You are on page 1of 10

1.

Bi thảm (Mono no aware)


Thời đại Heian (Bình An, 794 - 1185) là thời kỳ người Nhật xóa bỏ ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, bắt đầu từng bước tạo lập một nền
văn hóa, tư tưởng riêng của mình. Đây là thời kỳ mà Phật giáo suy tàn, một thời đại được gọi là thời Mạt Pháp, với tư tưởng thẩm mỹ chủ
đạo là bi thảm. Mọi vật trên đời này đều được nhìn nhận chỉ là thứ phù du, sớm nở tối tàn, làm mềm lòng cả những trái tim quả cảm nhất.
Tư tưởng này thể hiện rõ nét nhất trong tác phẩm Genji monogatari (Nguyên Thị Vật Ngữ) - Murasaki Sikibu và các truyện khác thuộc
thời đại này.
Mono không có nhận thức (物 の 哀れ, mono không có ý thức?, Nghĩa là "các pathos của sự vật"), còn được dịch là "một sự cảm thông
đối với những thứ", hoặc "nhạy cảm một con thiêu thân," là một thuật ngữ Nhật Bản được sử dụng để mô tả nhận thức của mujo hoặc tính
tạm thời của sự vật và nỗi buồn một cách nhẹ nhàng (hoặc wistfulness) tại qua của họ. Thuật ngữ này được đặt ra vào thế kỷ thứ mười tám
của thời kỳ Edo của Nhật Bản văn hóa học giả Motoori Norinaga, và ban đầu là một khái niệm được sử dụng trong phê bình văn học của
ông về The Tale of Genji, và sau đó áp dụng cho các công trình tinh Nhật Bản bao gồm cả Man'yōshū, trở thành trung tâm với triết lý của
ông về văn học, và cuối cùng truyền thống văn hóa Nhật Bản.
Từ này có nguồn gốc từ mono từ Nhật Bản, có nghĩa là "thứ" và nhận thức, đó là một biểu hiện thời Heian bất ngờ đo (tương tự như "ah"
hay "oh"), dịch gần như "pathos", "cay" "sâu sắc cảm giác," hoặc "nhạy cảm." Như vậy, mono không có ý thức đã thường được dịch là
"'Ness-ahh' của sự vật," cuộc sống và tình yêu. Nó mô tả vẻ đẹp như là một nhận thức về tính tạm thời của tất cả mọi thứ, và, như đã đề cập
ở trên, một nỗi buồn nhẹ nhàng tại qua của họ. Trong những lời chỉ trích của ông về The Tale of Genji, Motoori lưu ý rằng mono không có
nhận thức được những cảm xúc rất quan trọng mà di chuyển các độc giả. phạm vi của nó là không giới hạn văn học Nhật Bản, và trở thành
kết hợp với truyền thống văn hóa Nhật Bản (xem thêm sakura).
nghệ sĩ manga nổi tiếng người sử dụng mono không có nhận thức phong cách kể chuyện bao gồm Hitoshi Ashinano, Kozue Amano, và
Kaoru Mori. Các tinh túy "của Nhật Bản" Yasujiro Ozu là đạo diễn nổi tiếng với việc tạo ra một cảm giác mono không có ý thức, thường
xuyên lên tới cực điểm với một nhân vật nói rất understated "ii tenki desu ne" (Đó là thời tiết tốt, phải không?), Sau khi cả hai một sự thay
đổi mô hình gia đình và xã hội, chẳng hạn như con gái được kết hôn, trong bối cảnh của Nhật Bản nhanh chóng thay đổi. Rừng Na Uy của
nhà văn Nhật Bản Haruki Murakami là một ví dụ về cảm giác này là tốt. Ivan Morris trong Thế giới của Hoàng tử Shining so sánh với
rerum lacrimae hạn của Virgil.
Mono không có nhận thức: các thẩm mỹ làm đẹp Nhật Bản
Nghĩa đen là "một sự nhạy cảm với sự vật," mono không có ý thức là một khái niệm mô tả bản chất của văn hóa Nhật Bản, phát minh bởi
các tác phẩm văn học và ngôn ngữ học giả Nhật Bản học giả Motoori Norinaga trong thế kỷ thứ mười tám, và vẫn là cấp bách nghệ thuật
trung ương ở Nhật Bản cho đến ngày nay. Cụm từ có nguồn gốc từ chữ * * nhận thức, mà trong Heian Nhật Bản có nghĩa là độ nhạy cảm
hay nỗi buồn, và mono từ, có nghĩa là mọi thứ, và mô tả vẻ đẹp như là một nhận thức về tính tạm thời của tất cả mọi thứ, và nỗi buồn một
cách nhẹ nhàng tại qua của họ. Nó cũng có thể được dịch là "Ness-ah" của sự vật, của cuộc sống, và tình yêu.
Mono không có ý thức đưa tên vào một thẩm mỹ mà đã tồn tại trong âm nhạc Nhật Bản, nghệ thuật và thơ ca, nguồn gốc của chúng có thể
được truy tìm trực tiếp đến sự ra đời của Phật giáo Thiền trong thế kỷ thứ mười hai, một triết lý tâm linh và thực hành có ảnh hưởng sâu
sắc tất cả các khía cạnh của Nhật Bản văn hóa, đặc biệt là nghệ thuật và tôn giáo. Bản chất phù du của cái đẹp được mô tả bởi mono không
có nhận thức xuất phát từ ba trạng thái của sự tồn tại trong triết học Phật giáo: sự bất mãn vô ngã,, và quan trọng nhất trong bối cảnh này,
vô thường.
Theo đơn không có ý thức, một bông hoa mùa thu rơi hoặc héo là đẹp hơn một nở rộ, một âm thanh mờ dần đẹp hơn một cách rõ ràng nghe
nói, những mặt trăng che khuất một phần hấp dẫn hơn so với đầy đủ. Các sakura hoặc cây hoa anh đào là mẫu mực của quan niệm này có
vẻ đẹp, những bông hoa của sự đa dạng nổi tiếng nhất, somei Yoshino, gần nhuốm màu trắng tinh khiết với một hoa tinh tế nhạt, hồng và
sau đó giảm xuống trong vòng một tuần duy nhất. Các chủ đề của một ngàn bài thơ và một biểu tượng quốc gia, các cây hoa anh đào thể
hiện vẻ đẹp như là một kinh nghiệm thoáng qua.
Mono không có trạng thái nhận thức được rằng vẻ đẹp là một trải nghiệm khách quan hơn là chủ quan, một trạng bị cuối cùng nội bộ hơn
là bên ngoài. Phần lớn dựa vào những lý tưởng cổ điển Hy Lạp, vẻ đẹp ở phương Tây là tìm trong sự hoàn thiện cuối cùng của một đối
tượng bên ngoài: một bức tranh tuyệt, điêu khắc hoàn hảo hoặc thành phần âm nhạc phức tạp, một vẻ đẹp có thể được cho là chỉ là bề
ngoài. Những lý tưởng của Nhật Bản nhìn thấy vẻ đẹp thay vì như là một kinh nghiệm của trái tim và linh hồn, cảm giác cho và đánh giá
cao của các đối tượng hoặc tác phẩm nghệ thuật - thông thường nhất hay mô tả tính chất của - trong trạng thái nguyên sơ hoang sơ,.
Một sự đánh giá cao về vẻ đẹp như là một nhà nước mà không cuối và không thể được hiểu là không giống như chủ nghĩa hư vô, và tốt
hơn có thể được hiểu trong quan hệ với triết lý Thiền của Phật giáo của siêu trần thế: một khát khao tinh thần cho rằng đó là vô hạn và vĩnh
cửu - các nguồn gốc của tất cả vẻ đẹp của thế gian. Là tu sĩ các Sotoba viết trong * * ZENRIN Kushū (Thơ của đền ZENRIN), Thiền
không xem hư vô như là một nhà nước vắng mặt, mà là lời khẳng định của một không thấy tồn tại khoảng trống phía sau: "Tất cả mọi thứ
tồn tại trong sự trống rỗng: Hoa, mặt trăng trên bầu trời, những phong cảnh đẹp. "
Với gốc rễ của nó trong Thiền Phật giáo, * mono không có * biết là mang một số liên quan đến phi nhị nguyên của triết học Ấn Độ, như
liên quan trong câu chuyện sau đây về Swami Vivekananda của Sri Chinmoy: * "Làm đẹp", ông [Vivekananda], "không phải là bên ngoài,
nhưng đã có trong tâm." Ở đây chúng ta được nhắc nhở về những gì tinh thần con gái Nivedita của ông đã viết về Thầy cô. "Đó là bóng tối
khi chúng tôi đến gần Sicily, và chống lại bầu trời hoàng hôn, Etna là trong đợt phun trào nhỏ. Khi chúng ta bước vào eo biển Messina,
mặt trăng lên, và tôi đi bộ lên và xuống sàn bên cạnh Swami, trong khi ông cư ngụ trên .. thực tế là không phải là vẻ đẹp bên ngoài, nhưng
đã có trong tâm trí Trên một mặt cau mày các crags tối của bờ biển Ý, mặt khác, hòn đảo này đã xúc động với ánh sáng bạc "Messina phải
cảm ơn tôi," ông nói, "đó là Tôi đã cho cô ấy tất cả các bà đẹp '". Quả thật, nếu không có sự đánh giá cao, vẻ đẹp không phải là vẻ đẹp cả.
Và vẻ đẹp xứng đáng với tên gọi của nó chỉ khi nó đã được đánh giá cao .*
Người sáng lập * mono không có * biết, Motoori Norinaga (1730-1801), là học giả nổi tiếng trước của phong trào Kokugakushu, một
phong trào quốc gia đó đã tìm cách loại bỏ tất cả các ảnh hưởng bên ngoài từ văn hóa Nhật Bản. Kokugakushu đã có ảnh hưởng lớn lao
trong nghệ thuật, âm nhạc, thi ca và triết học, và chịu trách nhiệm về sự hồi sinh trong thời kỳ Tokugawa của các tôn giáo Shinto.
Contradictorily, ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo và thực hành theo Thần đạo nghệ thuật và thậm chí chính nó đã rất tuyệt vời đó, mặc dù
Phật giáo là một kỹ thuật ảnh hưởng bên ngoài, đó là do thời điểm này không thể được extricated. Nghĩa đen là "một sự nhạy cảm với sự
vật," mono không có ý thức là một khái niệm mô tả bản chất của văn hóa Nhật Bản, phát minh bởi các tác phẩm văn học và ngôn ngữ học
giả Nhật Bản học giả Motoori Norinaga trong thế kỷ thứ mười tám, và vẫn là cấp bách nghệ thuật trung ương ở Nhật Bản cho đến ngày
nay. Cụm từ có nguồn gốc từ từ nhận thức, mà ở Heian Nhật Bản có nghĩa là độ nhạy cảm hay nỗi buồn, và mono từ, có nghĩa là mọi thứ,
và mô tả vẻ đẹp như là một nhận thức về tính tạm thời của tất cả mọi thứ, và nỗi buồn một cách nhẹ nhàng tại qua của họ. Nó cũng có thể
được dịch là "Ness-ah" của sự vật, của cuộc sống, và tình yêu.
AWARE, “VĂN HỌC” (BUNGAKU) VÀ “VĂN HỌC HEIAN” (794-1191) – Dương Ngọc Dũng AWARE, “VĂN HỌC”
(BUNGAKU) VÀ “VĂN HỌC HEIAN” (794-1191)
I-GIỚI THUYẾT VẤN ĐỀ Những người làm công tác giảng dạy văn học nước ngoài, chẳng hạn người Việt Nam giảng dạy văn học Anh,
Trung Quốc, Nhật Bản, đôi khi bị những nghi ngờ dằn vặt rất khó trả lời như: Tôi có thực sự hiểu một tác phẩm văn học ngoại quốc nào
đó, thí dụ vở kịch Hamlet của Shakespeare hay một bài thơ haiku của Basho, như người bản xứ hiểu? Câu hỏi này cũng không phải là khó
giải đáp nếu người dạy có cơ hội được sang Anh hay Nhật Bản du học về môn văn chương Anh hay văn học Nhật Bản để tự mình kiểm
nghiệm lại hiểu biết của mình trong khi trao đổi với các học giả, giáo sư của đất nước đó. Nhưng câu hỏi thứ hai mới thật sự là hóc búa:
thế thì, có gì bảo đảm rằng những giáo sư, học giả đó là hiểu đúng, vì chắc chắn sẽ có những học giả khác, giáo sư khác đưa ra những giải
thích khác, thậm chí những giải thích hoàn toàn tương phản? Sự chọn lựa quan điểm của học giả này hay giáo sư nọ thông thường chỉ dựa
trên uy tín, bằng cấp, công trình của những học giả, giáo sư đó là chính. Đại đa số quần chúng nói chung đều không hiểu biết và cũng
không quan tâm đến cái gọi là “văn học” mà chỉ có các học giả hay giáo sư mới đủ trình độ thưởng thức. Ngay cả giới trí thức Nhật Bản
trung bình ngày nay mấy ai đọc nổi bộ Vạn Diệp Tập (Manyòshù) viết bằng ngôn ngữ Nhật Bản cổ? Trí thức Ấn Độ mấy ai đọc
Natyasastra? Trí thức Trung Quốc ai đọc Văn Tâm Điêu Long trong khi ngay cả các chuyên gia về Lưu Hiệp vẫn tiếp tục viết sách tranh
cãi về từng chữ, từng ý trong tác phẩm ấy? Các học giả bên Anh vẫn tiếp tục cho ra đời vô số luận án tiến sĩ về Shakespeare nhưng các
sinh viên đại học có mấy người thưởng thức nổi những vở kịch viết bằng tiếng Anh thế kỉ 16? Ngày nay tại Việt Nam mấy ai đọc thơ
Nguyễn Trãi hay Truyền kỳ mạn lục ngoại trừ các chuyên gia của Viện Hán Nôm? Đẩy vấn đề đi sâu hơn nữa chúng ta có quyền đặt câu
hỏi: Ai là những người đầu tiên “ấn định” và “biên tập” cho chương trình “văn học” của một quốc gia? Ai là người có đủ thẩm quyền phân
biệt giữa tác phẩm “văn học” và những tác phẩm “phi văn học”? Thẩm quyền đó ở đâu ra? Lịch sử tiến hoá của dòng văn học không cho
thấy những quan điểm thống nhất ngay từ ban đầu, những xung đột, va chạm liên quan đến chính trị, quyền lực, thậm chí cả sự tình cờ đưa
đẩy. Chúng tôi không có tham vọng trả lời trọn vẹn những câu hỏi đã đặt ra. Trong bài này chúng tôi chỉ muốn nghiên cứu một trường hợp
cụ thể là nhìn lại, một cách sơ lược, tiến trình xây dựng những nội dung cụ thể của “văn học Nhật Bản” (Nihon bungaku), nội dung ý nghĩa
của thuật ngữ “văn học” (bungaku) trong bối cảnh Nhật Bản có so sánh với văn học Trung Quốc và Việt Nam, cũng như tập trung thảo
luận ý nghĩa của khái niệm aware, một khái niệm vẫn được xem là khái niệm thẩm mỹ quan trọng nhất, nền tảng nhất của văn học Nhật
Bản nói riêng và ý thức thẩm mỹ của dân tộc Nhật Bản nói chung.
II- Khái niệm Aware Những học giả viết về văn học Nhật Bản đã quá quen thuộc với khái niệm aware và mono no aware, một khái niệm
gắn liền với tên tuổi của Motoori Norinaga (Bản Cư Tuyên Trường: 1730-1801). Chính Norinaga, trong một thiên tiểu luận ngắn có tên
Aware ben (A Ba Lễ biện) là người đầu tiên đưa ra quan điểm cho rằng mono no aware là “tinh hoa” (hon’i=bản y) không những của cả
nền văn học monogatari thời Heian mà còn của tất cả thi ca Nhật Bản (waka=Hoà ca). Thiên tiểu luận này được viết năm 1757, nghĩa là 6
năm trước khi Norinaga viết tác phẩm đầu tiên bình luận kiệt tác Genji monogatari của Murashaki Shikibu là Shibun yòryo (Tử văn yếu
lĩnh) và tác phẩm Isonokami sasamegoto (Thạch thượng thục ngôn), một chuyên luận hoàn chỉnh về thi pháp học. Ngay trong thiên tiểu
luận Aware ben (1757) Norinaga đã viết: “Nếu chúng ta xem xét và nghiên cứu kỹ những tác phẩm cổ đại, chúng ta sẽ thấy rằng, nói
chung, ý nghĩa toàn thể của con đường thi ca (thi đạo=uta no michi) chỉ cần một từ duy nhất là aware là có thể diễn tả thấu đáo. Kể từ thời
đại của các thần linh cho đến ngày nay, và thậm chí cả cho đến khi thời gian ngừng trôi, tất cả những bài thơ Nhật Bản đã được và sẽ được
viết ra cũng sẽ trở về với thuật ngữ duy nhất này”. Từ thời Norinaga cho đến thời Meiji (Minh Trị) khái niệm và thuật ngữ mono no aware
xuất hiện rải rác trong những công trình viết về văn học sử Nhật Bản. Năm 1854 Hagiwara Hiromichi (Thu Nguyên Quảng Đạo) viết hẳn
một chuyên luận nghiên cứu về lý thuyết mono no aware trong cuốn Genji monogatari hyòshaku (Nguyên Thị Vật Ngữ bình thích). Tuy
có tranh luận với Norinaga một số điểm nhưng nói chung Hiromichi cũng đồng ý rằng kiệt tác của Murasaki Shikibu là thể hiện cao nhất
của lý tưởng mỹ học mono no aware. Hiromichi đã mở rộng khái niệm của Norinaga, xem xét văn học Nhật Bản căn cứ trên nhiều yếu tố
khác với quan điểm mono no aware. Một thế kỉ sau khi Norinaga viết chuyên khảo đầu tiên về văn học và thi ca Nhật Bản, Tsubouchi
Shòyò (Bình Nội Tiêu Dao), một sinh viên trẻ đang theo học với Ernest Fenellosa tại đại học Tokyo, khi viết bài phê bình vở kịch Hamlet
của Shakespeare, đã sử dụng quan niệm của Nho Giáo, kanzen chòaku (khuyến thiện trừng ác) trong lý luận văn học của mình. Đây chính
là điều tối kị, hoàn toàn tương phản với quan niệm mono no aware của Norinaga. Bản thân Fenellosa cũng phê phán Tsubouchi. Ông cho
rằng văn học là một vũ trụ tự sinh tồn, hoàn toàn độc lập với các giá trị đạo đức. Tsubouchi về sau đã thay đổi quan điểm của mình khi viết
Shòsetsu shinzui (Tiểu thuyết thần tủy=Tinh hoa của tiểu thuyết), chuyên luận đầu tiên về tiểu thuyết trong lịch sử văn học Nhật Bản.
Trong tác phẩm này Tsubouchi chống lại lý luận văn học “khuyến thiện trừng ác” và sử dụng quan niệm mono no aware của Norinaga như
một quan niệm thẩm mỹ lý tưởng, không những áp dụng cho văn học Nhật Bản mà còn cho toàn thể văn học trên thế giới. Trong lời tựa
cho bản dịch Genji monogatari sang tiếng Nhật hiện đại (cuốn 1 xuất bản năm 1911), Sassa Seisetsu cũng nhắc đến khái niệm mono no
aware như lý tưởng thẩm mỹ chi phối toàn bộ tác phẩm này. Trong cái nhìn của Sassa Seisetsu, văn học Heian là nền văn học duy nhất
trên thế giới được xây dựng bằng cảm tính. Theo các triết gia Đức, như Ernst Cassirer, tư tưởng huyền thoại (mythische Denken) chính là
tư tưởng đặt nền tảng nguyên sơ của nó trên những yếu tố cảm tính (Befindlichkeit): trong tư tưởng này lằn ranh giới phân chia thực tại và
mộng tưởng hầu như không còn tồn tại. Thế giới được trình diện trong trí tưởng con người qua một làn sương mù huyền hoặc và chỉ có
cảm thức thuần tuý đón nhận và nhào nặn thế giới đó thành những hình tượng thẩm mỹ. Nhưng khái niệm aware chỉ thực sự trở nên phổ
biến trong giới trí thức mỗi khi bàn luận đến văn học Nhật Bản là do công lao của Muraoka Tsunenetgu (Thôn Cương Điển Tự), tác giả
cuốn Motoori Norinaga xuất bản năm 1911. Thật ra nội dung chủ yếu của cuốn sách là bàn đến quan niệm về kami của Norinaga, nhưng
Muraoka cũng bỏ ra chút công phu bàn đến khái niệm mono no aware. Có lẽ Muraoka là người đầu tiên sử dụng khái niệm này như một
khái niệm thuộc phạm trù lý luận văn học. Theo Muraoka, Norinaga cho rằng aware là yếu tính cơ bản của văn học, chứ không phải giáo
lý, tư tưởng tôn giáo hay giảng dạy đạo đức theo kiểu Nho Giáo, “khuyến thiện trừng ác” (kanzen chòaku). Nghĩa là, aware, mặc dù không
được định nghĩa một cách rõ ràng, luôn luôn được sử dụng như một yếu tố đối lập với Phật Giáo và Nho Giáo, hai nguồn tôn giáo và đạo
đức đến từ văn minh Trung Quốc. Năm 1922 triết gia Watsuji Tetsurò (Hoà Thập Triết Lang) công bố bài viết “Bàn về mono no aware”
(Mono no a ware ni tsuite). Với bài viết này ý nghĩa của khái niệm mono no aware như một yếu tố đối lập với yếu tố tôn giáo và truyền
giảng đạo đức trong văn học đã được xác lập. Cùng với Watsuji, các học giả, giáo sư tại đại học Tokyo, những người chịu ảnh hưởng tư
tưởng ngữ văn Đức sâu đậm, cũng đang chuyển động theo hướng “kiến lập” một nền văn học quốc gia cho Nhật Bản hiện đại, trong đó văn
học Heian và khái niệm aware sẽ được tôn vinh và định hình như nền văn học và khái niệm văn học quan trọng nhất trong lịch sử văn học
Nhật Bản. Trong tác phẩm U huyền và Aware (Yùgen to Aware) xuất bản năm 1939, Onishi Yoshinori (Đại Tây Khắc Lễ) nỗ lực chứng
minh rằng những quan niệm như aware, yùgen, sabi thật ra là những phạm trù thẩm mỹ học phổ quát, chung cho toàn thể nhân loại chứ
không phải sở hữu riêng của văn hoá Nhật Bản. Năm năm trước đó, một học giả khác, Okazaki Yoshie (Cương Kỳ Nghĩa Huệ), tác giả của
cuốn Văn nghệ học Nhật Bản (Nihon bungeigaku), lại có quan điểm ngược lại: aware là tinh hoa của riêng văn học Nhật Bản. Nhưng khi
Okazaki cố gắng lý giải quan niệm này, chính ông cũng không thể định nghĩa rõ ràng aware là “cái gì.” Ngày nay thì một sinh viên mới
nhập môn ngành văn học Nhật Bản cũng có thể biết rằng aware là một khái niệm thẩm mỹ học mô tả tính “bi cảm” trong Genji
monogatari và okashi là một khái niệm thẩm mỹ học nhằm mô tả tính hài hước trong Makura no sòshi của Sei Shonagon. Thật ra cả hai
thuật ngữ này cũng thường xuyên bắt gặp trong các uta-awase (ca hợp) vào thời Heian, đặc biệt trong tác phẩm của Fujiwara Shunzei
(Đằng Nguyên Tuấn Thành: 1114- 1204)[9] Bản thân Norinaga cũng ghi nhận rằng mọi người thường dùng aware và okashi như hai phạm
trù mỹ học đối lập, nhưng thật ra okashi là một phần của aware, là một dạng thấp hơn, yếu hơn so với aware nhưng cùng chung một bản
chất. Sự giải thích của chính Norinaga chỉ làm khái niệm aware càng trở nên mơ hồ hơn chứ cũng chẳng giúp ích bao nhiêu cho những
người tìm hiểu văn học Nhật Bản.Trong bài viết “Bàn về tư tưởng aware” (Aware no shisò ni tsuite) trong bộ sử khổng lồ Nihon bungaku
hyòronshi (Nhật Bản Văn Học Bình Luận Sử), tác giả Hisamatsu Sen’ichi (Cửu Tùng Tiềm Nhất) cố gắng giải thích quan niệm mono no
aware từ góc độ “lịch sử tinh thần” (seishin shi), xem đây là một hình thái đặc trưng của cảm thức Nhật Bản khi tiếp xúc với thế giới ngoại
tại một cách hồn nhiên, sơ nguyên nhất. Theo Hisamatsu, aware không phải đơn thuần chỉ là nền tảng của văn học và thi ca Nhật Bản mà
nó còn thể hiện ý thức thẩm mỹ nói chung của dân tộc Nhật Bản. Đó chính là bào thai nuôi dưỡng vẻ đẹp Nhật Bản (Nihon teki bi no
hotai=Nhật Bản đích mỹ chi mẫu thai). Hisamatsu trong nỗ lực đi tìm một căn cứ lịch sử cho khái niệm aware đã cho rằng tiền thân của
aware chính là quan niệm makoto (thành) xưa nay vẫn được các học giả Nhật Bản, kế thừa quan điểm của Kamo no Mabuchi (Hạ Mậu
Chân Uyên), xem là ý thức thẩm mỹ nền tảng tạo ra kiệt tác Man’yòshù (Vạn Diệp Tập). Theo Hisamatsu, makoto không phải chỉ là một lý
tưởng thẩm mỹ: nó bao gồm toàn bộ chân, thiện, mỹ (shin zen bi no tai natsuteruru). Như vậy khi nhấn mạnh riêng phương diện thẩm mỹ
của makoto, chúng ta sẽ dùng thuật ngữ aware. Aware, nhìn từ quan điểm này, không phải chỉ gắn bó với thế giới cao nhã của văn học
Heian (Bình An), mà còn là lý tưởng nền tảng tạo ra đặc trưng phong cách tinh thần cho cả Man’yòshù.[10]Cần phải nói đôi chút về
Hisamatsu Sen’nichi (1894-1976) vì ông là một trong nhà nghiên cứu văn học cổ điển xuất sắc nhất của Nhật Bản trong thời kỳ Shòwa
(Chiêu Hoà: 1926-1989). Khi còn học tại đại học Tokyo, Hisamatsu đã chuyên về ngữ văn học, cụ thể là chuyên về văn bản học. Các giáo
sư tại đại học Tokyo thời bấy giờ hầu hết đều có khuynh hướng chuyên về văn bản học. Điển hình là Ueda Mannen (1867-1937), chuyên
về ngôn ngữ học Nhật Bản, Fujimura Tsukuru (1875-1953) chuyên về Saikaku và Chikamatsu, Sasaki Nobutsuna (1872-1963), chuyên về
Man’yòshù và lịch sử waka, Kaito Matsuzò (1878-1952) chuyên về lịch sử phong tục tập quán cổ đại Nhật Bản (yùsoku kojitsu) và phương
pháp nghiên cứu văn học. Chính nhờ sự đào tạo của các bậc thầy chuyên ngành “hiệu khám văn bản” (honbun hihyò) và “chú thích”
(chùshaku) mà Hisamatsu đã cho ra đời ấn bản Man’yòshù (Kòhon Man’yòshù, 1924-1925) hết sức có giá trị cũng như biên tập toàn bộ tác
phẩm của Keichù (Keichù zenshù, 1929). Tiêu chí chính của một nhà văn bản học khi nghiên cứu một tác phẩm văn học chính là khảo sát
lịch sử truyền bản và lịch sử tiếp nhận của tác phẩm đó. Đây là một phong cách đầu tiên do các học giả Đức khởi xướng. Kế thừa quan
điểm của Karl Elze, một nhà ngữ văn Đức, Hisamatsu cho rằng mục tiêu chính của ngành ngữ văn không giống như mục tiêu của ngành
ngôn ngữ học. Ngữ văn học (bunkengaku) có mục tiêu là thấu hiểu tinh thần văn hoá (bunka seishin) của một dân tộc được thể hiện ra
trong các tác phẩm văn học tiêu biểu của dân tộc đó. Nói cách khác, ngữ văn học chính là văn hoá học (bunkagaku). Bản thân Hisamatsu
đã dịch thuật ngữ Đức national Wissenschaft sang tiếng Nhật là kokugaku (quốc học) và Altertumswissenschaft là kogaku (cổ học). Ông
cũng dịch Philologie (ngữ văn học) trong tiếng Đức sang tiếng Nhật là kotengaku (cổ điển học). Qua các thao tác phiên dịch và sáp nhập
này Hisamatsu đã nỗ lực chứng minh rằng tinh thần chính của dân tộc Nhật Bản là “cổ đạo” (kòdo), tức Thần đạo (Shinto) và toàn bộ tinh
thần này được thể hiện đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất trong các kiệt tác văn học như Man’yòshù hay Genji monogatari. Những ưu tư khác của
các học giả Đức trong ngành ngữ văn học Hisamatsu không cần quan tâm đến.[11]Công trình xuất sắc của Hisamatsu chính là nỗ lực kết
nối aware với nhiều khái niệm thẩm mỹ quan trọng khác trong lịch sử phát triển tinh thần Nhật Bản. Khái niệm này phổ biến nhất trong
văn học Heian cùng với hai khái niệm khác cũng phổ biến không kém là okashi và taketakashi. Ngày nay okashi (tiếu) thường dùng trong
dạng đối lập với aware (bi) nhưng thực ra trong thời Heian nó rất tiệm cận với aware vì cả hai đều phục vụ cho một cứu cánh chung là
miyabi (nhã). Trong bối cảnh này, aware tượng trưng cho “giọt lệ dưới ánh trăng,” okashi tượng trưng cho “tiếng cười siêu thoát,” còn
taketakashi thể hiện “nét cao siêu hùng vĩ,” ba khía cạnh, ba phương diện của miyabi. Đặc biệt khi chỉ có aware kết hợp với taketakashi
một phong cách thẩm mỹ mới xuất hiện: yugen (u huyền), một phong cách nền tảng của kịch Nô.[12]Khi diễn dịch aware thành “giọt lệ
dưới ánh trăng” chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng các học giả Nhật Bản muốn liên kết sự thảo luận về mono no aware với một đặc trưng
độc đáo nhất của văn học Heian: đó là một nền văn học tràn đầy nữ tính về phương diện cảm thức cũng như về phương diện thực tiễn sáng
tác.[13] Kiệt tác đỉnh cao của thời kỳ này đương nhiên phải là Genji monogatari, tác phẩm của một phụ nữ,[14] nhưng chúng ta cũng
không nên bỏ qua không nhắc đến một tác phẩm khác trong văn học thời Kamakura có công năng soi sáng những góc cạnh khác mà Genji
monogatari không nhắc tới trong đời sống cung đình: Nhật ký của Nijò (nguyên tác Nhật ngữ: Towazugatari). Trong tác phẩm này thủ
pháp bonkadori (nói xa xôi ngụ ý) được sử dụng hết sức hoàn hảo để cung cấp một bức tranh về thân phận nữ nhân tại cung đình Heian
hoàn toàn khác với Genji monogatari. Trong cái nhìn của Nijò, đàn bà chỉ là công cụ, là nạn nhân của các trò chơi quyền lực của nam giới.
[15] Viết sau Genji monogatari, tác phẩm của Nijò, một phụ nữ thuộc giai cấp quý tộc thế kỉ 13, phi tần của thiên hoàng Go-Fukakusa, đã
kế thừa khá nhiều hình tượng trong kiệt tác của Murasaki Shikibu. Nhưng sự kế thừa của Nijò mang tính chất phê phán sự phi hiện thực
trong tác phẩm Genji monogatari, một tác phẩm tràn ngập tính lãng mạn cao nhã theo đúng lý tưởng miyabi, vì hơn bất kỳ ai cùng thời,
Nijò nhấn mạnh thực tế tàn nhẫn, thô bạo trong mối quan hệ giữa các cung phi và thiên hoàng trong bối cảnh cung đình. Chúng ta có thể
nói rằng, nếu những giọt lệ trong Genji monogatari thấm đầy tinh thần mono no aware thì những giọt lệ trong nhật ký Nijò hoàn toàn bị
chi phối bởi một cảm thức uất hận, phản kháng đối với chính cái thực tại đem đến niềm vui cao nhã cho Murasaki Shikibu. Trong cái thế
giới ảo mộng phù hoa (yume maboroshi no yò naru yo) bị ám ảnh bởi tư tưởng mạt pháp (mappò) của Phật Giáo, cả hai tác phẩm, Genji
monogatari và nhật ký của Nijò, đều thống nhất cảm thức chung của văn học Nhật Bản thời trung thế: thế giới mà chúng ta đang sống chỉ
là một giấc mộng. Những hình tượng hoa bướm (kachò) tràn ngập trong văn học Nhật Bản thời kỳ này cũng góp phần củng cố ấn tượng về
một cuộc sống nhân sinh ngắn ngủi, phù du, ngắn ngủi hơn cả cuộc sống của một đóa hoa hay một con bướm (kachò to iitsuru hodo ni
toshi mo kakurenu).[16]Một trong những độc giả say mê đọc tiểu thuyết thời Heian là phu nhân Sarashina. Vào lúc cuối đời, Sarashina
cảm thấy hối hận vì đã say mê đọc loại tiểu thuyết phù hoa như Genji monogatari thay vì nên siêng năng chép kinh Phật.[17] Những giai
thoại đề cập đến việc Murasaki Shikibu phải xuống địa ngục do hậu quả đã viết tác phẩm Genji monogatari bắt đầu xuất hiện vào khoảng
thế kỉ 12. Vào năm 1168 nhà sư Chòken (1126- 1203) viết một tác phẩm có tựa đề Genji Ippon Kyò (Nguyên Thị Nhất Bản Kinh=Một
quyển kinh về tác phẩm Genji monogatari) để phản đối loại tiểu thuyết phù hoa thời Heian mà Murasaki Shikibu là tác giả điển hình.
Trong quan điểm của Chòken, cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất trong văn học Nhật Bản này chỉ làm hư hỏng độc giả, phá hoại bản chất đạo
đức của họ bằng những câu truyện tình quan hệ dâm đãng. Murasaki như thế chắc chắn sẽ phải xuống địa ngục. Để cứu vớt linh hồn của
nữ sĩ Chòken yêu cầu mọi người hãy chép lại trọn bộ kinh Pháp Hoa. Bộ kinh này có tất cả 28 chương (phẩm). Trên mỗi chương chép lại
như thế hãy ghi tên một chương trong Genji monogatari.[18] Noi gương Bạch Cư Dị, nhà sư này đã góp phần hợp thức hoá vai trò của văn
học bằng cách liên kết văn học với tinh thần sùng bái tôn giáo.Sự biện minh đầu tiên cho tiểu thuyết (monogatari =vật ngữ) xuất hiện vào
đầu thế kỉ 13 với tác phẩm Mumyòzòshi (Vô Danh Thảo Tử), tương truyền là sáng tác của con gái Shunzei (Shunzei no Kyò no musume).
Trong luận văn này tiểu thuyết được xem là sản phẩm thú vị nhất, hay ho nhất, hấp dẫn nhất trên thế gian này. Những món hấp dẫn, hay ho
khác theo sắp xếp thứ tự từ cao xuống thấp như sau: trăng, văn học, giấc mộng, những giọt lệ, và cuối cùng là Phật A Di Đà. Nhân vật kể
truyện trong Mumyòzòshi là một ni cô. Bà nói: “Tôi không bao giờ hết ngạc nhiên vì sự xuất hiện của Genji monogatari. Càng suy nghĩ,
tôi càng tin chắc rằng tác phẩm này không phải bắt nguồn từ thế gian này. Chẳng phải do sự sùng bái nhiệt thành đức Phật mà tác phẩm
này có thể ra đời hay sao?”[19] Một trong những đặc trưng của văn học Heian nói riêng và văn học Nhật Bản nói chung chính là mối dây
liên hệ sâu xa giữa cảm thức tôn giáo và cảm thức thẩm mỹ.[20]
- Cái kết trong tác phẩm của Ishiguro không có ý nghĩa giải quyết vấn đề. Vấn đề của các nhân vật vẫn còn đó và thường bị vùi lấp
vào quá khứ. Nhân vật chấp nhận quá khứ vốn có cũng như con người họ sẽ trở thành. Tìm thấy sự thanh thản trong nhận thức
sán rõ ấy, đồng thời hướng tới sự khuây khỏa cho những đau đớn tinh thần là một đặc điểm khiến các tác phẩm của Ishiguro
mang màu sắc Mono no aware (Mono no aware: sự thấu cảm hay lòng trắc ẩn trước vạn vật, là một thuật ngữ dùng để diễn tả cảm
thức u hoài của chủ thể trước sự mỏng manh của tạo vật. Thuật ngữ này được học giả thời Edo Motoori Norinaga phổ biến. Phạm
vi của Mono no aware không chỉ giới hạn trong văn học Nhật Bản mà còn gắn liền với văn hóa truyền thống Nhật Bản )

"... Rằng đó khuấy động cảm thông được trồng bằng cách chạm vào chúng với vẻ đẹp, nỗi buồn, và sự nhận thức về kinh nghiệm phù du
"(Miner) Mono không có ý thức đóng một vai trò quan trọng trong cuốn tiểu thuyết đầu tiên của thế giới, Murasaki Shikibu'sGenji
monogatari (The Tale of Genji), từ ngày 11 đầu thế kỷ. Các phần nào sau, Heike monogatari (The Tale của Heike) bắt đầu với những
dòngnày nổi tiếng, mà rõ ràng cho thấy sự vô thường là cơ sở cho cảm giác của mono không có ý thức: "Những âm thanh của các Gion
shoja chuông vang vô thường của tất cả mọi thứ; màu sắc của các hoa Sola tiết lộ sự thật rằng những người giàu có phải suy giảm. Niềm tự
hào không chịu đựng, họ giống như một giấc mơ về một mùa xuânđêm mùa thu vĩ đại cuối cùng, họ là như bụi trước gió ". "Chương Đến
Cuộc change that all only La Phù du. The bông hoa Heo Tàn of the tree
Bồ đề set inside Chiếc giường seek Đức Phật Niết thoảng qua tỉnh giấc mộng đêm xuân. Người dũng cam, ke kiều hùngcát bui "[.
dịch Hiba] Sự vĩ đại của Murasaki thành tích của bao gồm trong khả năng của mình để miêu tả nhân vật với một ý nghĩa sâu xa của mono
không có ý thức bằng văn bản của mình, như vậy mà người đọc có thể cảm thông với họ trong cảm giác này. Inthe quý tộc của thất bại,
Sugawara Michizane không, quá, là một đại diện của nhận thức: Ông là người đầu tiên để đạt được trạng thái của tinh khiết
tài năng, không thông qua các kết nối giống như các thành viên khác của xã hội ở thời gian. Là một học giả phân biệt, nhưng ông đã bị tiêu
diệt rơi. Có anh không phải nạn nhân của sự ghen tị và cuộc đấu tranh quyền lực trong xã hội và tòa án sau đó đã chết một cái chết bi thảm,
ông sẽ không có được nâng lên trạng thái của một thần Shinto. Tương tự như vậy, Truyện Heike mô tả sự sụp đổ từ ân sủng của
các Yoshitsune chiến binh vĩ đại khi ông qua đời ở sự chỉ huy của xảo quyệt của mình anh trai. Giống như Michizane, Yoshitsune được ca
ngợi không khi ông được chiến thắng nhưng chỉ khi câu chuyện trở bi thảm. Nó có thể là của mình đức (chân thành, ngây thơ và lòng dũng
cảm), ông sở hữu trong khi được sống mà khuấy sự đồng cảm ở người khác và vì thế, chạm vào chúng với nỗi buồn khi anh rơi
xuống. Việc giảm giá đã được coi là huyền thoại, nhưng yêu vì bất hạnh thất bại rất và của họ.
Ví dụ thường xuyên được trích dẫn của mono không có nhận thức đương đại Nhật Bản là tình yêu truyền thống của hoa anh đào, là biểu
hiện của rất lớn đám đông của những người mà đi ra ngoài hàng năm để xem sakura. Các hoa của các cây anh đào Nhật Bản thực chất
không có đẹp hơn những của, nói rằng, những quả lê hoặc cây táo: họ có nhiều đánh giá cao vì của tính tạm thời của họ, vì họ thường bắt
đầu rơi trong vòng một tuần đầu tiên của họ xuất hiện. Đó chính xác là phù du của cái đẹp của họ mà gợi lên cảm giác biểu lộ của mono
không có nhận thức ở người xem.
Nhật Bản cổ đại
Các hoa của Văn học Nhật Bản
Shinto
Tokugawa Nhật Bản
Tokugawa Nhật Bản
Thuật ngữ Nhật Bản
Kokugaku
Các dự án văn hóa năng động nhất của thời kỳ Tokugawa (1603-1868)đã gần như chắc chắn là cố gắng để xác định các nhân vật cơ bản
của Nhật Bảnbởi các học giả và nhà thơ người được gọi là dòng kokugakushu, hoặc
Quốc gia (hoặc tiếng Nhật) nghiên cứu học giả. Phong trào này đa dạng, trong đó ảnh hưởng thơ ca và âm nhạc Nhật Bản và dẫn đến một
sự hồi sinh của Shinto và sau đó, trong thời kỳ Minh Trị, sự hồi sinh của Tennoism, thấy như là mục tiêu chính của nótinh chế văn hóa
Nhật Bản từ Đất bãi bồi nước ngoài. Đểhiệu ứng này, các kokugakushu từ chối để nghiên cứu tất cả các tập tục văn hóa, từ chính phủ cho
nghệ thuật thơ triết lý, mà họ tin có nguồn gốc từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nam Á, Ấn Độ, hoặc châu Âu. Cuối cùng,các hiện vật mà họ tin
rằng hầu hết các định nghĩa nhân vật Nhậtđầu Nhật Bản thơ, đại diện là thơ Manyoshu (người đầu tiênbộ sưu tập của thơ ca tại Nhật Bản)
và theo đạo Shinto. Shinto,
Tuy nhiên, đã có nhiều ảnh hưởng của Phật giáo đến khi có nó
Không thể trích xuất từ ý tưởng Phật giáo Shinto và thực tiễn.
Nhật Bản cổ đại
Heian Nhật Bản
Tokugawa Nhật Bản
Motoori Norinaga
Thuật ngữ Nhật Bản
Nhận thức
Các ảnh hưởng nhất của kokugakushu được Motoori Norinaga (1730 -
1801), một học giả văn học và ngôn ngữ. Ông đã phát minh ra khái niệm quan trọng
của mono không có ý thức để định nghĩa thiết yếu của Nhật Bản và Nhật Bản
văn hóa. Các cụm từ, bắt nguồn từ nhận thức, trong đó, ở Heian Nhật Bản có nghĩa là
một cái gì đó như "nhạy cảm" hay "nỗi buồn", có nghĩa là "nhạy cảm những điều "Motoori. muốn cho thấy rằng các nhân vật độc đáo của
Nhật Bảnvăn hóa (và ông được coi là văn hóa Nhật Bản là "đầu" củathế giới, các quốc gia khác là những "cơ thể") là năng lực kinh
nghiệmMục tiêu thế giới một cách trực tiếp và unmediated, để hiểuthông cảm các đối tượng và thế giới tự nhiên xung quanh một không
viện đến hòa giải viên ngôn ngữ hoặc khác. Người Nhật có thể hiểuthế giới trực tiếp trong việc xác định mình với thế giới rằng, trong
Ngoài ra, người Nhật có thể sử dụng ngôn ngữ để trực tiếp bày tỏ rằngkết nối với thế giới. Điều này, cho Motoori, là thẩm mỹ mà nằm
đằng sau những bài thơ của Manyoshu. Các thơ và lịch sử văn bảnHiện nay các "cả cuộc đời," có ý nghĩa bởi vì tất cả của thiên nhiên và
cuộc sống là sống động bằng những "ý đồ" của các vị thần. Người có kinh nghiệm này sự trọn vẹn của cuộc sống bởi gặp phải những điều
(mono); các cuộc gặp gỡ "di chuyển" hoặc "cảm động" họ ("nhận thức")-vì thế mà nhân vật độc đáo của Nhật Bản: “hạy cảm với những
điều" (mono không có ý thức). Khái niệm này đã trở thành trung tâm
khái niệm thẩm mỹ ở Nhật Bản thậm chí vào thời kỳ hiện đại.
Richard Hooker

Bản dịch từ Tiếng Anh sang Tiếng Việt


Mono không có nhận thức: Làm đẹp ở Nhật Bản
Đăng dưới: nghệ thuật, sắc đẹp, Nhật Bản, cuộc sống, Sri chinmoy Nghĩa đen là "một sự nhạy cảm với sự vật," mono không có ý thức là
một khái niệm Nhật Bản đặt ra bởi học giả văn học và ngôn ngữ Motoori Norinaga tại thế kỷ thứ mười tám để mô tả bản chất của văn hóa
Nhật Bản, và nó vẫn là bắt buộc trung tâm nghệ thuật tại Nhật Bản cho đến ngày nay. Các cụm từ bắt nguồn từ một từ nhận thức, mà ở
Heian Nhật Bản có nghĩa là độ nhạy cảm hay nỗi buồn, và mono từ, có nghĩa là mọi thứ, và mô tả vẻ đẹp như là một nhận thức về tính tạm
thời của tất cả mọi thứ, và một cách nhẹ nhàng lúc đi nỗi buồn của họ. Nó cũng có thể được dịch là "Ness-ah" của
điều, cuộc sống và tình yêu.
Mono không có ý thức đưa tên vào một thẩm mỹ mà đã tồn tại ở Nhật Bản nghệ thuật, âm nhạc và thơ ca, nguồn gốc của chúng có thể
được truy tìm trực tiếp đến giới thiệu của Phật giáo Thiền trong thế kỷ thứ mười hai, một tinh thần triết học và thực hành mà ảnh hưởng
sâu sắc tất cả các khía cạnh của
Văn hóa Nhật Bản, đặc biệt là nghệ thuật và tôn giáo. Bản chất phù du của mô tả vẻ đẹp của mono không có nhận thức xuất phát từ ba
bang sự tồn tại trong triết học Phật giáo: sự bất mãn, vô ngã, và quan trọng nhất là trong bối cảnh này, vô thường.
Theo đơn không có ý thức, một thuộc hoặc héo hoa mùa thu hơn đẹp hơn một nở rộ, một âm thanh mờ dần đẹp hơn một nghe rõ. Các
sakura hoặc cây hoa anh đào là hình ảnh thu nhỏ của quan niệm về vẻ đẹp, những bông hoa của sự đa dạng nổi tiếng nhất, somei
Yoshino, gần nhuốm màu trắng tinh khiết với một hoa tinh tế nhạt, hồng và sau đó giảm trong vòng một tuần duy nhất. Các chủ đề của một
ngàn bài thơ và một quốc gia biểu tượng, cây hoa anh đào Nhật Bản là hiện thân cho vẻ đẹp như là một thoáng qua kinh nghiệm.
Mono không có trạng thái nhận thức được rằng vẻ đẹp là một chủ quan hơn là mục tiêu kinh nghiệm, một trạng bị cuối cùng nội bộ hơn là
bên ngoài.
Phần lớn dựa vào những lý tưởng cổ điển Hy Lạp, vẻ đẹp ở phương Tây là tìm kiếm trong sự hoàn thiện cuối cùng của một đối tượng bên
ngoài: một bức tranh tuyệt, điêu khắc hoàn hảo hoặc thành phần âm nhạc phức tạp, một vẻ đẹp mà có thể được cho là chỉ là bề
ngoài. Những lý tưởng của Nhật Bản nhìn thấy vẻ đẹp thay vì là một kinh nghiệm của những trái tim và linh hồn, một cảm giác cho và
đánh giá cao các đối tượng hoặc tác phẩm nghệ thuật, phổ biến nhất là mô tả bản chất hoặc của-trong một nguyên sơ, ảnh hưởng nhà
nước.
Một sự đánh giá cao về vẻ đẹp như là một nhà nước mà không cuối và không thể nắm không giống như chủ nghĩa hư vô, và tốt hơn có thể
được hiểu liên quan đến triết lý Thiền của Phật giáo của siêu trần thế: a
tinh thần khao khát cho rằng đó là vô hạn và vĩnh cửu cuối cùng nguồn gốc của tất cả vẻ đẹp của thế gian. Khi Sotoba nhà sư đã viết trong
ZENRIN Kushu (Thơ của đền ZENRIN), Thiền không xem hư vô như là một tiểu bang vắng mặt, mà là sự khẳng định rằng đó là vô hình,
hiện tại phía sau không gian trống rỗng: "Tất cả mọi thứ tồn tại trong sự trống rỗng: Hoa, mặt trăng trong bầu trời, những phong cảnh đẹp.
" Với gốc rễ của nó trong Phật giáo Thiền, mono không có con gấu biết một số liên quan đến phi nhị nguyên của triết học Ấn Độ, như liên
quan trong câu chuyện sau đây về Swami Vivekananda của Sri Chinmoy:
"Làm đẹp", ông [Vivekananda], "không phải là bên ngoài, nhưng đã có trong tâm."
Ở đây chúng ta được nhắc nhở về những gì tinh thần con gái của ông đã viết về Nivedita
Thầy cô. "Đó là bóng tối khi chúng tôi đến gần Sicily, và chống lại
bầu trời hoàng hôn, Etna là trong đợt phun trào nhỏ. Khi chúng ta bước vào eo biển của Messina, mặt trăng lên, và tôi đi bộ lên và xuống
sàn bên cạnh
Swami, trong khi ông cư ngụ trên thực tế là không phải là vẻ đẹp bên ngoài, nhưng đã có trong tâm trí. Trên một mặt cau mày các crags tối
của Ý bờ biển, mặt khác, hòn đảo này đã xúc động với ánh sáng bạc. 'Messina
phải cảm ơn tôi, "ông nói," đó là tôi đã cho cô ấy tất cả các bà đẹp '"Quả thật,. nếu không có sự đánh giá cao, vẻ đẹp không phải là vẻ đẹp
cả. Và vẻ đẹp xứng đáng với tên gọi của nó chỉ khi nó đã được đánh giá cao.
Trích từ Vivekananda: Một cổ Silence-Heart Và Một tính năng động hiện đại-
Cuộc sống của Sri Chinmoy. Người sáng lập mono không có ý thức, Motoori Norinaga (1730-1801), là tiền học giả lỗi lạc của phong trào
Kokugakushu, một phong trào quốc gia đó tìm cách để loại bỏ tất cả các ảnh hưởng bên ngoài từ văn hóa Nhật Bản.
Kokugakushu đã có ảnh hưởng lớn lao trong nghệ thuật, âm nhạc, thơ và triết học, và chịu trách nhiệm về sự hồi sinh trong thời kỳ
Tokugawa các tôn giáo Shinto. Contradictorily, ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo và thực hành theo Thần đạo nghệ thuật và thậm chí cả
bản thân đã rất tuyệt vời đó, mặc dù Phật giáo là một kỹ thuật ảnh hưởng bên ngoài, đó là bởi thời điểm này không thể ược extrica
Bản dịch từ Tiếng Anh sang Tiếng Việt
Mono không có nhận thức: các thẩm mỹ làm đẹp Nhật Bản
Nghĩa đen là "một sự nhạy cảm với sự vật," mono không có ý thức là một khái niệm ô tả bản chất của văn hóa Nhật Bản, phát minh bởi
người Nhậtăn học và ngôn ngữ học giả học giả Motoori Norinaga trongthế kỷ thứ mười tám, và vẫn là cấp bách nghệ thuật trung ương ở
Nhật Bảncho đến ngày nay. Cụm từ có nguồn gốc từ chữ * * nhận thức, mà trong Heian
Nhật Bản có nghĩa là độ nhạy cảm hay nỗi buồn, và mono từ, có nghĩa là mọi thứ,à mô tả vẻ đẹp như là một nhận thức về tính tạm
thời của tất cả mọi thứ, và
một nỗi buồn nhẹ nhàng tại qua của họ. Nó cũng có thể được dịch là ah "-
Ness "của sự vật, của cuộc sống, và tình yêu.
Mono không có ý thức đưa tên vào một thẩm mỹ mà đã tồn tại ở Nhật Bản
nghệ thuật, âm nhạc và thơ ca, nguồn gốc của chúng có thể được truy tìm trực tiếp đếngiới thiệu của Phật giáo Thiền
trong thế kỷ thứ mười hai, một tinh thần
triết học và thực hành mà ảnh hưởng sâu sắc tất cả các khía cạnh của
Văn hóa Nhật Bản, đặc biệt là nghệ thuật và tôn giáo. Bản chất phù du của
mô tả vẻ đẹp của mono không có nhận thức xuất phát từ ba bang
sự tồn tại trong triết học Phật giáo: sự bất mãn, vô ngã, vàquan trọng nhất là trong bối cảnh này, vô thường.
Theo đơn không có ý thức, một thuộc hoặc héo hoa mùa thu hơn
đẹp hơn một nở rộ, một âm thanh mờ dần đẹp hơn một
nghe rõ ràng, những mặt trăng che khuất một phần hấp dẫn hơn so với đầy đủ. Cácsakura hoặc cây hoa anh đào là mẫu
mực của quan niệm này
vẻ đẹp; những bông hoa của sự đa dạng nổi tiếng nhất, somei Yoshino, gần
nhuốm màu trắng tinh khiết với một hoa tinh tế nhạt, hồng và sau đó nằm trong một tuần. Các chủ đề của một ngàn bài
thơ và một biểu tượng quốc gia,cây hoa anh đào thể hiện vẻ đẹp như là một kinh nghiệm thoáng qua.
Mono không có trạng thái nhận thức được rằng vẻ đẹp là một chủ quan hơn là mục tiêu
kinh nghiệm, một trạng bị cuối cùng nội bộ hơn là bên ngoài.
Phần lớn dựa vào những lý tưởng cổ điển Hy Lạp, vẻ đẹp ở phương Tây là tìm kiếmtrong sự hoàn thiện cuối cùng của một
đối tượng bên ngoài: một bức tranh tuyệt,
điêu khắc hoàn hảo hoặc thành phần âm nhạc phức tạp, một vẻ đẹp mà có thể
được cho là chỉ là bề ngoài. Những lý tưởng của Nhật Bản nhìn thấy vẻ đẹp thay vì làmột kinh nghiệm của những trái tim
và linh hồn, một cảm giác cho và đánh giá caocác đối tượng hoặc tác phẩm nghệ thuật phổ biến nhất là mô tả bản chất
hoặc của?? trong mộtnguyên sơ, ảnh hưởng nhà nước.

Bản dịch từ Tiếng Anh sang Tiếng Việt


"Mono-không biết-" và Triết học của các yếu Người ta thường nói rằng giá trị được chia sẻ trong thời đại toàn cầu hóa khả năng cạnh
tranh, đó là giá trị của kẻ mạnh. Để cho Nhật Bản được một người chiến thắng trong một thế giới tư bản khốc liệt, Nhật Bản phải được xã
hội đã thực sự cạnh tranh, loại bỏ các yếu tố như không hiệu quả như thời gian sinh việc làm.
Hiroshi Sakurai
Giáo sư, Trường Nghiên cứu Quốc tế tự do, Đại học Waseda
Toàn cầu hóa và xã hội Nhật Bản
Người ta thường nói rằng giá trị được chia sẻ trong thời đại toàn cầu hóa khả năng cạnh tranh, đó là giá trị của kẻ mạnh. Để cho Nhật Bản
được một người chiến thắng trong một thế giới tư bản khốc liệt, Nhật Bản phải được xã hội đã thực sự cạnh tranh, loại bỏ các yếu tố như
không hiệu quả như thời gian sinh việc làm. Trong nhiều năm, cuộc cải cách cấp tiến đã được thực hiện theo ý tưởng như vậy, nhưng trong
thực tế, xã hội Nhật Bản bị giảm phát và một bi quan nhìn về tương lai của Nhật Bản dường như chiếm ưu thế. Kể từ thời Minh Trị, Nhật
Bản theo sau quá trình Tây phương hóa, xây dựng một khu công nghiệp xã hội và xây dựng một quốc gia mạnh mẽ và quân sự, và cuối
cùng trở thành một nước đế quốc. Trong ý nghĩa đó, quá trình này là không thể tránh khỏi bởi vì trong xã hội công nghiệp, giá trị cơ bản
khả năng cạnh tranh và sức mạnh. Triết Kỷ Luật Phòng, chống Trái ngược với những khó khăn hiện tại của nền kinh tế Nhật Bản, Nhật
Bản phổ biến văn hóa đang thu hút sự chú ý nhiều hơn và nhiều hơn nữa trên thế giới. Của nó động lực là "otaku" cái gọi là văn hóa đại
diện của anime và manga. văn hóa này "otaku" đã được coi là đối diện của mạnh mẽ. Trong lịch sử nói, tuy nhiên, nó đã bất ngờ bị
một đáng kể một phần của văn hóa Nhật Bản chính thống. Triết lý của nhà tư tưởng người Đức Friedrich Nietzsche là của mạnh mẽ. Ông
nói rằng ở châu Âu, cá nhân bị tước đoạt của họ độc lập của đạo đức Kitô giáo và giảm đến vị trí của yếu. Đạo đức và các chỉ tiêu được cả
hai hình thức kỷ luật, để sử dụng thời hạn
Michel Foucault triết học. Với sự ra đời của tính hiện đại, Thiên Chúa, người đã là nền tảng của văn hóa phương Tây, đã chết,
mở ra một kỷ nguyên của chủ nghĩa hư vô. Theo Nietzsche, điều này cực đoan sự thay đổi mang lại những điều cần thiết mà con người trở
nên mạnh mẽ, đủ để chịu đựng sự vô nghĩa lớn nhất, cái chết của Thiên Chúa.
Khá thú vị là ở Nhật Bản, có một học giả người chỉ trích bản quy phạm kỷ luật như Nietzsche đã làm: Motoori Norinaga, một nhà nghiên
cứu của 'Koku-gaku', hay Nhật Bản nghiên cứu, trong thời kỳ Edo. Norinaga của kết luận,
Tuy nhiên, là hoàn toàn ngược lại của các đối tác của mình. triết lý của ông là: vì nó đã được, một triết lý của kẻ yếu. Các đối tượng của
những lời chỉ trích của ông Nho giáo, đó là kỷ luật đạo đức, định mức, và trưởng trụ cột của đạo đức phong kiến. Norinaga đề xuất ý
tưởng biết 'mono-không biết-', hoặc 'các pathos của sự vật' để chỉ trích kỷ luật. Đó là trong thời đại của triều đại Heian, khi The Tale of
Genji và waka, hoặc thơ cổ điển Nhật Bản, được tạo ra, điều này thái độ là phổ biến nhất. Thế giới của "Mono-không biết-"
Trong thời kỳ Heian, nhà nước là một quan liêu dựa vào kỷ luật, và các ký tự được sử dụng trong các văn bản chính thức đã được Trung
Quốckanji. Hiragana được tạo ra bên ngoài của hệ thống cấp bậc của quyền lực này, và nó đã trở thành một công cụ cần thiết để soạn
waka. Như vậy, trong thời gian đó, có là một cấu trúc kép của quan liêu nam tính và nữ tính của thế giới hiragana và waka. Giá trị của
'mono-không biết-"thuộc về sau này. Mặt khác, các tổ chức, đạo đức logic, và các chỉ tiêu đã được các giá trị cụ thể với thế giới trước đây
của quan liêu, và họ đã bày tỏ với Trung Quốc ký tự là chữ chính thức.
Tại sao sau đó, có thể 'mono-không biết-"không được thể hiện bởi các quy phạm hoặc các tài liệu quan liêu viết bằng chữ Trung
Quốc? Trong thực tế, điều này câu hỏi có liên quan đến một trong những chủ đề chính của hậu hiện đại, các triết học chính hiện hành trong
nửa sau của thế kỷ 20. Trong cơ cấu quyền lực nam-trung tâm, nói cách khác, trong thế giới của mạnh mẽ, các khuôn khổ chi phối. Đàn
ông đã dự kiến trước trong xã hội trong ranh giới của khung này. Các loại tinh tế và cảm xúc phức tạp của các cá nhân bị từ chối và bỏ qua
trong khuôn khổ chung của xã hội. Từ thực tế này, chúng tôi nhận ra những gì nó có nghĩa làphải mạnh mẽ, nó có nghĩa là để tiêu chuẩn
hóa chính mình theo khuôn khổ chuẩn bị của xã hội, từ bỏ những nhận thức về cảm xúc của chính mình.
Trong ngắn hạn, nhà nước, tổ chức, quyền lực, hội nhập, thống trị, logic và khái niệm trừu tượng, đây là những khuôn khổ cho phép trật tự
xã hội, và chúng hình thành thế giới của kẻ mạnh. Mặt khác, trong thế giới 'Mono-không biết-", chất lượng quan trọng nhất là sự nhạy cảm
và cảm xúc của cá nhân. Trong thế giới này, người điều trị mà không thể được
thể hiện bằng các biểu thức hợp lý và khái niệm. Là những người có quyền lực trong một cạnh tranh xã hội thuộc về thế giới của nam tính,
họ có thể không truy cập vào thế giới của sự nhạy cảm. Các công cụ thích hợp nhất để thể hiện này thế giới của sự nhạy cảm đã được
hiragana và phong cách văn học của waka.
Các triết lý của Nietzsche và Norinaga đứng trái ngược với một khác. Cả hai đều chỉ trích kỷ luật, nhưng họ đã đạt ngược lại kết luận. Ý
tưởng của "mono-không biết-" là đề xuất của Norinaga liên kết với các giá trị như cổ điển như 'yugen "và" Wabi-Sabi', hai Trung ương chủ
đề trong dòng lịch sử văn hóa Nhật Bản. Tương lai của xã hội cạnh tranh
Các chính sách quân sự và imperialization rằng Nhật Bản hiện đại đã chọn được trong thực tế khác với các giá trị thể hiện bằng chính
Văn hóa Nhật Bản. Thực tế là dường như nhu nhược và "yếu" phong cách văn hóa như manga, anime và thời trang có thể lấy lại được phổ
biến có nghĩa là, nghịch lý, xã hội Nhật Bản là lấy của nó thực chất
phong cách văn hóa. Tiền bạc, quyền lực và tổ chức không thể cung cấp văn hóa khả năng sinh sản. Chỉ có tâm nhạy cảm có thể. Có lẽ bây
giờ chúng tôi cuối cùng đã có thể theo đuổi quá trình 'mono-không biết-", để lại các giá trị tham lam theo định hướng của
xã hội cạnh tranh với các nước khác.
Hiroshi Sakurai
Giáo sư, Trường Nghiên cứu Quốc tế Tự do
Tiểu sử
Sinh ra tại Tokyo, sống ở Yamanashi
Tốt nghiệp Đại học Tokyo
Trước khi đến SILS, giảng dạy tại Đại học Yamanashi, và trường
Thương mại, Waseda Universtiy.
Chính
Lý thuyết xã hội học, đặc biệt là các lý thuyết của tổ chức tự
Công trình lớn
Phong cách sống và cơ cấu xã hội,
Hệ thống của xã hội đương đại: Giải thích của Xã hội học
Một cuốn sách mới, Nguồn gốc của trật tự xã hội sẽ được

Bản dịch từ Tiếng Anh sang Tiếng Việt


Điều gì là Jiyen các sư cố gắng để thể hiện trong bài thơ sau đây?
Hãy để chúng tôi không đổ lỗi cho gió, bừa bãi,
Đó là phân tán những bông hoa rất tàn nhẫn;
Tôi nghĩ rằng đó là mong muốn riêng của họ để qua đi trước khi thời gian của họ đã đến.
Jiyen các Monk (1155-1225)
(Trong SUZUKI DT, Thiền và Văn hoá Nhật Bản Princeton:. Princeton
University Press, 1973, p. 390.)
Ngoài hoa anh đào, những ví dụ khác là có thẩm mỹ các đối tượng mà vô thường là một phần của vẻ đẹp của họ? mối quan hệ giữa thời
gian và cái đẹp trong nghệ thuật phương Tây là gì? Làm thế nào để thể loại kịch, văn học phương Tây của "thảm kịch" giống hoặc
khác với sự tập trung của Nhật Bản vào mono không có ý thức? Mono không có Aware: Đặc điểm thẩm mỹ
Các thể loại thẩm mỹ của mono không có nhận thức (物 の 哀れ), hoặc những cay đắng " vẻ đẹp của sự vật, "mô tả một độ nhạy trồng đến
không thể tránh khỏi tạm thời của thế giới. Do yếu ớt sống động của họ, anh đào hoa, có thể dễ dàng phân tán bởi những cơn gió nhẹ, mưa,
đã trở thành nguyên mẫu biểu tượng của vẻ đẹp u sầu của vô thường - các chuyển tiếp sự hiện diện của hoa anh đào tăng cường kinh
nghiệm của nhấn mạnh vẻ đẹp tinh tế của hoa. Mono không có nhận thức được cận cảnh hữu hạn tồn tại trong dòng chảy của kinh nghiệm
và thay đổi.

Kể từ mono không có ý thức phát triển như là một biểu hiện thường ngày của pathos, nó nằm ở trung tâm của sự nhạy cảm của Nhật Bản
cận đại và thẩm mỹ do đó đã trở thành một cái gì đó của một thể loại thẩm mỹ rộng. Tuy nhiên, từ việc giải thích của Motoori Norinaga
(1730-1801) mono không có ý thức
đã được đáng chú ý nhất có liên quan với văn bản văn học như Heian (794 -
1185) tòa án thơ (waka - thơ kiểu Trung Quốc tại Nhật Bản) và The Talecủa Murasaki Shikibu Genji do (khoảng 1010). Mono không có
Aware: Ý nghĩa triết học Khái niệm đơn không có ý thức bắt nguồn từ Shinto bản địa (神道)
nhạy cảm, đó là rất nhạy cảm với các kích thước đầy cảm hứng
của thế giới tự nhiên. Như một cảm giác tôn giáo, không biết là mono
liên quan đến hai khái niệm khác, cụ thể là, "sức sống của những điều" (mono không có ke 物の気) và "tâm trạng của sự vật" (mono
không có Kokoro 物 の 心). Sức sống của những thứ liên quan đến năng lượng quan trọng (ke) tiết ra bởi thực tế điều thế giới (mono). Ví
dụ, các cửa hoặc archways (torii 鸟 居) của
đền thờ và đền thờ ban đầu đã có nghĩa là phải có một năng lượng quan trọng và do đó phục vụ như một nơi linh thiêng với uy tín của vũ
trụVề thực hành tôn giáo, Thần đạo nhằm mục tiêu việc trồng nâng cao sự cởi mở. Nói cách khác, một người cố gắng để nắm bắt "tâm
trạng của những điều "(mono không có Kokoro) hoặc cảm thấy thế giới hữu hình, qua đó thực hiện một cảm thông sâu sắc cộng hưởng với
môi trường của một người. Để được affectively và nhận thức hài hòa với những thứ xung quanh chúng ta là hình thức thân mật nhất
kiến thức - đó là, để biết tâm tim (Kokoro) của một điều
(Mono).
Vì vậy, không có đơn ke và mono không có Kokoro cung cấp nền dựa vào đó mono không có ý thức xuất hiện như là một quan niệm thẩm
mỹ. Mono không có, nhận thức đó, đại diện một cảm giác tinh tế cho biết một trái tim chân thành có khả năng cộng hưởng với năng lượng
quan trọng của sự vật trong một liên tục thay đổi
thế giới.
Với sự giới thiệu của Phật giáo vào Nhật Bản, nhận thức của thế giới như một quá trình trở thành một cách rõ ràng quan niệm như "vô
thường" (mujō 无常 -nghĩa đen, "mà không có không thay đổi"). Các truyền thống Phật giáo quan tâm đến vấn đề "cảm giác lo lắng" hay
"đau khổ" (tiếng Phạn dukkha) trong khuôn mặt của sự vô thường của sự vật đã trở thành aestheticized tại Nhật Bản. Mono không có ý
thức không chỉ là một hiện thực sống của vô thường, mà còn là một thẩm mỹ định hướng đến vẻ đẹp sâu sắc vốn có trong bản chất tạm
thời của sự tồn tại
Từ: Sanctuary Light Mountain
Các con đường núi tuyết phủ
Cuộn dây thông qua các loại đá
Đã kết thúc của nó;
Đây là viết tắt của một túp lều,
tổng thể là tất cả một mình;
Không có người thăm anh,
Cũng không phải bất kỳ dự kiến.
Sen no Rikyū (1521-1591)
Wabi-Sabi: Câu hỏi thảo luận hững gì các ví dụ về Wabi hoặc Sabi có thể được tìm thấy trong văn hóa của riêng bạn,
cộng đồng, hoặc nhà?
Làm thế nào để các đối tượng trong thế giới của chúng tôi tiết lộ thời gian?
Là những ví dụ cổ vật của Wabi và Sabi? Nếu không, tại sao không? nỗi nhớ là gì? Làm thế nào tương tự, hoặc khác, Wabi và
Sabi?
Wabi-Sabi: Đặc điểm thẩm mỹ
Trong khi các danh mục thẩm mỹ của Wabi (詫び), "vẻ đẹp mộc mạc," và Sabi (寂び), "vẻ đẹp hoang vắng," có thể được xử lý riêng, họ
là cuối cùng là khái niệm miễn phí có hỗ trợ một thẩm mỹ thống nhất ý nghĩa. Những phẩm chất thường được kết hợp với Wabi và Sabi là:
(1) khắc khổ, (2) không hoàn hảo, và (3) một cảm giác sờ thấy của việc thông qua thời gian. Các "con đường của trà" (chadō; còn được gọi
là cha không có yu) là liên kết chặt chẽ với các thẩm mỹ Wabi-Sabi. Ví dụ, trà nổi tiếng không có chủ Sen
Rikyū (1521-1591) nắm bắt được thẩm mỹ của đơn giản là tâm của trà đạo: "nghệ thuật của cha yu-no-bao gồm trong không có gì khác
nhưng trong nước sôi, pha trà, và nhấm nháp nó "(trích dẫn trong DT Suzuki, Zen
và Văn hóa Nhật Bản. Princeton: Princeton University Press, 1973, p.
280) Sen. Không có của Rikyū cụm từ "bao gồm trong không có gì khác" có nghĩa là cho biết kỷ luật không có cha-yu-như một cách để
tinh thần và đạo đức canh tác. Nói cách khác, một người toàn bộ được là hoàn toàn và hoàn toàn
chiếm đóng với những hành động có vẻ nhàm chán của trà. Trong nhiều cách, tinh thần kỷ luật này của trà có thể được hiểu trong
bối cảnh của Thiền sư Lâm Tế của (- 866?) giáo lý (3): "Phật-
Pháp không có một nơi đặc biệt để áp dụng các nỗ lực, nó chỉ là
thông thường và hàng ngày - giảm mình, mặc quần áo, ăn cơm,
nằm xuống khi mệt mỏi, "cũng như thiền sư của thiền sư Đạo Nguyên (1200-1253) (4) thiền định tập trung vào shikantaza (只管 打 座)
hay "chỉ cần ngồi." Giống như mono không có ý thức, Wabi và Sabi được nhúng trong một ý nghĩa sâu sắc tỷ lệ tử vong. Cả hai khái niệm
gọi một tâm trạng trầm của sự cô đơn, một oán sự chú tâm đến thời gian qua, và sự nhạy cảm với của con người diễn ra trong thế giới tự
nhiên. Để đặt nó một chút khác nhau, đó là trong bối cảnh toàn diện của thiên nhiên, như là một bất tận quá trình sáng tạo và hủy diệt, hình
thành và phân rã, cuộc sống và cái chết là cá nhân con người nổi bật trong solitariness cô và độc đáo. Đó là trong trạng thái này của
solitariness là một là đưa trở lại để tự xác thực của một người và trở lại đối mặt với đầy đủ hơn hiện sinh (5) và kích thước của kinh
nghiệm tôn giáo của con người.
Hơn nữa, đó là triết lý quan trọng mà bản chất đại diện cho cơ bản nền tảng của sự tồn tại của con người, mà là để nói rằng những
loại truyền thống của Nhật Bản từ chối bất kỳ hình thức của văn hóa so với tính chất phân đôi. (6) Thực vậy, các thẩm mỹ của Wabi và
Sabi nhấn mạnh rằng chúng tôitinh chế hầu hết các tập tục văn hóa cần phải biểu diễn quan trọng
mối quan hệ giữa con người và thế giới tự nhiên. Các aestheticization của thiên nhiên là con người, tức là, đóng góp, văn hóa bản chất chứ
không phải là một cái gì đó khác biệt với thiên nhiên. Do trung tâm thẩm mỹ của thiên nhiên trong tiếng Nhật, "không hoàn hảo" đã trở
thành giá trị như một chất lượng cơ bản của sắc đẹp. Các tác phẩm của các tu sĩ Phật giáo Yoshida Kenko (1283-1350) đại diện cho một
trong các báo cáo liên quan đến cổ điển
Nhật Bản thẩm mỹ của sự không hoàn hảo:
Đó là chỉ sau khi bao bọc lụa đã sờn ở phía trên và phía dưới, và mẹ-của-ngọc đã giảm từ con lăn mà một cuộn trông
đẹp. Tôi rất ấn tượng để nghe Kōyū Abbot nói: "Nó là điển hình của người đàn ông không thông để nhấn mạnh vào việc lắp ráp bộ của
everythings. Không hoàn hảo bộ được tốt hơn "Trong tất cả mọi thứ., Không có vấn đề gì đó có thể, tính đồng nhất và đầy đủ không được
ưa chuộng. Yoshida, Kenko, tiểu luận vô ích:. Các Tsurezuregusa của Kenko Tr. Donald Keene. New York: Columbia University Press,
1967, 115, như trích dẫn. trong Yuriko SAITO, "Thẩm mỹ học Nhật Bản không hoàn hảo và
Suy "Tạp chí Thẩm mỹ học và Phê bình Nghệ thuật, 55:4, mùa thu
Năm 1997, 377-385.) Trong khi Thần đạo là cơ sở cho tình yêu văn hóa Nhật Bản của thiên nhiên, kiên quyết đối đầu với sự vô thường
của Phật giáo đại diện cho một triết học phải đối mặt với những điều cam kết khi chúng được, hơn là làm thế nào họ nên được. Điều quan
trọng cần lưu ý, tuy nhiên, đây không phải là hình thức từ chức khi đối mặt với sự bất toàn, nhưng một ôm lời khẳng định của sự không
hoàn hảo vốn có của tất cả mọi thứ. Do đó, thẩm mỹ của Wabi-Sabi hình mẫu các gắn liền của một religio
quan điểm triết học và thẩm mỹ mà được định để mang lại cho nó để thể hiện đầy đủ nhất của nó. Ví dụ chính: Núi và Mây Từ: Jimages
Nhiếp ảnh
Nhìn ra xa đủ,
Ngoài tất cả hoa anh đào
và đỏ tươi cây phong,
với những túp lều của cảng
mờ dần trong hoàng hôn mùa thu.
Fujiwara Teika (1162-1241)
(William Lafleur, The Karma của từ: Phật giáo và nghệ thuật văn học trong
Thời trung cổ Nhật Bản. Berkeley: Đại học California, 1983, p. 97.)
*** "Biểu tượng và Yūgen: Shunzei của sử dụng của Phật giáo Thiên Thai" (trang 80-107) trong
William Lafleur, The Karma của từ: Phật giáo và nghệ thuật văn học trong
Thời trung cổ Nhật Bản. Berkeley: Đại học California, 1983
** "Một lời mời đến Quán: The Garden Rock của Ryōanji và
Khái niệm về Yūgen "(trang 24-37) trong Eliot Deutsch, Nghiên cứu so sánh
Thẩm mỹ. Honolulu: Nhà in Đại học Hawaii, năm 1975.
Là "bí ẩn" quan trọng cho nghệ thuật? Nếu có, tại sao không?
Thế nào là "sâu" trong nghệ thuật? Triết học? Cuộc sống?
Tại sao nó quan trọng về mặt thẩm mỹ, triết lý, và đạo đức mà những "bức tranh lớn" không hoàn toàn áp đảo hoặc bỏ giá trị cụ thể?
Mô tả các thẩm mỹ "căng thẳng" kinh nghiệm trong những hình ảnh ví dụ hay
Bài thơ cung cấp? Làm thế nào thực hiện điều này làm cho bạn cảm thấy căng thẳng?
Yūgen: Các đặc điểm thẩm mỹ
Hai nhân vật đó bao gồm các yūgen từ (幽 玄) tham khảo với mà chống lại được nhận thức rõ ràng. Cụ thể hơn, đầu tiên nhân vật, Yu (幽)
đề cập đến "Ness-vong" và "mờ", trong khi các gen nhân vật thứ hai (玄) đề cập đến "bóng tối" và "bóng tối."
Yoshinori Onishi cho rằng khái niệm xuất hiện trong bốn yūgen các loại văn học khác nhau: (1) Thiền và Trung Quốc Daoist tác, (2)
Trung Quốc thơ, (3) Waka (thơ kiểu Trung Quốc tại Nhật Bản), và (4) luận về thơ và không đóng (Onishi 9). Trong trường hợp của Daoist
và Zen văn học, khái niệm này mang một màu rộng "siêu hình" (7), trong khi các quan niệm thơ mộng của yūgen là thẳng thắn hơn mô
tả. Và sau đó, trong các luận quan trọng về Waka và không có, yūgen bắt đầu được sử dụng trong nhiều cách thức "lý thuyết" để biện
minh bản án, thẩm mỹ là một khái niệm quy phạm pháp luật (8) để phản ánh thuận và đánh giá công trình mang tính thẩm mỹ.
Ngoài tiền tệ văn học của nó, yūgen cũng trở nên liên kết chặt chẽ
với sơn inkwash Sumi-e. hình ảnh trực quan và văn học thường được sử dụng để chuyển tải chất lượng yūgen bao gồm những thứ như túp
lều được xâm phạm chiều, các bao quanh bởi các ngọn núi sương mù, các che khuất của mặt trăng bởi những đám mây, các fading của
người dân vào bóng tối, vv Các chất cảm quan gắn liền với những hình ảnh này bao gồm colorlessness, sự không rõ ràng,
ngay đơ đơn giản, sự im lặng, và sự yên tĩnh, trong khi cảm thấy phẩm chất
bao gồm sang trọng, tinh tế, duyên dáng, cô đơn, tĩnh lặng, và một sâu
ý nghĩa của pathos.
Yūgen: Ý nghĩa triết học
Tendai Phật giáo thực hiện một ảnh hưởng sâu sắc đến các khái niệm về yūgen. (9) ảnh hưởng này có thể được phân tích thành hai sợi cơ
bản. Việc đầu tiên sợi các mối quan tâm thực hành Tendai của shikan (止 観 "thanh bình- chiêm niệm ") thiền định, trong khi trả về chuỗi
thứ hai đến cơ bản Phật giáo tập trung vào mujō (无常 "vô thường").
Việc thực hành thiền tông Thiên Thai của shikan trở thành ống kính qua đó chất lượng yūgen điều đến để được bắt, theo William Lafleur
trong The Karma của từ: Phật giáo và nghệ thuật văn học trong thời Trung Cổ
Nhật Bản (Berkeley: Đại học California, 1983). Cuối cùng, shikan thiền, thực hành để thực hiện ba chân lý (các hiện tượng (假 ke), các
khoảng trống (空 ku), và giữa (中 chu)), các hình thức tư thế thái độ qua đó yūgen là actualized. Lafleur lập luận rằng những chân lý Thiên
Thai nhấn mạnh phụ thuộc lẫn nhau của tất cả mọi thứ chức năng như một lời khẳng định của "bất định về ý nghĩa." Như vậy, cái nhìn sâu
sắc này được sản xuất tăng đáng kể trong chiều sâu ý nghĩa và ý nghĩa (fukasa 深 さ) để được viết và được tìm thấy trong nghệ thuật.

Nhật Bản là quốc gia có tính đồng nhất về sắc dân và văn hóa. Người dân không có nguồn gốc Nhật chỉ chiếm hơn 1% tổng dân số vào
năm1993. Sắc dân nước ngoài đông nhất là Triều Tiên nhưng nhiều người Triều Tiên sinh trưởng tại Nhật Bản đã nói tiếng Nhật không
khác gìngười Nhật Bản cả. Sắc dân này trước kia bị kỳ thị tại nơi làm việc và tại một số phương diện trong đời sống hàng ngày. Sắc dân
ngoại quốc thứ hai là người Trung Hoa rồi về sau còn có một số dân lao động gồm người Philippines và người Thái.
Theo Bộ Nội Vụ của Nhật Bản, dân số Nhật Bản vào cuối năm 2000 là 126.434.470 người, đứng hàng thứ bảy sau Trung Quốc, Ấn
Độ, Hoa Kỳ, Indonesia, Brasil và Nga. Mức gia tăng dân số lên tối đa vào năm 1974 với tỉ lệ sinh 1,27%, đã giảm xuống còn 0,35% vào
năm 1992. Tuy thế, Nhật Bản vẫn có thể có dân số lên tới 129,5 triệu người vào năm 2010 rồi sau đó mới giảm bớt.
Do dân số đông, mật độ dân số của Nhật Bản lên tới 327 người/km², ngang hàng với các nước có mật độ cao như Bỉ, Hà Lan và Triều
Tiên. Khoảng 49% dân Nhật tập trung quanh ba đô thị lớn là Tokyo, Osaka và Nagoya cùng với các thành phố phụ cận. Tokyo vẫn là nơi
đông dân nhất, với khoảng 1/3 tổng dân số. Lý do của sự tập trung này là vì Tokyo là trung tâm của khu vực dịch vụ. Vào năm 1991, Nhật
Bản có 13% dân số trên 65 tuổi, con số này thấp hơn so với của Thụy Điển là 18% và Anh là 15%. Tuổi thọ trung bình tại Nhật Bản là 81
đối với phụ nữ và 75 với nam giới.
Người Nhật Bản có nguồn gốc Mông Cổ, giống như người Triều Tiên và Trung Hoa. Có lẽ vào khoảng 10.000 năm về trước, sắc tộc gốc
Mông Cổ này đã di cư tới Nhật Bản là nơi có sẵn tộc người Ainu, một loại thổ dân gốc Caucase. Ngày nay thổ dân Ainu chỉ còn vào
khoảng 14.000 người, sinh sống trong các khu vực riêng biệt thuộc Hokkaido. Người Ainu đang chịu các số phận thiệt thòi giống như thổ
dân da đỏ tại Bắc Mỹ.Do sống biệt lập với các quốc gia khác tại châu Á trong nhiều thế kỷ cho tới thời kỳ mở cửa vào năm 1868, Nhật
Bản đã có các nét riêng về phong tục, tập quán, chính trị, kinh tế và văn hóa... trong đó gia đình đã giữ một vai trò trọng yếu. Trước Thế
Chiến thứ Hai, phần lớn người Nhật sống trong loại gia đình gồm ba thế hệ. Sự liên lạc gia đình đã theo một hệ thống đẳng cấp khắt khe
theo đó người cha được kính trọng và có uy quyền. Người phụ nữ khi về nhà chồng phải tuân phục chồng và cha mẹ chồng nhưng sau khi
Luật Dân Sự năm 1947 được ban hành, người phụ nữ đã có nhiều quyền hạn ngang hàng với nam giới về mọi mặt của đời sống và đặc tính
phụ quyền của gia đình đã bị bãi bỏ. Phụ nữ Nhật đã tham gia vào xã hội và chiếm 40,6% tổng số lực lượng lao động của năm 1990. ác
phát triển nhanh chóng về kinh tế, kỹ thuật và đô thị cũng làm gia tăng loại gia đình hạt nhân chỉ gồm cha mẹ và các con, khiến cho loại
đại gia đình giảm từ 44% vào năm 1955 xuống còn 13,7% vào năm 1991. Số người con trong gia đình cũng giảm từ 4,7 vào
năm 1947 xuống còn 1,5 vào năm 1991 vì việc làm nơi thành phố và do cuộc sống trong các căn nhà chung cư chỉ thích hợp với loại gia
đình trung bình là 2,9 người.
Cùng với sự thay đổi về số người trong gia đình, nếp sống hiện nay của người Nhật Bản khác ngày trước do việc dùng các máy móc gia
dụng, do sự phổ biến các loại thực phẩm ăn liền và đông lạnh, các loại quần áo may sẵn và các phương tiện hàng ngày khác. Những tiện
nghi này đã giải phóng người phụ nữ khỏi các ràng buộc về gia chánh, cho phép mọi người có dư thời giờ tham gia vào các hoạt động giải
trí, giáo dục và văn hóa. Các tiến bộ về công bằng xã hội cũng làm mất đi tính kỳ thị về giai cấp, về quá trình gia đình, và đại đa số người
Nhật Bản thuộc giai cấp trung lưu, căn cứ vào lợi tức của họ.
Ngày nay mặc dù Nhật Bản đã là một quốc gia tân tiến nhưng trong xã hội Nhật, vai trò và các liên hệ nam nữ đã được ấn định rõ
ràng.Thời xưa, Nhật Bản theo chế độ mẫu hệ, người phụ nữ có vai trò lớn hơn nam giới. Từ khi thời kỳ samurai phát triển, người đàn ông
lại chiếm vai trò độc tôn. Dù rằng tinh thần giải phóng phụ nữ đã được du nhập vào Nhật Bản từ cuối thế kỷ 19 nhưng hiện nay trong đời
sống công cộng, người phụ nữ vẫn ở vị thế thấp hơn nam giới và bên ngoài xã hội, người nam vẫn giữ vai trò lớn hơn một chút. Theo căn
bản, người nữ vẫn là người của "bên trong" (uchi no) và người nam vẫn là người của "bên ngoài" (soto no). Phạm vi của người phụ nữ là
gia đình và các công việc liên hệ, trong khi người chồng là người đi kiếm sống và đưa hết tiền lương về cho người vợ. Thời xưa, người phụ
nữ trên 25 tuổi mà chưa có chồng thường bị nam giới coi như "có khuyết điểm nào đó". Nhưng nay Nhật Bản lại là nước có phụ nữ lấy
chồng rất muộn, thậm chí là sống độc thân mà không có chồng (Nhật Bản hiện nay là nước có phụ nữ lấy chồng rất ít và tỉ lệ sinh thấp nhất
Châu Á. Tại các công ty, nhà máy, cửa hàng... người phụ nữ thường được thuê mướn để chào đón các khách mới đến. Ngày nay, vị thế của
người phụ nữ đã được nâng lên nhiều trong xã hội, nhất là tư duy của lớp thanh niên trẻ - những người thường không có quan niêm phân
biệt và suy nghĩ bảo thủ, cổ hủ.
Xã hội Nhật Bản có các nét đặc biệt về giao thiệp. Người Nhật thường cúi chào bằng cách gập người xuống và độ hạ thấp tùy thuộc địa vị
xã hội của cả hai người. Đây là một dấu hiệu quan trọng để tỏ lộ sự kính trọng. Một nét phong tục khác là việc trao đổi danh thiếp. Mỗi lần
giới thiệu hay gặp mặt đều cần tới tấm danh thiếp và việc nhận tấm danh thiếp bằng hai tay là một cử chỉ lễ độ. Tấm danh thiếp được in rõ
ràng và không được viết tay trên đó. Trong việc giao thiệp, người Nhật thường không thích sự trực tiếp và việc trung gian đóng một vai trò
quan trọng trong cách giải quyết mọi hoàn cảnh khó khăn. Cũng như đối với nhiều người châu Á khác, người ngoại quốc tới Nhật Bản cần
phải bình tĩnh trước mọi điều không vừa ý, không nên nổi giận và luôn luôn nên nở nụ cười

You might also like