Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 27 (2011) 151‑162
Hiện tượng người nổi tiếng và chức năng xã hội của nó
Nguyễn Thu Giang*
Khoa Báo chí và Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN
336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội
Nhận ngày 22 tháng 8 năm 2011
Tóm tắt. Bài viết này nghiêng về một tổng quan điểm luận hơn là một nghiên cứu trọn vẹn. Nó
xem xét hiện tượng người nổi tiếng trên các phương tiện truyền thông đại chúng trong bối cảnh xã
hội Việt Nam, dưới sự quy chiếu của lý thuyết nghiên cứu văn hóa, truyền thông. Phương pháp
nghiên cứu chủ yếu là phân tích diễn ngôn. Hình ảnh người nổi tiếng được nhìn nhận như: 1) sự tái
trình hiện của hiện thực, 2) diễn ngôn, 3) hàng hóa. Trên cơ sở đó, nghiên cứu thảo luận về chức
năng xã hội của người nổi tiếng: 1) chức năng thay thế quan hệ liên cá nhân bị phá vỡ trong lối
sống đô thị, 2) chức năng cung cấp các căn tính văn hóa đa dạng, 3) bước đầu đề cập tới chức năng
củng cố ý thức hệ. Nghiên cứu đề xuất việc tìm một lối tiếp cận khác trong giáo dục để giúp công
chúng sống cân bằng trong thế giới biểu tượng do truyền thông tạo ra.
thường bị coi là nông cạn và thấp kém, đồng
thời là dấu hiệu của sự xuống cấp trong khiếu
thẩm mỹ chung cũng như đạo đức xã hội.1 Góc
nhìn này thực chất không phải không thuyết
phục, nhưng không đầy đủ. Mặc dù thật khó
phủ nhận việc tạo dệt danh tiếng là một minh
chứng khá điển hình cho quá trình “đần hóa”
(dumbing down)2 của văn hóa đại chúng (từ góc
Định nghĩa ấn tượng và được trích dẫn
nhiều nhất về người nổi tiếng có lẽ thuộc về
Daniel Boorstin: “Người nổi tiếng là người nổi
tiếng vì sự nổi tiếng của họ” [1, tr.49]. Từ năm
1962, Daniel Boorstin đã coi danh tiếng là một
“đặc trưng của nền văn hóa này (Mỹ), của thế
kỷ này, tựa như tính thần thánh của các vị thần
Hy Lạp hồi thế kỷ 6 trước công nguyên” [1,
tr.49]. Danh tiếng dựa trên sự tạo chế của
truyền thông đại chúng đã được nghiên cứu từ
nhiều thập kỷ nay tại các nước có nền công
nghiệp đại chúng phát triển. Thế nhưng, tới đầu
thế kỷ 21, hiện tượng này mới đột ngột trở nên
rõ nét trên bề mặt văn hóa Việt Nam, trong khi
những nghiên cứu về nó ở nước ta vẫn hết sức
nông mỏng. Việc bình luận về hiện tượng này
hầu như đều tự động rơi vào diễn ngôn nhị phân
giữa văn hóa tinh hoa (elite) và văn hóa đại
chúng (pop), trong đó, hiện tượng “ngôi sao”
_______
1
Nhân ngày Báo chí Cách mạng 21/6/2011, ít nhất hai đại
diện báo chí có uy tín báo Thể thao – Văn hóa (TTXVN) và
Bản tin thời sự VTV1 (Đài truyền hình Việt Nam) cùng có
loạt bài phê phán hiện tượng “Playboy hóa báo chí”. Cả hai
diễn đàn này đều kết luận xu hướng lá cải hóa, cụ thể là sự
tràn ngập thông tin rẻ tiền về người nổi tiếng, đi kèm với sự
phổ biến của các sản phẩm nghệ thuật tồi cho thấy sự đi
xuống của khiếu thẩm mỹ chung, cũng như của đạo đức xã
hội. Những hiện tượng này được gọi chung là “sốc-sex”,
hoặc “thảm họa” (thảm họa báo mạng, thảm họa thời trang,
thảm họa văn hóa).
2
“Dumbing down” là khái niệm thường được sử dụng để
chỉ quá trình giản lược hóa, sai biệt hóa những ý niệm phức
tạp thuộc các lĩnh vực tri thức được cho là cao cấp, tinh
151
152
N.T. Giang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 27 (2011) 151‑162
độ báo chí, bằng chứng thường được nêu ra là
sự thay thế của thông tin “chính thống” bằng
thông tin “giật gân”), tuy nhiên, xét tới sự phổ
biến, tác động xã hội và sự phức tạp của hiện
tượng này thì nó xứng đáng được nhìn nhận
một cách đa diện hơn nữa.
Trong bài viết này, “người nổi tiếng” là
cách gọi tương ứng với từ “celebrity” trong
tiếng Anh. Mặc dù đây không phải một thuật
ngữ khó hiểu, nhưng việc chọn từ tiếng Việt
tương ứng với nó lại không dễ. Trong tiếng
Anh, có sự khác biệt tương đối giữa cách dùng
chữ “star” và “celebrity”, nhất là khi xét tới
nguồn gốc của sự nổi tiếng. Cuốn từ điển thuật
ngữ Communication, Cultural and Media
Studies – The Key Concepts phân biệt: “Khái
niệm “celebrity” khác với “star” ở chỗ “star” là
sản phẩm của một loại phương tiện cụ thể là
ngành điện ảnh Hollywood. Trong khi đó,
“celebrity” lại xuất hiện trong những điều kiện
hậu hiện đại, với sự sản xuất hình ảnh một cách
thái quá, dẫn tới việc một số khuôn mặt và thân
hình được nhận diện dễ dàng hơn”[2, tr. 26].
Như vậy, trong tiếng Việt, “star” được hiểu
đúng nhất bằng từ “minh tinh”- một cách gọi
tương đối cổ điển thường dành cho diễn viên
điện ảnh. Gần đây, trên các văn bản truyền
thông bằng tiếng Việt, người ta lại sử dụng chữ
“sao”, hoặc “ngôi sao” để chỉ những người nổi
danh trên các phương tiện truyền thông đại
chúng, nhưng rất nhiều người không phải
“minh tinh”. Chúng ta dễ dàng nhận thấy ngay
cả những nhân vật gắn với sự nổi danh hoàn
toàn mang tính thêu dệt (ví dụ như Paris Hilton
tại Mỹ, hay Phi Thanh Vân tại Việt Nam) cũng
được xếp vào nhóm “sao”. Trong trường hợp
này, nghĩa của từ “sao” gần với “celebrity” hơn,
mặc dù dịch theo nghĩa đen thì nó phải trùng
hoa (giáo dục, triết học, nghệ thuật v.v.) để giúp công diện
rộng có thể dễ tiếp thu.
với “star”. Ở bài viết này, bên cạnh cụm từ
“người nổi tiếng”, thì “ngôi sao” được hiểu
cùng một nghĩa với “celebrity” 3
Người nổi tiếng như là diễn ngôn4
Bản thân Daniel Boorstin cũng là người
bình luận về hiện tượng người nổi tiếng với một
tiếng thở dài. Ông là người sớm đưa ra sự phân
tách kinh điển giữa mô hình người hùng (hero)
và người nổi tiếng (celebrity). Theo Boorstin,
người nổi tiếng được “tạo chế ra với mục đích
thỏa mãn kỳ vọng bị cường điệu quá mức về
tính vĩ đại của con người”, trong khi đó, người
hùng được ngưỡng mộ bởi quả thực đạt được
một “sự vĩ đại do một thành tựu nào đó”. Mô
hình người nổi tiếng đã thay thế cho mô hình
người hùng của thời kỳ tiền-đại-chúng, do sự
cộng hợp của nhiều điều kiệu văn hóa - xã hội,
mà đáng chú ý hơn cả là sự bùng nổ của công
nghệ. Theo Boorstin, “Người hùng tự tạo ra
chính mình, còn người nổi tiếng do truyền
thông tạo ra” [1, tr.61].
_______
3
Tôi xin chân thành cảm ơn dịch giả Chu Trung Can đã có
những góp ý hết sức quý giá trong việc hiểu và tạm dịch
những thuật ngữ này.
4
Diễn ngôn là một thuật ngữ được dùng với những mục
đích và nội hàm khác nhau. Trong ngành ngôn ngữ học,
diễn ngôn được hiểu là những văn bản, thường là bằng lời
(verbal texts, verbal utterances) với quy mô lớn hơn một
câu, đặt trong bối cảnh xã hội của nó [3]. Nội hàm của khái
niệm này đã thay đổi trong chủ nghĩa hậu cấu trúc, đặc biệt
dưới ảnh hưởng của Michel Foucault. Ở đây, diễn ngôn
được hiểu là một quá trình hiểu và tạo nghĩa mang tính xã
hội (thay vì mang tính ngôn ngữ thuần túy). Vì vậy, mặc dù
khả năng tạo nghĩa của ngôn ngữ là vô hạn, nhưng trong
mỗi giai đoạn lịch sử, việc nghĩa nào được chấp nhận và
nghĩa nào trở nên phổ biến lại phụ thuộc vào các mối quan
hệ xã hội, chính trị chứ không phải một quá trình mang tính
ngôn ngữ học thuần túy. Việc thương thỏa để tạo nghĩa này
(cùng với kết quả của nó) chính là các diễn ngôn đặc trưng
của từng thời đại [2]. Việc nhìn nhận người nổi tiếng như
một diễn ngôn, đồng nghĩa với việc nhìn nhận họ như một
văn bản, và đọc “nghĩa” của văn bản đó trên điều kiện lịch
sử, xã hội của Việt Nam, thay vì hiểu chữ “người nổi tiếng”
như là ý nghĩa ghi trong từ điển.
N.T. Giang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 27 (2011) 151‑162
Nếu như quá trình hình thành tâm thức về
người hùng đạt được thông qua việc hồi cố lại
những thành tựu của họ, thì quá trình kiến tạo
danh tiếng của một “ngôi sao” lại chỉ bắt đầu
khi truyền thông chuyển mối quan tâm từ
những hoạt động nghề nghiệp (nói cách khác là
những thành tựu) sang đời sống riêng tư. Một
diễn viên điện ảnh sẽ chỉ trở thành “ngôi sao”
khi công chúng thấy rằng đời sống thật của họ
thú vị hơn vai diễn. Dần dần, danh tiếng được
thêu dệt của họ sẽ sống lâu hơn ký ức về chính
sự nghiệp của họ. Cách phân tích này đẩy quan
điểm nhị phân của Boorstin đi xa hơn nữa, khi
người nổi tiếng không chỉ được nhìn nhận như
kết quả của một quá trình đóng kín, mà bản
thân hiện tượng này là một quá trình mở mang
tính diễn ngôn, nơi các xung lực văn hóa – xã
hội liên tục thương thỏa để tạo nghĩa cho các
hiện tượng, hình ảnh và căn tính.
Trên bề mặt truyền thông đại chúng, người
nổi tiếng là sự tái trình hiện (representation) của
một “hiện thực” ngoài kia. Trong Mythologies,
bằng cách nhìn nhận người nổi tiếng như là văn
bản, Roland Barthes đã “đọc” ra “gương mặt
nàng Garbo”5, “bộ não của Einstien” cũng như
“nghệ thuật thanh nhạc tư sản”. Tất nhiên, trong
kỷ nguyên bùng nổ truyền thông như hiện nay,
cái “hiện thực” mà người nổi tiếng tái trình hiện
lại (tức “chính họ”) rất có thể cũng chỉ là một
ảo giác, một đầu vào của đường hầm này,
nhưng lại là đầu ra của đường hầm khác. Tuy
nhiên, quá trình huyền thoại hóa mà Barthes đã
phân tích trong Mythologies vẫn xuyên suốt sự
kiến tạo của truyền thông, chỉ có điều, vật đối
chiếu ngày càng loãng hơn, khó nắm giữ hơn,
và đôi khi, hoàn toàn không có điểm gốc để quy
chiếu. Dù vậy, giống như bản chất của mọi ký
_______
5
Greta Garbo – nữ minh tinh màn bạc người Thụy Điển
(1905-1990) trong giai đoạn phim câm Holliwood đầu thế kỷ
20, trong đó có bộ phim nổi tiếng Nữ hoàng Christine.
153
hiệu, sự lập lờ giữa hình ảnh người nổi tiếng và
“chính họ” vẫn là hai phía của một cách cửa
quay, không ngừng luân phiên giữa chính hình
thức đã gần như rỗng nghĩa và phần nghĩa đã
thoái hóa đi. Barthes viết: “Hình thức ở đấy
trống rỗng mà hiện hữu; nghĩa ở đấy vắng bóng
thế nhưng lại đầy ắp. Tôi sẽ chỉ có thể ngạc
nhiên về mâu thuẫn ấy nếu tôi cố tình dừng lại
cái cửa quay luân phiên giữa hình thức và
nghĩa” [4]. Tính năng động ấy có thể thấy rất rõ
qua sự lưỡng lự đầy mâu thuẫn của công chúng
trước hình ảnh ngôi sao. Họ quả thật là “đặc
biệt”, hay cũng “chỉ như ta” mà thôi? Danh
tiếng đó là “bề mặt”, hay là “bản chất”? Họ quả
xứng đáng với tiếng tăm đang có, hay chỉ là “ăn
may”? Họ là những tài năng thiên phú hay chỉ
thuần là “đồ rỏm”? Cảm xúc của ta đâu là chân
xác, giữa sự ngưỡng mộ khi nhìn họ kiêu hãnh
trên thảm đỏ và cú giật mình khi bất chợt gặp
họ không son phấn trên đường 6?
Quả thế, một mặt, người nổi tiếng luôn phi
thực, bởi họ dường như không tồn tại thật, mà
là sự cộng dồn của vô số hình ảnh đại chúng.
Mặt khác, họ lại cực kỳ bình thường, vì cũng
sinh con, cũng bị chồng bỏ, cũng có mụn. Cái
sự lập lờ hai mặt ấy khiến cho mọi thứ đều có
thể và mọi thứ đều được chấp nhận. Một ngôi
sao có thể vừa “lộ hàng” hoặc “khoe ngực”,
ngay sau đó, đoạt Vương miện Hoa hậu, và
đồng thời, bị bắt gặp rất “bình thường” khi đi
siêu thị mua hàng. Những bài viết mang tính
giải thiêng ngôi sao như “Khi sao không makeup” hoặc “Hoa hậu đi thi tốt nghiệp” chỉ khiến
công chúng chìm thêm vào sự lập lờ của nghĩa,
và trong nhiều trường hợp, thêm mê đắm cái thế
giới “lộng lẫy” kia, khi nó hàm chứa cả sự
“bình thường”, thậm chí “tầm thường” của đời
sống hàng ngày.
_______
6
Nói như Jean Baurdrillard trong Simulacra and Simulation
thì công chúng ngày nay lúc nào cũng “vừa tin, vừa không
tin” (One both believes and doesn’t) [5, tr. 81]
154
N.T. Giang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 27 (2011) 151‑162
Một điểm khá thú vị khi xem xét tới các văn
bản truyền thông về người nổi tiếng là khi cánh
cửa xoay qua lại giữa một bên là sự công cộng,
và một bên là tính riêng tư. Cả nhà báo lẫn công
chúng đều ưa sự riêng tư, sự bí mật, sự bất ngờ
(một cuộc tình lén lút, một sự hở hang vô ý,
một bức ảnh paparazzi) nhưng sự chấp nhận
mang tính công cộng (một giải thưởng, một bộ
phim hay, một cuộc trình diễn tốt) lại có vai trò
riêng trong diễn ngôn về danh tiếng. Nó cung
cấp một sự ngoại phạm (alibi) cho cả người nổi
tiếng lẫn công chúng trước việc vi phạm những
tiêu chuẩn đạo đức thông thường của con
người. Vì người nổi tiếng sẵn có tính công
cộng, nên công chúng vơi bớt gánh nặng đạo
đức của việc xoi mói đời tư ngườt khác (việc
này có vẻ dễ tha thứ và dễ công khai hơn việc
cố tình nhìn trộm hàng xóm). Trong khi đó,
người nổi tiếng có quyền nghĩ rằng việc phô
bày đời tư, thậm chí, phô bày thân thể trên
truyền thông đại chúng là chấp nhận được, bởi
bản thân họ không còn thuộc về họ, mà đã là
“người của công chúng”.
Hãy xét trường hợp của Lady Gaga. Người
Việt Nam chắng có mấy cơ hội được xem Lady
Gaga biểu diễn trực tiếp 7 và số người xem,
nghe băng đĩa của ca sĩ này chỉ chiếm một phần
nhỏ trong “công chúng” của Gaga. Tới thời
điểm này, có lẽ giới trẻ ai cũng biết tới (hình
thức) của cô, thậm chí nhái theo. Mặc dù danh
tiếng của Lady Gaga, ít nhất là tại Việt Nam,
được tạo chế hoàn toàn từ những mẩu tin mà
giới truyền thông cung cấp (chủ yếu là soi mói
cách ăn mặc của ca sĩ này), nhưng công chúng
vẫn bao biện cho mối quan tâm có vẻ vô bổ của
_______
mình: Cô ấy có tài. Cô ấy sáng tác. Cô ấy được
giải. Cô ấy hát hay. Cho nên, đó chắc cũng là
một trường hợp “lắm tài nhiều tật” nữa trong
làng nghệ sĩ mà thôi. Ít người nghĩ rằng trong
nền công nghiệp giải trí hiện nay, cũng khó mà
nói được đâu là tài, đâu là tật.
Đây là lúc thuận lợi để bàn tới điều kiện cho
diễn ngôn về người nổi tiếng. Như đã trình bày
ở trên, John Hartley cho rằng người nổi tiếng
xuất hiện do “sự sản xuất hình ảnh một cách
thái quá, dẫn tới việc một số khuôn mặt và thân
hình được nhận diện dễ dàng hơn”. Sự nổi tiếng
là một hiện tượng không mới8, nhưng nhiều
người cho rằng cái chúng ta đang chứng kiến
hôm nay không chỉ là sự phát triển về lượng
của một truyền thống có sẵn, mà là một sự thay
đổi về chất trong môi trường truyền thông. Một
trong những điều kiện cơ bản vẫn được nêu ra
là sự phổ biến cùng lúc của các phương tiện
truyền thông đại chúng, đặc biệt là mạng
internet. Ở Việt Nam, mạng toàn cầu nói chung
và các trang thông tin trực tuyến nói riêng luôn
là loại phương tiện bị “ghép tội” đầu tiên cho
quá trình này. Nói một cách bóng bẩy thì
internet là nước, còn người nổi tiếng là cá.
Mạng internet chính là một trong những điều
kiện hậu hiện đại của diễn ngôn về người nổi
tiếng, bởi khả năng dung chứa thông tin vô hạn,
sự phi tuyến tính, phi định kỳ, nặc danh hóa và
cá nhân hóa gần như tuyệt đối trong hành vi
đọc. Tuy nhiên, ít nhất là trong hoàn cảnh của
Việt Nam, không thể không nói tới hai phương
tiện quan trọng khác. Đó là truyền hình và
nhiếp ảnh.
Việc xuất hiện trên truyền hình, đặc biệt là
các kênh VTV1 và VTV3 của truyền hình quốc
7
Năm 2008, khi mới bắt đầu nổi tiếng, Lady Gaga đã hát
cho một cuộc thi hoa hậu tại Nha Trang, Việt Nam. Tất
nhiên, công chúng Việt Nam lúc đó hầu như không biết đấy
là ai và báo chí hầu như không đưa tin (hãy tưởng tượng
nếu là bây giờ, thì truyền thông sẽ làm rùm beng như thế
nào). Vào thời điểm đó, có thể nói, với công chúng tại Việt
Nam, Lady Gaga chưa tồn tại.
_______
8
Trong cuốn The Frenzy of Renown: Fame and its History
(1986), Leo Braudy cho rằng lịch sử của sự nổi tiếng ở
Phương Tây bắt đầu từ thời La Mã, và khát khao nổi tiếng
vẫn luôn là một yếu tố cấu thành tâm thức xã hội phương
Tây từ nhiều thế kỷ nay [8, tr.10)
N.T. Giang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 27 (2011) 151‑162
gia đồng nghĩa với việc danh tiếng chính-thứcđược-chấp-nhận. Từ đây, có một sự phân tách
tương đối rõ ràng giữa các ngôi sao truyền hình
(gồm có các MC, các diễn viên truyền hình những người mà hình ảnh có tính phụ thuộc khá
cao vào tần suất trên màn ảnh và vì thế, ít tính
năng động hơn) với các ngôi sao “tự do” những người được xuất hiện trên truyền hình.
Ví dụ, khá lâu sau khi trở thành “sao”, ca sĩ
Đàm Vĩnh Hưng mới được hát trong các
chương trình của nhà đài, tức là ca sĩ này đã
tiến thêm một bước trong quá trình định vị danh
tiếng của mình.9 Tất nhiên, với xu hướng hội tụ
truyền thông như hiện nay, và với nguyên tắc
“tất cả vì quyền lợi của khán giả”, luôn có một
sự tráo đổi qua lại thường xuyên giữa hai loại
ngôi sao này.
Tác giả Trần Hữu Quang đã xác nhận xu
hướng đặc biệt ưa chuộng truyền hình tại Việt
Nam khi tiến hành một khảo sát xã hội học đối
với công chúng truyền thông đại chúng TP. Hồ
Chí Minh 10. Với đặc trưng tạo ấn tượng thị giác
bằng hình ảnh động, lượng người xem tập
trung, cùng một thiết chế vững chãi, truyền hình
_______
9
Hãy xét thêm trường hợp của Hoàng Thùy Linh, một ngôi
sao mà danh tiếng có sự đan nối khá đặc biệt giữa internet
và truyền hình. Sự nổi tiếng của ngôi sao này trước tiên là
do truyền hình tạo ra (diễn viên phim Nhật ký vàng anh),
sau đó, được cộng dồn bởi internet. Trong trường hợp của
Hoàng Thùy Linh, nhiều người sẽ nói cần có sự phân biệt
giữa nổi tiếng và tai tiếng, nhưng đúng ra phải là sự phân
biệt giữa nổi tiếng và quá-nổi-tiếng. Hiện nay, ca sĩ này
chưa từng một lần quay lại màn ảnh truyền hình chính
thống, mặc dù, sự nổi tiếng của cô đã dần dần được trung
tính hóa trên mạng internet nhờ hàng loạt hình ảnh khiêu
dâm dạng nhẹ và thông tin về những chương trình biểu
diễn tự do của cô. Việc Hoàng Thùy Linh quay trở lại với
“màn ảnh nhỏ” sẽ đồng nghĩa với việc danh tiếng của cô
một lần nữa được chính thức hóa. Theo tôi, điều này chỉ là
vấn đề thời gian.
10
Theo tác giả Trần Hữu Quang trình bày trong luận án tiến
sĩ Xã hội học Truyền thông đại chúng và công chúng –
Trường hợp TP. HCM, 2000, hơn 70% mẫu điều tra của
nghiên cứu xem truyền hình hàng ngày [6]
155
bao giờ cũng là nơi cung cấp những diễn ngôn
hạt nhân và các phương tiện truyền thông khác
sẽ nối tiếp bằng cách nói thêm về nó. Các cuộc
thi trên truyền hình hiện nay như Vietnam Idol,
Bước nhảy hoàn vũ, Sáng bừng sức sống,
Vietnam Next Top Model, Cặp đôi hoàn hảo
v.v., đang chiếm thời lượng và sự chú ý không
nhỏ của công chúng (đồng nghĩa với nó là
doanh thu quảng cáo). Đó là chưa kể tới sự phơi
sáng liên tục của hàng loạt diễn viên truyền
hình Việt, Trung, Hàn, Mỹ, cùng các game
show mà người chơi cũng là người nổi tiếng (ví
dụ như Trò chơi âm nhạc, Ấn tượng Việt Nam).
Một xung lực đáng kể khác là các TVC quảng
cáo (chính nó nuôi sống truyền hình). Sử dụng
gương mặt người nổi tiếng trong quảng cáo sản
phẩm (celebrity endorsement) là một chiến lược
kinh doanh, nhưng cũng là một cách bồi đắp
thêm danh tiếng cho nhân vật quảng cáo và biến
họ thành một hình ảnh “được nhận diện dễ dàng
hơn”. Rõ ràng, tất cả những văn bản truyền hình
vừa nêu trên đều chỉ xoay quanh một hiện
tượng duy nhất: sự khát khao danh tiếng.
Một loại phương tiện nữa cần được bàn tới
trong diễn ngôn về sự nổi tiếng là nhiếp ảnh.
Thiếu phương tiện này, toàn bộ đặc tính lá cải
của hệ thống báo mạng và tạp chí dành cho phụ
nữ đều sụp đổ. Paparazzi là một trong những
ngách phát triển của nhiếp ảnh để phục vụ riêng
cho người nổi tiếng. Trong khi ảnh paparazzi
càng đời thường càng tốt (thậm chí chất lượng
chụp kém, thiếu sáng hay mờ nhòe) thì ảnh
nghệ thuật càng đẹp, càng “khác” với đời
thường càng tốt. Ngay cả khi chưa có sự can
thiệp của photoshop thì các bộ ảnh người mẫu,
diễn viên, ca sĩ vẫn mang tính tạo chế không
giấu giếm (mỗi bộ ảnh có một ý tưởng, và
người mẫu phải biết diễn xuất theo ý tưởng đó).
Đến nay, hết bộ ảnh này đến bộ ảnh khác đã trở
thành món ăn khuyến mại hào phóng cho hầu
hết các bài viết về lĩnh vực văn hóa – giải trí
156
N.T. Giang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 27 (2011) 151‑162
trên báo mạng và tạp chí giải trí11. Nó cũng là
loại thực phẩm bổ béo nuôi dưỡng sự tưởng
tượng của công chúng về ngôi sao của họ.
Trong hướng tiếp cận này, Jean Baudrillard
có lẽ là người đẩy xa nhất cái viễn cảnh về một
thế giới truyền thông nơi mà sự thật hoàn toàn
tiêu biến mà chỉ có sự mô phỏng tuyệt đối.
Baudrillard bàn rất kỹ về quá trình mất nghĩa
do sự quá sản12 của thông tin tạo ra, trong đó,
cái còn sót lại không phải là nội dung, mà là
bóng ma của nó (phantom content). Theo đó, tất
cả đều “chẳng là gì cả ngoài sự tái chế phần âm
bản của thiết chế cũ” [5, tr.80]. Tuy nhiên, cách
phân tích đẩy sức mạnh của sự mô phỏng đi quá
xa và triệt tiêu hoàn toàn khả năng tự chủ của
công chúng như Baudrillard, theo tôi, không
thuyết phục bởi công chúng của truyền thông
luôn có khả năng tự lựa chọn và trong chừng
mực nào đó, vượt thoát khỏi cái bẫy của sự mô
phỏng.
Người nổi tiếng như là hàng hóa
Cách hiểu đậm màu sắc hậu hiện đại của
Baudrillard sẽ gắn với thực tế hơn rất nhiều nếu
chúng ta nhìn nhận người nổi tiếng là một hàng
hóa (commodity) thay vì một diễn ngôn. Rút
cuộc, phải có một ai đó có lãi trong toàn bộ quá
trình danh tiếng hóa ồ ạt và tưởng như nhiễu
loạn của ngành công nghiệp giải trí. Vật trao
đổi then chốt trong ngành công nghiệp này
không phải là tiền, mà trước hết là công chúng.
Các bài báo, chương trình truyền hình, chương
trình phát thanh v.v. thu hút công chúng, rồi
bán họ cho nhà quảng cáo/ nhà tài trợ. Vì thế,
_______
11
Hiện nay, rất nhiều tạp chí lớn trên thế giới, chuyên cung
cấp tin tức về người nổi tiếng đã được xuất bản tại Việt
Nam. Ví dụ như các tờ OK!, Her World, Elle, Cosmopolitan.
12
Jean Baudrillard quả thật so sánh vòng xoáy trôn ốc của
sự mất nghĩa với tế bào ung thư và sự di căn [5, tr.101]
trước mỗi thông điệp, các nhà giáo dục về
truyền thông đều nhắc nhở công chúng về việc
phải tự đặt câu hỏi: “Ta đang bán đôi mắt của
mình cho ai?” [7].
Chiến lược tạo lập hình ảnh một ngôi sao
gần như không có gì khác biệt với việc tạo lập
thương hiệu cho một sản phẩm. Nói cách khác,
chiếc Iphone cũng là một “celebrity”, nếu xét từ
góc độ chiến lược xây dựng hình ảnh. Daniel
Boorstin đã chỉ ra một khác niệm rất nổi tiếng
là những sự kiện ngụy giả (psuedo-event) và
những con người ngụy giả (psuedo-man) để phê
phán khía cạnh thương mại hóa của ngành công
nghiệp danh tiếng. Ở Mỹ, không chỉ trong lĩnh
vực giải trí, mà cả trong giới chính trị, các sự
kiện đều được dựng lên cốt để truyền thông đưa
tin về nó. Ở Việt Nam hiện nay, tiêu chí đánh
giá sự thành công của mỗi sự kiện giải trí không
phải là nó có tốt không, mà là truyền thông đưa
tin về nó có tốt không. Người nổi tiếng được trả
tiền để xuất hiện trong các sự kiện, tạo dáng
chụp hình trước tên thương hiệu, rồi sau đó, cả
người lẫn thương hiệu cùng xuất hiện trên mặt
báo. Để tránh trở thành kẻ quảng cáo không
công, nhiều tờ báo điện tử hiện nay xóa mờ tên
thương hiệu trong các bức ảnh kiểu này. Tất
nhiên, khi đó, người nổi tiếng càng xứng đáng
được đăng hình vì việc đó bỗng nhiên trở nên
“đạo đức” hơn thông qua hành vi khước từ
quảng cáo của tòa soạn.
Việc xem xét hiện tượng người nổi tiếng
dưới góc độ hàng hóa cho thấy có một thỏa ước
ngầm làm tiền đề cho sự tồn tại của danh tiếng.
Đó là việc chúng ta giả định rằng lựa chọn của
số đông là lựa chọn đúng, và hơn nữa, không ai
ép được công chúng đọc/xem thứ họ không
muốn. Không một cơ quan pháp luật nào có thể
quản lý triệt để hiện tượng này, bởi bản thân
pháp luật cũng được xây dựng trên tiền giả định
về quyền tự do của con người. (Ở Việt Nam,
các nhà phê bình có thói quen yêu cầu pháp luật
N.T. Giang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 27 (2011) 151‑162
can thiệp trong trường hợp không thể dùng ngòi
bút để ngăn chặn các “thảm họa văn hóa”).
Quan điểm nhìn nhận người nổi tiếng như là
hàng hóa dẫn tới sự liên nối dễ gây tranh cãi
giữa người nổi tiếng với tính tự do của một xã
hội. Điều này sẽ được bàn tới ở phần chức năng
của người nổi tiếng dưới đây.
Chức năng xã hội của người nổi tiếng
Trước khi bàn tới chức năng xã hội của người
tổi tiếng, tôi muốn làm rõ quan điểm của mình
về việc tại sao lâu nay tại chúng ta ít bàn tới vấn
đề này. Như đã trình bày ở trên, lối phân tích
nhị phân nhìn nhận người nổi tiếng như sự
xuống cấp của văn hóa tinh hoa chỉ là một trong
nhiều cách tiếp cận hiện tượng này, nhưng gần
như là cách tiếp cận duy nhất tại Việt Nam. Bên
cạnh tính thuyết phục của nó thì lối phân tích
này không mở ra một cơ hội nào để xem xét tới
chức năng xã hội của người nổi tiếng (bởi
người nổi tiếng nhìn chung bị cho là một hiện
tượng có hại nhiều hơn có lợi). Tuy nhiên, từ
những phân tích trên đây về hiện tượng này,
chúng ta có thể thấy một số chức năng xã hội
mà hiện tượng người nổi tiếng đang đảm nhận:
Chức năng cân bằng nhu cầu giao tiếp liên
cá nhân của người đô thị
Nếu xét từ góc độ xã hội học, cái nhu cầu
“nhìn trộm”, “nghe lén” của con người được
nối dài và đạt tới một phẩm cấp mới nhờ vào
các phương tiện truyền thông đại chúng. Cách
đây hơn 70 năm, nhà xã hội học Louis Wirth
(Mỹ) đã chỉ ra một đặc trưng xác đáng của đô
thị trong bài viết kinh điển Urbanism as a way
of life (Đô thị như một lối sống). Đó là sự
chuyển đổi từ giao tiếp liên cá nhân (tức là giao
tiếp trực tiếp giữa người với người) của lối sống
nông thôn trên cơ sở gia đình, họ tộc, làng xóm,
sang giao tiếp gián tiếp thông qua các phương
157
tiện truyền thông. Nói cách khác, truyền thông
đại chúng là một trong những đặc trưng cơ bản
của lối sống đô thị. Wirth phân tích: “Trong
một cộng đồng mà số lượng cá nhân vượt quá
khá năng quen biết riêng tư, cũng như việc tụ
tập tại cùng một địa điểm là không thể, thì con
người cần phải truyền thông với nhau thông qua
các phương tiện gián tiếp, nhằm khớp nối
những mối quan tâm của các cá nhân lại với
nhau thông qua một quá trình ủy thác”. Wirth
viết tiếp: “Những đám đông đại chúng trong các
đô thị buộc phải lệ thuộc vào sự thao túng của
các biểu tượng, các mẫu rập khuôn (stereotype)
do những cá nhân đứng ở hậu trường điều
khiển”[8].
Cụ thể hơn, vào thời kỳ tiền văn hóa đại
chúng, các cá nhân định vị sự tồn tại xã hội của
mình bằng cách trò chuyện với hàng xóm, họ
hàng, con cháu. Nhờ mối kết giao trực tiếp ấy
mà họ biết mình thuộc về cùng một cộng đồng
thông tin, bởi tất cả cùng biết chung một
chuyện. Nào là bà X vừa tậu xe mới, ông Y có
con trai đỗ đại học, hay con bé Z dính bầu rồi.
Thế còn người đô thị? Họ lấy gì để định vị
sự tồn tại mang tính xã hội của mình, khi mà ở
cả nơi sinh sống lẫn nơi làm việc, họ chỉ là
những cá nhân rời rạc, chẳng chung quê quán,
cũng không cùng huyết thống? Đó là lý do
khiến họ tìm tới, ủy thác và lệ thuộc vào mạng
lưới truyền thông đại chúng, để nhận biết sự tồn
tại của mình như một cá thể của một tập hợp
lớn hơn, từ đó, biết rằng họ vẫn là thành viên
của một cộng đồng thông tin nào đó. Cái cộng
đồng ấy, thay vì chia sẻ chuyện con bé Z ở đầu
xóm vừa dính bầu, giờ cùng xôn xao về những
bà mẹ nổi tiếng (ví dụ như câu chuyện sinh con
của ca sĩ Hồ Ngọc Hà). Thay vì thèm muốn sự
giàu có của bà X, họ lại cùng ngưỡng vọng sự
xa hoa của một chiếc du thuyền, hay căn biệt
thự của một người đẹp nào đó. Thay vì truyền
tai nhau chuyện nhà ông Y có con trai vừa đỗ
158
N.T. Giang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 27 (2011) 151‑162
đại học, họ cùng mổ xẻ bảng điểm cấp III của
một Hoa hậu mới đăng quang.
Những nhóm công chúng tham gia vào giao tiếp
đại chúng một cách sâu sắc, ví dụ như giới văn
phòng, hoặc thanh thiếu niên sẽ phát tán tin tức
và bàn luận tích cực hơn các nhóm công chúng
khác. Đồng nghĩa với điều đó là sự thiết lập một
quá trình nối dài các câu chuyện đại chúng qua
kênh giao tiếp miệng, từ đó, tạo ra một cộng
đồng thực-ảo lẫn lộn, với sự đan cài phức tạp
của nhiều hệ giá trị.
Chức năng cung cấp sự đa dạng về căn tính
văn hóa 13
Từ đây, chúng ta có thể xem xét vai trò của
diễn ngôn người nổi tiếng dưới góc độ ký hiệu
học. Tôi cho rằng, trong một xã hội như Việt
Nam, nơi mà báo chí nói chung vẫn chịu sự
quản lý nhà nước chặt chẽ hơn về mặt chính trị
thì các văn bản truyền thông liên quan tới lĩnh
vực giải trí-nghệ thuật, là địa hạt giải phóng
nhiều diễn ngôn phong phú hơn các lĩnh vực
khác. Nói cách khác, đây là địa hạt cung cấp
những ký hiệu, biểu tượng và huyền thoại vừa
đa dạng vừa công khai, để tạo lập các căn tính
_______
13
Identity là một thuật ngữ quan trọng trong nhiều ngành
khoa học xã hội và nhân văn. Cách chuyển dịch thuật ngữ
này sang tiếng Việt khá đa dạng. Có thể liệt kê ra đây các
từ khác nhau đã được dùng để dịch thuật ngữ này như:
bản sắc, căn tính, căn cước, nhân dạng. Từ “bản sắc” có lẽ
được sử dụng quen thuộc và rộng rãi nhất (ví dụ, tác giả
Trần Ngọc Thêm dịch tên cuốn sách Tìm về bản sắc văn
hóa Việt Nam là Discovering the identity of Vietnamese
culture, hoặc Nghị quyết Trung ương Đảng sử dụng cụm từ
“đậm đà bản sắc dân tộc”). Tuy nhiên, trong bài viết này,
identity dịch là căn tính lại phù hợp hơn vì nó được sử dụng
như một quá trình lựa chọn ở cấp độ cá nhân. Căn tính văn
hóa được hình thành qua việc thừa nhận bản thân mình
trong mối quan hệ với người khác, thông qua quá trình mở
rộng, vay mượn, hoặc cộng gộp (một hoặc nhiều) đặc điểm
của mình với người khác. Bản thân chữ căn tính cũng
được không ít người sử dụng ở các cấp độ rộng hơn,
chẳng hạn như thay thế cụm từ “bản sắc dân tộc” bằng
“căn tính dân tộc”. Ví dụ, trong cuốn Cá tính tập thể của các
dân tộc (NXB Phương Đông, 2007), dịch giả Lê Diên đã
thống nhất sử dụng chữ căn tính cho từ identity. Cuốn
sách chỉ rõ nội hàm của identity, cũng như phân biệt kỹ
càng giữa “căn tính” (identity) và “cá tính” (personality) của
các dân tộc.
mới, các giá trị mới, các giọng điệu mới. Đời
sống xã hội, vì thế, có điều kiện để giải phóng
một số căng thẳng (tension) giữa cũ-mới, ĐôngTây, già-trẻ, nam-nữ v.v. (trong nhiều trường
hợp, sau khi được giải phóng, các căng thẳng
này lại bị nới rộng ra dưới một chiều kích mới).
Ở đây, tôi muốn phân tích một trường hợp
mà theo tôi là khá thú vị và chắc chắn còn nhiều
tranh cãi. Đó là diễn ngôn về sự nổi tiếng đặt
trong bối cảnh phân loại ngôi sao theo nguồn
gốc quốc gia. Nhìn từ các văn bản báo mạng,
báo in, tạp chí, phát thanh, truyền hình, chúng
ta thấy tại Việt Nam chủ yếu có các loại “ngôi
sao” sau:
- Sao Việt Nam
- Sao Trung Quốc
- Sao Hàn Quốc
- Sao Hollywood (chủ yếu là Mỹ, Anh, Úc)
Nếu xét về lịch sử, thì các ngôi sao Trung
Quốc có lẽ tạo cảm giác gần gũi hơn cả đối với
người đô thị, bởi công chúng đô thị tiếp xúc với
các ngôi sao Trung Quốc khi các ngôi sao Việt
Nam còn chưa xuất hiện. Một thế hệ ngôi sao
phim kiếm hiệp, hình sự và tâm lý xã hội Trung
Quốc (trong phim thuê ngoài hàng) của các bộ
phim như Thần điêu đại hiệp, Xóm vắng, Cảnh
sát hình sự v.v.14, cùng những bộ phim truyền
hình Trung Quốc được trình chiếu rộng rãi trên
truyền hình cách đây hàng chục năm như Tây
Du Ký, Hồng Lâu Mộng, Bao Thanh Thiên v.v.,
đã khiến cho hình ảnh các ngôi sao Trung Quốc
và Hồng Kông có vẻ “người nhà” hơn hẳn so
với sự bảnh bao và xa ngái của các ngôi sao
Hàn Quốc và Nhật Bản. Tuy nhiên, bất chấp sự
gần gũi này, tâm lý không ưa văn hóa Trung
_______
14
Ở các đô thị Việt Nam thời kỳ tiền đại chúng, có hai xu
hướng giải khuây khá thịnh hành: 1) thuê truyện “chưởng”
về đọc. 2) thuê phim bộ về xem. Cả hai xu hướng này đều
gắn với văn hóa Trung Quốc.
N.T. Giang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 27 (2011) 151‑162
Hoa của người Việt Nam vẫn thấy rõ khi nhiều
diễn đàn cả thực lẫn ảo cho rằng phim cổ trang
của chúng ta không được “giống Trung Quốc”,
hay việc những ngôi sao nữ trót lộ ảnh mặc áo
sườn xám bị cộng đồng truyền thông tẩy chay
vì không có tinh thần dân tộc.
Khác với sự phức tạp và lâm li thường thấy
trong các bộ phim Trung Quốc, phim Hàn Quốc
lại cung cấp một loại ngôi sao “vừa xinh” với
nhu cầu xem phim cho vui. Sự phát triển của
chủ nghĩa cá nhân trong giới trẻ thành thị chịu
nhiều ảnh hưởng của văn hóa Mỹ, nhưng lại lấy
mốc chuẩn là các ngôi sao Hàn Quốc. Những
kiểu tóc, những mô típ yêu đương, gu thời
trang, hàng hiệu, mỹ phẩm, đồ điện tử Hàn
Quốc vừa xuất hiện trong phim, vừa đắt hàng
ngoài đời. Khuất lấp sau đó là sự giao kết về
kinh tế và văn hóa giữa hai quốc gia châu Á.
Vị trí vừa thượng đẳng, vừa “lộng lẫy”,
nhưng cũng vừa trần tục hơn cả dành cho các
ngôi sao Hollywood. Họ không phải là người
châu Á, vì thế, diễn ngôn về họ thực sự là diễn
ngôn về kẻ khác (other). “Người Việt Nam
mình” ai có thể kỳ lạ được như Lady Gaga,
rỗng tuếch đến như Paris Hilton, hay tự do như
Angelina Jolie. Công chúng cũng thấy thoải
mái nhất khi tiếp cận những thông tin riêng tư
về các ngôi sao này, một mặt bởi họ “không
phải mình”, mặc khác là nhờ ăn theo hệ thống
báo lá cải đã phát triển từ lâu ở các nước Anh
Mỹ.
Đối với sao Việt Nam, cái nhìn bao giờ
cũng khắt khe hơn hẳn (họ là mình), và diễn
ngôn về họ rất thường xuyên bị đặt trong thế so
sánh hoặc rơi tranh cãi nhị phân giữa truyền
thống và hiện đại: Phim này giống phim cổ
trang Tàu, bài hát này đạo nhạc phim Hàn
Quốc, kịch bản điện ảnh kia đạo phim
Hollywood v.v.. Nếu như ngôi sao quá nghiêm
cẩn thì sẽ bị cho là “nhạt nhẽo”, còn nếu có quá
159
nhiều vụ bệ bối thì sẽ bị coi là “lố lăng”, “mất
gốc”, hay “sính ngoại”.
Tác giả David P. Marshall trình bày trong
cuốn Celebrity and Power: Fame in
Contemprorary Culture (1997): “Những loại
thông điệp mà người nổi tiếng cung cấp cho
công chúng đều xoay quanh những dạng thức
định vị căn tính cá nhân, sự khác biệt xã hội và
tính phổ quát trong các kiểu mẫu nhân cách.
Người nổi tiếng tái trình hiện lại một vị trí chủ
thể (subject position) mà công chúng có thể sử
dụng hoặc phỏng theo trong quá trình hình
thành căn tính xã hội của mình”[9, tr.25].
Cách đây gần hai thập kỷ, đường phố Hà
Nội từng vắng lặng và ít cướp giật hơn hẳn
trong giờ chiếu bộ phim truyền hình Người giàu
cũng khóc. Đó có lẽ là lần đầu tiên công chúng
Việt Nam, sau những ngày ngột ngạt về cả vật
chất và tinh thần của thời bao cấp, được quẳng
mình vào cái gọi là giải-trí-đích-thực. Sau đó,
chúng ta có Đơn giản tôi là Maria, cũng gây sốt
tới mức những từ như “Ét-te”, “môi La-ra” đã
đi vào vốn từ vựng lâm thời của nhiều cư dân
thủ đô. Phim Ôsin cũng tạo ra một hiệu ứng
tương tự. Tiếp nữa, chúng ta có SV96 với sự
xuất hiện của nhà báo Lại Văn Sâm, một trong
những MC đầu tiên với dấu ấn khó phai mờ của
“chín, chín phẩy năm và chín”.
Cứ thế, những chương trình giải trí ít ỏi
thủa ban đầu dần trở thành những làn sóng đa
dạng, từ sóng Mỹ, Hàn, Trung tới “Gái nhảy”,
rồi V-Pop. Người Việt Nam đã chìm vào một cả
một vùng biển của sự-giải-trí trong thời đại
thông tin với vô số những ký hiệu, những huyền
thoại và những mẫu hình.
Chức năng củng cố ý thức hệ (ideological
fucntion)
Từ chức năng cung cấp các căn tính vừa phân
tích, tôi cho rằng, trong điều kiện xã hội Việt
Nam, khó có thể phủ định chức năng củng cố ý
160
N.T. Giang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 27 (2011) 151‑162
thức hệ của hiện tượng người nổi tiếng. Nếu
như người nổi tiếng đóng vai trò như một địa
hạt nơi căn tính xã hội được hình thành và cụ
thể hóa, từ đó, tiếp tục được lựa chọn, tranh
luận, đánh giá, điều chỉnh và chia sẻ (có lẽ đó
mới chính là nội dung “thật” của hiện tượng
này) thì rất có thể nó phát triển song hành với
chủ nghĩa cá nhân, đặt trên cơ sở một nền dân
chủ tư sản. David P. Marshall cho rằng hiện
tượng người nổi tiếng là một trong những cơ
chế quan trọng để kiến tạo và duy trì mối liên
kết mang tính diễn ngôn giữa chủ nghĩa tư bản
tiêu dùng, nền dân chủ và chủ nghĩa cá nhân 15.
Trước đây, đặc biệt là trong giai đoạn chiến
tranh, báo chí Việt Nam từng đưa tin về người
anh hùng cách mạng như một cách củng cố ý
thức hệ khá hiển ngôn và có dụng ý rõ ràng
(thường gọi là “nêu gương”). Trong khi đó,
hiện tượng người nổi tiếng trên truyền thông đại
chúng hiện nay lại khá “tự nhiên” và trong
nhiều trường hợp, bản thân người nổi tiếng,
người đưa tin, lẫn công chúng đều không có ý
thức rõ ràng về sự tham gia của họ vào không
gian của chủ nghĩa tiêu dùng. Tuy nhiên, đó lại
là không gian phù hợp nhất, và có thể nói là duy
nhất từ trước tới giờ cho phép hiện tượng người
nổi tiếng phát triển. Đồng thời, hiện tượng
người nổi tiếng lại củng cố và quan trọng hơn
cả, biến những giá trị mang tính ý thức hệ trở
nên “tự nhiên” và khó phát hiện đối với công
chúng 16.
_______
15
Không chỉ có David P. Marshall, quan điểm này được
hàng loạt học giả phương Tây chỉ ra trong những tiểu luận
về người nổi tiếng. [8, tr 24]
16 Trong bài viết “Cái tôi” trong thông điệp quảng cáo, tôi
đã phân tích hiện tượng giá trị cá nhân của giới trẻ (cái tôi)
được truyền thông kiến tạo và nhào nặn với mục đích bán
hàng. Trong quá trình này, mặc dù quảng cáo đẩy mạnh
thông điệp về “sự khác biệt” của các cá nhân, nhưng rốt
cuộc, “ai cũng tưởng mình độc đáo, trong khi tất cả giống
hệt nhau”. Đây là đặc trưng mang tính ý thức hệ khá điển
Để không rơi vào tương đối chủ nghĩa
Những chức năng xã hội vừa phân tích trên
đây đã nới rộng góc nhìn về hiện tượng người
nổi tiếng. Nó được thao tác bằng phương pháp
của ngành Nghiên cứu văn hóa (Cultural
Studies)17, một lĩnh vực còn khá mới ở Việt
Nam, nhất là trong mối quan hệ với nghiên cứu
truyền thông. Mang màu sắc Marxist, ngành
nghiên cứu mang tính phê phán này rất cần thiết
cho sự phát triển lành mạnh của một nền truyền
thông, nhưng một trong những mối nguy đến từ
phương pháp của ngành này chính là việc rơi
vào tương đối chủ nghĩa bởi dường như điều gì
cũng có thể đúng, và điều gì cũng có thể sai.
Tuy nhiên, đồng nhất góc tiếp cận của ngành
Nghiên cứu văn hóa với tương đối chủ nghĩa
hình của chủ nghĩa tư bản tiêu dùng và một nền sản xuất
hàng loạt [11]
17
Ngành nghiên cứu văn hóa (Cultural Studies) đã được
xác lập khá lâu trên thế giới, đặc biệt là với sự đóng góp
của trường phái Birmingham (Anh) vào những năm 60 của
thế kỷ trước. Cách dịch ra tiếng Việt của thuật ngữ “Cultural
Studies” khiến ngành nghiên cứu này thường xuyên bị quy
đồng với “văn hóa học” - một ngành đã định hình từ lâu ở
Việt Nam. Tuy nhiên, hai lĩnh vực có nhiều khác biệt.
Ngành Nghiên cứu văn hóa chưa được xác lập ở Việt Nam,
mặc dù những tác giả nền tảng của nó đều được biết do sự
liên ngành với các lĩnh vực triết học, ngôn ngữ học, nhân
học, lịch sử v.v.. Hiện trên thế giới còn nhiều tranh luận về
ngành này (thậm chí, Graeme Turner, một trong những học
giả nổi bật của Australia về lĩnh vực này từng có một bài
viết nêu vấn đề: “Vì sao ngành Nghiên cứu văn hóa lại cần
có một lịch sử?), nhưng chúng ta có thể tìm được một cách
hiểu tương đối về lĩnh vực này trong cuốn từ điển thuật ngữ
“Communication, Cultural and Media Studies – The Key
Concepts” của John Hartley [2, tr.49]. Theo đó, đối tượng
của ngành Nghiên cứu văn hóa là:
-
-
Mối quan hệ giữa ý thức và quyền lực, có nghĩa
là, văn hóa là chính trị.
Sự hình thành của căn tính (identity) trong đời
sống xã hội, có nghĩa là, văn hóa đồng nghĩa với
cuộc sống hàng ngày (chứ không phải các giá trị
đặc biệt).
Văn hóa tạo lập qua truyền thông, có nghĩa là,
văn hóa là các văn bản.
Sự mở rộng của cái khác biệt, có nghĩa là, văn
hóa là sự đa dạng.
N.T. Giang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 27 (2011) 151‑162
chỉ là một trong những cách nhìn nhận. Không
phải lúc nào sự phản tư, sự giải cấu trúc, và sự
không bất biến của quá trình nhận thức cũng
đồng nghĩa với hư vô chủ nghĩa.
Một phản đề quan trọng, và cũng là một
hướng nghiên cứu rất cần thiết để làm đối trọng
cho góc tiếp cận mang màu sắc quyết định luận
truyền thông mà tôi trình bày trong bài viết này
là lý thuyết về sự tự chủ cá nhân (agency)18.
Bên cạnh sự thuyết phục về tầm quan trọng của
truyền thông đại chúng, chúng ta bắt buộc phải
xem xét tới sự tiếp nhận chủ động và độc lập từ
phía công chúng. Tính tự chủ ở đây được hiểu
là năng lực xã hội của con người trong việc đưa
ra quyết định và tạo sự khác biệt. Nếu như toàn
bộ sự tái trình hiện của truyền thông đại chúng
giống như một tổ hợp âm nhạc không tác giả một hoàn cảnh cho sẵn - thì mỗi cá nhân vẫn
đang trình diễn điệu nhảy riêng của mình, góp
phần làm thay đổi hoàn cảnh sẵn có, và tạo nên
những giá trị cũng như tính trách nhiệm riêng
cho bản thân [10].
Với tư cách một người tham gia vào công
tác giảng dạy, tôi vẫn tin vào vai trò của giáo
dục, nhất là trách nhiệm của người dạy trong
việc cung cấp các công cụ tư duy cho người học
khi các hiện tượng truyền thông ngày càng có
tác động lớn tới giới trẻ. Cả nhà báo và độc
giả đều cần hiểu rằng không có thứ gì gọi là
những màn giải trí "đơn thuần", những văn bản
truyền thông "vô can", những nhà báo “vô can”,
và ngay cả những độc giả “vô can”. Tất cả
những chủ thể một khi đã tham gia vào diễn
ngôn, thì dù đứng ở phía nào, cũng phải tuân
theo luật lệ của diễn ngôn. Dù là khen, hay chê,
thì cũng đồng nghĩa với việc công nhận diễn
ngôn đó. Hơn ai hết, công chúng cần hiểu rằng
_______
18
“Sự tự chủ cá nhân” chỉ là một cách diễn nghĩa của thuật
ngữ “agency”. Tới thời điểm này, tôi chưa tìm được một
cách chuyển dịch thực sự thuyết phục đối với thuật ngữ
này.
161
văn bản truyền thông đều mang tính tạo
chế, đều ngầm tải nghĩa, giá trị, thiên kiến,
và hơn hết, phản ánh các mối quan hệ quyền lực
phức tạp. Tìm được một lối sống lành mạnh
giữa lòng truyền thông đại chúng không có
nghĩa là tẩy chay, mà là vẫn tiêu thụ (và hưởng
thụ), nhưng vẫn duy trì một năng lực tự chủ và
phản tư cần thiết để cân bằng trong cuộc sống
[12].
Cách đây gần 3 thập kỷ, tại Hội nghị Giáo
dục truyền thông năm 1982 do Liên hiệp quốc
tổ chức, UNESCO đã bày tỏ quan ngại về thế
giới truyền thông đại chúng trong Tuyên bố
chung của hội nghị: “Nhà trường và gia đình
chia sẻ trách nhiệm chuẩn bị cho những người
trẻ tuổi sống trong một thế giới của những hình
ảnh, ngôn từ, âm thanh với sức tác động mạnh
mẽ. Cả trẻ em và người lớn cần được giáo dục
về cả ba hệ thống mang tính biểu tượng này.
Điều đó đòi hỏi chúng ta phải đánh giá lại
những ưu tiên của giáo dục ” [13].
Để kết thúc, tôi cho rằng chúng ta không chỉ
cần tới sự hiểu biết thấu đáo về ba hệ thống ký
hiệu trên, mà cùng với đó là giáo dục cho người
trẻ một năng lực cảm thụ tốt, và một khả năng
tư duy phê phán lành mạnh để họ có thể liên tục
quy chiếu những hiện tượng phức tạp của đời
sống truyền thông về một trục chuẩn đến từ
cảm năng trong sáng và lành mạnh được bồi
đắp từ tuổi nhỏ. Đó có lẽ là con đường để
chúng ta không rơi vào cực đoan, mà cũng
không rơi vào hư vô chủ nghĩa.
Tài liệu tham khảo
[1] Daniel Broostin, The Image: A Guide to PseudoEvents in America. New York: Athenneum, 1982.
[2] John Hartley, Communication, Cultural and
Media Studies – The Key Concepts, Routledge,
2002.
162
N.T. Giang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 27 (2011) 151‑162
[3] R. L Trask, Language and Linguistic – Key
Concept, Routledge, 2007, trang 76.
[9] Graeme Turner, Understanding Celebrity, SAGE
Publication, 2004.
[4] Roland Barthes, Những huyền thoại (Phùng Văn
Tửu dịch), NXB Tri Thức, 2008, trang 314.
[10] Chris Barker, The SAGE Dictionary of Cultural
Studies, SAGE, 2004, trang 4.
[5] Jean Baudrillard, Simulacra and Simulation, The
University of Michigan Press, 2010.
[6] Trần Hữu Quang, Công chúng truyền thông đại
chúng, Luận án Tiến sĩ Khoa học, 2000.
[11] Nguyễn Thu Giang, Cái tôi trong thông điệp
quảng cáo, bài đăng trong cuốn Báo chí - Những
vấn đề lý luận và thực tiễn, tập 7, NXB ĐHQG,
2010.
[7] Center for Media Literacy, Five key questions that
can change the world – Classroom activities for
media literacy, Mỹ, 2005.
[12] Nguyễn Thu Giang, Tri tạo truyền thông – Một
cách tiếp cận trong giáo dục, Tạp chí Nghiên cứu
con người số 1, 2011.
[8] Louis Wirth, Urbanism as a way of life, bài đăng
trong tạp chí America Journal of Socioloy,
University of Chicago, 1938.
[13] UNESCO, Extracts from the Grĩnwald
Declaration on media education, 1982, Website:
www.unesco.org.
Celebrity and its possible functions
Nguyen Thu Giang
Faculty of Journalism and Communication, University of Social Sciences and Humanities,
VNU, 336 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam
The essay is rather a literature review than an independent research, examining the phenomenon of
celebrity construction in contemporary Vietnamese media under the perspective of media and cultural
theories. The key method is critical discourse analysis. The celebrity is viewed as 1) representation, 2)
discourse, 3) commodity. From this approach, the research discusses possible social functions of
celebrity: 1) the partly replacement of personal communication, 2) the offer of diverse cultural
identities, 3) the ideological function. The research proposes a change in educational approach to
provide adequate media literacy for the public to keep a balanced position in the highly symbolically
mediated world.