Tập 167, Số 07, 2017
Tập 167, số 07, 2017
167(07)
N¨m
2017
T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ
Journal of Science and Technology
CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ
Môc lôc
Trang
Nguyễn Đại Đồng - Hoạt động khai thác mỏ ở Lào Cai dưới thời Gia Long và Minh Mệnh
3
Dương Thị Huyền - Thương mại châu Âu và những tác động đến tình hình chính trị Đàng Trong thế kỷ XVI- XVIII
9
Trần Thị Nhung - Miêu tả tình tiết trong Truyện Kiều và Kim Vân Kiều Truyện
15
Nguyễn Thị Hải Phương - Bản chất của ngôn từ văn học (nghĩ từ bài viết Bản chất xã hội, thẩm mỹ của diễn
ngôn văn học của Trần Đình Sử)
21
Phạm Thị Mai Hương, Nguyễn Thị Thu Trang, Ngô Thị Lan Anh - Ảnh hưởng của lễ hội Vu Lan đến đời
sống đạo đức của nhân dân huyện Quốc Oai, Hà Nội
25
Phạm Thị Ngọc Anh - Hình tượng văn thủy ba trong mỹ thuật cổ Việt Nam và các ứng dụng trên sản phẩm mỹ
thuật tạo hình hiện đại
31
Trương Thị Phương - Giải pháp ứng dụng hiệu quả thông tin đồ họa trên báo điện tử
37
Phạm Thị Nhàn - Ẩn dụ từ vị giác “ngọt” trong tiếng Hán hiện đại
43
Lương Thị Thanh Dung – Sự khác nhau về kết cấu chữ Nôm của văn bản Thiền tông bản hạnh giữa bản in
năm 1745 và bản in năm 1932
49
Nguyễn Thị Quế, Phạm Phương Hoa - Đánh giá sự phù hợp của giáo trình New English File đối với việc
giảng dạy sinh viên không chuyên ngữ tại Trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên
55
Hoàng Thị Thắm - Nghiên cứu về siêu nhận thức trong nghe tiếng Anh của sinh viên chương trình tiên tiến tại
Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên
61
Nguyễn Quỳnh Trang, Dương Công Đạt, Vũ Kiều Hạnh - Thiết kế chương trình bổ trợ nói cho học sinh lớp
10 Trường Trung học Phổ thông Thái Nguyên
67
Nguyễn Khánh Như - Sự phát triển của hệ thống các trường đại học sư phạm trọng điểm Trung Quốc hiện nay
73
Nguyễn Văn Hồng, Vũ Thị Thanh Thủy - Dạy học theo dự án và vấn đề phát triển năng lực nghiên cứu khoa
học cho học sinh trong dạy học Sinh thái học ở trung học phổ thông
79
Trần Thị Phương Thảo, Nguyễn Thị Hoa Hồng - Nâng cao tính ứng dụng trong xây dựng chương trình đào
tạo đại học tại Việt Nam – bài học từ chương trình giáo dục đại học định hướng nghề nghiệp ứng dụng (POHE)
85
Phạm Thị Bích Thảo, Nguyễn Thành Trung - Lựa chọn bài tập thể lực chuyên môn nâng cao kết quả học tập
chạy cự ly ngắn cho sinh viên khóa 14 Trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên
91
Lê Huy Hoàng, Nguyễn Thị Huyền, Nguyễn Thị Ngân, Vũ Thị Vân Anh - Phát triển năng lực sử dụng ngôn
ngữ hóa học của học sinh phổ thông trong dạy học các nội dung về hóa học hữu cơ chương trình hóa học lớp 12
nâng cao
97
Nguyễn Trọng Du - Phỏng vấn ‘nhóm tập trung’: một phương pháp thu thập dữ liệu hiệu quả với các nghiên
cứu khoa học xã hội
103
Đỗ Thị Thái Thanh, Trương Tấn Hùng, Đào Ngọc Anh - Xây dựng hồ sơ năng lực bồi dưỡng giáo viên thể
dục các trường trung học phổ thông các tỉnh miền núi phía Bắc
109
Nguyễn Ngọc Bính, Dương Tố Quỳnh, Nguyễn Văn Thanh - Thực trạng sử dụng hệ thống phương tiện
chuyên môn trong giảng dạy môn bóng chuyền cho sinh viên Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh Đại học Thái Nguyên
115
Lê Văn Hùng, Nguyễn Nhạc - Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động câu lạc bộ bóng đá nam sinh viên
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên
119
Nguyễn Văn Dũng, Lê Văn Hùng - Một số giải pháp giúp sinh viên lựa chọn môn học tự chọn trong chương
trình giáo dục thể chất dành cho sinh viên không chuyên thể dục thể thao Trường Đại học Sư phạm – Đại học
Thái Nguyên
125
Nguyễn Văn Chiến, Nguyễn Trường Sơn, Đỗ Như Tiến - Một số kết quả ban đầu trong việc áp dụng CDIO
để xây dựng chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo tại Đại học Thái Nguyên
131
Đỗ Quỳnh Hoa - Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng lối sống cho sinh viên Trường Đại học
Công nghệ Thông tin và Truyền thông – Đại học Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay
135
Phạm Văn Hùng, Nguyễn Huy Hùng - Đánh giá đầu ra của chương trình đào tạo qua mức độ đáp ứng chuẩn
đầu ra của sinh viên chuẩn bị tốt nghiệp
141
Ngô Thị Lan Anh, Nguyễn Thị Thu Hiền - Yêu cầu khách quan của việc đổi mới quy trình kiểm tra đánh giá
kết quả học tập môn giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông nước ta hiện nay
147
Trương Thị Thu Hương, Trương Tuấn Anh - Ứng dụng dạy học dự án trong đào tạo giáo viên kỹ thuật tại
Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp - Đại học Thái Nguyên
153
Dương Quỳnh Phương, Trần Viết Khanh, Đồng Duy Khánh - Những nhân tố chi phối đến văn hóa tộc người
và văn hóa cộng đồng dân tộc dưới góc nhìn địa lí học
159
Nguyễn Thị Thanh Tâm, Trần Quyết Thắng, Đào Thị Hương - Đánh giá mức độ hài lòng của khách du lịch
đối với đội ngũ hướng dẫn viên du lịch tại một số công ty kinh doanh lữ hành trên địa bàn thành phố Thái
Nguyên
165
Nguyễn Văn Chung, Đinh Hồng Linh - Các yếu tố thành công cho website thương mại điện tử: trường hợp
doanh nghiệp du lịch nghỉ dưỡng vừa và nhỏ ở Quảng Bình
171
Đặng Thị Bích Huệ - Dự án hỗ trợ nông nghiệp, nông dân và nông thôn tỉnh Tuyên Quang và các tác động đến
đời sống người dân trên địa bàn xã Minh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang
177
Lương Văn Hinh, Lương Trung Thuyền - Nghiên cứu biến động giá đất ở trên địa bàn thị trấn Thất Khê,
huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2011 – 2015
183
Nguyễn Tú Anh, Nguyễn Thị Lan Anh, Nguyễn Thành Minh - Nghiên cứu các mối quan hệ cung ứng dịch
vụ quản trị hoạt động có dịch vụ trách nhiệm xã hội: trường hợp điển cứu tại các công ty dịch vụ vận tải chở
khách vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
189
Nguyễn Thị Thu Thương, Hoàng Ngọc Hiệp - Thực trạng quản lý vốn ngân sách nhà nước cho đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp tỉnh Thái Nguyên
193
Tạ Thị Thanh Huyền, Nguyễn Mạnh Dũng - Tăng cường quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách
nhà nước trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
199
Nguyễn Thị Kim Huyền - Ứng dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS): kinh nghiệm quốc tế và bài
học cho Việt Nam
205
Nguyễn Thị Nhung, Phan Thị Vân Giang - Tạo động lực cho các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư
nhân đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
211
Phạm Thuỳ Linh, Phạm Hoàng Linh, Trần Thị Thu Trâm - Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập mới
219
Nguyễn Thị Thu Trang, Trần Bích Thủy - Động lực làm việc của cán bộ công chức xã phường: nghiên cứu
điển hình tại thành phố Thái Nguyên
225
Nguyễn Thu Thủy, Hoàng Thái Sơn - Bài học kinh nghiệm trong quản lý rủi ro thanh khoản đối với Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Á Châu
231
Ngô Thúy Hà - Định hướng phát triển dịch vụ tín dụng cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đến năm 2020
237
Đoàn Quang Thiệu - Một số kết quả xây dựng mô hình học tập, thực hành về kế toán doanh nghiệp
243
Trần Thị Nhung
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
167(07): 15-20
MIÊU TẢ TÌNH TIẾT TRONG TRUYỆN KIỀU VÀ KIM VÂN KIỀU TRUYỆN
Trần Thị Nhung*
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Tiếp cận các tài liệu nghiên cứu về miêu tả tình tiết trong Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện,
chúng tôi nhận thấy nghiên cứu của học giả trong và ngoài nước tuy đạt được nhiều thành tựu
nhưng chưa giải quyết được triệt để các vấn đề khoa học đặt ra, giữa các học giả có nhiều ý kiến
trái chiều. Vì vậy, bài báo khái quát và đi sâu phân tích đặc trưng trong miêu tả tình tiết của
Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện, lý giải nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt này. Chúng tôi cho
rằng, việc Nguyễn Du lược bỏ hay thêm bớt các đoạn miêu tả tình tiết trong nguyên tác hoàn toàn
không phải do những đoạn miêu tả này không có giá trị nghệ thuật như một số nhà nghiên cứu
từng khẳng định, mà do ba nguyên nhân chính. Những kiến giải này sẽ giúp ta có thêm cơ sở mới
để đánh giá khách quan sáng tạo độc đáo của Nguyễn Du, tránh được những đánh giá phiến diện
một chiều về Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân.
Từ khóa: Truyện Kiều, Nguyễn Du, Kim Vân Kiều truyện, tình tiết, miêu tả
Kể từ năm 1941 – khi Dương Quảng Hàm xác
nhận Kim Vân Kiều truyện với tư cách là “căn
tích” của Truyện Kiều đến nay, lịch sử nghiên
cứu so sánh Truyện Kiều và Kim Vân Kiều
truyện đã trải qua gần một thế kỷ. Tuy vậy,
phần lớn các nghiên cứu còn thiếu chiều sâu
và những am hiểu cần thiết về tác phẩm
nguyên gốc Kim Vân Kiều truyện và Truyện
Kiều. Điều này dẫn đến bất đồng quan điểm
giữa học giả hai nước. *
Miêu tả tình tiết trong Kim Vân Kiều truyện
Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân là một tiểu thuyết văn xuôi, chịu ảnh
hưởng sâu sắc của truyền thống tiểu thuyết
bạch thoại Trung Quốc. Một trong những đặc
điểm quan trọng của tác phẩm này là chú
trọng thuật sự và miêu tả tình tiết. Đọc Kim
Vân Kiều truyện, người đọc bắt gặp những
đoạn miêu tả tình tiết trong suốt tiến trình câu
chuyện: cuộc hẹn hò giữa Thúy Kiều và Kim
Trọng (Hồi 2), cảnh công sai hành hạ cha con
Vương Viên ngoại (Hồi 4), cảnh Thúy Kiều
bán mình (Hồi 5, 6), cảnh Tú Bà ép Thúy
Kiều tiếp khách (Hồi 8,9), cảnh Thúc Sinh
cứu Kiều khỏi nhà chứa (Hồi 12), cảnh Hoạn
Thư trừng trị Thúc Sinh và Thúy Kiều (Hồi
15), cảnh Thúy Kiều báo ân báo oán (Hồi 16),
*
Tel: 0962 211 286; Email: nhung86edu@gmail.com
cảnh Hồ Tôn Hiến chiêu hàng Từ Hải (Hồi
18,19)… Lấy đoạn miêu tả tình tiết Vương
Thúy Kiều báo oán làm ví dụ. Nguyên tác
dùng chi tiết khắc họa cảnh tượng kẻ ác chịu
tội một cách kinh hoàng: “Tứ chi của Mã Bất
Tiến bị dùng găm căng ra, lột hết da, rút sạch
gân, xẻ từng tay chân tách rời để ứng với lời
thề của y...” [6;172-173].
Những miêu tả này vốn bị nhiều học giả Việt
Nam phê phán gay gắt. Độc giả Việt Nam
cũng không nhiều hứng thú với chúng. Quả
thực, ở một góc độ nào đó, chúng gợi cho
người đọc cảm giác kinh rợn, tàn nhẫn. Tuy
nhiên, nghiên cứu chiều sâu Kim Vân Kiều
truyện cho thấy, những chi tiết này dù tàn
khốc nhưng lại có những chức năng nghệ
thuật nhất định. Chúng không chỉ chứng minh
sự tồn tại của quy luật nhân quả báo ứng, mà
ở một khía cạnh khác, chúng còn là những chi
tiết miêu tả nhằm thỏa mãn khoái cảm “ác giả
ác báo” của độc giả Trung Quốc đương thời.
Nhà nghiên cứu Triệu Nghĩa Sơn trong cuốn
Nghiên cứu từ khúc ký sinh trong tiểu thuyết
Minh Thanh từng nhận định “Trong tầng lớp
thị dân, có không ít người thích đọc những
đoạn miêu tả “tận tướng cùng hình” về “gian
tà”, “dâm đạo”, “sát nhân”, “ngư sắc”…” [7;
44]. Đây chính là tiền đề dẫn đến hầu hết các
tiểu thuyết chương hồi Minh Thanh đều chú ý
15
Trần Thị Nhung
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
đến việc miêu tả tình tiết rất tỉ mỉ. Trong Kim
Bình Mai, tình tiết con mèo Tuyết Sư Tử của
Phan Kim Liên cào xé con trai một tuổi hai
tháng của Tây Môn Khánh được miêu tả
tường tận ở hồi 59, gợi cảm giác kinh rợn.
Những miêu tả tường tận đó gợi lên bản tính
độc ác của Phan Kim Liên, tái hiện cái chết
thảm thương của hài nhi vô tội Tố Quan,
khiến cho độc giả nhìn thấy cận cảnh cuộc
đấu tranh tàn khốc trong nội bộ gia đình Tây
Môn Khánh. Chúng cũng là tiền đề cho đoạn
miêu tả về “ác giả ác báo” xảy ra với Phan
Kim Liên về sau, thỏa mãn tâm lý phức tạp về
“đố ác hiếu thiện” của độc giả thị dân. Những
đoạn miêu tả như vậy xuất hiện nhiều trong
tất cả các tiểu thuyết thông tục Minh Thanh.
Đoạn miêu tả tình tiết Tú Bà dạy Thúy Kiều
kỹ nghệ tiếp khách cũng nằm trong trào lưu
thời đại đó. Chỉ có một tình tiết, nhưng người
trần thuật đã dùng tới trên dưới 4000 chữ để
miêu tả tỉ mỉ. Những miêu tả này vừa thúc
đẩy sự phát triển cốt truyện, vừa có vai trò tái
hiện hiện thực đời sống kỹ viện, đáp ứng tâm
lý hiếu kỳ của nhiều độc giả thị dân.
Có thể nói, những tình tiết được miêu tả tỉ mỉ
trong Kim Vân Kiều truyện tuy không phải là
hoàn mĩ, nhưng ở một mức độ nhất định,
chúng đã tạo nên tính độc đáo cho tác phẩm.
Ít nhất, những miêu tả tình tiết này có tác
dụng khắc họa nhân vật, thúc đẩy cốt truyện
phát triển, tô đậm chủ đề và tái hiện hiện thực
cuộc sống, chúng có liên quan trực tiếp đến
thị hiếu của độc giả. Nghiên cứu Kim Vân
Kiều truyện, chúng ta không nên bỏ qua hay
coi nhẹ đặc điểm này.
Miêu tả tình tiết trong Truyện Kiều
Nếu như miêu tả tình tiết là đặc trưng quan
trọng, là thế mạnh của tiểu thuyết chương hồi
nói chung và tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện
nói riêng, thì đây lại không phải là thế mạnh
của Truyện Kiều hay bất kỳ một tác phẩm
truyện thơ Nôm nào khác. So sánh có thể
thấy, Nguyễn Du tuy rất bám sát nguyên tác
nhưng ông chỉ giữ lại những nội dung chính
yếu, còn rất nhiều các đoạn miêu tả, từ ngắn
16
167(07): 15-20
vài dòng đến dài vài ngàn chữ, ông đều chỉ
tái tạo trong vài dòng thơ, thậm chí là bỏ hoàn
toàn không hề viết đến. Điển hình là ông đã
lược bỏ toàn bộ hồi 6, viết hồi 5 thành 20 câu
thơ, viết hồi 10 thành 70 câu thơ, chuyển hồi
18 viết về Thúy Kiều trừng trị kẻ ác lược
thành 4 câu thơ… Với những đoạn miêu tả
này, hoặc ông lược bỏ hoàn toàn; hoặc ông
cải biến một cách tinh xảo theo quy luật: gia
tăng tính trữ tình, đi sâu nội tâm nhân vật và
chú trọng miêu tả thiên nhiên.
Gia tăng tính trữ tình là một xu hướng điển
hình của Nguyễn Du trong quá trình tái tạo
Truyện Kiều. Nguyễn Du đặc biệt chú trọng
tiếp thu những đoạn miêu tả tiềm ẩn chất trữ
tình, trên cơ sở đó gia tăng chất trữ tình cho
tình tiết. Chẳng hạn, đoạn Vương Quan kể về
cuộc đời danh nữ Lưu Đạm Tiên, Kim Trọng
tương tư, Thúy Kiều đánh đàn cho Kim Trọng
nghe, Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích... Ví dụ
tình tiết Kiều đánh đàn trong buổi hẹn hò Kim
Trọng. Với tình tiết này, nguyên tác dùng bút
pháp tả thực để miêu tả tiếng đàn, nhấn mạnh
chữ “tài” của Thúy Kiều: “Liền đưa mấy ngón
tay thon nhỏ, khua động dây tơ, ban đầu nghe
như hạc kêu, kế đến như vượn hót, lúc khoan
như gió thoảng, lúc gấp như mưa rào… Gẩy
mãi cho đến lúc đẩu chuyển sao dời, đồng hồ
đã điểm canh ba Thúy Kiều mới dừng tay, thưa
rằng đã trọn khúc.” [4; 24]. Từ đoạn văn tiềm
ẩn chất trữ tình này, Nguyễn Du khéo léo tiếp
thu cải biến thành những câu thơ nồng đượm
trữ tình. Khiến cho tiếng đàn trong Truyện
Kiều không chỉ còn là tiếng đàn thực, mà còn
là tiếng đàn chứa chan cảm xúc tâm tình người
trong cuộc:
So dần dây vũ dây văn
Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương.
......
Khi tựa gối, khi cúi đầu,
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày.
(471-488)
Xu hướng gia tăng tính trữ tình trong Truyện
Kiều còn được thể hiện ở việc người trần
thuật thường trực tiếp tham gia vào câu
Trần Thị Nhung
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
chuyện. Ví dụ, để nhấn mạnh tội ác của bọn
quan sai, nguyên tác khách quan, tường tận
miêu tả cảnh cha con Vương Viên ngoại bị
đánh. Nguyễn Du ngược lại, ông không dùng
bút pháp miêu tả tỉ mỉ tình tiết mà trực tiếp
thể hiện những lời bình luận ngoại đề về hành
động của quan sai, nhấn mạnh nỗi thống khổ
và oan ức của cha con họ Vương. Người trần
thuật ba lần nhắc đến từ “oan”. Qua phương
thức này, người trần thuật công khai biểu hiện
thái độ.
Cùng với xu hướng gia tăng tính trữ tình cho
câu chuyện, Nguyễn Du có ý thức tiếp thu
khá triệt để các đoạn miêu tả về thiên nhiên,
gia công sáng tạo hình tượng thiên nhiên. Ông
dùng hình ảnh thiên nhiên để ẩn dụ về hình
tượng nhân vật, dùng thiên nhiên để phản ánh
không gian sinh hoạt của nhân vật, và dùng
thiên nhiên để khắc họa cảnh ngộ, tâm lý, vận
mệnh nhân vật. Trong Kim Vân Kiều truyện
có 9 lần miêu tả thiên nhiên, nhưng đa số đều
rất sơ lược, và cũng chỉ có 2 lần thiên nhiên
được dùng để khắc họa nội tâm. Ở phương
diện này, Truyện Kiều có ưu thế hơn nhiều.
Tác phẩm có khoảng 222 câu thơ miêu tả về
thiên nhiên, những câu thơ đó góp phần quan
trọng không thể thiếu để tạo nên thành công
của kiệt tác. Chẳng hạn, miêu tả tình tiết Kim
Trọng trở về vườn Thúy, Thanh Tâm Tài
Nhân thiên về thuật sự, tả tỉ mỉ từng lời thoại,
từng hành động của nhân vật, từ đó tường tận
tái hiện diễn biến câu chuyện. Nguyễn Du vẫn
giữ nguyên tình tiết, nhưng lại lược bỏ nhiều
đoạn văn thuật sự, thêm vào đó ông dồn bút
lực để miêu tả thiên nhiên, khắc họa nội tâm
Kim Trọng. Ở tình tiết này, nguyên tác chỉ có
duy nhất một câu văn tả cảnh. Trong khi đó,
Truyện Kiều có đến 13 dòng thơ tả cảnh, diễn
tả một cách sinh động tâm trạng buồn bã của
Kim Trọng và tình cảnh bi thảm của gia đình
họ Vương.
Cùng với xu hướng giản lược, gia tăng tính
trữ tình và xây dựng hình tượng thiên nhiên,
Nguyễn Du đặc biệt quan tâm đến những chi
tiết miêu tả nội tâm nhân vật. Nếu như
nguyên tác chú trọng đến ngôn ngữ và hành
167(07): 15-20
động nhân vật, thì Truyện Kiều lại đặc biệt
chú trọng đến hoạt động tâm lý và cảnh ngộ
của họ. Lấy tình tiết miêu tả cảnh mua bán
Thúy Kiều làm ví dụ. Với tình tiết này,
nguyên tác dùng rất nhiều chi tiết miêu tả
cảnh mụ Hàm “vuốt chân kéo tay, xoa lưng
nắn cánh”, bắt Thúy Kiều đề thơ, đánh đàn,
mặc cả chi li, tỉ mỉ tường tận trần thuật một
cảnh bán thân chẳng khác gì bán một đồ vật,
vô cùng chân thực, thể hiện hình ảnh một
Thúy Kiều đầy lí trí trước cơn gia biến.
Nhưng đối với Nguyễn Du, bán thân là một
nỗi tủi nhục đến cùng cực, vậy nên ông ít chú
ý đến sự kiện mà chú trọng miêu tả cảm giác
của Thúy Kiều, đứng từ điểm nhìn bên trong
để miêu tả, tái hiện nỗi thẹn thùng, nhục nhã,
khổ đau của nàng:
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
…
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai...
(632-648)
Qua đó có thể thấy, nếu như Thanh Tâm Tài
Nhân càng chú trọng miêu tả tính chân thực
của sự kiện thì Nguyễn Du lại có xu hướng chú
trọng những khắc họa để phản ánh nội tâm của
nhân vật, ông không chú trọng sự kiện mà ông
quan tâm đến “khúc đoạn trường”. Do đó, mỗi
câu thơ trong Truyện Kiều đều tràn trề xúc cảm
và lay động độc giả.
Có thể thấy, Truyện Kiều tuy không có ưu thế
trong miêu tả tình tiết, hạn chế trong khả năng
bao quát bức tranh hiện thực rộng lớn nhưng
tác phẩm lại chú trọng những chi tiết gia tăng
tính trữ tình, miêu tả thiên nhiên và nội tâm
nhân vật. Xu hướng này được vận dụng thành
công và xuyên suốt trong toàn tác phẩm,
khiến cho Truyện Kiều trở thành một “cuốn
tiểu thuyết bằng thơ”, một “cuốn sách của
ngàn tâm trạng”.
Một vài kiến giải
Lý giải về sự khác biệt giữa hai tác phẩm
trong phương thức miêu tả tình tiết, học giả
hai nước đã từng có nhiều ý kiến khác nhau
[1;61], [2;336], [3;517], [4;87], [5;231], [8].
17
Trần Thị Nhung
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
Một số học giả cho rằng, những miêu tả tình
tiết trong nguyên tác “kể lể dài dòng”, “nhiều
khi thô bỉ, có hại với mỹ cảm của người đọc”
[2; 336] là chưa thỏa đáng. Như chúng tôi đã
phân tích, những miêu tả tình tiết trong Kim
Vân Kiều truyện có nhiều tác dụng, chúng là
yếu tố nghệ thuật do tác giả chủ động sáng tạo
để thể hiện chủ đề tư tưởng, khắc họa nhân
vật, thúc đẩy tình tiết phát triển. Những miêu
tả tình tiết này tuy xa lạ với độc giả Việt
Nam, đem lại cảm giác tàn nhẫn, nhưng
chúng lại thuộc về phong cách thời đại, phù
hợp với thị hiếu hiếu kỳ của độc giả thị dân
Trung Quốc đương thời.
Một số học giả khác có quan điểm cho rằng,
Nguyễn Du đã hạ thấp hình tượng anh hùng
thảo dã, mĩ hóa tướng soái quan quân triều
đình”, “che đậy sự độc ác của phong kiến quý
tộc” [4; 87]… Quan điểm này cũng chưa hợp
lí. Bởi vì, Nguyễn Du tuy xuất thân từ giai
cấp quý tộc, nhưng ông gần gũi với người
thống khổ, thương yêu con người, đối với
nhân vật trong Truyện Kiều, Nguyễn Du luôn
thể hiện quan điểm nhân bản. Không chỉ
trong Truyện Kiều mà trong toàn bộ các sáng
tác của Nguyễn Du đều thể hiện điều đó.
Không ít học giả cho rằng, Nguyễn Du muốn
né tránh những chi tiết miêu tả về tình dục,
quan điểm này cũng chưa thỏa đáng. Bởi vì,
trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cho dù lược
bỏ rất nhiều các đoạn miêu tả tình tiết liên
quan đến tình dục trong nguyên tác, nhưng
trong tác phẩm lại có những chỗ thể hiện rõ
quan niệm tiến bộ về “tình” và “dục”. Chẳng
hạn như trước khi Kiều bị Mã Giám Sinh
chiếm đoạt thân thể, người trần thuật đã để
nàng có một đoạn độc thoại nội tâm độc đáo,
thể hiện quan niệm tiến bộ của nàng về tình
yêu. Ở một tình tiết khác, người trần thuật đã
mượn cớ miêu tả Thúy Kiều tắm để ca ngợi
vẻ đẹp thân thể đầy quyến rũ của nàng. Điều
đó cho thấy, Nguyễn Du không hề né tránh
những chi tiết miêu tả tình dục, ngược lại, ông
có một quan điểm nhân bản và tiến bộ về
“thân” và “tâm” của con người.
18
167(07): 15-20
Một số học giả khác như Đào Duy Anh, Lê
Hoài Nam, Nguyễn Hữu Sơn, Trần Nho Thìn
cho rằng, việc Nguyễn Du lược bỏ những
miêu tả chi tiết trong nguyên tác là do sự
chuyển biến của thể loại đem lại.
Những ý kiến và quan điểm trên đây đều có lí
lẽ nhất định, có những ý kiến đáng được
chúng ta quan tâm, tuy nhiên còn cần tiếp tục
làm sáng tỏ bằng những lí lẽ cụ thể để thuyết
phục, một vài ý kiến còn phiếm diện một
chiều. Chúng tôi cho rằng, những khác biệt
trong miêu tả tình tiết giữa Truyện Kiều và
Kim Vân Kiều truyện có thể do một số lí do.
Thứ nhất, ở một số chỗ, Nguyễn Du đã lược
bỏ miêu tả tình tiết trong nguyên tác có thể là
do quan niệm nghệ thuật của hai tác giả
không giống nhau. Thanh Tâm Tài Nhân chú
trọng miêu tả diễn biến sự kiện, chú trọng
khắc họa thế giới bên ngoài và con người lí
trí, còn Nguyễn Du lại chú trọng miêu tả diễn
biến tâm lý của nhân vật, chú trọng thế giới
nội tâm con người. Cảm hứng của Nguyễn Du
trong Truyện Kiều là cảm hứng về thân phận
bi kịch của tài sắc. Do đó, những miêu tả
trong nguyên tác không có tác dụng tô đậm
khắc họa thân phận bạc mệnh của Thúy Kiều,
Nguyễn Du đều lược bỏ. Các miêu tả tình tiết
tình dục giữa Thúy Kiều và Mã Giám Sinh,
Sở Khanh, Thúc Sinh được lược bỏ hoàn toàn
là nằm trong xu hướng này.
Thứ hai, thị hiếu của độc giả và phong cách
thời đại cũng là nhân tố chi phối ngòi bút của
mỗi tác giả. Tiểu thuyết Trung Quốc từ Kim
Bình Mai trở đi, miêu tả cuộc sống thường
nhật, chú trọng miêu tả đời sống tính dục dần
dần trở thành trào lưu. Tác giả Trương Quốc
Tinh trong cuốn Miêu tả tính dục trong tiểu
thuyết cổ đại Trung Quốc đã đưa ra mục lục
thống kê các tiểu thuyết viết về tính dục của
tiểu thuyết thông tục cổ đại, trong đó trực tiếp
miêu tả đời sống tính dục có đến 112 tác
phẩm. Những chi tiết có liên quan đến tính
dục trong Kim Vân Kiều truyện rất có thể
cũng thuộc trào lưu này. Chẳng hạn như hồi
10 của tiểu thuyết, người trần thuật đã mượn
Trần Thị Nhung
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
lời Tú Bà truyền giáo những kỹ năng giường
chiếu. Những chi tiết miêu tả bị coi là “có hại
đối với mĩ cảm người đọc, không phục vụ cho
chủ đề tư tưởng tác phẩm” này kỳ thực có
mục đích “giáo nhân” khá rõ nét, rất giống
với những miêu tả thế tình trong tiểu thuyết
thoại bản Trung Quốc đương thời. Ngược lại,
những tác phẩm văn học Việt Nam trung đại,
trong bối cảnh mà Truyện Kiều ra đời, người
đọc đều thấy có một điểm chung, tác giả dù
vô cùng tán đồng ngợi ca vẻ đẹp thân thể con
người, rất tán đồng quan niệm về tình yêu tự
do đôi lứa, nhưng với những tình tiết miêu tả
tính dục, các tác giả Việt Nam đều giản lược
hoặc sử dụng những biện pháp tu từ để che
chắn (thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, Chinh
phụ ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc…)
Thứ ba, Nguyễn Du lược bỏ một số miêu tả
tình tiết trong nguyên tác bên cạnh quan niệm
thẩm mỹ của cá nhân, còn có một lý do rất
quan trọng khác. Đó là do sự chuyển đổi về
loại hình thể loại giữa hai tác phẩm này.
Truyện Kiều là tác phẩm thuộc thể loại truyện
Nôm, tác phẩm rõ ràng có hạn chế về tự sự so
với tiểu thuyết chương hồi. Kim Vân Kiều
truyện của Thanh Tâm Tài Nhân lại là tác
phẩm tự sự văn xuôi, thiên về miêu tả sự kiện,
nó vừa có thế mạnh trong miêu tả hiện thực,
vừa có thể khắc họa tường tận hình tượng
nhân vật, thông qua việc kết hợp đối thoại, tự
sự và miêu tả tình tiết để phân tích nội tâm
nhân vật. Toàn bộ cốt truyện của Truyện Kiều
ngược lại, được triển khai bằng văn vần. Thật
khó để có thể dùng thể lục bát để miêu tả
được tường tận các chi tiết như trong nguyên
tác. Thay vào đó, tác giả chỉ có thể dùng thơ
để lược thuật sự kiện, khắc họa tình tiết và
đưa ra những lời trữ tình ngoại đề. Đây không
chỉ là hiện tượng của riêng Truyện Kiều mà
còn là hiện tượng của tất cả các tác phẩm
truyện thơ Nôm khác. So sánh Hoa Tiên ký
của Việt Nam và Hoa Tiên truyện của Trung
Quốc, chúng ta cũng có thể thấy rất rõ đặc
điểm này. Cũng không chỉ các truyện Nôm có
nguồn gốc Trung Quốc mới có đặc điểm này
167(07): 15-20
mà là tất cả các truyện Nôm tự tạo cũng vậy.
Chúng ta cần thừa nhận rằng, miêu tả tình tiết
là một thế mạnh của tiểu thuyết chương hồi
nói riêng và của văn xuôi tự sự nói chung.
Nhưng cũng cần thấy rằng, khi thể loại truyện
thơ Nôm không có được ưu thế này thì nó lại
có những ưu thế mà thể loại khác không thể có
được. Những nhận xét phiến diện của một số
nhà nghiên cứu Trung Quốc, tiêu biểu là ông
Đổng Văn Thành là quan điểm phiến diện.
Nguyễn Du lược bỏ những chi tiết miêu tả tỉ
mỉ về cảnh quan sai hành hạ cha con Vương
ông là bởi vì rất khó để dùng thơ lục bát để
miêu tả cụ thể được những chi tiết như nguyên
tác. Ông chỉ có thể dùng câu thơ lục bát để
lược thuật sự kiện, phác họa chi tiết và dùng
những câu trữ tình ngoại đề để bình luận sự
kiện, thay đổi điểm nhìn thành điểm nhìn bên
trong làm cho mọi sự kiện được thuật lại bằng
xúc cảm của người trần thuật. Miêu tả tình tiết
trong tiểu thuyết chương hồi có ưu thế riêng,
tạo thành ấn tượng sâu sắc với độc giả. Rất
nhiều độc giả Việt Nam cho rằng, những đoạn
miêu tả này là dài dòng, nhưng nhiều độc giả
Trung Quốc lại hứng thú và ca ngợi.
So sánh và lí giải trên đây giúp chúng ta có
cách nhìn toàn diện hơn về sự khác biệt giữa
Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện. Cũng
từ những nghiên cứu này, chúng ta hiểu thêm
về truyền thống văn học của Việt Nam và
Trung Quốc. So sánh Truyện Kiều và Kim
Vân Kiều truyện nói riêng và các tác phẩm
văn học đa quốc gia, cần tránh chủ nghĩa dân
tộc hẹp hòi và những đánh giá phiến diện.
Đồng thời cần chú ý đến những thế mạnh của
mỗi truyền thống văn luận.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2007), Khảo luận về Truyện
Thúy Kiều, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
2
. Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt Nam nửa cuối
thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb.Giáo
dục, Hà Nội.
3. Lê Xuân Lít (2007), 200 năm nghiên cứu bàn
luận Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4.董文成.杨爱群(1999).《<金云翘传>》 [M].沈
阳:春风文艺出版社.
19
Trần Thị Nhung
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
5
. 李群. (2001)《<金云翘传>: 从中国 小说到
越南名著》[J].人文社会科学专辑,(S1).
6
.青心才人编次.李致忠点校(1983).《金云翘传》
.辽宁:春风文艺出版社.
167(07): 15-20
7
.赵义山等者(2013).《明代小说寄生词曲研究
》.北京:商务印书馆.
8
. 赵炎秋.宋亚玲(2011). 《阮攸<金云翘传>对青
心才人<金云翘传>的承继与变异》[J].越南国
际研讨.胡志明市).
SUMMARY
EVENT DESCRIPTION OF THE TALE OF KIEU
AND THE STORIES OF JIN YUN QIAO
Tran Thi Nhung*
University of Education – TNU
On approaching research documents on the event description in “The Tale of Kieu” and “The Stories
of Jin Yun Qiao”, we have found that although the studies of domestic and foreign scholars gained
many achievements, they have not thoroughly dealt with the given scientific problems – the
contradictory opinions among scholars. This article is, therefore, aimed at generalizing and analyzing
typical characteristics in the event description in “The Tale of Kieu” and “The Stories of Jin Yun
Qiao” in a more in-depth investigation, thereby explaining the causes of those discrepancies. We
state that the reason why Nguyen Du omitted, added or removed segmental descriptions from the
original episode is entirely not because the descriptive verses have no artistic value as some scholars
asserted. Instead, there are three main reasons explaining this, as follows: the author’s aesthetic
viewpoint, readers’ psychological absorption and, especially, the characteristics of each genre. These
insights will help us have more fundamental basis to objectively evaluate unique creation of Nguyen
Du, and avoid one-sided assessment of “The Stories of Jin Yun Qiao” by Thanh Tam Tai Nhan.
Keywords: The tale of Kieu, Nguyen Du, Kim Van Kieu story, event, description
Ngày nhận bài: 13/01/2017; Ngày phản biện: 15/02/2017; Ngày duyệt đăng: 28/6/2017
*
Tel: 0962 211 286; Email: nhung86edu@gmail.com
20