Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 3B (2021): 157-165
DOI:10.22144/ctu.jvn.2021.097
HIỆU QUẢ CỦA PHÂN GÀ, PHÂN TRÙN QUẾ VÀ PHÂN HÓA HỌC ĐẾN SINH
TRƯỞNG, NĂNG SUẤT VÀ CHẤT LƯỢNG TRÁI ĐẬU BẮP ĐỎ (Abelmoschus
esculentus (L.) Moench)
Tất Anh Thư1*, Lê Vĩnh Thúc1, Đặng Kiều Nhân2 và Bùi Triệu Thương1
Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ
Viện Nghiên cứu Phát triển Đồng bằng sông Cửu Long, Trường Đại học Cần Thơ
*Người chịu trách nhiệm về bài viết: Tất Anh Thư (email: tathu@ctu.edu.vn)
1
2
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 08/10/2020
Ngày nhận bài sửa: 24/11/2020
Ngày duyệt đăng: 25/06/2021
Title:
Effect of different sources of
chicken organic manure,
vermicompost and chemical
fertilizer on growth, yield
and nutrient content of okra
(Abelmoschus esculentus (L.)
Monech)
Từ khóa:
Cây đậu bắp, phân gà, phân
trùn quế và phân hóa học
Keywords:
Chemical fertilizer, chicken
organic fertilizer, okra,
vermicompost
ABSTRACT
The objective of this study is to evaluate the effects of different nutrient supplies and
fertilizer dosage on the growth, yield, and quality of Red okra309. The experiment was
carried out in a random complete block design with two factors and three replications.
Factor A is three fertilizer formulas: (1) 120 N - 60 P2O5 - 60 K2O, (2) 60 N - 30 P2O5
- 30 K2O and (3) 30 N - 30 P2O5 - 30 K2O). Factor B is the three different sources of
nutrient (1) chemical fertilizers, (2) vermicompost and (3) chicken organic manure.
Necessary amount of nitrogen is provided by the applied fertilizer source itself, and
insufficient phosphorus and potassium will be supplemented from mineral phosphorus
and potassium fertilizers (monomers). Data were collected on growth and yield
parameters including plant height (cm), plant diameter (cm), chlorophyll index, fruit
length, fruit diameter, number of fruits and yield. The results showed that different
nutritional sources have a significant effect on yield and quality of okra fruit. In
addition, application of chemical fertilizers resulted in the lowest Brix level and the
highest NO3- content. In contrast, organic fertilizers gave a high Brix level and a lower
NO3- content than chemical fertilizers. Chicken manure and chemical fertilizers gave
equal fruit diameter, number of fruits and fresh fruit yield, reaching the highest
statistically significant differences compared with worm fertilization. There is a very
strong positive correlation between yield and quality with fertilizer type and N dosage.
TÓM TẮT
Nhằm đánh giá ảnh hưởng của các nguồn cung cấp dinh dưỡng khác nhau và liều
lượng phân bón đến sự phát triển, năng suất và chất lượng trái đậu bắp đỏ Rado 309.
Thí nghiệm được bố trí theo thể thức khối hoàn toàn ngẫu nhiên, hai nhân tố, ba lần
lặp lại. Nhân tố A là ba công thức phân bón (1) 120 N – 60 P2O5 – 60 K2O, (2) 60 N
– 30 P2O5 – 30 K2O và (3) 30 N – 30 P2O5 – 30 K2O). Nhân tố B là ba nguồn cung cấp
dinh dưỡng (1) phân hóa học, (2) phân trùn quế và (3) phân gà. Lượng đạm cần thiết
được đáp ứng bởi chính nguồn phân bón, lượng lân và kali không đủ đáp ứng sẽ được
bổ sung thêm từ phân lân và phân kali (dạng phân đơn). Các chỉ tiêu theo dõi gồm
chiều cao cây (cm), đường kính cây (cm), chỉ số SPAD, chiều dài trái, đường kính trái,
số trái/cây và năng suất. Kết quả cho thấy các nguồn cung cấp dinh dưỡng khác nhau
cóảnh hưởng rõ rệt đến năng suất và chất lượng trái đậu bắp. Bón phân hóa học có
độ Brix thấp nhất và hàm lượng NO3-cao nhất. Ngược lại, bón phân hữu cơ (phân gà
và phân trùn quế) cho độ Brix cao và hàm lượng NO3- thấp hơn so với bón phân hóa
học. Phân gà và phân hóa học cho đường kính trái, số trái/cây và năng suất trái tươi
ngang bằng nhau và cao hơn so với bón phân trùn quế. Có mối tương quan thuận
giữa năng suất và chất lượng trái với loại phân và liều lượng N.
157
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 3B (2021): 157-165
học (enzyme) như amylase, lipase, cellulase và
chitinase các vi sinh vật này vẫn tiếp tục hoạt động
khi phân được bón vào đất, các vi sinh vật này trong
quá trình sống đã sản xuất ra các chất điều hòa sinh
trưởng thực vật giúp cây sinh trưởng tốt (Zucco et
al., 2015). Phân trùn quế không chỉ giúp cải thiện
dinh dưỡng trong đất mà còn giúp gia tăng sự tăng
trưởng, phát triển và năng suất của một số cây trồng
như cải xoong (Masciandaro et al., 1997), cà chua
(Arancon et al., 2003), đậu xanh (Ali and
Moghadasi, 2015) và bắp (Zaremanesh et al., 2017).
Bên cạnh phân trùn quế, phân gia cầm, phân chuồng
cũng được xem là một trong các loại phân hữu cơ có
nhiều tiềm năng và lợi ích khi sử dụng như gia tăng
năng suất và chất lượng rau (Khandaker et al.,
2017). Sử dụng phân hữu cơ thay thế phân bón hóa
học là một hướng đi mới có ý nghĩa quan trọng trong
sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Từ đó, thí nghiệm
được thực hiện nhằm xác định ảnh hưởng của phân
gà hữu cơ, phân trùn quế và phân hóa học đến sinh
trưởng, năng suất và chất lượng trái đậu bắp, xác
định lượng loại phân và liều lượng phân hữu phù
hợp với cây đậu bắp đỏ, giúp cây phát triển tốt cho
chất lượng trái và năng suất cao hoặc ngang bằng
phân bón hóa học.
1. GIỚI THIỆU
Cây đậu bắp xanh (green okra) và đậu bắp đỏ
(Red Burgundy Okra) thuộc họ Malvaceae được
xem là loại rau ăn trái có giá trị kinh tế cao được
nhiều trồng ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới
(Andras et al., 2005; Oyelade et al., 2003). Cây sinh
trưởng phát triển mạnh, ưa nắng, kháng bệnh tốt,
trái màu đỏ đậm. Năng suất cao hơn gấp 2-3 lần đậu
bắp xanh (Phillip et al., 2019). Cây có khả năng
chống chịu với điều kiện bất lợi của môi trường
(Gunawardhana et al., 2011). Tại các nước trên thế
giới, đậu bắp đỏ còn được xem như nguồn thực
phẩm chức năng tiềm năng (Irshad et al., 2018; Gul
et al., 2015). Tại Việt Nam, cây đậu bắp đỏ là giống
cây trồng mới nhu do có thể đáp ứng được nhu cầu
thẩm mỹ dùng để trang trí, trồng làm cảnh. Bên
cạnh đó, trong trái đậu bắp đỏ còn chứa nhiều
carotenoid, anthocyanin, polyphenol, bioflavonoid,
ellagic acid,... Các dưỡng chất này đã được chứng
minh có ích trong việc ngăn ngừa bệnh ung thư, các
bệnh mãn tính (thoái hóa dây thần kinh, bệnh tim
mạch) và tăng cường hệ thống miễn dịch (Polturak
et al., 2017; Irshad et al., 2018), cùng với đậu bắp
xanh, đậu bắp đỏ đang được khuyến khích đưa vào
thực đơn hàng ngày.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Sử dụng phân bón hóa học với liều lượng cao
chủ yếu là phân đạm là một trong các nguyên nhân
làm suy giảm độ phì nhiêu đất, ô nhiễm môi trường,
đồng thời còn ảnh hưởng đến phẩm chất, chất lượng
nông sản, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người do
tích lũy nitrate, đặc biệt là cây đậu bắp có thời gian
canh tác ngắn và là thực phẩm chính sử dụng hàng
ngày (Mahajan et al., 2008). Theo Li et al. (2015),
lạm dụng phân bón hóa học không chỉ gây ra hiệu
quả sử dụng phân bón thấp, mất cân đối dinh dưỡng
mà còn dẫn đến suy thoái môi trường và mất đa dạng
sinh học. Nhiều nghiên cứu cho thấy phân trùn quế
có chứa các nhóm sinh vật có hoạt tính cao như vi
khuẩn, hệ vi khuẩn cố định đạm tự do, vi khuẩn phân
giải lân, phân giải cellulose và các chất xúc tác sinh
Giống đậu bắp sử dụng trong thí nghiệm là giống
đậu bắp đỏ Rado 309 (Red Burgundy; Red Okra), là
giống mới du nhập vào Việt Nam. Túi PE hai lớp
trắng đen, có đường kính 40 cm và chiều cao 40 cm
và thân túi có đục lỗ để thoát nước được sử dụng
thay chậu trồng cây thông thường. Phân hóa học sử
dụng gồm urea (46%N), super lân (16% P2O5) và
KCl (60% K2O). Phân hữu cơ sử dụng trong thí
nghiệm là phân trùn quế và phân gà dạng viên.
Lượng dinh dưỡng trong phân hữu cơ được trình bày
trong Bảng 1.
158
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 3B (2021): 157-165
Bảng 1. Thành phần hóa học của phân gà dạng viên và phân trùn quế dùng trong thí nghiệm
Phân hữu cơ
Trùn Quế
Phân Gà
pHH2O (1:2,5)
6,51
6,45
Chất hữu cơ
% CHC
52,03
72,00
Đạm tổng số
%N
1,88
3,50
P hữu dụng
% P2O5
1,05
2,50
Kali hữu dụng
% K2O
0,29
2,50
CaO
%
1,18
3,08
MgO
%
0,27
1,20
N hữu dụng (NH4+-N và NO3--N)
mg/kg
1.080
7.081
N hữu cơ
%
1,77
2,79
N labile
(mgN/kg)
590
1.939
Tỷ số C:N
16,05
11,93
Đất thí nghiệm được thu trên nền đất phù sa bạc
(0 - 20 cm). Đất sau khi thu được để khô tự nhiên,
màu luân canh lúa – màu tại ấp Tích Thiện, xã Thiện
băm nhỏ khoảng 2 cm, trộn đều cho vào túi PE với
Mỹ, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long thuộc nhóm đất
khối lượng 8 kg/túi. Thành phần lý - hóa học của
Gleyic Fluvisol (FAO). Mẫu đất được thu ở tầng mặt
mẫu đất thí nghiệm được trình bày trong Bảng 2.
Bảng 2. Đặc tính đất thí nghiệm thu từ đất phù sa bạc màu luân canh lúa – màu tại ấp Tích Thiện, xã
Thiện Mỹ, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long
Chỉ tiêu đánh giá
pHH2O
(1:2,5)
Đơn vị
EC(1:2,5)
mS/cm
CHC
%
CEC
meq/100g đất
Nts
%
0,64
4,62
12,80
0,17
5,63
Pts
%P2O5
Dung trọng
g/cm3
Cát
% Cấp hạt
Thịt
Sét
0,15
1,26
1,36
53,54 45,10
quế
và
(3)
phân
gà.
Lượng
phân
trùn
quế và phân gà
2.2. Phương pháp nghiên cứu
được tính toán dựa trên hàm lượng N có trong phân
Thí nghiệm thực hiện từ 8/2019 đến 11/2019
(Bảng 1) và lượng lân và kali sẽ được bổ sung thêm
được và được bố trí theo kiểu khối hoàn toàn ngẫu
từ phân bón hóa học. Phân bón được chia thành 5
nhiên, hai nhân tố, ba lần lặp lại, mỗi lặp lại có 3
lần bón (01 lần bón lót và 04 lần bón thúc). Bót lót
chậu (1 cây/chậu). Nhân tố chính (FA) là ba mức độ
toàn bộ lượng phân hữu cơ và super lân. Phân urea
phân bón, lượng phân bón tương ứng đạm (N), lân
và kali clorua được dùng để bón thúc. Thời điểm 10
(P2O5) và kali (K2O) như sau: (1) 120 – 60 – 60, (2)
ngày sau khi trồng (NSKT) và 20 NSKT bón 1/6
60 – 30 – 30, và (3) 30 – 30 – 30. Nhân tố phụ (FB)
lượng N và 1/6 lượng kali. Thời điểm 30NSKT và
là ba loại phân bón (1) phân hóa học, (2) phân trùn
40 NSKT bón 2/6 lượng N và 2/6 lượng kali.
Bảng 3. Lượng phân hữu cơ cần cung cấp trong thí nghiệm
Nghiệm thức
Loại phân bón
NPK hóa học
Phân gà
Phân trùn quế
Urea (46% N)
Phân gà (3,5% N)
Phân trùn quế (1,88% N)
Lượng phân bón sử dụng cho
1ha
260,9 kg/ha
3,43 tấn
6,38 tấn/ha
2.3. Thu thập các chỉ tiêu nông học, năng
suất và đánh giá chất lượng trái đậu bắp
Các thông số liên quan đến sự sinh trưởng của
cây được đánh giá: chiều cao cây (cm), dường kính
gốc (cm), chỉ số diệp lục (SPAD) được xác định tại
bốn thời điểm 15 NSKT, 30 NSKT, 55 NSKT và 80
NSKT.Các thông số liên quan đến năng suất: chiều
dài trái (cm) và đường kính (cm), số trái/cây, năng
suất/cây (g/cây).Các thuộc tính sau thu hoạch (chất
Lượng N cung cấp cho
1ha
120 kg
120 kg
120 kg
lượng trái) được đánh giá là: % độ brix, hàm lượng
nitrate (mg/kg trái tươi).
2.4. Phương pháp phân tích mẫu đất và mẫu cây
2.4.1. Phương pháp phân tích mẫu đất và mẫu
phân bón hữu cơ
Các chỉ tiêu phân tích mẫu đất được tuân thủ
theo đúng phương pháp phân tích chuẩn phổ biến ở
tất cả các phòng phân tích đất (Houba et al., 1998)
cụ thể như sau: pH đất và EC đất (mS/cm) được trích
bằng nước cất (1:2,5), sau đó được đo bằng pH kế
159
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 3B (2021): 157-165
rộng trái được xác định tại thời điểm thu hoạch.
và EC kế. Chất hữu cơ trong đất (%C) được xác định
Trọng lượng trái (g): cân từng trái riêng lẻ của mỗi
bằng phương pháp của Walkley Black (1934). Hàm
lặp lại sau mỗi lần thu mẫu. Năng suất trái (g/chậu),
lượng các cation (kali, canxi và magiê) được ly trích
số trái/cây: tổng trọng lượng các trái được cân trong
bằng dung dịch BaCl2 0,1M không đệm, dung dịch
các đợt thu mẫu. Trái được thu mỗi ngày 1 lần. Các
sau ly trích được đo trên máy hấp thu nguyên tử. Lân
trái được thu là trái đủ non phù hợp cho việc tiêu
dễ tiêu (theo phương pháp Bray II). Đạm hữu dụng
(ammonium và nitrate) được ly trích bằng KCl 2M
thụ.
tỷ lệ 1:10 (w/v), xác định theo phương pháp so màu
2.5. Phân tích thống kê
ở bước sóng 650nm (ammonium) và 540nm
Các số liệu được tổng hợp, tính toán bằng phần
(nitrate). Đạm hữu cơ (N hữu cơ) là đạm số (Nts) trừ
mềm Excel 2013 và được kiểm định ANOVA bằng
đi đạm ammonium (NH4-N). Hàm lượng đạm hữu
phần mềm thống kê Minitab 16.0 và sử dụng phép
cơ dễ phân hủy (N labile) được phân tích theo
thử Duncan mức ý nghĩa 1% và 5% để đánh giá mức
phương pháp Gianello and Bremner (1986). Dung
độ
khác biệt ý nghĩa.
trọng đất được xác định bằng ống trụ kim loại (Ring)
ngoài đồng ở trạng thái tự nhiên sau đó sấy khô kiệt
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
để tính trọng lượng. Thành phần cơ giới của đất xác
3.1. Ảnh hưởng của lượng và loại phân bón
định theo phương pháp Robinson.
đến sinh trưởng của đậu bắp đỏ
2.4.2. Phương pháp đánh giá các chỉ tiêu nông
Chiều cao cây: Kết quả từ thí nghiệm cho thấy
học và năng suất
chiều cao cây đậu bắp không bị ảnh hưởng bởi liều
Chiều cao cây (cm): dữ liệu liên quan đến chiều
lượng phân bón khác nhau trong giai đoạn 7 - 80
cao cây được ghi nhận bằng thước cây ở bốn giai
NSKT
nhưng bị ảnh hưởng bởi loại phân lúc 80
đoạn sinh của cây, bằng cách đo từ bề mặt đất đến
NSKT (Bảng 3). Chiều cao cây có bón phân trùn quế
đỉnh sinh trưởng thân chính của cây đậu bắp. Đường
khác biệt không ý nghĩa qua phân tích thống kê so
kính thân (cm) được đo tại vị trí lá đầu tiên tính từ
với bón phân hóa học và phân gà qua các thời điểm
mặt đất, đo bằng thước kẹp chia vạch. Chỉ số diệp
khảo sát. Liều lượng NPK không làm tăng chiều cao
lục tố (chlorophyll content index) được đo bằng máy
cây. Loại phân bón có ảnh hưởng đến chiều cao cây
SPAD, đo lá thứ 3 tính từ trên xuống. Độ Brix (%):
tại thời điểm 80 NSKT. Kết quả phân tích tương tác
ghi nhận từ mỗi đợt thu mẫu bằng máy đo khúc xạ
cho thấy có mối tương tác giữa liều lượng phân bón
kế (Hand Refractometer). Dịch trích của trái đậu bắp
và
loại phân bón ở tất cả các thời điểm quan sát.
được trộn kỹ và giọt nước ép lấy từ dịch trích được
Ngoại
trừ giai đoạn 7 NSKT. Theo IAR (1985)
đặt trên phiến Refractometer. Brix được quan sát
chiều
cao
cây đậu bắp do yếu tố di truyền quyết
thông qua kết quả hiển thị trên khúc xạ kế. Hàm
định.
Theo
Ajari et al. (2003) và Aniefiok (2013),
lượng nitrate trong trái đậu bắp tươi được phân tích
trong canh tác đậu bắp, phân hữu cơ đặc biệt là phân
theo phương pháp so màu ở bước sóng 410 nm với
gia cầm (gà, vịt) giúp gia tăng chiều cao cây trồng
thuốc thử axit phenoldisulfonic trong môi trường
khi so sánh với các nguồn phân khác.
kiềm theo TCVN 8742:2011. Chiều dài trái và chiều
Bảng 3. Ảnh hưởng của loại phân bón và liều lượng phân N-P2O5-K2O đến chiều cao cây đậu bắp đỏ
theo thời gian sinh trưởng
Nhân tố
(A) Lượng phân
(B) Loại phân
7
8,94
10,2
8,83
9,35
9,81
8,88
ns
ns
ns
16,4
N120P60K60
N60P30K30
N30P30K30
Phân hóa học
Phân trùn quế
Phân gà
F (A)
F (B)
F (A x B)
CV (%)
Ngày sau khi trồng
15
30
18,2
53,0
20,3
56,3
18,1
51,2
20,0
51,2
19,5
57,2
17,1
52,7
ns
ns
ns
ns
*
*
15,3
14,3
55
98,6
106,6
95,6
100,1
100,2
100,5
ns
ns
*
16,2
80
135,8
127,4
124,3
132,3ab
114,8b
138,4a
ns
*
*
13,9
Ghi chú: trong cùng một cột tương ứng với mỗi nhân tố (A hoặc B), giá trị trung bình theo sau có chữ cái theo sau giống
nhau thì không khác biệt ý nghĩa thống kê, các chữ theo sau có chữ cái khác nhau (a, b, c) thì khác biệt ở mức ý nghĩa
5% (*) với kiểm định Duncan, ns: khác biệt không ý nghĩa thống kê.
160
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 3B (2021): 157-165
bón có ảnh hưởng rõ rệt đến đường kính gốc thân.
Đường kính thân: Kết quả thu thập, đánh giá
Bón phân gà hữu cơ giúp đường kính cây đạt giá trị
đường kính thân cây đậu bắp (Bảng 4) cho liều
lớn
(1,21 cm - 1,87 cm) khác biệt ý nghĩa thống kê
lượng phân bón chỉ ảnh hưởng đến đường kính gốc
(p
<0,05)
so với bón phân hóa học (1,26 cm thân cây đậu bắp ở giai đoạn đầu (15 NSKT). Đường
1,57cm)
và
phân trùn quế (1,01 cm - 1,18cm). Kết
kính gốc lớn nhất (0,88 cm) ở liều bón N120P60K60,
quả
phân
tích
tương tác (liều lượng phân x loại phân)
kế đến bón N60P30K30 (0,75 cm) và thấp nhất (0,66
cho
thấy
đường
kính cây đậu bắp có ảnh hưởng tác
cm) ở liều bón N30P30K30.Loại phân bón không ảnh
tác với liều lượng phân và loại phân ở mức ý nghĩa
hưởng đến đường kính gốc thân cây đậu bắp ở thời
5%.
điểm 15 NSKT, giai đoạn từ 30 - 80 NSKT loại phân
Bảng 4. Ảnh hưởng của loại phân bón và liều lượng phân N - P2O5 - K2O đến đường kính gốc thân cây
đậu bắp theo thời gian sinh trưởng (ngày sau khi trồng)
Nhân tố
N120P60K60
(A) Liều lượng
N60P30K30
phân
N30P30K30
Phân hóa học
(B) Loại phân
Phân trùn quế
bón
Phân gà
F (A)
F (B)
F (A x B)
CV (%)
15
0,88a
0,75b
0,66c
0,76
0,77
0,69
*
ns
*
19,3
Ngày sau khi trồng
30
1,26
1,19
1,05
1,26a
1,01b
1,21ab
ns
*
*
21,3
55
1,51
1,48
1,47
1,56b
1,18c
1,84a
ns
*
*
19,5
80
1,55
1,49
1,49
1,57b
1,18c
1,87a
ns
*
*
20,8
Ghi chú: trong cùng một cột tương ứng với mỗi nhân tố (A hoặc B), giá trị trung bình theo sau có chữ cái theo sau
giống nhau thì không khác biệt ý nghĩa thống kê, các chữ theo sau có chữ cái khác nhau (a, b, c) thì khác biệt ở mức ý
nghĩa 5% (*) với kiểm định Duncan, ns: khác biệt không ý nghĩa thống kê.
phân trùn quế. Trong canh tác đậu bắp có thể sử
dụng phân gà thay thế phân hóa học. Bón phân gà
hay phân hóa học giúp chiều cao cây, đường kính
gốc thân và chỉ số SPAD tốt hơn so với bón phân
trùn quế. Điều này có thể do hàm lượng hữu dụng
có trong phân gà và hóa học cao hơn phân trùn quế.
Giữa phân gà hữu cơ và phân trùn quế, phân gà có
N hữu cơ dễ phân hủy cao, tỷ số C/N thấp (C/N =
11,93) phù hợp cho sự khoáng hóa N (Bảng 1). Theo
Groot and Houba (1995) có thể dựa vào thành phần
N hữu cơ dễ phân hủy để dự đoán khả năng cung
cấp N của đất do N hữu cơ dễ phân hủy có tương
quan chặt với sự khoáng hóa N trong đất.
Kết quả nghiên cứu của Makindae and Ayoola
(2012) cũng có ghi nhận tương tự. Phân gà có tác
dụng giống như phân bón chậm tan cung cấp dinh
dưỡng từ từ đáp ứng đủ nguồn dinh dưỡng cây trồng
trong suốt quá trình sinh trưởng phát triển. Ngoài N,
trong phân gà còn chứa các chất dinh dưỡng thiết
yếu cần cho cây như Mg, Ca giúp cây quang hợp tốt
(chỉ số SPAD cao) là tiền đề giúp gia tăng năng suất,
gia tăng độ ngọt sản phẩmTheo Shin et al. (1998),
hoạt động quang hợp tăng ngoài việc giúp năng suất
gia tăng còn giúp hàm lượng đường trong trái cây
tăng. Sanwal et al. (2007) kết luận chất diệp lục tố
là một phân tử sinh học cực kỳ quan trọng, rất quan
Chỉ số diệp lục tố (SPAD): Chỉ số diệp lục tố là
một hằng số biểu thị cho tình trạng dinh dưỡng đạm
của lá và hàm lượng chlorophyll trong lá quyết định
rất lớn đến cường độ quang hợp của lá. Kết quả trình
bày tại Bảng 5 cho thấy chỉ số diệp lục tố (SPAD)
trong lá đậu bắp đỏ không bị ảnh hưởng bởi liều
lượng phân bón tại tất cả các thời điểm theo dõi.
Ngược lại, nguồn cung cấp dinh dưỡng có ảnh
hưởng rõ rệt đến chỉ số SPAD. Tại các thời điểm
theo dõi là 15 NSKT, 30 NSKT, 55 NSKT. Chỉ số
diệp lục tố đạt cao nhất ở nghiệm thức bón phân gà,
thấp nhất ở nghiệm thức bón phân trùn quế. Giữa
bón phân gà và phân hóa học không có sự khác biệt
về chỉ số SPAD. Kết quả thí nghiệm đã cho thấy
phân hữu cơ gà đã cung cấp nguồn dinh dưỡng cần
cho cây trồng lâu hơn và bền hơn phân hóa và phân
trùn quế thể hiện quả kết quả theo dõi chỉ số SPAD
tại thời điểm 80 NSKT chỉ số SPAD cao nhất khi
bón phân gà (SPAD = 26,4), kế đến phân bón hóa
học (SPAD = 20,7) và phân bón trùn quế có chỉ số
diệp lục thấp nhất (SPAD =14,6), khác biệt có ý
nghĩa thống kê. Không tìm thấy mối tương tác giữa
liều lượng phân và loại phân bón đến sự thay đổi chỉ
số SPAD.
Thông qua kết quả nghiên cứu, phân bón phân
hóa học và phân gà giúp cây tăng trưởng tốt hơn
161
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 3B (2021): 157-165
diệp lục tố có tương quan thuận với độ xanh của lá
và hàm lượng N trong lá. Kết quả phân tích tương
tác cho thấy liều lượng phân bón và nguồn cung cấp
dinh dưỡng khác nhau không có ảnh hưởng tương
tác đến chỉ số diệp lục tố của lá.
trọng trong quá trình quang hợp, cho phép cây trồng
hấp thụ năng lượng từ ánh sáng. Việc tăng cường
bón phân hữu cơ có chứa lượng magie (Mg) cao có
thể giúp tổng hợp chất diệp lục, do đó làm tăng tốc
độ quang hợp. Theo Shrestha et al. (2012), chỉ số
Bảng 5. Ảnh hưởng của loại phân bón và liều lượng phân N-P2O5-K2O đến sự thay đổi chỉ số diệp lục
tố (SPAD) trong lá theo thời gian sinh trưởng của cây đậu bắp đỏ
Nhân tố
N120P60K60
(A) Liều lượng
N60P30K30
phân
N30P30K30
Phân hóa học
(B) Loại phân
Phân trùn quế
bón
Phân gà
F (A)
F (B)
F (A x B)
CV (%)
15
15,1
14,4
14,0
14,1ab
13,4b
16,1a
ns
*
ns
15,8
Ngày sau khi trồng
30
22,7
21,2
19,1
20,1a
14,1b
28,2a
ns
*
ns
31,7
55
22,2
20,1
19,5
21,5a
15,1b
24,5a
ns
*
ns
26,2
80
21,7
21,4
19,3
20,7b
14,6c
26,4a
ns
*
ns
26,4
Ghi chú: trong cùng một cột tương ứng với mỗi nhân tố (A hoặc B), giá trị trung bình theo sau có chữ cái theo sau giống
nhau thì không khác biệt ý nghĩa thống kê, các chữ theo sau có chữ cái khác nhau (a, b, c) thì khác biệt ở mức ý nghĩa
5% (*) với kiểm định Duncan, ns: khác biệt không ý nghĩa thống kê.
3.2. Ảnh hưởng của lượng và loại phân bón
đến chiều dài trái, đường kính trái và
năng suất trái đậu bắp đỏ
thêm vào đất, quần thể vi sinh vật sẽ cạnh tranh với
cây trồng để lấy N trong đất, lúc này xảy ra hiện
tượng cố định N/ bất động N (Amlinger et al., 2003),
cây không hấp thu được đủ N để phát triển. Ngược
lại, tỷ số C/N của phân gà thấp, khả năng phóng
thích dinh dưỡng cao, đáp ứng được nhu cầu phát
triển của cây, giúp cây quang hợp tốt, thúc đẩy sự
phát triển của bộ rễ, dẫn đến gia tăng đường kính
trái.
Kết quả trình bày Bảng 6 cho thấy lượng phân
bón không ảnh hưởng đến chiều dài trái và đường
kính trái. Tuy nhiên, lượng phân bón có ảnh hưởng
rõ rệt đến số trái/cây và năng suất trái. Tăng lượng
phân bón (N, P, K) giúp gia tăng số trái/cây và năng
suất trái. Lượng bón N120P60K60 cho số trái/cây và
năng suất trái cao nhất N60P30K30. Số trái/cây và
năng suất trái thấp nhất ở lượng bón N30P30K30.
Bảng 6 cho thấy loại phân bón có đáng kể đến đường
kính trái, trọng lượng trái và năng suất trái. Bón
phân hóa học và phân gà làm gia tăng đường kính
trái, số trái/cây, năng suất trái. Phân trùn quế cho
đường kính trái, số trái/cây, năng suất trái thấp nhất.
Kết quả thí nghiệm cho thấy cây đậu bắp phản
ứng như nhau với việc bón phân gà hữu cơ hay phân
hóa học bởi vì thành phần năng suất (số trái/cây) và
năng suất trái (g/chậu) như nhau về mặt thống kê.
Bón phân trùn quế cho thành phần năng suất (số
trái/cây) và năng suất trái (g/chậu) thấp nhất, khác
biệt ý nghĩa thống kê so với bón phân hóa học hay
phân gà hữu cơ. Có thể sử dụng phân gà làm nguồn
dinh dưỡng cho cây đậu bắp thay thế phân bón hóa
học. Kết quả phân tích tương tác cho thấy lượng
phân và loại phân có ảnh hưởng rõ rệt đến thành
phần năng suất (số trái/cây) và năng suất ở mức ý
nghĩa 1%. Việc bón đúng liều lượng phân và loại
phân sẽ giúp gia tăng đáng kể số trái/cây và năng
suất đậu bắp.
Điều này có nghĩa, tăng lượng phân bón giúp
tăng năng suất. Phân trùn quế có đường kính trái số
trái/cây và năng suất trái thấp nhất. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến phân trùn quế kém hiệu quả
hơn phân gà là do phân trùn quế có tỷ số C/N cao
(C/N = 16,05), N - hữu cơ dễ phân hủy trong phân
thấp dẫn đến khả năng cung cấp dinh dưỡng cho cây
kém (Bảng 1). Thực tế, đã có nhiều nghiên cứu ghi
nhận khi một loại phân hữu cơ có tỷ số C/N cao được
162
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 3B (2021): 157-165
Bảng 6. Ảnh hưởng của loại phân bón và liều lượng phân N-P2O5-K2O đến chiều dài trái, đường kính
trái và năng suất trái đậu bắp đỏ
Nhân tố
N120P60K60
(A) Liều lượng
N60P30K30
phân
N30P30K30
Phân hóa học
(B) Loại phân
Phân trùn quế
bón
Phân gà
F (A)
F (B)
F (A x B)
CV (%)
Dài trái Đường kính trái
(cm)
(cm)
10,0
1,65
11,3
1,63
11,7
1,58
11,7
1,67a
10,1
1,55b
11,1
1,64a
ns
ns
ns
*
ns
ns
15,5
5,55
Số trái/cây
(trái)
16,2a
13,0ab
8,22b
13,2a
6,62b
16,8a
*
*
*
25,3
Năng suất
(g/chậu)
217a
175ab
113b
182a
97b
225a
*
*
*
23,2
Ghi chú: trong cùng một cột tương ứng với mỗi nhân tố (A hoặc B), giá trị trung bình theo sau có chữ cái theo sau giống
nhau thì không khác biệt ý nghĩa thống kê, các chữ theo sau có chữ cái khác nhau (a, b, c) thì khác biệt ở mức ý nghĩa
5% (*) với kiểm định Duncan, ns: khác biệt không ý nghĩa thống kê.
3.3. Ảnh hưởng của lượng phân và loại phân
đến chỉ số độ Brix và hàm lượng nitrate
trong trái đậu bắp tươi
(18,4 mg/kg). Nồng độ nitrate (NO3-) là một trong
những đặc tính quan trọng đánh giá chất lượng rau.
Theo quy định chung của thế giới, để được gọi là rau
sạch, rau tươi phải có lượng nitrate (NO3-) thấp vừa
phải. Kết quả phân tích cho thấy hàm lượng nitrate
trong trái đậu bắp tươi dao động trong khoảng 18,4
- 25,6 mg/kg, thấp hơn ngưỡng nitrate tối đa cho
phép trong trái đậu bắp tươi theo Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO) là 200 mg/kg trái tươi.
Kết quả đánh giá độ Brix và hàm lượng nitrate
trong trái đậu bắp tươi (Hình 1) cho thấy lượng phân
bón không ảnh hưởng đến độ Brix trái đậu bắp
nhưng có ảnh hưởng đến sự tích lũy hàm lượng
nitrate trong trái. Hàm lượng nitrate cao nhất ở mức
bón 120N (25,6mg/kg) và thấp nhất ở mức bón 30N
Hình 1. Ảnh hưởng của loại phân và liều lượng phân N-P2O5-K2O độ Brix và hàm lượng nitrate trong
trái đậu bắp đỏ
Ghi chú: Mỗi nhân tố cột có số theo sau chữ giống nhau thì không khác biệt ý nghĩa thống kê (P<0,01)
Kết quả thí nghiệm cũng cho thấy loại phân bón
có ảnh đáng kể độ Brix và sự tích lũy nitrate trong
trái đậu bắp. Bón phân hóa học có độ Brix thấp nhất
và hàm lượng NO3-cao nhất. Ngược lại, bón phân
hữu cơ (phân gà và phân trùn quế) cho độ Brix cao
và hàm lượng NO3- thấp. Kết quả phân tích tương
tác cho thấy lượng phân và loại phân có ảnh hưởng
rõ rệt đến chỉ số Brix và hàm lượng nitrate trong trái
163
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 3B (2021): 157-165
ở mức ý nghĩa 1%. Theo Ávila-Juárez et al. (2015),
độ Brix của trái là một chỉ số về chất lượng bị chi
phối bởi các yếu tố như di truyền của giống, loại
dinh dưỡng, loại đất và các yếu tố khác (EC, pH,
lượng phân bón kali, stress, v.v.). Sử dụng phân hữu
cơ làm tăng đáng kể hàm lượng acid hữu cơ (acid
malic acid, quinic acid và citric acid), đường
(fructose, glucose và tổng đường) (Shiow & ShinShan, 2002), chất rắn hòa tan và chất rắn không hòa
tan (Gutiérrez-Miceli et al., 2007) dẫn đến gia
tăng độ ngọt của trái. Theo Nguyễn Thanh Thịnh và
ctv. (2010), độ ngọt của trái sẽ gia tăng khi cây hấp
thu đủ kali. Ngược lại, trong canh tác nếu bón nhiều
đạm có thể gây ức chế sự hấp thụ đối với kali mà
việc thiếu kali sẽ làm cho trái giảm sự tích lũy các
carbohydrate hòa tan, gia tăng sự tích lũy các hợp
chất đạm hòa tan dẫn đến độ ngọt của trái giảm.
András, C. D., Simándi, B., Örsi, F., Lambrou, C.,
Missopolinou‐Tatala, D., Panayiotou, C., ... &
Doleschall, F. (2005). Supercritical carbon
dioxide extraction of okra (Hibiscus esculentus
L) seeds. Journal of the Science of Food and
Agriculture, 85(8), 1415-1419.
Aniefiok, I. A. (2013). Effects of Poultry Manure
and Plant Spacing on the Growth and Yield of
Waterleaf (Talinum fructicosum L. Juss).
Journal of Agronomy, 12(3): 146-152.
Arancon, N. Q., Edwards, C. A., Bierman, P.,
Metzger, J. D., Lee, S., & Welch, C. (2003).
Effects of vermicomposts on growth and
marketable fruits of field-grown tomatoes,
peppers and strawberries: the 7th international
symposium on earthworm ecology· Cardiff·
Wales· 2002. Pedobiologia, 47(5-6), 731-735.
Ávila-Juárez, L., Rodríguez González, A., Rodríguez
Piña, N., Guevara González, R. G., Torres
Pacheco, I., Ocampo Velázquez, R. V., &
Moustapha, B. (2015). Vermicompost leachate as
a supplement to increase tomato fruit
quality. Journal of soil science and plant
nutrition, 15(1), 46-59.
Gutiérrez-Miceli, F. A., Santiago-Borraz, J., Molina,
J. A. M., Nafate, C. C., Abud-Archila, M.,
Llaven, M. A. O., ... & Dendooven, L. (2007).
Vermicompost as a soil supplement to improve
growth, yield and fruit quality of tomato
(Lycopersicum esculentum). Bioresource
Technology, 98(15), 2781-2786.
Groot, J. J. R., & Houba, V. J. G. (1995). A
comparison of different indices for nitrogen
mineralization. Biology and Fertility of
Soils, 19(1), 1-9.
Gul, K., Singh, A. K. and Jabeen, R. (2015).
Nutraceuticals and Functional Foods: The Foods
for Future World, Critical Reviews in Food
Science and Nutrition. DOI:
10.1080/10408398.2014.903384
Gunawardhana, M. D. M., De Silva, C. S., and
Godawatta, V. N. A. (2011). Impact of
temperatureand water stress on growth and yield
of selected crops. International Conference on
Impact of Climate Change on Agriculture,
University of Ruhuna, Mapalana Kamburupitiya.
Dec 20th 2011, pp. 150-157.
IAR (1985). Annual Reports. Institute of Agric.
Research Samaru, ABU, Zaria.
Irshad, M., Debnath, B., Mitra, S., Arafat, Y., Li, M.,
Sun, Y. and Qiu, D. (2018). Accumulation of
anthocyanin in callus cultures of red pod okra
[Abelmoschus esculentus (L) Hongjiao] in
response to light and nitrogen. Plant Cell Tiss
Organ Cult. 134(1), 29-39.
Khandaker, M.M., Jusoh, N., Ralmi, N.H., and Ismail,
S. Z. (2017). The effect of different types of organic
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Liều lượng phân bón có ảnh hưởng đến kể đến
sự tăng trưởng, năng suất và chất lượng trái đậu bắp
đỏ. Tăng liều lượng NPK giúp tăng chiều cao cây,
đường kính gốc thân, chỉ số diệp lục tố (SPAD),
đường kính trái, chiều dài trái, độ Brix, số trái/cây,
năng suất trái, và hàm lượng nitrate trong trái tươi.
Loại phân bón có ảnh hưởng rõ rệt đến chiều cao
cây, đường kính gốc thân, chỉ số diệp lục tố, đường
kính trái, số trái/cây, năng suất trái tươi, độ Brix và
hàm lượng nitrate trong trái tươi. Bón phân hóa học
hay phân gà cho số trái/cây và năng suất trái cao hơn
bón phân trùn quế. Bón phân hữu cơ (phân gà, phân
trùn quế) có độ Brix cao hơn và hàm lượng lượng
NO3 thấp hơn bón phân hóa học.
Cần thí nghiệm trên đồng ruộng để đánh giá hiệu
quả kinh tế và ảnh hưởng tích lũy sau nhiều vụ của
phân trùn quế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ajari, O., Tsado, L. E. K., Oladiran, J. A. and
Salako, E. A. (2003). Plant height and fruit yield
of okra as affected by field application of
fertilizer and organic matter in Bida, Nigeria.
The Nigerian Agricultural Journal, 34, 74 – 80.
Ali Mohammadi, A. and Moghadasi, M.S. (2015).
The interaction effect of nitrogen and
vermicompost on chickpea yield and yield
components in Hamedan region. Biological
Forum – An International Journal, 7(2), 812-816.
Amlinger, F., Götz, B., Dreher, P., Geszti, J., &
Weissteiner, C. (2003). Nitrogen in biowaste and
yard waste compost: dynamics of mobilisation
and availability - A review. European Journal of
Soil Biology, 39(3), 107-116.
164
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 3B (2021): 157-165
fertilizers on growth and yield of Abelmoschus
esculentus (L.) Moench (okra). Bulgarian Journal
of Agriculture Science, 23(1), 119–125.
Li, J., Cooper, J. M., Lin, Z. A., Li, Y., Yang, X.,
and Zhao, B. (2015). Soil microbial community
structure and function are significantly affected
by long-term organic and mineral fertilization
regimes in the North China Plain. Applied Soil
Ecology, 96, 75-87.
Mahajan, A., Bhagat, R.M., and Gupta, R.D. (2008).
Integrated Nutrient Management in sustainable
Rice-Wheat cropping system for Food security in
India. SAARC J. Agri. 6(2), 29-32.
Masciandaro, G., Ceccanti, B., and Gracia C. (1997).
Soil agro-ecological management: fertigation and
vermicompost treatments. Bioresour Technol.,
59,199–206.
Nguyễn Thanh Thịnh, Nguyễn An Đệ và Bùi Xuân
Khôi. (2010). Ảnh hưởng mức phân bón N, P, K
đến năng suất cây mít Nghệ trên đất xám tại
miền Đông Nam Bộ. Kết quả nghiên cứu khoa
học công nghệ rau quả 2007-2008. Nxb. Nông
Nghiệp, trang 252-262.
Phillip, H., Eric, O., Weerasooriya, A. and Ampim, P.
(2019). Economic potential of okra cultivation for
limited resource farmers. Pursue: Undergraduate
Research Journal, 2(1), Article 2.
Polturak, G., Grossman, N., Vela-Corcia, D., Dong,
Y., Nudel, A., Pliner, M., ... & Aharoni, A.
(2017). Engineered gray mold resistance,
antioxidant capacity, and pigmentation in
betalain-producing crops and
ornamentals. Proceedings of the National
Academy of Sciences, 114(34), 9062-9067.
Sanwal, S. K., Lakminarayana, K., Yadav, R. K., Rai,
N., Yadav, D. S. and Mousumi, B. (2007). Effect
of Organic Manures on Soil Fertility, growth,
Physiology, Yield and Quality of Turmeric. Indian
Journal of Horticulture, 64(4), 444 - 449.
Shin, Y.S., Do, H.W., Bae, S.G., Choi, S.K., and
Choi, B.S. (1998). Effect of CO2 enrichment on
quality and yield of oriental melon (Cucumis
melo L var. makuwa Mak) in greenhouse. RDA J
Agro-Environ Sci; 40, 107–110.
Shiow, Y.W. and Shin - Shan L. (2002). Composts
as soil supplement enhanced plant growth and
fruit quality of strawberry. Journal of Plant
Nutrition, 25(10), 2243- 2259.
Shrestha, S., Brueck, H., and Asch, F. (2012).
Chlorophyll index, photochemical reflectance
index and chlorophyll fluorescence
measurements of rice leaves supplied with
different N levels, Journal of Photochemistry
and Photobiology B: Biology, 113, 7 - 13.
Zaremanesh, H., Nasiri, B., and Amir, A. (2017). The
effect of vermicompost biological fertilizer on corn
yield. J. Mater. Environ. Sci., 8(1), 154-159.
Zucco, M. A.; Walters, S. A., Chong, S. K., Klubek,
B. P. and Masabni, J.G. (2015). Effect of soil
type and vermicompost applications on tomato
growth. International Journal of Recycling of
Organic Waste in Agriculture, 4, 135-141.
165