệch. Chỉ khi nào xác định đúng, đầy đủ nguyên nhân gây ra sai lệch hoặc hư hỏng, suy thoái nhân cách của mỗi cá nhân thì biện pháp giáo dục lại mới có hiệu quả. - Có phương pháp tổ chức, tác động giáo dục khoa học, phù hợp với đối tượng giáo dục lại. Các trường giáo dưỡng ở nước ta đã vận dụng lí luận giáo dục và tiến hành giáo dục lại thành công, đã tích luỹ được hệ thống kinh nghiệm về giáo dục lại. CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN 1. Quá trình giáo dục là gì? Nêu các chức năng trội của quá trình giáo dục, dạy học. 2. Phân tích các thành tố của quá trình giáo dục và mối quan hệ biện chứng của chúng. 3. Phân tích bản chất quá trình giáo dục. 4. Phân tích các đặc điểm của quá trình giáo dục và rút ra những kết luận sư phạm cần thiết trong quá trình giáo dục học sinh. 5. Trình bày động lực của quá trình giáo dục, lấy các ví dụ trong thực tiễn để minh hoạ cho các mâu thuẫn của quá trình giáo dục. 6. Phân tích các khâu của quá trình giáo dục và mối quan hệ biện chứng của chúng. 7. Thế nào là tự giáo dục? 8. Thế nào là giáo dục lại, quá trình tiến hành giáo dục lại cần đặc biệt chú ý đến những yêu cầu nào? Tại sao? BÀI TẬP 1. Đọc các tài liệu về giáo dục lại. Viết thu hoạch về các nguyên nhân của trẻ em hư, lang thang - phạm pháp. 2. Đi thực tế ở trường giáo dưỡng, nghiên cứu một học sinh của trường để viết bài tập về các hiện tượng phạm pháp vị thành niên, nguyên nhân và những biện pháp giáo dục lại của nhà trường đó. Chương 13: NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC I. KHÁI NIỆM NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC Quá trình giáo dục là quá trình vận động và phát triển có quy luật, là hoạt động có tính khoa học và tính nghệ thuật cao. Hoạt động giáo dục muốn đạt kết quả mong muốn đòi hỏi nhà giáo dục không phải chỉ nắm được các quy luật mà còn phải biết vận dụng những quy luật đó một cách linh hoạt sáng tạo. Các quy luật của giáo dục được phản ánh trong những luận điểm chung cơ bản, mang tính chất chỉ đạo toàn bộ tiến trình giáo dục đó là các nguyên tắc giáo dục. Nguyên tắc giáo dục được hiểu là những luận điểm cơ bản có tính quy luật của lí luận giáo dục, có tác dụng chỉ đạo việc lựa chọn và vận dụng nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục nhằm thực hiện tối ưu mục đích và nhiệm vụ giáo dục. Nguyên tắc giáo dục là kết quả nhận thức của con người về các quy luật giáo dục, do đó nguyên tắc giáo dục có cơ sở khách quan, nó phản ánh những quy luật của quá trình giáo dục. Nguyên tắc giáo dục là những tri thức, kinh nghiệm được tổng kết từ thực tiễn giáo dục của nhà trường, các cơ sở giáo dục và của các nhà giáo dục tiên tiến trên thế giới và trong nước đã đạt được thành công trong quá trình giáo dục, từ đó rút ra những phương hướng chỉ đạo hoạt động giáo dục trong thực tiễn. Ví dụ như giáo dục trong lao động tập thể, tôn trọng nhân cách học sinh được nhà giáo dục Nga là Macarencô đúc rút từ thực tiễn giáo dục sinh động mà ông đã thực hiện. Như vậy nguyên tắc giáo dục trở thành cơ sở cho mọi hoạt động giáo dục, giúp cho những người làm công tác giáo dục nói chung và giáo viên nói riêng vận dụng, làm chỗ dựa để tiến hành các quá trình giáo dục đúng phương hướng và đạt hiệu quả. Tuy nhiên nguyên tắc giáo dục không phải là những "đơn thuốc", những cẩm nang có sẵn ứng với các hoạt động giáo dục thực tiễn. Nó chỉ cung cấp cho nhà giáo dục hệ thống những cơ sở lí luận, làm chỗ dựa để giải quyết các nhiệm vụ giáo dục đa dạng và sinh động. Nắm được các nguyên tắc giáo dục sẽ giúp cho nhà giáo dục biết kết hợp những kinh nghiệm thực tiễn với lí luận giáo dục để vận dụng chúng một cách sáng tạo trong quá trình giáo dục, đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt hiệu quả cao. II. HỆ THỐNG CÁC NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC 1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích trong hoạt động giáo dục Hoạt động của con người bao giờ cũng hướng tới mục đích nhất định. Giáo dục là hoạt động có mục đích, do đó nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức quá trình giáo dục đều phải căn cứ vào mục đích và phải đạt được mục đích giáo dục đó. Mục đích của hoạt động giáo dục phải được cụ thể hoá bằng các mục tiêu giáo dục. Toàn bộ hoạt động giáo dục ở trong và ngoài nhà trường đều phải hướng vào mục đích xây dựng phẩm chất nhân cách cho con người. Trong thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta cần hướng vào mục đích xây dựng nhân cách phát triển toàn diện, đó là mẫu người lí tưởng mà hoạt động giáo dục phải đạt tới. Giáo dục phải làm cho học sinh thấm nhuần đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước; sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật; tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, bảo vệ và phát triển những giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc; xây dựng nếp sống văn hoá mới, xoá bỏ tàn dư của nếp sống cũ lạc hậu... Giáo dục thực chất là tổ chức tổ chức các hoạt động và giáo lưu cho người được giáo dục. Vì vậy, quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục đều phải đặt ra những mục tiêu cụ thể và đạt được chúng, tức là khi tổ chức các quá trình giáo dục cụ thể phải chú ý dự kiến kết quả sẽ đạt được theo mục đích giáo dục, ví dụ việc tổ chức lao động sản xuất cho học sinh phải đạt được hai mục đích: giáo dục phẩm chất đạo đức và hiệu quả kinh tế. Giáo dục lao động - hướng nghiệp trong nhà trường phải đạt được mục đích là hình thành và nâng cao ý thức, tinh thần, thái độ lao động mới, có tri thức, kĩ năng lao động - nghề nghiệp để học sinh có thể hướng nghiệp và định hướng nghề nghiệp đúng, có hiệu quả. Như vậy, thông qua tổ chức hoạt động có thể giúp học sinh nhận thức một khái niệm mới, hình thành xúc cảm, tình cảm tích cực hay những thói quen hành vi đúng đắn... Mục đích giáo dục bao gồm những mục đích trước mắt, mục đích tương lai gần và mục đích chiến lược, giáo dục cần xác định và đạt được các mục đích đó. 2. Giáo dục gắn với đời sống xã hội Quá trình giáo dục học sinh là quá trình làm hình thành ở các em những phẩm chất, năng lực, thái độ, quan hệ của cá nhân đối với xã hội và với người khác. Tất cả những phẩm chất và năng lực đó của cá nhân phải phù hợp với các quan hệ xã hội. Vì vậy quá trình giáo dục phải gắn với đời sống xã hội về hai phương diện cơ bản. Thứ nhất là sự chuyển hoá các quan hệ xã hội thành ý nghĩa, giá trị đối với các cá nhân và được thể hiện trong các hành động tương ứng trong các lĩnh vực đời sống. Bởi vậy, không thể chỉ cung cấp cho học sinh những giáo lí chết cứng, khép kín trong sách vở mà phải gắn tri thức lí luận với đời sống xã hội đang phát triển sinh động. Thứ hai, quá trình giáo dục là quá trình đào tạo những con người phục vụ cho một xã hội nhất định nên phải tạo điều kiện cho họ có khả năng thích ứng cao với đời sống xã hội và những biến động không ngừng của nó. Quá trình giáo dục thế hệ trẻ phải phát huy, tận dụng những ảnh hưởng, tác động giáo dục của các quan hệ xã hội (kinh tế, chính trị, đạo đức, lối sống, văn hoá - thẩm mĩ, pháp luật...) làm cho học sinh không bị xa rời, thoát li thực tế xã hội. Phương hướng thực hiện nguyên tắc giáo dục gắn với đời sống xã hội để xây dựng những phẩm chất nhân cách cho học sinh là: - Tạo mối liên hệ gắn bó giữa việc giảng dạy, học tập, giáo dục trong nhà trường với đời sống xã hội bên ngoài. Để tạo sự gắn bó này đòi hỏi một mặt phải đưa vào trong chương trình, nội dung giáo dục những sự kiện, hiện tượng sinh động trong đời sống xã hội, các quan hệ xã hội phong phú, mặt khác cần chỉ ra phương hướng, cách vận dụng những điều đã học vào thực tiễn cuộc sống, thực tiễn lao động sản xuất, đấu tranh của xã hội; rèn luyện cho học sinh những thói quen hành vi phù hợp với chuẩn mực của xã hội - Làm cho thanh thiếu niên học sinh luôn có ý thức quan tâm đến các sự kiện trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội của đất nước; làm cho học sinh từ khi còn học trong nhà trường và sau này là một công dân chân chính phải biết được những khó khăn, thuận lợi và những vấn đề gì của xã hội cần phải giải quyết trong thực tiễn, từ đó nảy nở những tình cảm, thái độ, suy nghĩ đúng đắn của học sinh đối với Tổ quốc. - Tổ chức cho học sinh được tham gia thường xuyên vào công cuộc lao động xây dựng đất nước, xây dựng cuộc sống mới trong cộng đồng dân cư (làng, xóm, xã, khối phố...) và quá trình đấu tranh cải tạo xã hội cũ, thiết lập kỉ cương, trật tự xã hội mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, của các tổ chức chính quyền, đoàn thể. - Phê phán, khắc phục những biểu hiện của phương thức giáo dục của nhà trường kiểu cũ. Tách rời giáo dục với đời sống, không rèn luyện học sinh trong thực tế cuộc sống. Mặt khác cũng cần khắc phục hiện tượng giáo dục là chỉ chú trọng học kiến thức văn hoá - khoa học -kĩ thuật, chạy theo văn bằng mà không (hoặc ít) chú trọng việc giáo dục lí tưởng, đạo đức, lối sống, lẽ sống cho thanh thiếu niên. Hậu quả là một số bộ phận thanh niên học sinh bị xa rời cuộc sống, sai lệch trong lối sống, khó thích ứng với sự biến động của xã hội. 3. Nguyên tắc thống nhất giữa ý thức và hành vi trong giáo dục Quá trình giáo dục diễn ra từ khâu nhận thức - hình thành ý thức cá nhân đến việc chuyển hoá ý thức thành hành vi Quá trình đó lại làm nảy nở những xúc cảm, tình cảm, ý chí cho cá nhân, giúp cho sự chuyển hoá ý thức thành hành vi mạnh mẽ hơn, có nhu cầu thể hiện hành vi theo ý thức (nhận thức) đã có của bản thân. Sự thống nhất giữa ý thức và hành vi trong quá trình giáo dục học sinh được thể hiện như sau: - Hiểu được những khái niệm, quy tắc, chuẩn mực về tư tưởng, chính trị, đạo đức, pháp luật... Đối với mỗi chuẩn mực đó, yêu cầu học sinh trước hết phải hiểu đúng, đủ, cao hơn là hiểu đúng, chính xác các góc độ, khía cạnh khác nhau, trong các trường hợp, tình huống khác nhau. Ví dụ biết phân biệt thế nào là sự khéo léo, tế nhị với sự giả tạo trong quan hệ, giao tiếp... - Trên cơ sở nắm vững các chuẩn mực (nội dung, ý nghĩa, cách thể hiện) chuyển hoá thành niềm tin. - Quá trình rèn luyện, tập luyện, thể hiện các chuẩn mực về đạo đức, chính trị, lối sống... trong các điều kiện, tình huống sẽ chuyển hoá ý thức thành hành vi - thói quen. Quá trình giáo dục phải hình thành và củng cố những hành vi - thói quen tương ứng với ý thức, niềm tin về những chuẩn mực hành vi được xã hội quy định. Đây là bước quan trọng của quá trình giáo đục, vì chỉ có hành vi - thói quen mới xác định bộ mặt của nhân cách. Ý thức và hành vi trong quá trình giáo dục có mối quan hệ biện chứng với nhau. ý thức là cơ sở cho hành vi. ý thức đúng là tiền đề quan trọng cho hành vi đúng, nó được coi là kim chỉ nam cho hành động, xây dựng niềm tin vững chắc. Hành vi thói quen được hình thành lại củng cố ý thức, niềm tin làm cho cá nhân có nhu cầu thực hiện, thể hiện các hành vi đạo đức đã ý thức được. Để vận dụng có hiệu quả nguyên tắc thống nhất giữa ý thức và hành vi trong quá trình giáo dục, cần thực hiện một số yêu cầu như: - Giúp cho học sinh (tuỳ theo lứa tuổi và trình độ được giáo dục) có hiểu biết đúng, rõ ràng về các khái niệm, các chuẩn mực đạo đức, chính trị, pháp luật, các quan hệ xã hội, lối sống... Từ những hiểu biết về lí thuyết cần làm cho học sinh thấy được ý nghĩa, giá trị của những chuẩn mực đó trong thực tiễn đời sống, có sức thuyết phục, biến thành niềm tin thúc đẩy hình thành hành vi. - Cần đề phòng và ra sức khắc phục tình trạng tách rời, không ăn khớp giữa ý thức và hành vi của học sinh. Ví dụ như "nói hay, làm dở". Có những trường hợp học sinh không biết thể hiện những chuẩn mực của hành vi là do chưa hiểu nó là gì và phải làm như thế nào trong các tình huống cụ thể khác nhau, điều đó cũng dẫn đến sự tách rời giữa ý thức và hành vi. - Tổ chức rèn luyện - giáo dục học sinh trong các loại hình hoạt động phong phú, đa dạng như hoạt động học tập, lao động, vui chơi, hoạt động xã hội, lao động công ích, sinh hoạt tập thể, hoạt động văn hoá - nghệ thuật, thể dục - thể thao... Trong quá trình tham gia trực tiếp vào các loại hình hoạt động, học sinh sẽ thể nghiệm những điều được giáo dục, tích luỹ được kinh nghiệm xã hội cho bản thân và có kĩ năng vận dụng những kinh nghiệm đó vào thực tiễn cuộc sống. - Tổ chức cho học sinh tự rèn luyện, tự giáo dục thường xuyên, liên tục trong các môi trường giáo dục khác nhau để hình thành các thói quen hành vi tốt, đúng, đồng thời biết tự uốn nắn, sửa chữa, điều chỉnh những thói quen hành vi xấu, không đúng, không phù hợp với các quy định, chuẩn mực của xã hội. 4. Nguyên tắc giáo dục trong lao động và bằng lao động Giáo dục trong lao động là tổ chức một cách khoa học các loại hình hoạt động lao động để thông qua đó giáo dục học sinh, nhằm hình thành ở các em những phẩm chất nhân cách cần thiết của người lao động kiểu mới. Giáo dục bằng lao động là dùng lao động như là một phương tiện để giáo dục học sinh, tạo cơ hội và điều kiện cho học sinh vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống và rèn luyện những đức tính, phẩm chất tốt đẹp. Yêu cầu để thực hiện nguyên tắc giáo dục trong lao động và bằng lao động là cần tổ chức đưa học sinh trực tiếp tham gia vào các loại hình lao động để các em có điều kiện được thực sự rèn luyện trong lao động. Khi tổ chức lao động cho học sinh cần bảo đảm các yêu cầu: Rèn luyện tính tự giác, tích cực tham gia lao động của học sinh. Muốn vậy hình thức lao động phải phong phú, hấp dẫn. Sự chỉ đạo, lãnh đạo lao động phải chặt chẽ, nghiêm túc, tránh hình thức chủ nghĩa, vì thành tích. - Kích thích tính sáng tạo trong lao động của học sinh. - Cần giúp cho giáo viên và học sinh có nhận thức đúng đắn là đưa giáo dục lao động vào nhà trường để giáo dục học sinh là yêu cầu mới, có tính nguyên tắc của giáo dục. Do đó cần khắc phục những biểu hiện, khuynh hướng không đúng khi thực hiện nguyên tắc này như không tổ chức giáo dục, rèn luyện học sinh trong và bằng lao động; đơn giản hoá, hình thức chủ nghĩa hoặc thực dụng trong việc tổ chức lao động cho học sinh; không gắn lao động của học sinh với tri thức khoa học - kĩ thuật - công nghệ, không chú ý rèn luyện những phẩm chất nhân cách cho học sinh trong lao động nội ngoại khoá của nhà trường. 5. Nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng tập thể Giáo dục trong tập thể là xem tập thể học sinh (trường lớp các đoàn thể học sinh) là một môi trường giáo dục, bởi vì: - Tập thể học sinh là một tập hợp có tổ chức chặt chẽ, có hoạt động chung với mục đích thống nhất - mục đích giáo dục - xã hội. - Tập thể học sinh có bộ máy tự quản, xây dựng và thực hiện một hệ thống các mối quan hệ trong tập thể: trách nhiệm giữa các thành viên trong tập thể với nhau và với tập thể, quan hệ chỉ huy, quyết định - thi hành, quan hệ hợp tác, nhân ái... - Tập thể học sinh luôn duy trì các dư luận xã hội lành mạnh, phê phán, điều chỉnh những thái độ, hành vi trái với các chuẩn mực xã hội của mỗi cá nhân - thành viên của tập thể. - Sống trong tập thể, học sinh luôn ý thức về tập thể do bầu không khí thân ái, đoàn kết, gắn bó giữa các thành viên; làm hình thành tinh thần ý thức tập thể ở học sinh - yêu cầu quan trọng của giáo dục trong nhà trường. Giáo dục bằng tập thể là xem tập thể như một lực lượng, một phương tiện giáo dục có tác dụng hình thành, phát triển nhân cách học sinh. Các yêu cầu giáo dục của nhà trường, của giáo viên thông qua tập thể tác động đến các thành viên trong tập thể, các thành viên lại tác động giáo dục lẫn nhau (tác động giáo dục liên nhân cách). Các hoạt động chung của tập thể có tính chất tự quản là điều kiện cho các thành viên trong tập thể tự rèn luyện, tự giáo dục, tự điều chỉnh hành vi thói quen cho phù hợp với yêu cầu giáo dục xã hội. Nó còn đánh giá và buộc cá nhân phải biết tự đánh giá kết quả tự giáo dục, rèn luyện của mình so với các quy định, quy chế của tập thể. Những yêu cầu khi thực hiện nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng tập thể: - Thực hiện các tác động giáo dục song song, đòi hỏi công tác giáo dục của nhà trường, của giáo viên phải tác động đến tập thể học sinh; làm cho nó trở thành một môi trường, một phương tiện giáo dục đối với từng học sinh - thành viên của tập thể. Đồng thời, giáo viên tác động giáo dục đến từng học sinh song không thiên về "giáo dục tay đôi" giữa giáo viên và một học sinh. Có thể diễn tả quá trình tác động giáo dục song song đó theo sơ đồ sau: GV: giáo viên tác động đến tập thể TT: tập thể tác động đến mỗi thành viên (học sinh) HS - HS: các thành viên của tập thể là học sinh lại tác động giáo dục lẫn nhau GV - HS: tác động giáo dục từng học sinh - Xây dựng tập thể học sinh phát triển vững mạnh là đảm bảo cho nó thực sự là một môi trường, một lực lượng giáo dục hữu hiệu. Cần khắc phục hiện tượng tập thể thiếu tổ chức chặt chẽ, không có tác dụng giáo dục nhân cách cho các thành viên. 6. Nguyên tắc tôn trọng nhân cách học sinh kết hợp với yêu cầu hợp lí trong quá trình giáo dục Tôn trọng nhân cách học sinh trong quá trình giáo dục đòi hỏi phải tôn trọng phẩm giá, danh dự, thân thể học sinh và kích thích lòng tự trọng của các em. Khi học sinh có những hành vi, lời nói trái với chuẩn mực hành vi, giáo viên phải biết tự kiềm chế, bình tĩnh, nghiêm khắc, chân tình giúp đỡ các em nhận ra lỗi lầm, không mạt sát sỉ nhục, đánh đập, thể hiện sự thiếu tôn trọng các em. Tôn trọng nhân cách học sinh cần phải lạc quan tin tưởng đối với sự tiến bộ của học sinh. Tuyệt đối không thành kiến với học sinh, ngay cả đối với những học sinh mắc phải những lỗi lầm lớn. Vì nếu có ác cảm, định kiến với học sinh thì sẽ làm cho các em mất tự tin mặc cảm và xa lánh nhà giáo dục, bạn bè và tập thể nên càng mất cơ hội được giáo dục. Giáo dục cần phát huy mặt tốt, ưu điểm của học sinh là chính, phải nhìn thấy mặt tốt của con người để động viên phát triển nó lên. Đồng thời khi các em mắc lỗi, mắc sai lầm thì cũng phải có phương pháp giáo dục, không được hắt hủi, sỉ nhục. Nhà giáo dục cần xác định những yêu cầu hợp lí cho học sinh, tức là trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục luôn nêu ra những đòi hỏi sư phạm - những yêu cầu để học sinh phấn đấu rèn luyện theo, tính hợp lí của yêu cầu đó thể hiện ở các mặt sau đây: - Học sinh phải nỗ lực ở mức độ nhất định mới thực hiện được. Điều đó có nghĩa là yêu cầu không quá cao để học sinh không thể thực hiện được mà cũng không quá dễ để học sinh không cần có sự cố gắng nào cũng làm được ngay. Yêu cầu đề ra ngày một cao hơn để học sinh luôn phải cố gắng tích cực hơn mới thực hiện được. - Yêu cầu phải có tính khả thi, đáp ứng được nguyện vọng muốn hoàn thành tốt các nhiệm vụ giáo dục của giáo viên giao cho. Những yêu cầu của nhà giáo dục phải rõ ràng, cụ thể, phù hợp với trình độ đã được giáo dục của học sinh và có tính chất dẫn dắt, khuyến khích các em vươn lên cao hơn nữa. Hai mặt tôn trọng nhân cách và yêu cầu cao trong giáo dục không mâu thuẫn mà thống nhất với nhau vì: - Tôn trọng nhân cách học sinh cần phải luôn đề ra các yêu cầu giúp cho các em vươn lên, phát triển nhân cách tốt hơn. - Đòi hỏi học sinh khi thực hiện các nhiệm vụ giáo dục cũng như trong quan hệ ứng xử sư phạm phải thể hiện sự tôn trọng, yêu thương, dìu dắt các em tiến bộ. Trong thực tiễn giáo dục cần tránh hiện tượng thiếu tôn trọng nhân cách học sinh (coi thường học sinh, đối xử thô bạo) hoặc ngược lại quá dễ dãi, nuông chiều, thoả mãn mọi yêu cầu của học sinh một cách vô điều kiện, không đòi hỏi học sinh thực hiện nghiêm túc những yêu cầu giáo dục đã nêu ra. Tất cả những hiện tượng đó đều làm giảm hoặc không đem lại hiệu quả giáo dục. ở một số trường hợp còn dẫn đến hậu quả là làm cho học sinh hư do có sự buông thả, nuông chiều, tự do quá mức, điều này hay xảy ra trong giáo dục gia đình. 7. Nguyên tắc thống nhất giữa sự tổ chức lãnh đạo sư phạm của giáo viên với việc phát huy tính tự giác tích cực độc lập tự giáo dục của học sinh Trong quá trình giáo dục, giáo viên - nhà giáo dục giữ vai trò chủ đạo, tổ chức lãnh đạo quá trình hình thành, phát triển những phẩm chất, hành vi thói quen ở học sinh, thể hiện: - Nâng cao ý thức trách nhiệm, vai trò lãnh đạo sư phạm của giáo viên trong việc theo dõi, kiểm tra, đánh giá quá trình và kết quả hoạt động của tập thể học sinh và của từng học sinh. - Thuyết phục học sinh biết định hướng và quyết tâm phấn đấu đạt những mục đích đã đề ra. - Lựa chọn các phương pháp, phương tiện để thực hiện các nhiệm vụ giáo dục cho phù hợp. Để phát huy vai trò tự giác tích cực, độc lập, tự rèn luyện, tự giáo dục của học sinh, đòi hỏi nhà giáo dục cần phải: - Tôn trọng sáng kiến và sự độc lập của học sinh. - Động viên kịp thời ý chí quyết tâm vươn lên của học sinh. - Biến yêu cầu giáo dục của nhà trường thành yêu cầu tự giáo dục của tập thể và trách nhiệm của từng cá nhân học sinh. - Lựa chọn các biện pháp và hình thức tổ chức giáo dục, giúp học sinh tự định hướng rèn luyện, hoạt động. Trong quá trình giáo dục, tính tự giác, tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh giữ vai trò quyết định trực tiếp đến việc hình thành và phát triển nhân cách. 8. Nguyên tắc bảo đảm tính hệ thống kế tiếp liên tục trong công tác giáo dục Nguyên tắc này yêu cầu phải tiến hành một cách lâu dài, có hệ thống các tác động giáo dục nhằm hình thành dần dần, từng bước các phẩm chất nhân cách. Quá trình giáo dục bao gồm hệ thống các nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục. Giáo viên phải xem xét các tác động và hiệu quả giáo dục trong toàn bộ hệ thống đó. Tính hệ thống và kế tiếp có liên quan tới nhau. Hệ thống kế tiếp từ thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp dần lên, từ dễ đến khó... trong việc hình thành các tri thức chuẩn mực, hành vi thói quen cho học sinh. Những phẩm chất mới phải được hình thành dựa trên cơ sở trình độ đã được giáo dục trước đó. Trong quá trình giáo dục phải chú ý củng cố tập luyện liên tục, kéo dài để nâng cao dần các kết quả giáo dục ở học sinh, làm cho nhận thức, thái độ, tình cảm, hành vi đã được hình thành trở nên ổn định vững chắc. Giáo dục bất kì một phẩm chất nào của nhân cách, đặc biệt là việc hình thành một thói quen, nếp sống, lối sống cần phải được tiến hành liên tục, thường xuyên. Các yêu cầu giáo dục phải được học sinh thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc. Thực tiễn giáo dục đã chứng tỏ là ở nơi nào (nhà trường, gia đình, tập thể...) công tác giáo dục được ý thức đầy đủ, được tiến hành có hệ thống, liên tục, thường xuyên thì sẽ đạt được hiệu quả cao. Trong quá trình giáo dục lại, cải tạo những thói quen xấu đã tiêm nhiễm lâu trong mỗi cá nhân thì càng đòi hỏi tính kiên trì, tác động giáo dục thường xuyên, liên tục và có hệ thống. 9. Nguyên tắc thống nhất giữa giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và giáo dục của cộng đồng xã hội Quá trình giáo dục con người diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc. Học sinh luôn sống, hoạt động trong các môi trường gia đình, trường học và cộng đồng xã hội (làng xóm, khu phố...) và luôn nhận được các tác động giáo dục từ nhiều phía, nhiều lực lượng. Để nâng cao hiệu quả giáo dục, hạn chế những mặt tiêu cực làm giảm kết quả giáo đục cần phải có sự thống nhất giữa giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội. Mỗi lực lượng giáo dục (gia đình, nhà trường, xã hội) có vị trí nhất định trong giáo dục học sinh. - Giáo dục gia đình: Đặt cơ sở nền móng đầu tiên cho sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Có thể nói "Người mẹ là người thầy giáo đầu tiên của đứa trẻ", gia đình là cái nôi nuôi dưỡng và làm nảy nở những tâm hồn tốt đẹp cho trẻ. Hoàn cảnh, điều kiện sống, bầu không khí văn hoá, tâm lí và các quan hệ trong gia đình thường xuyên tác động, ảnh hưởng đến nhân cách của trẻ trong gia đình. - Giáo dục xã hội có vai trò rất quan trọng. Các quan hệ xã hội (kinh tế, văn hoá, khoa học, kĩ thuật, tư tưởng, chính trị...) thường xuyên tác động trực tiếp hoặc gián tiếp qua nhiều kênh đến các cá nhân. Các ảnh hưởng, tác động của xã hội đến cá nhân theo cả hai hướng: tích cực, có mục đích tốt và tự phát tiêu cực. Những tác động tiêu cực của xã hội có khi làm giảm sút hoặc trái ngược với giáo dục của nhà trường. - Giáo dục nhà trường giữ vai trò chủ đạo: bao hàm những tác động, nội dung giáo dục có mục đích, có kế hoạch và tổ chức chặt chẽ. Giáo dục nhà trường khai thác có lựa chọn những tác động giáo dục tích cực của gia đình và của xã hội, góp phần điều chỉnh những tác động tiêu cực từ gia đình, xã hội. Giáo dục nhà trường được tiến hành một cách khoa học (có hệ thống, có phương pháp, kế hoạch, tổ chức chặt chẽ) do những nhà giáo dục có năng lực sư phạm thực hiện nên đã đạt được hiệu quả cao trong việc hình thành phát triển nhân cách học sinh. Trong thực tiễn giáo dục vẫn còn có sự thiếu thống nhất, còn khoảng cách giữa giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội. Ví dụ, nhà trường giáo dục những giá trị, tình cảm, thái độ tích cực theo các chuẩn mực xã hội, nhưng nếu ở gia đình lại có những tác động khác, có khi trái ngược với tác động giáo dục của nhà trường thì những tác động ngược chiều như vậy sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục. 10. Nguyên tắc chú ý đến đặc điểm của đối tượng giáo dục Nguyên tắc này yêu cầu những người làm công tác giáo dục phải nắm được các đặc điểm của đối tượng giáo dục. Căn cứ vào đặc điểm trình độ được giáo dục đã trưởng thành về mặt xã hội đến mức độ nào để làm căn cứ nhằm đề ra kế hoạch giáo dục cho sát hợp. Đối tượng giáo dục có nhiều đặc điểm khác nhau như: đặc điểm quá trình tâm lí cá nhân (nhận thức, xúc cảm, tình cảm, lí trí, xu hướng, tính cách, nhu cầu, động cơ...); những đặc điểm riêng của đời sống cá nhân (gia đình, bố mẹ, sự phát triển trí tuệ, đạo đức); đặc điểm tâm lí lứa tuổi; đặc điểm của các điều kiện môi trường, vùng, miền có những sự phát triển kinh tế văn hoá, phong tục tập quán khác nhau. Nhà giáo dục phải căn cứ vào các đặc điểm đó để lựa chọn nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức giáo dục phù hợp, có hiệu quả cao. Các nguyên tắc giáo dục là một hệ thống toàn diện, chúng không tồn tại tách biệt mà có quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Người giáo viên cần biết vận dụng và phối hợp các nguyên tắc giáo dục một cách linh hoạt, sáng tạo để có được những kết quả mong muốn. CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN 1. Trình bày khái niệm nguyên tắc giáo dục. Cơ sở lí luận và thực tiễn của các nguyên tắc giáo dục. 2. So sánh và đánh giá hệ thống các nguyên tắc giáo dục trong một số giáo trình giáo dục học hiện nay. 3. Phân tích nội dung, phương hướng thực hiện nguyên tắc bảo đảm tính mục đích trong giáo dục. 4. Phân tích nội dung, yêu cầu thực hiện nguyên tắc giáo dục gắn với đời sống xã hội. 5. Hiểu như thế nào là giáo dục trong lao động và bằng lao động trong quá trình giáo dục? 6. Phương hướng thực hiện nguyên tắc giáo dục trong lao động và bằng lao động. Nêu thực trạng thực hiện nguyên tắc này ở trường phổ thông mà anh chị biết. 7. Nội dung, phương hướng thực hiện nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng tập thể. 8. Nội dung của nguyên tắc giáo dục thống nhất tôn trọng nhân cách và yêu cầu hợp lí trong giáo dục là gì? Nêu các yêu cầu khi thực hiện nguyên tắc giáo dục này. 9. Tại sao trong giáo dục lại phải thực hiện nguyên tắc kết hợp thống nhất sự lãnh đạo của giáo viên và phát huy tính tự giác, tích cực chủ động của học sinh? 10. Bảo đảm tính hệ thống, kế tiếp liên tục có ý nghĩa như thế nào trong quá trình giáo dục? Lấy dẫn chứng thực tiễn để minh họa. BÀI TẬP Điều tra 20 học sinh của một lớp (ở trường Tiểu học, Trung học cơ sở hoặc Trung học phổ thông) để thấy được các đặc điểm về tinh thần, thái độ đối với tập thể lớp của các em. Nêu những mặt mạnh, mặt yếu và phân tích nguyên nhân. Chương 14: NỘI DUNG GIÁO DỤC Giáo dục là quá trình tổ chức các loại hình hoạt động phong phú, đa dạng nhằm hình thành và phát triển các phẩm chất và năng lực của con người, đáp ứng được các yêu cầu của xã hội, thời đại. Để thực hiện mục tiêu giáo dục - đào tạo, nhà trường phải chuyển tải các nội dung giáo dục tương ứng đến học sinh, giúp cho các em chiếm lĩnh được các nội dung giáo dục đó để hình thành nhân cách. I. NHỮNG NỘI DUNG GIÁO DỤC CƠ BẢN TRONG NHÀ TRƯỜNG 1. Giáo dục đạo đức và ý thức công dân a. Giáo dục đạo đức Ý nghĩa của giáo dục đạo đức Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống các quan niệm về cái thiện, cái ác trong các mối quan hệ của con người với con người. Đạo đức về bản chất là những quy tắc, những chuẩn mực trong quan hệ xã hội, được hình thành và phát triển trong cuộc sống, được cả xã hội thừa nhận. Đạo đức là quy tắc sống, nó có vị trí to lớn trong đời sống nhân loại, đạo đức định hướng giá trị cho cuộc sống của mỗi cá nhân, điều chỉnh hành vi cho phù hợp với chuẩn mực của xã hội. Những giá trị phổ biến của đạo đức thể hiện trong các khái niệm: thiện, ác, lẽ phải, công bằng, văn minh, lương tâm, trách nhiệm... thang giá trị của đạo đức diễn biến theo lịch sử và mang tính dân tộc Giáo dục đạo đức là hoạt động của nhà giáo dục dựa theo yêu cầu xã hội, tác động có hệ thống lên người được giáo dục một cách có mục đích và có kế hoạch để bồi dưỡng những phẩm chất tư tưởng mà nhà giáo dục kì vọng, chuyển hóa những quan điểm, yêu cầu và ý thức xã hội có liên quan thành phẩm chất đạo đức, tư tưởng của mỗi cá nhân. Trong công cuộc xây dựng đất nước, giáo dục đạo đức có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp giáo dục - đào tạo và đối với toàn xã hội. - Giáo dục đạo đức có vai trò thúc đẩy sự ổn định lâu dài của xã hội, xã hội ổn định là tiền đề, là cơ sở để phát triển, giáo dục đạo đức chính là bảo đảm cho sự ổn định lâu dài của xã hội. Lí tưởng, niềm tin, đạo đức được hình thành qua công tác giáo dục đạo đức ở trong và ngoài nhà trường. - Giáo dục đạo đức có vị trí hàng đầu và chủ đạo trong giáo dục nhà trường, giáo dục đạo đức với tư tưởng chính trị rõ ràng có vai trò định hướng cho các nội dung giáo dục khác. Nhà trường thông qua thực hiện công tác giáo dục có thể nâng cao hiệu quả giáo dục, thúc đẩy hoàn thành các nhiệm vụ giáo dục khác. - Đối với sự phát triển của thanh thiếu niên, giáo dục đạo đức hình thành cho họ hệ thống lập trường chính trị, quan điểm, thế giới quan mácxít và phẩm chất đạo đức phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội. Trước xu thế hội nhập của thế giới hiện đại, giáo dục đạo đức trong nhà trường giữ vai trò rất quan trọng trong định hướng cuộc sống và lựa chọn giá trị của thế hệ trẻ. Nhiệm vụ giáo dục đạo đức trong nhà trường có thể khái quát như sau: - Hình thành cho học sinh thế giới quan khoa học, nắm được những quy luật cơ bản của sự phát triển xã hội, có ý thức thực hiện nghĩa vụ của người công dân, từng bước trang bị cho học sinh định hướng chính trị kiên định, rõ ràng. - Giúp cho học sinh hiểu và nắm vững những vấn đề cơ bản trong đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có ý thức học tập, làm việc tuân thủ theo hiến pháp và pháp luật. - Bồi dưỡng cho học sinh năng lực phán đoán, đánh giá đạo đức, hình thành niềm tin đạo đức, yêu cầu học sinh phải thấm nhuần các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức do xã hội quy định, biết tiếp thu văn minh nhân loại kết hợp với đạo đức truyền thống của dân tộc. - Dẫn dắt học sinh biết rèn luyện để hình thành hành vi, thói quen đạo đức, có ý thức tích cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội, có ý thức đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, lạc hậu. Những nội dung chủ yếu để giáo dục đạo đức cho học sinh: - Giáo dục lí luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; - Giáo dục chủ nghĩa yêu nước; - Giáo dục lí tưởng của chủ nghĩa cộng sản; - Giáo dục chủ nghĩa tập thể; - Giáo dục lòng nhiệt tình, hăng say lao động, có ý thức bảo vệ tài sản XHCN; - Giáo dục dân chủ và pháp chế XHCN; - Giáo dục hành vi văn minh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, giáo dục ý thức công dân và các nội dung đạo đức mới XHCN. Nội dung chủ yếu của giáo dục đạo đức phải phù hợp với yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, thực hiện ý nguyện của Đảng: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Các bước của quá trình giáo dục đạo đức bao gồm: - Quá trình tác động nâng cao nhận thức về tư tưởng, chính trị, đạo đức làm cơ sở cho sự hình thành, phát triển và thể hiện các hành vi đạo đức. - Bồi dưỡng những tình cảm đúng đắn, trong sáng, phù hợp với các quan niệm, chuẩn mực đạo đức, quan hệ, ứng xử của xã hội. - Rèn luyện hành vi, thói quen đạo đức. Các con đường giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông là: Giảng dạy môn Giáo dục công dân và các môn học khác qua hoạt động ngoại khóa, lao động sản xuất, hoạt động của Đoàn thanh niên và Đội thiếu niên, công tác chủ nhiệm lớp. Hoạt động ngoại khóa và các hoạt động ngoài nhà trường là con đường quan trọng thực hiện giáo dục đạo đức cho học sinh một cách sinh động, hấp dẫn. b. Giáo dục ý thức công dân Toàn bộ các hoạt động giáo dục trong nhà trường đều hướng vào mục tiêu đào tạo một thế hệ công dân mới, có ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Học sinh hôm nay là công dân trong tương lai, họ sẽ là chủ nhân xây dựng và bảo vệ đất nước, họ cần được giáo dục ý thức công dân, để trở thành những công dân có ích nhất đối với Tổ quốc. Ý thức công dân là một phạm trù xã hội học, nó phản ánh trình độ nhận thức về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với Nhà nước với tư cách là những công dân chân chính của xã hội và của cộng đồng. Nhiệm vụ giáo dục ý thức công dân trong nhà trường như sau: Giáo dục chính trị - tư tưởng cho học sinh: giáo dục cho học sinh lòng yêu nước; giáo dục cho học sinh hiểu rõ chiến lược phát triển kinh tế, văn hoá xã hội, mục tiêu là tiến tới xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; làm cho học sinh quan tâm đến những vấn đề chính trị, xã hội đang diễn ra trong nước và trên thế giới; rèn luyện cho học sinh thói quen và kĩ năng tham gia các hoạt động xã hội, tham gia vào các phong trào chính trị, văn hoá được tổ chức ở địa phương và nhà trường. Giáo dục cho học sinh ý thức và hành vi pháp luật: giúp cho học sinh hiểu biết về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân để biết sống và hành động theo pháp luật, có ý thức đấu tranh với những biểu hiện vi phạm pháp luật, có ý thức tuyên truyền, giúp đỡ mọi người xung quanh thực hiện đúng pháp luật. Nội dung giáo dục pháp luật cho học sinh trong nhà trường bao gồm các quyền và nghĩa vụ của trẻ em trong quan hệ với gia đình, nhà trường và ngoài xã hội như: quyền được nuôi dưỡng, giáo dục; được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ và danh dự; quyền được học tập, vui chơi, lao động, được tham gia vào các hoạt động đoàn thể, xã hội; nghĩa vụ vâng lời dạy bảo của cha mẹ, thầy cô giáo và kính trọng người lớn; nghĩa vụ học tập và phấn đấu vươn lên để trở thành người công dân có ích cho Tổ quốc; nghĩa vụ tuân theo các quy định của pháp luật (Luật An toàn giao thông, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ di sản văn hoá...). 2. Giáo dục thẩm mĩ Ý nghĩa của giáo dục thẩm mĩ Thẩm mĩ là giá trị khách quan vốn có của các đối tượng có trong tự nhiên, xã hội và con người, được con người nhận thức, đánh giá, thưởng thức và sáng tạo. Giáo dục thẩm mĩ là vận dụng cái đẹp của nghệ thuật, của tự nhiên và nét đẹp của cuộc sống xã hội để bồi dưỡng quan điểm thẩm mĩ và năng lực cảm thụ, thưởng thức, sáng tạo cái đẹp đúng đắn cho học sinh. Giáo dục thẩm mĩ là bộ phận cấu thành cần thiết của mục tiêu giáo dục phát triển toàn diện. Con người là chủ thể của đời sống xã hội, vừa có nhu cầu về đời sống vật chất vừa có nhu cầu về đời sống tinh thần, trong đó có nhu cầu thẩm mĩ. Bồi dưỡng và hun đúc cái đẹp có hiệu quả nhất bắt đầu từ khi trẻ còn nhỏ. Làm tốt công tác giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường sẽ nâng cao tố chất văn minh tinh thần cho thế hệ trẻ và toàn dân tộc. Giáo dục thẩm mĩ có thể mở rộng tầm nhìn cho học sinh, phát triển trí lực và tinh thần sáng tạo của học sinh. Con người có thể nhận thức thế giới bằng nhiều con đường, trong đó có nghệ thuật. Nghệ thuật tái hiện đời sống hiện thực thông qua hình tượng nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật là một phương thức phản ánh thế giới một cách sinh động, mới mẻ. Giáo dục thẩm mĩ có thể thúc đẩy trí lực của học sinh phát triển. Khi học sinh cảm nhận và thể nghiệm tình cảm trước cái đẹp của tự nhiên, xã hội và nghệ thuật sẽ thúc đẩy năng lực tư duy và năng lực sáng tạo phát triển. - Giáo dục thẩm mĩ có vai trò làm cho tâm hồn của học sinh trở nên trong sáng hơn, rèn luyện cảm xúc, hoàn thiện phẩm chất đạo đức cho các em. Sự thống nhất giữa cái đẹp và cái thiện đã được đề cập đến từ lâu, ngày nay với mục tiêu giáo dục nhân cách toàn diện, vấn đề này lại càng được nhấn mạnh. Giáo dục thẩm mĩ có ảnh hưởng to lớn tới giáo dục đạo đức, thông qua hình tượng đẹp chúng ta có thể giáo dục, nâng cao năng lực, phân biệt xấu, đẹp, thiện, ác, đồng thời tạo ảnh hưởng sâu sắc tới tình cảm, tư tưởng của học sinh, gợi lên tiếng gọi từ nội tâm, hình thành phẩm chất đạo đức và tình cảm cao thượng của học sinh. - Giáo dục thẩm mĩ thúc đẩy học sinh vươn tới cái đẹp, biết thể hiện cái đẹp trong mọi lĩnh vực của đời sống, tức là biết xây dựng cuộc sống theo quy luật của cái đẹp. Giáo dục thẩm mĩ và các nội dung giáo dục khác là điều kiện cho nhau, tương hỗ lẫn nhau cùng thúc đẩy sự phát triển toàn diện của học sinh. Vì vậy, tăng cường giáo dục thẩm mĩ cho các cấp học, các ngành học là xu thế tất yếu hiện nay. Nhiệm vụ của giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường là: - Giúp học sinh hình thành quan điểm thẩm mĩ đúng đắn, nâng cao năng lực thẩm mĩ. Quan điểm thẩm mĩ là thái độ và cách nhìn của con người trong hoạt động thẩm mĩ. Mỗi thời đại có tiêu chuẩn thẩm mĩ riêng biệt. Trong xã hội có giai cấp giáo dục thẩm mĩ mang tính giai cấp. Vì thế, nhiệm vụ của giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường trước hết là giáo dục học sinh xây dựng quan điểm thẩm mĩ đúng đắn, nắm vững tiêu chuẩn, phân biệt và đánh giá cái đẹp, đồng thời phải bồi dưỡng cho học sinh tình cảm thẩm mĩ cao thượng. Muốn nâng cao năng lực cảm thụ, hiểu biết và thưởng thức cái đẹp của học sinh thì phải tăng cường bồi dưỡng, truyền thụ tri thức nghệ thuật cơ bản, cần thiết cho các em, bao gồm: tri thức mĩ học, văn học, âm nhạc, mĩ thuật... hiểu biết tri thức nghệ thuật, cảm thụ cái đẹp trong tự nhiên, phân tích nét đẹp đời sống xã hội, nâng cao năng lực thẩm mĩ. - Bồi dưỡng tình cảm thẩm mĩ lành mạnh, kích thích học sinh yêu thích và vươn tới cái đẹp chân chính. Con người thưởng thức cái đẹp theo sắc thái tình cảm. Hướng dẫn học sinh thưởng thức các hình thái của cái đẹp, kích thích các em có tình cảm vui thích, yêu mến cái đẹp, hình thành tình cảm thẩm mĩ lành mạnh, cao thượng và tinh thần sáng tạo phấn đấu vươn lên để thực hiện ý tưởng tốt đẹp. - Giúp cho học sinh phát triển năng lực biểu hiện và sáng tạo cái đẹp. Con người ai cũng yêu thích cái đẹp. Điều này không chỉ biểu hiện ở hứng thú, sở thích đối với sự vật đẹp, tác phẩm nghệ thuật mà còn mong muốn biểu hiện và sáng tạo cái đẹp trong thực tiễn xã hội, phát triển nét đẹp ở mọi nơi mọi lúc trong đời sống xã hội, trong cuộc sống hàng ngày (chú ý làm đẹp môi trường, có hành vi cử chỉ văn minh, phục trang hợp lí; đối nhân xử thế khiêm nhường, lịch sự...). Các nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ có mối liên hệ với nhau, trong đó bồi dưỡng quan điểm thẩm mĩ đúng đắn là nhiệm vụ hạt nhân. Có quan điểm đúng đắn mới có thể hình thành tình cảm thẩm mĩ lành mạnh và quan điểm thẩm mĩ được thể nghiệm trong hoạt động thẩm mĩ, sáng tạo thẩm mĩ. Giáo dục thẩm mĩ thông qua các con đường sau đây: - Giáo dục nghệ thuật: Giáo dục nghệ thuật chiếm vị trí chủ yếu trong nội dung giáo dục thẩm mĩ. Nghệ thuật bắt đầu từ cuộc sống và cao hơn cuộc sống. Nghệ thuật phản ánh vẻ đẹp của tự nhiên và xã hội một cách tập trung, điển hình và mang tính tiêu biểu nên nó có sức truyền cảm và có tác dụng giáo dục to lớn. Hình thức nghệ thuật có: văn học, mĩ thuật, âm nhạc, vũ đạo (múa), kịch, điện ảnh, truyền hình với nội dung phong phú, hình thức đa dạng. Tác phẩm nghệ thuật ở hình thức nào cũng có đặc điểm và vai trò riêng, độc đáo. Giáo viên cần dựa vào nội dung và đặc điểm cụ thể của chúng để giáo dục thẩm mĩ cho học sinh. Con đường giáo dục nghệ thuật trong nhà trường bao gồm: 1. Giáo dục nghệ thuật trên lớp, bao gồm việc dạy các môn học trong đó văn học, mĩ thuật, âm nhạc chiếm vị trí và vai trò quan trọng. 2. Hoạt động văn học nghệ thuật ngoại khóa. - Giáo dục thẩm mĩ thông qua dạy và học các bộ môn khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội và nhân văn. Mỗi môn học đều chứa đựng những tiềm năng trong việc giáo dục cái đẹp, những tiềm năng này không giống nhau, giáo viên cần căn cứ vào tiềm năng của từng môn học để khai thác chúng, biết tìm ra cái đẹp ngay trong hệ thống kiến thức mà học sinh lĩnh hội. Ngày nay, quá trình dạy học có sự hỗ trợ của phương tiện kĩ thuật hiện đại nên giáo viên có điều kiện để làm sáng tỏ các góc độ của đối tượng thẩm mĩ. - Thông qua xây dưng môi trường văn hoá lành mạnh trong gia đình, nhà trường và xã hội. Nét đẹp trong cuộc sống gia đình được biểu hiện thông qua quan hệ trực tiếp thường xuyên của ông bà, cha mẹ, anh chị em, những người thân yêu ruột thịt. Sự thương yêu đùm bọc, chăm sóc của gia đình là cơ sở để học sinh thể hiện những nét đẹp đó trong các mối quan hệ. Do đó nhà trường cần phối hợp với gia đình, cung cấp cho họ những kiến thức, phương pháp, hình thức giáo dục thẩm mĩ, giúp cho họ thấy được lợi ích của những giá trị thẩm mĩ trong quan hệ gia đình. Xã hội đẹp là cội nguồn quan trọng của giáo dục thẩm mĩ, nhà trường cần phối hợp với chính quyền, với các cơ quan văn hoá - nghệ thuật ở địa phương xây dựng nên môi trường văn hoá trong sạch. ở nhà trường, cảnh quan môi trường sư phạm, các mối quan hệ giao lưu trong trường, phong cách, cử chỉ, trang phục, ngôn ngữ, nét mặt... được coi là phương tiện quan trọng để giáo dục thẩm mĩ cho học sinh. Giáo viên cần vận dụng thực tiễn sinh động để giáo dục thẩm mĩ cho học sinh, đồng thời tích cực gợi mở, hướng dẫn học sinh thể nghiệm, cảm thụ để phát huy tác dụng thẩm mĩ của chúng. – Giáo dục cái đẹp trong tự nhiên: Cái đẹp tồn tại trong tự nhiên như phong cảnh đất nước, quê hương, danh lam thắng cảnh... chính là nguồn tư liệu sống không bao giờ cạn kiệt của giáo dục thẩm mĩ, cần tạo điều kiện để học sinh tiếp xúc với cảnh quan thiên nhiên. 3. Giáo dục lao động và hướng nghiệp a. Giáo dục lao động Lao động là phạm trù xã hội, nó vừa là điều kiện vừa là kết quả cho sự tồn tại của xã hội loài người cũng như sự phát triển của mỗi cá nhân. Nhờ có lao động mà con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần. Lao động trở thành thuộc tính bản chất của con người, thể hiện sự khác biệt giữa con người và loài vật. Trong quá trình lao động, các mối quan hệ xã hội giữa con người với con người được hình thành, qua đó thiết lập bộ mặt nhân cách riêng cho mỗi con người. Lao động không chỉ với mục đích chuẩn bị cho học sinh tham gia hoạt động thực tiễn mà còn là phương tiện hình thành nhân cách, phát triển về mặt thể lực, tác động đến sự phát triển trí tuệ của học sinh. Mục đích của giáo dục lao động trong nhà trường phổ thông là hình thành cho học sinh quan điểm đúng đắn về lao động, hình thành thái độ tích cực đối với lao động, nhu cầu và thói quen đối với lao động. Nhiệm vụ của giáo dục lao động - Giáo dục cho học sinh thái độ đúng đắn đối với lao động: Có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, nghề nghiệp, có thói quen lao động cần cù, bền bỉ, có ý thức tổ chức, kỉ luật, lao động sáng tạo, có năng suất cao, lao động với lương tâm nghề nghiệp, có bổn phận và nghĩa vụ vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. Giáo dục ý thức đúng đắn đối với lao động, lao động trung thực có năng suất cao vì phúc lợi xã hội và cá nhân. - Cung cấp cho học sinh học vấn kĩ thuật tổng hợp, phát triển tư duy kĩ thuật hiện đại. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của công nghệ thông tin đòi hỏi học sinh phải có học vấn cần thiết để đáp ứng với sự phát triển kinh tế xã hội hiện đại. - Chuẩn bị cho học sinh có những kĩ năng lao động kĩ thuật nghề nghiệp ở một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định trong các khu vực kinh tế của đất nước, của địa phương. - Hình thành cho học sinh thói quen lao động có văn hóa: làm việc có kế hoạch, khoa học, biết tiết kiệm, quý trọng của cải và sức lao động, thực hiện công việc được giao chuẩn xác, đúng thời hạn, biết lao động, nghỉ ngơi hợp lí, khoa học v.v.... - Tổ chức các hoạt động để làm cho học sinh có những hiểu biết cơ bản về các ngành, nghề và thị trường lao động trước mắt và sự phát triển lâu dài của kinh tế, sản xuất để có khả năng lựa chọn ngành nghề phù hợp với năng lực, nguyện vọng của bản thân và yêu cầu của xã hội. Tổ chức cho học sinh trực tiếp tham gia lao động sản xuất và các loại hình lao động khác để góp phần sáng tạo những giá trị vật chất và tinh thần cho bản thân và xã hội. Một số loại hình lao động Lao động học tập: Là dạng lao động cơ bản, chiếm thời gian nhiều nhất trong các hoạt động của học sinh trong nhà trường, mục đích chủ yếu là cung cấp cho học sinh hệ thống kiến thức khoa học. Hoạt động học tập chỉ thực sự là một dạng lao động mang tính giáo dục đối với học sinh khi có sự tham gia gia tích cực của trí tuệ và được tổ chức một cách khoa học, hợp lí. - Lao động sản xuất của học sinh trong nhà trường: Là dạng lao động có ý nghĩa to lớn, đó là sự tham gia trực tiếp của học sinh vào một lĩnh vực nghề nghiệp nào đó, đem lại những sản phẩm cụ thể, thông qua đó hình thành những phẩm chất quý báu của người lao động và có điều kiện để thử sức mình ở những nghề nghiệp nhất định. Lao động sản xuất của học sinh thường được tiến hành ở cơ sở sản xuất ngoài xã hội hay trong vườn trường, xưởng trường. - Lao động công ích xã hội: Lao động công ích của học sinh rất phong phú như tu sửa trường lớp, sân chơi, thư viện, vệ sinh đường phố, đường làng, trồng cây gây rừng, bảo vệ môi trường sinh thái... Lao động công ích thường là lao động không có thù lao, nó rất có ưu thế trong việc giáo dục ý thức trách nhiệm, hình thành tình cảm, tinh thần đoàn kết trong tập thể - Lao động tự phục vụ: Được học sinh tiến hành ở gia đình (vệ sinh nhà cửa, sửa chữa đồ dùng sinh hoạt, chăm sóc cây, vật nuôi trong gia đình...) tiến hành ở nhà trường (vệ sinh trường lớp, sửa chữa đồ dùng học tập, chăm sóc vườn trường....). Nội dung, chương trình giáo dục lao động cho học sinh trong nhà trường phổ thông thể hiện trong chương trình môn Kĩ thuật được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành và áp dụng trong tất cả các trường phổ thông. Trong đó có những phần bắt buộc (phần chung) nhằm trang bị cho học sinh tri thức, kĩ năng cần thiết đối với hoạt động kĩ thuật. Học phần riêng (do nhà trường tự chọn) sẽ giúp học sinh hiểu được kĩ thuật công, nông nghiệp, nghề địa phương đang phát triển. Nhờ đó học sinh được định hướng cụ thể trước hệ thống nghề của địa phương và các vùng lân cận, giúp cho việc sử dụng học sinh ra trường được hợp lí. Một số yêu cầu để tổ chức lao động cho học sinh có hiệu quả: - Tổ chức cho học sinh tham quan các cơ sở sản xuất theo kế hoạch, phân bố nội dung của giáo dục lao động theo trình tự giáo dục. - Lựa chọn các dạng lao động để học sinh có thể làm quen với một phạm vi rộng các dạng lao động xã hội. - Lựa chọn các hình thức lao động theo hướng phức tạp dần và đảm bảo phù hợp với trình độ, lứa tuổi, giới tính của học sinh. - Cần tổ chức lao động phù hợp với đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội của địa phương để khai thác kinh nghiệm của học sinh và thu hút các em đi vào lĩnh vực nghề nghiệp mà địa phương đang yêu cầu. - Những người hướng dẫn lao động cần phải có kiến thức có kĩ năng về lĩnh vực lao động để đảm bảo lao động mang lại hiệu quả. b. Giáo dục hướng nghiệp Hướng nghiệp là một hoạt động của tập thể sư phạm nhằm giúp học sinh chọn nghề một cách hợp lí, phù hợp với hứng thú, nguyện vọng, năng lực của cá nhân và yêu cầu của xã hội. Hướng nghiệp được coi là một bộ phận cấu thành trong toàn bộ công tác giáo dục. Việc chọn nghề của học sinh không thể để diễn ra một cách ngẫu nhiên, tự phát mà phải là một quá trình giáo dục. Dưới sự hướng dẫn, ảnh hưởng của thầy giáo, cha mẹ, bạn bè, thông tin dư luận xã hội v.v... làm cho quá trình chọn nghề của học sinh từ chỗ "định hướng ban đầu" đến chỗ "tự quyết định con đường đi vào nghề nghiệp tương lai" được đúng đắn. Nhiệm vụ của giáo dục hướng nghiệp Thứ nhất, định hướng nghề nghiệp: Công việc chủ yếu của định hướng nghề nghiệp là thông tin về sự phát triển của các nghề trong xã hội, nhất là những nghề đang cần nhiều nhân lực kể cả những nghề trong khu vực kinh tế Nhà nước và các thành phần kinh tế khác trong cả nước nói chung và ở địa phương nói riêng. Những thông tin này bao gồm: - Yêu cầu tâm - sinh lí của nghề - Tình hình phân công lao động, yêu cầu tuyển chọn; - Điều kiện lao động và triển vọng của nghề; - Những quan niệm (thường biểu hiện dưới dạng dư luận xã hội) đúng hoặc sai lệch về một số nghề trong xã hội hiện tại. - Yêu cầu phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ trong những giai đoạn trước mắt và lâu dài của đất nước và địa phương liên quan đến sự phát triển của các ngành nghề. - Hệ thống các trường dạy nghề. - Các tổng công ti, công ti, nhà máy, xí nghiệp, công - nông trường, hầm mỏ, hợp tác xã v.v... Các cơ sở sản xuất (địa điểm, cơ cấu hoạt động, sản phẩm...) để có hướng chọn cho mình một chỗ đứng sau này. Đối tượng tác động để định hướng nghề nghiệp là học sinh, đặc biệt là những học sinh lớp cuối cấp (lớp 9 trường PTCS và lớp 12 trường PTTH). Biện pháp và phương tiện thông tin nghề nghiệp cho học sinh là: - Giới thiệu, tuyên truyền về nghề qua buổi sinh hoạt hướng nghiệp. Công việc này có thể do giáo viên làm, có thể mời người sử dụng lao động, người đã từng lao động ở các cơ sở đến báo cáo, nói chuyện, trao đổi với học sinh về nghề. - Tạo điều kiện cho học sinh được làm quen với một số nghề hiện có trong xã hội. Ví dụ như: Tổ chức cho các em tham quan sản xuất, tham gia lao động ở một số cơ sở sản xuất nếu có điều kiện (nhận gia công một số chi tiết hoặc một số mặt hàng theo hợp đồng cho nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã); tổ chức lao động sản xuất ở trường. - Tăng cường và mở rộng các phương tiện thông tin đại chúng (phát thanh tuyên truyền, báo chí, phim ảnh, quảng cáo...) để giới thiệu về nghề. Quá trình thông tin nghề nghiệp trong xã hội cho học sinh cần bảo đảm một số yêu cầu như: giúp học sinh định hướng vào những nghề đang có nhu cầu nhân lực lớn, cần thiết cho nền kinh tế quốc dân, những nghề đòi hỏi năng khiếu đặc biệt để gây hứng thú nghề nghiệp cho học sinh. Thứ hai, tư vấn nghề nghiệp: Tư vấn nghề nghiệp là hoạt động giúp các cá nhân, đặc biệt là thanh thiếu niên trong quá trình định hướng, tìm chọn cũng như thay đổi nghề. Để tư vấn nghề nghiệp các nước thường thành lập những ban tư vấn nghề nghiệp trong trường học. ở Việt Nam, trong các trường phổ thông hiện nay, công tác hướng nghiệp được coi là một nội dung giáo dục của nhà trường, giáo viên chủ nhiệm lớp thường là người tư vấn nghề nghiệp cho học sinh. Cũng có thể thành lập những trung tâm tư vấn nghề nghiệp ở ngoài nhà trường. Người làm công tác tư vấn qua quá trình tiếp xúc với học sinh, với cha mẹ học sinh, với các giáo viên bộ môn... nắm được đặc điểm nhân cách của học sinh, hoặc dựa vào sự khảo sát, điều tra, đánh giá các môn văn hóa, môn kĩ thuật và lao động sản xuất, nghiên cứu các sản phẩm hoặc kết quả hoạt động... người làm công tác tư vấn lập sổ hướng nghiệp cho từng học sinh, ghi lại những gì cần thiết; cuối cùng trên cơ sở đó cho học sinh những lời khuyên trong việc chọn nghề. Thứ ba là tuyển chọn nghề (Thích hợp nghề) Ngoài ra, người làm công tác tư vấn nghề nghiệp phải xây dựng một phác đồ nghề nghiệp để giới thiệu cho học sinh, chỉ ra cho học sinh thấy được mức độ phù hợp hay không phù hợp giữa nhận thức, khả năng của cá nhân với yêu cầu thực tế khách quan của nghề, tức là mối quan hệ giữa nghề với cá nhân. Từ đó học sinh sẽ quyết định chọn nghề gì. Trường phổ thông căn cứ vào nhu cầu nhân lực của mỗi nghề cụ thể trong kế hoạch phát triển kinh tế để định hướng, tư vấn nghề nghiệp cho học sinh. Nghiên cứu, tham khảo sổ hướng nghiệp của học sinh, các trường dạy nghề, trường trung học chuyên nghiệp, đại học, cao đẳng, nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã sẽ có những cứ liệu quan trọng để tuyển chọn người phù hợp, làm rõ được mối quan hệ nghề - cá nhân trong việc sắp xếp, bố trí nghề. Ba nhiệm vụ của công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, có thể biểu diễn mối quan hệ đó bằng sơ đồ tam giác hướng nghiệp. Trong trường phổ thông, hướng nghiệp được thực hiện bằng các con đường sau: - Hướng nghiệp qua dạy học các môn khoa học cơ bản, trước hết nó cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản và có hệ thống về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và tư duy. Đó là những khái niệm, quy luật, lí thuyết cơ bản có liên quan đến kĩ thuật và sản xuất. Những môn học này cung cấp những cơ sở khoa học cho việc thực hiện giáo dục kĩ thuật tổng hợp, giúp cho việc xây dựng và phát triển những năng lực phong phú, đa dạng của học sinh; chuẩn bị cho các em đi vào lao động nghề nghiệp. - Hướng nghiệp qua hoạt động dạy học môn Kĩ thuật và lao động sản xuất trong trường học. - Tổ chức cho học sinh tham gia sản xuất ở các nhà máy, xí nghiệp, công nông trường, hợp tác xã, cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp... nhằm giúp học sinh có biểu tượng rõ hơn về những nghề đang cần tìm hiểu. - Hướng nghiệp qua sinh hoạt hướng nghiệp: Thông tư số 31/TT của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu: "Để giúp học sinh hiểu rõ các ngành nghề, các trường tạm thời sử dụng mỗi tháng một buổi lao động để giới thiệu, tuyên truyền, giải thích về ngành nghề". Sinh hoạt hướng nghiệp nhằm giúp học sinh có được bước chuẩn bị, sẵn sàng về tâm lí để đi vào lao động sản xuất xã hội. Các hình thức và nội dung sinh hoạt hướng nghiệp bao gồm: - Giới thiệu những nghề đang cần nhiều nhân lực, nghề địa phương, những yêu cầu về sự phù hợp giữa người và nghề. - Giới thiệu hệ thống các trường đào tạo nghề (Trung ương và địa phương). Thông tư số 31 - TT của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu lên những hình thức ngoại khóa chính như sau: - Xây dựng các tổ ngoại khóa; - Xây dựng phòng hướng nghiệp; - Tổ chức cho học sinh tham quan, nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm và yêu cầu của các ngành nghề đang phát triển; - Giới thiệu, tuyên truyền nghề nghiệp với cha mẹ học sinh; - Phát huy vai trò của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Đội Thiếu niên Tiền phong trong công tác hướng nghiệp; - Tổ chức hội thi khéo tay kĩ thuật trong học sinh. Mỗi hình thức hướng nghiệp có vai trò, vị trí nhất định của nó. Khi áp dụng, tùy theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi trường cần kết hợp chúng một cách linh hoạt nhằm nâng cao hiệu quả công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông hiện nay. 4. Giáo dục thể chất Ý nghĩa của giáo dục thể chất Giáo dục thể chất (thể dục) là bộ phận cấu thành quan trọng của nền giáo dục phát triển toàn diện; thể dục là biện pháp quan trọng nâng cao sức khoẻ người dân, tăng cường thể chất, làm phong phú đời sống văn hoá xã hội, nâng cao sức sản xuất xã hội. Giáo dục thể chất theo nghĩa rộng bao gồm giáo dục rèn luyện thân thể và giáo dục vệ sinh giữ gìn sức khỏe; rèn luyện thân thể nghiêng về bồi dưỡng cơ thể, còn giáo dục vệ sinh giữ gìn sức khỏe lại nghiêng về bảo vệ sức khỏe. Giáo dục thể chất theo nghĩa hẹp, chủ yếu chỉ rèn luyện thân thể hoặc giáo dục vận động thể dục thể thao. Hiện nay giáo dục thể chất trong nhà trường phải chú ý làm tốt hai việc: thể dục và vệ sinh sức khỏe. Giáo dục thể chất trong nhà trường có ý nghĩa quan trọng, được biểu hiện như sau: - Giáo dục thể chất có thể thúc đẩy học sinh phát triển thân thể khỏe mạnh, tăng cường thể chất cho học sinh. - Giáo dục thể chất là bộ phận không thể thiếu để thúc đẩy sự phát triển toàn diện của học sinh, là bộ phận hợp thành quan trọng của nền giáo dục phát triển toàn diện. Thân thể khoẻ mạnh là cơ sở vật chất để thực hiện các nhiệm vụ giáo dục khác. Giáo dục thể chất liên hệ mật thiết với giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mĩ và lao động. - Giáo dục thể chất không những có thể bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho học sinh mà còn làm cho tinh thần con người mạnh khỏe, cuộc sống văn minh vui vẻ, có ý nghĩa, tạo nên hành vi và thói quen văn minh như tôn trọng kỉ luật, trách nhiệm với tập thể, tôn trọng, tuân theo trật tự công cộng, giữ gìn môi trường sạch đẹp, giữ gìn vệ sinh. Nhiệm vụ và nội dung của giáo dục thể chất trong nhà trường - Tăng cường thể chất, sức khỏe cho học sinh. Tổ chức cho học sinh rèn luyện thân thể, thúc đẩy cơ thể học sinh phát triển bình thường, tăng cường thể chất và sức khỏe cho học sinh, phát triển toàn diện năng lực hoạt động cơ bản của cơ thể cũng như tố chất của cơ thể như: tốc độ, độ nhạy cảm, sức mạnh, độ dẻo dai, nhanh nhạy... hay các vận động cơ bản như chạy, nhảy, nâng, trèo... nâng cao vận động thích ứng với môi trường tự nhiên cho học sinh. Giúp học sinh dần dần nắm vững tri thức cơ bản và kĩ năng kĩ xảo của vận động thể dục thể thao, tạo nên thói quen tự giác rèn luyện thân thể một cách khoa học. - Truyền thụ tri thức vệ sinh cần thiết cho học sinh, bồi dưỡng thói quen vệ sinh tốt, hướng dẫn học sinh phòng ngừa bệnh tật, bảo vệ và tăng cường sức khỏe tâm sinh lí. - Thông qua thể dục, tiến hành giáo dục phẩm chất đạo đức cho học sinh, tạo nên phong cách đạo đức tốt đẹp, cao thượng. Nội dung giáo dục thể chất trong nhà trường: - Vận động thể dục thể thao: Đây là nội dung chủ yếu của thể dục nhà trường, là phương pháp chủ yếu bảo đảm sự phát triển khỏe mạnh của tâm lí học sinh, bao gồm vận động điền kinh, thể thao, các loại bóng, bơi lội, trò chơi, võ thuật... và hoạt động thể dục trong giáo dục quốc phòng, tận dụng điều kiện tự nhiên rèn luyện thân thể. Vệ sinh nhà trường, yêu cầu nhà trường cần xây dựng chế độ học tập, sinh hoạt hợp lí, kiểm soát, khống chế chặt chẽ hoạt động của học sinh trong nhà trường, bảo đảm thời gian nghỉ ngơi hợp lí, tạo nên thói quen sinh hoạt tốt, có kỉ luật. Thiết bị sinh hoạt trong nhà trường như bàn ghế, cửa sổ, cửa ra vào to nhỏ, thấp cao; hướng ánh sáng, độ phản quang của bảng, đèn chiếu sáng.... đều đòi hỏi phải phù hợp với mức độ học tập và tình trạng phát triển cơ thể của học sinh. Cần làm cho học sinh hiểu rõ tri thức vệ sinh học tập, tạo nên thói quen học tập tốt, tạo tư thế ngồi, đi đứng, viết... đúng tư thế, đảm bảo cho học sinh phát triển bình thường. Bảo vệ thị lực cho học sinh đang là vấn đề nổi cộm hiện nay, phải kiên trì bảo vệ sức khỏe đôi mắt, giúp học sinh hiểu về vệ sinh mắt. Khi sắp xếp chỗ ngồi phải chú ý điều tiết thị lực học sinh. Cũng cần làm cho học sinh hiểu về vệ sinh vận động, luyện tập theo khoa học. Thiết bị thể dục và sân bãi cần phù hợp với yêu cầu về sự an toàn, phòng tránh xảy ra sự cố. Cần tiến hành kiểm tra sức khỏe định kì cho học sinh, làm tốt công tác phòng và trị bệnh để đảm bảo cho học sinh phát triển tốt II. NHỮNG NỘI DUNG GIÁO DỤC MỚI Xã hội loài người đang bước vào thời kì khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão. Với xu thế mở cửa, hội nhập của thế giới, đời sống xã hội, giáo dục đang phải giải quyết những vấn đề có tính bức thiết và đầy thách thức. Để giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ thành những con người mới có khả năng và bản lĩnh thích ứng cao với những biến động của xã hội hiện đại, giáo dục trong nhà trường hiện nay đã được bổ sung những nội dung giáo dục cho phù hợp 1. Giáo dục môi trường a. Khái niệm Môi trường là vùng vật lí và sinh học xung quanh con người, môi trường là sinh quyển bao gồm không khí, đất đai và hệ sinh thái có ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Hệ sinh thái là khái niệm chỉ mối quan hệ tương hỗ với nhau giữa quần xã sinh vật và môi trường. Hệ sinh thái là đơn vị tự nhiên của các vật hữu sinh và vô sinh ở trong thế cân bằng. Mô hình hệ sinh thái: Quần xã sinh vật - Môi trường xung quanh - Năng lượng mặt trời - Hệ sinh thái Tóm lại môi trường là tất cả các nhân tố vô sinh và hữu sinh bao quanh Trái Đất, có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống và sự phát triển của mọi lĩnh vực sống. Ô nhiễm môi trường: Là môi trường bị nhiễm các chất độc hại, nhiễm bẩn hoặc tiếng ồn quá giới hạn cho phép, hoặc do sự khai thác của con người làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, phá vỡ sự cân bằng sinh thái Ô nhiễm môi trường là kết quả của ba yếu tố. quy mô dân số, mức tiêu thụ tính theo đầu người, tác động của môi trường. Quy mô dân số x Mức tiêu thụ/người x Tác động của môi trường (đơn vị sx) = Độ ô nhiễm Các loại môi trường bị ô nhiễm: môi trường đất, môi trường nước, không khí, môi trường bị ô nhiễm bởi tiếng ồn. b. Nội dung giáo dục môi trường * Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường Bảo vệ nơi sinh sống và phát triển của quần xã sinh vật và tôn trọng sự cân bằng của hệ sinh thái. - Có ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, đấu tranh chống lại những hành vi ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí, không khai thác bừa bãi tài nguyên, tàn phá thiên nhiên. - Có ý thức giữ gìn sự trong lành của môi trường sống hàng ngày của con người ở mọi nơi, mọi chỗ. * Bồi dưỡng kiên thức về môi trường, bảo vệ và chống ô nhiễm môi trường - Tìm hiểu về môi trường, hệ sinh thái; - Các tác nhân gây ô nhiễm môi trường và tác hại của nó (ô nhiễm đất, bầu khí quyển, "hiệu ứng nhà kính", ô nhiễm nguồn nước, hoá chất, thuốc trừ sâu...); - Rèn luyện và hình thành thói quen giữ gìn vệ sinh, bảo đảm sự trong lành của môi trường sống xung quanh con người, tham gia tích cực vào các hoạt động giữ gìn và làm sạch môi trường. c. Các con đường giáo dục môi trường cho học sinh - Thông qua giảng dạy các bộ môn khoa học tự nhiên và xã hội, đặc biệt là các môn học có nội dung tri thức có thể khai thác bằng cách lồng ghép, tích hợp hoặc theo môđun để giáo dục môi trường có hiệu quả như môn Sinh học, Địa lí, Đạo đức, Giáo dục công dân... - Tổ chức trao đổi, tọa đàm, tranh luận qua các buổi sinh hoạt về môi trường và bảo vệ môi trường cũng như các hoạt động cụ thể. Tổ chức cho học sinh tham gia vào việc bảo vệ môi trường: tuyên truyền, cổ động, trồng cây, chăm sóc hoa, chim, cây cảnh, dọn vệ sinh, diệt ruồi, muỗi, bọ gậy... - Tham quan, du lịch môi trường sinh thái, danh lam thắng cảnh, rừng nguyên sinh, các môi trường tự nhiên và thiên nhiên nhân tạo. 2. Giáo dục dân số a. Khái niệm Giáo dục dân số (population education) là thuật ngữ UNESCO dùng để chỉ một chương trình giáo dục nhằm giúp người học hiểu được mối quan hệ qua lại giữa động lực dân số và các nhân tố khác của chất lượng cuộc sống, từ đó hình thành ý thức trách nhiệm của từng cá nhân trước những quyết định về lĩnh vực dân số nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho bản thân, gia đình và xã hội. Giáo dục dân số có ý nghĩa rất quan trọng, nó là một quá trình giúp cho người học có những hiểu biết về các vấn đề dân số, trên cơ sở đó có nhãn quan đúng đắn về phát triển dân số, quy mô gia đình, kế hoạch hóa gia đình, phát triển và cải thiện chất lượng cuộc sống. Giáo dục dân số (GDDS) trở thành một nội dung giáo dục không thể thiếu được cho học sinh trong nhà trường hiện nay để thế hệ trẻ nâng cao hiểu biết, có ý thức trách nhiệm để chuẩn bị làm cha mẹ sau này. Chính sách dân số như hình thức điều khiển sự phát triển dân số, nó tác động đến tái sản xuất dân cư, đến các điều kiện sống của mọi tầng lớp nhân dân và nó hoàn thiện các điều kiện lao động, hệ thống tiền lương và các nguồn gốc thu nhập khác, điều chỉnh việc chuyển cư và cơ cấu lãnh thổ dân cư. Tuổi kết hôn: Là độ tuổi được phép xây dựng gia đình theo pháp luật (tuổi tối thiểu của nữ đủ 18, nam đủ 20). - Quy mô gia đình - Kế hoạch hoá gia đình (KHHGĐ): Điều chỉnh số con sinh ra một cách có ý thức, chủ động trong nội bộ một gia đình, thông qua sự tự nguyện của hai vợ chồng. KHHGĐ là tổng hợp các biện pháp nhằm chủ động và hạn chế việc sinh đẻ và sinh đẻ có kế hoạch. b. Mục tiêu của giáo dục dân số - Cung cấp những tri thức cơ bản về Dân số học, tình hình dân số trên thế giới, trong nước và địa phương; các chính sách về dân số và KHHGĐ. - Nâng cao nhận thức về khả năng điều chỉnh hoạt động sinh đẻ của con người để tạo ra sự cân đối giữa dân số và sản xuất, chất lượng cuộc sống. - Định hướng những giá trị đạo đức mới, khắc phục những quan niệm cũ không còn phù hợp về hôn nhân, gia đình và hạnh phúc gia đình. - Giáo dục thái độ, hành vi đúng đắn trước những vấn đề dân số đất nước, phát triển dân số hợp lí, phân bố dân cư và lao động. - Bồi dưỡng tri thức và kĩ năng thực hiện KHHGĐ, nâng cao chất lượng cuộc sống. - Biết làm công tác, tuyên truyền về GDDS và KHHGĐ. c. Nội dung và con đường giáo dục dân số * Nội dung giáo dục dân số Về mặt lí thuyết và làm cho học sinh hiểu rõ mối quan hệ giữa dân số, môi trường và chất lượng cuộc sống. Dân số <-> Môi trường <-> Chất lượng cuộc sống <-> Dân số Chất lượng cuộc sống Mục tiêu GDDS: - Bồi dưỡng nhận thức - Thái độ đúng - Có hành vi thích hợp => Quy mô gia đình hợp lí; Phát triển dân số hợp lí; Phân bố dân cư hợp lí - Nắm vững ba khái niệm cơ bản: Dân số, chất lượng cuộc sống và môi trường. - Nắm vững hai mối quan hệ cơ bản: Quan hệ dân số và chất lượng cuộc sống, quan hệ dân số - môi trường và chất lượng cuộc sống. Về mặt thực tiễn, vận dụng năm chủ điểm GDDS trong khu vực vào thực tiễn nước ta. - Quy mô gia đình và chất lượng cuộc sống: Chấp nhận gia đình quy mô nhỏ, mỗi cặp vợ chồng chỉ có 1 hoặc 2 con, sinh cách nhau 5 năm (QĐ 162 HĐBT). - Tuổi kết hôn hợp lí: Nữ đủ 18 tuổi, nam đủ 20 tuổi, vận động kết hôn muộn khi nữ đủ 22 tuổi, nam đủ 24 - 25. - Tư cách và trách nhiệm làm cha mẹ: Được trang bị những kiến thức tối thiểu về sinh đẻ có kế hoạch, chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ thai nghén và sinh sản, nuôi con, thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm làm cha mẹ. - Nắm được mối quan hệ dân số - môi trường và chất lượng cuộc sống, từ đó làm nổi bật tính cấp bách của kế hoạch hoá dân số và sinh đẻ - KHHGĐ trong hiện tại và tương lai. Xác định và lựa chọn những giá trị xã hội có liên quan đến dân số (như số con, con trai, con gái, hạnh phúc gia đình...) * Các con đường giáo dục dân số - Thông qua phương pháp lồng ghép - tích hợp nội dung GDDS vào các môn học tự nhiên, xã hội. - Thông qua các hoạt động ngoại khoá: nói chuyện về dân số, sinh hoạt câu lạc bộ tìm hiểu về dân số, KHHGĐ, hoạt động nghệ thuật, tuyên truyền về dân số. - Tổ chức cho học sinh tham gia cuộc tuyên truyền về GDDS, tư vấn về GDDS. - Phổ biến, giới thiệu cho học sinh nắm được các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về dân số (chính sách dân sô), các chiến lược phát triển dân số và xây dựng, nâng cao chất lượng cuộc sống. 3. Giáo dục giới tính a. Khái niệm và ý nghĩa Giới tính là những đặc điểm riêng biệt về giải phẫu sinh lí cơ thể và những đặc trưng về tâm lí (hứng thú, tình cảm, xúc cảm, tính cách, năng lực, nhận thức...) tạo nên sự khác biệt giữa giới nam và nữ. Giáo dục giới tính (GDGT) là "giáo dục về chức năng làm một con người có giới tính, điều quan trọng là đề cập vấn đề giới tính một cách công khai và đầy đủ ở lớp từ nhà trẻ đến đại học, giúp cho học sinh cảm thấy an toàn và tự do trong việc biểu lộ cảm xúc liên quan tới đời sống giới tính" (theo Từ điển bách khoa về giáo dục). Ta có thể hiểu GDGT là một quá trình tác động sư phạm hướng vào việc vạch ra những nét, những phẩm chất, những đặc trưng và những khuynh hướng phát triển của nhân cách nhằm xác định thái độ xã hội cần thiết của cá nhân đối với các vấn đề giới tính. GDGT có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển tâm lí của thanh thiếu niên học sinh. Xã hội hiện đại đã có những yếu tố và điều kiện dẫn đến sự phát triển sớm về giới ở trẻ em. Chất lượng cuộc sống ngày càng cao, sự bùng nổ thông tin với nhiều phương tiện nghe nhìn, phim ảnh về cuộc sống gia đình, tình yêu, quan hệ nam nữ ảnh hưởng rất nhiều và nhanh nhậy với thế hệ trẻ. Xã hội hiện đại cần phải rất quan tâm đến vấn đề GDGT. - GDGT ảnh hưởng trực tiếp đến giáo dục dân số. GDGT cung cấp những kiến thức khoa học về dân số kế hoạch hoá gia đình, sức khoẻ sinh sản, về hạnh phúc gia đình... giúp cho học sinh có hiểu biết và ý thức làm chủ trong các quan hệ tình bạn, tình yêu và hôn nhân sau này; thực hiện được mục tiêu và nội dung của giáo dục dân số trong thế hệ trẻ - một bộ phận rất quan trọng trong dân cư. - GDGT là con đường hữu hiệu ngăn ngừa các bệnh lây nhiễm qua con đường tình dục, đặc biệt là HIV - AIDS. - GDGT sẽ giúp cho thanh thiếu niên học sinh hình thành thái độ, hành vi đúng đắn trong các mối quan hệ bạn bè khác giới, biết làm chủ trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến tình yêu, hôn nhân, gia đình, xây dựng cuộc sống lành mạnh, có văn hoá, hướng tới cuộc sống hạnh phúc. b. Nội dung và các con đường giáo dục giới tính * Nội dung giáo dục giới tính bao gồm những kiến thức về sự phát triển của giới nam và nữ. - Về giải phẫu sinh lí. - Cấu tạo, chức năng của các cơ quan sinh dục nam - nữ. - Tuổi dậy thì và những biểu hiện, cách nhận biết và giải quyết những "bí ẩn" ở tuổi dậy thì. - Sinh sản và sức khoẻ sinh sản vị thành niên. - Các kiến thức, hiểu biết về sức khoẻ của giới, phòng tránh thai, phòng tránh các bệnh lây lan qua đường tình dục. Giáo dục về các mối quan hệ xã hội theo giới của cá nhân mỗi người: - Quan hệ hôn nhân, gia đình. - Quan hệ, bổn phận của mỗi người nam, nữ khi trở thành cha mẹ, con cái (trai, gái, dâu, rể), ông bà, anh chị, em... - Quan hệ bạn bè và bạn khác giới. - Tình yêu nam - nữ Giáo dục, hình thành kĩ năng xác định các giá trị xã hội; lí tưởng, lẽ sống, hạnh phúc gia đình, dân tộc, con cái (trai, gái, tình yêu, cuộc sống, tình yêu, cuộc sống, tình bạn...). * Các con đường giáo dục giới tính trong nhà trường phổ thông - Thông qua giảng dạy, học tập các môn khoa học tự nhiên, khoa học xã hội bằng phương pháp lồng ghép hoặc tích hợp. - Thông qua các chương trình, hoạt động ngoại khoá như: + Diễn đàn trao đổi về các chuyên đề tình bạn, tình yêu, hôn nhân, gia đình. + Tìm hiểu các tài liệu, sách báo, phim, ảnh về cấu tạo, chức năng, vệ sinh thường thức, phòng tránh các bệnh của các bộ phận sinh dục, sinh sản của nam - nữ. + Triển lãm về phòng tránh thai (phương thức, phương tiện, dụng cụ...). - Qua tư vấn (tình yêu, hôn nhân, gia đình, các bệnh của mỗi giới, tâm lí và bệnh tâm lí...). Qua các buổi sinh hoạt tập thể, hoạt động văn hoá, văn nghệ với các đề tài về giới, về hôn nhân, hạnh phúc gia đình... - Qua các hoạt động vui chơi, văn nghệ, thể dục thể thao. - Qua các môn học tự chọn (nấu ăn, nữ công, du lịch, cắm tỉa hoa, nhạc, họa, kĩ thuật...). 4. Giáo dục phòng chống ma túy a. Khái niệm Ma túy là những chất như thuốc phiện, hêrôin, côcain, moocphin... khi vào cơ thể người sẽ gây nghiện và huỷ hoại, làm thay đổi các chức năng sinh lí, tâm lí của con người. Ma túy có thể được đưa vào cơ thể người qua các con đường: - Hút thuốc phiện, cần sa. - Ngửi, hít hêrôin, côcain bằng cách đốt cháy trực tiếp rồi ngửi, hít khói của chúng vào miệng, mũi. - Nhai, nuốt, uống các thuốc kích thích thần kinh. - Tiêm, chích dưới da, tĩnh mạch các chất như moocphin, đôlacgan, hêrôin dưới dạng lỏng. Nghiện ma túy: Theo nghĩa khoa học thì nghiện ma túy là trạng thái nhiễm độc cơ thể theo chu kì hay mãn tính khi đã sử dụng chất ma tuý thành thói quen. Những biểu hiện có thể nhận biết người nghiện ma túy: - Ở thể nhẹ (mới mắc nghiện một thời gian ngắn): ngáp vặt, chảy nước mắt, nước mũi, hay ho vặt, vã mồ hôi, khi đói thuốc thì mắt lờ đờ, chân tay đờ đẫn, không muốn làm gì ngoài việc đi tìm thuốc để thoả mãn cơn nghiện. - Ở thể nặng thì nôn mửa, xuất huyết đường tiêu hoá, đau buốt xương, cơ, khớp, nhức đầu, sút cân, cơ thể suy sụp. Khi đói thuốc mà không được đáp ứng thì người nghiện ủ rũ, co giật, sùi bọt mép, đau buốt, mỏi mệt toàn thân. Người nghiện thường lên cơn nghiện vào một thời điểm nhất định trong ngày và hầu như không thể cưỡng lại được nếu như không có một ý chí kiên cường, chịu đựng, vượt qua cơn đau, đòi hỏi của cơ thể. Hiện nay người ta có thể dùng phép thử nước tiểu của người nghiện bằng que chỉ thị màu sẽ biết chính xác tình trạng nghiện ma tuý của người nghiện một cách nhanh chóng. Những người rơi vào nghiện ma túy không tránh khỏi những tai hoạ sau: - Sức khoẻ, trí tuệ bị huỷ hoại, không có sức đề kháng với bệnh tật, luôn uể oải, không còn khả năng lao động. - Người nghiện ma tuý làm cho hạnh phúc gia đình tan vỡ, tài sản khánh kiệt, trở thành gánh nặng cho gia đình. - Ma túy là nguyên nhân trực tiếp thúc đẩy các tệ nạn xã hội khác, là bạn đồng hành của tội ác và tội phạm. - Ma túy là con đường ngắn nhất dẫn tới lây nhiễm HIV/AIDS. b. Mục đích giáo dục phòng chống ma túy học đường - Nâng cao nhận thức cho thế hệ trẻ, học sinh về tính chất và tác hại của ma tuý, một hiểm hoạ của xã hội loài người, quốc gia, dân tộc, thời đại. Mọi người, đặc biệt là thanh thiếu niên học sinh phải cảnh giác với kẻ thù nguy hiểm này. - Tuyên truyền, giáo dục cho học sinh biết cách phòng chống ma tuý cho bản thân, cho gia đình và xã hội. - Làm cho học sinh biết tổ chức, xây dựng lối sống lành mạnh, lạc quan, yêu đời, không mắc vào các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, nghiện hút làm cho nhân cách, phẩm chất bị đồi bại, thân thể tàn phế. Giáo dục phòng chống ma tuý còn có mục đích làm cho học sinh biết tỏ thái độ kiên quyết chống lại việc sản xuất, buôn bán, tàng trữ và sử dụng trái phép ma tuý và những người tiếp tay cho tệ nạn ma tuý này. c. Các hình thức giáo dục phòng chống tệ nạn ma tuý trong trường học - Thông qua dạy học các môn Chính trị, Đạo đức, Giáo dục công dân.. - Qua các buổi sinh hoạt tập thể (sinh hoạt lớp, Đoàn, Đội, chào cờ, ngoại khoá, diễn đàn). - Tổ chức cho học sinh tham gia tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của nhà nước, của chính quyền về phòng chống ma túy. Tham gia các phong trào tuyên truyền, vận động bài trừ các tệ nạn xã hội ở địa phương. Tổ chức các hoạt động, sáng tác thơ ca, họa, các tiểu phẩm nghệ thuật và tổ chức diễn đàn vàn nghệ của thầy và trò với những nội dung tuyên truyền, vận động, giáo dục thiết thực, cụ thể, hấp dẫn về phòng chống ma tuý. Cho học sinh (nhất là học sinh các lớp lớn tuổi) trực tiếp được nghe, hoặc trao đổi với những thanh niên bị rơi vào con đường ma túy nay đã cai nghiện được nói về nỗi đau khổ vì nghiện ngập để học sinh hãy tránh xa ma túy. Cũng có thể cho học sinh trực tiếp tiếp xúc với cha, mẹ, người thân của một số người mắc nghiện ma tuý để họ được chứng kiến nỗi cực nhục của các gia đình có người nghiện như thế nào. Đó chính là bài học để các em không bao giờ mắc vào các tệ nạn xã hội này. - Tổ chức cho học sinh xem các bộ phim, vở diễn nói về tác hại của nghiện ma túy; tổ chức tọa đàm, trao đổi cụ thể qua các hình tượng nghệ thuật; viết thu hoạch về tác hại của nghiện ma túy mà tự giác xa lánh nó. - Tổ chức các hội nghị giữa chính quyền địa phương, cha mẹ học sinh và học sinh của lớp, trường về phòng chống ma túy ở trường và địa phương. Sau đó thực hiện kí cam kết đối với từng gia đình và từng học sinh không mắc vào các tệ nạn xã hội, không nghiện hút, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển chất ma tuý. 5. Giáo dục giá trị a. Những Khái niệm cơ bản Giá trị là phẩm chất tốt hay xấu, tác dụng lớn hay nhỏ của sự vật hay của một con người, là cái làm cho vật được thừa nhận là có ích lợi, đáng quý, là tính ý nghĩa tích cực hay tiêu cực của khách thể đối với con người, giai cấp, nhóm xã hội; nói chung là các giá trị vật chất và giá trí vật chất tinh thần có ý nghĩa đối với cuộc sống. Hệ giá trị hay còn gọi là hệ thống giá trị, đó là một tổ hợp giá trị khác nhau được sắp xếp, hệ thống lại theo những nguyên tắc nhất định thành một tập hợp mang tính toàn vẹn, hệ thống, thực hiện các chức năng đặc thù trong việc đánh giá con người theo những phương thức vận hành nhất định của giá trị. Cá nhân con người luôn tiếp cận với hệ thống giá trị. Thang giá trị đó là một tổ hợp giá trị, một hệ thống giá trị được sắp xếp theo một trật tự ưu tiên nhất định. Thang giá trị còn gọi là thước đo giá trị. Chuẩn mực giá trị trong hệ thống giá trị được sắp xếp theo một trật tự nhất định, một thứ tự ưu tiên. Có những giá trị giữ vị trí cốt lõi, chuẩn mực chung cho nhiều người, chiếm vị trí ở bậc cao hoặc then chốt, được coi là giá trị chuẩn. Định hướng giá trị: Theo Từ điển Bách khoa Xô viết, định hướng giá trị là: l) Cơ sở tư tưởng, chính trị, đạo đức, thẩm mĩ giúp chủ thể đánh giá thực tại chung quanh và định hướng trong thực tại đó. 2) Phương pháp phân loại các khách thể của cá nhân theo giá trị của chúng. Định hướng giá trị hình thành thông qua sự chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội và thể hiện trong các mục đích tư tưởng, chính kiến ham muốn... của nhân cách. Giáo dục giá trị có thể hiểu là một quá trình tổ chức, hướng dẫn, kích thích hoạt động tích cực của người được giáo dục để họ lĩnh hội được các giá trị xã hội, hình thành nên hệ thống giá trị của cá nhân, phù hợp với mong đợi của xã hội. b. Mục đích, nhiệm vụ của giáo dục giá trị Mục đích, nhiệm vụ của giáo dục giá trị: - Nhận thức được kiến thức văn hoá, khoa học, kĩ năng nghề nghiệp mà họ đang học trong trường là hết sức cần thiết, có ý nghĩa thiết thực với họ trong sự phát triển tiếp tục cũng như ứng dụng trong đời sống... - Có thái độ trân trọng, yêu quý, cố gắng lĩnh hội và thực hiện được các giá trị nêu trên, đồng thời không tán thành, không chấp nhận những giá trị phản lại các giá trị đó, dám đấu tranh bảo vệ những giá trị chân chính đích thực của xã hội chúng ta. - Có hành động thực tiễn thể hiện ở việc học tập, nghiên cứu, chiếm lĩnh bằng được kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo văn hoá, khoa học, nghề nghiệp... thể hiện ở sự quan tâm gắn bó với công việc, sự nghiệp của cá nhân và trách nhiệm với xã hội... Mục đích và nhiệm vụ của giáo dục giá trị đòi hỏi phải làm cho hệ thống giá trị xã hội mong đợi chuyển vào thành hệ giá trị trong mỗi công dân, nhất là đối với học sinh, sinh viên, làm cho nhân cách của họ có giá trị cao trước xã hội, đáp ứng yêu cầu mà xã hội đòi hỏi trong hiện tại và tương lai. c Nội dung giá dục giá trị Nội dung những giá trị chung, cơ bản cần phải giáo dục cho thế hệ trẻ bao gồm: - Hoà bình ổn định và an ninh của đất nước. - Độc lập và thống nhất Tổ quốc. - Tự do và dân chủ. - Lòng nhân đạo, sống có tình nghĩa. - Sức khoẻ của bản thân và cộng đồng. - Truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, trọng hiền tài, trọng học vấn. - Giá trị nghề nghiệp. - Tình bạn, tình yêu và cuộc sống gia đình. - Nếp sống văn minh. - Những giá trị về giới. Có rất nhiều giá trị phải giáo dục, song cần phải lựa chọn những giá trị cơ bản, tối thiểu, vừa đáp ứng yêu cầu xã hội vừa phù hợp với đối tượng giáo dục, lựa chọn các giá trị đó cần quan tâm đến những phương hướng cơ bản sau: - Phải quán triệt sâu sắc mục đích giáo dục. - Coi trọng cả những giá trị truyền thống tốt đẹp lẫn giá trị hiện đại. - Phải chú ý tính đặc thù về đối tượng, về lứa tuổi, về nghề nghiệp, về giới. - Phải xem xét những giá trị đó trong một tổng thể có hệ thống, cân đối, hài hoà. d. Các con đường giáo dục giá trị - Giáo dục hình thành các giá trị ở con người trước hết từ gia đình. Trẻ thấm nhuần các giá trị cũng như cách trẻ học nói, học cảm nhận, học biểu lộ thái độ và học hành vi của người lớn ở xung quanh trẻ. Toàn bộ bầu không khí tâm lí - xã hội, toàn bộ cuộc sống của gia đình được biểu hiện ở những người gần gũi, thân thiết nhất đều có tác động hình thành giá trị cho trẻ. - Thông qua việc cá nhân học tập, rèn luyện. Giá trị cũng được tiếp thu từ con đường dạy học như các tri thức khác, nó cũng cần người học nắm được khái niệm, tri thức, có trình độ để phân tích, nhìn thấy bản chất, tính quy luật, sự phát triển và biểu hiện của giá trị mà mình lĩnh hội. Trong đó, con đường rất quan trọng để lĩnh hội các giá trị là tự học, tự nghiên cứu, tự suy nghĩ, phân tích, thể nghiệm để tự rút ra kinh nghiệm, kết luận để hình thành nên những giá trị cho mình. Môi trường sư phạm: Tác động của môi trường sư phạm có ý nghĩa hết sức to lớn đối với việc hình thành giá trị cho học sinh, sinh viên. Các yếu tố của môi trường giáo dục ở các bậc học từ trường mẫu giáo, trung học phổ thông đến các đại học, chuyên nghiệp trước hết là: - Môi trường văn hoá vật chất. Từ trường, lớp, thư viện, nhà ăn, xưởng thực tập, phòng thí nghiệm đến vườn hoa, cây cảnh, nhà vệ sinh, phòng ở, tất cả đều tác động đến nhận thức, thái độ, hành vi của mỗi con người sống trong đó. - Môi trường tâm lí - xã hội. Trước hết là nội quy, quy chế, cách thức quản lí điều hành, cách xử lí các mối quan hệ giữa người và người trong đời sống ở nhà trường. Không khí tâm lí, dư luận của nhóm, tập thể lớp, phòng ở... đều có tác động mạnh đến sự lây lan tâm lí trong định hướng, đánh giá... các giá trị. - Quan hệ thầy trò. Tác động của giáo viên đến người học là một nhân tố hết sức đặc biệt trong việc hình thành các giá trị ở người học. Người giáo viên không chỉ là người giúp cho người học lĩnh hội kiến thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo cho người học mà còn mang trong mình những giá trị quý báu để tác động đến người học bằng toàn bộ nhân cách của mình. Môi trường văn hoá - xã hội: Ngoài.việc tiếp thu giá trị trong quá trình lĩnh hội kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo qua học tập ở nhà trường, việc hình thành các giá trị còn chịu ảnh hưởng sâu đậm của nguồn gốc, nền tảng, bản sắc văn hoá, đạo đức của cộng đồng, xã hội. - Văn hoá, tôn giáo, phong tục, tập quán, nếp sống của mỗi cộng đồng, dân tộc, nhóm xã hội có ảnh hưởng sâu xa đến sự hình thành những giá trị của mỗi thành viên trong cộng đồng đó. - Các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng hiện đại, phong phú, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó tác động đến con người ở mọi nơi, mọi lúc, thấm dần vào con người những quan điểm, cảm xúc, nhu cầu, khát vọng, những phương hướng hoạt động về các mặt tư tưởng, chính trị, đạo đức, thẩm mĩ, khoa học công nghệ mà thực chất đó là hình thành sự định hướng giá trị ở con người một cách rất tự nhiên. - Các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Những chủ trương chính sách về giáo dục, về việc làm, về khuyến khích tài năng... có ý nghĩa lớn đến định hướng giá trị của học sinh, sinh viên. Việc nêu lên những con đường giáo dục giá trị như trên mới chỉ nhằm định hướng cho việc lựa chọn những biện pháp, hình thức giáo dục giá trị phù hợp với mỗi loại đối tượng trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. 6. Giáo dục quốc tế a. Ý nghĩa của giáo dục quốc tế Khuyến nghị của Đại hội đồng UNESCO năm 1974 đã nêu: Giáo dục quốc tế là quá trình sinh hoạt xã hội, nhờ đó mà cá nhân và nhóm xã hội học tập để phát triển toàn bộ năng lực, quan điểm, khuynh hướng và tri thức của cá nhân về những nguyên tắc quan hệ hữu nghị giữa nhân dân và các quốc gia có hệ thống xã hội và chính trị khác nhau, dựa trên sự tôn trọng quyền con người và các quyền tự do cơ bản. Ở nước ta, ngoài ý nghĩa chung của giáo dục quốc tế đã nêu trên còn có ý nghĩa riêng của mình. Cụ thể là từ khi bước sang giai đoạn đổi mới đến nay chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Hơn nữa Việt Nam là một thành viên của ASEAN, đã thiết lập quan hệ ngoại giao nhiều nước trên thế giới. Do đó, việc nâng cao hiểu biết quốc tế cho mọi công dân, đặc biệt là thế hệ trẻ là cấp bách để có thể hội nhập với các nước một cách tự tin, sáng suốt và có trách nhiệm trong hoàn cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Giáo dục quốc tế cũng góp phần giáo dục cho thế hệ trẻ yêu hoà bình, ghét chiến tranh phi nghĩa, ý thức bảo vệ và xây dựng đất nước, trách nhiệm bảo vệ môi trường, bảo vệ di sản văn hoá của các dân tộc, của nhân loại, có những hiểu biết về phát triển hài hoà giữa kinh tế và xã hội, dân số, có thái độ trách nhiệm đối với sự tồn tại và phát triển của cộng đồng. b. Mục tiêu giáo dục quốc tế Về kiến thức: Có những hiểu biết hệ thống về các nội dung cơ bản của giáo dục quốc tế. Về thái độ: Thừa nhận và xây dựng cho bản thân những giá trị đúng đắn, có thái độ tích cực tham gia vào việc tuyên truyền, vận động thực hiện nội dung của giáo dục quốc tế, có thái độ tích cực trước việc giải quyết những vấn đề của bản thân, của cộng đồng, của quốc gia và thế giới. Về kĩ năng: Có kĩ năng suy nghĩ, phê phán, kĩ năng tìm kiếm giải pháp phát triển và giải quyết vấn đề. Kĩ năng hành động thể hiện ở năng lực trao đổi, thảo luận, năng lực hợp tác giải quyết vấn đề. Giáo dục quốc tế cũng như các nội dung giáo dục khác phải được tiến hành trong nhà trường, lấy học sinh và sinh viên làm đối tượng giáo dục. Đối với ngoài nhà trường, đối tượng giáo dục là những người không còn ngồi trên ghế nhà trường. c. Nhiệm vụ và nội dung giáo dục của giáo dục quốc tế Nhiệm vụ giáo dục quốc tế bao gồm: - Làm cho mọi người quan tâm và hiểu biết đầy đủ về những vấn đề chung có tính toàn cầu cũng như ở từng khu vực trên thế giới, những vấn đề đó hiện đang đặt cho nhân loại những trách nhiệm, những đòi hỏi cùng tham gia và cùng giải quyết để hướng tới một tương lai tốt đẹp. - Giúp mỗi người trong cộng đồng nhân loại hiểu rõ những tác động tích cực và tiêu cực của sự phát triển và tiến bộ, nhất là trong cách mạng khoa học công nghệ, ảnh hưởng của nó đối với mọi vấn đề trong cuộc sống (môi trường, sự khác biệt về trình độ phát triển, thảm hoạ chung của toàn nhân loại...) và có cách giải quyết thích hợp. - Trong xu thế hòa nhập đòi hỏi con người phải tôn trọng tính đa dạng về chính trị - xã hội, đạo đức, văn hoá, thẩm mĩ, về lối sống. Từ đó tạo nên sự phối hợp hài hoà của nhân loại (chung sống hòa bình, khoan dung, chấp nhận đa chủng tộc, đa dạng về văn hoá), tạo nên sự hòa nhập, sự liên kết có định hướng. Tất cả những điều đó trở thành nguyên tắc tổng quát trong đời sống nhân loại, trong cộng đồng thế giới, trong bối cảnh chung của thế giới hiện đại. Nội dung giáo dục quốc tế được tập trung vào những vấn đề sau: - Quyền bình đẳng giữa các dân tộc. - Hoà bình và hợp tác quốc tế. - Quyền con người, quyền trẻ em. - Dân số, nhu cầu phát triển bền vững cuộc sống. - Môi trường. - Di sản văn hoá nhân loại. - Hệ thống tổ chức Liên hợp quốc. d. Các con đường và các điều kiện giáo dục quốc tế trong nhà trường Giáo dục quốc tế tiến hành trong nhà trường cũng như các nội dung giáo dục khác đều được thực hiện thông qua hoạt động nội khóa và hoạt động ngoại khóa. Hoạt động nội khóa có hai phương án: phương án thứ nhất là tách giáo dục quốc tế thành môn học riêng, phương án này chỉ thích hợp với các trường đại học và cao đẳng; phương án thứ hai là chuyển nội dung giáo dục quốc tế vào tất cả các môn học. Những môn học có ưu thế hơn trong việc đưa nội dung giáo dục quốc tế vào đó là môn Giáo dục công dân, Đạo đức, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, Tiếng nước ngoài, Sinh học, Hoá học. Hoạt động ngoại khóa giáo dục quốc tế có thể tiến hành dưới nhiều hình thức phong phú sinh động như: nói chuyện ngoại khoá, thi viết, vẽ, hát, tổ chức những triển lãm nhỏ, tiến hành sưu tập, trao đổi thư từ, kết bạn, tham quan các nhà bảo tàng, các cuộc triển lãm, các nhà hát, xem phim, tham gia các loại câu lạc bộ, đi tham dự các lễ hội truyền thống... Cần tận dụng nhiều lực lượng tham gia vào việc giáo dục quốc tế, tận dụng mọi phương tiện giáo dục, đặc biệt là các phương tiện thông tin đại chúng. Để thực hiện giáo dục quốc tế cần phải có những điều kiện sau: - Có chương trình, tài liệu giáo dục quốc tế cho học sinh cũng như tài liệu hướng dẫn giảng dạy cho giáo viên. - Thiết kế chương trình, biên soạn tài liệu cho học sinh và tài liệu hướng dẫn giảng dạy cho giáo viên, in ấn, phát hành rộng rãi những tài liệu đó. - Đội ngũ giáo viên có năng lực, được đào tạo bài bản. CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN 1. Phân tích khái niệm, ý nghĩa và nhiệm vụ của giáo dục đạo đức trong nhà trường phổ thông. 2. Phân tích các nội dung của giáo dục đạo đức. Theo anh (chị) thì các nội dung giáo dục đạo đức cần phải được thực hiện như thế nào để đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn giáo dục hiện nay? 3. Hiểu thế nào là giáo dục trí tuệ, phân tích ý nghĩa, nhiệm vụ và nội dung cơ bản của giáo dục trí tuệ. 4. Phân tích các nhiệm vụ và nội dung của giáo dục thể chất. 5. Những nội dung cơ bản của giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường phổ thông hiện nay là gì? Có thể thực hiện các nội dung thẩm mĩ bằng những con đường nào? 6. Phân tích nhiệm vụ, nội dung của giáo dục lao động - kĩ thuật cho học sinh trong nhà trường phổ thông. 7. Phân tích khái niệm và ý nghĩa của giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trong nhà trường phổ thông. 8. Phân tích các nhiệm vụ của công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông và phương hướng thực hiện các nhiệm vụ đó. 9. Nêu và phân tích các hình thức hướng nghiệp ở trường phổ thông hiện nay ở nước ta. 10. Phân tích những nội dung và con đường giáo dục môi trường cho học sinh trong nhà trường phổ thông. 11. Nêu khái niệm và những mục tiêu của giáo dục dân số, các nội dung cơ bản của giáo dục dân số. 12. Phân tích nội dung và các con đường giáo dục giới tính cho học sinh trong nhà trường phổ thông. 13. Vì sao phải giáo dục phòng chống ma túy cho học sinh trong nhà trường hiện nay? 14. Phân tích các tác hại của tệ nạn ma túy và các hình thức giáo dục phòng chống ma túy học đường hiện nay. 15. Hãy trình bày những khái niệm cơ bản sau: giá trị, hệ giá trị, thang giá trị và chuẩn giá trị, định hướng giá trị và giáo dục giá trị. 16. Hãy trình bày nội dung và các con đường giáo dục giá trị. 17. Hãy trình bày những nhiệm vụ và nội dung của giáo dục quốc tế Chương 15: PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC 1. Phương pháp giáo dục là gì? Phương pháp giáo dục là thành tố quan trọng trong cấu trúc của quá trình giáo dục, có quan hệ mật thiết với các thành tố khác của quá trình này; đặc biệt là với mục đích, nội dung, nhà giáo dục, người được giáo dục, phương tiện giáo dục, với các điều kiện thực hiện quá trình này. Trong mối quan hệ với mục đích, phương pháp trả lời câu hỏi làm thế nào, bằng cách nào để đạt mục đích đã đề ra? Nghiên cứu phương pháp giáo dục nhằm tìm ra quy luật vận động của đối tượng để tác động và điều khiển chúng đạt được mục đích. Phương pháp chịu sự quy định của nội dung và là hình thức của sự vận động bên trong nội dung, mỗi nội dung giáo dục có những phương pháp tương ứng phù hợp với nó. Phương pháp giáo dục phản ánh cách thức tổ chức quá trình giáo dục, các loại hình hoạt động phong phú đa dạng của giáo viên và học sinh nhằm chuyển hóa những yêu cầu, chuẩn mực về đạo đức, lối sống, văn hóa, thẩm mĩ do xã hội quy định thành phẩm chất, nhân cách, hành vi, thói quen và nếp sống văn minh của học sinh. Phương pháp giáo dục được xem là cách thức tác động qua lại giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, trong đó nhà giáo dục giữ vai trò chủ đạo nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục đã đề ra. 2. Đặc điểm của phương pháp giáo dục Phương pháp giáo dục được tiến hành trên cơ sở hoạt động phối hợp giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, trong đó những tác động của nhà giáo dục giữ vai trò chủ đạo, còn người được giáo dục hoạt động tích cực, tự giác, tự giáo dục, tự vận động và phát triển nhằm hướng tới mục tiêu phát triển nhân cách đã định. Chủ thể của những tác động giáo dục đến người được giáo dục có thể là nhà giáo dục, cũng có thể là tập thể sư phạm, tập thể học sinh, các các tổ chức xã hội hay sự phối hợp giữa các chủ thể đó. Những tác động này có thể trực tiếp, cũng có thể gián tiếp thông qua các mối quan hệ xã hội đa dạng, các hoạt động, các phương tiện thông tin đại chúng... Những tác động giáo dục thường phối hợp, thống nhất với nhau cùng ảnh hưởng đến người được giáo dục (là cá nhân, tập thể học sinh) giúp cho cho người được giáo dục biến những yêu cầu, những tác động giáo dục thành phẩm chất và năng lực của mình thông qua hoạt động của bản thân. Phương pháp giáo dục có mối quan hệ mật thiết với các biện pháp giáo dục, cả biện pháp và phương pháp đều được quy định bởi các hành động phối hợp giữa nhà giáo dục và người được giáo dục. Song biện pháp mang tính cụ thể, phương pháp mang tính khái quát, nó bao gồm một số hành động của nhà giáo dục và người được giáo dục, các hành động này thống nhất với nhau nhằm thực hiện mục đích chung là hình thành những phẩm chất nhân cách của người được giáo dục. Phương pháp giáo dục có quan hệ mật thiết với các phương tiện giáo dục. Phương tiện giáo dục bao gồm các sản phẩm văn hóa được sử dụng trong quá trình giáo dục và trong các loại hình hoạt động văn hóa xã hội, thể dục thể thao, lao động sản xuất. Nhờ có phương tiện giáo dục mà đảm bảo được sự tác động qua lại giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, đảm bảo cho hoạt động giáo dục đạt được hiệu quả cao. II. HỆ THỐNG CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC 1. Phân loại phương pháp giáo dục Trong lí luận giáo dục hiện còn nhiều cách phân loại phương pháp giáo dục khác nhau. Mỗi cách phân loại đều dựa trên những cơ sở nhất định, những cơ sở này làm nguyên tắc để sắp xếp các phương pháp vào hệ thống các tên gọi khác nhau. Mỗi hệ thống phương pháp đều có thể sử dụng có hiệu quả trong những hoàn cảnh giáo dục nhất định, tùy theo mục đích giáo dục đã đặt ra. Nếu căn cứ vào lực lượng và môi trường nơi diễn ra các hoạt động giáo dục ta có các phương pháp giáo dục gia đình, các phương pháp giáo dục nhà trường, các phương pháp giáo dục xã hội; phương pháp giáo dục trên lớp, phương pháp giáo dục ngoài lớp. Căn cứ vào đối tượng giáo dục ta có các phương pháp giáo dục trẻ mẫu giáo, giáo dục trẻ vị thành niên; phương pháp giáo dục trẻ khuyết tật, phương pháp giáo dục cá biệt.... Căn cứ vào nội dung giáo dục có các phương pháp giáo dục thể chất, phương pháp giáo dục đạo đức, phương pháp giáo dục môi trường, phương pháp giáo dục thẩm mĩ.... Căn cứ vào sự tác động tới các khâu của quá trình giáo dục có các phương pháp tác động đến nhận thức, phương pháp tác động đến tình cảm, phương pháp hình thành hành vi thói quen Do tính chất phức tạp và đa dạng của phương pháp nên có nhiều cách gọi tên và phân loại khác nhau. Phương pháp giáo dục thường được phân loại và trình bày theo ba nhóm cơ bản sau: 1.1. Nhóm các phương pháp thuyết phục Nhóm phương pháp thuyết phục là nhóm phương pháp giáo dục tác động lên nhận thức và tình cảm của người được giáo dục nhằm hình thành những khái niệm, biểu tượng và niềm tin đúng đắn về đạo đức, thẩm mĩ, tạo điều kiện cho người được giáo dục có tư tưởng đúng, có tình cảm đẹp, làm cơ sở cho việc hình thành những hành vi thói quen tốt: Trong công tác giáo dục, thuyết phục là phương pháp cơ bản vì nó là con đường quan trọng để biến ý thức xã hội thành ý thức của cá nhân, biến những yêu cầu của xã hội thành nhu cầu của bản thân, động viên, thúc đẩy cá nhân hành động đáp ứng những yêu cầu, chuẩn mực của xã hội. Mục tiêu cơ bản của thuyết phục là nhà giáo dục đưa lí luận (lí luận đạo đức, lí luận thẩm mĩ, pháp luật...) vào ý thức của học sinh, giúp các em khái quát những kinh nghiệm của bản thân thành những biểu tượng, khái niệm và niềm tin về đạo đức, thẩm mĩ; cụ thể hóa các khái niệm, chuẩn mực đã thu được trong cuộc sống; có động cơ và thái độ đúng đắn với các chuẩn mực và hành vi phù hợp với nhận thức và tình cảm của bản thân. Muốn vậy, nhà giáo dục phải hình thành ở học sinh những hiểu biết về các quy tắc xã hội của hành vi, giúp các em có niềm tin và mong muốn thực hiện hành vi, biến hành vi thành thói quen. Phương tiện dùng trong nhóm phương pháp này rất phong phú và đa dạng như ngôn ngữ, sách báo, khẩu hiệu, các phương tiện trực quan (tranh, ảnh, mô hình, sơ đồ), các phương tiện kĩ thuật hiện đại, băng hình, phim đèn chiếu, phát thanh, truyền hình, mạng internet... Căn cứ vào phương tiện, cách sử dụng phương tiện để tác động đến nhận thức, tình cảm, niềm tin của người được giáo dục, có các phương pháp thuyết phục khác nhau. Chẳng hạn, sử dụng ngôn ngữ trong tiếp xúc cá nhân có các phương pháp đàm thoại, tư vấn; tiếp cận nhóm có các phương pháp thuyết trình, thảo luận; tiếp cận đại chúng thông qua các phương tiện (truyền thanh, truyền hình) có các phương pháp phát thanh, truyền hình... Nhóm phương pháp thuyết phục bao gồm: a. Phương pháp đàm thoại Đàm thoại là phương pháp giáo dục được thực hiện chủ yếu bằng cách trao đổi ý kiến và quan điểm giữa nhà giáo dục với học sinh và giữa học sinh với nhau về một chủ đề nào đó thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và đời sống hàng ngày. Đàm thoại có thể được tiến hành giữa nhà giáo dục với đối tượng giáo dục, giữa nhà giáo dục với các thành viên trong nhóm, trong tập thể học sinh. Ưu điểm đặc biệt của phương pháp đàm thoại là thông qua đàm thoại nhà giáo dục có thể kịp thời nắm bắt những tâm tư, tình cảm, vốn kinh nghiệm của từng học sinh để trên cơ sở đó có những tác động giáo dục thích hợp và cần thiết đối với các em. * Đàm thoại có thể diễn ra theo hai cách: đàm thoại tự nhiên và đàm thoại theo chủ đề Đàm thoại tự nhiên: Là cuộc đàm thoại được dẫn đến một cách tự nhiên, không tập trung vào một chủ đề nhất định. Trong cuộc đàm thoại này các ý kiến thường được bộc lộ trong những bối cảnh không được chuẩn bị trước, diễn ra trong các tình huống của cuộc sống hàng ngày, qua các cuộc tiếp xúc trực tiếp giữa giáo viên và học sinh trong và ngoài giờ học. Đàm thoại theo chủ đề. Là loại đàm thoại mà những câu hỏi của chúng được xoay quanh một chủ đề nhất định. Muốn đàm thoại có hiệu quả nhà giáo dục cần quan tâm đến nội dung chủ đề cần trao đổi với học sinh, cần phải chuẩn bị kĩ các câu hỏi, các vấn đề, sự kiện để thông báo cho học sinh. Chủ đề đàm thoại cần thông báo trước để học sinh có thời gian chuẩn bị ý kiến và quan điểm của mình. Chủ đề đàm thoại thường là những sự kiện mang nội dung chính trị, đạo đức thẩm mĩ, thể hiện các mặt khác nhau của đời sống xã hội, gắn liền với cuộc sống và hoạt động của học sinh. Đề tài chọn thảo luận phải mang tính thiết thực, tập trung vào các vấn đề bức xúc trong cuộc sống, lao động, học tập, trong quan hệ với thầy, với bạn, với cha mẹ và những người xung quanh. Khi tiến hành đàm thoại, nhà giáo dục cần phát huy tính tích cực của học sinh vào việc phân tích và đánh giá các sự kiện, các hành vi trong đời sống xã hội, giúp các em tự rút ra những kết luận phù hợp. Mở đầu buổi đàm thoại, nhà giáo dục cần cung cấp cho người được giáo dục những tài liệu và đặt ra các câu hỏi cho các em suy nghĩ và tự trả lời. Nhà giáo dục cần tạo ra không khí thân mật, cởi mở, tự nhiên giữa người nói và người nghe, làm cho mọi người không chỉ có nghe mà còn phát biểu ý kiến, đặt ra các câu hỏi và trả lời chúng. Học sinh cũng có thể đặt ra các câu hỏi, vấn đề để giáo viên và các bạn trả lời. Trong đàm thoại, thái độ của những người tham gia rất quan trọng, nó có thể thúc đẩy người khác phản ứng tích cực, mạnh dạn bày tỏ chính kiến của mình hoặc làm cho không khí nặng nề, mọi người không muốn tham gia hoặc tham gia một cách hình thức. Muốn thảo luận thành công, nhà giáo dục cần biết cách bộc lộ quan điểm và tình cảm của mình trong quá trình đàm thoại, khéo léo khêu gợi người được giáo dục để họ tự rút ra những quan điểm phù hợp với các giá trị đạo đức, thẩm mĩ. * Đàm thoại có thể diễn ra dưới hình thức cá nhân có thể diễn ra dưới hình thức tập thể Dưới hình thức cá nhân: Nhà giáo dục đàm thoại riêng với từng học sinh. Hình thức này giúp nhà giáo dục hiểu biết sâu sắc về hoàn cảnh và cá tính của học sinh, về những vấn đề cụ thể chưa được giải quyết trong nhận thức, tư tưởng và tình cảm của các em, nhất là những vấn đề thầm kín, khó nói trước tập thể. Đàm thoại riêng chỉ có hiệu quả khi giữa người được giáo dục và nhà giáo dục có quan hệ tốt đẹp, khi họ tin tưởng vào nhà giáo dục và mong muốn nhà giáo dục chia sẻ và tháo gỡ những băn khoăn thắc mắc cho họ. Đàm thoại cá nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với những học sinh "chậm tiến về đạo đức", những học sinh này thường có những định kiến sai lệch về người khác, về các chuẩn mực xã hội, có thái độ thiếu tin cậy đối với tập thể. Muốn đàm thoại thành công đối với những học sinh này, nhà giáo dục cần hết sức thận trọng, tế nhị trong cách nhận định và đánh giá học sinh, thật sự thương yêu tôn trọng các em, các lí lẽ đưa ra cần có lí có tình, tránh khuôn sáo dập khuôn, công thức. Một phương pháp đàm thoại cá nhân ngày nay được đề cập tới nhiều là hoạt động tư vấn giáo dục. Đây là phương pháp giáo dục trong đó có sự tương tác giữa nhà tư vấn và người được tư vấn trên cơ sở nhà tư vấn cung cấp những thông tin khách quan, chia sẻ về mặt tình cảm nhằm giúp cho người được tư vấn khắc phục những khó khăn về nhận thức và tình cảm của mình, từ đó đi đến một quyết định hành động phù hợp. Muốn tư vấn có hiệu quả, cần cung cấp cho đối tượng những thông tin khách quan, đầy đủ, tạo điều kiện để họ thay đổi những quan niệm lệch lạc; hỗ trợ và giúp đỡ về mặt hiểu biết, tâm lí và tình cảm, làm yên lòng người được tư vấn; hỗ trợ và giúp đỡ họ tìm ra giải pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề. Đàm thoại tập thể được phát triển thành hai mức độ thảo luận và tranh luận. Thảo luận là hình thức đặc biệt của đàm thoại trong đó nhà giáo dục tổ chức sự trao đổi giữa học sinh với nhau, tạo điều kiện cho mỗi thành viên trong tập thể đóng góp ý kiến và tìm ra cách giải quyết về một vấn đề nào đó. Thông qua thảo luận, học sinh có thể giúp nhau đi sâu phân tích những khía cạnh khác nhau của vấn đề, từ đó các em có được nhận thức, thái độ, niềm tin đúng đắn. Mức độ cao của thảo luận là tranh luận. Tranh luận dựa trên sự va chạm các ý kiến, các quan điểm khác nhau, có khi đối lập nhau. Nhờ đó các em nâng cao được tính khái quát, tính vững vàng và mềm dẻo của các quan điểm, kiến thức về các chuẩn mực đã tiếp thu. Tranh luận là phương pháp giáo dục phù hợp với lứa tuổi học sinh trung học, lứa tuổi say mê tìm hiểu ý nghĩa của cuộc đời, lứa tuổi muốn có sự cọ sát về quan điểm, về chính kiến để tìm ra chân lí. Vì thế, trong tranh luận, học sinh không chỉ phát biểu quan điểm của mình, mà còn phát hiện ra những điểm mạnh và điểm yếu trong quan niệm và cách bảo vệ quan niệm, đưa ra các luận chứng để bác bỏ sai lầm và khẳng định chân lí. Giáo viên có thể tham gia vào cuộc thảo luận và tranh luận của học sinh với tư cách là người dẫn dắt, gợi ý và định hướng cho học sinh những vấn đề cần tranh luận và giải quyết, nhưng tuyệt đối không được vội vã phê phán, tán dương hoặc phủ nhận những quan điểm sai lầm của học sinh, buộc học sinh phải chấp nhận những quan điểm của mình. Những nhà giáo dục có kinh nghiệm thường biết chờ đợi, nhiệt tình và chân thành, tạo điều kiện cho học sinh trình bày quan điểm của mình để trên cơ sở đó đưa ra cách lí giải phù hợp, làm cho các em chấp nhận nội dung của chuẩn mực không phải bằng uy quyền mà bằng chính những hiểu biết và niềm tin của bản thân. Kết thúc đàm thoại nhà giáo dục cần tạo điều kiện cho học sinh nêu bật những nội dung chính, những kết luận quan trọng về những vấn đề được trao đổi thảo luận, hướng dẫn các em đề ra được các chương trình cụ thể để thực hiện chuẩn mực hành vi đã được thống nhất. b. Phương pháp giảng giải Giảng giải là phương pháp giáo dục trong đó nhà giáo dục dùng lời nói để thông báo, phân tích, giải thích, chứng minh tính đúng đắn của các chuẩn mực đã được xã hội quy định. Trọng tâm của giảng giải là cung cấp thông tin về sự kiện và chuẩn mực hành vi giúp người được giáo dục nắm vững ý nghĩa, nội dung và cách thực hiện những nguyên tắc và chuẩn mực về văn hóa, đạo đức và lối sống, hình thành niềm tin và mong muốn thực hiện chúng. Giảng giải thường tiến hành trong trường hợp người được giáo dục không nhận thức được những điều cần phải làm và những việc cần phải tránh. Nói như Xukhômlinxki là giúp người được giáo dục nhận ra điều "cần phải" và ý thức về chúng. Hiệu quả của phương pháp giảng giải phụ thuộc vào việc chuẩn bị nội dung và các biện pháp tiến hành phương pháp này của nhà giáo dục. Chuẩn bị tốt nội dung vấn đề cần giảng giải có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong phương pháp này. Nội dung giảng giải là những nguyên tắc, những chuẩn mực, những giá trị về đạo đức thẩm mĩ cần phải hình thành cho học sinh, làm cho các em hiểu được ý nghĩa của chuẩn mực và cách thức thực hiện chúng. Nội dung chuẩn mực phải hấp dẫn, lôi cuốn được sự chú ý của người nghe, gắn liền với thực tiễn đất nước, với cuộc sống và hoạt động của học sinh, gắn với kinh nghiệm sống của các em. Nội dung giảng giải cần tập trung giải thích và làm rõ ba vấn đề: Chuẩn mực đó là gì? Tại sao phải thực hiện chúng? và thực hiện chúng như thế nào? Tuy nhiên, trong thực tiễn tùy theo nội dung chuẩn mực, đặc điểm lứa tuổi và sự hiểu biết của đối tượng, nhà giáo dục cần xác định các nội dung giảng giải cho phù hợp. Nội dung của phương pháp giảng giải được chứa đựng trong các môn học chính khóa của nhà trường. Các môn học thuộc lĩnh vực xã hội nhân văn là nguồn tư liệu phong phú cho nội dung giảng giải, đó là những tư tưởng, quan điểm có tác dụng to lớn trong việc hình thành nhân cách cho học sinh. Vì thế, người giáo viên cần tích hợp các nội dung về giáo dục đạo đức công dân, giáo dục văn hóa, thẩm mĩ và giáo dục thể chất vào nội dung dạy học, tạo điều kiện cho các em nắm vững được các nội dung của chuẩn mực hành vi, các giá trị văn hóa trong quá trình dạy các môn học ở nhà trường. Nhà giáo dục có thể vận dụng các phương pháp thuyết trình, giảng giải trong dạy học vào việc hình thành các khái niệm về đạo đức, văn hóa thẩm mĩ cho học sinh. Tuy nhiên, khi tiến hành giảng giải các nội dung giáo dục cần đảm bảo tính thuyết phục của các luận chứng, tính hệ thống chặt chẽ của cấu trúc nội dung. Thái độ của người giảng phải chân thực, tránh cách nói khuôn sáo, khoa trương, dài dòng. Hiệu quả của giảng giải không những phụ thuộc vào tri thức, kinh nghiệm sống, trình độ tư tưởng, đạo đức của nhà giáo dục mà còn phụ thuộc vào uy tín, thái độ của nhà giáo dục đối với học sinh cũng như phụ thuộc vào tình cảm, nghệ thuật diễn đạt, tính rõ ràng và ngôn ngữ của nhà giáo dục. Người được giáo dục chỉ chấp nhận và hưởng ứng các chuẩn mực hành vi khi họ biết rằng chính nhà giáo dục cũng đồng cảm, xúc động và tin tưởng vào vấn đề đang được trình bày. Kết thúc giảng giải, giáo viên cần đưa ra các kết luận gắn gọn, súc tích về các chuẩn mực để học sinh dễ nhớ, dễ hiểu, dễ hình dung và vận dụng trong thực tiễn. Người giáo viên cũng có thể khuyến khích học sinh trình bày tóm tắt và đưa chuẩn mực mới học được vào hệ thống các chuẩn mực đã có. c Phương pháp nêu gương Phương pháp thuyết phục có thể được thực hiện bằng sự mẫu mực của bản thân nhà giáo dục, của những người lớn, bạn bè, những người được học sinh ngưỡng mộ và mong muốn noi theo, làm theo. Trong công tác giáo dục, việc sử dụng tấm gương tốt làm phương tiện để giáo dục sẽ làm cho các chuẩn mực và hành vi xã hội trở nên cụ thể, trực quan và có tính thuyết phục hơn. Giáo dục bằng lời sẽ giảm giá trị nếu nó không được thuyết phục và chứng minh bằng những tấm gương người thật, việc thật cụ thể, sinh động. Nêu gương là phương pháp giáo dục trong đó nhà giáo dục dùng những tấm gương sáng của cá nhân hoặc tập thể hoặc bằng hành động của chính bản thân mình như là một mẫu mực để kích thích người được giáo dục cảm phục, noi theo và làm theo những gương đó nhằm đạt được mục đích giáo dục đã đề ra. Cơ sở của phương pháp nêu gương là dựa vào tính hay bắt chước của trẻ em. Trẻ em thường bắt chước những người xung quanh, nhất là những người gần gũi thân thuộc như cha mẹ, thầy cô giáo. Sự bắt chước phụ thuộc vào độ tuổi, vốn kinh nghiệm và trình độ phát triển trí tuệ, đạo đức ở các em. Khi còn nhỏ, trẻ có thể bắt chước một cách máy móc tất cả những hành vi của người lớn (kể cả những hành vi tích cực và tiêu cực); khi lớn lên, cùng với sự tích lũy của kinh nghiệm và sự phát triển của trí tuệ, sự bắt chước mang tính lựa chọn và tổng hợp hơn. Bắt chước ở tuổi thiếu niên đã mang tính lựa chọn, sang lứa tuổi thanh niên, bắt chước mang tính khái quát và tổng hợp, những hành vi bắt chước đã được biến đổi phù hợp với những điều kiện và tình huống nảy sinh trong cuộc sống của họ. Điều quan trọng trong phương pháp nêu gương đối với nhà giáo dục là sự lựa chọn và sử dụng tấm gương để giáo dục học sinh. Nhà giáo dục cần căn cứ vào mục tiêu và nội dung giáo dục mà lựa chọn tấm gương điển hình để giáo dục các em. Việc nêu những tấm gương tốt như của các anh hùng, chiến sỹ thi đua, những gương tốt trong lao động, sản xuất, trong đấu tranh với các thói hư tật xấu, những tấm gương của học sinh nghèo vượt khó là điều rất quan trọng. Đó là những hành vi nghĩa cử của các nhân vật mà các em đã có ấn tượng tốt đẹp, được các em ngưỡng mộ và mong muốn có được hành vi cử chỉ đó. Tuy nhiên, cũng có thể sử dụng cái phản diện để ngăn ngừa và loại bỏ những thói hư tật xấu trong xã hội. Có thể kể lại và chỉ cho học sinh thấy số phận của một người nghiện, của một kẻ hư hỏng, kẻ lang thang bụi đời... để các em có thể rút ra bài học về cách ứng xử với bản thân và cuộc đời, có thái độ tránh xa những thói xấu và tệ nạn xã hội. Nên sử dụng những gương tốt là chủ yếu, lạm dụng gương phản diện có thể phản tác dụng giáo dục. Khi sử dụng phương pháp nêu gương, điều quan trọng là phải giúp học sinh có cách cư xử và thái độ đúng đắn với mọi hành vi cử chỉ của những người xung quanh; tiếp thu và học tập cái tốt lên án và phê phán cái xấu. Vì thế, phương pháp này sẽ có hiệu quả hơn nếu người giáo viên biết phối hợp giữa nêu gương với giải thích đàm thoại về các chuẩn mực và hành vi xã hội. Tấm gương của chính bản thân nhà giáo dục là yếu tố có vị trí đặc biệt trong giáo dục bằng nêu gương. Nếu như việc làm và lối sống của nhà giáo dục không đi đôi với lời nói, hoặc lời nói cũng sai trái thì đó là nguyên nhân dẫn đến sự bất lực và không có hiệu quả trong công tác giáo dục. Vì thế, người thầy giáo không chỉ "nêu gương" của những người khác, mà bản thân mình phải "làm gương" sáng cho học sinh noi theo. Tấm gương sống của giáo viên có sức mạnh thuyết phục hơn mọi lời giải thích và động viên của họ đối với học sinh. 1.2. Nhóm phương pháp tổ chức hoạt động và hình thành kinh nghiệm ứng xử xã hội Quá trình giáo dục không chỉ nhằm hình thành cho học sinh những nhận thức, niềm tin về các chuẩn mực xã hội, điều quan trọng hơn là nó phải được thể hiện bằng hành vi, thói quen cụ thể. Để làm được việc này giáo dục không chỉ tác động lên ý thức mà còn tác động đến hành vi. Giáo dục là sự thống nhất giữa ý thức và hành vi, là quá trình biến những yếu tố nhận thức, tình cảm thành hành vi, biến những hành vi, những kinh nghiệm ứng xử xã hội thành thói quen văn hóa cho học sinh. Mục đích chủ yếu của nhóm phương pháp này là hình thành ở người được giáo dục những hành vi phù hợp với các chuẩn mực của đời sống xã hội, hình thành những phẩm chất nhân cách và hành vi thói quen. Việc hình thành các hành vi thói quen phù hợp với các chuẩn mực xã hội trong phương pháp này không phải bằng nghe, bằng nhìn mà chủ yếu bằng cách tham gia vào các hoạt động, các quan hệ phong phú đa dạng (hoạt động lao động sản xuất, hoạt động xã hội, sinh hoạt tập thể, hoạt động văn hóa văn nghệ thể thao, vui chơi giải trí… Thông qua việc tiến hành các hoạt động và tham gia vào các mối quan hệ xã hội mà người được giáo dục sẽ hình thành những hành vi mới, điều chỉnh những hành vi đã có cho phù hợp với các chuẩn mực xã hội, hình thành niềm tin và thói quen phù hợp với những quy định của xã hội. Nhóm phương pháp này bao gồm: Phương pháp đòi hỏi sư phạm, phương pháp tập thói quen và phương pháp rèn luyện. a. Phương pháp đòi hỏi sư phạm Đòi hỏi sư phạm là một phương pháp giáo dục trong đó nhà giáo dục nêu lên những yêu cầu, những đòi hỏi đối với tập thể và cá nhân học sinh, tổ chức và giám sát việc thực hiện các yêu cầu đó ở học sinh nhằm đạt được các mục tiêu giáo dục đã đề ra. Phương pháp đòi hỏi sư phạm bao gồm nhiều hoạt động phối hợp giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, trong đó nhà giáo dục nêu lên những yêu cầu về mặt giáo dục; biến những yêu cầu đó thành yêu cầu của chính bản thân người được giáo dục; tổ chức, giám sát, điều chỉnh người được giáo dục thực hiện các yêu cầu đó một cách tự giác, độc lập, sáng tạo. Những yêu cầu của nhà giáo dục thực chất là hệ thống các quy định và các chuẩn mực xã hội đòi hỏi người được giáo dục phải tuân theo trong khi tham gia các hoạt động và các mối quan hệ hàng ngày. Hệ thống các chuẩn mực đó thường được cụ thể hóa dưới dạng: - Các quy tắc, quy định về hoạt động của học sinh (những quy định trong học tập, trong lao động, hoạt động thể thao, vui chơi giải trí...). - Các quy tắc ứng xử của học sinh trong quan hệ với những người được tiếp xúc hàng ngày (ông, bà, cha, mẹ, thầy cô giáo, cán bộ công nhân viên trong nhà trường...). - Những quy định về hành vi đối với tập thể, với các tổ chức xã hội, cơ quan... Xác định những yêu cầu và biến nó thành những đòi hỏi đối với học sinh là công việc đầu tiên trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục cho các em. A. X. Macarenko đã nhấn mạnh: Nếu không nêu lên những đòi hỏi chân thành, công khai, thuyết phục, nồng nhiệt, cương quyết thì không thể bắt đầu tiến hành việc giáo dục tập thể được. Việc đầu tiên khi thực hiện phương. pháp này là xác định nội dung của những đòi hỏi sư phạm. Nội dung đòi hỏi cần xuất phát từ nhiệm vụ giáo dục, từ tình hình thực tiễn của nhà trường có tính đến đặc điểm và trình độ phát triển của người được giáo dục. Chúng phải mang tính cụ thể, rõ ràng, được cụ thể hóa thành các yêu cầu cụ thể và tỉ mỉ hơn để học sinh có thể nhận thức và hành động phù hợp với các yêu cầu đã đề ra. Những yêu cầu sư phạm phải chỉ rõ những việc cần phải làm, những việc nên làm, những việc cần phải tránh. Cũng không nên đặt ra các yêu cầu cao quá mức, ngược lại cũng không nên đưa ra những yêu cầu mà người học thực hiện quá dễ dàng, không đòi hỏi họ cố gắng vươn lên về mặt ý chí. Trọng tâm của đòi hỏi sư phạm là xây dựng được những bản nội quy, những quy định về nền nếp sinh hoạt, lao động, học tập, rèn luyện, tu dưỡng của học sinh. Khi đã đề ra được yêu cầu, cần thiết phải tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm biến yêu cầu thành đòi hỏi sư phạm đối với học sinh, làm cho học sinh biến các yêu cầu giáo dục của nhà sư phạm thành chính những yêu cầu của bản thân mình và quyết tâm thực hiện chúng. Công việc này đòi hỏi người giáo viên ngay từ đầu năm học phổ biến đến từng học sinh, tạo điều kiện cho các em và tập thể có thời gian học tập thảo luận kĩ về các quy chế, quy định, nội quy của nhà trường. Khuyến khích và hướng dẫn học sinh viết bản cam kết thi đua nghiêm túc thực hiện các quy chế, quy định và nội quy đó. Nhà giáo dục có thể giải thích và hướng dẫn những điều các em còn chưa rõ, giúp đỡ tập thể ra nghị quyết khẳng định sự quyết tâm trong việc thực hiện. Không nên đưa ra quá nhiều yêu cầu hoặc yêu cầu quá cao so với khả năng thực hiện của học sinh. Nhà trường cần tạo điều kiện về thời gian, về cơ sở vật chất để các em thực hiện các đòi hỏi sư phạm. Chẳng hạn, học sinh thực hiện yêu cầu không vứt rác bừa bãi sẽ tốt hơn nếu nhà trường bố trí chỗ đổ rác ở nơi thuận lợi cho các em. Việc thực hiện yêu cầu lớp học ngăn nắp, vệ sinh sẽ tốt hơn nếu có chỗ để nón, mũ, áo đi mưa, có ngăn bàn để cặp sách và đồ dùng học tập. Đòi hỏi sư phạm sẽ được thực hiện tốt hơn nếu nhà giáo dục phát huy được tính tích cực độc lập sáng tạo của tập thể và mỗi học sinh trong quá trình thực hiện những yêu cầu. Dư luận tập thể tích cực sẽ tạo nên áp lực thúc đẩy hoạt động của các thành viên. Nên đề cao vai trò tự quản của học sinh kết hợp với việc tăng cường các biện pháp kiểm tra đánh giá, kịp thời để phát hiện và uốn nắn các lệch lạc có thể xảy ra. b. Phương pháp lập thói quen Thói quen là những cử chỉ và hành động ổn định trở thành nhu cầu của con người, mà nếu nhu cầu đó không được thỏa mãn, con người cảm thấy khó chịu, bứt rứt, không yên. Thói quen là bản tính thứ hai của con người, nó làm cho hành động của cá nhân mang tính tự nhiên, ổn định, bền vững và đặc trưng cho mỗi cá nhân. Nhờ có kĩ xảo và thói quen mà hành vi của cá nhân mang tính tự nhiên, hành động mang tính dứt khoát, quả quyết. Có thói quen tốt phù hợp và những thói quen xấu không phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Cần xóa bỏ thói quen không phù hợp, hình thành những thói quen, hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội thể hiện trong mối quan hệ giữa học sinh với những người thân trong gia đình, với bạn bè, thầy cô giáo, thể hiện trong cuộc sống, lao động, học tập và vui chơi. Muốn có được thói quen, người được giáo dục không phải chỉ hình dung rõ nét các hành vi mang tính chuẩn mực dưới dạng khái quát, mà quan trọng hơn là phải trải qua một quá trình luyện tập hành vi đó theo những cách nhất định. Vì thế phương pháp tập thói quen là phương pháp giáo dục trong đó nhà giáo dục tổ chức cho học sinh lặp đi lặp lại có tổ chức, thường xuyên những hành động cử chỉ dưới dạng khác nhau trong các tình huống tương tự, làm cho hành động đó trở thành nhu cầu và thói quen tốt của học sinh. Để thực hiện phương pháp này nhà giáo dục cần thực hiện tốt các nội dung sau: - Xác định những thói quen cần phải cho học sinh, bởi vì trong thực tiễn giáo dục, học sinh tham gia vào nhiều hoạt động với các mối quan hệ khác nhau, nếu những hành động được tiến hành thường xuyên liên tục trong những điều kiện nhất định sẽ trở thành các thói quen. Thói quen cần hình thành cho học sinh phải là những hành vi có tính phổ biến, được cá nhân sử dụng thường xuyên hàng ngày trong hoạt động cũng như trong ứng xử với những người xung quanh. Những hình thái ứng xử mang tính khái quát, mềm dẻo, ổn định trong các tình huống ít thay đổi (ăn ở hợp vệ sinh, những ứng xử trong giao tiếp, trong học tập, lao động vui chơi...) nếu được luyện tập thường xuyên sẽ trở nên ổn định, vững chắc, đặc trưng cho cá nhân. - Cần làm cho học sinh nắm vững mẫu hành vi cần được hình thành. Nhà giáo dục cần giới thiệu cho các em những quy tắc hành vi ngắn gọn, rõ ràng dễ hiểu, trên cơ sở đó phân tích và làm rõ mẫu hành vi thói quen này. Chỉ cho học sinh thấy rõ những hành động và thao tác nào các em đã thực hiện được tốt, hoặc thực hiện còn khó khăn. Khi giải thích và hướng dẫn học sinh, nhà giáo dục có thể sử dụng tranh vẽ, băng hình, đưa ra các ví dụ cụ thể hoặc giáo viên làm mẫu cho học sinh quan sát và thực hiện theo mẫu. - Khi đã nắm được mẫu của hành vi, cần cho học sinh tiến hành luyện tập đều đặn và thường xuyên bằng cách đặt ra cho các các em những nhiệm vụ, những yêu cầu có ý nghĩa thực tiễn, gắn liền với việc giải quyết các nhiệm vụ cụ thể. Tuy nhiên, công việc này cần được duy trì thường xuyên, đòi hỏi việc thực hiện sinh hoạt phải theo chế độ và nền nếp nhất định. c. Phương pháp rèn luyện Phương pháp tập thói quen và phương pháp rèn luyện có điểm giống nhau là đều hình thành những hành vi thói quen của người được giáo dục thông qua hoạt động và bằng hoạt động nên giữa chúng chỉ có sự phân biệt tương đối. Phương pháp tập thói quen chú ý đến việc hình thành các hành vi thói quen còn phương pháp rèn luyện lại quan tâm nhiều đến các phẩm chất nhân cách và ý chí của người được giáo dục, quan tâm đến việc tổ chức cho người được giáo dục thể hiện ý thức, tình cảm của mình về các chuẩn mực xã hội trong các tình huống đa dạng của cuộc sống. Vì vậy, phương pháp tập thói quen thường được sử dụng trong những điều kiện ít thay đổi, còn phương pháp rèn luyện thường được sử dụng trong các tình huống ít nhiều có sự biến đổi khác nhau, làm cho người được giáo dục bộc lộ những phẩm chất, đòi hỏi ở họ có sự cố gắng mới thực hiện được.Chẳng hạn, muốn hình thành và củng cố tính kiên trì ở học sinh, cần thiết phải đặt các em vào những hoàn cảnh có vấn đề để các em phải khắc phục nhằm hoàn thành nhiệm vụ. Thực hiện hành vi ứng xử nhiều lần trong các điều kiện giống nhau nhằm hình thành thói quen, còn thực hiện hành động trong nhiều tình huống khác nhau với mức độ thuận lợi và khó khăn khác nhau nhằm hình thành ý chí khắc phục khó khăn là đặc điểm cơ bản của rèn luyện. Cũng như tập thói quen, phương pháp rèn luyện cũng phải yêu cầu người được giáo dục thực hiện nhiều lần những hành động phù hợp với các khuôn mẫu ứng xử. Các hành vi này không thực hiện một cách máy móc mà nó gắn liền với tình cảm, ý chí, nhu cầu và động cơ hoạt động của cá nhân trong những tình huống khác nhau của đời sống. Muốn thực hiện phương pháp này cần thực hiện tốt yêu cầu sau: Tổ chức các tình huống, các điều kiện để học sinh tham gia giải quyết chúng bằng các hành động tích cực, phù hợp với các chuẩn mực và đạo đức xã hội. Tình huống mà giáo viên lựa chọn có thể là các hoạt động gắn liền với thực tiễn cuộc sống như tham gia an toàn giao thông, giữ gìn vệ sinh môi trường, công tác đền ơn đáp nghĩa... Tùy theo phẩm chất cần giáo dục cho học sinh mà nhà giáo dục có thể lựa chọn các tình huống và hoạt động cho phù hợp. Chẳng hạn, muốn giáo dục tính kiên trì cần đưa người được giáo dục vào trong các hoạt động đòi hỏi phải có tính kiên trì. - Rèn luyện sẽ phát huy được hiệu quả khi người được giáo dục ý thức được nhiệm vụ của mình, tự mình đề ra các hoạt động, có kế hoạch và quyết tâm thực hiện chúng. Người giáo viên cần hướng dẫn học sinh và tập thể học sinh, đề ra những kế hoạch phù hợp, động viên khuyến khích các em quyết tâm thực hiện những kế hoạch đã vạch ra. 1 3. Nhóm các phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi ứng xử của người được giáo dục Nhóm phương pháp này có khả năng to lớn trong việc động viên học sinh phát huy mọi sức lực và tinh thần, thể chất, tình cảm và trí tuệ để đạt hiệu quả cao nhất trong học tập và rèn luyện. Đặc điểm cơ bản của nhóm phương pháp này là dựa trên kết quả hành vi mà đối tượng giáo dục đã thực hiện trước đây để phát huy tính tích cực của học sinh vào các hoạt động thực tiễn.Khuyến khích, động viên, lôi cuốn lòng nhiệt tình tham gia vào hoạt động mà học sinh đã đạt được những thành quả nhất định. Khắc phục, ngăn ngừa, uốn nắn hay trách phạt đối với những biểu hiện tiêu cực không được xã hội thừa nhận. Chức năng của nhóm phương pháp này là khuyến khích, củng cố, điều chỉnh hành vi của học sinh, tạo ra những tiền đề tâm lí thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ mới trên cơ sở những hoạt động trước đây ở các em. Những phương pháp có hiệu lực để khuyến khích, điều chỉnh và sửa chữa hành vi của học sinh là khen và chê, khuyến khích và trừng phạt. Khuyến khích, khen và thưởng là phương pháp để củng cố và kích thích những động cơ và hình thức hành vi đúng đắn. Trách phạt là phương pháp nhằm ức chế, kìm hãm và điều chỉnh hành vi không phù hợp với các chuẩn mực xã hội. a. Phương pháp khen thưởng Trong công tác giáo dục, khen thưởng có tác dụng củng cố và phát huy những phẩm chất tích cực trong nhân cách của học sinh cũng như những truyền thống tốt đẹp trong tập thể, giúp cho cá nhân và tập thể khẳng định được mình, phấn khởi vươn lên trong tu dưỡng và phấn đấu. Khen thưởng không những có tác dụng động viên người được khen mà còn thúc đẩy những học sinh khác noi theo và phấn đấu vươn lên. Khen thưởng góp phần quan trọng tạo nên động cơ thúc đẩy quá trình giáo dục đạt hiệu quả mong muốn vì nó đem lại cho cá nhân và tập thể sự an hoan, vui sướng, tự hào, tự tin; làm nảy sinh ý muốn và quyết tâm phấn đấu tốt hơn nữa. Tác dụng kích thích của khen thưởng là ở chỗ nó thể hiện sự công nhận của nhà giáo dục, của tập thể và xã hội đối với kiểu hành vi mà học sinh đã lựa chọn và thực hiện. Vì thế, khen thưởng cần có sự đồng tình, tán thưởng của dư luận tập thể mới có tác dụng tích cực đối với tập thể và cá nhân người được khen. Khen thưởng cần sử dụng đúng chỗ, công bằng, khách quan. Nếu khen thưởng không đúng (thiếu khách quan, quá dễ dãi..) thì khen thưởng sẽ biến thành mặt đối lập, gây ra thói kiêu ngạo, tự mãn, ích kỉ ở người được khen. Có nhiều hình thức và biện pháp khen thưởng, tùy theo đối tượng giáo dục mà có các hình thức và mức độ khen thưởng khác nhau. Có khi chỉ cần một cái nhìn đặc biệt, một cái gật đầu đồng tình, một nụ cười tán thưởng của nhà giáo dục trước một lời nói, một hành động đáng khen của học sinh cũng làm cho các em vui thích về những hành động đã thực hiện, kích thích lòng mong muốn được hành động như vậy. Nếu thành tích, ưu điểm của học sinh do có sự cố gắng thường xuyên và khắc phục nhiều khó khăn mới đạt được thì cần phải có những hình thức và biện pháp khen thưởng xứng đáng hơn. Việc khen thưởng trong trường hợp này không chỉ thể hiện ở sự đồng tình của giáo viên mà còn cần có sự đồng thuận của tập thể, sự công nhận của các cấp có thẩm quyền. Điều quan trọng là khen thưởng phải có tác dụng cổ vũ, động viên những thành viên trong tập thể mong muốn noi theo. b. Phương pháp trách phạt Trách phạt là phương pháp giáo dục thể hiện thái độ nghiêm khắc của nhà giáo dục đối với những hành vi sai trái của người được giáo dục, tạo cơ hội cho người được giáo dục nhận thấy lỗi lầm về hành vi sai trái của mình, hối hận và quyết tâm không tái phạm nữa. Tác dụng của trách phạt, của kỉ luật là làm nảy sinh ở học sinh tâm trạng xấu hổ, sự ân hận trước tập thể và nhà giáo dục về hành vi của mình. Để có tác dụng đó, trách phạt cần có sư đồng tình của tập thể. Sự trách phạt và thi hành kí luật phải gắn liền với việc làm cho học sinh tự ý thức được tác hại của những hành vi xấu. Chừng nào học sinh chưa hiểu, chưa nhận rõ sự sai trái của mình thì trách phạt cũng chưa phát huy được hết tác dụng đối với học sinh đó. Thái độ nghiêm khắc của nhà giáo dục và tập thể có vị trí đặc biệt quan trọng đối với phương pháp trách phạt. Sự không tán thành, phủ nhận, chê trách, lên án hay trừng phạt đối với những thái độ, hành vi trái với chuẩn mực xã hồi sẽ làm cho người mắc lỗi nhận ra khuyết điểm của mình, nhờ đó giúp họ thêm ý chí, nghị lực chống lại sự cám dỗ, ức chế những hành vi tương tự. Trách phạt cần mang tính giáo dục, đảm bảo sự công bằng, công khai và tôn trọng nhân cách của người được giáo dục. Khi trách phạt cần phải biết rõ tình huống phạm lỗi của học sinh, nhất là phải biết được động cơ phạm lỗi để từ đó lựa chọn nội dung và hình thức trách phạt cho phù hợp. Trong thực tiễn giáo dục, phương pháp trách phạt thường được thực hiện ở nhiều hình thức nhau tùy theo mức độ sai phạm về phẩm chất đạo đức, lối sống, hành vi ứng xử,… nhà giáo dục có thể đưa ra các hình thức từ nhẹ đến nặng như: nhắc nhở, phê bình, cảnh cáo, các hình thức kỉ luật như khắc phục những thiệt hại do hành vi sai trái gây ra, buộc thôi học... Tuy nhiên, việc lựa chọn những hình thức và mức độ trách phạt cần dựa trên các nguyên tắc giáo dục, đặc biệt là nguyên tắc tôn trọng và yêu cầu cao đối với người mắc khuyết điểm. Nguyên tắc này đòi hỏi tuyệt đối không đánh đập hay xúc phạm đến lòng tự trọng và nhân phẩm của người mắc lỗi, giữ được quan hệ thầy - trò, quan hệ cá nhân - tập thể tốt đẹp ngay cả trong trường hợp học sinh mắc sai lầm, khuyết điểm và bị thi hành kỉ luật. Sự trách phạt của tập thể và nhà giáo dục phải nghiêm khắc nhưng với thái độ chân thành, mong muốn giúp đỡ, giáo dục để học sinh sửa chữa những sai lầm, đồng thời trách phạt cũng cần phải khách quan, công bằng tạo được sự đồng tình của dư luận tập thể học sinh. III. LỰA CHỌN CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC Lựa chọn và sử dụng phương pháp giáo dục có hiệu quả vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật của nhà giáo dục, khi lựa chọn phương pháp giáo dục cần căn cứ vào những yếu tố sau: Khi lựa chọn một phương pháp giáo dục cần tính đến các mối quan hệ của nó với tất cả các phương pháp và biện pháp khác được sử dụng trước và sau đó, tính đến những phương tiện và các điều kiện tiến hành các hoạt động giáo dục bởi vì các phương pháp giáo dục có mối quan hệ mật thiết với nhau, tạo thành một tổng thể thống nhất hướng vào việc hình thành những phẩm chất nhân cách toàn diện cho học sinh. Sử dụng một phương pháp giáo dục sẽ làm cho quá trình giáo dục không toàn diện và ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của quá trình này. Thực hiện tốt một phương pháp này là điều kiện để thực hiện tốt một phương pháp tiếp theo và ngược lại. Không có một phương pháp nào lại được coi là tốt khi nó tách rời khỏi hệ thống các phương pháp giáo dục. Mỗi nhóm phương pháp và mỗi phương pháp giáo dục đều có chức năng và những ưu điểm, hạn chế nhất định trong việc tác động đến việc hình thành nhân cách. Không có phương pháp giáo dục nào được coi là tối ưu trong mọi trường hợp. Nhà giáo dục cần tính đến những điều kiện thực tiễn để lựa chọn và sử dụng phối hợp tất cả các phương pháp giáo dục một cách hợp lí. Phương pháp chịu sự quy định của mục tiêu và là phương tiện để thực hiện mục tiêu, do đó khi lựa chọn và sử dụng phương pháp cần căn cứ vào mục tiêu, nội dung giáo dục cụ thể. Chẳng hạn, nếu giáo dục ý thức nhân cách nên tập trung vào các phương pháp thuyết phục, giáo dục thói quen hành vi tập trung vào các phương pháp tổ chức hoạt động thực tiễn. Nội dung giáo dục cũng góp phần quy định phương pháp giáo dục. Việc giáo dục đạo đức khác với việc giáo dục thể dục vệ sinh và khác với giáo dục lao động hướng nghiệp... Vì thế, người giáo viên cần dựa vào các nội dung giáo dục mà xác định phương pháp giáo dục cho thích hợp. Việc lựa chọn và sử dụng phương pháp phụ thuộc chủ yếu vào nhà giáo dục, bởi lẽ họ là người quyết định sử dụng phương pháp giáo dục nào trong những tình huống cụ thể. Tuy nhiên, muốn sử dụng phương pháp có hiệu quả, nhà giáo dục cần căn cứ vào trình độ và khả năng thực hiện của nhà giáo dục và người được giáo dục. Muốn thành công trong lựa chọn và sử đụng phương pháp giáo đục, nhà giáo dục cần tính đến tất cả các yếu tố trên. CÂU HỎI ÔN TẬP, THẢO LUẬN 1. Định nghĩa phương pháp giáo dục. Mối quan hệ giữa phương pháp giáo dục với các thành tố khác của quá trình giáo dục? 2. Nêu những đặc điểm chính của phương pháp giáo dục trong nhà trường? 3. Phân tích những cơ sở của việc phân loại các phương pháp giáo dục? 4. Nêu những điểm chủ yếu của nhóm phương pháp thuyết phục? 5. Nêu những điểm chủ yếu của nhóm phương pháp tổ chức hoạt động thực tiễn hình thành hành vi thói quen? 6. Nêu những điểm chủ yếu của nhóm phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi ứng xử của người được giáo dục. 7. Hãy phân tích những yêu cầu khi thực hiện khen thưởng và trách phạt đối với học sinh. 8. Phân tích những cơ sở khoa học của việc lựa chọn và sử dụng những phương pháp giáo dục? 9. Tại sao trong quá trình giáo dục lại phải sử dụng phối hợp các phương pháp giáo dục? BÀI TẬP 1. Hãy xây dựng dàn ý nội dung cuộc đàm thoại với học sinh của bạn về một chủ đề giáo dục cụ thể (Chẳng hạn, vấn đề vệ sinh môi trường; đi học đúng giờ; giúp đỡ những người nghèo, người cô đơn, tàn tật. v.v...). 2. Hãy xây dựng dàn ý nội dung bài thuyết trình với học sinh lớp mình chủ nhiệm về chủ đề: vệ sinh môi trường. Chương 16: MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC Con người vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực thể xã hội. Cuộc sống của con người chịu sự chi phối bởi môi trường tự nhiên và xã hội mà con người sống trong đó. Gia đình, nhà trường, xã hội là ba môi trường liên kết, gắn bó chặt chẽ với nhau trong quá trình hình thành và phát triển của mỗi cá nhân. I. GIÁO DỤC GIA ĐÌNH 1. Ý nghĩa của giáo dục gia đình Gia đình là một đơn vị xã hội (nhóm nhỏ xã hội), hình thức tổ chức quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân, dựa trên hôn nhân và quan hệ huyết thống, tức là quan hệ giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em và những người thân khác cùng chung sống và có kinh tế chung (theo Từ điển triết học, NXB Văn hoá Thông tin, HN, 2002). Gia đình là môi trường cơ sở, đầu tiên có vị trí quan trọng và ý nghĩa lớn lao đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Đó là môi trường gắn bó trong suốt cuộc đời của mỗi một cá nhân. Gia đình là nơi tạo ra mối quan hệ gắn bó ruột thịt, huyết thống - một thứ tình cảm khó có thể chia cắt. Do đó, có phải trải qua bao biến động về mọi phương diện, con người vẫn luôn hướng về quê hương, gia đình. Cha mẹ là người thẩy giáo, là nhà sư phạm đầu tiên giáo dục cho con cái mình những phẩm chất nhân cách cơ bản (gốc) làm nền tảng cho quá trình phát triển toàn diện về đạo đức, trí lực, thể lực, thẩm mĩ, lao động theo các yêu cầu của xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi ngành giáo dục, trong đó có giáo dục gia đình đào tạo cho xã hội những công dân có phẩm chất chính trị, đạo đức, tri thức, kĩ năng thực hành nghề, khả năng thích ứng với những thay đổi về mặt công nghệ và quản lí, tài giỏi trong các lĩnh vực chuyên môn như: chính trị, kinh tế, quản lí, thể thao, văn hoá, v.v...; những lĩnh vực mà xã hội rất cần nhân tài Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nên số đông gia đình không thể trực tiếp giáo dục con cái phát triển về mọi mặt: tri thức, văn hoá, kĩ thuật, nghề nghiệp của xã hội hiện đại hoặc ngoại ngữ hay nghệ thuật v.v... Để thực hiện những điều đó đã có những cơ quan tổ chức chuyên môn. Song, giáo dục cho trẻ về mặt đạo đức, thói quen lao động chân tay và trí óc phù hợp với khả năng của mình để tồn tại và phát triển trong xã hội hiện đại thì các bậc cha mẹ giữ vai trò quan trọng. Nhà giáo dục kiệt xuất C Đ Usinxki đã khẳng định: "Lao động tự giác là liều thần dược của quá trình phát triển nhân cách". Đạo đức và lao động những phẩm chất cốt lõi của nhân cách. Người có đạo đức cũng là người yêu quý, tích cực lao động chân tay và trí óc, làm giàu một cách chân chính cho gia đình và cho xã hội. Giáo dục gia đình có những mặt mạnh, tích cực là mang tính xúc cảm cao, gắn bó với quan hệ ruột thịt, máu mủ nên có khả năng cảm hoá rất lớn. Giáo dục gia đình cũng mang tính cá biệt rõ rệt dựa trên cơ sở huyết thống, yêu thương sâu sắc, lâu dài, bền vững và cũng rất linh hoạt, thiết thực trên cơ sở nhu cầu hứng thú của cá nhân. Mặc dù vậy, giáo dục gia đình không thể thay thế hoàn toàn giáo dục của nhà trường. 2. Đặc điểm của giáo dục gia đình hiện nay Đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn bộ đời sống vật chất, tinh thần của gia đình. Quy mô gia đình nhỏ - ít thế hệ, ít nhân khẩu (gia đình hạt nhân) ngày càng phổ biến, tạo nên nếp sống năng động, linh hoạt so với gia đình truyền thống đông người nhiều thế hệ (tam, tứ đại đồng đường) sống chung với nhau trong một mái nhà. Ảnh hưởng của văn hoá ngoại lai và quy luật cạnh tranh cũng làm phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ những tệ nạn xã hội như tham nhũng, mại dâm, nghiện hút, bạo lực v.v... tạo ra những thách thức và những khó khăn trong việc lựa chọn các giá trị chân, thiện, mĩ trong giáo dục gia đình hiện nay. Các hiện tượng gây mất ổn định đối với đời sống gia đình như li hôn, có người nghiện hút, kinh doanh thua lỗ, phá sản, nợ nần, bị tù tội, bị lây nhiễm căn bệnh thế kỉ HIV... đang có nguy cơ gia tăng.. cũng gây khó khăn cho công tác giáo dục gia đình. Tình trạng thiếu việc làm, đời sống chênh lệch giữa nông thôn và thành thị khiến một bộ phận thanh thiếu niên ở nông thôn bỏ gia đình ra thành phố lang thang kiếm sống... cũng tạo nên những hoàn cảnh bất lợi khiến các em dễ sa vào các tệ nạn xã hội. Nền sản xuất công nghiệp làm cho mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình ngày càng lỏng lẻo. Nhiều bậc cha mẹ đã phải gửi con vào nhà trẻ từ lúc 3 hay 4 tháng tuổi; hình thức nội trú, bán trú ở lứa tuổi mầm non, tiểu học v.v... trở nên phổ biến. Thời gian tiếp xúc với con cái của các bậc cha mẹ ngày càng ít ỏi. Giáo dục gia đình chịu ảnh hưởng khá lớn của điều kiện kinh tế, tiện nghi, nếp sống văn hoá, nghề nghiệp... của cha mẹ. Đặc biệt là mối quan hệ gần gũi, gắn bó giữa cha mẹ và con cái. Nhờ thấu hiểu tính cách, sức khỏe của con cái mà các bậc cha mẹ tìm kiếm, lựa chọn được biện pháp phù hợp để giải quyết có hiệu quả các tình huống giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi đối với việc hình thành và phát triển những phẩm chất nhân cách tốt đẹp của trẻ. 3. Một số sai lầm thường gặp trong giáo dục gia đình Nhà văn, nhà giáo dục J. J. Rút-xô đã khẳng định: "trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại", tức trẻ em có một đời sống tâm lí đặc trưng thể hiện trong nhu cầu, hứng thú, suy nghĩ, hành vi của chúng. Do từng sống trong những môi trường, hoàn cảnh giáo dục đầu tiên khác biệt mà nhiều bậc cha mẹ thường có kì vọng truyền thụ, áp đặt kinh nghiệm, phương pháp giáo dục mà mình được hưởng cho con em, điều này là không hợp lí bởi lẽ mỗi thời đại đều có những phương thức giáo dục đặc thù. Cha mẹ cần tôn trọng quyền được làm trẻ em và những nhu cầu vật chất, tinh thần hợp lí của trẻ trong xã hội ngày nay. Chiều chuộng, yêu thương con là một bản tính tự nhiên của cha mẹ, là nguồn vui, hạnh phúc của gia đình. Nhưng không nên nuông chiều quá mức, tức là đáp ứng, thoả mãn mọi nhu cầu của trẻ dẫn đến việc hình thành những thói xấu như vị kỉ, ỷ lại, kiêu ngạo, đua đòi... Thường xuyên đánh mắng thô bạo sẽ làm cho quan hệ giữa bố mẹ và con cái không có sự gần gũi, tạo nên sự cách biệt vì sợ hãi. Trẻ em sẽ tránh những trận đánh mắng thô bạo khi biết mình phạm khuyết điểm bằng cách nói dối hoặc ngoan cố một cách có ý thức. Mặt khác, thường xuyên đánh mắng thô bạo làm cho trẻ bi quan, chán đời, muốn rời bỏ tổ ấm gia đình, thậm chí quyên sinh. A. X. Macarencô đã tổng kết: "Từ những đứa trẻ bị đánh đập, cấm đoán sẽ sinh ra con người bạc nhược, vô tích sự hoặc độc đoán, suốt đời sẽ trả thù cho tuổi thơ bị dồn nén của mình". Thả nổi tự do là sai lầm khá phổ biến đối với các bậc cha mẹ bận rộn với công việc, không còn thời gian quan tâm và giáo dục con cái, phó thác cho nhà trường hoặc người trông trẻ. Tác hại đầu tiên là không theo dõi được khả năng phát triển trí lực của con cái để có biện pháp chấn chỉnh kịp thời, dễ dẫn đến việc trẻ học yếu, từ đó chán học. Tác hại thứ hai là trẻ dễ có điều kiện nhiễm các thói quen xấu mà bố mẹ không biết để ngăn chặn kịp thời. Nóng lạnh thất thường, kì vọng quá cao thể hiện thái độ và cách cư xử của cha mẹ với con cái, lúc thì vỗ về chiều chuộng hết mức, lúc thì đánh mắng thô bạo tuỳ theo tâm trạng buồn vui của họ chứ không phải theo phương pháp giáo dục phù hợp với các tình huống cụ thể, vì vậy không đạt được kết quả mong muốn. Trong giáo dục gia đình, cha mẹ không nên đặt kì vọng quá cao vào con cái, mong muốn thúc bách chúng trở thành tài, có thu nhập cao... mà không tính đến năng lực thực sự của chúng. Kết quả là trẻ không đánh giá được mình, một bộ phận trẻ thất bại và mất niềm tin vào cha mẹ. 4. Một số nguyên tắc trong việc xây dựng môi trường giáo dục gia đình a. Tạo không khí gia đình êm ấm, hoà thuận Gia đình là môi trường sống đầu tiên, gần gửi, gắn bó suốt cuộc đời của mọi thành viên nên nó có ảnh hưởng vô cùng lớn lao, sâu sắc đến toàn bộ đời sống tâm lí, đạo đức, xu hướng phát triển v.v... của cá nhân. Không khí gia đình được hình thành và phát triển tuỳ thuộc vào quan hệ, uy tín của bố mẹ. Không khí gia đình êm ấm, hoà thuận sẽ tạo nên nếp sống trật tự, kỉ cương, mọi thành viên tôn trọng, quý mến, yêu thương, tin tưởng lẫn nhau. Môi trường giáo dục gia đình được thể hiện qua cách con người lao động, học tập, sinh hoạt v.v... b. Nghiêm khắc và khoan dung độ lượng Nghiêm khắc thể hiện trước hết bằng chính bản thân bố mẹ, bằng sự mẫu mực trong lời nói và việc làm với tư cách là người công dân chân chính, là người chủ gia đình; từ đó cha mẹ mới có thể nêu yêu cầu, đòi hỏi đối với mọi hành vi hoạt động của con cái. Khoan dung, độ lượng thể hiện sự tôn trọng, tin tưởng yêu thương của bố mẹ với con cái, không phải là quá dễ dãi, nuông chiều mặc trẻ tự do hành động. Nghiêm khắc kết hợp với khoan dung độ lượng sẽ giúp cho các bậc cha mẹ tìm được giải pháp phù hợp đối với các tình huống trong giáo dục gia đình. c. Thống nhất mục đích giáo dục theo mô hình lí tưởng xã hội Giáo dục trẻ ở trong gia đình chỉ đạt kết quả tốt đẹp nếu như tất cả mọi thành viên trong gia đình (ông bà, bố mẹ, người lớn v.v...) đều tác động theo định hướng thống nhất vào một mục đích chung nhằm hình thành và phát triển ở trẻ những phẩm chất, năng lực, thói quen, hành vi chuẩn mực của người công dân chân chính theo yêu cầu của xã hội. Trong quá trình phát triển nhân cách, đứa trẻ sẽ vô cùng khó khăn lựa chọn nếu như trong gia đình không có sự tác động thống nhất vào những yếu tố cơ bản, phù hợp với mô hình nhân cách mà xã hội đang yêu cầu d. Uy quyền của bố mẹ trong giáo dục gia đình Cơ sở chính để xây dựng uy quyền thật sự của bố mẹ chỉ có thể nằm ngay trong cuộc sống lao động, học tập, trong đạo đức vai trò, trách nhiệm của người công dân của họ làm cho con cái phải kính phục, học tập. Đối với con cái, uy quyền thực sự của bố mẹ có ý nghĩa to lớn, tích cực, bền vững đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách tốt đẹp của chúng. Còn các loại uy quyền giả tạo dựa vào sự đàn áp, mua chuộc, thuyết lí v.v. chỉ tạo ra sự đối phó, không đem lại kết quả bền vững, lâu dài. e. Tôn trọng nhân cách của trẻ Ngày nay các quốc gia trên thế giới đã kí Công ước quốc tế về Quyền trẻ em... Thực hiện "Quyền trẻ em" là thể hiện sự tôn trọng nhân cách của trẻ, coi trẻ như một công dân nhỏ tuổi trong xã hội văn minh. Do đó, giáo dục gia đình cũng cần tránh các phương pháp bạo lực như đánh đập, mắng mỏ, thoá mạ, cưỡng bức v.v... thủ tiêu những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng cần có do đặc điểm lứa tuổi của các em đòi hỏi. g. Tổ chức môi trường cho trẻ hoạt động Giáo dục gia đình sẽ không có ý nghĩa và tác dụng nếu chỉ tập trung vào các phương pháp giải thích, diễn giảng, đối thoại, đàm thoại, nêu gương v.v... điều quan trọng là các bậc cha mẹ phải tổ chức môi trường cho trẻ được hoạt động và giao lưu. Hoạt động - giao lưu là con đường cơ bản để hình thành và phát triển nhân cách. Theo một ý nghĩa nào đó, trong hoạt động đã có giao lưu, muốn giao lưu cần phải hoạt động. Các bậc cha mẹ nên tổ chức môi trường, không khí hoạt động lao động trong sinh hoạt hàng ngày của gia đình từ những hình thức đơn giản như quét dọn nhà cửa, chăm sóc vườn hoa, cây cảnh, chuẩn bị bữa ăn hằng ngày đến những hình thức lao động phức tạp hơn… Như hoạt động học tập, nghỉ ngơi, giải trí, thể dục thể thao v.v… Chính trong quá trình tham gia vào các hoạt động đó, cá nhân sẽ bộc lộ năng lực, ý chí, tình cảm, hứng thú, tính nết… Thông qua các mối quan hệ cá nhân tự nhận biết được những tồn tại nhược điểm để rèn luyện, học tập và ngày càng hoàn thiện bản thân hơn. Mọi hoạt động dù đơn giản nhưng các bậc cha mẹ cũng cần hướng dẫn cẩn thận, nêu rõ lợi ích trước mắt, lâu dài trong đời sống con người. Ở mức độ cao hơn các bậc cha mẹ nên và cần chú ý tổ chức môi trường giáo dục gia đình sao cho hợp lý nhằm đưa các em vào các hoạt động phát triển cả đức, trí, thể, mỹ, lao động… phù hợp với lứa tuổi II. GIÁO DỤC NHÀ TRƯỜNG Giáo dục nhà trường là hoạt động giáo dục trong các trường lớp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo mục đích, nội dung, phương pháp có chọn lọc trên cơ sở khoa học và thực tiễn nhất định. Giáo dục nhà trường được tiến hành có tổ chức, luôn luôn tác động trực tiếp và có hệ thống đến sự hình thành và phát triển toàn diện của nhân cách. Thông qua giáo dục nhà trường, mỗi cá nhân được bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, kiến thức khoa học, kỹ năng thực hành cần thiết, tương ứng với yêu cầu của các bậc học, cấp học phù hợp với trình độ phát triển của xã hội trong từng giai đoạn. So với gia đình, nhà trường là một môi trường giáo dục rộng lớn hơn, phong phú, hấp dẫn hơn đối với thế hệ trẻ. Trong nhà trường trẻ được giao lưu với bạn bè cùng lứa tuổi ở địa phương, cộng đồng, được tham gia vào nhiều hoạt động mang tính xã hội, giúp cho quá trình xã hội hoá cá nhân phong phú, toàn diện hơn. Nhà trường là một thiết chế xã hội chuyên biệt thực hiện chức năng cơ bản là tái sản xuất sức lao động, phát triển nhân cách theo hướng duy trì, phát triển xã hội. Nhà trường có chức năng hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ thông qua hoạt động dạy học, giáo dục. Tri thức trong nhà trường là những kinh nghiệm của nhân loại đã được chọn lọc và tích luỹ. Nhà trường là tổ chức chuyên biệt có chức năng truyền thụ toàn bộ kinh nghiệm lịch sử của nhân loại cho thế hệ trẻ phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi nhằm hình thành và phát triển mô hình nhân cách lí tưởng của xã hội đặt ra. Giáo dục nhà trường có sự thống nhất về mục đích, mục tiêu cụ thể, được thực hiện bởi đội ngũ các nhà sư phạm được đào tạo và bồi dưỡng chu đáo; tiến hành giáo dục theo một chương trình, nội dung, phương pháp sư phạm nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhân cách toàn diện, hướng tới sự thành đạt của con người. Ngày nay giáo dục nhà trường luôn gắn liền với môi trường sống và môi trường tự nhiên, với các cơ sở sản xuất nhằm phát huy nội lực, lôi cuốn sự tham gia của các lực lượng xã hội vào giáo dục học đường, mặt khác giúp cho nội dung giáo dục gắn với đời sống sản xuất xã hội. Nhà trường có chức năng chuyển giao văn hóa giúp cho mỗi học sinh hòa nhập với cộng đồng và trở thành tác nhân chuyển giao nền văn hóa cho thế hệ sau, nhằm duy trì bản sắc văn hóa của dân tộc. Ngày nay, mỗi cá nhân không chỉ tiếp thu tri thức từ nhà trường mà còn tiếp nhận thông tin qua các kênh như sách báo, mạng Internet... Giáo dục nhà trường phải kết hợp chặt chẽ với giáo dục gia đình và xã hội thì mới đạt được mục tiêu chung về giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ. Điều quan trọng nhất là phải có sự thống nhất về định hướng giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội. III. GIÁO DỤC XÃ HỘI Giáo dục xã hội là hoạt động của các tổ chức, các nhóm xã hội có chức năng giáo dục theo quy định của pháp luật hoặc các chương trình giáo dục trên các phương tiện thông tin đại chúng. Giáo dục xã hội tác động đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ thường qua hai hình thức tự phát và tự giác. Những ảnh hưởng tự phát bao gồm các yếu tố tích cực và tiêu cực của đời sống xã hội vô cùng phức tạp do cá nhân tự lựa chọn theo nhu cầu, hứng thú, trình độ tự giáo dục của mình. Những ảnh hưởng tự giác là những tổ hợp tác động trực tiếp hay gián tiếp có hướng đích, có nội dung, phương pháp bằng nhiều hình thức của các tổ chức, cơ quan, đoàn thể xã hội: như y tế, thể thao, nghệ thuật, Hội người cao tuổi, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội phụ nữ v v. đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Môi trường xã hội có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến cuộc sống của mọi cá nhân. Đối với thanh thiếu niên, học sinh thì tổ chức Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Đội Thiếu niên Tiền phong ở trong nhà trường và địa phương là tổ chức thu hút các em thường xuyên sinh hoạt nhằm thoả mãn các nhu cầu, hứng thú theo đặc điểm của lứa tuổi. Đó cũng là các tổ chức giúp các em hoạt động - giao lưu, vui chơi, giải trí nhằm thực hiện chức năng giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, nhân sinh quan cho thế hệ công dân tương lai theo yêu cầu phát triển của xã hội. Môi trường giáo dục xã hội hiện đại không còn hạn chế trong một địa phương hay trong một quốc gia mà đã mở rộng ra toàn thế giới nhờ các phương tiện thông tin. Trong môi trường xã hội, mỗi nhóm, mỗi tổ chức, mỗi quốc gia đều có những mục đích, yêu cầu, nội dung, phương thức tiến hành giáo dục riêng biệt.. Đây là vấn đề phức tạp của môi trường xã hội, nhà nước cần có những chủ trương, chính sách phù hợp nhằm tập hợp quản lí các chủ thể, phương tiện tham gia giáo dục xã hội hoạt động theo những định hướng lành mạnh, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam Giáo dục của xã hội phải kết hợp chặt chẽ với giáo dục gia đình và nhà trường, góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo con người theo định hướng của Đảng và Nhà nước. Để phát huy tính tích cực của giáo dục xã hội, các tổ chức, cơ quan đoàn thể xã hội trước hết phải thực hiện chức năng cơ bản, chủ yếu của mình, góp phần làm cho môi trường xã hội trong sạch, đời sống văn hoá vật chất, tinh thần phong phú, lành mạnh, hạn chế tác động tiêu cực đến đời sống của mỗi cá nhân, nhất là đối với thế hệ trẻ. IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHỐI HỢP GIÁO DỤC GIỮA CÁC MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC 1. Nội dung phối hợp Việc liên kết, phối hợp giữa môi trường giáo dục gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội nhằm thực hiện mục đích phát triển nhân cách công dân được coi là một nguyên tắc quan trọng. Việc liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục nhằm đảm bảo sự thống nhất về nhận thức cũng như cách thức hành động để hiện thực hoá mục tiêu quá trình phát triển nhân cách, tránh sự tách rời, mâu thuẫn, vô hiệu hoá lẫn nhau; gây nên tâm trạng nghi ngờ, hoang mang, dao động đối với cá nhân trong việc lựa chọn, tiếp thu các giá trị tốt đẹp. Gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội liên kết, phối hợp thống nhất mục đích, mục tiêu giáo dục thể hiện ở những nội dung cơ bản nhằm phát triển toàn diện các mặt đức, trí, thể mĩ, lao động v.v... mỗi môi trường đều có một ưu thế trong việc thực hiện các nội dung giáo dục. Gia đình có ưu thế đối với việc giáo dục định hướng nghề nghiệp, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, thói quen lao động chân tay, quan hệ ứng xử...; nhà trường có ưu thế trong việc giáo dục toàn diện, đặc biệt là tri thức văn hoá, các chuẩn mực đạo đức, ý thức công dân v.v... bằng các phương pháp, phương tiện hiện đại nhằm thúc đẩy nhanh quá trình phát triển nhân cách; các đoàn thể xã hội bằng các hình thức tổ chức hoạt động xã hội ngoài giờ lên lớp giúp các em mở rộng kiến thức, gắn tri thức với thực tiễn, chủ trương, chính sách chung của Nhà nước, của địa phương về các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Việc liên kết, phối hợp các môi trường giáo dục gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội diễn ra dưới nhiều hình thức. Vấn đề cơ bản, quan trọng hàng đầu là các lực lượng giáo dục đó phải phát huy tinh thần trách nhiệm, chủ động tìm ra các hình thức, giải pháp, tạo ra mối liên kết, phối hợp vì mục đích giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ thành những công dân hữu ích của đất nước. Do đó, không thể coi đây là trách nhiệm riêng của lực lượng nào. Tuy nhiên gia đình và nhà trường có trọng trách lớn hơn, bởi vì trẻ em là con cái của gia đình, là học sinh của nhà trường trước khi trở thành công dân xã hội. Liên kết, phối hợp giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội nhằm thực hiện những nội dung chủ yếu sau: - Thống nhất mục đích, kế hoạch chăm sóc, giáo dục học sinh của tập thể sư phạm nhà trường với phụ huynh, với các đoàn thể, cơ sở sản xuất, các cơ quan văn hoá - giáo dục ngoài nhà trường. - Theo dõi, đánh giá kết quả quá trình giáo dục học sinh trong nhà trường và ở địa phương nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả giáo dục. - Gia đình phải tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ cho trẻ em; người lớn có trách nhiệm giáo dục, làm gương cho con em, cùng nhà trường nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. - Đẩy mạnh sự nghiệp xã hội hoá giáo dục, tạo động lực mạnh mẽ cũng như điều kiện thuận lợi cho hệ thống nhà trường thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học. 2. Những yêu cầu để thực hiện tốt việc phối hợp a. Đối với gia đình - Hoạt động tích cực trong tổ chức hội phụ huynh nhà trường nhằm góp phần xây dựng cơ sở vật chất, tinh thần, thực hiện sự nghiệp xã hội hoá giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà trường nâng cao chất lượng giáo dưỡng và giáo dục. Những cuộc họp phụ huynh học sinh được tổ chức theo khối, theo lớp do giáo viên chủ nhiệm hoặc ban liên lạc phụ huynh tổ chức đầu năm học hoặc từng học kì v.v... yêu cầu các bậc cha mẹ cần đi đầy đủ để nắm vững mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp giáo dục học sinh, tạo sự thống nhất giữa nhà trường với gia đình. - Duy trì thường xuyên, đều đặn mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình bằng sổ liên lạc, phiếu đánh giá, điện thoại để gia đình biết được kết quả học tập, rèn luyện và những ưu - nhược điểm của con em mình. Ngược lại nhà trường cũng nắm bắt được tình hình học tập, sinh hoạt của học sinh ngoài giờ lên lớp. Tất cả những nhận xét, đánh giá về phía nhà trường cũng như gia đình cần chính xác, thận trọng, nhấn mạnh đến ưu điểm, tiến bộ là chủ yếu, không nên chỉ tập trung nhấn mạnh vào những nhược điểm, yếu kém. Nếu trẻ có những sai phạm nghiêm trọng thì các bậc cha mẹ và nhà trường cần gặp nhau trực tiếp nhằm tìm đúng nguyên nhân và các biện pháp giáo dục phù hợp. Cha mẹ không nên che giấu những nhược điểm của con cái trong học tập, sinh hoạt ở gia đình, địa phương đối với nhà trường, dẫn đến những hiện tượng một số em ở trường được khen thưởng là học sinh giỏi, tiên tiến nhưng ở địa phương và gia đình còn yếu kém về nhiều mặt. Gia đình cũng phát huy truyền thống "Tôn sư trọng đạo" bảo vệ uy tín, danh dự cho thầy cô giáo, tránh những lời nói, thái độ, hành vi coi thường thầy cô giáo trước mặt các em. - Vì mục đích giáo dục nên các bậc cha mẹ cần mạnh dạn thẳng thắn liên lạc, phối hợp với các cơ quan, đoàn thể, tổ chức ở mỗi phương, kể cả những cơ quan bảo vệ pháp luật như công an, chính quyền địa phương nếu thấy cần thiết để uốn nắn, ngăn chặn kịp thời những biểu hiện xấu, lệch lạc có thể phát triển đối với con em mình. b. Đối với nhà trường Cần phát huy vai trò trung tâm trong việc liên lạc, phối hợp giáo dục; nhà trường chủ động phổ biến nội dung, mục đích giáo dục đến các tổ chức xã hội của địa phương như Đoàn Thanh niên, hội Phụ nữ, v.v... nhằm định hướng tác động thống nhất đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Thực hiện vai trò là trung tâm văn hoá, giáo dục của địa phương, nhà trường cần tổ chức tuyên truyền, phổ biến các tri thức khoa học kĩ thuật, công nghệ, văn hoá, xã hội v.v... những kiến thức về phương pháp, biện pháp giáo dục, có hiệu quả, tránh được những sai lầm, lệch lạc đối với quá trình phát triển nhân cách của trẻ, đặc biệt trong cơ chế thị trường có không ít những tác động xấu ảnh hưởng đến thế hệ trẻ. Nhà trường cần phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức cho các em tham gia tích cực vào các hoạt động văn hoá, xã hội như: bảo vệ môi trường, đền ơn đáp nghĩa, bài trừ ma tuý, dân số - kế hoạch hoá gia đình v.v... nhằm góp phần cải tạo môi trường ngày càng tốt đẹp, lành mạnh đối với quá trình hình thành, phát triển nhân cách của trẻ. Giúp địa phương theo dõi, đánh giá kết quả của quá trình giáo dục thanh thiếu niên, phân tích nguyên nhân, đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của sự liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa các môi trường và khai thác vai trò, ưu thế đặc biệt của giáo dục gia đình. Xây dựng, củng cố hội phụ huynh học sinh, ban giáo dục địa phương tạo nên sức mạnh tổng hợp, đồng bộ, hướng vào mục tiêu giáo dục. Thế hệ trẻ một cách thường xuyên, có tổ chức, có kế hoạch. c. Với các tổ chức xã hội - Tiềm năng giáo dục của lực lượng xã hội như các cơ quan đoàn thể, các hội quần chúng, các cơ sở sản xuất, các đơn vị quân đội v.v... là vô cùng to lớn, được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực tư tưởng chính trị - đạo đức, khoa học - kĩ thuật, văn hoá - nghệ thuật, thể dục - thể thao, nghề nghiệp v.v... dưới hình thức kết nghĩa với nhà trường hoặc đỡ đầu nhà trường về xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật, hoặc giúp các lớp học sinh tham quan, học tập, giao lưu, tiếp xúc với việc thật, người thật điển hình, gương mẫu trong xã hội để hoàn thiện cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Nếu nhà trường dạy tốt mà gia đình ngược lại, sẽ có ảnh hưởng không tốt đến trẻ và kết quả cũng không tốt. Cho nên muốn giáo dục các cháu thành người tốt, nhà trường, gia đình, đoàn thể xã hội đều phải kết hợp chặt chẽ với nhau". Chính quyền các cấp động viên tất cả mọi lực lượng, mọi tầng lớp xây dựng thực hiện nếp sống văn minh, thực hiện các phong trào "ông bà cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo", "Gia đình văn hoá", xây dựng "Thôn xóm không có người nghiện hút" v. v... kiên quyết đẩy lùi, xoá bỏ các tàn dư lạc hậu, các nguyên nhân gây ra những tệ nạn xã hội. Người lớn cần gương mẫu trong mọi lĩnh vực của cuộc sống để thế hệ trẻ noi theo. CÂU HỎI ÔN TẬP, THẢO LUẬN 1 Phân tích những khó khăn, thuận lợi của giáo dục gia đình trong xã hội hiện nay. 2. Trình bày những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng môi trường giáo dục gia đình. 3. Vì sao việc phối hợp giáo dục giữa ba môi trường: gia đình, nhà trường và xã hội là một nguyên tắc quan trọng của nền giáo dục XHCN? 4. Nhà trường có thế mạnh gì so với giáo dục gia đình và ở những nội dung giáo dục nào? BÀI TẬP 1 Đánh giá hiện trạng vai trò, trách nhiệm của gia đình nói chung, gia đình bạn nói riêng trong sự liên kết, phối hợp với nhà trường hoặc đoàn thể xã hội trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục nhân cách học sinh. 2. Thông qua ý kiến nhận xét trong sổ lên lạc của cha mẹ về một học sinh chưa cố gắng thực hiện thời gian học tập ở nhà, bạn hãy chuẩn bị nội dung để trao đổi với gia đình. 3. Lựa chọn một tình huống trong cuốn "Giải pháp tình huống trong giáo dục gia đình", hãy bàn luận theo suy nghĩ của mình và đặt câu hỏi. Phần 4: QUẢN LÍ GIÁO DỤC TRONG NHÀ TRƯỜNG Chương 17: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÍ NHÀ TRƯỜNG I. QUẢN LÍ NHÀ TRƯỜNG 1. Khái niệm Theo nghĩa chung nhất: Quản lí là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lí lên đối tượng quản lí nhằm sử dụng có hiệu quả các tiềm lực, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đã đặt ra trong điều kiện biến đổi của môi trường. Quản lí trường học là hoạt động của các cơ quan quản lí giáo dục nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục khác huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường. Từ các định nghĩa trên ta có thể hiểu: - Quản lí là một hoạt động có mục tiêu, trong đó mục tiêu chất lượng. Nhà quản lí biết chính xác mục tiêu phải đạt được và tổ chức cho các cá nhân và tập thể dưới quyền thực hiện công việc đó một cách có chất lượng và hiệu quả. Ban Giám hiệu nắm vững mục tiêu năm học, huy động mọi tập thể và cá nhân thực hiện tốt mục tiêu đó. - Quản lí là tạo ra một môi trường thuận lợi để mọi cá nhân và tập thể hợp tác với nhau hoàn thành mục tiêu chung. Ban Giám hiệu tổ chức tốt các hoạt động của Hội đồng giáo dục, các tổ chuyên môn tạo thành một phong trào thi đua hoàn thành kế hoạch của năm học. - Quản lí là tận dụng mọi nguồn lực, mọi cơ hội để đạt được mục tiêu chất lượng. Ban Giám hiệu biết tận dụng các lực lượng giáo dục gia đình, nhà trường, xã hội, khai thác các nguồn lực: cơ sở vật chất, nguồn tài chính, lực lượng giáo viên... tập trung phấn đấu cho chất lượng giáo dục. 2. Mục đích của quản lí nhà trường Mục đích của quản lí nhà trường là nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, đưa nhà trường từ trạng thái hiện có tiến lên một trạng thái mới có chất lượng hơn. Mục đích cuối cùng của quản lí giáo dục là tổ chức quá trình giáo dục có hiệu quả để đào tạo một lớp thanh niên thông minh, sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống và phấn đấu vì hạnh phúc của bản thân và xã hội. Mục đích quản lí giáo dục còn là xây dựng và phát triển mạnh mẽ các nguồn lực giáo dục, hướng các nguồn lực đó phục vụ cho việc tăng cường hệ thống giáo dục và chất lượng giáo dục. 3. Nguyên tắc quản lí trường học Để đảm bảo sự thành công trong mọi hoạt động của nhà trường, công tác quản lí phải thực hiện các nguyên tắc sau đây: 1. Đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng đối với toàn bộ công tác giáo dục trong nhà trường về: chuyên môn, tư tưởng, chính trị, đạo đức, văn thể, lao động hướng nghiệp và giáo dục quốc phòng... 2. Đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo các công việc của nhà trường. Động viên và phối hợp với các tổ chức đoàn thể, các tập thể giáo viên, cán bộ công nhân viên cùng tham gia vào công tác quản lí nhà trường. Phát huy vai trò chủ động tích cực của các lực lượng giáo dục đối với sự nghiệp giáo dục. Đảm bảo sự đoàn kết nhất trí trong tập thể sư phạm. 3. Nguyên tắc quản lí quan trọng nhất là quản lí theo chất lượng. Mỗi trường học phải có sứ mệnh, mục tiêu và chính sách chất lượng, công bố các tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng, phải phấn đấu để đạt danh hiệu trường chuẩn quốc gia. 4. Đảm bảo nguyên tắc tính khoa học trong hoạt động quản lí, đó là áp dụng kĩ thuật quản lí gồm bốn khâu: kế hoạch hoá, thực hiện, kiểm tra và điều chỉnh. Mỗi công việc cần có mục tiêu cụ thể, được tổ chức thực hiện chu đáo, có kiểm tra uốn nắn, điều chỉnh kịp thời. 4. Các cấp quản lí nhà trường - Cấp quản lí nhà nước cao nhất đối với mọi nhà trường là Bộ Giáo dục và Đào tạo, bằng hệ thống các văn bản, các quy chế, chế tài tổ chức cho cả hệ thống giáo dục hoạt động có nền nếp và chất lượng. - Có hai cấp trung gian quản lí trường học là các sở giáo dục và đào tạo ở tỉnh và các phòng giáo dục và đào tạo ở các huyện. Các cấp quản lí này theo dõi các trường học theo kế hoạch năm học và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho các nhà trường hoạt động. - Cấp quản lí trực tiếp của hoạt động giáo dục trong nhà trường là Ban giám hiệu mà người đại diện trực tiếp là hiệu trưởng. 5. Các nguồn lực giáo dục Để thực hiện các hoạt động giáo dục nhà trường phải có đủ các nguồn lực và các nguồn lực được phát huy tác dụng ở mức tối đa. Nhân lực giáo dục: Là đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lí và nhân viên phục vụ của trường học. Đội ngũ này cần đủ về số lượng, mạnh mẽ về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu sẽ tạo nên chất lượng giáo dục trong nhà trường. + Bộ phận quan trọng nhất của nhân lực giáo dục chính là đội ngũ giáo viên, họ cần đạt chuẩn về đào tạo, có năng lực chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm, có phẩm chất tư cách đạo đức và một yêu cầu không kém phần quan trọng là đủ thành phần cơ cấu theo môn học. + Bộ phận thứ hai của nhân lực giáo dục là các nhân viên kĩ thuật phục vụ trong các phòng thí nghiệm, trung tâm công nghệ dạy học và công nghệ thông tin, tài chính, giáo vụ phục vụ cho hoạt động giảng dạy và học tập trong trường. + Bộ phận thứ ba là đội ngũ cán bộ quản lí nhà trường, là những người chịu trách nhiệm chính về tổ chức các hoạt động giáo dục và đảm bảo chất lượng giáo dục. Cơ sở vật chất và thiết bị trường học là điều kiện thiết yếu để tổ chức dạy và học. Phòng học đúng quy cách, môi trường phong quang, sạch sẽ, trang thiết bị hiện đại phục vụ cho việc học lí thuyết và thực hành tất cả các bộ môn, thư viện có đủ sách giáo khoa, báo chí và các tài liệu tham khảo... Cơ sở vật chất đầy đủ là một trường học lí tưởng. Ngân sách giáo dục là toàn bộ các nguồn thu, chi thoả mãn nhu cầu hoạt động thường xuyên của quá trình giáo dục và dạy học trong nhà trường. Ngân sách đầy đủ là một điều kiện thiết yếu cho giáo dục và đào tạo. Ngân sách giáo dục ở các trường công lập chủ yếu từ nguồn tài chính từ do Nhà nước cấp và một phần đóng góp của nhân dân. Ngân sách của các trường ngoài công lập chủ yếu là sự đóng góp của nhân dân theo các dịch vụ giáo dục. Các lực lượng giáo dục xã hội quan tâm đến sự nghiệp giáo dục có biện pháp chủ động phối hợp với nhà trường trong công tác giáo dục và dạy học, điều này mang một ý nghĩa quan trọng. Lực lượng giáo dục của xã hội thông nhất với nhà trường về mục tiêu nội dung và phương thức giáo dục, đó là điều kiện tối ưu để dạy tốt và học tốt. II. BỘ MÁY QUẢN LÍ TRƯỜNG PHỔ THÔNG 1. Ban Giám hiệu Ban Giám hiệu gồm từ một đến ba người. Hiệu trưởng là người phụ trách cao nhất của trường, chịu trách nhiệm trước Nhà nước, trước nhân dân và trước cấp trên trực tiếp về mọi hoạt động giáo dục của trường. Các Phó hiệu trưởng chịu trách nhiệm về phần công tác được phân công, đồng thời liên đới chịu trách nhiệm chung về các mặt công tác của trường 2. Các bộ phận chức năng Tổ chuyên môn: ở các trường phổ thông Trung học thường có các tổ chuyên môn: tổ Tự nhiên, tổ Xã hội, tổ Văn - Thể - Mĩ và Giáo dục chính tả... Trong các trường lớn, mỗi môn học có một tổ chuyên môn. Tổ chuyên môn là lực lượng lao động quan trọng nhất ở trường học, chịu trách nhiệm bảo đảm chất lượng bộ môn mình. Các bộ phận giúp việc cho công tác quản lí của Ban Giám hiệu: - Tổ giáo vụ, hành chính, quản trị, tài vụ. - Tổ giáo dục chính trị, văn thể. - Tổ giáo dục lao động và hướng nghiệp. - Tổ giáo viên chủ nhiệm lớp. Các hội đồng tư vấn: - Hội đồng sư phạm. - Hội đồng thi đua, khen thưởng, kỉ luật. - Hội cha mẹ học sinh. 3. Các đoàn thể Các đoàn thể trong trường phổ thông gồm: Chi bộ Đảng. Đoàn thanh niên Cộng sản và Công đoàn cơ sở, ban nữ công. + Chi bộ Đảng là tổ chức lãnh đạo toàn diện các công tác trong nhà trường. Bí thư chi bộ thường là một trong ba người trong Ban Giám hiệu. + Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với lực lượng là giáo viên và học sinh là tổ chức trợ thủ đắc lực của Đảng và Ban Giám hiệu, là lực lượng chủ yếu trong các phong trào hoạt động của nhà trường. + Công đoàn cơ sở tập hợp giáo viên thành một tổ chức để thực hiện chức năng bảo vệ quyền lợi của người lao động. Chi bộ Đảng, Đoàn Thanh niên, Công đoàn cơ sở và Ban Giám hiệu tạo thành bộ tứ lãnh đạo, tham gia lãnh đạo nhà trường. III. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC QUẢN LÍ NHÀ TRƯỜNG 1. Nội dung công tác quản tí trong nhà trường Công tác quản lí trong nhà trường bao gồm các nội dung sau đây: - Quản lí toàn bộ cơ sở vật chất và thiết bị nhà trường nhằm phục vụ tốt nhất cho việc giảng dạy, học tập và giáo dục học sinh. Quản lí tốt cơ sở vật chất nhà trường không đơn thuần chỉ là bảo quản tốt, mà phải phát huy tốt giá trị của chúng cho dạy học và giáo dục. Quản lí tốt còn làm sao để có thể thường xuyên bổ sung thêm những thiết bị mới, có giá trị sử dụng cao. - Quản lí tốt nguồn tài chính hiện có của nhà trường theo đúng nguyên tắc quản lí tài chính của Nhà nước và của ngành Giáo dục. Đồng thời biết động viên, thu hút các nguồn tài chính khác nhằm xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm thiết bị phục vụ các hoạt động giáo dục và dạy học. - Tổ chức đội ngũ các thầy giáo, cán bộ công nhân viên và tập thể học sinh thực hiện tốt các nhiệm vụ trong chương trình công tác của nhà trường. Động viên, giáo dục tập thể sư phạm thành một tập thể đoàn kết nhất trí, gương mẫu và hợp tác, tương trợ nhau trong mọi việc. Giáo dục học sinh phấn đấu học tập và tu dưỡng trở thành những công dân ưu tú. Quản lí con người là việc làm phức tạp, bao gồm các nội dung về nhân sự, tư tưởng tinh thần, chuyên môn, đào tạo bồi dưỡng, khen thưởng và đề bạt... Quản lí con người là một khoa học và một nghệ thuật. Chính đội ngũ giáo viên có chất lượng sẽ làm nên mọi thành quả của giáo dục. - Chỉ đạo tốt các hoạt động chuyên môn theo chương trình giáo dục của Bộ, của các cấp chỉ đạo. Thực hiện nghiêm túc chương trình năm học, phương pháp giáo dục luôn được cải tiến, từ đó chất lượng dạy học sẽ được nâng cao. Biện pháp quản lí chuyên môn là theo dõi sát sao mọi công việc, kiểm tra kịp thời để điều chỉnh, uốn nắn... Tổ chức tốt việc tự kiểm tra, giám sát của các bộ phận, các tổ chuyên môn là biện pháp quản lí tốt và có hiệu quả nhất. - Quản lí nhà trường là chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của tập thể nhà giáo và công nhân viên. Chỉ khi nào cuộc sống vật chất của giáo viên được đảm bảo, tinh thần phấn khởi vươn lên lúc đó mới có thể nói là quản lí tốt. Cần tạo thành một phong trào thi đua phấn đấu liên tục trong nhà trường thầy dạy tốt, trò học tốt, cả trường hướng tới một chất lượng giáo dục tốt. - Quản lí tốt việc học tập của học sinh theo quy chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Quản lí học sinh bao gồm cả quản lí thời gian và chất lượng học tập, quản lí tinh thần, thái độ và phương pháp học tập. Quản lí tốt việc học tập của học sinh là nội dung quản lí quan trọng. 2. Phương thức quản lí trường học Quản lí giáo dục là hoạt động mang tính khoa học, đối với mỗi nhà trường cần phải tìm ra một phương thức phù hợp. Quản lí nhà trường được thực hiện bằng các phương thức sau đây: a. Kế hoạch hoá hoạt động của nhà trường Kế hoạch hoá trong quản lí giáo dục về bản chất là xây dựng chương trình hành động của nhà trường theo năm học, nhằm đảm bảo thực hiện chất lượng giáo dục. Chương trình hành động này bao gồm các chi tiết: mục tiêu chất lượng, nội dung công tác, thời gian, biện pháp thực hiện và phân công người chịu trách nhiệm và dự kiến sản phẩm. Việc soạn thảo chương trình, kế hoạch hành động dựa vào tiềm lực của nhà trường và sự ủng hộ của địa phương nơi trường đóng. Xây dưng kế hoạch nhà trường thực chất là: - Dự báo mục tiêu chất lượng cần đạt tới. - Mô hình hoá nội dung công việc. - Lựa chọn các giải pháp tối ưu. - Phân công người thực hiện và thời gian hoàn thành. Nội dung của chương trình hành động của nhà trường gồm có: - Tổ chức lực lượng giáo dục, tăng cường chất lượng chuyên môn trong đội ngũ giáo viên và các bộ phận chức năng khác. Xây dựng khối đoàn kết nhất trí cao, tạo môi trường giáo dục thuận lợi cho việc dạy và học. - Xây dựng chương trình công tác giảng dạy và giáo dục học sinh với nội dung toàn diện: giáo dục đạo đức, giáo dục lao động và hướng nghiệp, các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao... Quan trọng nhất là chương trình chuyên môn của các tổ chuyên môn và các bộ phận công tác khác. Lưu tâm thích đáng đến hoạt động học tập của học sinh. Đây chính là trọng điểm của công tác tổ chức quản lí giáo dục trong nhà trường. Nhà trường cần có kế hoạch hoạt động cho học sinh một cách cụ thể theo từng thời điểm trong năm, đồng thời động viên tập thể học sinh tự tổ chức các hoạt động phù hợp với hứng thú của mình. Cần có một chương trình xây dựng và phát triển các cơ sở vật chất thiết bị trường học. Mỗi năm nhà trường cần có kế hoạch xây dựng bổ sung phòng học mới, mua sắm những thiết bị mới phù hợp với kế hoạch phát triển nhà trường. Nhà trường cần có kế hoạch phát triển tổng thể trong nhiều năm. - Cần có một kế hoạch thực hiện xã hội hoá giáo dục bằng nhiều biện pháp nhằm huy động tối đa khả năng của nhân dân, các tổ chức chính quyền và các cơ sở sản xuất ở địa phương chăm lo đóng góp xây dựng nhà trường. Cần xây dựng một kế hoạch tổng thể phát triển nhà trường phục vụ cho nhu cầu văn hoá xã hội của địa phương. b. Tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục - Phân công rõ ràng từng nội dung công việc đến từng người thực hiện. Sự phân công phải cụ thể: Nội dung công việc, thời gian hoàn thành, chất lượng sản phẩm. - Xác lập cơ cấu phối hợp với các bộ phận chức năng để công việc được tiến hành đồng bộ, toàn diện, đúng với tiến độ của kế hoạch chung. - Nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ chuyên môn bằng cách rút kinh nghiệm thường xuyên nghiên cứu áp dụng các kiến thức mới, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn... Tiếp nhận các nguồn bổ sung nhân sự, vật chất thiết bị, tài chính và các tài liệu thông tin khoa học mới phục vụ cho công tác giảng dạy và giáo dục học sinh. - Huy động toàn bộ lực lượng trong trường tích cực hoàn thành công việc đúng tiến độ và đảm bảo chất lượng. - Giám sát thực hiện công việc và điều chỉnh kịp thời những bất hợp lí, tháo gỡ khó khăn và những trở ngại trong quá trình thực hiện kế hoạch, uốn nắn kịp thời những lệch lạc theo đúng quỹ đạo của chương trình chung. c. Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch năm học Chức năng kiểm tra của cơ quan quản lí được thực hiện trong suốt năm học, theo từng giai đoạn và từng công việc. Kiểm tra giám sát chặt chẽ, sát sao tỉ mỉ về số lượng, chất lượng và tiến độ công việc để rút kinh nghiệm kịp thời, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Vệc kiểm tra thực hiện bao gồm. Kiểm tra đánh giá tình trạng ban đầu. - Kiểm tra đánh giá tiến độ công việc. Quan trọng nhất là kiểm tra đánh giá chất lượng các hoạt động giảng dạy của giáo viên và hoạt động học tập của học sinh. Đánh giá quản lí cả số lượng, chất lượng sản phẩm, nhưng quan trọng là các phương pháp thực hiện. - Phát hiện sai sót, lệch lạc; tìm nguyên nhân để điều chỉnh, uốn nắn kịp thời. - Tổng kết, rút kinh nghiệm theo học kì và cả năm học để có những bài học bổ ích cho việc kiểm tra ở các năm sau. Chức năng kiểm tra giám sát, thanh tra là những chức năng quan trọng của quản lí giáo dục. IV. NHÀ TRƯỜNG VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ VAI TRÒ CỦA HIỆU TRƯỜNG TRONG QUẢN LÍ NHÀ TRƯỜNG 1. Đặc điểm nhà trường hiện nay Sự nghiệp giáo dục ở nước ta trong hơn nửa thế kỉ qua đã phát triển và trưởng thành vượt bậc cả về số lượng và chất lượng, tạo ra một hệ thống giáo dục quốc dân hoàn chỉnh, có đủ tất cả các bậc học, từ bậc mầm non đến đại học và sau đại học. Nhà trường Việt Nam đã đào tạo hàng triệu thanh, thiếu niên trở thành những người lao động sáng tạo, tham gia vào quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước ta đang tiến hành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam cũng phải hiện đại hoá, tiến lên mạnh mẽ hơn nữa nhằm góp phần xây dựng một xã hội học tập, đưa nước ta tiến vào kỉ nguyên kinh tế từ thức. Nhà trường hiện đại Việt Nam có những đặc điểm sau: l) Nhà trường là một đơn vị giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân, được tổ chức chặt chẽ và thực hiện một chương trình, một kế hoạch giáo dục thống nhất trong cả nước. 2) Mục đích của nhà trường là giáo dục nhân cách toàn diện cho học sinh và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá xã hội, đặc biệt là sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 3) Mục tiêu trước mắt của giáo dục nước ta là phổ cập giáo dục Trung học cơ sở và tiến tới phổ cập giáo dục Trung học phổ thông, phát triển nhanh giáo dục nghề nghiệp để nhanh chóng đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực có kĩ thuật của nền kinh tế quốc dân. 4) Tính chất của nhà trường Việt Nam là khoa học, hiện đại, thống nhất, dân tộc và đại chúng. Giáo dục Việt Nam phấn đấu tiến kịp trình độ thế giới, mang bản sắc dân tộc và đáp ứng mọi nhu cầu học tập của nhân dân. 5) Nhà trường là một trung tâm văn hoá, khoa học kĩ thuật ở các địa phương, thu hút tất cả mọi đối tượng học sinh, đáp ứng mọi nhu cầu học tập của nhân dân địa phương. Nhà trường phải phát huy tác dụng của mình cho sự nghiệp phát triển văn hoá, khoa học, kĩ thuật ở địa phương. 6) Hệ thống giáo dục Việt Nam được tổ chức đa dạng với nhiều loại hình và phương thức đào tạo. - Thực hiện chính sách xã hội hoá giáo dục, Nhà nước chủ trương thu hút tất cả các lực lượng xã hội tham gia phát triển giáo dục và tạo điều kiện để nhân dân được học tập (giáo dục cho mọi người và giáo dục của mọi người). Trong hệ thống giáo dục hiện nay có các loại hình trường: trường công lập, trường dân lập, trường tư thục. Các trường ngoài công lập được quyền tự chủ quản lí về các phương diện: tài chính, cơ sở vật chất, nhân lực.... nhằm đảm bảo chất lượng giáo dục. Nhà nước chủ trương đa dạng hoá các phương thức đào tạo đặc biệt là ở bậc đại học, có các chế độ học tập khác nhau nhằm tạo điều kiện cho mọi người dân được học tập. Hiện nay ta có các hệ đào tạo: chính quy tập trung, chính quy không tập trung, chuyên tu, tại chức, đào tạo từ xa và bổ túc văn hoá... 7) Về phương thức tổ chức giáo dục: Nhà nước chủ trương phân luồng và phân hoá giáo dục phổ thông. Hiện nay đang thí điểm dạy học phân ban ở các trường phổ thông trung học: ban khoa học tự nhiên và ban khoa học xã hội và nhân văn. Mục tiêu phân ban là chuẩn bị tốt về kiến thức và kĩ năng cho học sinh để giúp các em chọn được một nghề theo năng lực, sở trường và hứng thú, tại các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, hoặc bước vào cuộc sống một cách tự tin. 8) Về nội dung giáo dục: Nhà nước đang tiến hành đổi mới nội dung, chương trình và sách giáo khoa. Thống nhất giữa dạy kiến thức văn hoá với dạy nghề - hướng nghiệp. Thống nhất giữa chương trình bắt buộc và chương trình tự chọn. Chuẩn bị cho một số lượng lớn học sinh vào các trường dạy nghề nhằm đào tạo nhân lực cho các vùng công nghiệp địa phương. 9) Nhà nước đang tổ chức các trung tâm giáo dục mạnh ở Trung ương và vùng miền, khu vực và các địa phương trong nước với hệ thống các trường đại học trọng điểm, trường đại học vùng, các trường phổ thông chuyên, các trường năng khiếu, các trường giáo dục đặc biệt. Đầu tư tập trung có trọng điểm, đồng bộ về tài chính, phương tiện thiết bị kĩ thuật, đội ngữ giáo viên để đảm bảo đào tạo chất lượng cao, làm cơ sở để phát triển các vùng miền, địa phương. 2. Vai trò người hiệu trưởng trong quản lí nhà trường Trong nhà trường, hiệu trưởng là con chim đầu đàn, vai trò của người hiệu trưởng vô cùng quan trọng. Ngày nay trong trào lưu đổi ngôi, cải tiến phương pháp quản lí và dân chủ hoá nhà trường, nhằm phát huy cao độ tính tích cực của đội ngũ giáo viên thì vai trò của người hiệu trưởng càng nổi bật lên hơn bao giờ hết. Người hiệu trưởng có các nhiệm vụ sau đây: 1. Tổ chức tất cả các hoạt động của nhà trường theo đúng quan điểm, đường lối chính sách của Đảng. Chịu trách nhiệm trước Nhà nước về công tác quản lí nhà trường và chất lượng giáo dục học sinh. 2. Đảm bảo cho bộ máy nhà trường hoạt động tích cực với sự sáng tạo cao, hoàn thành các nhiệm vụ của năm học. 3. Đảm bảo các điều kiện vật chất và tinh thần để tập thể giáo viên và học sinh hoàn thành các nhiệm vụ của mình với chất lượng cao. 4. Giữ vững khối đoàn kết nhất trí trong tập thể học sinh và giáo viên trong trường. Động viên, khen thưởng kịp thời những người đạt được thành tích tốt. 5. Luôn kiểm tra, giám sát, uốn nắn kịp thời những sai sót để điều chỉnh công việc chung. 6. Động viên, phối hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường vào mục đích giáo dục chung. Phẩm chất cần có của người hiệu trưởng: 1. Hiệu trưởng phải là giáo viên giỏi, nhà sư phạm tiêu biểu, có kinh nghiệm tổ chức, quản lí giáo dục, tốt nhất là được lựa chọn từ đội ngũ giáo viên trong trường. 2. Hiệu trưởng phải là nhà hoạt động xã hội, biết động viên, thu hút quần chúng vào sự nghiệp giáo dục. 3. Có khả năng lao động sáng tạo, ham mê nghiên cứu khoa học, luôn tìm tòi, cải tiến phương pháp giáo dục, giảng dạy và quản lí nhà trường. 4. Am hiểu pháp luật và đường lối giáo dục của Nhà nước, có nhãn quan giáo dục để vận dụng đúng đắn vào thực tiễn giáo dục chung. 5. Hiệu trưởng cần được bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lí giáo dục. CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN, THỰC HÀNH 1. Thế nào là quản lí trường học? Trình bày các nguyên tắc quản lí trường học. 2. Hãy trình bày những nội dung quản lí trong nhà trường. 3. Hãy phân tích các phương thức quản lí trường học. 4. Nêu và phân tích vai trò của tổ bộ môn, của các bộ phận chức năng tham mưu trong trường. 5. Nhận định, đánh giá và nêu các phương hướng hoạt động của các đoàn thể để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường. 6. Nêu vai trò và các phẩm chất cần có của người hiệu trưởng và phân tích vai trò của ban giám hiệu. BÀI TẬP 1. Tìm hiểu các phương pháp kiểm tra nội bộ của trường Trung học phổ thông mà anh (chị) đã thực tập. Chương 18: LAO ĐỘNG SƯ PHẠM CỦA GIÁO VIÊN VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG GIÁO DỤC I. LAO ĐỘNG SƯ PHẠM CỦA GIÁO VIÊN TRONG NHÀ TRƯỜNG 1. Nhiệm vụ của giáo viên trong nhà trường Trong Điều 70 của Luật Giáo dục, được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá XI, kì họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 có nêu "l. Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác; 2. Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau đây: Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt; đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ; lí lịch bản thân rõ ràng; 3. Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên; ở cơ sở đại học gọi là giảng viên." Giáo viên có những nhiệm vụ cụ thể như sau: * Giáo dục và giảng dạy - Giáo dục tư tưởng, đạo đức, xây dựng tập thể học sinh. Nhiệm vụ này được tiến hành thông qua giảng dạy bộ môn, công tác chủ nhiệm lớp, công tác phối hợp với cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội; - Giảng dạy lí thuyết, chữa bài tập, hướng dẫn thực hành; Soạn bài, chấm bài, làm đồ dùng giảng dạy, chuẩn bị thí nghiệm, tổ chức ngoại khoá, bồi dưỡng và phụ đạo học sinh; Coi thi, chấm thi (học kì, lên lớp, thi tuyển vào lớp đầu cấp thi tốt nghiệp); - Giáo dục lao động cho học sinh và cùng học sinh tham gia lao động sản xuất; - Đánh giá kết quả học tập của học sinh, đánh giá xếp loại học sinh, làm sổ điểm, phê học bạ; - Sinh hoạt chuyên môn: họp hội đồng giáo dục, họp tổ chuyên môn, dự giờ, rút kinh nghiệm giáo dục và giảng dạy học sinh. * Học tập và bồi dưỡng Tham dự các lớp bồi dưỡng tập trung, bồi dưỡng trong hè, trong năm học theo chương trình và kế hoạch của Bộ Giáo dục và Đào tạo Cá nhân có kế hoạch tự học, tự bồi dưỡng nhằm không ngừng nâng cao trình độ để đạt tiêu chuẩn theo quy định. * Tham gia công tác xã hội - Tham gia xây dựng đời sống tập thể của cán bộ, giáo viên trong nhà trường; - Tham gia công tác xã hội, công tác đoàn thể ở trong và ngoài nhà trường; - Tham gia các hoạt động của địa phương theo đúng chức năng của nhà trường; - Tham gia công tác bổ túc văn hoá; * Luyện tập quân sự Thực hiện theo quy định của Nhà nước đối với những người trong độ tuổi. 2. Đặc điểm lao động sư phạm của giáo viên * Mục đích của lao động sư phạm. Như chúng ta đã biết, mỗi loại hình lao động đều có đặc trưng riêng, nhờ đó mới có thể phân biệt giữa loại hình lao động này với loại hình lao động khác. Theo Điều 2 của Luật Giáo dục của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: "Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Đây chính là định hướng của nền giáo dục Việt Nam, vì vậy lao động sư phạm của giáo viên phải phục vụ mục tiêu đó. Lao động sư phạm của giáo viên là loại hình lao động có ý nghĩa như là một yếu tố xã hội góp phần "sáng tạo ra con người", mang tính "khai sáng" cho con người, từng bước cải biến con người tự nhiên thành con người xã hội, tạo dựng nên con người đáp ứng yêu cầu của thời đại. Sản phẩm của lao động đặc thù này cũng tạo ra những nét khác biệt. Đó là loại lao động sản xuất ra những nhân cách, sản xuất ra giá trị nhân bản với sự tổng hoà của các mối quan hệ xã hội. * Đối tượng của lao động sư phạm. Bất cứ loại hình lao động nào cũng có đối tượng tác động. Vậy lao động sư phạm của giáo viên có đối tượng tác động rất đặc biệt - đó là nhân cách của học sinh, dẫn dắt học sinh linh hội tri thức, phát triển trí tuệ, hình thành phẩm chất đạo đức. Giáo viên dùng trí tuệ và cả nhân cách của mình để tác động tới học sinh (người học), hay nói cách khác là dùng một nhân cách đã trưởng thành để tác động tới các nhân cách đang được rèn luyện từng bước trưởng thành. Đối tượng giáo dục là con người (người học) nên họ không thụ động mà trái lại có ý thức, có tính tích cực, chủ động, sáng tạo. Vì vậy, thành quả lao động sư phạm của giáo viên mang lại mà không chỉ phụ thuộc vào đạo đức, trí tuệ, trình độ nghề nghiệp, nghệ thuật sư phạm của mình mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như quan hệ thầy trò, khả năng nhận thức hành vi, cách ứng xử, giao tiếp, trạng thái tâm lí, hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh xã hội đặc biệt là nhân cách của học sinh. Theo K.Đ.Usinxki: "Muốn giáo dục con người về mọi phương diện thì trước hết phải hiểu con người về mọi phương diện". Như vậy muốn đạt được hiệu quả cao trong công tác giảng dạy, giáo viên phải nghiên cứu, nắm chắc các đặc điểm của đối tượng (học sinh), lựa chọn những tác động sư phạm mềm dẻo, uyển chuyển, thích hợp với từng đối tượng, phát huy vai trò chủ thể giáo dục của học sinh, vai trò chủ đạo của mình. * Công cụ lao động sư phạm Công cụ lao động sư phạm của giáo viên là hệ thống những tri thức, những kĩ năng, kĩ xảo cần truyền đạt và rèn luyện, những dạng hoạt động và giao lưu cần tổ chức cho học sinh. Giáo viên có công cụ lao động rất đặc biệt là trí tuệ, là phẩm chất của chính mình, Nhân cách của giáo viên như một công cụ lao động thật sự, nó sẽ phát huy tác dụng mạnh mẽ khi giáo viên có uy tín cao, tức là phẩm chất năng lực, đức và tài của giáo viên có sức thuyết phục lớn. Muốn như vậy, bản thân giáo viên phải có năng lực chọn lọc tri thức cơ bản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với mục tiêu của giáo dục, phải không ngừng tự nâng cao trình độ về nhiều mặt, hoàn thiện nhân cách, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ, độc lập, sáng tạo, đặc biệt phải luôn tìm tòi các phương pháp giảng dạy hiện đại, sử dụng thành thạo các phương tiện dạy học tiên tiến để truyền tải kiến thức cho học sinh với con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất. * Sản phẩm lao động của sư phạm Lao động sư phạm của giáo viên tạo ra sản phẩm đặc biệt, đó là nhân cách của học sinh, do đó nhân cách của học sinh (phẩm chất và năng lực) thể hiện chất lượng sản phẩm của lao động sư phạm. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin và xu thế toàn cầu hoá đòi hỏi giáo viên phải không ngừng bồi dưỡng, cập nhật tri thức, nâng cao trình độ để nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục. Giáo viên cần giáo dục và đào tạo học sinh trở thành người có tri thức, có đạo đức, có năng lực sáng tạo, biết hợp tác, biết ứng xử, hiểu biết pháp luật, thông lệ quốc tế... để góp phần xây dựng đất nước phồn vinh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. * Thời gian và không gian của lao động sư phạm Thời gian lao động sư phạm của giáo viên về mặt pháp lí là thời gian quy định trong các văn hạn của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đó chính là thời gian lao động bắt buộc tuỳ theo vào từng bậc học, cấp học. Vấn đề này thường được hiểu là quy định về số giờ giảng dạy và các công tác khác. Thời gian làm việc ngoài giờ quy định như: thời gian chuẩn bị bài giảng, chấm bài, tự bồi dưỡng nghiệp vụ, tham gia các công việc ngoài nhà trường và hoạt động xã hội. Không gian lao động sư phạm của người giáo viên tiến hành ở hai phạm vi là ở trong và ngoài nhà trường. Ở ngoài nhà trường thì rất đa dạng, phong phú như: Tổ chức thực tế, tham quan, tham gia các hoạt động xã hội hoặc đến thăm gia đình các học sinh. Đây là vấn đề cần được chú ý nghiên cứu để có chế độ chính sách thích hợp, tạo điều kiện cho giáo viên hoàn thành nhiệm vụ. 3. Những yêu cầu dối với giáo viên * Thế giới quan của giáo viên Như chúng ta đã biết, giáo dục có chức năng chính trị, sản phẩm của giáo dục và người tạo ra sản phẩm giáo dục phải phục vụ đường lối, quan điểm của nhà nước. Đối với nước ta, thể chế chính trị rất rõ ràng: Xây dựng nước Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa theo học thuyết Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, nền giáo dục Việt Nam phải được định hướng phát triển theo chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, giáo viên phải có phẩm chất chính trị và thế giới quan chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo niềm tin vào định hướng giáo dục của Đảng và Nhà nước. Người giáo viên phải hiểu biết thực tiễn của đất nước trong đó có giáo dục, nắm bắt được tình hình thế giới trong đó có cả lĩnh vực giáo dục của các nước để từ đó xây dựng hệ thống các quan điểm chỉ đạo, cách nhìn nhận vấn đề, cách suy nghĩ, cách hành động nhằm xây dựng lí tưởng nghề nghiệp để gắn bó cuộc đời mình với sự nghiệp giáo dục của đất nước. Đây là yếu tố rất cơ bản để giáo viên trở thành tấm gương cho học sinh noi theo. * Lòng yêu trẻ Đây là một phẩm chất đạo đức cao quý của con người và là một phẩm chất đặc trưng trong nhân cách của người thầy. Cố Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam - Lê Duẩn đã nói tại một hội nghị giáo dục: “Càng yêu người bao nhiêu càng yêu nghề bấy nhiêu”. Chính lòng yêu trẻ là một trong những nhân tố hướng người thanh niên nam, nữ vào nghề dạy học và giáo viên thành đạt một phần nhờ vào tình yêu trẻ. Lòng yêu trẻ ở đây được hiểu đó là lòng thương trẻ, gần gũi, ân cần, chân thật, khoan dung khi trẻ mắc lỗi, nhưng phải nghiêm nghị, công bằng và có yêu cầu cao với trẻ. Ngày nay, giáo viên phải tôn trọng nhân cách của trẻ, kết hợp với trẻ trong quá trình dạy và học nhằm đạt được mục tiêu đào tạo lớp trẻ thành con người có trí tuệ và nhân cách tốt để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tình cảm trong sáng, cao thượng của giáo viên sẽ tạo thêm sức mạnh cho lớp trẻ không ngại khó khăn, quyết tâm vươn lên trong mọi thử thách, chính là: “Tất cả vì học sinh thân yêu”. * Lòng yêu nghề nghiệp Trong bất cứ một xã hội nào, ở bất cứ thời đại nào, con người làm việc mà không có lòng yêu nghề thì không bao giờ có sự thành đạt, nghề dạy học cũng không nằm ngoài quy luật đó. Bởi vậy, mỗi giáo viên muốn thành đạt phải yêu nghề dạy học thực sự, vượt qua mọi khó khăn thử thách để thực hiện chức năng người "kĩ sư tâm hồn", không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn, hoàn thiện nhân cách để cống hiến cho sự nghiệp "trồng người". Ngoài những yếu tố nêu trên, giáo viên cần phải có một loạt các phẩm chất, năng lực khác như: năng lực sư phạm, năng lực nghiên cứu khoa học, năng lực giao tiếp, năng lực tổ chức, năng lực quản lí những vấn đề có liên quan đến nghề dạy học. Phải hình thành cho mình một số kĩ năng, kĩ xảo để tiến hành hoạt động sư phạm có hiệu quả cao. Đặc biệt, trong thời đại ngày nay, giáo viên phải có ăn thức về ngoại ngữ, tin học... có kĩ năng sử dụng các thiết bị hiện đại phục vụ công tác giảng dạy. Qua khảo sát, nghiên cứu cũng như thực tiễn giáo dục, ta có thể thấy có rất nhiều kĩ năng giáo viên phải có, nhưng tập trung vào hai hệ thống: hệ thống kĩ năng cơ bản và hệ thống kê năng chuyên biệt. Hệ thống những kĩ năng cơ bản bao gồm: - Nhóm kĩ năng thiết kế. Những kĩ năng của nhóm này giúp giáo viên nhìn thấy trước và lập các kế hoạch, nội dung, hình thức, phương pháp, phương thức tiến hành các hoạt động của chính mình cũng như của học sinh; dự kiến các tình huống có thể xảy ra, nhất là những hành vi bột phát và dự liệu giải pháp để xử lí nếu những tình huống đó xảy ra. Làm được như vậy, giáo viên luôn giữ vai trò chủ đạo trong quá trình giáo dục. - Nhóm kĩ năng tổ chức: Khi đã thiết kế, lập được kế hoạch dạy học - giáo dục, giáo viên phải biết cách tổ chức thực hiện một cách tốt nhất để đạt được kết quả như mong muốn. - Nhóm kĩ năng giao tiếp: Đây là một tiền đề rất quan trọng để thành công trong dạy học - giáo dục. Do đối tượng là học sinh - ở lứa tuổi hiếu động, chưa nhận thức đầy đủ hành vi của mình, mỗi học sinh lại có nhân cách khác nhau nên khi tiếp xúc phải có nghệ thuật lôi cuốn, lời nói phải dễ hiểu, có sức truyền cảm, phải linh hoạt xử lí các tình huống, không "dập khuôn" vì cùng một sự việc xảy ra, cách giải quyết đối với học sinh này có chút khác biệt đối với học sinh khác... - Nhóm kĩ năng nhận thức: Những kĩ năng này giúp giáo viên biết nghiên cứu hoạt động của mình và hoạt động của học sinh để tìm ra cách thực hiện có hiệu quả nhất. Vì cuộc sống luôn biến đổi nên phải thường xuyên suy nghĩ, tìm tòi để ngày càng hoàn thiện vốn tri thức của mình. Hệ thống các kĩ năng chuyên biệt bao gồm: - Nhóm kĩ năng giảng dạy: Đây là kĩ năng đặc trưng trong lao động sư phạm của giáo viên. Thành công và uy tín của người giáo viên thường thông qua giảng dạy, còn các kĩ năng khác chỉ có chức năng bổ trợ... Muốn vậy, giáo viên phải có kĩ năng lựa chọn và vận dụng nội dung dạy học, các phương pháp dạy học, các hình thức tổ chức dạy học thuộc phạm vi môn học; soạn bài giảng, tổ chức các dạng hoạt động học tập cũng như hoạt động độc lập của học sinh, đặc biệt phải lấy học sinh làm trung tâm trong hoạt động dạy học. Ngoài ra còn có kĩ năng giúp đỡ học sinh kém, bồi dưỡng học sinh giỏi sử dụng thành thạo các phương tiện dạy học, nhất là các phương tiện dạy học hiện đại: Máy tính, máy chiếu, thiết bị nghe nhìn... phân tích, đánh giá, rút kinh nghiệm các hoạt động dạy học, kiểm tra đánh giá tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mà học sinh nắm được thông qua các hoạt động dạy học - giáo dục. - Nhóm kĩ năng giáo dục: Bao gồm các kĩ năng xác định mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục theo quy định của Luật Giáo dục, những nhiệm vụ cụ thể giáo dục học sinh, tổ chức, phối hợp các lực lượng giáo dục: nhà trường, các tổ chức xã hội, đặc biệt là tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội khuyến học... để giáo dục học sinh nói chung, học sinh cá biệt nói riêng về lao động, hướng nghiệp. Giáo viên phải biết lựa chọn và vận dụng các phương pháp, hình thức cho phù hợp với đối tượng giáo dục. Tuỳ theo hoàn cảnh, yêu cầu, sau mỗi thời gian hoặc kết thúc chuyên đề cần phải tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả rèn luyện, tu dưỡng của học sinh. - Nhóm kĩ năng nghiên cứu khoa học: Ngày nay, khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ trong đó có khoa học giáo dục. Vì vậy, mỗi giáo viên phải biết lựa chọn đề tài cần nghiên cứu để phục vụ nghề nghiệp của mình. Muốn làm được điều đó, người giáo viên phải biết xây dựng đề cương nghiên cứu, lựa chọn phương pháp, thu thập và xử lí dữ liệu, biết cách viết, trình bày một cách khoa học. Muốn hoàn thành công trình nghiên cứu khoa học, không thể thiếu vai trò của cố vấn khoa học cũng như sự giúp đỡ của đồng nghiệp... nhất là nghiên cứu những đề tài khó, phức tạp, những vấn đề khoa học giáo dục đang xem xét, nhận thức mới, bổ sung cho phù hợp với thời đại ngày nay. - Nhóm kĩ năng hoạt động xã hội: Nhà trường là một tổ chức có tư cách pháp nhân, giáo viên, học sinh là thành viên của xã hội, cho nên bản thân giáo viên phải có khả năng tham gia các hoạt động xã hội, nhất là các hoạt động có liên quan đến giáo dục. Phải biết tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động xã hội vô cùng phong phú như: xây dựng nếp sống văn hoá, giữ gìn môi trường "xanh, sạch, đẹp", phong trào ủng hộ người nghèo, nạn nhân chiến tranh, nạn nhân bị thiên tai, hiến máu nhân đạo... Đó là cách tốt nhất để gắn nhà trường với xã hội. Như V. I. Lê nên đã từng nói: "Chúng ta không tin vào dạy học, giáo dục, giáo dưỡng nếu hoạt động đó chỉ bó khung ở trong nhà trường, nó tách biệt khỏi cuộc sống sôi động...". - Nhóm kĩ năng tự học: Giáo viên ngày nay khác với giáo viên những thế hệ trước, bởi vì lượng kiến thức tăng rất nhanh ở nhiều lĩnh vực, xã hội có nhiều biến động, do đó việc tự học được đặt ra một cách cấp bách. Ngày nay, khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, nhiều ngành khoa học mới hình thành, giáo dục học cũng có nhiều công trình nghiên cứu mới, phương pháp dạy học cũng được đổi mới, nội dung, chương trình được biên soạn lại, đưa thêm nhiều kiến thức hiện đại để giảng dạy... Vì vậy, giáo viên phải tổ chức tự học những vấn đề có liên quan đến chuyên môn, đến nghề dạy học. Đặc biệt, vấn đề toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đòi hỏi người giáo viên phải biết sử dụng máy tính và các phương tiện dạy học hiện đại. Muốn đạt kết quả, người giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp, vấn đề cần tự học để nâng cao trình độ của mình. 3. Những lời khuyên đối với giáo viên trẻ mới vào nghề Đặc điểm của giáo viên trẻ mới vào nghề Giáo viên mới tốt nghiệp các trường sư phạm là những người trẻ tuổi, nhiệt tình với nhiều hoài bão trong tương lai nhưng con đường nghề nghiệp đang chờ họ cũng không ít những khó khăn, thách thức, bỡ ngỡ. Nếu không có sự giúp đỡ của nhà trường, đặc biệt là Hội đồng nhà trường thì việc nâng cao trình độ bị hạn chế, làm giảm ý chí phấn đấu và con đường vươn lên trong sự nghiệp bị kéo dài, thậm chí dẫn tới tình trạng chán nghề hoặc bỏ nghề. Giáo viên trẻ được đào tạo tại các trường Cao đẳng, Đại học được trang bị các kiến thức về chuyên ngành, cách ứng xử giao tiếp..., nhưng để có trình độ nghệ thuật sư phạm thì phải qua thực tiễn trong nhà trường, trong môi trường sống động với trẻ e m. Trong thực tế, giáo viên mới tốt nghiệp có người sẽ làm việc tại các trường phổ thông với điều kiện thuận lợi (tập thể sư phạm mạnh, có đội ngũ giáo viên nhiều kinh nghiệm, ở cạnh các thư viện lớn, các trường đại học...), hoặc học sinh có điều kiện tốt (phần lớn bố mẹ học sinh đã được đào tạo, thậm chí có trình độ nhất định); có người về các vùng xa, vùng khó khăn, với những yêu cầu đòi hỏi khác, có khi phải dạy 2-3 môn học hoặc dạy các lớp khác nhau. Với các điều kiện như vậy, giáo viên cần phải quan tâm tới cái chung, cái riêng, cái đặc thù của từng địa phương. Những khó khăn thường gặp trong công tác của giáo viên mới vào nghề * Khó khăn trong việc nắm vững các tài liệu phục vụ công tác giảng dạy; * Phương pháp giảng dạy, điều khiển tổ chức lớp; * Giáo dục đạo đức đối với những học sinh cá biệt * Chủ trì, tiến hành các cuộc hội họp, thảo luận, tổ chức hoạt động. Những lời khuyên đối với việc giáo viên trẻ mới vào nghề * Biết lắng nghe các lời khuyên thực tế. * Làm quen với truyền thống của nhà trường, những nét đặc trưng về công tác giảng dạy, học tập, giáo dục đạo đức. * Chủ động tìm hiểu về nhà trường, lớp học, phòng học, các trang thiết bị, các cơ sở vật chất khác của nhà trường. * Cần học hỏi về những phương pháp, phương thức thành công trong giảng dạy của một số giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm có kinh nghiệm của trường. * Học hỏi kinh nghiệm về cách thức soạn bài, ghi sổ nhật ký, sổ điểm và ghi chép các tài liệu cần thiết phục vụ công tác giảng dạy và học tập, đặc biệt là khâu chuẩn bị cho bài giảng, tổ chức quá trình học tập cho học sinh và các hoạt động khác (tiến hành giờ sinh hoạt lớp, tổ chức trực nhật, phân công trách nhiệm cho học sinh v.v...). * Cần nhận thức được những việc nên làm, việc nên tránh. Thành công của giáo viên trẻ, ngoài khả năng giảng dạy và công tác giáo dục khác còn thường phụ thuộc vào những việc nhỏ như: quần áo, giọng nói, nét mặt, phong cách... nếu như không phù hợp với môi trường sư phạm sẽ dẫn tới có những lời nhận xét, bình phẩm không có lợi. II. HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC 1. Các hoạt động giáo dục Theo Điều lệ Trường trung học, các hoạt động giáo dục trong trường trung học bao gồm: - Hoạt động giáo dục trên lớp được tiến hành thông qua việc dạy học các môn học bắt buộc và tự chọn theo quy định trong chương trình giáo dục trung học cơ sở, trung học phổ thông do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. - Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp do nhà trường phối hợp với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường tổ chức, bao gồm hoạt động ngoại khoá về khoa học, văn học, nghệ thuật, thể dục, thể thao nhằm phát triển năng lực toàn diện của học sinh và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu; các hoạt động vui chơi, tham quan, du lịch, giao lưu văn hoá; các hoạt động giáo dục môi trường; các hoạt động lao động công ích; các hoạt động xã hội; các hoạt động từ thiện phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh. Hoạt động giáo dục trên lớp và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là hai bộ phận hữu cơ hợp thành một thể thống nhất trong quá trình giáo dục học sinh nhằm đạt được mục tiêu giáo dục ở trường trung học. Hệ thống sổ sách theo dõi các hoạt động giáo dục trong trường bao gồm: - Đối với nhà trường: sổ đăng bộ; sổ gọi tên và ghi điểm; sổ ghi đầu bài; học bạ học sinh; sổ quản lí cấp phát văn bằng chứng chỉ; sổ theo dõi phổ cập giáo dục (khi tiến hành phổ cập giáo dục); sổ nghị quyết của nhà trường; sổ kiểm tra đánh giá giáo viên về công tác chuyên môn; sổ khen thưởng kỉ luật học sinh; sổ lưu trữ các văn bản, công văn; sổ quản lí tài sản, sổ quản lí tài chính. - Đối với giáo viên: bài soạn, sổ dự giờ thăm lớp, sổ chủ nhiệm (đối với giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp, sổ công tác). 2. Hội đồng giáo dục Hội đồng giáo dục ở trường trung học là tổ chức tư vấn cho hiệu trưởng trong việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường, do hiệu trưởng thành lập vào đầu mỗi năm học. Thành viên của hội đồng giáo dục (theo điều lệ trường trung học) bao gồm: Hiệu trưởng là chủ tịch, các Phó hiệu trưởng, bí thư chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ tịch Công đoàn giáo dục nhà trường, bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, các tổ trưởng chuyên môn, một số giáo viên có kinh nghiệm và trưởng ban đại diện cha mẹ học sinh của trường. Khi cần thiết, hiệu trưởng có thể mời đại diện chính quyền và đoàn thể địa phương tham dự các cuộc họp của hội đồng giáo dục. Hội đồng giáo dục họp ít nhất mỗi học kì một lần. Nhiệm vụ của hội đồng giáo dục Hội đồng giáo dục ở trường trung học có nhiệm vụ tư vấn cho hiệu trưởng trong việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường như: - Tư vấn về tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo chương trình giáo dục trung học do Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành. - Tư vấn về việc tiếp nhận học sinh, vận động học sinh bỏ học đến trường, thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục trong phạm vi cộng đồng theo quy định của nhà nước. - Tư vấn về việc quản lí giáo viên, nhân viên và học sinh. - Tư vấn về việc quản lí, sử dụng đất đai, trường sở trang thiết bị và tài chính theo quy định của pháp luật. - Tư vấn việc phối hợp với gia đình học sinh, với các tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện các hoạt động giáo dục. - Tư vấn về việc tổ chức cho giáo viên, nhân viên và học sinh tham gia các hoạt động xã hội trong cộng đồng. Nội dung hoạt động của hội đồng giáo dục Hội đồng giáo dục cần hoạt động để phát huy được vai trò, chức năng là giúp hiệu trưởng quản lí, điều hành thực hiện nhiệm vụ năm học đạt kết quả tốt. Trong trường phổ thông hiện đại, hội đồng trường cần có các hình thức hoạt động có hiệu quả để thực hiện tốt nhiệm vụ năm học. Hoạt động của Hội đồng giáo dục chủ yếu tập trung vào các mặt chính: - Kế hoạch năm học của nhà trường, xem xét các kết quả đạt được của nhà trường trong từng học kì, nửa học kì, kế hoạch chuẩn bị và tiến hành tổ chức thi, học sinh tốt nghiệp ra trường; chuyển lớp cho học sinh học lớp tiếp theo; kế hoạch năm học, kế hoạch nghỉ hè đối với học sinh... - Nghiên cứu và thảo luận các chỉ thị của các cơ quan lãnh đạo cấp trên và các kết quả nghiên cứu khoa học, kinh nghiệm tiên tiến với mục đích phân tích, áp dụng vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Có thể chia ra thành một số giai đoạn trong việc chuẩn bị và tiến hành hoạt động của Hội đồng giáo dục. - Lập kế hoạch của Hội đồng giáo dục trong cả năm; - Chuẩn bị sơ bộ hoạt động cụ thể của Hội đồng giáo dục; - Thực hiện các công việc của Hội đồng giáo dục. Thông thường, một số kì họp của Hội đồng diễn ra vào các thời điểm: đầu năm học, đầu học kì và cuối năm học. Trong cuộc họp, hội đồng cần thảo luận những vấn đề lớn, quan trọng, những vấn đề có tính nguyên tắc, những chỉ thị, nghị quyết, những vấn đề đặc biệt của nhà trường theo các mục tiêu như: dạy học, giáo dục, công tác tổ chức lao động sư phạm, nhanh chóng khắc phục những tồn tại, yếu kém. Thông thường, hàng năm tập thể sư phạm nhà trường chọn một hoặc một vài vấn đề xác định có tính định hướng cho hoạt động. Hội đồng giáo dục có thể đặt kế hoạch hoạt động cụ thể cho từng thời kì. Tuỳ theo yêu cầu của nhà trường, các cuộc họp có thể đề cập tới các chủ đề nhất định. * Các chủ đề thảo luận của Hội đồng giáo dục: - Kế hoạch công tác của trường cả năm học; Những nhiệm vụ cơ bản của nhà trường; - Trao đổi kinh nghiệm công tác; Công tác thể dục thể thao trong trường (báo cáo và thảo luận); Công tác phối hợp nhà trường và gia đình về giáo dục đạo đức; Vấn đề giáo dục những học sinh cá biệt. - Mối quan hệ qua lại giữa giáo viên và học sinh, báo cáo trên cơ sở phân tích công tác của nhà trường; Chuẩn bị thi và nghỉ hè cho học sinh, nêu kế hoạch biện pháp thực hiện... Hội đồng giáo dục có thể chọn chủ đề với các khía cạnh khác nhau của hoạt động dạy học, đổi mới phương pháp dạy học... giáo dục, áp dụng kinh nghiệm tiên tiến v.v... Chủ đề dựa trên tài liệu cụ thể, điều kiện, cơ sở vật chất đội ngữ giáo viên của nhà trường. Về mặt lí luận cũng như thực tế đã chứng minh rằng: Hội đồng giáo dục trường nếu có nội dung hoạt động cụ thể theo điều lệ, có kế hoạch hoạt động chi tiết, giải quyết những vấn đề cần thiết mà nhà trường đặt ra một cách có hiệu quả thì chắc chắn sẽ phát huy được vai trò, chức năng giúp Hiệu trưởng tổ chức thực hiện tốt kế hoạch năm học. Hiệu trưởng phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để Hội đồng làm đúng chức năng, nhiệm vụ đã quy định. CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN 1. Phân tích những đặc điểm lao động sư phạm của giáo viên. 2. Trình bày những yêu cầu đặt ra cho giáo viên trong thời đại ngày nay. 3. Nhiệm vụ và nội dụng hoạt động của Hội đồng giáo dục ở trường Trung học. BÀI TẬP 1. Tìm hiểu các biện pháp của nhà trường - nơi anh (chị) thực tập đã sử dụng để giúp đỡ giáo viên mới vào nghề. 2. Viết một bản thu hoạch sau khi tìm hiểu về nội dung hoạt động của Hội đồng giáo dục ở một trường - nơi anh (chị) thực tập. Chương 19: CÔNG TÁC CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG I. VAI TRÒ, CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP 1. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông Trong nhà trường phổ thông, lớp học là đơn vị hành chính cơ bản, một tế bào hữu cơ của hệ thống nhà trường. Mỗi lớp học gồm một số lượng học sinh ổn định, có lứa tuổi và trình độ nhận thức tương đương, cùng nhau tiến hành các hoạt động học tập, lao động, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, vui chơi, giải trí... Các hoạt động giáo dục và dạy học của nhà trường chủ yếu diễn ra theo đơn vị lớp học. Vì thế, sự trưởng thành của lớp học gắn liền với sự trưởng thành và phát triển của mỗi thành viên trong lớp học và những thành tích của nhà trường. Xây dựng tập thể lớp vững mạnh là nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường phổ thông. Do tầm quan trọng của lớp học đối với sự hình thành nhân cách học sinh, các trường phổ thông đều cử ra một giáo viên chủ nhiệm - người chịu trách nhiệm quản lí và giáo dục, người điều khiển và phối hợp mọi hoạt động của các thành viên trong lớp cũng như tổ chức mối quan hệ giữa lớp học với nhà trường, với gia đình và xã hội. Trong nhà trường phổ thông, giáo viên chủ nhiệm lớp là người thay mặt hiệu trưởng, được hiệu trưởng cử ra làm công tác quản lí và giáo dục học sinh trong một lớp học cụ thể và chịu trách nhiệm về chất lượng giáo dục toàn diện của học sinh trong tập thể đó. Có thể nói, người giáo viên chủ nhiệm lớp là cầu nối, người giữ mối liên lạc thường xuyên giữa các lực lượng giáo dục trong nhà trường, giữa giáo dục nhà trường với gia đình và các tổ chức xã hội khác. Giáo viên chủ nhiệm là người góp phần quyết định sự thành công hay thất bại trong công tác giáo dục của nhà trường nên những giáo viên có kinh nghiệm, có uy tín, được các em quý trọng thường được cử làm giáo viên chủ nhiệm lớp. Mỗi giáo viên chủ nhiệm tiếp nhận quản lí một lớp học trong khoảng thời gian nhất định (thường là một năm học cũng có khi là cả một khóa học). Giáo viên chủ nhiệm là người có vị trí đặc biệt quan trọng trong công tác quản lí giáo dục của nhà trường. Công việc quản lí và giáo dục học sinh của giáo viên chủ nhiệm được thể hiện trong quản lí hồ sơ, sổ điểm, học bạ; quản lí tình hình lớp học và các phương tiện dạy học trong lớp đó; quản lí và giáo dục tập thể học sinh, theo dõi những biến chuyển trong tâm tư, nguyện vọng và tình cảm của mỗi học sinh, phát huy những tiềm năng và giáo dục các em trở thành những chủ nhân của đất nước theo hướng phát triển toàn diện. Giáo viên chủ nhiệm lớp là người thay mặt và đại diện cho quyền lợi chính đáng của tập thể học sinh, thay mặt tập thể học sinh để giải quyết một số vấn đề có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ hợp lí của các em. Giáo viên chủ nhiệm cũng là người phản ánh với hiệu trưởng, với giáo viên bộ môn, với các lực lượng giáo dục trong và ngoài trường những nguyện vọng chính đáng của các em để các lực lượng giáo dục này có cách giải quyết phù hợp. Giáo viên chủ nhiệm là người đại diện cho tập thể lớp trong các cuộc họp bàn về quyền lợi và trách nhiệm của tập thể học sinh. Giáo viên chủ nhiệm lớp đại diện cho lớp đề nghị khen thưởng hay kỉ luật học sinh thuộc lớp mình phụ trách. Họ cũng có quyền biểu quyết trong hội đồng khen thưởng và hội đồng kỉ luật khi các hội đồng này giải quyết các vấn đề có liên quan trực tiếp đến học sinh lớp mình đảm nhận. Giáo viên chủ nhiệm lớp là người tổ chức, phối hợp và thống nhất các lực lượng và tác động giáo dục tới tập thể học sinh. Chính giáo viên chủ nhiệm là người tạo ra sự thống nhất giữa các tác động giáo dục trong nhà trường, giữa các giáo viên bộ môn đến tập thể học sinh; sự thống nhất tác động giáo dục của các đoàn thể, các tổ chức xã hội và gia đình trong công tác quản lí và giáo dục học sinh. Tóm lại, giáo viên chủ nhiệm lớp là người vừa thay mặt hiệu trưởng, thay mặt nhà trường để quản lí và giáo dục toàn diện học sinh; là cầu nối giữa các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường với tập thể học sinh; đồng thời lại là người đại diện cho quyền lợi và nghĩa vụ của tập thể học sinh. 2. Chức năng của giáo viên chủ nhiệm lớp a. Quản lí toàn diện hoạt động của học sinh trong một lớp học Lớp học là một đơn vị cơ bản trong hệ thống giáo dục của nhà trường, nơi diễn ra các hoạt động dạy học và giáo dục toàn diện đối với mỗi học sinh trong lớp. Xét về mặt quyền lực hành chính, giáo viên chủ nhiệm là người thay mặt hiệu trưởng chịu trách nhiệm quản lí toàn diện học sinh lớp mình phụ trách. Chức năng quản lí đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm lớp phải tiến hành công việc vừa mang tính hành chính vừa mang tính khoa học. nghệ thuật. Công tác quản lí của giáo viên chủ nhiệm phải thống nhất với công tác quản lí các các khối lớp khác trong nhà trường, chịu sự chỉ đạo của nhà trường và mang tính hệ thống, kế hoạch cao. Để thực hiện chức năng quản lí có hiệu quả, giáo viên chủ nhiệm cần nắm vững mục tiêu giáo dục của lớp học, bậc học và cấp học, hiểu đầy đủ kế hoạch, chương trình dạy học và giáo dục. Đặc biệt, cần phải dựa trên các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc xây dựng kế hoạch, tổ chức, triển khai các hoạt động giáo dục trong lớp học sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn của lớp mình phụ trách. Chức năng quản lí cũng đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm lớp phải nắm vững đầy đủ nghị quyết, sự chỉ đạo của hiệu trưởng nhà trường đối với lớp học, phổ biến và triển khai đến các thành viên trong lớp và ngược lại, phản ánh những tâm tư nguyện vọng, những diễn biến về tư tưởng tình cảm của học sinh đến lãnh đạo nhà trường. Nắm vững các thông tin sẽ giúp cho giáo viên chủ nhiệm tiến hành quản lí hoạt động của học sinh có hiệu quả. b. Xây dựng tập thể và giáo dục toàn diện học sinh trong lớp Giáo viên chủ nhiệm cần tập hợp được học sinh thành một tập thể tự quản, biết đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, phấn đấu thực hiện mục tiêu chung, giúp mỗi học sinh có ý thức và năng lực tham gia vào quá trình giáo dục thành viên khác và giáo dục chính mình. Muốn làm được việc đó, giáo viên chủ nhiệm lớp cần quan tâm đến việc xây dựng lớp học thành tập thể tự quản. Một tập thể tự quản là tập thể có đội ngũ cán bộ lớp cán bộ Đoàn Đội gương mẫu, có năng lực và nhiệt tình trong công tác; tạo ra sự đoàn kết, nhất trí giữa các thành viên trong lớp, có dư luận tiến bộ lành mạnh, hướng về lẽ phải, biết bảo vệ những giá trị chân, thiện, mĩ, biết lên án những thói hư, tật xấu, những lối sống không lành mạnh; là tập thể có khả năng đề ra được mục tiêu phấn đấu và biến chúng thành các kế hoạch và hoạt động cụ thể. Xây dựng tập thể gắn liền với việc giáo dục toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thẩm mĩ và thể chất cho học sinh trong tập thể. Khắc phục tình trạng học kém, lưu ban và chậm tiến về mặt đạo đức trong tập thể. Hình thành và phát triển những phẩm chất và năng lực của con người mới, đáp ứng yêu cầu của mục đích giáo dục. Trong quá trình xây dựng tập thể và giáo dục toàn diện cho học sinh, giáo viên chủ nhiệm tham gia với tư cách là người hướng dẫn, điều khiển các hoạt động của tập thể và các thành viên trong tập thể. c. Phối hợp và thống nhất các tác động để giáo dục học sinh lớp mình chủ nhiệm Nhân cách được hình thành không chỉ trong lớp học mà diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, trong từng khu phố, thôn xóm và gia đình. Trách nhiệm giáo dục toàn diện học sinh trong lớp đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải chủ động phối hợp và thống nhất các yêu cầu và các tác động giáo dục trong gia đình, nhà trường và xã hội. Giáo viên chủ nhiệm lớp là người có vai trò chính, là cầu nối trong sự phối hợp và thống nhất về yêu cầu và tác động giáo dục trong nội bộ nhà trường, giữa nhà trường với gia đình và giữa nhà trường với các tổ chức xã hội. Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên liên lạc với các giáo viên bộ môn để nắm tình hình chung của lớp, cùng với họ đề ra các yêu cầu và thống nhất thực hiện các yêu cầu đó với tập thể học sinh. Thực tế cho thấy, nếu không có sự phối hợp chặt chẽ với các giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm không thể hoàn thành tốt các chức năng giáo dục của mình. Giáo viên chủ nhiệm là người thay mặt cho hiệu trưởng nhà trường liên kết và phối hợp với các lực lượng giáo dục ở địa phương, các tổ chức chính trị xã hội để phối hợp và thống nhất trong công tác giáo dục học sinh. Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, cần lôi cuốn mọi tầng lớp và các tổ chức xã hội tham gia vào công tác giáo dục. Công tác giáo dục chỉ có thể thành công khi giáo viên chủ nhiệm biết tập hợp, khai thác và phối hợp các sức mạnh giáo dục của tập thể cán bộ công nhân viên trong trường, các lực lượng giáo dục xã hội và gia đình học sinh. Giáo viên chủ nhiệm là người chuyển tải những chủ trương, chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước đến các tổ chức xã hội và đến cha mẹ học sinh, góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm giáo dục thế hệ trẻ. d. Kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục toàn diện của học sinh lớp mình chủ nhiệm Để tiến hành các hoạt động giáo dục, giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên cập nhật những thông tin về học sinh, tiến hành kiểm tra và đánh giá sự phấn đấu toàn diện của mỗi học sinh và tập thể lớp. Nếu giáo viên nắm được những đặc điểm cơ bản về tâm lí, tư tưởng, chính trị đạo đức và các mối quan hệ của học sinh với tập thể và những người xung quanh... thì sẽ thấy được mặt mạnh và yếu của học sinh và tập thể, qua đó có nội dung và phương pháp giáo dục phù hợp. Theo sát từng bước phát triển của mỗi học sinh và tập thể lớp, phát hiện ra những yếu tố tích cực và hạn chế của mỗi học sinh sẽ giúp cho giáo viên chủ nhiệm nâng cao vai trò tự quản của tập thể học sinh. Là người quản lí, giáo dục và chịu trách nhiệm về tập thể học sinh trước hiệu trưởng, giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá tình hình học sinh để báo cáo cho hiệu trưởng và hội đồng giáo dục của nhà trường về kết quả tu dưỡng, rèn luyện của học sinh. Để đưa ra được những nhận định và đánh giá đúng mức, khách quan, giáo viên chủ nhiệm cần có sự liên kết các giáo viên bộ môn, tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ quản lí lớp..., tham khảo ý kiến của họ. Việc thu thập thông tin phải được cập nhật thường xuyên, ghi chép cẩn thận và nên sử dụng nhiều phương pháp và từ các nguồn khác nhau để thu thập thông tin. Khi tiến hành đánh giá học sinh, giáo viên chủ nhiệm cần đảm bảo tính khách quan, công bằng, công khai. Đánh giá học sinh cần dựa vào những tiêu chuẩn nhất định. Những tiêu chuẩn này phổ biến đến từng học sinh, giúp học sinh biết cách tự đánh giá và hoàn thiện bản thân. Thống nhất đánh giá của giáo viên chủ nhiệm và của tập thể lớp cũng như tự đánh giá của học sinh. 3. Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm lớp Theo Điều lệ Nhà trường phổ thông, giáo viên chủ nhiệm lớp có những nhiệm vụ sáu: - Tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt để có biện pháp tổ chức việc giáo dục sát với từng đối tượng nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp. Đảm bảo việc theo dõi và uốn nắn các hành vi của học sinh trong và ngoài lớp học, nhằm thực hiện tốt các quy định giáo dục của nhà trường. - Cùng với các giáo viên khác và cán bộ Đoàn, Đội phối hợp, thống nhất các biện pháp và kế hoạch giảng dạy và giáo dục của lớp. Điều hòa các hoạt động hàng ngày của học sinh trong lớp học giúp đỡ và tạo điều kiện thực hiện hợp lí các hoạt động học tập, lao động, vui chơi, giải trí. Đảm bảo sự học tập chuyên cần của học sinh, phát hiện kịp thời những học sinh đi học muốn và bỏ giờ, bỏ tiết. Đảm bảo và tạo điều kiện cho học sinh tham gia các hoạt động dạy học và giáo dục theo đúng nội quy, quy chế của nhà trường. - Cùng với các giáo viên khác và cán bộ Đoàn, Đội xây dựng lớp thành một tập thể vững mạnh, giúp đỡ và tạo điều kiện cho Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh của lớp hoạt động, phát huy ý thức tự chủ, tính tự giác và chủ động của học sinh trong các hoạt động giáo dục. - Phối hợp chặt chẽ với gia đình trong công tác giáo dục học sinh. Nhiệm vụ cơ bản của việc phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với gia đình học sinh là cùng nhau làm tốt công tác giáo dục toàn diện học sinh. Thường xuyên thông báo tình hình học tập và tu dưỡng của học sinh về gia đình, thống nhất với gia đình về các biện pháp quản lí giáo dục học sinh. - Phối hợp với các giáo viên khác, với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, với gia đình học sinh tổ chức, nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh vào cuối học kì và cuối năm theo nội dung và tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đề nghị khen thưởng học sinh, đề nghị danh sách học sinh được lên lớp hay phải ở lại... Giáo viên chủ nhiệm phải báo cáo thường xuyên và định kì với Hiệu trưởng về tình hình mọi mặt của lớp. Khi có thay đổi giáo viên chủ nhiệm lớp hoặc học sinh chuyển lên lớp trên thì giáo viên chủ nhiệm cũ phải bàn giao cụ thể tình hình mọi mặt của lớp cho giáo viên chủ nhiệm mới. II. GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP VỚI VIỆC XÂY DỰNG TẬP THỂ HỌC SINH Do vị trí và chức năng của mình, nội dung và phương pháp công tác của giáo viên chủ nhiệm có liên quan đến toàn bộ các hoạt động quản lí và giáo dục học sinh trong lớp học. Các công việc với gia đình học sinh, các tổ chức chính trị xã hội và các giáo viên khác đều nhằm mục tiêu giáo dục học sinh trong một lớp học cụ thể. Chương này sẽ tập trung vào công tác quản lí và giáo dục đối với tập thể học sinh. 1. Tập thể học sinh trong nhà trường a. Chức năng của tập thể học sinh Trong nhà trường phổ thông, lớp học là đơn vị hành chính cơ bản, một tế bào hữu cơ của hệ thống nhà trường. Các hoạt động quản lí giáo dục của giáo viên chủ nhiệm chủ yếu diễn ra theo đơn vị lớp học. Tập thể học sinh vừa là khách thể chịu sự tác động sư phạm của giáo viên vừa là chủ thể có ảnh hưởng tích cực đến các thành viên khác trong lớp học. Tác động của tập thể đến các thành viên của lớp học thông qua chức năng tổ chức quản lí, giáo dục và động viên của tập thể. Với chức năng tổ chức và quản lí, tập thể tập hợp các thành viên có cùng mục đích, lí tưởng, cùng tham gia thực hiện các hoạt động chung của tập thể có hiệu quả. Với chức năng giáo dục, tập thể góp phần chuyển hóa các quy tắc, các chuẩn mực xã hội về đạo đức, lao động, thể chất, thẩm mĩ thành thói quen hành vi văn hóa của học sinh. Tập thể còn có tác dụng kích thích động viên tính tích cực của các thành viên, điều chỉnh những hành vi ứng xử của học sinh qua dư luận tập thể. Xây dựng tập thể vững mạnh, lấy tập thể học sinh để quản lí và giáo dục học sinh là nhiệm vụ trọng tâm của mỗi giáo viên chủ nhiệm. Công tác quản lí và giáo dục toàn diện học sinh chỉ thực sự có kết quả khi họ xây dựng lớp học trở thành tập thể đoàn kết thân ái, có tổ chức và kỉ luật tự giác, biết giúp đỡ và tạo điều kiện cho mỗi thành viên trong tập thể phấn đấu vươn lên. b. Đặc trưng của tập thể học sinh Tập thể học sinh không phải tự nó hình thành, không phải cứ có 40 - 50 học sinh có cùng một độ tuổi, cùng trình độ nhận thức, cùng ngồi cạnh nhau trong một lớp học được gọi là tập thể học sinh. Tập thể học sinh là một hình thái tổ chức đời sống xã hội, một đơn vị tự quản trong nhà trường, các học sinh được tập hợp lại trên cơ sở nguyên tắc và kỉ luật tự giác, cùng nhau phấn đấu, học tập và rèn luyện nhằm đạt được những mục tiêu chung. Có thể phân biệt được tập thể với đám đông, tập thể chân chính với tập thể giả hiệu, tập thể học sinh với các tập thể khác qua các đặc trưng sau: - Có mục đích chung. Tập thể được hình thành trên cơ sở mục đích chung, phù hợp với lợi ích của thành viên trong tập thể và xã hội. Mục đích chính là lí do tồn tại của tập thể. Mục đích của tập thể học sinh là trau dồi kiến thức, đạo đức, là sự chuẩn bị những phẩm chất và năng lực để tham gia vào cuộc sống lao động xã hội. - Có hoạt động chung. Mục đích chung của tập thể được thực hiện thông qua các hoạt động chung. Hoạt động của tập thể học sinh là cùng nhau học tập, rèn luyện và tu dưỡng. Đó chính là các hoạt động học tập, lao động công ích, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao, vui chơi giải trí... - Có cơ quan tự quản. Để tiến hành các hoạt động chung, tập thể học sinh được xây dựng thành một tổ chức chặt chẽ, tự quản; đội ngũ cán bộ do tập thể bầu ra được phân công trách nhiệm rõ ràng, hoạt động theo cơ chế dân chủ. - Là một bộ phận của tập thể nhà trường, tập thể học sinh có quan hệ mật thiết với các tập thể khác, phục tùng và thống nhất giữa lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân. - Thành phần của tập thể học sinh là các em ở cùng độ tuổi, cùng trình độ. Sự tồn tại của tập thể được tính theo năm học, khoá học. Tập thể học sinh phát triển tốt sẽ có dư luận lành mạnh, tiến bộ; kỉ luật tự giác được hình thành; các mối quan hệ xã hội trong tập thể lành mạnh, mọi người quan tâm và giúp đỡ lẫn nhau. 2. Nội dung và phương pháp công tác của giáo viên chủ nhiệm lớp với tập thể học sinh a. Tìm hiểu tình hình học sinh * Ý nghĩa của việc tìm hiểu tình hình học sinh Hiểu đối tượng có vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ quá trình hoạt động giáo dục của giáo viên chủ nhiệm lớp. Có nắm được tình hình mọi mặt của học sinh mới có cơ sở thực hiện nguyên tắc tính vừa sức trong giáo dục và các hoạt động quản lí và giáo dục học sinh. Mọi hành động giáo dục như xây dựng mục tiêu, nội dung, lựa chọn phương pháp và hình thức giáo dục đều phải căn cứ vào đối tượng giáo dục và phụ thuộc vào những hiểu biết về đối tượng giáo dục của giáo viên chủ nhiệm lớp. Vì thế, cần phải quan tâm đến việc nắm vững tình hình mọi mặt của học sinh, đây là nhiệm vụ và nội dung cần được tiến hành trước tiên đối với giáo viên chủ nhiệm lớp. Tìm hiểu tình hình học sinh nhằm phục vụ cho công tác quản lí và giáo dục các em. Để làm được điều này, giáo viên chủ nhiệm phải tìm hiểu thật đầy đủ về các mặt của mỗi cá nhân trong tập thể, hoàn cảnh sống và các mối quan hệ đa dạng có liên quan đến các nội dung giáo dục toàn diện. * Nội dung của việc tìm hiểu tình hình học sinh bao gồm: - Tìm hiểu về tư tưởng, chính trị, đạo đức của học sinh: là tìm hiểu về nhận thức, thái độ, hành vi của các em với các sự kiện chính trị xã hội, với tập thể và những người xung quanh của học sinh. Xem xét tính tự giác của học sinh khi tham gia vào lao động, khi thực hiện các nhiệm vụ được giao trong tập thể, thực hiện các nội quy, quy chế của trường và lớp, ý thức, hành vi và thái độ đối với thầy với bạn... - Tìm hiểu về học tập của học sinh: là tìm hiểu về động cơ và thái độ đối với học tập, cách thức thực hiện các hoạt động học tập ở lớp cũng như ở nhà, mức độ cố gắng và kết quả học tập của học sinh. Giáo viên chủ nhiệm cần phân tích những điểm mạnh và hạn chế của học sinh trong việc tổ chức hoạt động tự học, trên cơ sở đó tìm ra các biện pháp nâng cao kết quả học tập của học sinh trong lớp. Tìm hiểu về sự phát triển thể chất: là quan tâm đến tình trạng sức khỏe và mức độ mệt mỏi của học sinh trong các hoạt động học tập và các hoạt động khác. Nắm vững tình hình sức khỏe và vệ sinh phòng bệnh trong phạm vi lớp học và từng cá nhân học sinh, đảm bảo cho mọi học sinh trong lớp có điều kiện phát triển thể chất bình thường. Giúp các em có điều kiện phòng chống dịch bệnh và nâng cao sức khỏe thể chất. - Tìm hiểu sự phát triển về mặt văn hóa thẩm mĩ ở học sinh: là tìm hiểu những hiểu biết của học sinh về văn hóa và thẩm mĩ; tìm hiểu nhu cầu và thị hiếu thẩm mĩ trong việc thưởng thức các tác phẩm văn hóa nghệ thuật; tìm hiểu khả năng sáng tạo cái đẹp trong cuộc sống cũng như trong học tập. - Tìm hiểu về lao động và lựa chọn nghề nghiệp ở học sinh: là những hoạt động của giáo viên hướng vào việc tìm hiểu ý thức, thái độ và kĩ năng tiến hành các hoạt động lao động sản xuất; tổ chức các hoạt động lao động khoa học của học sinh. Đối với học sinh Trung học, giáo viên chủ nhiệm cần quan tâm đến hứng thú và sự lựa chọn nghề nghiệp của học sinh, tạo điều kiện cho các em có thể lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với hứng thú và khả năng của của mình. - Tìm hiểu những ảnh hưởng của giáo dục gia đình, bạn bè và xã hội đối với sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh. * Tìm hiểu tình hình học sinh bằng những cách thức sau: - Nghiên cứu hồ sơ học sinh: nghiên cứu học bạ, lí lịch của học sinh và cha mẹ các em, nghiên cứu hồ sơ sổ sách của lớp. Học bạ của học sinh là hồ sơ ghi tương đối đầy đủ về tình hình học tập, tu dưỡng, khen thưởng và kỉ luật đối với mỗi học sinh. Nghiên cứu học bạ sẽ cho giáo viên hiểu biết khái quát về tình tình học sinh qua những năm học trước. Lí lịch cá nhân cho biết về hoàn cảnh xuất thân, các mối quan hệ trong gia đình và xã hội của học sinh. Nắm được lí lịch học sinh sẽ cho giáo viên có được phương pháp tác động giáo dục học sinh trong lớp phù hợp. Sổ sách và hồ sơ lớp học mô tả tương đối đầy đủ tình hình tiến hành các hoạt động của học sinh lớp chủ nhiệm. Dựa vào sổ ghi đầu bài, giáo viên chủ nhiệm có thể biết được tình hình chung của lớp diễn ra trong ngày: ai là người đi học muộn, không học bài, ai là người học và làm bài đầy đủ, hăng hái phát biểu ý kiến, tình hình vệ sinh và trật tự trong lớp học. Vì thế những giáo viên chủ nhiệm có kinh nghiệm thường quan tâm đến các loại hồ sơ sổ sách ghi chép về lớp học và tình hình hoạt động của học sinh. - Quan sát và nghiên cứu sản phẩm hoạt động của học sinh lớp chủ nhiệm. Nghiên cứu sổ sách và các hồ sơ của lớp giúp cho giáo viên biết được khái quát tình hình của lớp. Tuy nhiên, nếu quá dựa vào những ghi chép sẽ mắc bệnh quan liêu. Giáo viên chủ nhiệm cần kiểm tra lại những thông tin thu được qua hồ sơ bằng việc quan sát hàng ngày các hoạt động tập thể, học tập, lao động vui chơi giải trí; thái độ, hành vi của học sinh trong lớp và ngoài lớp. Các sản phẩm lao động, học tập cũng phản ánh được sự phát triển nhân cách của học sinh, vì thế giáo viên cần dựa vào để nắm vững tình hình học sinh. - Sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học để tìm hiểu tình hình học sinh như soạn thảo các câu hỏi trắc nghiệm, thiết kế các phiếu điều tra, thực hiện quan sát sư phạm. Sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học vào việc nắm vững tình hình học sinh còn được thể hiện qua cách ghi chép, xử lí các sự kiện và rút ra các kết luận khoa học phản ánh được đúng đắn bản chất nhân cách của mỗi học sinh và trình độ phát triển của tập thể. Nắm vững đặc điểm học sinh là việc làm rất quan trọng, nó là cơ sở cho toàn bộ công việc quản lí giáo dục tập thể học sinh, các kết luận về học sinh và tập thể phải mang tính khách quan và phản ánh đúng trình độ phát triển nhân cách của học sinh cũng như trình độ phát triển của tập thể lớp. b. Nội dung và phương pháp xây dựng tập thể học sinh * Xây dưng mục tiêu phát triển tập thể Tập thể học sinh cần được phát triển không ngừng với những mục tiêu, hoạt động ngày càng phong phú đa dạng và cao hơn. Không tiến lên phía trước hoặc dừng lại tại chỗ thì tập thể sẽ suy yếu và tan vỡ. Vì vậy, đặt ra những mục tiêu (hay viễn cảnh) ngày một phức tạp, hấp dẫn hơn và thu hút tập thể học sinh vào việc thực hiện mục tiêu mong muốn là điều kiện quan trọng giúp cho việc củng cố và phát triển học sinh. Xây dựng viễn cảnh sẽ giúp cho các thành viên trong tập thể thấy được tương lai tươi đẹp của mình, của tập thể góp phần kích thích tính tích cực hoạt động,. mang lại niềm hi vọng, tình cảm lạc quan, yêu đời trong tập thể. Macarencô gọi những viễn cảnh là "niềm vui ngày mai" của tập thể. Đối với tập thể học sinh, hệ thống viễn cảnh là tổng thể những mục tiêu được đề ra trước tập thể do những đòi hỏi khách quan của đời sống xã hội và nhà trường, đồng thời có ý nghĩa quan trọng đối với tập thể và cá nhân. Xét về mặt thời gian có ba loại viễn cảnh là viễn cảnh gần, viễn cảnh trung bình và viễn cảnh xa. Trong công tác của giáo viên chủ nhiệm, khi xây dựng hệ thống viễn cảnh cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng các hoạt động học tập và rèn luyện của tập thể học sinh. Điều quan trọng là phải giúp cho các thành viên trong tập thể biết tự đặt ra cho mình những mục tiêu, cụ thể, vừa sức, rõ ràng và có tính khả thi. Gắn mục tiêu của cá nhân với mục tiêu của tập thể, mục tiêu gần với mục tiêu xa, mục tiêu có tính cụ thể và mục tiêu mang tính khái quát. Chẳng hạn những mục tiêu cụ thể như nắm vững bài học, thuộc bài khi tới lớp, không đi học muộn... đến những mục tiêu có tính khái quát hơn như xây dựng tập thể thành tập thể tiên tiến, xuất sắc, không có học sinh chậm tiến về đạo đức.... Xây dựng mục tiêu cần chính xác về nội dung (mục tiêu có thể đo được, đánh giá được, phù hợp với trình độ phát triển của tập thể...), hấp dẫn về hình thức để có sức lôi cuốn mọi người thực hiện. Khi đã xác định được mục tiêu, giáo viên chủ nhiệm cần tổ chức hoạt động thi đua trong tập thể. Thi đua sẽ góp phần động viên, lôi cuốn mọi thành viên hào hứng và tự giác thực hiện các mục tiêu mà tập thể đã đề ra. * Xây dưng đội ngũ cán bộ lớp và các mối quan hệ tốt đẹp trong tập thể Muốn hoạt động có hiệu quả, tập thể cần có bộ phận làm công tác tổ chức và điều phối các hoạt động của mình. Với tập thể học sinh, bộ phận đó là hàng ngũ cán bộ lớp và cán bộ Đoàn, Đội - những thành viên tích cực được tập thể tín nhiệm bầu ra. Đó là những người chịu trách nhiệm chính trong việc xây dựng và triển khai kế hoạch về các công việc chung; phân công và kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của các thành viên; phối hợp và thống nhất công việc ở các đơn vị cơ sở. Khi xây dựng bộ máy lãnh đạo, giáo viên chủ nhiệm cần làm cho học sinh trong lớp hiểu rõ cơ cấu, thành phần tổ chức lớp, chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ lớp, hiểu rõ cơ chế, quy chế hoạt động và điều hành của đội ngũ cán bộ lớp, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ hoàn thành nhiệm vụ được giao. Trong tập thể tồn tại ba loại quan hệ, được biểu hiện như sau: - Quan hệ phục tùng của các thành viên đối với nội quy của tập thể. Tôn trọng và tuân theo những quy định sẽ tạo nên sức mạnh của tập thể, đảm bảo tập thể phát triển đúng hướng và đạt được các mục tiêu đề ra. Vì thế, giáo viên chủ nhiệm cần giúp đỡ tập thể xây dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện nội quy đã đề ra. Quan hệ của các thành viên đối với công việc được giao, thể hiện trách nhiệm của cá nhân đối với công việc. Trong tập thể, mỗi thành viên có một vị trí, vai trò và trách nhiệm nhất định trong việc thực hiện nhiệm vụ chung. Xây dựng mối quan hệ đối với công việc là tạo điều kiện cho mỗi người hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình và nhiệm vụ chung của tập thể, làm cho các thành viên trong tập thể đoàn kết gắn bó với nhau. - Quan hệ tình cảm riêng tư giữa các thành viên trong tập thể, chúng được hình thành trong quá trình hoạt động và giao tiếp trong tập thể. Quan hệ tình cảm tốt đẹp sẽ tạo nên sự đoàn kết gắn bó, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên. Một tập thể có các mối quan hệ tốt đẹp là tập thể phát triển cao. Vì thế, để xây dựng tập thể học sinh, giáo viên chủ nhiệm cần quan tâm đến các mối quan hệ trên. * Xây dưng dư luận và truyền thông của tập thể học sinh Việc hình thành dư luận lành mạnh là yếu tố quan trọng của sự phát triển và trưởng thành của tập thể. Dư luận tập thể bao gồm những phán đoán và những đòi hỏi có tính chất đánh giá của đa số thành viên trong tập thể đối với các sự kiện (ý nghĩ, lời nói, hành động việc làm) có liên quan đến tập thể và các giá trị xã hội. Dư luận có sức mạnh to lớn trong việc điều chỉnh các mối quan hệ trong tập thể, xây dựng động cơ hoạt động, hoàn thiện hành vi ứng xử của cá nhân. Dư luận mang tính giáo dục sâu sắc nên người giáo viên chủ nhiệm cần biết cách xây dựng dư luận lành mạnh và hướng chúng vào công tác giáo dục học sinh. Xây dựng dư luận là xây dựng những ý kiến đánh giá và đòi hỏi chung của tập thể đối với hành vi cá nhân. Việc này có thể tiến hành trong quá trình hoạt động học tập, lao động, hoạt động xã hội..., qua các biện pháp như tranh luận, trao đổi ý kiến, báo tường, truyền thanh.... Tuy nhiên, trước một sự kiện trong tập thể có thể có nhiều ý kiến và đánh giá khác nhau, giáo viên chủ nhiệm cần định hướng sao cho phù hợp với giá trị và chuẩn mực của tập thể, của xã hội. Định hướng dư luận chính là hướng dư luận của tập thể vào nhận thức và hành vi sai trái của các thành viên, giúp họ khắc phục và điều chỉnh sao cho phù hợp với những giá trị chung của tập thể. Truyền thống là những nét đẹp tiêu biểu, những tác động và hợp tác đã được củng cố thành những nghi lễ, tập quán tương ứng. Nét đặc trưng nhất của truyền thống là bao gồm những nguyện vọng cơ bản của tập thể, những kinh nghiệm hoạt động đã được đúc kết, những quan hệ đã được hình thành, những giá trị đã được chấp nhận. Vì thế, tác dụng giáo dục của truyền thống là làm cho các thành viên tự hào về tập thể của mình, có ý thức giữ gìn và thực hiện những nét đẹp đó. Truyền thống không phải tự nhiên mà có, nó được hình thành và phát triển trong quá trình xây dựng và phát triển. Giáo viên chủ nhiệm có thể xây dựng truyền thống qua việc tổ chức tốt các hoạt động và quan hệ trong tập thể. Giữ gìn truyền thống đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm tổ chức các cuộc triển lãm, trưng bày, báo cáo và nhắc lại những ấn tượng tốt đẹp về truyền thống của tập thể, hình thành ở học sinh lòng mong muốn thực hiện những nét đẹp của truyền thống. Giáo dục truyền thống cũng đồng thời phải loại bỏ những nếp nghĩ, thói quen không phù hợp với các chuẩn mực xã hội, thay thế chúng bằng những thói quen và truyền thống tốt đẹp hơn. * Tổ chức các hoạt động trong tập thể học sinh Cơ sở để tạo lập củng cố và phát triển tập thể học sinh là tổ chức những hoạt động và giao lưu hướng vào thực hiện các mục tiêu chung của tập thể. Do đó, con đường quan trọng nhất để xây dựng tập thể học sinh là lôi cuốn các em tích cực tham gia vào các hoạt động chung của tập thể. Hoạt động tập thể không những có tác dụng củng cố sự gắn kết các thành viên trong tập thể mà còn có tác dụng giáo dục tích cực đối với các thành viên. Bằng hoạt động và thông qua hoạt động, các thành viên trong tập thể mới bộc lộ hiểu biết, hứng thú và năng lực của mình cũng như hiểu biết lẫn nhau, hình thành các mối quan hệ tốt đẹp và giúp nhau cùng phát triển. Hoạt động trong tập thể của học sinh rất đa dạng. Đó là các hoạt động học tập, lao động sản xuất, thi đấu thể thao, văn hóa văn nghệ, giúp đỡ những người bị thiệt thòi trong xã hội, vui chơi giải trí... Đó là hoạt động trong giờ lên lớp và hoạt động ngoài giờ lên lớp. Hoạt động trong giờ lên lớp là hoạt động học tập văn hóa được tiến hành theo thời khóa biểu và được quy định chặt chẽ trong kế hoạch dạy học ở trường phổ thông, được thực hiện chủ yếu dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo trực tiếp của giáo viên bộ môn. Sự tác động của giáo viên chủ nhiệm đối với hoạt động này thường thông qua các giáo viên bộ môn và tập trung vào giáo dục ý thức, động cơ, thái độ học tập của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh học tập trên lớp thoải mái và đạt kết quả cao. Tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là nhiệm vụ chủ yếu của giáo viên chủ nhiệm. Trong nhiều trường phổ thông hiện nay, giáo viên chủ nhiệm tiến hành các tiết sinh hoạt lớp, các hoạt động ngoại khóa về văn hóa thể thao, các hoạt động tham quan dã ngoại, hoạt động giáo dục hướng nghiệp... Mỗi hoạt động trên tuy có những đặc điểm riêng về nội dung và phương pháp tiến hành nhưng lại có điểm chung là đều nhằm bổ sung, hoàn thiện những nội dung giáo dục qua các tiết học trên lớp. Vì thế có thể khẳng định, hoạt động ngoài giờ lên lớp là sự nối tiếp hoạt động dạy học trên lớp trong trường phổ thông, tạo nên sự phát triển hài hòa, cân đối trong nhân cách người học. Hoạt động ngoài giờ lên lớp có tác dụng củng cố phát triển những mối quan hệ tốt đẹp trong tập thể, tạo nên sự gắn bó giữa các thành viên. Nếu giáo viên chủ nhiệm tổ chức có hiệu quả, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp sẽ phát huy được tiềm năng của các lực lượng xã hội và gia đình vào công tác giáo dục, góp phần phát triển toàn diện nhân cách cho các em. Biện pháp này còn thống nhất giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và xã hội, là biện pháp lôi cuốn các lực lượng xã hội tham gia vào công tác giáo dục toàn diện cũng như trở thành phương tiện quan trọng trong công tác giáo dục học sinh của giáo viên chủ nhiệm. Nội dung và hình thức hoạt động ngoài giờ lên lớp - Hoạt động ngoài giờ lên lớp mang nội dung xã hội nhân văn: những hoạt động này thường tập trung vào những ngày lễ lớn, những sự kiện chính trị xã hội có ảnh hưởng quan trọng đến nhận thức, thái độ và hành vi của mỗi người như: hoạt động kỉ niệm những ngày lễ lớn; hoạt động hưởng ứng chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta như vấn đề thực hiện an toàn giao thông, thực hiện vệ sinh phòng bệnh, chông ô nhiễm môi trường, trợ giúp những người nghèo, cô đơn không nơi nương tựa... - Hoạt động ngoài giờ lên lớp mang nội dung tìm hiểu khoa học như tổ chức các cuộc chơi tìm hiểu khoa học theo các môn học và chuyên đề. Tổ chức cho học sinh nghe nói chuyện và tham quan các cơ sở nghiên cứu khoa học; tham gia các câu lạc bộ về khoa học kĩ thuật hoặc về ngành nghề mà các em yêu thích, tập ứng dụng những thành tựu khoa học vào thực tiễn đời sống.... - Hoạt động ngoài giờ lên lớp với nội dung văn hóa nghệ thuật và thẩm mĩ: đây là những hoạt động nhằm mục đích nâng cao nhận thức và thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh, giúp các em hiểu được cái đẹp, đánh giá đúng cái đẹp và sáng tạo được cái đẹp trong cuộc sống và nghệ thuật. Cần tổ chức cho học sinh xem phim, biểu diễn văn nghệ; ở mức độ cao hơn là tổ chức cho các em tham gia vào các hoạt động văn hóa, văn nghệ lành mạnh như tổ chức hội diễn văn nghệ với các chủ đề và nội dung phong phú đa dạng; tổ chức các cuộc thi như học sinh thanh lịch, cắm hoa, nấu ăn... - Hoạt động ngoài giờ lên lớp với nội dung thể thao, giải trí: đó là các hoạt động thể dục giữa giờ, hoạt động vui chơi giải trí, tổ chức Hội khỏe Phù đổng, thi đấu thể thao... - Hoạt động ngoài giờ lên lớp với nội dung lao động và hướng nghiệp. Giáo viên chủ nhiệm tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động lao động tự phục vụ như trực nhật, sửa chữa bàn ghế, trang trí lớp học; các hoạt động lao động hàng tuần; thực hiện các nội dung giáo dục nghề nghiệp và hướng nghiệp trong trường phổ thông. Như vậy, các nội dung giáo dục ngoài giờ lên lớp rất phong phú và đa dạng, chúng phục vụ cho các mục tiêu giáo dục toàn diện, bổ sung và khắc phục những nhược điểm của hoạt động giáo dục trong giờ lên lớp. Các nội dung giáo dục trên được tiến hành chủ yếu thông qua tiết sinh hoạt tập thể lớp hàng tuần và sinh hoạt chủ điểm giáo dục hàng tháng. Những hoạt động này đã được quy định và dành thời gian trong kế hoạch dạy học của trường phổ thông trung học, thực hiện chúng chủ yếu dưới sự tổ chức điều khiển của giáo viên chủ nhiệm lớp. Phương pháp tiến hành hoạt động ngoài giờ lên lớp Để tổ chức có hiệu quả một hoạt động ngoài giờ lên lớp, giáo viên chủ nhiệm cần thực hiện tốt các bước sau: - Xác định mục tiêu và yêu cầu cần phải đạt được của hoạt động ngoài giờ lên lớp. Mục tiêu càng cụ thể, rõ ràng và đầy đủ thì việc đánh giá kết quả hoạt động sẽ có căn cứ xác đáng. Khi xây dựng mục tiêu hoạt động ngoài giờ lên lớp, giáo viên chủ nhiệm cần quan tâm đến các yêu cầu về nhận thức, thái độ và hành vi của học sinh trong lớp. - Chuẩn bị cho hoạt động ngoài giờ lên lớp: hiệu quả hoạt động ngoài giờ lên lớp phụ thuộc phần lớn vào công tác chuẩn bị của người giáo viên. Trong quá trình chuẩn bị, giáo viên chủ nhiệm nên mở rộng, phát huy dân chủ và tinh thần tự quản của học sinh, khuyến khích đội ngũ cán bộ lớp và tập thể học sinh bàn bạc, trao đổi cùng tìm ra những hình thức và nội dung hoạt động cho phù hợp với hứng thú và thực tiễn lớp học. - Tiến hành và kết thúc hoạt động: Để tiến hành hoạt động có hiệu quả, giáo viên chủ nhiệm cần tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ lớp và tập thể học sinh thực hiện chương trình hoạt động theo kế hoạch đã được chuẩn bị từ trước. Giáo viên chủ nhiệm có kinh nghiệm thường đóng vai trò như một đại biểu, một thành viên của lớp. Giáo viên chủ nhiệm chỉ xuất hiện khi nảy sinh tình huống bất ngờ mà học sinh không có khả năng xử lí. Kết thúc hoạt động, giáo viên chủ nhiệm cần tạo điều kiện cho người điều hành và tập thể đánh giá và rút kinh nghiệm, chỉ ra những điểm đạt được và những vấn đề cần phải lưu ý thêm. d. Giáo dục học sinh chậm tiến về đạo đức * Ý nghĩa của việc giáo dục học sinh chậm tiên về đạo đức Quá trình giáo dục hướng vào việc hình thành nhân cách phát triển toàn diện của học sinh. Tuy nhiên, một số học sinh có những hành vi thói quen không phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội, thường được gọi là học sinh chậm tiến về đạo đức. Các hoạt động của giáo viên chủ nhiệm hướng vào sự thay đổi những quan điểm, phán đoán và đánh giá không đúng đắn của học sinh, loại bỏ và làm thay đổi những hành vi thói quen không phù hợp với các chuẩn mực xã hội được gọi là công tác giáo dục học sinh chậm tiến về đạo đức. Giáo dục học sinh chậm tiến về đạo đức có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác của giáo viên chủ nhiệm. Công tác quản lí giáo dục của giáo viên chủ nhiệm chỉ thực sự có kết quả khi người giáo viên chủ nhiệm khắc phục được tình trạng chậm tiến về đạo đức học sinh. Các giáo viên chủ nhiệm giỏi thường có nhiều những kinh nghiệm quý báu và thành công trong việc cảm hóa, giáo dục học sinh chậm tiến về đạo đức. * Nguyên nhân học sinh chậm tiến về đạo đức và phương pháp khắc phục Sự chậm tiến về đạo đức bao giờ có những nguyên nhân chủ quan và khách quan nhất định. Vì thế, muốn giáo dục học sinh chậm tiến về đạo đức, giáo viên chủ nhiệm phải tìm hiểu nguyên nhân và mức độ chậm tiến, trên cơ sở đó có phương pháp khắc phục phù hợp. Nguyên nhân học sinh chậm tiến về đạo đức được lí giải theo nhiều cách khác nhau. Nhìn chung, những nguyên nhân thường được đề cập là: - Những thiếu sót trong môi trường xã hội Môi trường ngoài nhà trường (gia đình đường phố...) nhiều khi có tác động mạnh mẽ đến nhân cách của trẻ. Để khắc phục nguyên nhân này, giáo viên chủ nhiệm cần quan tâm đến việc xây dựng môi trường giáo dục thống nhất, hướng vào sự hình thành và phát triển nhân cách lành mạnh cho học sinh. - Những nguyên nhân về phát triển tâm lí Không ít học sinh chậm tiến về đạo đức có liên quan đến sự phát triển tâm lí với những nhu cầu không lành mạnh, những nhận thức và thái độ lệch lạc, sự không ổn định về tâm lí, rối loạn thần kinh chức năng, dễ bị kích động, khả năng nhận thức học tập bị hạn chế. Một số học sinh có sức khỏe tốt, phát triển cơ thể khoẻ mạnh song sự phát triển trí tuệ lại hạn chế, kết quả học tập thấp nên chán học và thường xuyên bỏ học, vi phạm những quy định trong lớp... Để khắc phục nguyên nhân này, trong một số trường hợp cần có sự can thiệt của y học, sinh học. Tuy nhiên, giáo viên chủ nhiệm cũng cần tìm ra những nguyên nhân về mặt giáo dục đạo đức. Đây là những em không hiểu hoặc hiểu không đúng đắn về những chuẩn mực đạo đức; có những thái độ và hành vi không phù hợp với chuẩn mực xã hội. Do đó, giáo viên chủ nhiệm cần hiểu rõ bản chất, mức độ và nguyên nhân chậm tiến về đạo đức của các em nhằm có kế hoạch giáo dục phù hợp. - Nguyên nhân từ phương pháp giáo dục Một số giáo viên chủ nhiệm do có cách ứng xử sư phạm không phù hợp nên đã để lại những hậu quả không tốt. Họ thường đưa ra nhận xét, đánh giá và hình thức kỉ luật học sinh một cách vội vã, thiếu khách quan, không căn cứ vào ý kiến của tập thể, làm ảnh hưởng tới mối quan hệ thầy trò. Việc cư xử thiếu tế nhị như: thường xuyên nhắc nhở và khiển trách những khuyết điểm của học sinh, hay nhắc lại những khuyết điểm cũ, hoặc áp đặt đánh giá chủ quan của mình với các hành vi chuẩn của học sinh đã gây ấn tượng xấu với học trò, phản tác dụng giáo dục. Giáo dục chỉ có hiệu quả trên cơ sở phát huy những ưu điểm, hạn chế nhược điểm của người được giáo dục. Con người luôn có nhu cầu tự khẳng định, đặc biệt với học sinh đầu tuổi thanh niên đang muốn vươn lên trở thành người lớn thì nhu cầu này càng mạnh mẽ. Vì vậy, khen nhiều hơn chê, thưởng nhiều hơn phạt một cách đúng mức là con đường giáo dục đem lại hiệu quả cao. Nếu giáo viên chủ nhiệm đề ra yêu cầu đối với học sinh một cách vô lí hoặc đòi hỏi học sinh thực hiện nhiều yêu cầu ngay một lúc (có khi quá sức), hoặc thiếu thống nhất về ý kiến và thái độ giữa giáo viên chủ nhiệm với tập thể sư phạm cũng làm ảnh hưởng tới việc phát triển đạo đức của học sinh. Giáo viên chủ nhiệm cần có sự bàn bạc thống nhất với các giáo viên bộ môn, với Hội đồng giáo dục của nhà trường, với các bậc cha mẹ học sinh khi đưa ra các yêu cầu giáo dục cho học sinh chậm tiến. Yêu cầu giáo dục chỉ có hiệu quả khi được tập thể lớp đồng tình và ủng hộ. Vì thế, giáo viên chủ nhiệm cần làm cho những yêu cầu này đến một các tự nhiên như một sự đòi hỏi tất yếu trong cuộc sống và hoạt động của lớp học, tránh cho học sinh có cảm giác bị áp đặt. Giáo viên chủ nhiệm thường giữ vai trò là người cố vấn tin cậy của tập thể học sinh, tạo điều kiện cho tập thể đề xuất các yêu cầu với những học sinh chậm tiến, chỉ có ý kiến can thiệp khi thấy thật sự cần thiết. Thống nhất các yêu cầu và tác động giáo dục, tạo ra dư luận lành mạnh tiến bộ trong tập thể, thương yêu tôn trọng và yêu cầu cao đối với học sinh là những nguyên tắc quan trọng mà người giáo viên cần quán triệt trong việc giáo dục học sinh chậm tiến về đạo đức. 3. Các giai đoạn phát triển của tập thể học sinh và yêu cầu đối với giáo viên chủ nhiệm Tập thể học sinh là đối tượng tác động sư phạm của người giáo viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm là người thiết kế, tổ chức, quản lí tạo điều kiện cho tập thể phát triển liên tục và bền vững. Những tác động sư phạm của giáo viên chủ nhiệm có thể được thực hiện bằng hai con đường: tác động trực tiếp đến từng học sinh hoặc tác động đến học sinh thông qua việc xây dựng tập thể. Kinh nghiệm giáo dục của Macarenco cho thấy, giáo dục chỉ thành công khi người giáo viên tổ chức tất tập thể học sinh. Tập thể học sinh vừa là phương tiện, vừa là điều kiện vừa là mục tiêu giáo dục của giáo viên chủ nhiệm lớp. Tập thể học sinh được hình thành và phát triển liên tục qua các giai đoạn. Mỗi giai đoạn được thể hiện bởi các dấu hiệu khác nhau, đặc biệt là hai dấu hiệu quan trọng: Ai đề ra yêu cầu đối với tập thể (giáo viên chủ nhiệm, cán bộ lớp hay tất cả các thành viên trong tập thể); Các thành viên trong tập thể chấp nhận yêu cầu đó ra sao (bắt buộc hay tự giác, chủ động...). Căn cứ vào những dấu hiệu này, các nhà lí luận giáo dục chỉ ra ba giai đoạn phát triển của tập thể học sinh như sau: a. Giai đoạn 1 Đặc điểm cơ bản của giai đoạn này là tập thể mới hình thành, các thành viên trong tập thể mới được tập hợp, còn chưa hiểu biết nhiều về nhau, các mối quan hệ trong tập thể còn nhiều bỡ ngỡ. ở giai đoạn này nhà giáo dục cần phải trực tiếp giải quyết các công việc. Nhà giáo dục vừa là người đề ra các yêu cầu, vừa là người giám sát thực hiện các yêu cầu đó trong tập thể. Công việc này dừng lại khi có ban cán sự lớp được chỉ định, khi tập thể lớp đã hoạt động và dần dần đi vào nền nếp, các thành viên trong tập thể hiểu biết nhau hơn. Ở cuối giai đoạn này đã xuất hiện những phần tử tích cực, chủ động và xung phong thực hiện các công việc chung. b. Giai đoạn 2 Các mối quan hệ trong tập thể đã được hình thành, tập thể đã bầu ra được ban lãnh đạo cho mình. Các mối quan hệ trong tập thể đã có sự phân hoá đối với việc thực hiện các yêu cầu của tập thể. Yêu cầu của giáo viên chủ nhiệm và tập thể được đa số các thành viên chấp nhận và ủng hộ. Trong quá trình thực hiện những yêu cầu tập thể dần dần hình thành các mối quan hệ, dư luận và truyền thống của tập thể đã bắt đầu được hình thành và phát huy tác dụng. Sự phát triển này của tập thể làm cơ sở cho việc chuyển sang giai đoạn thứ 3. c. Giai đoạn 3 Đây là giai đoạn tập thể đã lớn mạnh với đặc trưng cơ bản là đã biết đề ra yêu cầu cho mình và cho mỗi thành viên. Mỗi thành viên của tập thể cũng biết tự đề ra yêu cầu đối với bản thân. Các hoạt động của tập thể đã dần dần đi vào nền nếp. Các mối quan hệ trong tập thể được củng cố và phát huy tác dụng. Tập thể thực sự trở thành nơi gắn bó tình cảm và trách nhiệm giữa các cá nhân, lúc này tập thể thực sự trở thành sức mạnh giáo dục tuyệt vời. Trong giai đoạn này, vai trò của nhà giáo dục được thể hiện như người cố vấn, người bạn tâm tình, biết cách động viên và giúp đỡ tập thể xác định mục tiêu và tổ chức các hoạt động thực hiện mục tiêu đó. Tập thể học sinh được hình thành và phát triển không ngừng qua các giai đoạn khác nhau. Kết quả của sự hình thành và phát triển đó là do có sự quan tâm quản lí giáo dục của giáo viên chủ nhiệm, sự cố gắng và ý thức vươn lên của tập thể lớp. Tài năng sư phạm của người giáo viên chủ nhiệm thể hiện ở chỗ, trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của tập thể, nhà giáo dục đưa ra những nội dung và phương pháp tác động phù hợp với tập thể học sinh III. XÂY DỰNG KẾ HOẠCH CHỦ NHIỆM LỚP 1. Ý nghĩa của việc xây dựng kế hoạch Kế hoạch trường học có đặc tính quan trọng là tính liên tục thể hiện một hệ thống liên tục các mục tiêu liên quan chặt chẽ với nhau, năm học trước làm cơ sở cho năm sau, hoạt động trước làm cơ sở cho hoạt động sau.... Vì vậy, kế hoạch nhà trường là tập hợp các mục tiêu có quan hệ chặt chẽ với nhau, thống nhất bởi mục tiêu chung và hệ thống những biện pháp được xây dựng trước cho một giai đoạn nhất định nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục đã được xác định. Kế hoạch còn là chương trình hành động tập thể sư phạm được xây dựng trên cơ sở những chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về giáo dục, được vận dụng và thực hiện trong những điều kiện cụ thể, phù hợp với đặc điểm của trường. Trong nhà trường phổ thông có nhiều loại kế hoạch. Kế hoạch của nhà trường một mặt là sự cụ thể và chi tiết hoá kế hoạch của cơ quan quản lí cấp trên, mặt khác nó được dựa trên tình hình thực tiễn và nhiệm vụ cụ thể của nhà trường. Mỗi loại kế hoạch của nhà trường được xác định theo nhiệm vụ của từng đơn vị công tác (theo tổ chức nhà trường), theo các hoạt động (dạy học, giáo dục, lao động sản xuất...) và theo thời gian (năm học, học kì, tháng, tuần). Kế hoạch chủ nhiệm là sự cụ thể hóa kế hoạch của nhà trường, của khối lớp chủ nhiệm, được thực hiện trong phạm vi một lớp học cụ thể. Kế hoạch chủ nhiệm lớp thể hiện sự cụ thể hoá quan điểm đường lối giáo dục của Đảng, các nhiệm vụ năm học, những quy luật và lí luận giáo dục vào việc thiết kế và thực hiện các mục tiêu giáo dục của nhà trường một cách cụ thể. Lập kế hoạch là vạch ra những cách tiếp cận hợp lí để đạt được các mục tiêu đã đề ra, để sự cố gắng của thầy và trò có hiệu quả. Không có kế hoạch, hoạt động quản lí sẽ ở trạng thái tự nhiên, hiệu quả thấp. Lập kế hoạch chủ nhiệm có các mục đích: giảm bớt sự bất định; chú trọng vào các mục tiêu; tạo khả năng đạt các mục tiêu một cách kinh tế và cho phép giáo viên chủ nhiệm có thể kiểm soát quá trình tiến hành các nhiệm vụ. Giáo viên chủ nhiệm cần quan tâm đến việc lập kế hoạch, đến việc thiết kế những bước đi và việc làm cụ thể theo một trình tự đã được quy định để đạt được. mục tiêu đã đề ra. Hình dung được những bước đi cụ thể này, chắc chắn giáo viên chủ nhiệm lớp sẽ tránh được yếu tố ngẫu nhiên, tùy tiện trong công tác quản lí và giáo dục tập thể học sinh. 2. Nội dung và phương pháp lập kế hoạch chủ nhiệm lớp Lập kế hoạch là quyết định trước xem phải làm cái gì? Làm như thế nào? Khi nào làm? Và ai làm cái đó? Làm việc đó trong những điều kiện nào?... Lập kế hoạch được hiểu là thiết kế trước bước đi cho hoạt động tương lai thông qua việc sử dụng và khai thác tối ưu nguồn nhân lực, vật lực để đạt được những mục tiêu xác định. Lập kế hoạch đòi hỏi phải có tri thức và kỹ năng tiến hành, xác định được đường lối và đưa ra các quyết định trên cơ sở các mục tiêu, sự hiểu biết cùng các đánh giá một cách thận trọng. Kế hoạch chủ nhiệm là sự sáng tạo của giáo viên chủ nhiệm lớp, phản ánh khả năng xử lí thông tin, xác định mục tiêu, thiết kế và dự đoán các hoạt động đạt được mục tiêu của họ. Bản kế hoạch công tác của giáo viên chủ nhiệm thường bao gồm những nội dung chủ yếu sau: - Tóm tắt tình hình của nhà trường và của lớp học. Phần này yêu cầu nêu ngắn gọn, rõ ràng đặc điểm năm học của nhà trường, của lớp (những thuận lợi khó khăn, tình hình học sinh...). - Xác định rõ mục đích, yêu cầu tiến hành các hoạt động giáo dục. Phần này yêu cầu viết mục tiêu thật cụ thể, chính xác có thể đo được, quan sát và đánh giá được: Cụ thể hóa mục tiêu thành các nhiệm vụ phải thực hiện. - Xác định những điều kiện, phương tiện, địa điểm và thời gian tiến hành các hoạt động. - Xác định các phương pháp kiểm tra và đánh giá việc thực hiện kế hoạch. Xây dựng các kế hoạch hoạt động giáo dục trong năm học, giáo viên chủ nhiệm có thể sắp xếp các hoạt động theo cách sau: Các hoạt động Thời gian Phân công Chuẩn bị điều kiện Kiểm tra Nhận xét đánh giá Ghi chú (sửa đổi điều chỉnh) Tháng Tuần Người phụ trách Người tham gia Người tham gia Thời gian Thực tiễn cho thấy, kế hoạch của giáo viên chủ nhiệm dù được thiết kế một cách cẩn thận, có tính đến những tiền đề và những điều kiện nhất định, song không tránh khỏi những hạn chế do những biến động của thực tiễn đem lại. Do đó, giáo viên chủ nhiệm cần dựa vào các thông tin thu được, đối chiếu với mục tiêu để kịp thời điều chỉnh và hoàn thiện kế hoạch một cách linh hoạt sáng tạp nhằm thực hiện tốt những mục tiêu giáo dục đã đề ra. Giáo viên chủ nhiệm giỏi là những người biết xây dựng kế hoạch, thực hiện theo kế hoạch và cũng biết điều chỉnh chúng nếu thấy cần thiết. V. NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP Thông thường, những người được hiệu trưởng và hội đồng giáo dục nhà trường tin tưởng và giao phó làm công tác chủ nhiệm lớp là những giáo viên gương mẫu trong công tác, có năng lực chuyên môn, được học sinh tin yêu và mến phục. Vì thế, giáo viên chủ nhiệm lớp vừa phải là một giáo viên tốt, thực hiện tốt và đầy đủ các công việc của một giá.o viên bộ môn, đồng thời họ phải hiện tốt các yêu cầu của giáo viên chủ nhiều lớp. Mỗi giáo viên và cán bộ giáo dục đều phải đáp ứng những yêu cầu về nhà giáo. Riêng đối với giáo viên chủ nhiệm, người có trách nhiệm nặng nề là thay mặt hiệu trưởng, thay mặt nhà trường, gia đình thực hiện công việc quản lí giáo dục toàn diện một tập thể học sinh, muốn làm tốt nhiệm vụ của mình, bên cạnh những yêu cầu chung của người cán bộ giáo dục, giáo viên chủ nhiệm cần đạt được một số yêu cầu cụ thể sau 1. Yêu cầu về tri thức Bên cạnh những kiến thức sâu, rộng về chuyên môn mà mình phụ trách, giáo viên chủ nhiệm cần có những hiểu biết đầy đủ về các hoạt động quản lí và giáo dục học sinh, những quy định về sự phối hợp giáo dục giữa nhà trường với gia đình và xã hội. Đó là những hiểu biết về quy chế, quy định về công tác quản lí giáo dục học sinh, những hiểu biết về nội dung và phương pháp giáo dục học sinh và tập thể học sinh. Giáo viên chủ nhiệm cũng cần nắm được những quy định và cách thức tiến hành các nội dung phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm với các tổ chức Đoàn đội, giáo viên chủ nhiệm với các tổ chức xã hội, hội phụ huynh và gia đình học sinh.... Đặc biệt, giáo viên chủ nhiệm cần có được những tri thức về công tác giáo dục tập thể học sinh, giáo dục học sinh cá biệt, học sinh chậm tiến về học tập, đạo đức; những tri thức về đặc điểm tâm sinh lí học sinh, về nội dung và phương pháp giáo dục các em... Những hiểu biết này sẽ là cơ sở hình thành kĩ năng quản lí giáo dục học sinh, giúp giáo viên chủ nhiệm lớp làm tốt vai trò và trách nhiệm của mình. Để có được hiểu biết sâu rộng về nghề nghiệp, về đối tượng và phương pháp giáo dục, giáo viên chủ nhiệm phải không ngừng cố gắng vươn lên, thường xuyên cập nhật kiến thức và năng lực, học tập không mệt mỏi, suốt đời. 2. Yêu cầu về kĩ năng Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, bên cạnh những kĩ năng chung của giáo viên, mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp cán phấn đấu để đạt được một số kĩ năng quản lí giáo dục như sau: Nhóm kĩ năng thiết kế các hoạt động giáo dục. Thiết kế các hoạt động giáo dục sẽ làm cho hoạt động giáo dục tập thể học sinh được tiến hành một cách chủ động về thời gian, đảm bảo nội đung và phương pháp tiến hành. Muốn thiết kế các hoạt động giáo dục, giáo viên chủ nhiệm phải biết thu thập các thông tin về tình hình của lớp học, của nhà trường, xác định mục tiêu và cụ thể hóa các mục tiêu thành các hoạt động giáo dục v.v.... Hình dung ra những thuận lợi và khó khăn khi tổ chức các hoạt động giáo dục cho học sinh, những điều kiện, cơ sở vật chất và những hoạt động phối hợp khi tiến hành các hoạt động giáo dục. Nhóm kĩ năng tổ chức triển khai các hoạt động giáo dục. Tổ chức triển khai các hoạt động giáo dục gắn liền với các hoạt động như phân công công việc một cách hợp lí; truyền đạt công việc đầy đủ và đúng đắn đến từng thành viên; phối hợp các hoạt động để đạt được mục tiêu chung; phát hiện ra những yếu tố sai sót để khắc phục kịp thời... Muốn làm được các công việc đó đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải am hiểu và có kinh nghiệm trong việc thực hiện và xử lí các công việc được giao, vừa biết cách thu thập đầy đủ các thông tin về tiến trình thực hiện các hoạt động giáo dục; vừa biết cách đánh giá và sử dụng các thông tin ấy để điều khiển, điều chỉnh các hoạt động cho phù hợp với mục tiêu đã đề ra. Để tổ chức và triển khai tốt các hoạt động giáo dục, giáo viên chủ nhiệm cần có khả năng sau: Khả năng thiết lập các mối quan hệ đối với học sinh, gia đình và các cá nhân có liên quan. Chỉ có xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với học sinh, gia đình và tập thể học sinh, những tác động giáo dục của giáo viên mới có hiệu quả. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, những giáo viên nhạy bén, nhiệt tình thường quan tâm đến hoạt động của học sinh và lớp học; hiểu và cư xử thân mật đối học sinh... là những giáo viên chủ nhiệm hoạt động có hiệu quả. Có kĩ năng kiểm tra và giám sát các hoạt động giáo dục học sinh. Có ba loại kiểm tra đánh giá hoạt động giáo dục của học sinh là: đánh giá trước khi tiến hành hoạt động giáo dục (đánh giá kế hoạch), đánh giá trong khi tiến hành (đánh giá triển khai, đánh giá thực hiện) và đánh giá tổng kết (sau khi đã thực hiện công việc). Có được kĩ năng kiểm tra đánh giá ở tất cả các khâu sẽ giúp giáo viên chủ nhiệm hoàn thành tốt công việc của mình. 3. Yêu cầu về phẩm chất Bên cạnh những phẩm chất cần có ở giáo viên như lòng yêu nước, giác ngộ xã hội chủ nghĩa và lí tưởng nghề nghiệp, giáo viên chủ nhiệm lớp phải xác định rõ trách nhiệm của mình, luôn giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo, không ngừng học tập rèn luyện nâng cao tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lòng yêu nghề, yêu người, thực sự làm tấm gương tốt cho học sinh noi theo. Phẩm chất chính trị, tư tưởng là một yêu cầu quan trọng đối với giáo viên chủ nhiệm, tạo nên thành công trong công tác quản lí và giáo dục học sinh của giáo viên. Phẩm chất chính trị đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải có niềm tin sâu sắc vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, tin vào đường lối đổi mới kinh tế xã hội, đổi mới giáo dục ở nước ta. Niềm tin sẽ tạo nên động lực thúc đẩy người giáo viên tham gia vào các hoạt động chính trị xã hội, vận động các tầng lớp nhân dân, gia đình và học sinh lớp chủ nhiệm thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Giáo viên chủ nhiệm phải là người mẫu mực, thực sự là tấm gương sáng cho học sinh. Những phẩm chất đạo đức cần có của giáo viên chủ nhiệm vừa phù hợp với các chuẩn mực xã hội hiện đại, vừa kế thừa, phát huy những truyền thống đạo đức của dân tộc. Đó là các phẩm chất đạo đức sau: Lòng yêu thương con người, đặc biệt yêu thương trẻ em - đối tượng trực tiếp của mình, hăng say với công việc giáo dục học sinh “Càng yêu nghề bao nhiêu, càng yêu người bấy nhiêu”. Quan tâm tới công việc của nhà trường và đồng nghiệp; có trách nhiệm đối với công việc được giao (giáo dục, giảng dạy, chủ nhiệm lớp...). Làm chủ được bản thân trong công việc và cuộc sống; biết giữ lời hứa với mọi người, đặc biệt là đối với học sinh mẫu mực trong gia đình, trong quan hệ với người khác. CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN 1 Phân tích những đặc điểm cơ bản của giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường trung học phổ thông? 2. Phân tích các nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm lớp và mối quan hệ giữa các nhiệm vụ đó. 3. Phân tích các chức năng của giáo viên chủ nhiệm lớp và mối quan hệ giữa các chức năng đó. 5. Trình bày các phương pháp chủ yếu khi nghiên cứu tình hình học sinh, bạn đã sử dụng những phương pháp nào để nghiên cứu tình hình học sinh trong đợt thực tập sư phạm vừa qua? 6. Trình bày nội dung và phượng pháp xây dựng tập thể học sinh, trong đợt thực tập sư phạm vừa qua bạn đã sử dụng phương pháp nào để giáo dục tập thể học sinh? 7. Hãy thảo luận về những phẩm chất và năng lực mà giáo viên chủ nhiệm cần phải có để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. BÀI TẬP 1. Mô tả nội dung và phương pháp tổ chức một hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh lớp chủ nhiệm. 2. Thiết kế nội dung và phương pháp tổ chức hoạt động theo chủ đề “Chào mừng ngày phụ nữ Việt Nam 8 – 3”. 3. Hãy viết một báo cáo để đánh giá tình hình giáo dục đạo đức ở lớp chủ nhiệm trong đợt thực tập vừa qua. Theo bạn, cần phải có những biện pháp gì với một số học sinh không có sự tiến bộ về đạo đức. 4. Xây dựng kế hoạch tiến hành buổi sinh hoạt lớp với chủ đề: "Xây dựng và thực hiện nền nếp học tập". TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Iu. K. Babanxki. Giáo dục học. NXB Giáo dục. Matxcơva, 1985. 2. Nguyễn Ngọc Bảo - Hà Thị Đức. Hoạt động dạy học ở trường Trung học cơ sở. NXB Giáo dục. Hà Nội. 2001 3. Hoạt động giáo dục lao động - Hướng nghiệp năm học 2000 - 2001 và phương hướng năm học 2001- 2002. Bộ Giáo dục và Đào tạo 2001. 4. Phạm Khắc Chương. Giáo dục gia đình. NXB Giáo dục. Hà Nội. 2001. 5. Tô Xuân Giáp. Phương tiện dạy học. NXB Giáo dục. Hà Nội 1997. 6. Giáo trình giáo dục hướng nghiệp. Đại học Hùng Dã Mai - NXB Nhân sư - Trung Quốc. Xuất bản lần đầu 1/2002. 7. Phạm Minh Hạc (chủ biên). Giáo dục thế giới đi vào thế kỉ XXI. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội. 2002. 8. Đặng Thành Hưng. Dạy học hiện đại - Lí luận, biện pháp, kĩ thuật. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.2002. 9. Nguyễn Văn Hộ, Hà Thị Đức. Giáo dục học đại cương. Tập I và Tập II NXB Giáo dục. 2002. 10. Nguyễn Văn Lê - Nguyễn Sinh Huy. Giáo dục học đại cương. NXB Giáo dục Hà Nội. 2000. 11. Luật giáo dục. NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội. 1998. 12. Luật Giáo dục. NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội. 2005. 13. Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội. 1997. 14. Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt. Giáo dục học tập I, (1986) tập II (1987). NXB Giáo dục Hà Nội. 15. Trần Tuyết Oanh (chủ biên). Giáo dục học hiện đại. NXB Đại học Sư phạm. 2004. 16. RAJA. ROY SINGH. Nền giáo dục cho thê kỉ XXI những triển vọng của Châu Á - Thái Bình Dương. Viện Khoa học giáo dục. H. 1994. 17. Lê Thông (chủ biên). Dân số - Môi trường - Tài nguyên. NXB Giáo dục Hà Nội. 1998. 18. Thái Duy Tuyên. Những vấn đề cơ bản của giáo dục học hiện đại. NXB Giáo dục Hà Nội. 1998. 19. Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang. Giá trị định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị. Chương trình KHCN cấp Nhà nước KX- 07. Đề tài KX - 07 - 04. 20. Việt Nam với công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em - NXB Sự thật. Hà Nội. 1991. 21. Phạm Viết Vượng. Giáo dục học. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 2000. 22. Phạm Viết Vượng (chủ biên). Quản tí hành chính nhà nước và quản lí ngành giáo dục và đào tạo. NXB Đại học Sư phạm. 2003. 23. Xkatkin M.N. Lí luận dạy học trường phổ thông. NXB Giáo dục Hà Nội. 1982. MỤC LỤC Phần III LÍ LUẬN GIÁO DỤC Chương XII. QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC I. Khái niệm quá trình giáo dục II. Bản chất và đặc điểm của quá trình giáo dục III. Động lực và các khâu của quá trình giáo dục IV. Tự giáo dục và giáo dục lại Câu hỏi ôn tập và thảo luận Bài tập Chương XIII. NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC I. Khái niệm nguyên tắc giáo dục II. Hệ thống các nguyên tắc giáo dục Câu hỏi ôn tập và thảo luận Bài tập Chương XIV. NỘI DUNG GIÁO DỤC I. Những nội dung giáo dục cơ bản trong nhà trường II. Những nội dung giáo dục mới Câu hỏi ôn tập và thảo luận Chương XV. PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC I. Khái niệm và đặc điểm của phương pháp giáo dục II. Hệ thống các phương pháp giáo dục III. Lựa chọn các phương pháp giáo dục Câu hỏi ôn tập, thảo luận Bài tập Chương XVI. MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC I. Giáo dục gia đình II. Giáo dục nhà trường III. Giáo dục xã hội IV. Một số giải pháp phối hợp giáo dục giữa các môi trường giáo dục Câu hỏi ôn tập, thảo luận Bài tập Phần IV QUẢN LÍ GIÁO DỤC TRONG NHÀ TRƯỜNG Chương XVII. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÍ NHÀ TRƯỜNG I. Quản lí nhà trường II. Bộ máy quản lí trường phổ thông III. Nội dung và phương thức quản lí nhà trường IV. Nhà trường Việt Nam hiện nay và vai trò của hiệu trưởng trong quản lí nhà trường Câu hỏi ôn tập và thảo luận Bài tập Chương XVIII. LAO ĐỘNG SƯ PHẠM CỦA GIÁO VIÊN VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG GIÁO DỤC I. Lao động sư phạm của giáo viên trong nhà trường II. Hoạt động giáo dục ở trường Trung học Câu hỏi ôn tập và thảo luận Bài tập Chương XIX. CÔNG TÁC CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG I. Vai trò, chức năng và nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm lớp II. Giáo viên chủ nhiệm lớp với việc xây dựng tập thể học sinh III. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp IV. Những yêu cầu đối với người giáo viên chủ nhiệm lớp Câu hỏi ôn tập, thảo luận Bài tập Tài liệu tham khảo ---//--- GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC – TẬP 2 Tác giả: TRẦN THỊ TUYẾT OANH (Chủ biên) – PHẠM KHẮC CHƯƠNG - PHẠM VIẾT VƯỢNG – NGUYỄN VĂN DIỆN - LÊ TRÀNG ĐỊNH NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM Chịu trách nhiệm xuất bản: Giám đốc: ĐINH NGỌC BẢO Tổng biên tập: LÊ A Người nhận xét: GS. TSKH THÁI DUY TUYÊN - PGS.TS HÀ THỊ ĐỨC Biên tập nội dung: NGUYỄN THỊ NGỌC HÀ Kĩ thuật vi tính: ĐÀO PHƯƠNG DUYẾN Trình bày bìa: PHẠM VIỆT QUANG Mã số: 01.01.588/681 ĐH 2007 Đăng kí KHXB số: 30-2007/CXB/588-120/ĐHSP, ngày 4/1/2007. In xong và nộp lưu chiểu tháng 8 năm 2007.