Academia.eduAcademia.edu
T p chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 157-167 Công ty Xuyên quốc gia - chủ thể quan hệ quốc tế Hoàng Khắc Nam* Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN 336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 28 tháng 7 năm 2008 Tóm tắt. Bên c nh chủ thể quốc gia, sự nổi lên của các chủ thể phi quốc gia là một trong những nhân tố t o nên những thay đổi n tượng của quan hệ quốc tế (QHQT) thời hiện đ i. Công ty Xuyên quốc gia là một trong những chủ thể phi quốc gia quan trọng nh t. Để tìm hiểu vai trò chủ thể QHQT của Công ty Xuyên quốc gia, bài viết xem xét quá trình hình thành và phát triển của chúng kể từ thời cận đ i cho đến nay. Một quá trình phát triển như vậy có thể giúp th y được xu hướng tăng cường vai trò của chúng trong QHQT thế giới. Bài viết cũng tìm hiểu những đặc điểm của Công ty Xuyên quốc gia như tính cá nhân, tính quốc tế, mức độ thể chế, quan hệ với quốc gia,... Đó là những yếu tố không chỉ góp phần quy định vai trò chủ thể QHQT mà còn t o nên những đặc thù riêng trong tác động của chúng tới nền kinh tế chính trị quốc tế. Cuối cùng, bài viết đánh giá về vai trò chủ thể QHQT với lo i hình đặc biệt là chủ thể phi quốc gia. Việc đánh giá này được xem xét lần lượt trên bốn tiêu chí là tham gia, mục đích, năng lực và nh hưởng. Việc tìm hiểu vai trò chủ thể QHQT của Công ty Xuyên quốc gia không chỉ có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu QHQT, mà còn có thể là cần thiết đối với nước ta trong bối c nh mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong phần lớn chiều dài lịch sử, QHQT bị chi phối và định đo t bởi quốc gia. Đến thời hiện đ i, thế độc tôn đó dần dần bị phá vỡ bởi sự nổi lên các chủ thể mới bên c nh quốc gia. Đó chính là chủ thể phi quốc gia (Nonstate Actor). Sự tồn t i của các chủ thể phi quốc gia đã tác động m nh mẽ lên quốc gia và dẫn đến những thay đổi đáng kể trong QHQT. Thậm chí, sự phát triển của chúng còn được nhiều người kỳ vọng sẽ còn đem l i những thay đổi to lớn hơn cho tương lai thế giới. Công ty Xuyên quốc gia là một trong những chủ thể phi quốc gia quan trọng nh t. Đó là những tổ chức kinh doanh có quyền sở hữu hoặc ho t động kinh doanh diễn ra trên địa bàn nhiều quốc gia. Trong kinh tế, thường có sự phân biệt giữa Công ty Quốc tế (International Corporation) với Công ty Đa quốc gia (Multunational Corporation) và Công ty Xuyên quốc gia (Transnational Corporation). Trong đó, Công ty Quốc tế là công ty có sự quốc tế hoá thị trường, tức là ho t động ở c thị trường nội địa lẫn thị trường nước ngoài. Công ty Đa quốc gia là công ty có sự quốc tế hóa nguồn vốn, tức là có chủ đầu tư thuộc các * ________ * ĐT: 84-4-7730725 E-mail: hknam84@yahoo.com 157 158 Hoàng Khắc Nam / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 157-167 quốc tịch khác nhau. Công ty Xuyên quốc gia là công ty có sự quốc tế hoá ho t động kinh doanh nhưng chủ đầu tư thường thuộc một quốc tịch. Nhìn chung, các cách phân lo i nói trên không được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu QHQT. Đối với QHQT, một sự xếp h ng theo quy mô địa lý và doanh số, sự phân biệt quốc tịch của công ty mẹ hay mức độ nh hưởng trong QHQT thường có ý nghĩa nhiều hơn sự phân lo i bởi những tiêu chí trên giúp đánh giá được kh năng tương tác và vai trò của chúng trong QHQT. Tuy nhiên, trong bài này, xu t phát từ góc độ có nh hưởng xuyên quốc gia trong QHQT, thuật ngữ Công ty Xuyên quốc gia được sử dụng chung để chỉ t t c các công ty ho t động trên quy mô quốc tế, tức là bao gồm c ba lo i nói trên [1]. Với cách hiểu Công ty Xuyên quốc gia như vậy, bài viết này xem xét quá trình và đặc điểm của Công ty Xuyên quốc gia trong QHQT để từ đó đánh giá vai trò chủ thể QHQT của chúng. Việc tìm hiểu vai trò chủ thể QHQT của Công ty Xuyên quốc gia không chỉ có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu QHQT, mà còn có thể là cần thiết đối với nước ta trong bối c nh mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài và hội nhập kinh tế quốc tế. 1. Quá trình phát triển của Công ty Xuyên quốc gia Công ty Xuyên quốc gia (TNC) ra đời trong thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư b n (CNTB). Trong thời kỳ đầu c nh tranh tự do của CNTB, mục đích lợi nhuận và sự phát triển s n xu t đã làm tăng yêu cầu về thị trường nguyên liệu, thị trường lao động, thị trường hàng hoá và thị trường tài chính. Các yêu cầu đó đã thúc đẩy việc tăng cường khai thác và mở rộng ho t động kinh doanh sang nước khác. Ngoài ra, sự c nh tranh quyết liệt cũng hướng nhiều công ty trong nước đi tìm lợi nhuận trong thị trường bên ngoài. Quá trình này đã được t o điều kiện bởi sự phát triển của thương m i quốc tế đã hình thành qua nhiều thế kỷ trước. Quá trình này cũng được t o điều kiện bởi sự ủng hộ của các nhà nước TBCN và chủ nghĩa thực dân. Đồng thời, quá trình đi từ hợp tác gi n đơn đến liên kết sâu sắc hơn trong giới công thương tư b n đã làm tăng kh năng thực hiện sự mở rộng này. Trên cơ sở đó, các tổ chức kinh doanh quốc tế bắt đầu được hình thành và phát triển. Những tổ chức kiểu này được biết đến sớm là vào đầu thế kỷ XVII như các Công ty Đông n của Anh, Hà Lan hay Công ty Hudson Bay. Vào thời b y giờ, các công ty đó đã có nh hưởng nh t định đến QHQT như khuyến khích hoặc trực tiếp thi hành chủ nghĩa thực dân. Có những đoàn thám hiểm thực dân do các công ty này tổ chức. Nhiều cuộc xâm lược do chính các công ty này khuyến khích và hỗ trợ. Khi ách thực dân đã được thiết lập, những công ty này đã đi đầu trong việc bóc lột và khai thác thuộc địa. Các TNC thực sự hình thành và phát triển m nh mẽ trong thời kỳ chủ nghĩa đế quốc. Trong thời kỳ này, quá trình tích tụ tư b n, tập trung s n xu t, sự kết hợp giữa giới tài chính và giới công thương đã dẫn đến sự ra đời của hàng lo t các tập đoàn s n xu t-kinh doanh lớn theo xu hướng độc quyền. Sự c nh tranh tự do trong thời kỳ đầu của CNTB với sự thôn tính cá lớn nuốt cá bé cũng t o thêm điều kiện cho sự hình thành các tổ chức kinh doanh độc quyền lớn từ Syndica qua Trust tới Conglomerate. Đáng chú ý, sự c nh tranh và xu hướng độc quyền diễn ra m nh mẽ c trên thị trường trong nước lẫn ngoài nước nên càng làm tăng tính quốc tế của các công ty Hoàng Khắc Nam / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 157-167 này. Sự nổi lên của các công ty độc quyền và sự vươn m nh ra thế giới còn nhờ sự kết hợp chặt chẽ giữa quyền lực kinh tế của chúng với quyền lực chính trị của nhà nước TBCN. Điều đã thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa đế quốc trong QHQT. Hai quyền lực này đã song hành cùng nhau trong nhiều nỗ lực tranh giành thị trường quốc tế, mở rộng khu vực nh hưởng và chiến tranh đế quốc. Sau Chiến tranh Thế giới II, sự phát triển của nền kinh tế thế giới, nhu cầu tăng cường quan hệ kinh tế quốc tế và sự hợp tác chính trị giữa các TBCN đã t o điều kiện cho sự phát triển tiếp tục của các TNC, đặc biệt trong thế giới tư b n. Nhiều TNC ra đời và phát triển m nh mẽ trong thời kỳ này. Sự phát triển của TNC không chỉ ở sự nắm giữ các lĩnh vực kinh tế trọng yếu, năng lực tài chính và khoa học kỹ thuật,… mà còn ở sự mở rộng ho t động kinh doanh ra khắp thế giới tư b n. Vai trò của TNC trong QHQT cũng vì thế mà đã tăng lên qua sự đóng góp r t lớn vào việc tăng trưởng các dòng đầu tư nước ngoài, thúc đẩy thương m i xuyên quốc gia và mở rộng phân công lao động quốc tế. Bên c nh đó, sự ra đời của hàng lo t quốc gia mới thuộc Thế giới thứ Ba cùng với sự yếu kém của các nền kinh tế đó cũng vẫn duy trì cơ hội cho TNC mở rộng kinh doanh t i thị trường này. Tuy nhiên, quá khứ gắn liền với chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc đã t o nên sự ph n ứng và nghi ngờ đối với các TNC. Trong những năm 1960 và 1970, nhiều nước mới giành được độc lập đã coi các TNC là “kẻ bóc lột”, “thực dân kinh tế” hay “động vật ăn thịt” các nước nghèo. Các TNC còn bị lên án bởi xu t khẩu công nghệ l c hậu, khai thác quá nhiều tài nguyên không tái t o được, tranh giành thu hút lao động chuyên môn, chèn ép s n xu t nội địa và t o nên một tầng lợp giàu xổi ở nước sở t i... Vì thế, tài s n 159 nước ngoài của các TNC được quốc hữu hoá ở nhiều nơi. Các TNC ph i rút lui khỏi thị trường của một số nước Thế giới thứ Ba. Mặc dù vậy, điều này cũng không ngăn c n được sự lớn m nh của các TNC, đặc biệt ở các nước TNCN phát triển. Từ những năm 1980, nh t là sau Chiến tranh L nh, các TNC đã phát triển r t m nh mẽ và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong QHQT. Xu thế hoà dịu sau Chiến tranh L nh, sự phát triển của kinh tế thị trường như con đường phát triển chung, xu thế hợp tác cùng phát triển, trào lưu thúc đẩy thương m i tự do và hội nhập kinh tế... đã t o điều kiện cho các TNC mở rộng địa bàn, phát triển ho t động ra khắp thế giới. Vai trò chính trị và thực lực kinh tế to lớn cũng như sự chi phối nền kinh tế thế giới của các nước phát triển nơi xu t phát của hầu hết các TNC lớn - tiếp thêm điều kiện cho sự phát triển và vai trò của các TNC. Đáng chú ý, sự thay đổi cách nhìn nhận về TNC đã góp phần đáng kể cho sự mở rộng ho t động kinh doanh quốc tế của các TNC. TNC ngày càng được coi là công cụ phát triển, là sự t o công ăn việc làm, là nguồn thuế thu, là sự khắc phục về vốn, kỹ thuật, công nghệ và kinh nghiệm làm ăn quốc tế. Điều kiện chính trị thay đổi ở nhiều nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi, sự phát triển của hệ thống luật lệ quốc tế và pháp luật quốc gia liên quan đến TNC cũng làm gi m bớt sự nghi ng i chính trị đối với các TNC. Bởi thế, các nước đều mở cửa thị trường, khuyến khích FDI và thậm chí còn c nh tranh với nhau trong việc thu hút TNC. Nhờ đó, các TNC đã bành trướng khá nhanh và mở rộng vai trò trong đời sống quốc tế. Sau Chiến tranh L nh, TNC đã có sự phát triển chóng mặt với số lượng các TNC tăng gần g p đôi, từ kho ng 37.000 đầu thập kỷ 1990 lên gần 70.000 vào năm 2004. Đồng thời, Hoàng Khắc Nam / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 157-167 160 mức độ quốc tế hoá của chúng cũng phát triển chưa từng th y với số lượng chi nhánh nước ngoài tăng gần bốn lần, từ 170.000 đầu thập kỷ 1990 lên gần 690.000 vào năm 2004 [2, tr.113]. Một điểm khác cũng đáng chú ý, TNC không còn là độc quyền của các nước phát triển hàng đầu mà đã xu t hiện c trong các nền kinh tế đang phát triển hoặc mới nổi. Tuy nhiên, quy mô và vai trò của các TNC này vẫn còn r t khiêm tốn. Chúng chỉ chiếm 4 trong tổng số 100 TNC phi tài chính lớn nh t thế giới năm 2003(1), chiếm 3 trong tổng số 50 TNC tài chính lớn nh t thế giới năm 2004(2). 700 600 500 Số lượng TNC (nghìn) 400 5.551 tỉ USD [2, tr.17]. Các TNC cũng là người nắm giữ hầu hết vốn đầu tư nước ngoài(3). Các TNC thực hiện hơn 80% thương m i thế giới [3]. Các TNC chi phối hầu hết các ngành công nghiệp và dịch vụ quan trọng của thế giới. Các TNC cũng nắm giữ phần lớn công nghệ tiên tiến và quá trình chuyển giao công nghệ. Các TNC vẫn tiếp tục nằm trong trung tâm của sự phát triển. Thế và lực của TNC tiếp tục phát triển trong những năm gần đây với xu hướng sáp nhập và thu nhận (M&A) để hình thành các tập đoàn lớn(4), nh t là trong những lĩnh vực kinh tế quan trọng như truyền thông, ngân hàng-tài chính, giao thông vận t i... T t c những điều này đang làm tăng vai trò của TNC đối với quốc gia và QHQT. 300 Số lượng chi nhánh nước ngoài (nghìn) 200 100 0 Đầu thập Năm 2004 kỷ 1990 Biểu đồ 1. Sự phát triển của TNC sau chiến tranh l nh. Sức m nh kinh tế của TNC r t lớn với tài s n trong năm 2003 của 100 TNC lớn nh t thế giới là 8.023 tỉ USD, trị giá kinh doanh là ________ (1) Trong số 100 TNC lớn nh t, 25 thuộc Mỹ, 50 thuộc EU (37/50 thuộc Đức, Pháp, Anh), 9 thuộc Nhật. Các nước phát triển khác như Canana, Australia, Thuỵ Sĩ,… có 12 TNC. Trong khi đó, các nền kinh tế đang phát triển chỉ có 4 TNC là Hutchison Whampoa Limited của Hongkong (xếp h ng 16), Singte Ltd. của Singapore (66), Petronas của Malaysia (72) và Samsung của Hàn Quốc (99) [2, tr.267-269]. (2) Đó là ba ngân hàng của Trung Quốc mới tham gia danh sách 50 TNC tài chính lớn nh t thế giới chưa lâu với vị trí xếp h ng lần lượt là Ngân hàng Công thương Trung Quốc (23), Ngân hàng Trung Quốc (34) và Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc (39) [2, tr.273]. 2. Đặc điểm của Công ty Xuyên quốc gia trong quan hệ quốc tế TNC được nhiều người coi là một lo i hình tổ chức quốc tế phi chính phủ (INGO) trong kinh tế. Giữa INGO và TNC có những đặc điểm giống nhau. Nhưng cũng có nhiều người khác tách TNC như một chủ thể phi quốc gia riêng. Sở dĩ như vậy là bởi vì TNC có những đặc điểm riêng không chỉ trong tổ chức, ho t động mà c trong tác động của nó tới QHQT. Điều này t o nên vị trí riêng của ________ (3) Trong thời gian 1995-2004, đầu tư trực tiếp nước ngoài của các TNC dưới hình thức mua cổ phần của các doanh nghiệp nước ngoài hoặc lập công ty 100% vốn nước ngoài dao động trong kho ng 58%-71%, đầu tư dưới hình thức cho vay trong công ty chiếm bình quân 23% và tái đầu tư từ lợi nhuận của công ty mẹ chiếm bình quân 12% tổng đầu tư của thế giới [2, tr.10]. (4) Từ năm 1987-2004, chỉ tính riêng các M&A qua biên giới có trị giá trên 1 tỉ USD thì số lượng đã là 993 cuộc với tổng trị giá hơn 3.270 tỉ USD, chiếm tổng trị giá giao dịch M&A toàn cầu từ th p nh t 25,2% năm 1991 đến cao nh t 75,7% năm 2000 [2, tr.9]. Hoàng Khắc Nam / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 157-167 161 nó đối với quốc gia và trong QHQT. Dưới đây là một số đặc điểm chủ yếu của TNC trong QHQT. - Tính cá nhân trong tổ chức và hoạt động. Cơ c u tổ chức, nguyên tắc ho t động, thành phần tham gia, nguồn tài chính đóng góp... của các TNC xu t phát chủ yếu từ nguồn cá nhân hơn là nhà nước. Điều này khiến cho tổ chức và ho t động của các TNC dựa trên ý chí cá nhân của những người góp vốn hơn là ý chí quốc gia. Các TNC theo đuổi lợi ích của chính mình hơn là lợi ích quốc gia. Trên thực tế, có những TNC thuộc sở hữu nhà nước hoặc do nhà nước nắm cổ phần quyết định nhưng số lượng tương đối ít(5). Vì thế, tính cá nhân vẫn là đặc điểm phổ biến của TNC. - Tính quốc tế trong thành phần, mục đích và hoạt động. Chủ sở hữu và thành viên góp vốn của TNC thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Mục đích của các TNC là lợi nhuận trên thị trường quốc tế chứ không bó hẹp trong thị trường nội địa. Ho t động kinh doanh của nó là xuyên quốc gia với việc khai thác thị trường quốc tế, thiết lập chi nhánh nước ngoài và sử dụng nguồn nhân lực đa quốc gia. Hiện nay, tỉ trọng tài s n nước ngoài, giá trị thương m i của các chi nhánh nước ngoài và nhân công nước ngoài của TNC đều tăng lên(6). Đây là điểm giúp phân biệt TNC với các công ty quốc gia (National Corporation). - Tính tự nguyện trong thành lập và hoạt động. Điều đó tức là mục đích, sự thành lập và nhiệm vụ đề ra, đóng góp và ho t động của TNC chủ yếu được thực hiện trên cơ sở tho thuận kinh tế hay dân sự một cách tự nguyện chứ không hoàn toàn chịu chi phối, cưỡng ép của quốc gia. T t nhiên, tính ch t này không bao gồm các TNC thuộc sở hữu nhà nước nhưng trong thực tế, các TNC đó cũng được trao quyền tự chủ kinh doanh khá lớn. - Khác với các INGO có mục tiêu và chương trình nghị sự r t đa d ng, các TNC thường chỉ có mục đích là lợi nhuận. Ho t động của chúng chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế. Chúng có thể ho t động trong một hay nhiều ngành kinh tế. Tuy nhiên, nhằm phân tán rủi ro trong kinh doanh, ngày càng có nhiều TNC ho t động đồng thời trong nhiều ngành kinh tế khác nhau. So với INGO thường ít thay đổi về mục tiêu và chương trình nghị sự, TNC linh ho t và dễ thay đổi hơn nhiều trong mục tiêu và ngành nghề kinh doanh(7). - Khác với INGO ít gắn trực tiếp với chính trị, TNC có sự gắn bó đáng kể với chính trị. Sự chi phối lẫn nhau giữa chính trị và kinh tế, mục đích lợi nhuận quá lớn của các TNC đã quy định điều này. Không kể quá khứ gắn với chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, sự can thiệp của TNC vào công việc nội bộ nước khác là hiện tượng không hề hiếm trong trong thời hiện đ i(8). Hiện nay, các phương pháp ho t động chính trị của TNC thường là gây sức ép đối với nước sở t i và vận động ________ (5) Ví dụ, trong số 100 TNC phi tài chính hàng đầu thế giới hiện nay, chỉ có Petronas của Malaysia là công ty do nhà nước chi phối. Trong số 50 TNC tài chính lớn nh t thế giới, chỉ có 3 ngân hàng của Trung Quốc là Ngân hàng Công thương Trung Quốc, Ngân hàng Trung Quốc và Ngân hàng Xây dựng là thuộc sở hữu nhà nước. Còn l i đều thuộc sở hữu tư nhân (Số liệu năm 2003). (6) Năm 2003, tài s n nước ngoài và nhân công nước ngoài của 100 TNC lớn nh t thế giới chiếm gần 50%, trị giá thương m i nước ngoài chiếm hơn 54%. Các chỉ số này tăng lần lượt 1,7%, 0,4% và 2,6% so với năm 2002 [2, tr.17]. ________ (7) Ví dụ điển hình là Công ty Sony đã mở rộng ho t động từ công nghiệp điện tử sang lĩnh vực gi i trí như âm nh c, phim nh… (8) Vụ một số TNC của Mỹ, nh t là Công ty Điện tho i và điện tín quốc tế (ITT) khuyến khích CIA và lực lượng của tướng Pinoche tiến hành đ o chính lật đổ chính phủ Algende năm 1973 ở Chile là một ví dụ điển hình. Thắng lợi của chính phủ cánh t Algende đe do lợi ích của hơn 100 công ty Mỹ đang kiểm soát phần lớn kinh tế Chile. Trong số đó, có đủ 24 công ty lớn nh t của Mỹ như General Motor, General Cable, RCA, Xerox, Phelps Dodge… 162 Hoàng Khắc Nam / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 157-167 hành lang ở chính quốc(9) để thay đổi chính sách và luật pháp. Ngược l i, ho t động của TNC cũng chịu nh hưởng khá lớn của môi trường chính trị chính quốc và nước sở t i cũng như mối quan hệ chính trị giữa chúng. - Tính thể chế của TNC chặt chẽ hơn nhiều so với các INGO. TNC là lo i hình tổ chức kinh doanh quốc tế với tổ chức, nguyên tắc ho t động và sự qu n lý khác hẳn với INGO. Cơ c u tổ chức của TNC thường theo hình kim tự tháp với mức độ ràng buộc cao và sự phân nhiệm rõ ràng. Chúng có hệ thống các quy định chặt chẽ cho mọi công đo n ho t động từ tổ chức xuống từng cá nhân. Các nguyên tắc ho t động được quy định rõ ràng và có tính bắt buộc. Tính ch t quan hệ trong TNC thường mang tính phục tùng. Tính thể chế của TNC thường được thể hiện trong điều lệ công ty, quy chế ho t động, nội quy và các phương án kinh doanh cụ thể. - Các TNC ho t động tương đối độc lập với quốc gia do chúng có sự chủ động về tổ chức, tài lực và nhân lực. Chúng ho t động vì lợi ích của b n thân nhiều hơn là vì lợi ích quốc gia. Nhìn chung, các TNC được tự do định đo t quy mô, đối tượng và phương án thực hiện ho t động kinh doanh mà ít có sự can thiệp của nhà nước. Sự độc lập của TNC còn được tăng lên bởi những quy định pháp lý của nhà nước cho phép nó được quyền tự chủ kinh doanh và tự chịu trách nhiệm đối với kết qu kinh doanh. B n thân thế lực khá lớn của ________ (9) Ba công ty s n xu t ô tô hàng đầu của Mỹ là General Motor, Ford và Chrysler đã từng nhiều lần thúc giục Chính phủ Mỹ thi hành các biện pháp h n chế sự phát triển ô tô Nhật B n ở thị trường Mỹ. Điều này đã gây ra các cuộc “chiến tranh ô tô” Mỹ-Nhật và sự tham gia gi i quyết giữa chính phủ hai nước. Hay các ví dụ khác như sự ph n đối của các TNC Mỹ đối với lệnh c m vận Liên Xô sau sự kiện Afganistan và sự kiện thiết quân luật ở Ba Lan năm 1981. Một số TNC Mỹ cũng đã từng vận động dỡ bở lệnh c m vận và đòi bình thường hoá với Việt Nam sau khi Chiến tranh L nh kết thúc. các TNC cũng giúp đem thêm tính độc lập tương đối cho chúng. - Tuy nhiên, ho t động của TNC vẫn phụ thuộc vào quốc gia khi chịu sự điều chỉnh của luật pháp chính quốc cũng như của nước sở t i. T i chính quốc, các ho t động của chúng chịu sự kiểm soát ít nhiều của nhà nước dưới hình thức như thuế hay luật chống độc quyền(10). T i quốc gia sở t i, TNC có thể bị quốc hữu hoá như trước kia hoặc những h n chế như hiện nay về quy mô và lĩnh vực ho t động như ngành nghề được phép kinh doanh, tỉ lệ góp vốn tối đa, quy định về kiểm toán, khuyến khích về kinh tế nhưng h n chế về chính trị và văn hoá,… Các TNC vẫn cần sự ủng hộ hay b o hộ của quốc gia trong ho t động kinh doanh trên thị trường ngoài nước. Sự phụ thuộc vào quốc gia còn biểu hiện ở chỗ nhiều khi TNC được sử dụng như công cụ chính sách đối ngo i như bao vây c m vận quốc gia nào đó. Các TNC buộc ph i tuân theo quyết định của quốc gia dù điều đó trái với lợi ích của chúng(11). - Hiện nay, ho t động của các TNC ngày càng có sự liên quan gắn bó đến nhau. Điều này ________ (10) Ví dụ, các nước phát triển đều ban hành luật chống độc quyền nhằm ngăn chặn sự lũng đo n của các TNC. Một trong những vụ nổi tiếng nh t gần đây là việc Bộ Tư pháp Mỹ đã đưa Công ty Microsoft ra toà vì sự vi ph m luật chống độc quyền trong s n phẩm phần mềm Windows. Một số nước còn có c quy định về ho t động của TNC ở nước ngoài như Nhật B n có quy định mức lương tối thiểu mà TNC ph i tr cho nhân công ở nước ngoài. (11) Chính sách c m vận của Mỹ đối với Iran sau cuộc Cách m ng Hồi giáo năm 1979 là một ví dụ. Lệnh c m vận này được áp dụng không chỉ đối với TNC của Mỹ mà c các TNC của nước khác. Năm 1995, công ty dầu lửa Conoco của Mỹ bị chính quyền Clinton buộc ph i huỷ bỏ hợp đồng phát triển một mỏ dầu ở Iran. Ngay lập tức, Royal Dutch Shell của Hà Lan và Total của Pháp nh y vào thay thế. Mỹ đã đe do trừng ph t các TNC Châu Âu và điều này đã gây nên cuộc cãi vã giữa Mỹ và EU. Tương tự như vậy, Công ty dầu mỏ Texaco của Mỹ cũng ph i rút khỏi Mianmar vì sức ép trong v n đề nhân quyền. Hoàng Khắc Nam / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 157-167 được quy định bởi tính hệ thống của nền kinh tế, xu hướng thống nh t của thị trường thế giới, quá trình phân công lao động và bởi cố gắng chính trị của nhà nước nhằm t o môi trường kinh doanh thuận lợi. Sự liên quan này có nhiều ph n ánh khác nhau như kết hợp vốn, mua cổ phần của nhau, phối hợp s n xu t, M&A, hợp đồng liên kết công nghệ, phối hợp cùng gây áp lực chính trị,… Đây là điểm khác với INGO mà ho t động vẫn đang còn khá riêng rẽ. Những đặc điểm trên không chỉ t o ra “b n sắc riêng” mà còn góp phần đem l i vai trò chủ thể QHQT cho TNC. 3. Vai trò chủ thể quan hệ quốc tế của Công ty Xuyên quốc gia Sự tăng trưởng m nh mẽ c về lượng lẫn ch t, vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế cùng với các tác động ngày càng tăng trong QHQT đang đem l i cho TNC kh năng của một chủ thể QHQT. Điều này được thể hiện trên 4 tiêu chí của chủ thể QHQT là tham gia, mục đích, năng lực và nh hưởng. Thứ nhất, xét trên tiêu chí tham gia, về mặt thời gian, TNC bắt đầu ghi d u n lớn trong QHQT với việc vươn ra thị trường nước ngoài từ nửa cuối thế kỷ XIX, phát triển m nh mẽ trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Về mặt không gian, ngày nay, các TNC đã “phủ sóng” hầu như khắp mọi quốc gia trên thế giới (xem b ng). Thậm chí, nhiều TNC có tầm ho t động trên quy mô toàn cầu(12). Về ________ (12) Ví dụ, năm 2003, trong số 100 TNC phi tài chính có số tài s n nước ngoài lớn nh t, chỉ có 11 TNC có số lượng chi nhánh nước ngoài dưới 100, còn l i đều có tới hàng trăm chi nhánh. Cá biệt có TNC có tới hàng nghìn chi nhánh nước ngoài như Hutchison Whampoa (Hongkong) với 1990/2350, General Electric (Mỹ) với 1068/1398. [2, tr.267] Trong số các TNC tài chính, City Group (Mỹ) có chi nhánh t i 77 nước, 163 kênh quan hệ, các TNC tham gia vào QHQT không chỉ qua quan hệ giữa TNC với quốc gia khác, giữa TNC với công ty khác mà còn trong nội bộ công ty qua quan hệ giữa trụ sở với các chi nhánh của mình ở nước ngoài. Về hình thức quan hệ, đó là sự phân công lao động quốc tế, đầu tư nước ngoài, thương m i xuyên quốc gia, giao dịch tài chính quốc tế, chuyển giao công nghệ, thu hút lao động nước ngoài,… Về lĩnh vực tham gia, ho t động của TNC không chỉ diễn ra trong mọi ngành kinh tế lớn mà còn đi sâu vào các lĩnh vực chuyên môn hẹp. Bên c nh đó, sự tham gia của TNC trong chính trị - lĩnh vực quan trọng trong QHQT - là r t đáng kể như đã trình bày trong phần trên(13). Ngoài ra, TNC còn hiện diện khá lớn một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong nhiều lĩnh vực khác nhau của QHQT như khoa học, văn hoá, xã hội,…(14). Không chỉ về bề rộng, mức độ tham gia QHQT của các TNC cũng r t sâu sắc, đặc biệt trong kinh tế. Điều này t o kh năng cho TNC tham gia sâu hơn nữa vào đời sống kinh tế, chính trị và xã hội quốc tế. UBS (Thuỵ Sĩ), Allianz Group (Đức), HSBC Bank plc (Anh), BNP Paribah SA (Pháp) và ABN Ambro (Hà Lan) có chi nhánh t i 48 nước... [2, tr.273] (13) Có thể bổ sung thêm vai trò của TNC trong lĩnh vực s n xu t vũ khí. Ngoài các TNC s n xu t vũ khí của Mỹ, tổ hợp công nghiệp quốc phòng của Liên Xô trước kia nay cũng đã chuyển thành TNC. Các TNC s n xu t vũ khí lớn không chỉ tác động tới chính sách đối ngo i của các cường quốc mà còn góp phần t o những v n đề an ninh trong QHQT như buôn bán vũ khí, ch y đua vũ trang, kích thích xung đột vũ trang… (14) Ví dụ, TNC đóng vai trò r t quan trọng trong khoa học. Năm 2002, 700 công ty chi phí lớn nh t cho nghiên cứu và phát triển (R&D), trong đó có ít nh t 98% là TNC đã chi tới 310 tỉ USD, chiếm tới 46% tổng chi phí R&D thế giới. Các TNC không chỉ chi R&D trong nước mà còn đầu tư ra nước ngoài, thúc đẩy quốc tế hoá ho t động R&D. Năm 2002, 700 công ty nói trên kiểm soát hơn 2/3 (69%) việc kinh doanh R&D [2, tr.119]. Ngoài ra, TNC còn tham gia gián tiếp tới văn hoá, giáo dục, xã hội thông qua các ho t động tài trợ, t o công ăn việc làm,… 164 Hoàng Khắc Nam / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 157-167 B ng 1. Số lượng chi nhánh nước ngoài của các TNC theo vùng (đến 2004) [2, tr.264-265] Vùng Số lượng Vùng EU 199.303 Đông Bắc Á 250.020 Các nước Châu Âu phát triển khác 10.485 Đông Nam Á 33.892 Đông nam Âu 97.407 Nam Á 3.237 CIS 10.405 Tây Á 11.025 Bắc Mỹ 28.332 Bắc Phi 3.286 Nam Mỹ 6.654 Tây Phi 575 Trung Mỹ 26.881 Trung Phi 274 Châu Âu Số lượng Châu Á Châu Mỹ Châu Phi Các nước Caribbea 1.806 Đông Phi 792 Châu Đại Dương 4.822 Nam Phi 919 Thứ hai, xét trên tiêu chí mục đích, t t c các TNC đều có mục đích lợi nhuận. Lợi nhuận chính là mục đích cơ b n, bao trùm và xuyên suốt của các TNC và được ph n ánh trong điều lệ, trong tổ chức và mọi ho t động kinh doanh. Không có mục đích lợi nhuận, không ph i là TNC. Trên phương diện QHQT, mục đích này là động lực chính hướng ho t động của TNC ra bên ngoài nhằm khai thác hơn nữa lợi nhuận trên thị trường quốc tế. Trước kia, mục đích lợi nhuận đã khiến TNC góp phần đưa quan hệ bóc lột, sự nô dịch thực dân và sự can thiệp chính trị vào QHQT. Ngày nay, mục đích lợi nhuận vẫn tiếp tục quy định cố gắng mở rộng thị trường, tăng cường ho t động và phát triển các hình thức tác động khác nhau của chúng trong QHQT. Thông qua quá trình kinh doanh quốc tế, các TNC có những đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế các nước như đầu tư vốn, kích thích xu t khẩu, mở rộng s n xu t, c i tổ cơ c u, chuyển giao công nghệ, phát triển kỹ năng qu n lý, t o việc làm,… Các tác dụng tích cực đó đã khiến mục đích lợi nhuận của TNC dễ hoà hợp hơn với mục đích phát triển của các nước. Đồng thời, việc gi m thiểu sự can thiệp chính trị thô b o như trước kia cũng góp phần làm gi m mâu thuẫn với mục đích an ninh chính trị của các nước đang phát triển. Và từ đó, sự nghi ng i, chống đối TNC ở các nước này cũng gi m theo(15). Đó chính là cơ hội cho TNC mở rộng ho t động ra khắp thế giới để thực hiện mục đích lợi nhuận. Thứ ba, xét trên tiêu chí năng lực, các TNC có nguồn tài lực và nhân lực riêng từ các chủ sở hữu và những người tham gia khác. Nguồn tài chính của chúng r t lớn(16) và nguồn nhân lực của chúng cũng dồi dào(17). Thậm chí, có những TNC có số tài s n vượt xa GDP của nhiều nước phát triển(18). Đó là chưa kể xu hướng M&A đang t o ra những TNC khổng lồ trong nền kinh tế quốc tế. Các TNC được luật pháp chính quốc cũng như nước sở t i trao cho quyền tự chủ và những thẩm quyền riêng trong ho t động kinh doanh. Luật pháp của chính quốc thì rộng rãi, ________ (15) Việt Nam là một ví dụ điển hình. Sau khi bắt đầu công cuộc Đổi Mới cuối năm 1986, ngay năm sau, Việt Nam đã ban hành Luật Đầu tư nước ngoài 1987 thuộc lo i thông thoáng nh t lúc b y giờ nhằm thu hút các TNC đầu tư vào nước ta. Cho đến nay, chủ trương này vẫn được tiếp tục và các TNC đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế của nước ta. (16) Năm 2003, tổng trị giá tài s n của 100 TNC hàng đầu thế giới là hơn 8.000 tỉ USD [2, tr.17]. Trong khi đó, tổng GDP thế giới năm 2005 là gần 44.500 tỉ USD [4]. (17) Năm 2003, số lượng lao động của 100 TNC hàng đầu thế giới là hơn 14,6 triệu [2, tr.17]. (18) Nếu xếp h ng so sánh giữa GDP của các quốc gia năm 2005 với tổng trị giá tài s n của TNC năm 2003, các TNC sẽ chiếm vị trí 8,9,10 trên Canada (11) và Tây ban nha (12). Các TNC cũng chiếm vị trí từ 13 đến 21 trên Brazil (22), chiếm vị trí 23 trên Hàn Quốc (24), chiếm vị trí 25 và 26 trên India (27), chiếm vị trí 28 trên Mexico (29), chiếm vị trí 30 trên Nga (31), chiếm vị trí 32 trên Australia (33), chiếm vị trí từ 34 đến 39 trên Hà Lan (40), chiếm vị trí từ 41 đến 64 trên Bỉ (65)… Như vậy, trong 65 thực thể kinh tế lớn nh t thế giới, TNC chiếm tới 48, còn quốc gia chỉ là 17 [4, 2, tr.273] Hoàng Khắc Nam / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 157-167 luật pháp nước sở t i thì khuyến khích, luật pháp quốc tế thì còn thiếu và phụ thuộc nhiều vào các nước phát triển vốn l i là chính quốc nên càng t o điều kiện cho sự tự trị của TNC. Cơ sở tài chính, nguồn nhân lực và những thẩm quyền như vậy đem l i cho các TNC kh năng độc lập trong quyết định và tự chủ trong ho t động kinh doanh. TNC tự quyết định thị trường, mặt hàng, đối tác, tổ chức, nhân lực, chính sách và biện pháp kinh doanh của nó ở b t kỳ nước nào mà không chịu sự áp chế của ai, miễn là phù hợp với luật pháp. Sự độc lập và tự chủ của TNC còn được thể hiện qua kh năng tác động lên quốc gia và can thiệp vào một số khu vực thuộc thẩm quyền quốc gia. Hiện nay, cho dù vẫn ph i chịu sự điều chỉnh nh t định của quốc gia, năng lực này của TNC vẫn đang được củng cố nhờ xu hướng tự do hoá thương m i, sự chào đón của các quốc gia nhận đầu tư, sự phát triển năng lực của b n thân các TNC và c xu hướng tăng cường hợp tác giữa chúng. Thứ tư, xét trên tiêu chí nh hưởng trong QHQT, TNC có được vị trí khá lớn trong QHQT không chỉ nhờ thực lực to lớn và kh năng kiến t o các quan hệ xuyên quốc gia. nh hưởng này còn được quy định bởi nhu cầu phát triển ngày càng tăng của mọi quốc gia trên thế giới. Nhu cầu phát triển này đã đem l i vị thế quan trọng cho TNC trong chính sách đối ngo i của các quốc gia. Hơn nữa, các TNC chủ yếu xu t phát từ các trung tâm chính trị và kinh tế lớn của thế giới như Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật B n (xem thêm chú thích 4). Nhờ sự hậu thuẫn của các thế lực này, nh hưởng kinh tế và tiếng nói chính trị của TNC trong QHQT được tăng lên đáng kể. Đáng chú ý, sau Chiến tranh L nh, nh hưởng của TNC trong QHQT có chiều hướng tăng lên. Nếu sự nổi lên của yếu tố kinh tế 165 trong QHQT đem l i vị thế quốc tế cao hơn cho TNC, thì xu thế thống nh t của thị trường thế giới đem l i nh hưởng toàn cầu cho chúng. Trong khi đó, do kh năng chi phối chính trị của kinh tế ngày một lớn nên kh năng tác động tới quốc gia và QHQT của TNC cũng r t đáng kể. Nhìn chung, TNC vẫn có kh năng tác động lên quốc gia, kể c chính quốc lẫn nước sở t i, buộc chúng thay đổi hay điều chỉnh hành vi đối nội và đối ngo i. 4. Kết luận Như vậy, với việc đáp ứng đủ bốn tiêu chí ở trên, TNC có kh năng đóng vai trò của một chủ thể QHQT. Chủ thể này đang tác động ngày một nhiều tới nền kinh tế chính trị quốc tế. Do có tính độc lập tương đối với quốc gia, TNC có thể được coi là chủ thể phi quốc gia. Tuy nhiên, trong nghiên cứu QHQT, quan niệm về vai trò chủ thể QHQT của TNC khá khác nhau. Những người theo Chủ nghĩa Hiện thực (Realism) vẫn tiếp tục coi quốc gia như chủ thể QHQT cơ b n. Họ hoặc phớt lờ, hoặc chỉ coi TNC như công cụ thực hiện lợi ích quốc gia. Trong khi đó, Chủ nghĩa Tự do (Liberalism), đặc biệt xu hướng lý luận của Chủ nghĩa Đa nguyên (Pluralism) và Chủ nghĩa Xuyên quốc gia (Transnationalism) l i dựa vào TNC như một cơ sở thực tiễn và lý luận quan trọng. C hai đều coi sự phát triển và vai trò ngày càng tăng của TNC trong QHQT để chứng minh rằng quốc gia không ph i là chủ thể duy nh t, rằng TNC chính là sự nổi lên của một lo i hình chủ thể QHQT mới - chủ thể phi quốc gia. Chủ nghĩa Xuyên quốc gia còn đi xa hơn khi cho rằng TNC đang làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa quốc gia và nhân dân, từ đó góp phần làm 166 Hoàng Khắc Nam / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 157-167 thay đổi QHQT và thế giới. Còn Chủ nghĩa Kiến t o (Constructivism) tuy không đề cập trực tiếp đến tư cách chủ thể QHQT của TNC nhưng cũng cho th y có sự đánh giá cao đối với vai trò của lực lượng này. Chủ nghĩa Kiến t o cho rằng hành vi của quốc gia được định hình bởi niềm tin của giới tinh hoa (elite) mà rõ ràng giới kinh doanh TNC là một phần trong số đó. B t luận quan niệm thế nào, tác động của TNC là đáng kể trong QHQT. Và đó là tác động có tính hai mặt. Thông qua quá trình ho t động và m ng lưới kinh doanh quốc tế của mình, các TNC góp phần mở rộng QHQT, phát triển quan hệ kinh tế quốc tế, làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau, thúc đẩy toàn cầu hoá, hình thành luật lệ trong QHQT, chuyển t i các giá trị xuyên biên giới và củng cố hệ thống quốc tế. Các đóng góp tích cực nh t của TNC là phát triển kinh tế thế giới, t o điều kiện cho hợp tác và hội nhập quốc tế, thúc đẩy xu hướng thống nh t của thế giới. Ngược l i, TNC cũng gây ra những tác động tiêu cực đối với QHQT. TNC góp phần t o ra hình thức thống trị và lệ thuộc mới trong QHQT. Trong khi Chủ nghĩa Tự do không quan tâm nhiều đến tác động tiêu cực của TNC thì Chủ nghĩa Mác-Lênin l i chú trọng đến khía c nh này. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa Đế quốc - giai đoạn tột cùng của Chủ nghĩa Tư bản”, Lênin đã chỉ ra và phân tích những hậu qu to lớn do các TNC độc quyền gây ra cho quốc gia và QHQT. Một số lý luận khác như Lý thuyết về sự phụ thuộc của Raul Prebish, Lý thuyết về hệ thống thế giới của Immanuel Wallerstein cũng chỉ ra tác động tiêu cực của TNC đối với sự phân hoá thế giới. Nắm công cụ tài chính và công nghệ trong tay, các TNC đang tác động lên luật lệ kinh tế quốc tế và chi phối sự phân công lao động quốc tế mới có lợi cho chúng. Trong đó, các nước đang phát triển có nguy cơ ngày càng phụ thuộc vào các nước công nghiệp phát triển khi trở thành nơi cung c p nguyên liệu, lao động và s n phẩm sơ chế giá rẻ cũng như nơi tiêu thụ hàng hoá giá cao của các TNC. Các TNC được cho rằng đang khoét sâu thêm mâu thuẫn Bắc-Nam khi duy trì sự bóc lột các nước đang phát triển, chèn ép nền s n xu t nội địa, duy trì b t bình đẳng về cơ hội và thu nhập, trói buộc bằng nợ nần, chuyển giao công nghệ l c hậu, thủ ph m tàn phá tài nguyên và môi trường, gây ra đụng độ giá trị văn hoá Phương Tây và b n địa, tiếp tục sự can thiệp chính trị vào công việc nội bộ các nước dưới nhiều hình thức khác nhau,… Nói chung, TNC vẫn tiếp tục gây lo ng i cho các nước đang phát triển và hoàn toàn có thể t o ra những v n đề lớn trong QHQT bởi kh năng can thiệp chính trị và lũng đo n kinh tế của chúng. Vì thế, đã có những cố gắng trong QHQT nhằm ngăn chặn các kh năng này(19). Các tác động hai mặt của TNC đối với QHQT là một thực tế. Và đó cũng là cơ sở để khẳng định thêm tư cách chủ thể QHQT của TNC. (19) ________ (19) Ví dụ, Liên Hợp Quốc đã lập ra một Trung tâm về các tập đoàn xuyên quốc gia. Trung tâm này đã đề ra “Những nguyên tắc ứng xử” nhằm h n chế các hành động quá trớn của TNC. Tuy nhiên, nhiều khi các TNC đã không tuân theo nguyên tắc này mà họ thường đi tìm những tho thuận riêng với nước sở t i. Ví dụ khác là việc 5 nước thuộc nhóm Andean đã lập liên minh để tăng sức m nh cho mình trong tho thuận với các TNC. Hoàng Khắc Nam / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 157-167 Tài liệu tham khảo [1] Nguyễn Thiết Sơn (Chủ biên), Các Công ty Xuyên quốc gia: Khái niệm, đặc trưng và những biểu hiện mới, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2003. 167 [2] UNCTAD, World Investment Report 2005. [3] Conway Henderson, International Relations Conflict and Cooperation at the Turn of the 21st Century, McGraw-Hill, Boston, 1998, B n dịch của Khoa Quốc tế học, Tập 2, tr. 57. [4] IMF, World Economic Database, 9/2006. Transnational Corrporation - an international actor Hoang Khac Nam College of Social Sciences and Humanities, VNU 336 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam Beside state actors, the emergence of nonstate actor has been one of factors that have made impressive changes of international relations in the contemporary era. It is Transnational Corporations to be a nonstate actor. For understanding the role of international actor of Transnational Corporations, the article examines the their process of establishment and development from the modern period up to now. The examined process may help to find out the tendency of increasing role of Transnational Corporations in world’s international relations. The article also studies characteristics of Transnational Corporations such as personality, internationality, level of institution, relationship with state actor,… There are the factors that not only partly determine their role of international actor, but also make some features in their impacts on international political economy. Finally, the article evaluates the role of international actor of Transnational Corporations with the special type of nonstate actor. The evaluation is conducted in turn in four criteria as participation, purpose, capability and influence. The understanding the role of international actor of Transnational Corporations has significance for international studies, but also is able to be necessary for our country in the context of openness for attraction of foreign investment and international economic integration.