« Home « Kết quả tìm kiếm

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY VÀ HỌC MÔN ĐỌC HIỂU TIẾNG ANH


Tóm tắt Xem thử

- Làm thế nào để sinh viên có thể học tiếng Anh một cách chủ động và sử dụng nó một cách thành thạo đang là vấn đề mà giảng viên chúng ta cần phải quan tâm.
- Muốn sử dụng thành thạo một ngôn ngữ thì người học phải rèn luyện bốn kĩ năng cơ bản: Nghe, Nói, Đọc, Viết.
- Trong đó, kĩ năng Đọc giữ vai trò quyết định và không thể tách rời đối với ba kĩ năng còn lại.
- Kĩ năng đọc là rất cần thiết đối với quá trình tiếp thu ngôn ngữ.
- Nếu sinh viên hiểu ít nhiều những gì họ đọc, càng đọc nhiều, họ càng lĩnh hội được nhiều hơn.
- Việc đọc cũng có ảnh hưởng tích cực đến khả năng phát triển vốn từ vựng, khả năng đánh vần và kả năng viết của sinh viên.
- Các văn bản đọc hiểu cũng là những văn bản mẫu rất phù hợp và hữu ích cho sinh viên trong quá trình thực hành kĩ năng viết.
- Ở mỗi giai đoạn khác nhau, giảng viên có thể khuyến khích sinh viên tập trung vào từ vựng, ngữ pháp hay dấu chấm câu.
- Các tài liệu đọc cũng có thể được dùng để minh họa cho cách thành lập câu, đoạn hay cả một bài văn.
- Từ đó sinh viên có thể tự viết nên những bài văn tốt nhất dựa trên các văn bản mẫu nay.
- Ngoài ra, các tài liệu đọc hiểu có chọn lọc cũng đem đến những chủ đề hay, tạo hứng thú cho sinh viên tìm tòi, thảo luận và phát triển khả năng nghe-nói của mình (Hammer, 2007).
- Đối với sinh viên: Trong việc đổi mới phương pháp dạy học thì sinh viên đóng vai trò trung tâm của các hoạt động dạy và học trên giảng đường đại hoc.
- Chất lượng giờ học phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, tính chủ động và tích cực của sinh viên.
- Trong quá trình dạy kĩ năng đọc hiểu cho sinh viên, tôi nhận thấy được một số điểm còn hạn chế sau.
- Đa số sinh viên chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học tiếng Anh trong thời kỳ hội nhập, do đó không chủ động, tích cực trong học tập.
- Nhiều sinh viên chưa quan tâm đúng mức đến kĩ năng đọc hiểu do suy nghĩ rằng học tiếng Anh chỉ cần giao tiếp được là đủ.
- Khối lượng từ vựng tích lũy của sinh viên còn khiêm tốn, cộng với kiến thức nền tảng và sự hiểu biết còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng nhiều đến khả năng phán đoán và nắm bắt nội dung bài đọc.
- Sinh viên thường không thích các giờ đọc hiểu do không có nhiều các hoạt động giao tiếp như các môn học khác.
- Hầu hết sinh viên chưa nắm được kĩ thuật đọc hiểu, ví dụ như.
- chỉ quan tâm đến từ mà không đi sâu tìm hiểu nội dung bài đọc.
- Tâm lý ngại đọc các bài đọc dài, nhiều từ mới.
- Từ đó dẫn đến tình trạng cảm thấy chán nản khi làm bài đọc hiểu và gây ra tâm lý thụ động, khó tiếp thu khi học môn đọc hiểu.
- Đối với giảng viên: Không chỉ sinh viên mà chính bản thân giảng viên cũng gặp phải rất nhiều khó khăn trong quá trình giảng dạy.
- Sự chênh lệch về năng lực giữa các sinh viên là rất lớn.
- Ngoại trừ một số lớp đã được thi xếp lớp đầu vào, hầu hết sinh viên các lớp còn lại có sức học không đồng đều, gây trở ngại rất lớn cho giảng viên trong quá trình truyền đạt kiến thức.
- Có quá nhiều sinh viên trong một lớp, vì thế giảng viên rất khó bao quát tất cả các đối tượng sinh viên.
- Có nhiều bài đọc nội dung quá dài nên giảng viên thường phải dạy lướt ở một số phần, không giúp đỡ được sinh viên trong quá trình rèn luyện kĩ năng đọc.
- Không có nhiều thời gian để sử dụng những câu hỏi gợi mở, không khai thác được năng lực và khả năng tư duy của sinh viên.
- Giảng viên chưa chú trọng hướng dẫn và cho sinh viên luyện tập các kĩ thuật đọc hiểu.
- Giảng viên chưa chủ động tạo hứng thú cho sinh viên trong quá trình giảng dạy.
- Trong học kỳ vừa qua tôi đã điều chỉnh một số nội dung hạn chế của một số bài đọc hiểu trong sách giáo trình sao cho phù hợp với năng lực và trình độ của sinh viên nhằm khai thác những điểm mạnh và hạn chế những mặt còn yếu kém.
- NỘI DUNG: 1.
- Hướng dẫn sinh viên tìm hiểu về kĩ năng đọc hiểu: Để có thể giúp sinh viên phát triển kĩ năng đọc có hiệu quả, trước hết giảng viên cần giúp sinh viên của mình phân biệt được những kĩ năng đọc cơ bản được sử dụng trong việc dạy và học ngoại ngữ.
- Đọc to và đọc thầm: a) Đọc to (Oral reading): Đôi khi trong lớp học, giảng viên có thể yêu cầu sinh viên đọc to một đoạn văn trong bài đọc hiểu với mục đích truyền đạt lại thông tin người khác đã viết ra.
- Kĩ năng này thường chỉ giúp sinh viên rèn luyện cách phát âm và được sử dụng như là một cách để giúp sinh viên tập trung hơn vào một trích đoạn nhất định trong bài đọc.
- Tuy nhiên, đây không phải là hoạt động chính để luyện tập kĩ năng đọc hiểu và nếu được sử dụng quá nhiều dễ gây ra tình trạng mất tập trung cho các sinh viên khác trong khi một sinh viên được yêu cầu đọc to.
- b) Đọc thầm (Silent reading): Theo Brown (2001), đọc thầm có thể chia thành 2 loại là “đọc sâu” (intensive reading) và “đọc rộng” (extensive reading).
- “Đọc sâu” (intensive reading) là hoạt động thường được sử dụng trong môi trường lớp học, nhằm giúp sinh viên chú trọng hơn đến các chi tiết liên quan ngôn ngữ học (linguistic) và ngữ nghĩa học (sementic) nhằm tìm hiểu nội dung (content) bài đọc.
- “Đọc rộng” (extensive reading) thường giúp sinh viên “giải quyết” các bài đọc dài hơn.
- Các hoạt động đọc hiểu bên ngoài lớp học mà sinh viên có thể sử dụng kĩ năng đọc lướt để lấy ý chính (skimming), đọc để lấy thông tin cần thiết (scanning) hoặc để tìm ra ý nghĩa chung nhất (global meaning) từ các bài đọc dài đều có thể xem là hình thức “đọc rộng”.
- Đọc phân tích và đọc tổng hợp: Hammer (2007) chia các kĩ năng đọc hiểu thành ba loại: a) Đọc để lấy thông tin cần thiết (scanning): Với kĩ năng này, sinh viên không cần đọc từng chữ hay từng dòng mà chỉ cần “quét” (scan) qua bài đọc một cách nhanh chóng để tìm thông tin cần thiết phục vụ cho mục đích của mình.
- b) Đọc để lấy ý chính (skimming): Khi sử dụng kĩ năng này, sinh viên chỉ cần đọc lướt qua nội dung để nắm được ý chính của bài đọc.
- c) Đọc phân tích để hiểu nội dung chi tiết hoặc để nghiên cứu (reading for detailed comprehension): Khác với 2 kĩ năng nói trên, kĩ năng này giúp sinh viên tập trung hơn vào từng chi tiết nhỏ của bài văn mà họ đang đọc.
- Tóm lại, mỗi khi đọc một bài văn tiếng Anh, những câu hỏi hữu ích mà sinh viên cần đặt ra dưới sự hướng dẫn của giảng viên là.
- Thực hiện tiến trình dạy kĩ năng: Để việc đọc có kết quả tốt, tiến trình dạy một bài đọc thường được tiến hành qua 3 giai đoạn: trước khi đọc (pre-reading), trong khi đọc (while reading) và sau khi đọc (post- reading).
- Gây hứng thú, tạo sự chú ý từ sinh viên: Trong giai đoạn này giảng viên có thể đặt một số câu hỏi gợi mở liên quan đến nội dung bài đọc sắp tới nhằm gây sự tò mò, lôi cuốn sinh viên tham gia tìm hiểu.
- Giảng viên cũng có thể bắt đầu bằng một số trò chơi, tạo sự hứng khởi, thích thú cho các em trước khi đi vào bài học.
- Thiết lập ngữ cảnh: giảng viên cần giới thiệu tổng quát về chủ đề mà sinh viên sắp đọc, dùng các dữ kiện có liên quan đến kinh nghiệm sống của các em để giúp các em đoán trước nội dung của bài đọc.
- Không chỉ dùng biện pháp diễn giảng thông thường, giảng viên còn có thể linh động đưa ra những câu hỏi gợi ý để các em tự do tìm hướng trả lời.
- Nếu không giảng viên có thể tận dụng các loại đồ dùng trực quan sẵn có như tranh ảnh, mô hình đơn giản để giúp các em đưa ra những phán đoán chính xác.
- Những phán đoán này có thể là của một cá nhân nhưng cũng có thể là của từng nhóm cặp, có thể đúng nhưng cũng có thể chưa chính xác, không ngoài mục đích dắt dẫn các em đi vào bài học.
- Liên kết bài học trước với bài học hiên tại nhằm củng cố bài cũ và giới thiệu bài mới cho các em.
- Ngoài ra cũng có thể liên kết nội dung bài sắp đọc với những ví dụ minh chứng cụ thể trong cuộc sống, xã hội.
- Tạo nhu cầu, lí do, mục đích của việc đọc: đây là điều quan trọng nhất mà giảng viên không thể bỏ qua.
- Một khi sinh viên hiểu rõ mục đích và lợi ích mà bài đọc đem lại cho các em sau khi đọc thì chắc chắn các em sẽ chú tâm hơn đến bài học và sẽ không từ chối hợp tác với giảng viên trong quá trình học.
- Giới thiệu trước những từ mới cần thiết: trước khi cho sinh viên đọc bài, giảng viên cần lưu ý những từ vựng khó, ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung bài đọc mà các em khó có thể đoán nghĩa trong quá trình đọc.
- Gợi ý, hướng sự chú ý vào những điểm chính của bài đọc: mỗi bài đọc, nhất là những bài đọc dài, thường có rất nhiều nội dung.
- Giảng viên cần giúp đỡ các em tập trung vào nhưng nội dung quan trọng trong bài đọc.
- Các hoạt động trong giai đoạn này có thể thay đổi tuỳ theo tình hình thực tế của lớp học và trình độ của sinh viên.
- Giảng viên có thể linh động thực hiện một, hai hay nhiều hoạt động trong giai đoạn này tùy vào thời lượng giờ giảng và trình độ sinh viên.
- Các hoạt động trong khi đọc (While-reading activities): Trong giai đoạn này giảng viên có thể rèn luyện kĩ năng đọc hiểu của từng sinh viên qua thủ thuật gợi ý một số hoạt động liên quan đến nội dung bài học.
- Đây là lối mở để dẫn dắt sinh viên vào bài một cách tự nhiên, không gò bó và cơ bản giúp các em nắm bắt nội dung thấu đáo hơn.
- Trong khi dạy đọc giảng viên có thể xen kẽ một số câu hỏi nhằm hướng dẫn sinh viên đọc hiểu nội dung thông tin của bài đồng thời cũng có thể biết được khả năng học tập của sinh viên từ đó giảng viên cũng có thể giải thích thêm về các chi tiết còn chưa rõ.
- Vì vậy nội dung các câu hỏi cần phải hướng sự chú ý của sinh viên đến những ý chính trong bài và giúp các em hiểu rõ ý nghĩa bài đọc.
- Không nên đặt các câu hỏi quá dài và quá khó để đánh đố sinh viên.
- Trong giai đoạn này, giảng viên có thể tổ chức lớp thành nhiều hoạt động theo nhóm từ 2 sinh viên trở lên để thảo luận câu trả lời.
- Bằng cách này, tất cả sinh viên trong lớp đều phải tham gia hoạt động và có cơ hội làm việc chung, giúp đỡ lẫn nhau.
- Hình thức trả lời có thể viết hoặc nói.Việc trả lời nói sẽ ít mất thời gian hơn và được nhiều giảng viên áp dụng.
- Nhưng trong một lớp đông, giảng viên gặp nhiều khó khăn trong việc kiểm soát sinh viên xem liệu tất cả các em có hiểu bài hay không nên hình thức viết câu trả lời sẽ giúp sinh viên có nhiều thời gian để suy nghĩ, và giúp giảng viên kiểm tra cách dùng từ của sinh viên có hiệu quả hay không.
- Tuy nhiên, hình thức này mất rất nhiều thời gian nên giảng viên nên khuyến khích sinh viên viết những câu trả lời ngắn, vì mục đích của bài tập này chỉ nhằm kiểm tra mức độ hiểu bài đọc.
- Tùy vào mục đích và mức độ khó dễ của bài đọc mà giảng viên có thể thay đổi cách khai thác về nội dung bài đọc hoặc từ vựng có trong bài.
- Sinh viên có thể tự sửa bài, nhận xét cho nhau, hoặc tự sửa bài cho mình bằng cách đọc lại nhằm phát triển kĩ năng đọc.
- Điều quan trọng là giảng viên phải luôn luôn động viên, khích lệ các em sinh viên trong quá trình học tập, cho các em những lời khuyên hữu ích, chỉ ra những chỗ các em cần khắc phục dựa trên tiêu chí góp ý xây dựng (constructive feedbacks).
- Các hoạt động sau khi đọc (Post- reading activities): Để kiểm tra mức độ đọc sâu hiểu rộng của sinh viên, giảng viên có thể thiết kế bài giảng theo nhiều phương pháp khác nhau cho phù hợp.
- Luyện tập củng cố về cấu trúc, nội dung.
- Chuyển hóa vốn kiến thức, nhận thức hoặc thông tin, dữ liệu vừa nhận qua bài đọc.
- Luyện tập: tóm tắt nội dung bài(summarize), thực hiện một cuộc phỏng vấn dựa vào nội dung bài (interview), thảo luận nội dung bài đọc (disscuss.
- Một số cách khai thác bài đọc để rèn luyện và phát triển kĩ năng đọc hiểu.
- Giảng viên cần phải điều chỉnh phương pháp giảng dạy của mình bằng cách sử dụng thêm các giáo cụ trực quan như hình ảnh, video, trình chiếu powerpoint… Giảng viên cũng nên điều chỉnh cách dẫn nhập, cách giải thích và lựa chọn các dạng bài tập, hoạt động, nhiệm vụ… sao cho phù hợp với trình độ và tình hình thực tế của từng lớp học.
- Một trong những nội dung quan trong nhất trong việc chọn tài liệu là nội dung bài đọc phải đảm bảo tính chính xác và quy chuẩn về cấu trúc, từ vựng.
- Ngoài ra, nội dung bài đọc phải gắn liền với thực tiễn, phục vụ đúng nhu cầu học tập của sinh viên.
- Giảng viên có thể điều chỉnh bài đọc bằng cách bỏ bớt những nội dung quá xa rời thực tế địa phương, sắp xếp lại, thay thế, kết hợp hoặc thêm vào những nội dung cần thiết để giúp các em có cái nhìn thấu đáo hơn về chủ đề đang đọc…Tất cả những điều chỉnh của giảng viên đều phải đảm bảo tính vừa sức, phù hợp với trình độ sinh, đúng chủ đề bài học và không vi phạm về cắt xén chương trình.
- Đa dạng hóa các dạng bài tập và bổ sung tài liệu tham khảo cho sinh viên.
- Giảng viên có thể khuyến khích sinh viên đọc thêm nhằm mở rộng kiến thức cho các em bằng cách giao thêm bài tập về nhà, bài tập nghiên cứu, thuyết trình… cho các em.
- Hướng dẫn các thủ thuật (tips), chiến lược (strategies) khi làm bài: Đây là việc làm rất quan trọng mà giảng viên không thể bỏ qua.
- Bởi vì dù giảng viên có dạy nhiệt tình đến đâu, nội dung bài giảng có phong phú đến đâu, sinh viên học tập có hào hứng và say mê đến đâu mà không chú ý đến kĩ năng đọc này thì kết quả các em đạt được cũng không thể theo như mong muốn.
- Vì thế, chúng ta cần thiết phải rèn luyện cho sinh viên phát triển kĩ năng đọc để các em có niềm say mê trong khi học bộ môn này.
- Kiểm tra kiến thức và rút kinh nghiệm: Đây là giai đoạn cũng rất quan trọng trong quá trình luyện kĩ năng đọc, bởi vì hoạt động kiểm tra sẽ giúp giảng viên đanh giá được khả năng tiếp thu kiến thức của sinh viên đạt đến mức độ nào.Việc rút kinh nghiệm sau mỗi bài kiểm tra cũng rất cần thiết.
- Từ những lần rút kinh nghiệm này, sinh viên có thể nhận ra mình còn yếu ở phần nào để có thể khắc phục trong những bài tiếp theo.
- Có thể thấy việc đổi mới phương pháp giảng dạy kĩ năng đọc hiểu đã giúp các em sinh viên tập trung hơn trong quá trình học.
- Nội dung bài đọc được chọn lọc kĩ lưỡng giúp các giờ học bớt nhàm chán và trở nên hào hứng, đạt hiệu quả cao hơn.
- Nói tóm lại để thành công trong giờ dạy Tiếng Anh nói chung và dạy kĩ năng đọc nói riêng, đòi hỏi giảng viên phải biết kết hợp hài hoà, khéo léo giữa các bước lên lớp với với lượng kiến thức trong sách giáo trình.
- Để làm cho giờ dạy thêm sinh động, ngoài những phương pháp giảng dạy cụ thể, giảng viên nên sử dụng tranh ảnh minh hoạ, các giáo cụ trực quan và các bài tập thực tế.
- Ngoài ra, để tạo thêm hứng thú học tập cho sinh viên, giảng viên có thể kể các mẩu chuyện liên quan đến bài học gợi mở cho sinh viên những nội dung chính trước khi đọc.
- Đối với nhà trường: cung cấp thêm một số đầu sách, tạp chí, tài liệu tham khảo tạo điều kiện cho giảng viên có thêm nguồn tư liệu tham khảo, bổ sung vào bài giảng của mình.
- Đối với giảng viên: tự trau dồi kĩ năng.
- cập nhật thông tin, làm phong phú và sinh động hơn nội dung bài giảng.
- khuyến khích sinh viên hình thành thói quen đọc sách.
- hướng dẫn sinh viên chọn lọc tài liệu tham khảo và khích lệ sinh viên tự đọc tại nhà bằng cách cho điểm cộng hay bài tập về nhà.
- Đối với sinh viên: nâng cao tinh thần tự học, tự tìm tòi thêm tài liệu tham khảo: chủ động tìm kiếm thông tin, trau dồi từ vựng và mở rộng kiến thức về đời sống, xã hội… IV