Professional Documents
Culture Documents
Thu thập dữ liệu là một giai đoạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với quá trình nghiên cứu các
hiện tượng kinh tế xã hội. Tuy nhiên việc thu thập dữ liệu lại thường tốn nhiều thời gian, công sức và
chi phí; do đó cần phải nắm chắc các phương pháp thu thập dữ liệu để từ đó chọn ra các phương pháp
thích hợp với hiện tượng, làm cơ sở để lập kế hoạch thu thập dữ liệu một cách khoa học, nhằm để đạt
được hiệu quả cao nhất của giai đoạn quan trọng này.
Trong nội dung bài viết này, chủ yếu đề cập đến các phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp. Đó là
những dữ liệu chưa qua xử lý, được thu thập lần đầu, và thu thập trực tiếp từ các đơn vị của tổng thể
nghiên cứu thông qua các cuộc điều tra thống kê. Dữ liệu sơ cấp đáp ứng tốt yêu cầu nghiên cứu, tuy
nhiên việc thu thập dữ liệu sơ cấp lại thường phức tạp, tốn kém. Để khắc phục nhược điểm này, người
ta không tiến hành điều tra hết toàn bộ các đơn vị của tổng thể, mà chỉ điều tra trên 1 số đơn vị gọi là
điều tra chọn mẫu. Bài viết cũng đề cập đến một số vấn đề liên quan đến việc tổ chức điều tra chọn
mẫu trong thu thập dữ liệu sơ cấp như: phương pháp chọn mẫu, phương pháp thiết kế thang đo và
phương pháp thiết kế bảng câu hỏi khi thu thập dữ liệu.
Đi sâu vào phương pháp chọn mẫu ta có 2 phương pháp chọn mẫu cơ bản là :
1-Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên (probability sampling methods):
Chọn mẫu ngẫu nhiên (hay chọn mẫu xác suất) là phương pháp chọn mẫu mà khả năng được chọn
vào tổng thể mẫu của tất cả các đơn vị của tổng thể đều như nhau. Đây là phương pháp tốt nhất để ta có
thể chọn ra một mẫu có khả năng đại biểu cho tổng thể. Vì có thể tính được sai số do chọn mẫu, nhờ đó
ta có thể áp dụng được các phương pháp ước lượng thống kê, kiểm định giả thuyết thống kê trong xử lý
dữ liệu để suy rộng kết quả trên mẫu cho tổng thể chung
Tuy nhiên ta khó áp dụng phương pháp này khi không xác định được danh sách cụ thể của tổng
thể chung (ví dụ nghiên cứu trên tổng thể tiềm ẩn); tốn kém nhiều thời gian, chi phí, nhân lực cho việc
thu thập dữ liệu khi đối tượng phân tán trên nhiều địa bàn cách xa nhau,…
*Các phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên:
Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản (simple random sampling):
Trước tiên lập danh sách các đơn vị của tổng thể chung theo một trật tự nào đó : lập theo vần của
tên, hoặc theo quy mô, hoặc theo địa chỉ…, sau đó đánh số thứ tự các đơn vị trong danh sách; rồi rút
thăm, quay số, dùng bảng số ngẫu nhiên, hoặc dùng máy tính để chọn ra từng đơn vị trong tổng thể
chung vào mẫu.
Thường vận dụng khi các đơn vị của tổng thể chung không phân bố quá rộng về mặt địa lý, các
đơn vị khá đồng đều nhau về đặc điểm đang nghiên cứu. Thường áp dụng trong kiểm tra chất lượng sản
phẩm trong các dây chuyền sản xuất hàng loạt.
Chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống(systematic sampling):
Trước tiên lập danh sách các đơn vị của tổng thể chung theo một trật tự quy ước nào đó, sau đó
đánh số thứ tự các đơn vị trong danh sách. Đầu tiên chọn ngẫu nhiên 1 đơn vị trong danh sách ; sau đó
cứ cách đều k đơn vị lại chọn ra 1 đơn vị vào mẫu,…cứ như thế cho đến khi chọn đủ số đơn vị của
mẫu. Ví dụ : Dựa vào danh sách bầu cử tại 1 thành phố, ta có danh sách theo thứ tự vần của tên chủ hộ,
bao gồm 240.000 hộ. Ta muốn chọn ra một mẫu có 2000 hộ. Vậy khoảng cách chọn là : k=
240000/2000 = 120, có nghĩa là cứ cách 120 hộ thì ta chọn một hộ vào mẫu.
Chọn mẫu cả khối (cluster sampling):
Trước tiên lập danh sách tổng thể chung theo từng khối (như làng, xã, phường, lượng sản phẩm
sản xuất trong 1 khoảng thời gian…). Sau đó, ta chọn ngẫu nhiên một số khối và điều tra tất cả các đơn
vị trong khối đã chọn. Thường dùng phương pháp này khi không có sẵn danh sách đầy đủ của các đơn
vị trong tổng thể cần nghiên cứu. Ví dụ : Tổng thể chung là sinh viên của một trường đại học. Khi đó ta
sẽ lập danh sách các lớp chứ không lập danh sách sinh viên, sau đó chọn ra các lớp để điều tra.
Chọn mẫu phân tầng (stratified sampling):
Trước tiên phân chia tổng thể thành các tổ theo 1 tiêu thức hay nhiều tiêu thức có liên quan đến
mục đích nghiên cứu (như phân tổ các DN theo vùng, theo khu vực, theo loại hình, theo quy mô,…).
Sau đó trong từng tổ, dùng cách chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản hay chọn mẫu hệ thống để chọn ra các
đơn vị của mẫu. Đối với chọn mẫu phân tầng, số đơn vị chọn ra ở mỗi tổ có thể tuân theo tỷ lệ số đơn
vị tổ đó chiếm trong tổng thể, hoặc có thể không tuân theo tỷ lệ. Ví dụ : Một toà soạn báo muốn tiến
hành nghiên cứu trên một mẫu 1000 doanh nghiệp trên cả nước về sự quan tâm của họ đối với tờ báo
nhằm tiếp thị việc đưa thông tin quảng cáo trên báo. Toà soạn có thể căn cứ vào các tiêu thức : vùng
địa lý (miền Bắc, miền Trung, miền Nam) ; hình thức sở hữu (quốc doanh, ngoài quốc doanh, công ty
100% vốn nước ngoài,…) để quyết định cơ cấu của mẫu nghiên cứu.
Chọn mẫu nhiều giai đoạn (multi-stage sampling):
Phương pháp này thường áp dụng đối với tổng thể chung có quy mô quá lớn và địa bàn nghiên
cứu quá rộng. Việc chọn mẫu phải trải qua nhiều giai đoạn (nhiều cấp). Trước tiên phân chia tổng thể
chung thành các đơn vị cấp I, rồi chọn các đơn vị mẫu cấp I. Tiếp đến phân chia mỗi đơn vị mẫu cấp I
thành các đơn vị cấp II, rồi chọn các đơn vị mẫu cấp II…Trong mỗi cấp có thể áp dụng các cách chọn
mẫu ngẫu nhiên đơn giản, chọn mẫu hệ thống, chọn mẫu phân tầng, chọn mẫu cả khối để chọn ra các
đơn vị mẫu. Ví dụ :Muốn chọn ngẫu nhiên 50 hộ từ một thành phố có 10 khu phố, mỗi khu phố có 50
hộ. Cách tiến hành như sau : Trước tiên đánh số thứ tự các khu phố từ 1 đến 10, chọn ngẫu nhiên trong
đó 5 khu phố. Đánh số thứ tự các hộ trong từng khu phố được chọn. Chọn ngẫu nhiên ra 10 hộ trong
mỗi khu phố ta sẽ có đủ mẫu cần thiết.
2-Phuơng pháp chọn mẫu phi ngẫu nhiên (non-probability sampling methods):
Chọn mẫu phi ngẫu nhiên (hay chọn mẫu phi xác suất) là phương pháp chọn mẫu mà các đơn vị
trong tổng thể chung không có khả năng ngang nhau để được chọn vào mẫu nghiên cứu. Chẳng hạn :
Ta tiến hành phỏng vấn các bà nội trợ tới mua hàng tại siêu thị tại một thời điểm nào đó ; như vậy sẽ có
rất nhiều bà nội trợ do không tới mua hàng tại thời điểm đó nên sẽ không có khả năng được chọn
Việc chọn mẫu phi ngẫu nhiên hoàn toàn phụ thuộc vào kinh nghiệm và sự hiểu biết về tổng thể
của người nghiên cứu nên kết quả điều tra thường mang tính chủ quan của người nghiên cứu. Mặt khác,
ta không thể tính được sai số do chọn mẫu, do đó không thể áp dụng phương pháp ước lượng thống kê
để suy rộng kết quả trên mẫu cho tổng thể chung
Các phương pháp chọn mẫu phi ngẫu nhiên:
Chọn mẫu thuận tiện (convenience sampling):
Có nghĩa là lấy mẫu dựa trên sự thuận lợi hay dựa trên tính dễ tiếp cận của đối tượng, ở những
nơi mà nhân viên điều tra có nhiều khả năng gặp được đối tượng. Chẳng hạn nhân viên điều tra có thể
chặn bất cứ người nào mà họ gặp ở trung tâm thương mại, đường phố, cửa hàng,.. để xin thực hiện
cuộc phỏng vấn. Nếu người được phỏng vấn không đồng ý thì họ chuyển sang đối tượng khác. Lấy
mẫu thuận tiện thường được dùng trong nghiên cứu khám phá, để xác định ý nghĩa thực tiễn của vấn đề
nghiên cứu; hoặc để kiểm tra trước bảng câu hỏi nhằm hoàn chỉnh bảng; hoặc khi muốn ước lượng sơ
bộ về vấn đề đang quan tâm mà không muốn mất nhiều thời gian và chi phí.
Chọn mẫu phán đoán (judgement sampling):
Là phương pháp mà phỏng vấn viên là người tự đưa ra phán đoán về đối tượng cần chọn vào
mẫu. Như vậy tính đại diện của mẫu phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm và sự hiểu biết của người tổ
chức việc điều tra và cả người đi thu thập dữ liệu. Chẳng hạn, nhân viên phỏng vấn được yêu cầu đến
các trung tâm thương mại chọn các phụ nữ ăn mặc sang trọng để phỏng vấn. Như vậy không có tiêu
chuẩn cụ thể “thế nào là sang trọng” mà hoàn toàn dựa vào phán đoán để chọn ra người cần phỏng vấn.
Chọn mẫu định ngạch (quota sampling):
Đối với phương pháp chọn mẫu này, trước tiên ta tiến hành phân tổ tổng thể theo một tiêu thức
nào đó mà ta đang quan tâm, cũng giống như chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng, tuy nhiên sau đó ta lại
dùng phương pháp chọn mẫu thuận tiện hay chọn mẫu phán đoán để chọn các đơn vị trong từng tổ để
tiến hành điều tra. Sự phân bổ số đơn vị cần điều tra cho từng tổ được chia hoàn toàn theo kinh nghiệm
chủ quan của người nghiên cứu. Chẳng hạn nhà nghiên cứu yêu cầu các vấn viên đi phỏng vấn 800
người có tuổi trên 18 tại 1 thành phố. Nếu áp dụng phương pháp chọn mẫu định ngạch, ta có thể phân
tổ theo giới tính và tuổi như sau:chọn 400 người (200 nam và 200 nữ) có tuổi từ 18 đến 40, chọn 400
người (200 nam và 200 nữ) có tuổi từ 40 trở lên. Sau đó nhân viên điều tra có thể chọn những người
gần nhà hay thuận lợi cho việc điều tra của họ để dễ nhanh chóng hoàn thành công việc.
2-Kỹ thuật thiết kế thang đo:Có 2 kỹ thuật thiết kế thang đo cơ bản là:
1-Thống kê ứng dụng trong kinh tế xã hội – Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc – NXB Thống
kê 2007
2-Nghiên cứu marketing – David J. Luck / Ronald S. Rubin – NXB Thống kê 2004
3-Nghiên cứu marketing khảo hướng ứng dụng – Dương Hữu Hạnh – NXB Thống kê 2004
4-Nghiên cứu tiếp thị - Trần Xuân Kiêm và Nguyễn văn Thi – NXB Lao động xã hội 2006
.
III.XÁC ĐỊNH QUY MÔ MẪU :
2-Xác định quy mô mẫu khi ước lượng giá trị tham số trên tổng thể chung:
2.1-Trường hợp giá trị tham số của tổng thể là một số tuyệt đối:
Chẳng hạn từ giá trị trung bình của mẫu, ta muốn ước lượng giá trị trung bình của tổng thể với độ
tin cậy (1 − α )% , với sai số cho phép giữa trung bình mẫu và trung bình tổng thể là ε , ta có công thức
ước lượng cỡ mẫu như sau :
z2 σ 2 z2 s2
n = α / 22 hoặc n = α / 22
ε ε
Chú ý:
-Thông thường ta không biết được phương sai tổng thể σ 2 , do đó ta dùng 1 trong 3 cách sau:
+Dựa vào kết quả nghiên cứu tương tự trước đây
+Điều tra thử một mẫu có cỡ mẫu 30 đơn vị để tính phương sai mẫu s 2 theo công thức:
zα2 / 2 s 2
n=
ε2
+Dựa vào kinh nghiệm và sự hiểu biết về tổng thể nghiên cứu để suy đoán.
-Nếu biết được quy mô của tổng thể chung N thì có 2 trường hợp :
+Nếu tỷ lệ n/N < 5% thì ta sử dụng công thức cỡ mẫu như trên.
+Nếu tỷ lệ n/N > 5% thì ta có thể dùng công thức sau để tính cỡ mẫu nhằm để tiết kiệm chi phí
N .zα2 / 2 s 2
điều tra: n =
Nε 2 + s 2 zα2 / 2
2.2-Trường hợp giá trị tham số của tổng thể là một số tương đối:
Chẳng hạn từ giá trị tỷ lệ của mẫu, ta muốn ước lượng giá trị tỷ lệ của tổng thể với độ tin cậy
(1 − α )% , với sai số cho phép giữa tỷ lệ mẫu và tỷ lệ tổng thể là ε , ta có công thức ước lượng cỡ mẫu
như sau :
p.q. zα2 / 2 pˆ .qˆ. zα2 / 2
n= hay n =
ε2 ε2
Chú ý:
-Thông thường ta không biết được tỷ lệ p, q của tổng thể chung; do đó ta có thể dùng 1 trong 3
cách sau:
+Dựa vào kết quả nghiên cứu tương tự trước đây
+Điều tra thử một mẫu có cỡ mẫu 30 đơn vị để tính p và
+Do tính chất: p+q=1, do đó tích p.q sẽ lớn nhất khi p=q=0,5 => p.q =0,25 => thay vào
công thức trên để xác định cỡ mẫu n. Tuy nhiên khi đặt giả định này thì quy mô mẫu sẽ lớn nhất do đó
tốn kém chi phí điều tra.
-Nếu ta biết được quy mô của tổng thể chung N thì có 2 trường hợp :
+Nếu tỷ lệ n/N < 5% thì ta sử dụng công thức cỡ mẫu như trên.
+Nếu tỷ lệ n/N > 5% thì ta có thể dùng công thức hiệu chỉnh sau để tính cỡ mẫu nhằm để tiết
Npq.zα2 / 2
kiệm chi phí điều tra: n =
Nε 2 + p.q. zα2 / 2
THẬP DỮ LIỆU
I. KHÁI NIỆM :
* Khái niệm: Bảng câu hỏi là một công cụ dùng để thu thập dữ liệu; bảng câu hỏi bao gồm một
tập hợp các câu hỏi và các câu trả lời được sắp xếp theo logic nhất định. Bảng câu hỏi là phương tiện
dùng để giao tiếp giữa người nghiên cứu và người trả lời trong tất cả các phương pháp phỏng vấn
* Cấu trúc bảng câu hỏi: thường bao gồm 3 phần:
-Phần giới thiệu: nêu lên chủ đề nghiên cứu, thời gian thực hiện cuộc phỏng vấn, nhấn mạnh tầm
quan trọng của cá nhân hay hộ gia đình tham gia cuộc phỏng vấn để tạo ra sự tham dự tự nguyện của
họ. Phần giới thiệu thường có câu hỏi sàng lọc đối tượng điều tra có thực sự nằm trong mẫu nghiên cứu
không.
Chú ý: Thường không nên nêu rõ đơn vị chủ quản của cuộc điều tra là ai vì dễ tác động đến người
trả lời. Chẳng hạn nếu biết cuộc điều tra do ban giám đốc tiến hành thì các công nhân sẽ trả lời khác
với cuộc điều tra do công đoàn tiến hành.
-Phần nội dung câu hỏi: bao gồm các câu hỏi và các câu trả lời.
-Phần số liệu cơ bản: bao gồm các thông tin thêm về cá nhân hay hộ gia đình như : tên, tuổi, giới
tính, tình trạng hôn nhân, số nhà, số điện thoại, quy mô và đặc điểm hộ gia đình, mức thu nhập, địa bàn
cư trú, hoàn cảnh phỏng vấn (ngày giờ, tên của vấn viên, địa bàn của khách hàng…). Phần thông tin
này thường giúp ta kiểm nghiệm lại việc chọn mẫu, và dùng để phân tích kết quả điều tra một cách sâu
sắc hơn.
II. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH ĐỂ THIẾT KẾ MỘT BẢNG CÂU HỎI:
Có 8 bước cơ bản sau đây để thiết kế một bảng câu hỏi:
Bước 4-Chọn dạng cho câu hỏi. Có 2 dạng câu hỏi: câu hỏi đóng và câu hỏi mở
□ Khái niệm về câu hỏi mở: Là dạng câu hỏi không cấu trúc sẵn phương án trả lời, do đó người
trả lời có thể trả lời hoàn toàn theo ý họ, và vấn viên có nhiệm vụ phải ghi chép lại đầy đủ các câu trả
lời.
Ví dụ: Theo bạn sản phẩm còn nhược điểm nào nữa không ?
Ví dụ: Lý do nào khiến bạn thích sử dụng giày Nike trên những mặt sau:
-Mẫu mã : ……….
-Màu sắc:……..
-Độ bền…..
*Ưu điểm: Có thể thu thập được các câu trả lời bất ngờ, không dự liệu trước. Có thể gợi ý cho
đáp viên trả lời thêm cho đầy đủ nhằm tạo được các câu trả lời hoàn chỉnh so với yêu cầu của câu hỏi
ban đầu. Người trả lời có thể thoải mái nói lên quan điểm của mình về một vấn đề nào đó mà không bị
ràng buộc trong một khuôn khổ nhất định. Thường có tác dụng tốt khi khởi đầu buổi phỏng vấn nhằm
tạo nên quan hệ hợp tác tốt khi phỏng vấn sau đó.
*Nhược điểm: Rất khó để hiểu được hết ý của người trả lời nếu khả năng diễn đạt của họ kém.
Mất nhiều thời gian vì người trả lời thường nói lan man. Nếu người vấn viên không ghi chép đầy đủ thì
thông tin sẽ bị bỏ sót. Khó cho khâu xử lý dữ liệu sau này.
□ Khái niệm về câu hỏi đóng: Là dạng câu hỏi mà ta đã cấu trúc sẵn phương án trả lời. Bao gồm
4 dạng sau :
a-Câu hỏi phản đối: Là dạng câu hỏi mà câu trả lời có dạng: “ có hoặc không “, “đồng ý hay
phản đối”.
*ưu điểm: thiết kế câu hỏi nhanh chóng, dễ dàng cho người trả lời và cho người đi điều tra, dễ xử
lý dữ liệu.
*nhược điểm: cách dùng từ ngữ phải thật chính xác, không cung cấp được thông tin chi tiết, đôi
khi bắt buộc người trả lời phải lựa chọn một phương án mà họ chưa chắc chắn lắm.
b-Câu hỏi xếp hạng thứ tự: Là dạng câu hỏi mà ta đưa ra sẵn các phương án trả lời, và để cho
người trả lời lựa chọn, so sánh và xếp hạng chúng theo thứ tự.
Ví dụ: Nhân tố tác động đến quyết định ghi danh vào ngành quản trị kinh doanh của bạn là gì ?
(Xếp hạng theo thứ tự từ nhân tố có tác động lớn nhất (1) đến nhân tố có tác động ít nhất (5):
-Do ý thích của bản thân
-Do hướng dẫn, gợi ý của người thân
-Do ảnh hưởng của bạn bè
-Do ảnh hưởng của sinh viên các khoá trước
-Do uy tín của giảng viên
*Ưu điểm: Dễ giải thích cho người trả lời.Thu thập dữ liệu nhanh chóng. Thuận lợi đối với việc
xử lý dữ liệu.
*Nhược điểm: Không chỉ ra được những cách biệt giữa các lựa chọn. Câu trả lời thường chỉ giới
hạn trong phạm vi từ 5 đến 6 đề mục (nếu nhiều hơn thì sẽ gây khó khăn cho người trả lời khi phải so
sánh lựa chọn giữa các đề mục). Người trả lời phải có hiểu biết về tất cả các đề mục đưa ra. Người đặt
câu hỏi khó bao quát hết các tình huống cho câu hỏi.
c-Câu hỏi đánh dấu tình huống trong danh sách: Là dạng câu hỏi mà ta đưa ra sẵn danh sách
các phương án trả lời, và người trả lời sẽ đánh dấu vào những đề mục phù hợp với họ.
Ví dụ: Bạn hãy đánh dấu vào các nhãn hiệu kem đánh răng mà bạn biết trong danh sách liệt kê
dưới đây:
-Nhãn P/S, nhãn Colgate, nhãn Close-up, nhãn Fresh, nhãn khác (ghi rõ tên)
Ví dụ: Bạn hãy đánh dấu vào nhãn hiệu kem đánh răng mà bạn sử dụng nhiều nhất trong danh
sách các nhãn hiệu liệt kê dưới đây (chỉ chọn 1 phương án trả lời):
-Nhãn P/S, nhãn Colgate, nhãn Close-up, nhãn Fresh, nhãn khác (ghi rõ tên)
d-Câu hỏi dạng bậc thang: Là dạng câu hỏi dùng thang đo thứ tự hoặc thang đo khoảng để hỏi
về mức độ đồng ý hay phản đối, mức độ thích hay ghét…của người trả lời về một vấn đề nào đó .
Ví dụ: Đối với công dụng tạo mùi thơm cho quần áo của sản phẩm bột giặt OMO, mức độ hài
lòng của bạn về sản phẩm như thế nào (hãy đánh dấu X vào một □ trong các □ sau):
rất thích □, thích vừa phải □, không thích không ghét □, ghét vừa phải □, rất ghét □
Bước 5: Xác định từ ngữ thích hợp cho bảng câu hỏi:
Nên tuân theo nguyên tắc chung sau đây khi xác định từ ngữ cho bảng câu hỏi:
-Nên dùng từ ngữ quen thuộc, tránh dùng tiếng lóng hoặc từ chuyên môn
-Nên dùng từ ngữ dễ hiểu, để mọi người ở bất cứ trình độ nào cũng có thể hiểu được.
-Tránh đưa ra câu hỏi dài quá (khiến đáp viên phải mất công theo dõi câu hỏi, nên dễ nản lòng)
-Tránh đặt câu hỏi mơ hồ, không rõ ràng.
Ví dụ: Không nên hỏi : Bạn có thường xuyên đi mua sắm tại siêu thị k? (người trả lời sẽ không
biết “thường xuyên” là bao nhiêu lần?) do đó có thể thay bằng câu hỏi:
Bạn đến siêu thị mua sắm mấy lần trong 1 tuần:1 lần □, 2-3 lần □, 4-5 lần □, trên 5 lần □
Hay: Lần cuối cùng bạn đến siêu thị mua sắm là khi nào ? hay trung bình một tuần/ 1 tháng đến
siêu thị mấy lần để mua sắm ?)
-Tránh đưa ra câu hỏi bắt người trả lời phải hồi tưởng nhiều (vì khi đó người trả lời phải
phỏng đoán làm cho dữ liệu không chính xác)
Ví dụ: Trước khi cưới nhau, anh/chị đã hò hẹn đi chơi chung với nhau bao nhiêu lần ?
Ví dụ: Khi mua thức ăn nhanh, bao nhiêu % trong tổng số lần bạn đã mua loại thức ăn của hãng
XY ? (có thể đặt câu hỏi là : trong 10 lần mua thức ăn nhanh gần đây nhất,….)
-Tránh đưa ra câu hỏi quá cụ thể:
Ví dụ: Khi đến một viện bảo tàng, bạn đã đọc bao nhiêu lần các bảng ghi hướng dẫn về hiện vật
được trưng bày (có thể đặt câu hỏi: bạn thường xuyên đọc/ đôi khi đọc / hiếm khi đọc/ không bao giờ
đọc các bảng hướng dẫn)
-Tránh đưa ra câu hỏi quá cường điệu hay quá nhấn mạnh vào một khía cạnh nào đó
Ví dụ: Bạn có ủng hộ việc tăng giá điện để đầu tư phát triển ngành điện trong điều kiện lạm phát
giá cả hiện nay không ?
-Tránh đặt câu hỏi đã gợi ý sẵn câu trả lời.
Ví dụ: Bạn có tán thành việc giới hạn hơn nữa tốc độ xe máy để giảm bớt tử vong do TNGT
không?
Bạn có tán thành việc cho học sinh sử dụng xe máy để đến trường nhằm giảm bớt tai nạn giao
thông không?
-Tránh đặt câu hỏi làm cho người trả lời có xu hướng trả lời cực đoan.
Ví dụ: Cảm nhận của bạn về một mẫu thời trang : Thích □ ; Không thích không ghét □, Ghét □
(Vì câu trả lời không thích không ghét hơi mơ hồ, nên họ sẽ có xu hướng chọn thích hay ghét
hơn. Do đó cần thiết kế thang đo có nhiều mức độ hơn cho họ lựa chọn nhằm tránh sự cực đoan này :
rất thích, khá thích, hơi thích, không thích không ghét, hơi ghét, khá ghét, rất ghét).
-Tránh đặt câu hỏi dựa theo giá trị xã hội đã xác nhận.
Ví dụ: ông có kiếm nhiều tiền hơn vợ không? thì thường nhận được câu trả lời là “có” vì theo
quan niệm xã hội thì chồng phải hơn vợ.
-Tránh dùng ngôn từ không phù hợp với đối tượng được hỏi.
Ví dụ: Khi đối tượng là nông dân, không nên dùng từ “thu nhập” mà dùng từ “kiếm được bao
nhiêu tiền”, hoặc tuỳ theo địa phương mà dùng từ phù hợp. Tuy nhiên nếu đối tượng là nhóm chuyên
môn thì có thể dùng từ chuyên môn để khỏi phải diễn đạt dài dòng và mất thời gian giải thích.
-Tránh dùng ngôn từ đã có sẵn sự đánh giá thiên kiến.
Chẳng hạn: sản phẩm hàng đầu, sản phẩm đại hạ giá,…
-Tránh hỏi trực tiếp những vấn đề riêng tư cá nhân.
Chẳng hạn: không nên hỏi con số cụ thể về thu nhập của một người, mà chỉ nên hỏi theo từng
nhóm : chẳng hạn dưới 1 triệu đ/tháng, từ 1 đến 3 triệu đ, từ 3 đến 5 triệu,…
Hoặc đối với phụ nữ, không nên hỏi tuổi cụ thể mà nên đưa ra các nhóm tuổi
-Có thể dùng những câu hỏi trá hình để xoá tan tâm lý e ngại của người trả lời
Chẳng hạn khi muốn hỏi số lượng bia uống trong một ngày dễ gặp tình huống người uống bia
muốn giấu thông tin này, bởi vậy ta dùng câu hỏi trá hình như sau:
Bạn hãy cho biết bạn ưa thích nhất : xà phòng tắm hiệu gì ? kem đánh răng hiệu gì ? bia hiệu
gì ? (người không uống bia sẽ không trả lời, còn người uống bia sẽ trả lời ngay tên nhãn hiệu bia mình
ưa thích).
Sau đó ta hỏi tiếp: Xin cho biết số lượng bia mà bạn dùng trong 1 tuần ?
Hãy đưa cho người đó một bảng mã ghi các ký tự chẳng hạn: A (uống nhiều : >60 lon), B (uống
khá : 49-60 lon), C (uống vừa : 37 – 48 lon), D (uống vừa vừa: 25-36 lon), E (uống ít: 13-24 lon),
F(uống hơi ít: 7-12 lon), G (uống rất ít : <7 lon). Như vậy một người uống như hũ chìm với mức 36 lon
một tuần khi chọn câu trả lời là “uống vừa” sẽ không còn tâm lý e ngại tiết lộ bí mật của mình nữa
-Tránh đặt câu hỏi khơi gợi sĩ diện.
Chẳng hạn: Điều tra nhu cầu nhà cửa để bán cho dân. Vì sĩ diện một người có thể trả lời thích
mua nhà có 1 phòng khách, 3 phòng ngủ, 1 phòng tắm, 1 nhà bếp; trong khi khả năng tài chính chỉ có
thể mua một căn hộ nhỏ.