TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN 12 – PHẦN VĂN HỌC
NĂM HỌC
2017 - 2018
BÀI GIẢNG:
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
Nguyễn Tuân
A. Tìm hiểu chung:
I. Tác giả:
1. Đặc điểm con người:
- Là một nghệ sĩ có cá tính độc đáo, có ý thức cá nhân sâu sắc. Ông sáng tạo văn
chương trước hết là để khoe tài, để khẳng định cái tôi.
- Là con người tài hoa, uyên bác. Ông có vốn sống phong phú, am hiểu nhiều ngành
văn hoá, nhiều bộ môn nghệ thuật... Ông thường vận dụng con mắt và thủ pháp của hội hoạ,
điện ảnh, điêu khắc, âm nhạc,... vào việc sáng tạo văn chương.
- Là một trí thức yêu nước, giàu tinh thần dân tộc. Ông cũng là nhà văn rất quý trọng
nghề viết và là mẫu mực của tinh thần lao động nghệ thuật nghiêm túc.
2. Sự nghiệp sáng tác:
- Trước 1945: Sáng tác của Nguyễn Tuân tập trung vào ba đề tài chính.
+ Đề tài chủ nghĩa xê dịch:
Viết về bước chân của cái tôi lãng tử qua những miền quê. Đó là những trang viết tài
hoa, trìu mến ghi lại những cảnh sắc thiên nhiên, phong vị đất nước, những cảnh sinh hoạt
độc đáo của các vùng đất nước.
Tác phẩm: Một chuyến đi (1938), Thiếu quê hương (1940)...
+ Đề tài “vẻ đẹp vang bóng một thời”:
Viết về những vẻ đẹp còn vương sót lại của một thời đã lùi vào dĩ vãng gắn với lớp
nho sĩ cuối mùa đã trở nên lạc lõng với thời hiện tại. Đó là những thói quen phong lưu,
những kiểu ăn chơi cầu kì, đài các, những thú tiêu dao lành mạnh, tao nhã, những cách ứng
xử nghi lễ, nhịp nhàng... Những trang viết thấm đượm tinh thần dân tộc, thể hiện khát vọng
vượt lên môi trường sông dung tục, bộc lộ niềm say mê cái tài, cái đẹp, trân trọng những giá
trị văn hoá cổ truyền.
Tác phẩm: Vang bóng một thời (1940), Tóc chị Hoài (1943).
+ Đề tài đời sống truỵ lạc:
Ghi lại quãng đời do hoang mang bê tắc, con người đã tìm cách thoát li trong rượu,
thuốc phiện và đàn hát cô đầu, qua đó làm hiện lên tâm trạng khủng hoảng và lối sống buông
thả, vô trách nhiệm của một bộ phận thanh niên đương thời, cũng đồng thời cho thấy niềm
khao khát thoát ra khỏi tình trạng đó, hưổng tới thế giới tinh thần cao khiết của nghệ thuật.
Tác phẩm: Chiếc lư đồng mắt cua, Ngọn đèn dầu lạc...
- Sau 1945: Nguyễn Tuân đến với cách mạng và kháng chiến, trở thành nhà văn công
dân, nhà văn chiến sĩ. Sáng tác của ông tập trung ca ngợi đất nước và con người Việt Nam
trong chiến đấu và lao động sản xuất. Nguyễn Tuân phản ánh vẻ đẹp của người Việt Nam
anh dũng và tài hoa trong những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại (Tình chiến dịch - 1950, Hà
1 GV: LÊ DUY TÂN – TRƯỜNG THPT GIA ĐỊNH (Tài liệu lưu hành nội bộ)
TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN 12 – PHẦN VĂN HỌC
NĂM HỌC
2017 - 2018
Nội ta đánh Mĩ giỏi - 1972); ông cũng ca ngợi con người Việt Nam cần cù, tài hoa trong
công cuộc lao động xây dựng đất nước (Sông Đà - 1960).
Ngoài kí, tùy bút, Nguyễn Tuân còn viết tiểu luận phê bình và chân dung văn học với
những phát hiện sâu sắc, độc đáo.
3. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân:
a. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân:
Nguyễn Tuân luôn có ý thức tạo cho mình một phong cách riêng độc đáo, thể hiện thái
độ ngông trong văn chương, thái độ được tạo ra bởi sự tài hoa uyên bác và nhân cách khác
người, hơn người.
- Văn Nguyễn Tuân thể hiện rõ chất tài hoa - uyên bác: tài hoa trong việc dựng
người, vẽ cảnh, trong những liên tưởng, so sánh táo bạo, bất ngờ, thú vị với những hình ảnh
đẹp, gợi cảm; uyên bác trong việc vận dụng những kiến thức thuộc nhiều ngành khác nhau đê
quan sát hiện thực, sáng tạo hình tượng, làm phong phú và giàu có hơn khả năng diễn tả của
nghệ thuật văn chương, đem đến cho người đọc một lượng tri thức đa dạng, phong phú.
- Là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân thường quan sát, khám
phá, diễn tả thế giới ở phương diện văn hoá, thẩm mĩ; quan sát, khám phá, diễn tả con
người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ:
+ Trước 1945, Nguyễn Tuân tìm kiếm cái đẹp chỉ còn trong quá khứ vang bóng một
thời; tài hoa nghệ sĩ cũng chỉ có trong những con người xuất chúng, đặc tuyển, lạc lõng bơ
vơ giữa hiện tại. Đó là những con người siêu phàm, đặc biệt như : một đao phủ nghệ sĩ, một
hành khất nghệ sĩ, một tử tù nghệ sĩ...
+ Sau 1945, Nguyễn Tuân tìm thấy cái đẹp trong cả quá khứ, hiện tại và tương lai;
chất tài hoa nghệ sĩ cũng có thể xuất hiện ở những thành tích sản xuất, chiến đấu của những
người lao động bình thường trong cuộc sống đời thường như: một anh bộ đội, một người lái
xe, hay một ông lái đò,...
- Nguyễn Tuân có cảm hứng đặc biệt với những tính cách phi thường, những
phong cảnh tuyệt mĩ, những gió bão, thác ghềnh dữ dội... Thiên nhiên, con người trong
văn Nguyễn Tuân luôn phi thường, xuất chúng, gây cảm giác mãnh liệt, tất cả đều có xu
hướng vươn tới cái tuyệt vời, tuyệt đích. Nguyễn Tuân là một tâm hồn nghệ sĩ tha thiết yêu
thiên nhiên, ông có những phát hiện tinh tế, độc đáo về thiên nhiên. Thiên nhiên trong văn
Nguyễn Tuân luôn hiện ra như những công trình mĩ thuật kì vĩ, tuyệt vời của tạo hoá.
Nguyễn Tuân có một vị trí và đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của văn học
hiện đại, đem đến cho văn xuôi hiện đại một phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác, phóng
túng và độc đáo:
+ Cá tính mạnh mẽ, cách sống tự do, phóng túng, ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân
khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu. Nguyễn Tuân đã đưa thể tuỳ
bút lên tới trình độ nghệ thuật cao. Ông là người thúc đẩy cho thể tùy bút, bút kí văn học.
2 GV: LÊ DUY TÂN – TRƯỜNG THPT GIA ĐỊNH (Tài liệu lưu hành nội bộ)
TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN 12 – PHẦN VĂN HỌC
NĂM HỌC
2017 - 2018
+ Nguyễn Tuân cũng có những đóng góp lớn lao cho sự phát triển của ngôn ngữ văn
xuôi nghệ thuật từ cách tổ chức câu văn sáng tạo nhạc điệu, kho từ vựng phong phú cho đến
chất văn vừa trang nhã, cổ kính vừa sắc sảo, hiện đại. Ông là nhà văn có công lớn trong việc
làm phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc.
b. Những biến chuyển trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân trước và sau
CMT8:
Trước Cách mạng
Sau Cách mạng
Quan niệm cái đẹp chỉ có trong quá khứ Không đối lập quá khứ với hiện tại. Cái
và tài hoa nghệ sĩ chỉ có ở những con đẹp có cả ở quá khứ, hiện tại và tương lai;
người xuất chúng.
và tài hoa có thể có ở cả nhân dân đại
chúng
Tìm cảm giác mạnh ở quá khứ vang bóng Tìm những hiện tượng gây cảm giác
một thời, ở chủ nghĩa xê dịch, ở đời sống mạnh ở những phong cảnh đẹp, hùng vĩ
trụy lạc, ở thế giới ma quỷ...
của thiên đất nước và ở những thành tích
của nhân dân trong chiến đấu và lao động.
Sử dụng thể văn tùy bút, thiên về diễn tả Vẫn dùng thể văn tùy bút nhưng có pha
nội tâm của cái tôi chủ quan.
chất kí với bút pháp hướng ngoại để phản
ánh hiện thực, ghi chép thành tích chiến
đấu và xây dựng đất nước của nhân dân.
II. Văn bản:
1. Xuất xứ - hoàn cảnh sáng tác:
- “Người lái đò Sông Đà” là kết quả của nhiều dịp Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc, đặc
biệt là chuyến đi thực tế năm 1958.
- Đây là một trong 15 bài tùy bút in trong tập Sông Đà (1960) – tập tùy bút cho thấy
diện mạo của một Nguyễn Tuân đã căn bản đổi thay, để trở thành một nhà văn mới trong thời
đại mới.
2. Thể loại: tùy bút
a. Thể loại kí:
Kí văn học là một thể loại lấy sự thật khách quan của đời sống và tính xác thực của
đối tượng làm cơ sở để tạo ra giá trị nhận thức, tạo ra sức thuyết phục, sức lay động đối với
ngưòi đọc. Đặc biệt, người trực tiếp tiếp cận, nghiên cứu cuộc sống, phát hiện vấn đề, tìm tòi
và khái quát ý nghĩa xã hội thẩm mĩ của con người, sự kiện được ghi chép trong tác phẩm là
tác giả kí. Do hướng tới những phạm vi thông tin và nhận thức đa dạng nên kí cũng đa dạng
về kiểu loại và kết cấu, tiêu biểu như: kí sự, bút kí, phóng sự, hồi kí, nhật kí, tuỳ bút,...
b. Thể tùy bút:
- Tuỳ bút thường là tác phẩm văn xuôi tự sự cỡ nhỏ, thuộc thể loại kí.
- Tuỳ bút có cấu trúc tự do phóng túng, hầu như không có luật lệ, quy phạm gì chặt
chẽ, không bị câu thúc bởi một cốt truyện cụ thể nào. Nhà văn biểu thị những ấn tượng và
suy nghĩ cá nhân về những sự việc, những vấn đề cụ thể.
3 GV: LÊ DUY TÂN – TRƯỜNG THPT GIA ĐỊNH (Tài liệu lưu hành nội bộ)
TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN 12 – PHẦN VĂN HỌC
NĂM HỌC
2017 - 2018
- Tuỳ bút là những tác phẩm mà những phẩm chất riêng, cốt cách riêng của tác giả
luôn nổi lên trên bình diện thứ nhất.
+ Tuỳ bút mang tính chất chủ quan, chất trữ tình rất đậm, nhân vật chính lả cái tôi của
nhà văn, bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức đánh giá của mình về con người và cuộc sống
hiện tại. Sự hấp dẫn của tuỳ bút chính là ở lực hút của cái tôi ấy.
+ Trong tuỳ bút, cái tôi của tác giả đa dạng, nên khuôn mặt thể loại ở mỗi tác phẩm
cũng có nét độc đáo riêng. Có tuỳ bút thiên về triết lí, có tác phẩm thiên về thông tin khoa
học (văn hoá, văn học, lịch sử hay phong tục), có loại thuần trữ tình.
- Ngôn ngữ của tuỳ bút rất giàu hình ảnh và chất thơ.
c. Đặc điểm tùy bút Nguyễn Tuân:
- Tuỳ bút của Nguyễn Tuân có nhiều yếu tố truyện. Nguyễn Tuân bén duyên với
truyện trước sau đó mói gặp gỡ tuỳ bút. Vì vậy, truyện ngắn của ông xen chất tuỳ bút và tuỳ
bút lại pha chất truyện ngắn. Tuỳ bút của ông thường phát huy sức mạnh của trí tưởng tượng,
liên tưởng so sánh để dựng cảnh, dựng truyện, có mô tả tâm lí, khắc hoạ tính cách nhân vật ở
một chừng mực nhất định.
- Tuỳ bút của Nguyễn Tuân rất đậm tính chất kí. Ghi chép sự thật và thông tin thời
sự chính xác, đó là nét riêng của tùy bút Nguyễn Tuân. Cũng do quan niệm đi, sống và viết,
xê dịch nên tuỳ bút của ông pha du kí, kí sự hay phóng sự điều tra. Chính nét riêng này khiến
tuỳ bút của ông có lượng thông tin đáng tin cậy và có nhiều giá trị tư liệu.
- Tuỳ bút của Nguyễn Tuân giàu tính trữ tình. Những trang tuỳ bút của Nguyễn
Tuân thường nóng hổi cảm xúc, lắng thấm những cảm nghĩ của ông, thông qua cái tôi chủ
quan của ông mà phản ánh hiện thực cuộc sống.
- Tuỳ bút của Nguyễn Tuân đúng nghĩa tự do về phép tắc. Tuỳ bút là một tác phẩm
tự sự có kết cấu lỏng lẻo, nhưng không buông tuồng dễ dãi. Ở tuỳ bút của Nguyễn Tuân,
mạch văn cứ theo dòng suy nghĩ mà tràn chảy miên man từ chuyện nọ bắt tạt ngang sang
chuyện kia. Nhà văn cứ chuồi theo hứng bút, cứ nhởn nhơ theo trí nhớ bông lông, cứ chiều
theo năng lực cảm thụ cái đẹp rất tài hoa nghệ sĩ của mình mà liên tưởng so sánh, tạo những
bước nhảy vọt bất ngờ của ý tứ, của hình ảnh, nhưng không chệch ra ngoài vẻ đẹp độc đáo
của nghệ thuật.
- Tuỳ bút của Nguyễn Tuân có phẩm chất văn chương qua sự tìm tòi sáng tạo về cách
diễn ý, tả cảnh, đặt câu, dùng từ. Văn tuỳ bút của Nguyễn Tuân là cả một kho tu từ ắp đầy
và thú vị như ví von, so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng. Nhà văn tả cảnh theo sự thay đổi
cảm giác rất tinh tế. “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử... hồn nhiên như một nỗi niềm cổ
tích tuổi xưa” (Sông Đà), “Mùa đông năm 1967, da trời Hà Nội thấp thỏm xanh ngắt một
niềm cảnh giác” (Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi). Câu văn tuỳ bút Nguyễn Tuân có cấu trúc đa
dạng, giàu nhạc tính.
3. Bố cục: 2 phần
- Phần 1 (từ đầu đến “họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo”): Khắc nổi phẩm chất hung bạo
của Sông Đà và ngợi ca phẩm chất trí dũng, tài hoa của người lái đò.
4 GV: LÊ DUY TÂN – TRƯỜNG THPT GIA ĐỊNH (Tài liệu lưu hành nội bộ)
TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN 12 – PHẦN VĂN HỌC
NĂM HỌC
2017 - 2018
- Phần 2 (còn lại): Miêu tả vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà qua đó thể hiện lòng yêu thiên
nhiên đất nước của nhà văn.
4. Chủ đề:
Qua hình ảnh con Sông Đà hung bạo và thơ mộng, người lái đò giản dị mà anh dũng,
tài hoa, Nguyễn Tuân ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người vùng Tây Bắc của tổ
quốc.
5. Cảm hứng chủ đạo:
Nhiệt tình ca ngợi Tổ quốc, ca ngợi nhân dân của một nhà văn mà trái tim đang tràn
đầy niềm hứng khời khi thấy mình đã có đất nước, đã không còn “thiếu quê hương”.
B. Đọc - hiểu văn bản:
I. Hình tượng Sông Đà:
Nguyễn Tuân là nhà văn luôn khám phá đời sống từ phương diện văn hóa, thẩm mỹ vì
vậy trong tùy bút Người lái đò sông Đà, con sông Đà đã hiện lên như một công trình mỹ
thuật tuyệt vời của tạo hóa in đậm bản ngã văn chương của Nguyễn Tuân. Sông Đà dưới
quyền năng sáng tạo của nhà văn lấp lánh hai nét tính cách: hung bạo và trữ tình. Lúc hung
bạo, con sông là “thứ kẻ thù số một” của con người. Lúc trữ tình, dòng chảy ấy lại tràn đầy,
sóng sánh chất thơ và thân thiết với con người như một “cố nhân”, xa thì nhớ nhung lưu
luyến.
1. Tính cách hung bạo – thể hiện qua vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của Đà giang:
a. Hướng chảy độc đáo:
Mở đầu tác phẩm, mượn câu thơ của Nguyễn Quang Bích: “Chúng thủy giai đông tẩu
– Đà giang độc bắc lưu”, Nguyễn Tuân đã giới thiệu cho người đọc tính cách khác thường,
độc đáo của sông Đà: Mọi dòng sông đều chảy về hướng Đông - Chỉ có sông Đà chảy theo
hướng Bắc.
b. Cảnh đá hai bên bờ sông:
- Sự hùng vĩ và hung dữ của sông Đà trước hết thể hiện ở cảnh đá bờ sông “dựng
vách thành”. Chỉ với một hình ảnh “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”,
Nguyễn Tuân vừa giúp người đọc hình dung được độ cao của cảnh đá hai bên bờ sông vừa
diễn tả được cái lạnh lẽo, âm u của những khúc sông có đá dựng thành vách. Thì ra đá ở hai
bên bờ sông đã chắn hết ánh nắng, chúng không cho bất cứ tia nắng nào rọi chiếu xuống mặt
sông trừ lúc giữa trưa. Bởi thế quãng sông này - ngoài lúc chính ngọ - luôn luôn âm u, lạnh
lẽo đến ghê người.
- Chưa hết, hiểm trở của sông Đà còn thể hiện ở chỗ “vách đá thành chẹt lòng Sông
Đà như một cái yết hầu”. So sánh với một bộ phận nhỏ, hẹp ở cổ họng con người, Nguyễn
Tuân đã diễn tả một cách hình ảnh sự nhỏ hẹp của dòng chảy. Và như để tô đậm thêm cho
điều đó, nhà văn đã sử dụng liên tiếp hai hình ảnh so sánh: “đứng bên này bờ nhẹ tay ném
hòn đá qua bên kia vách” và “có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ
kia”. Nhà văn không trực tiếp nói ra nhưng ai cũng hiểu rằng, ở những chỗ đá chẹt lòng sông
5 GV: LÊ DUY TÂN – TRƯỜNG THPT GIA ĐỊNH (Tài liệu lưu hành nội bộ)
TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN 12 – PHẦN VĂN HỌC
NĂM HỌC
2017 - 2018
Đà như “cái yết hầu”, lưu tốc của dòng chảy là rất lớn, nhất là vào mùa nước lũ. Đi vào một
khúc sông như thế, không thể không cảm thấy sự nguy hiểm đang rình rập.
- Như chưa thoả mãn với sự miêu tả trên, Nguyễn Tuân tiếp tục khắc sâu ấn tượng về
độ cao của những vách đá, sự lạnh lẽo, u tối của đoạn sông và sự nhỏ hẹp của dòng chảy
bằng một liên tưởng độc đáo: “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng
thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa
sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Thật bất ngờ và thú vị khi
nhà văn so sánh cái cảm giác của con người giữa thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ với một
khoảnh khắc của đời sống hiện đại giữa chốn thị thành. Tưởng như xa cách mà lại hoá gần, ai
chưa có dịp được trải nghiệm cái cảm giác “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy” cũng có
thể cảm nhận được điểu đó trong một hiện thực rất gần với mình. Cảm nhận ấy lại được thu
về, được tổng hợp từ nhiều giác quan khác nhau (đặc biệt là thị giác và xúc giác) nên sự liên
tưởng và đồng cảm với nhà văn càng trở nên rõ nét và sâu sắc. Phải là người có óc tưởng
tượng sáng tạo và trường liên tưởng phong phú, Nguyễn Tuân mới tạo ra được những đoạn
văn độc đáo, thú vị đến vậy.
NHẬN XÉT:
Những câu văn của Nguyễn Tuân liên kết thành một liên hoàn giàu giá trị thẩm mĩ
như muốn thôi miên người đọc trong chuỗi liên tưởng tưởng tượng vô tận. Tả đá trên sông
Đà, Nguyễn Tuân sử dụng nhiều giác quan để cảm nhận (thị giác, xúc giác) đồng thời dùng
nhiều hình ảnh so sánh để khắc họa tính chất hùng vĩ, dữ dội, hiểm trở của sông Đà.
c. Quãng mặt ghềnh Hát Loóng:
- Sự hung bạo của sông Đà tiếp tục được đẩy cao hơn trong đoạn văn miêu tả cảnh
mặt ghềnh Hát Loóng. Cả đoạn văn thể hiện sự hung dữ của Đà giang ở “quãng mặt ghềnh
Hát Loóng” chỉ có hai câu văn. Nhưng bằng sự kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật, Nguyễn
Tuân đã làm nổi bật lên tính chất hung bạo của sông Đà.
- Trước hết, nhà văn đã nhân hoá con sông như một kẻ chuyên đi đòi nợ dữ dằn (“gùn
ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào”). Thủ pháp
điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc (“nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”) lại được hỗ trợ bởi
các thanh trắc liên tiếp đã tạo nên âm hưởng dữ dội, nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như vừa
xô đẩy vừa hợp sức của gió, sóng và đá khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ
dội. Câu văn đang đi những nhịp ngắn bỗng duỗi dài ra theo lối tăng tiến (“nước xô đá, đá
xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ
xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy”) khiến cho những chuyển vận của
sóng, gió và đá ngày càng lớn, càng bức thúc tạo nên một mối đe doạ thực sự đối với bất cứ
người lái đò nào đi qua những ghềnh sông như thế. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân
đã hạ một câu văn bình luận trữ tình ngay sau đó: “Quãng này mà khinh suất tay lái thì
cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
d. Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát:
6 GV: LÊ DUY TÂN – TRƯỜNG THPT GIA ĐỊNH (Tài liệu lưu hành nội bộ)
TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN 12 – PHẦN VĂN HỌC
NĂM HỌC
2017 - 2018
- Sự hung bạo của sông Đà còn thấy ở những “cái hút nước” chết người. Bất cứ ai
cũng có thể hình dung ít nhiều về những chỗ nước xoáy xiết trên sông nhưng nó chưa thể độc
hiểm bằng những “cái hút nước” mà Nguyễn Tuân đã khắc hoạ trong tác phẩm. Bằng so
sánh và nhân hoá, bằng kể và tả, bằng những liên tưởng và tưởng tượng bất ngờ, nhà văn đã
khiến cho những cái hút nước ấy hiện hình dưới nhiều góc độ khác nhau đồng thời giúp
người đọc cảm nhận được tất cả sự ghê gớm và “độc ác” của chúng.
- Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, những cái hút nước sông Đà giống như những “cái
giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”; lúc thì “thở và kêu như cửa
cống cái bị sặc”, khi thì “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Tự bản thân các từ và cụm từ:
thở, kêu, sặc, ặc ặc lên, rót dầu sôi vào… đã nói lên cường lực ghê gớm của những cái hút
nước.
- Nhưng Nguyễn Tuân không đời nào chịu dừng lại ở đó. Bằng vốn sống phong phú,
bằng trí tưởng tượng sáng tạo, nhà văn đã tô đậm mức độ khủng khiếp của những hút nước
qua hàng loạt các so sánh, liên tưởng độc đáo. Nhà văn đã ví những con thuyền phải qua
những vùng xoáy nước thật nhanh như “ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một
quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực”. Nhà văn đã tưởng tượng anh bạn quay phim táo
tợn muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả đã “dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng
tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà - từ đáy cái
hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải.
Thế rồi thu ảnh”. Rõ ràng, những tri thức về nhiều lĩnh vực khác nhau (giao thông, điện ảnh)
đã giúp Nguyễn Tuân có cái nhìn đa chiều về một hiện tượng đồng thời làm cho nó hiện hình
rõ nét và đọng lại ấn tượng đậm nét trong lòng bạn đọc.
- Ngoài ra, như để bạn đọc khỏi thoát li thực tế trong những tưởng tượng viển vông,
Nguyễn Tuân đã kết hợp tả và kể một cách hiện thực và giàu hình ảnh về những cái thuyền bị
cái hút nước nó hút xuống: “thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi
ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Đó là
những hình ảnh đầy chất hiện thực mà bất cứ ai khi đọc đến cũng đều có thể hình dung ra sự
“tàn nhẫn” của những cái hút nước sông Đà. Cứ thế tưởng tượng nối tiếp tưởng tượng tài hoa
vẫy gọi tài hoa những dòng văn của Nguyễn Tuân một lúc một thêm kì thú.
e. Những con thác dữ trên Sông Đà:
- Hùng vĩ nhất của sông Đà phải kể đến những cái thác nước mang diện mạo và tâm
địa của “kẻ thù số một của con người” hung bạo bủa vây, chặn bắt thuyền bè qua lại nơi
đây. Bằng quyền năng của một nghệ sĩ ngôn từ, Nguyễn Tuân đã bắt cái hùng vĩ ấy phải nổi
thành hình, thành khối trên trang giấy và gào lên trong muôn vàn âm thanh phong phú làm
nên một dàn giao hưởng hùng tráng của sóng gió xô thác đá.
+ Nước thác: gợi cảm giác âm thanh
++ Thoạt đầu là những cung bậc nỉ non, nghe như là “oán trách, rồi lại như là
van xin, rồi khiêu khích”. Tác giả đã nhân hoá, biến quãng sông thành một sinh thể. Dưới
7 GV: LÊ DUY TÂN – TRƯỜNG THPT GIA ĐỊNH (Tài liệu lưu hành nội bộ)
TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN 12 – PHẦN VĂN HỌC
NĂM HỌC
2017 - 2018
ngòi bút của Nguyễn Tuân đó là bọn “người – thác” nham hiểm chứ không còn là thiên nhiên
vô cảm nữa.
++ Thế rồi âm thanh của nước thác được phóng to hết cỡ như khúc nhạc của thiên
nhiên đang ở điểm đỉnh của cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại. “Nó rống lên như tiếng
một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”. Câu văn là
một liên tưởng lạ, bất ngờ mà hợp lí trong sự tương giao giữa sông nước với rừng, với đại
ngàn, giữa sông nước với đàn trâu mộng. Âm thanh thác nước được động vật hoá thành tiếng
gầm của đàn trâu rừng.
++ Và cuối cùng là “phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu
da cháy bùng bùng”. Liên tưởng này càng lạ càng bất ngờ, càng gây một cảm giác thẩm mĩ
rất cao trong sự tương khắc giữa thuỷ với hoả, giữa nước với lửa. Dám lấy lửa để tả nước,
dám lấy rừng để tả sông, Nguyễn Tuân quả đã chơi ngông trong nghệ thuật. Sức mạnh hoang
dã của thiên nhiên qua cách miêu tả của Nguyễn Tuân, cứ như một trận động đất, động rừng
thời tiền sử. Chữ nghĩa của ông như muốn nổi hình, nổi âm lên.
+ Sóng thác: Từ chỗ “nghe thấy” tiếng của kẻ thù, đội quân chèo lái con đò dần “nhìn
thấy” diện mạo của bọn chúng “ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một
chân trời đá”, “sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối
vào bụng và hông thuyền”. Bằng lối miêu tả đa dạng, linh hoạt, khi thì tả bao quát lúc thì
vận dụng kiến thức võ thuật và những so sánh cụ thể, Nguyễn Tuân đã gợi lên được vẻ đẹp
hoang sơ, hùng vĩ đồng thời làm nổi bật cái hung hăng của dòng sông dữ miền Tây Bắc Tổ
Quốc.
+ Đá thác: Nguyễn Tuân quan sát thật tinh xác trong việc phát huy sức mạnh điêu
khắc của ngôn từ để truyền sự sống cho những hòn đá vô tri trên sông Đà. Đá thác được khắc
họa rõ nét qua diện mạo và tâm địa. Nhà văn đã đem kiến thức quân sự và võ thuật mà xây
dựng hình ảnh những tướng đá, quân đá ở sông Đà. Và bằng nghệ thuật nhân hoá, nhà văn đã
tạo tác nên những sắc diện đá, thái độ, suy nghĩ của từng hình đá khiến chúng trở nên sống
động, hiển hiện rõ nét đến lạ lùng.
++ Diện mạo dữ tợn:
“Mặt hòn nào cũng trông ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm, méo mó”
nghệ thuật nhân hóa giúp người đọc nhận ra từng sắc diện của bọn ác thủ trong hình thù
đá vô tri.
“Một hòn trông nghiêng thì y như là đang hất hàm cái thuyền phải xưng
tên tuổi trước khi giao chiến” sức mạnh điêu khắc của ngôn từ đã chạm khắc khiến bọn
người đá hiện lên rõ nét: xấc xược, hỗn hào, rất du côn, rất “anh chị”
++ Tâm địa nham hiểm:
Đá thác của sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả như một đội quân đá ranh mãnh,
nham hiểm, lắm mưu kế. Nó bày trùng vi thạch trận giao việc rõ ràng cho mỗi hàng tiền vệ,
tuyến hai, tuyến ba với lối đánh “khuýp quật vu hồi”, với “những boong ke chìm, pháo đài
nổi” quyết tiêu diệt tất cả thuyền bè ngay chân thác. Bọn đá ngầm làm nhiệm vụ “mai phục”
8 GV: LÊ DUY TÂN – TRƯỜNG THPT GIA ĐỊNH (Tài liệu lưu hành nội bộ)
TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN 12 – PHẦN VĂN HỌC
NĂM HỌC
2017 - 2018
ở dòng sông đến một ngàn năm nay. Bọn đá nổi “nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. Các tảng
to, tảng nhỏ được Nguyễn Tuân hình dung như đá tướng, đá quân. Cả một chân giời đá được
mô tả như một trận địa với những âm mưu, thủ đoạn và sẵn sàng dìm chết con thuyền.
Từ chỗ “nghe thấy” của kẻ thù, đội quân chèo lái con đò dần “nhìn thấy” diện mạo
của bọn chúng trong từng thạch trận:
Trùng vi thạch trận thứ nhất: Bọn đá đứa thì “hất hàm” đứa thì “thách
thức”; “mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo”, sóng nước “đá trái, thúc gối vào bụng
vào hông thuyền”. Đây là cuộc tấn công giữa một bên là đá, là nước, là sóng... với một bên
là ông lái đò. Con sông Đà ở thế thượng phong như một võ sĩ ra đòn thật hiểm ác quyết tiêu
diệt bằng được đối thủ ngay từ những miếng võ đầu tiên.
Trùng vi thạch trận thứ hai: thần sông, thần đá đã thay đổi binh pháp và qui
luật phục kích. Sông Đà “tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh
lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn”. Sóng thác không ngớt khiêu khích con người, bọn thì
reo hò cổ vũ. Sông Đà không khác gì mụ phù thủy thù địch tìm mọi cách tiêu diệt con người.
Trùng vi thạch trận thứ ba: Sông Đà sắp đặt “ít cửa hơn bên phải, bên trái
đều là luồng chết cả”, luồng sống “lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Cái xảo
quyệt tàn ác, cái thâm hiểm càng lúc càng bộc lộ rõ càng chứng tỏ con sông Đà hung bạo, tàn
ác không khác gì “kẻ thù số một” của con người Tây Bắc.
Câu chữ của Nguyễn Tuân đã bắt sự hung bạo kia phải nổi hằn lên thành hình khối
và réo lên muôn vạn âm thanh. Thuỷ quái sông Đà khi ẩn nấp mai phục, khi lừa miếng đánh
du kích, khi quay vòng trở lại theo lối vu hồi, khi xông xáo liều mạng, đánh tới tấp bốn phía;
khi như van xin oán trách gì, khi lại khiêu khích thách thức, chế nhạo con người, khi hò la
gầm thét vang động cả núi rừng. Nhưng bên cạnh sự hung bạo và cả bên trong sự hung bạo,
ta vẫn thấy ở sông Đà một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và hùng vĩ của thiên nhiên, đất
nước; có thể nghe thấy trong những đoạn văn ấy âm hưởng của những khúc ca, ca ngợi sức
mạnh của tự nhiên thật hoang dại mà cũng thật tự do và khoáng đạt.
2. Tính cách trữ tình – thể hiện qua vẻ đẹp huyền ảo, thơ mộng của Đà giang khi
được nhà văn quan sát và tái hiện từ nhiều góc độ khác nhau:
Sông Đà không chỉ khác thường với những cảnh hùng tráng, kì vĩ mà còn khác thường
trong cảnh thơ mộng và cổ kính hoang sơ. Ngôn từ của Nguyễn Tuân cũng di động giữa hai
cực khi “vẫy gió tuôn mưa”, làm náo động cả trang sách, khi lại êm ái bâng khuâng để họa
nên dung nhan của người thiếu nữ Tây Bắc kiều diễm. Miêu tả vẻ đẹp trữ tình của dòng sông,
nhà văn thay đổi cách viết, ông không tả hay kể lại theo lời kể của ông đò nữa mà viết theo
những cảm xúc tức thời của một du khách, mỗi đoạn văn khi thì bay tạt ngang qua sông Đà,
khi thì theo chân anh liên lạc, khi thì ngồi con thuyền êm trôi… là một lần nhà văn phát hiện
một vẻ đẹp của con sông.
a. Từ trên cao nhìn xuống:
- Nhà văn đã thấy dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc của người thiếu nữ
diễm kiều. Vóc dáng mềm mại của dòng sông Đà được nhà văn vẽ nên bằng ngôn ngữ văn
9 GV: LÊ DUY TÂN – TRƯỜNG THPT GIA ĐỊNH (Tài liệu lưu hành nội bộ)
TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN 12 – PHẦN VĂN HỌC
NĂM HỌC
2017 - 2018
xuôi giàu cả chất thơ, chất nhạc và chất hoạ: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng
tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo
tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Từ đỉnh trời Tây Bắc, áng tóc
mun huyền thoại “dài ngàn ngàn, vạn vạn sải” ấy nối liền những khoảng không gian mênh
mông của đất nước... Đọc câu văn, ta có cảm giác sông Đà như một cô gái đẹp biết làm
duyên. Người con gái ấy có mái tóc “tuôn dài tuôn dài” tưởng chừng như bất tận. Trên suối
tóc ấy, thiếu nữ còn biết kín đáo cài lên những bông hoa ban, hoa gạo làm duyên. Rõ ràng,
sông Đà là một sơn nữ, một mĩ nhân duyên dáng và gợi cảm. Nguyễn Tuân không nói “mái
tóc” mà là “áng tóc trữ tình”. Cách dùng từ đắc địa làm sống dậy trước mắt ta một dòng
sông rất mực duyên dáng, thơ mộng và kiều diễm. Sông Đà, ấy còn là một áng thơ giữa đất
trời Tây Bắc thơ mộng. Với tiết tấu câu văn chậm rãi, thủ pháp trùng điệp, dường như
Nguyễn Tuân đang đua tài cùng tạo hoá để miêu tả cho được vẻ đẹp êm đềm, dịu dàng của
Đà giang khúc hạ nguồn.
- Phát hiện những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của dòng sông. Nhà văn quả quyết
màu nước sông Đà thay đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng. Mùa xuân, nước sông
Đà xanh màu “xanh ngọc bích”. Để làm nổi bật cái màu xanh tươi sáng, lấp lánh của Đà
giang, nhà văn đã phân biệt với màu “xanh canh hến” của nước sông Gâm, sông Lô. Mùa
thu, nước sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ”. Và đặc biệt, chưa bao giờ con sông lại có màu “đen”
như thực dân Pháp đã “đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào” và gọi bằng một cái tên lếu
láo - Sông Đen. Bằng sự khẳng định này, Nguyễn Tuân không chỉ tôn vinh vẻ đẹp của dòng
sông mà còn trực tiếp bày tỏ tình cảm yêu mến đối với sông Đà, niềm tự hào về vẻ đẹp của
con sông xứ sở.
b. Từ xa đến gần:
- “Nhìn Sông Đà như một cố nhân”, Nguyễn Tuân cảm nhận rõ nét cái chất “đằm
đằm ấm ấm” thân quen của con sông và nhất là cái chất thơ như ngấm vào trong từng cảnh
sắc thiên nhiên sông Đà. Đó là cái nắng tháng ba Đường thi Yên hoa tam nguyệt há Dương
Châu chứa chan sự bùi ngùi tiếc nhớ. Đó là cái vui tràn đến, ùa ra thành nhịp điệu: “Bờ sông
Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà” cho thấy tấm lòng trìu mến hoan
hỉ của nhà văn đối với tạo vật. Cái vui khiến nhà văn cảm thấy “nắng giòn tan”. Nếu cái
nắng tháng 3 Đường thi chứng kiến cuộc chia li giữa đôi bạn Lý Bạch và Mạnh Hạo Nhiên
thì cái nắng ở đây dường như tươi sáng hơn, “đầm đầm ấm ấm” hơn vì nó can dự vào cuộc
hội ngộ giữa cố nhân và cố nhân. Chất thơ như ngấm vào từng cảnh sắc, một niềm vui thật
huyền diệu “vui như nối lại chiêm bao bị đứt quãng”.
c. Từ điểm nhìn của một khách hải hồ, du thuyền trên sông Đà:
Ngồi trên con thuyền trôi trên dòng sông, từ điểm nhìn của một du khách, nhà văn
cảm nhận được con sông êm đềm thơ mộng. Chính cái không gian êm đềm ấy vừa làm người
đọc cảm nhận được dòng chảy hiền hòa ở thời điểm hiện tại, vừa đưa người đọc trôi về một
thời đã qua nay còn “vang bóng”, vừa chắp cánh cho tâm hồn vươn tới tương lai.
Dòng chảy con sông thời hiện tại:
10 GV: LÊ DUY TÂN – TRƯỜNG THPT GIA ĐỊNH (Tài liệu lưu hành nội bộ)
TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN 12 – PHẦN VĂN HỌC
NĂM HỌC
2017 - 2018
Cụm từ “thuyền tôi trôi” lặp lại hai lần tạo thành một điệp khúc êm nhẹ như ru hồn
người vào quãng sông lặng tờ.
- “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”: Câu văn xuôi đọc lên nghe như câu thơ. Con thuyền
êm trôi, câu văn vì thế cũng lâng lâng không vướng víu thanh trắc nào. Hai chữ “tôi”, “trôi”
bắt vần lấy nhau ngân nga dìu dịu dư âm trên quãng sông tĩnh lặng. Con thuyền như được
dòng sông đẩy đi, không phải chèo chống gì, gợi sự lặng lẽ đầy mơ mộng của một mũi đò lừ
đừ trôi giữa đôi bờ.
- “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô non nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa… cỏ
gianh đồi núi đang ra những nõn lá”. Ngồi trên thuyền, con thuyền trôi trên mặt nước mà
Nguyễn Tuân ngỡ như đang trôi qua một nương ngô non, trong đồi cỏ đang ra những nõn
búp, mùa xuân Đà Giang đang e ấp ủ mình. Hồn văn của Nguyễn Tuân tưởng đã già đi cùng
với “Vang bóng một thời” lại nảy lộc bỡ ngỡ non tơ bên một dòng sông, bên một cuộc đời
mới mẻ.
Dòng thời gian của lịch sử trong quá khứ:
- “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê, quãng sông
này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Một vẻ đẹp tĩnh lặng êm ả như còn đó dấu tích của lịch
sử cha ông. So sánh với các triều đại xưa, Nguyễn Tuân khẳng định không thể lặng hơn thế
được nữa. Hai chữ “lặng tờ” được nhắc đi nhắc lại theo kiểu trùng điệp rất đặc thù của thơ.
- Người đọc còn bắt gặp vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính, tồn tại như một điều vĩnh hằng qua
ba lần so sánh rất lạ: “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”; “bờ sông hồn nhiên như
một nỗi niềm cổ tích xưa”; “dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương”. Cái gần gũi,
cụ thể, hữu hình, cái vật chất lại được liên hệ đối sánh với cái xa xăm, trừu tượng, vô hình,
tình cảm, đi ngược lại với thói quen so sánh thường ngày gợi vẻ đẹp của dòng sông chảy bền
bỉ qua năm tháng lịch sử, mang dấu ấn văn học của dân tộc. Những so sánh độc đáo ấy đã mở
ra một chuỗi liên tưởng trùng trùng bát ngát, mở rộng đến tận cùng trí tưởng tượng của người
đọc, gợi ra vẻ đẹp muôn đời bất biến của dòng sông.
Dòng khát vọng của cuộc sống trong tương lai:
- Từ hiện tại tưởng vọng tới tương lai tươi sáng cho vùng đất “thiêng” vừa già nua,
vừa non trẻ: “Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của chuyến xe lửa
đầu tiên trên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”. Tiếng còi vang lên trong các tác
phẩm xưa của Nguyễn Tuân thường báo hiệu một cuộc xê dịch, một cuộc chia ly nhưng ở
đây tiếng còi lại báo hiệu sự phát triển của một mộng tưởng đẹp về một ngày không xa vùng
đất bên con sông hoang dã này được xây dựng hiện đại như tất cả các vùng đất khác.
- Từ hiện tại, nhà văn tưởng tượng cuộc kì ngộ giữa con hươu thơ ngộ: “Hỡi ông
khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương”. “Tiếng còi sương”
là tiếng còi của tưởng tượng, của ao ước chan chưa khát vọng về một hiện thực sáng ngời còn
chưa tới song đã âm vang trong lòng người và tạo vật.
Cảnh sông Đà càng về cuối càng sống động:
11 GV: LÊ DUY TÂN – TRƯỜNG THPT GIA ĐỊNH (Tài liệu lưu hành nội bộ)
TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN 12 – PHẦN VĂN HỌC
NĂM HỌC
2017 - 2018
- Trên mặt nước, “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên… như bạc rơi thoi”. Ta không chỉ
thấy mà còn nghe, thấy cái ánh bạc lấp lánh của bụng cá, nghe tiếng quẫy nước rộn ràng như
vang ngân.
- Đang trôi “những con đò mình nở chạy buồm vải, nó khác hẳn những con đò đuôi
én thắt mình dây cổ điển”. Vẻ đẹp hiện thực và vẻ đẹp tình yêu của chính nhà văn tài hoa
đang đắm say mơ mộng.
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ:
Với kiến thức uyên thâm, kết hợp so sánh và tưởng tượng, liên hệ thơ phú kim cổ
một cách tự nhiên và phù hợp, Nguyễn Tuân đã để lại những trang tuyệt bút viết về Sông Đà
- con sông như một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, “chất vàng mười” của thiên
nhiên Tây Bắc tạo ra men say cho sự sống con người. Bằng bút lực dồi dào của mình,
Nguyễn Tuân đã tạo nên một áng thơ văn xuôi tràn trề cảm xúc với tình yêu thiên nhiên đất
nước thiết tha.
Bằng nhiều góc độ, nhiều điểm nhìn khác nhau (mặt sông, xoáy nước, bãi bờ, cây
cỏ, muông thú ven sông), Nguyễn Tuân đã khám phá những nét vừa hung bạo, vừa trữ tình
của cảnh sông Đà. Khám phá sông Đà công phu và tỉ mỉ như vậy, chứng tỏ Nguyễn Tuân có
một tấm lòng yêu mến gắn bó với thiên nhiên và con người vùng Tây Bắc Tổ quốc. Nhà văn
đã xê dịch để có được cái nhìn vừa toàn cảnh vừa cận cảnh về sông Đà. Bằng sự phối hợp rất
nhiều tri thức liên ngành, Nguyễn Tuân đã làm sống dậy cái thần, cái hồn của dòng sông. Vì
vậy, hình tượng sông Đà độc đáo và cá tính còn cho ta thấy rõ tài năng và phong cách nghệ
thuật tài hoa của Nguyễn Tuân: ngôn ngữ phong phú, kiến thức uyên bác, cảm hứng trước
những cảnh tượng gây cảm giác mãnh liệt và sự vật được phát hiện, miêu tả ở phương diện
cái đẹp...
III. Hình tượng người lái đò:
Nhắc đến Nguyễn Tuân là nhắc đến người nghệ sĩ tài hoa suốt đời săn tìm cái Đẹp.
Các nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân dù làm bất kì nghề nghiệp gì thì đều là người
nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình. Bước vào trang viết Nguyễn Tuân, người lái đò Sông
Đà hiện lên vừa trí dũng, tài hoa, vừa ung dung, bình dị.
1. Khái quát về nhân vật:
- Ngoại hình: “Tay ông dài lêu nghêu, chân ông khuỳnh khuỳnh như lúc nào cũng
kẹp lấy một cái cuống lái trong tưởng tượng”. “Nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng
nhìn một cái bến xa trong tưởng tượng”. Thân hình “cao to gọn quánh như chất sừng chất
mun”, “nước da nâu bóng”. Ít ai ngờ rằng thân hình săn chắc, tráng kiện như một thanh niên
ấy lại là của một ông lão. Bởi “nếu bịt cái đầu hói đi, không ai không lầm mà tưởng mình
đang đứng trước một chàng trai đang ngồi - ngoài bến chính bờ sông”. Có thể thấy dấu vết
nghề nghiệp in đậm trên thân hình ông lái đò.
- Giọng nói: “Giọng ông ào ào như tiếng nước thác trước mặt ghềnh”. Nếu cụ Mết
(Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành) có giọng nói “ồ ồ trong lồng ngực” mang âm hưởng
12 GV: LÊ DUY TÂN – TRƯỜNG THPT GIA ĐỊNH (Tài liệu lưu hành nội bộ)
TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN 12 – PHẦN VĂN HỌC
NĂM HỌC
2017 - 2018
của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ thì ông lái đò của Nguyễn Tuân lại mang đặc trưng “ăn
sóng nói gió” của người lao động vùng sông nước.
- Ông lái đò là người rất thạo nghề. “Nếu ví Sông Đà như một thiên anh hùng ca thì
ông lái đò là người đã thuộc thiên anh hùng ca ấy đến cả những dấu chấm than, chấm
câu và cả những đoạn xuống dòng”. Cả cuộc đời ông đã xuôi ngược hơn trăm lần trên dòng
sông, hơn 60 lần cầm lái chở hàng nối miền ngược với miền xuôi. Trên bả vai ông, dấu vết
nghề nghiệp vẫn còn hằn lên với một “củ nâu”. Đó là dấu vết của con sào mỗi lần ông đẩy
thuyền xuôi ngược qua bao ghềnh thác. Nguyễn Tuân gọi đó là “huân chương lao động siêu
hạng” mà cuộc đời dành tặng cho người anh hùng lao động vô danh, thầm lặng ở miền sông
nước Đà giang này.
2. Vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật:
Cực tả con sông Đà là cách Nguyễn Tuân xưng tụng những chiến công phi thường của
người lái đò, nếu con thuyền của ông lái đò không phải vật lộn với dòng thác hùm beo, hẳn
ông sẽ lẫn vào với bao ông ngư, ông lái khác, nhưng ông dám đương đầu và chiến thắng thần
sông thần đá, trở thành đối tượng của anh hùng ca.
a. Vẻ đẹp trí dũng: ông đò – một anh hùng sông nước:
Quan niệm của Nguyễn Tuân về người anh hùng:
Chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có trên chiến trường súng đạn. Anh hùng không chỉ xuất
hiện trong bom gầm, đạn réo, trong khói lửa chiến tranh mà còn xuất hiện ngay trong cuộc
sống hàng ngày với những con người đơn sơ, giản dị trong cuộc vật lộn với thiên nhiên vì
miếng cơm manh áo. Cái trí dũng tài hoa không ở đâu xa mà ở trong những người dân lao
động bình thường. Không phải ai khác mà chính họ đã làm nên những thiên anh hùng ca lao
động thật đáng trân trọng biết bao!
Phương pháp khắc họa người anh hùng sông nước của Nguyễn Tuân:
- Để làm nổi bật hình tượng và vẻ đẹp của người lái đò nhà văn đã sáng tạo một đoạn
văn đầy không khí trận mạc. Cuộc vượt thác chính là trận chiến của con đò mà người lái đò
là vị tướng chỉ huy.
- Về thế trận, đây là cuộc chiến không cân sức. Một bên là Sông Đà – thiên nhiên lớn
lao, dữ dội, hiểm độc, một bên là con người nhỏ bé trên chiếc thuyền gỗ mỏng manh, vũ khí
chỉ là chiếc cán chèo trên con đò đơn độc.
Nhà văn đã sử dụng bút pháp tương phản để khắc hoạ hình tượng ông lái đò sông
Đà, một con người bình thường mà tài hoa nghệ sĩ, một con người lao động trên sông nước
mà “tay lái ra hoa”.
Trận thủy chiến trên Sông Đà – vẻ đẹp trí dũng của hình tượng ông đò:
- Trận thủy chiến trên Sông Đà là một trận chiến quyết tử bởi “đám tảng, đám hòn
chia làm ba hàng chặn ngang trên sống đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc
không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có trận địa đá dàn sẵn”. Vậy nên
“cưỡi lên thác sông Đà” chỉ còn một cách duy nhất là “phải cưỡi đến cùng như là cưỡi
hổ”, tả xung hữu đột trước “trùng vi thạch trận”.
13 GV: LÊ DUY TÂN – TRƯỜNG THPT GIA ĐỊNH (Tài liệu lưu hành nội bộ)
TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN 12 – PHẦN VĂN HỌC
NĂM HỌC
2017 - 2018
- Thạch trận Đà Giang gợi đến những trận đồ bát quái với đủ cửa sinh, cửa tử trong
các trận võ hiệp gợi nhớ Gia Cát Khổng Minh cũng có lần lấy đá làm binh. Cứ thế, sự dữ dội
của con sông được nhân lên bởi trùng trùng liên tưởng của chính người đọc. Cuộc thủy chiến
được mô tả theo 3 hiệp mà tác giả gọi đó là những “trùng vi thạch trận” làm cho câu chuyện
về người lái đò vừa hiện đại, vừa cổ kính thiêng liêng.
+ Hiệp đầu:
++ Hai bên đối mặt, đối phương được miêu tả y hệt như một tên tướng kiêu ngạo
và hợm hĩnh, “hất hàm hỏi con thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Ông lái
đò bình tĩnh không đáp nhưng “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên sóng trận địa phóng
thẳng vào mình”.
++ “Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới”. Cuộc hỗn chiến ác liệt
đã diễn ra. Đối phương tung ra đội quân nước “hò la vang dậy”, “ùa vào mà bẻ gãy cán
chèo võ khí trên cánh tay” những người chèo đò. Sóng nước đã tung ra “miếng đòn hiểm
độc nhất” quyết bóp chết người lái đò: hết “đá trái” rồi lại “thúc gối”, thi nhau “đánh hồi
lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” vào chỗ dễ tổn thương nhất của con người. Vậy mà người
chỉ huy vẫn “ngắn gọn tỉnh táo” đưa “cái thuyền sáu bơi chèo” vượt qua “trùng vi thạch
trận” thứ nhất. Cả một khối lượng đồ sộ từ ngữ mà Nguyễn Tuân chở về từ làng võ thuật đã
được hào phóng ném ra trên các trang văn khiến hình tượng ông đò hiện ra sừng sững oai
phong như một võ tướng thực thụ.
++ “Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt”, đội quân chèo đò quyết định phá luôn
vòng vây thứ hai.
+ Hiệp hai:
++ Đối phương: tung ra đội quân chủ lực, đội quân đá nham hiểm, xảo quyệt bố trí
lệch cửa sinh từ tả ngạn “qua phía bờ hữu ngạn”.
++ Ông đò: Qua hiệp đầu đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá” nên
dù trong tay chỉ có cây chèo vẫn có thể phá thành vượt ải như một chiến tướng bách thắng.
Ông thay đổi chiến thuật: từ thế thủ chuyển sang tấn công “nắm chặt lấy bờm sóng”, “cho
chiếc thuyền phóng nhanh vào cửa sinh”. Với những ải nước nhô ra hòng níu chiếc thuyền
vào cửa tử, “đứa thì ông tránh vào rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn mà chặt đôi ra để
mở đường tiến” Tư thế vừa oai phong, hùng dũng vừa táo bạo nhanh nhẹn, gợi đến câu
chuyện “Võ Tòng đả hổ” trong thiên tiểu thuyết “Thủy Hử” nổi tiếng.
++ Để miêu tả cuộc giao tranh ấy, với con sông, cơn cuồng phong động từ xô lên
cùng cơn thịnh nộ của sông Đà (rống lên, nhổm cả dậy, vồ lấy, tung, bật ngửa), với ông đò,
Nguyễn Tuân đã tung ra một cơn “bão động từ” đủ sức ganh tài (nắm chặt, ghì cương, bám
chặt, phóng nhanh, lái miết, đè sấn, chặt đôi, phóng thẳng, đánh khuýp quật vu hồi,…) các
động từ hợp sức với nhau tạo thế cưỡi hổ tung hoành. Có thể nói, Nguyễn Tuân đã truyền
hồn cho chữ, chữ truyền hồn cho dòng sông, dòng sông truyền cảm xúc cho người đọc, cảm
xúc cứ thế cuồn cuộn nổi sóng trên dòng sông ngôn từ tác động mạnh mẽ vào giác quan, vào
trí tưởng tượng của người đọc.
14 GV: LÊ DUY TÂN – TRƯỜNG THPT GIA ĐỊNH (Tài liệu lưu hành nội bộ)
TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN 12 – PHẦN VĂN HỌC
NĂM HỌC
2017 - 2018
+ Hiệp 3:
++ Đối phương: “Thằng đá tướng… tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Tả sắc
diện của một hòn đá mà dùng hai chữ “tiu nghỉu” thì quả là tuyệt bút. Nhưng thác dữ sông
Đà vẫn không chịu từ bỏ dã tâm. Thạch trận bố trí “ít cửa hơn” nhưng “bên phải bên trái
đều là luồng chết cả”, luồng sống “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”.
++ Ông đò: cứ lao đi như mũi tên, vượt qua vòng vây cuối cùng “Cứ phóng thẳng
thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút,
cửa ngoài, cừa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua
hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác” người lái đò
vượt qua thác dữ, đã chiến thắng một cách ngoạn mục.
Miêu tả ba lần “phá vây này”, Nguyễn Tuân đã tạo nên những “trường đoạn” hào
hùng với nhân vật trung tâm là một người lái đò “chiến đấu gian lao... trên chiến trường
sông Đà” bằng tài năng của một người lao động – nghệ sĩ. Ngòi bút của Nguyễn Tuân như
một máy quay phim ghi lại những trường đoạn hồi hộp, gay cấn, căng thẳng của cuộc chiến
giữa con người và thiên nhiên này. Ba lần chiến đấu, ba lần người anh hùng lao động trên
sông nước phá tan thế trận cam go đã được Nguyễn Tuân diễn đạt bằng ngôn ngữ, chi tiết
biến hoá, không lặp trùng.
b. Vẻ đẹp tài hoa: ông đò – một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật chèo đò vượt
thác:
Quan niệm của Nguyễn Tuân về người nghệ sĩ:
- Nguyễn Tuân hay hướng tới cái khác thường, cái phi thường để gây ấn tượng và cảm
xúc mãnh liệt vì vậy con người trong sáng tác của ông bao giờ cũng là đấng tài hoa, siêu
phàm.
- Đến với những trang văn tài hoa, độc đáo của Nguyễn Tuân, người đọc nhận ra rằng
không phải chỉ ở chiến trường mới có anh hùng cũng như không phải chỉ những người có
học thức, có năng khiếu nghệ thuật mới được xem là nghệ sĩ mà bất cứ ai thành thục trong
nghề nghiệp của mình đều có thể xem là người nghệ sĩ trong lĩnh vực ấy.
Những biểu hiện của phẩm chất nghệ sĩ ở ông đò:
Tư chất tài hoa, tài tử của ông đò được nhà văn tô đậm qua cuộc “giao tranh” với dòng
sông nơi bãi đá ngầm. Quan sát trận thủy chiến này, mới thấy Nguyễn Tuân chú tâm miêu tả
cái hung bạo, dữ dội của Đà giang còn là để tạo nên một “địch thủ” tương xứng với “tầm
vóc” con người có tài, có trí và có tay lái ra hoa lúc nào cũng ung dung trước thiên nhiên như
thứ kẻ thù số một của con người.
- Có tài trí: tất cả nghệ thuật của ông là “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá,
thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở” làm chủ được quy luật có nghĩa
là đạt tới tự do và nghệ thuật.
- Có tay lái điêu luyện: ông chiến thắng thác dữ bằng những động từ nhuần nhuyễn,
táo bạo và hết sức chính xác: “lái miết một đường chéo về phía của Đại khiến con thuyền như
một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên, vừa tự động lái được, lượn được”
15 GV: LÊ DUY TÂN – TRƯỜNG THPT GIA ĐỊNH (Tài liệu lưu hành nội bộ)
TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN 12 – PHẦN VĂN HỌC
NĂM HỌC
2017 - 2018
dưới sự điều khiển của ông, chiếc thuyền vừa lượn lách, vừa mềm mại, mạnh mẽ “tay lái
ra hoa”.
NHẬN XÉT:
- Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp. Đối với bất cứ công việc gì, khi đạt
tới một trình độ khéo léo, điêu luyện, con người sẽ bộc lộ nét tài hoa rất đáng ngưỡng mộ và
trân trọng. Dù đoạn trích không có nhiều trang viết tô đậm nét tài hoa, nghệ sĩ ở người lái đò
nhưng người đọc vẫn nhận thấy tư cách nghệ sĩ, sự tài hoa trong từng động tác rất thuần thục
của ông lái. Khi đạt tới một trình độ nhuần nhuyễn, điêu luyện, mỗi động tác của người lái đò
như một đường cọ trên bức tranh thiên nhiên sông nước.
- Qua tình huống vượt thác sông Đà, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật vẻ đẹp trí dũng, tài
hoa của người lái đò. Ông nắm vững “binh pháp của thần sông thần đá”, xử lí tình huống
nhanh chóng, tỉnh táo qua ba trùng vi thạch trận (trí); ông dũng mãnh, sẵn sàng nghênh
chiến, dù bị thương cũng không lùi bước, quyết “cưỡi lên thác Sông Đà” (dũng); tay lái ông
đò thuần thục, điêu luyện đến mức có thể đưa con thuyền vượt qua được mọi địa hình hiểm
trở nhất (tài hoa). Có thể xem ông lái đò vừa là một dũng tướng trong trận chiến với “dòng
thác hùm beo”, vừa là một nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh.
c. Ung dung, bình dị:
- Trong cuộc sống đời thường, người lái đò hiện lên với vẻ đẹp tâm hồn bình dị khiêm
nhường. Khi ông ngưng mái chèo trở về cuộc sống đời thường, lập tức “sóng thác xèo xèo
tan trong trí nhớ”. “Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn
bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh [...] Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc
chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi”. Vậy là cũng như bao
người lao động bình thường khác, ông lái đò không xem cuộc vượt thác vừa qua là một chiến
công phi thường, vĩ đại. “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ
dội, ngày năo cũng giành lấy sự sống từ tay những con thác, nên nó cũng không có gì hồi
hộp đáng nhớ”. Đây chính là phẩm chất đặc biệt của những anh hùng vô danh trong văn học
Việt Nam hiện đại. Nói như Nguyễn Khoa Điềm thì: “Họ đã sống và chết/ Giản dị và bình
tâm/ Không ai nhớ mặt đặt tên/ Nhưng họ đã làm ra Đất Nước” (Đất Nước).
- Ngoài ra, ông đò còn là người có tình yêu quê hương bản làng sâu sắc. Đi đường xa,
ông luôn treo cái bu gà trên chiếc thuyền đuôi én để “có tiếng gà gáy đem theo để đỡ nhớ bản
mường”.
NHẬN XÉT:
- Vẻ đẹp của ông lái đò là vẻ đẹp của tư chất tài hoa, nghệ sĩ, vẻ đẹp của lòng quả
cảm, ý chí ngoan cường của người lao động Tây Bắc giữa đời thường trong cuộc chinh phục,
chế ngự thiên nhiên vốn hiểm trở, dữ dội. Vẻ đẹp ấy mang lại cho thiên tùy bút hưởng một
khúc hùng ca.
- Qua hình tượng nhân vật ông lái đò không chỉ thấy cái tâm của nhà văn với cuộc đời
và con người mà còn thấy rõ tài năng của Nguyễn Tuân trong nghệ thuật xây dựng nhân vật:
16 GV: LÊ DUY TÂN – TRƯỜNG THPT GIA ĐỊNH (Tài liệu lưu hành nội bộ)
TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN 12 – PHẦN VĂN HỌC
NĂM HỌC
2017 - 2018
+ Nguyễn Tuân đã sáng tạo một tình huống độc đáo để làm nổi bật phẩm chất của
nhân vật. Tô đậm sự hung bạo của sông Đà chính là cách nhà văn làm bật lên nét trí dũng, tài
hoa ở ông lái đò. Đây là thủ pháp “vẽ mây nẩy trăng” quen thuộc trong văn học.
+ Nguyễn Tuân đã sử dụng kho từ ngữ phong phú, đầy cá tính, giàu chất tạo hình với
những liên tưởng so sánh bất ngờ mà vô cùng chính xác để khắc họa chân dung nhân vật.
+ Khi miêu tả cuộc chiến đấu của ông lái đò với dòng sông hung bạo, Nguyễn Tuân
đã vận dụng vốn tri thức uyên bác về nhiều lĩnh vực: thể thao, võ thuật, quân sự, điện ảnh…
Những đoạn văn miêu tả hình ảnh ông lái đò mang đậm phong cách nghệ thuật độc
đáo của Nguyễn Tuân: ngôn ngữ phong phú, kiến thức uyên bác, cảm hứng trước những cảnh
tượng gây cảm giác mãnh liệt và sự vật, con người được phát hiện, miêu tả ở phương diện cái
đẹp...
- Người lái đò sông Đà là một bước chuyển lớn trong phong cách nghệ thuật Nguyễn
Tuân. Trước CMT8, nhà văn thường tìm cảm hứng cho sáng tác của mình trong những vẻ
đẹp “một thời vang bóng”. Sau CMT8, Nguyễn Tuân “đi từ thung lũng đau thương ra cánh
đồng vui”. Ông đã tìm thấy vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ ngay chính trong những con người lao
động bình thường. Thông qua hình ảnh ông lái đò, nhà văn đã thể hiện tấm lòng trân trọng,
cảm phục với những con người góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng Tổ Quốc. Qua nhân
vật người lái đò sông Đà, phải chăng Nguyễn Tuân muốn nhắc nhủ với người đọc rằng: Anh
hùng không chỉ xuất hiện trong bom gầm, đạn réo, trong khói lửa chiến tranh mà con xuất
hiện ngay trong cuộc sống hàng ngày với những con người đơn sơ, giản dị. Không phải ai
khác mà chính họ đã làm nên những thiên anh hùng ca lao động thật đáng trân trọng biết bao!
C. Tổng kết:
I. Về nghệ thuật: Trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau CMT8 có
thể tìm thấy mọi đặc trưng về tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Tuân ở tác phẩm này.
- Cảm hứng trước những hiện tượng đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ: dòng sông Đà
đẹp tuyệt vời đầy chất thơ nhưng cũng dữ dội, mãnh liệt; cuộc vật lộn quyết liệt, căng thẳng
giữa người lái đò với con thác.
- Tiếp cận con người nghiêng về phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
- Thể hiện tài hoa và uyên bác
+ Tập trung mô tả đối tượng bằng sự huy động tri thức chuyên môn của nhiều ngành:
sử học, địa lí học, nghệ thuật văn chương, hội họa, điêu khắc, âm nhạc, điện ảnh, kể cả kiến
thức võ thuật và khoa học – quân sự.
+ Vốn ngôn ngữ giàu có, sắc sảo tung ra như để thi tài với tạo hóa.
- Sử dụng thể tùy bút phóng túng, thể hiện đậm nét cái tôi của tác giả, một cái tôi nghệ
sĩ tài hoa, giác quan tinh nhạy, trí tưởng tượng mãnh liệt đằng sau bức tranh thiên nhiên, con
người Tây Bắc.
II. Về nội dung:
17 GV: LÊ DUY TÂN – TRƯỜNG THPT GIA ĐỊNH (Tài liệu lưu hành nội bộ)
TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN 12 – PHẦN VĂN HỌC
NĂM HỌC
2017 - 2018
- Người lái đò Sông Đà là bài ca ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc
- thiên nhiên hùng vĩ, trữ tình và đầy tiềm năng cùng những người lao động bình dị nhưng có
thể làm nên những chiến công phi thường trong công cuộc chinh phục thiên nhiên.
- Tác phẩm cho thấy công phu lao động nghệ thuật nghiêm túc, khó nhọc của nhà văn:
dành nhiều tâm huyết và công sức để làm hiện lên những vẻ đẹp và sắc thái khác nhau của
thiên nhiên Tây Bắc; chắt chiu những tìm tòi khó nhọc để phát hiện ra chất vàng mười ở con
người lao động bình dị mà cao cả.
18 GV: LÊ DUY TÂN – TRƯỜNG THPT GIA ĐỊNH (Tài liệu lưu hành nội bộ)