VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG NAM BỘ
________________________
Bùi Thế Cường
Góp phần tìm hiểu biến đổi
xã hội ở Việt Nam hiện nay
Nhà xuất bản Khoa học xã hội
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG NAM BỘ
Bùi Thế Cường
Góp phần tìm hiểu biến đổi
xã hội ở Việt Nam hiện nay
Kết quả nghiên cứu của Đề tài KX.02.10
(2001-2005)
Nhà xuất bản Khoa học xã hội 2010
1
NHỮNG NGƯỜI THAM GIA
TRONG ĐỀ TÀI KX.02.10 (PHẦN XÃ HỘI)
1. PGS.TSKH. Bùi Quang Dũng
2. TS. Dương Chí Thiện
3. ThS. Đặng Ngọc Quang
4. PGS.TS. Đặng Nguyên Anh
5. ThS. Đặng Việt Phương
6. ThS. Đỗ Minh Khuê
7. TS. Đỗ Thiên Kính
8. ThS. Lê Hải Hà
9. ThS. Lê Mạnh Năm
10. TS. Lê Thanh Sang
11. TS. Lưu Hồng Minh
12. PGS.TS. Mai Quỳnh Nam
13. PGS.TS. Mai Văn Hai
14. ThS. Nguyễn Đức Chiện
15. TS. Nguyễn Đức Truyến
16. ThS. Nguyễn Hồng Quang
17. TS. Nguyễn Hữu Dũng
18. Nguyễn Phan Lâm
19. ThS. Phạm Liên Kết
20. PGS.TS. Phạm Văn Bích
21. Phạm Xuân Đại
22. GS.TS. Tô Duy Hợp
23. PGS.TS. Trần Hữu Quang
24. TS. Trịnh Hòa Bình
25. Trịnh Huy Hóa
26. TS. Trương Xuân Trường
27. TS. Võ Công Nguyện
28. PGS.TS. Vũ Tuấn Huy
Viện Xã hội học
Viện Xã hội học
Trung tâm dịch vụ phát triển nông thôn
Viện Khoa học xã hội Việt Nam
Viện Xã hội học
Viện Xã hội học
Viện Xã hội học
Đại học Y tế công cộng
Viện Xã hội học
Viện Phát triển bền vững Vùng Nam Bộ.
Học viện Chính trị-hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
Viện Nghiên cứu con người
Viện Xã hội học
Viện Xã hội học
Viện Xã hội học
Trung tâm Nghiên cứu và tư vấn về phát triển
Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội
Viện Xã hội học
Viện Xã hội học
Viện Xã hội học
Viện Xã hội học
Viện Xã hội học
Viện Phát triển bền vững Vùng Nam Bộ.
Viện Xã hội học
Nhà nghiên cứu tự do
Viện Xã hội học
Viện Phát triển bền vững Vùng Nam Bộ.
Viện Xã hội học
2
MỤC LỤC
CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HỘP VÀ HÌNH
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG MỘT. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
1.1. Xã hội học về công nghiệp hoá hiện đại hoá
1.2. Những quan điểm xã hội học cơ bản
1.3. Hiện đại hóa nhìn từ khái niệm phát triển
1.4. Từ lý luận đến định hướng tư tưởng và triển khai chính sách
1.5. Lý luận phát triển quốc tế: Tóm tắt và kiến nghị
CHƯƠNG HAI. KHUNG PHÂN TÍCH HIỆN THỰC XÃ HỘI VIỆT NAM
2.1. Khuôn mẫu văn hoá-xã hội
2.2. Tương tác của ba khuôn mẫu: Một khung lý thuyết để nhìn thực tế Việt Nam
2.3. Toàn cầu là xuất phát điểm
2.4. Kết hợp chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội
2.5. Bản đồ tác động xã hội
2.6. Đi tìm một diễn giải lý luận: Tóm tắt và kiến nghị
CHƯƠNG BA. ĐỘNG THÁI DÂN SỐ VÀ BIẾN ĐỔI XÃ HỘI
3.1. Kỷ nguyên dân số vàng
3.2. Di dân
3.3. Già hoá dân số
3.4. Động lực dân số: Tóm tắt và kiến nghị
CHƯƠNG BỐN. VĂN HÓA
4.1. Văn hóa nhìn từ quan điểm hiện đại hóa
4.2. Những vấn đề văn hóa hiện nay
4.3. Hiện đại hóa văn hóa: Tóm tắt và kiến nghị
CHƯƠNG NĂM. BẤT BÌNH ĐẲNG VÀ KẾT CẤU XÃ HỘI
5.1. Khái niệm
5.2. Một tóm lược về kết cấu xã hội Việt Nam
5.3. Kết cấu xã hội: Nhìn từ phân tích định lượng
5.4. Kết cấu xã hội: Một phân tích định tính
5.5. Điều chỉnh kết cấu xã hội: Tóm tắt và kiến nghị
CHƯƠNG SÁU. PHÚC LỢI XÃ HỘI
3
6.1. Khái niệm phúc lợi xã hội
6.2. Phúc lợi xã hội trong xã hội công nghiệp
6.3. Mô hình phúc lợi xã hội ở Việt Nam
6.4. Phúc lợi xã hội: Nhìn từ phân tích định lượng
6.5. Những chủ đề chính của phúc lợi xã hội hiện nay
6.6. Trở lại với lý tưởng phúc lợi toàn dân: Một kiến nghị khả thi?
CHƯƠNG BẢY. MÔ HÌNH XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ XÃ HỘI
7.1. Mô hình đã hình thành
7.2. Mười vấn đề cơ bản ảnh hưởng đến phát triển: quản lý biến đổi xã hội
7.3. Các nhân tố bất ổn định: quản lý khủng hoảng
7.4. Những giải pháp nhìn từ tiếp cận xã hội học
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
4
CHỮ VIẾT TẮT
ADB
FDI
GDI
GDP
HDI
ILO
IMF
MTV
NGO
ODA
UNDP
VLSS
VNHS
WB
WTO
Ngân hàng Phát triển châu Á
Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài
Chỉ số Phát triển Giới
Tổng Sản phẩm Quốc nội
Chỉ số Phát triển Con người
Tổ chức Lao động Quốc tế
Quỹ Tiền tệ Quốc tế
Nhạc Television
Tổ chức Phi Chính phủ
Viện trợ Phát triển Chính thức
Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc
Khảo sát Mức sống Việt Nam
Điều tra Sức khỏe Quốc gia
Ngân hàng Thế giới
Tổ chức Thương mại Thế giới
5
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Lý luận, định hướng tư tưởng và triển khai vào định hướng chính sách
Bảng 2.1. Khuôn mẫu văn hoá-xã hội
Bảng 2.2. Ba khuôn mẫu văn hoá-xã hội trong thực tế xã hội Việt Nam hiện nay
Bảng 2.3. Cấu trúc của Đổi Mới và những tác động xã hội
Bảng 3.1. Tổng tỷ suất phụ thuộc của 9 nước trong khu vực (1950-2050), %
Bảng 3.2. Năm bắt đầu và độ dài của "kỷ nguyên dân số vàng" 9 nước trong khu
vực
Bảng 3.3. Di dân nội địa theo vùng địa lý, 1994-1999
Bảng 3.4. Phân bố các loại hình di dân theo giới, 1994-1999
Bảng 3.5. Dự báo dân số người cao tuổi Việt Nam dựa trên Tổng điều tra dân số
1999, 2000-2020
Bảng 3.6. Dân số người cao tuổi Việt Nam, số liệu 2005-2006
Bảng 3.7. Học vấn, hoạt động kinh tế, hôn nhân và nơi cư trú của người cao tuổi
Việt Nam (60+) theo giới và tuổi, 1999
Bảng 3.8. Yếu tố tác động và định hướng chính sách trong kỷ nguyên dân số vàng
Bảng 3.9. Động lực di dân và định hướng chính sách
Bảng 3.10. Yếu tố tác động và định hướng chính sách người cao tuổi
Bảng 4.1. Khác biệt giữa kiểu xã hội cổ truyền và xã hội hiện đại
Bảng 4.2. Những mặt mạnh về văn hoá của xã hội/con người Việt Nam
Bảng 5.1. Chi tiêu thực tế đầu người và mức nghèo
Bảng 5.2. Tỷ trọng chi tiêu của mỗi nhóm 20% (ngũ phân vị)
Bảng 5.3. Phân bố lao động làm công, làm thuê theo 5 nhóm mức sống phân nhóm
trên cơ sở mức chi tiêu trong từng khu vực kinh tế-chính trị, 1998
Bảng 5.4. Phân bố lao động làm công, làm thuê theo khu vực kinh tế-chính trị
trong từng nhóm mức sống phân nhóm trên cơ sở mức chi tiêu, 1998
Bảng 5.5. Phân bố lao động của 5 nhóm mức sống theo kết cấu kinh tế chính trị,
1998
Bảng 5.6. Phân bố thu nhập tiền công tháng theo kết cấu kinh tế chính trị, 2002
Bảng 5.7. Phân bố thu nhập tiền công tháng theo khu vực giai tầng, 2002
Bảng 5.8. Phân bố thu nhập tiền công tháng theo phân loại nghề nghiệp của Tổng
cục Thống kê, 2002
Bảng 6.1. Sơ đồ khái niệm hóa loại hình rủi ro xã hội và cơ chế quản lý rủi ro xã hội
Bảng 6.2. Ba mô hình phúc lợi xã hội ở Việt Nam
Bảng 6.3. Tỷ lệ % người nhận thu nhập từ phúc lợi xã hội theo đô thị/nông thôn
Bảng 6.4. Tỷ lệ % người nhận thu nhập từ phúc lợi xã hội theo 5 nhóm chi tiêu
Bảng 6.5. Thu nhập từ phúc lợi xã hội theo đô thị/nông thôn
Bảng 7.1. Một sơ đồ khái niệm hoá các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển xã hội
hiện nay
6
DANH MỤC HỘP VÀ HÌNH
Hộp 2.1. Vai trò của thể chế trong cải cách: Phỏng vấn của VietnamNet với ông
Grzegorz Kolodko, nguyên Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Tài chính Ba Lan
Hình 3.1.Tỷ suất dân số phụ thuộc, Việt Nam 1950-2050
Hộp 4.1. Định hướng giá trị “sự giàu có” trong người lãnh đạo và người dân: Phỏng vấn
của VietnamNet với ông Grzegorz Kolodko, nguyên Phó Thủ tướng kiêm Bộ
trưởng Tài chính Ba Lan
Hộp 4.2. Thanh niên Việt Nam đang "tụt hậu từ A đến Z" so với thanh niên trong khu
vực và thế giới: Lo lắng được đặt ra trong Hội thảo "Hội nhập quốc tế thanh
niên" do Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức sáng
5/6/2004
Hộp 4.3. Cần và có thể tạo nên một khí thế công nghiệp hóa hiện đại hóa không?
Hộp 4.4. Nhiều cách nghĩ và cách làm, khi xem xét kỹ, hóa ra là biểu hiện của “hệ văn
hóa người Kinh”
Hộp 4.5. Văn hóa là một lối làm việc nảy sinh từ một hệ tri thức, bao gồm thế giới quan:
Hiện đại hóa có một lối làm việc chung không?
Hộp 5.1. Những “câu chuyện” mới trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: Người giàu
Hộp 5.2. Những “câu chuyện” mới trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: Người công
nhân di cư
Hộp 5.3. Những “câu chuyện” mới trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: Người
nông dân ở một làng cách Hà Nội 20 km
Hộp 6.1. Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam: Một cố gắng bền bỉ trong nhiều thập niên của
Nhà nước phúc lợi kiểu Việt Nam
Hộp 6.2. Phúc lợi doanh nghiệp ngày càng trở thành một điểm “nóng” xã hội
7
MỞ ĐẦU
Đề tài KX.02.10 “Các vấn đề xã hội và môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” thuộc Chương trình Khoa học xã hội cấp nhà nước giai đoạn 2001-2005 mã số KX.02
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa – Con đường và bước đi”.
Cuốn sách này dựa trên các kết quả về phần xã hội của Đề tài nói trên, kết hợp với một số thông
tin cập nhật.
Trong cuốn sách, trước hết tác giả thử xây dựng một vài quan điểm mang tính xã hội học để lý
giải khía cạnh xã hội quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam trên cấp độ vĩ mô. Bản
thân quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay là một vấn đề xã hội cơ bản,
bao trùm nhất. Tiếp theo, tác giả phân tích hiện trạng và những vấn đề đặt ra trong 4 chủ đề liên
quan mật thiết đến khía cạnh xã hội của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay. Đó là:
dân số, văn hóa, kết cấu xã hội, và phúc lợi xã hội. Đây là bốn lĩnh vực xã hội then chốt tạo nên
những cột trụ của quá trình hiện đại hóa một xã hội. Chúng cũng tạo nên những động lực xã hội
của quá trình này. Cuối cùng, cuốn sách đề cập đến những đặc điểm của mô hình xã hội hiện
tại, những vấn đề cơ bản ảnh hưởng đến sự phát triển hiện nay và các nhân tố bất ổn định. Trên
cơ sở đó kiến nghị giải pháp liên quan đến 3 cấp độ quản lý xã hội: quản lý chiến lược, quản lý
biến đổi xã hội và quản lý khủng hoảng.
Tác giả chân thành cảm ơn GS.TS. Đỗ Hoài Nam, Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam,
Giám đốc Chương trình KX.02 đã tạo điều kiện cho tác giả có cơ hội thực hiện Đề tài
KX.02.10, chân thành cảm ơn nhiều đồng nghiệp đã tham gia vào viết các chuyên đề nghiên
cứu của Đề tài.
Bùi Thế Cường
Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ
cuongbuithe@yahoo.com.
8
CHƯƠNG MỘT. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
Từ đầu thế kỷ XIX, khi nước Anh và phần lục địa Tây Âu, rồi khu vực Bắc Mỹ, lần lượt bước
vào quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa tư bản chủ nghĩa, thì giới lãnh đạo, giới nghiên cứu
và công luận đã luôn luôn tranh luận về bản chất và các hệ quả của quá trình xã hội to lớn đó,
một hiện tượng chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Vào thời ấy, đây được xem là vấn đề xã
hội cơ bản nhất, bao trùm nhất, nó chi phối mọi quá trình và hiện tượng xã hội khác. Sau Đại
chiến thế giới lần thứ hai, một loạt nước không thuộc phần đất Tây-Bắc Âu và Bắc Mỹ cũng
bước vào quá trình này với những hoàn cảnh và kinh nghiệm mới. Trong suốt vài thập niên ở
những nước đó, quá trình này cũng được xem là vấn đề xã hội trung tâm của quốc gia, đòi hỏi
toàn bộ thời gian và nỗ lực của giới làm chính sách cũng như học thuật.
1.1. XÃ HỘI HỌC VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ
Trên thế giới và trong lịch sử, có nhiều tên gọi cho quá trình xã hội tương tự như quá trình đang
diễn ra hiện nay ở Việt Nam. Cùng với thuật ngữ là những quan niệm và lý thuyết. Nói chung,
có ba thuật ngữ thông dụng: công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển. Ba tên gọi nói trên có
những hàm nghĩa và nội dung khác nhau, xuất hiện trong những bối cảnh lịch sử khác nhau.
Nhưng mặt khác, chúng đều ít nhiều nói đến một quá trình xã hội vĩ mô và dài hạn chung, từ
một trạng thái xã hội này đến một trạng thái xã hội khác.
Chẳng hạn, industrialism là một thuật ngữ bao hàm rộng hơn lĩnh vực công nghệ và kinh tế. Từ
điển bách khoa Anh định nghĩa hiện đại hoá là "sự chuyển biến (transformation) từ một xã hội
truyền thống, nông thôn, nông nghiệp sang một xã hội thế tục (secular), đô thị, công nghiệp. Xã
hội hiện đại là xã hội công nghiệp. Để hiện đại hoá một xã hội thì trước hết phải công nghiệp
hoá nó. Về mặt lịch sử, sự nổi lên của xã hội hiện đại gắn liền với sự nổi lên của xã hội công
nghiệp. Mọi đặc điểm liên quan đến tính hiện đại (modernity) đều gắn với những biến đổi,
trong không đầy hai thế kỷ, đưa đến kiểu xã hội công nghiệp. Điều này gợi ý rằng thuật ngữ
chủ nghĩa công nghiệp (industrialism) và xã hội công nghiệp hàm ý nhiều hơn là tính kinh tế và
công nghệ, cho dù đó là những cốt lõi. Chủ nghĩa công nghiệp là một lối sống (way of life) bao
gồm những biến đổi kinh tế, xã hội, chính trị, và văn hoá. Thông qua sự chuyển biến tổng thể
của công nghiệp hoá mà xã hội trở thành hiện đại" (Dẫn lại theo Wischermann, 2001).
Khi bước vào quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay (được xác định từ Đại
hội Đảng lần thứ VIII năm 1996), Việt Nam đã có nhiều kinh nghiệm của các nước cũng như
của chính bản thân mình. Thế giới đã biết đến những mô hình công nghiệp hóa hiện đại hóa
được gọi là cổ điển (tức là mô hình mà những nước tiên tiến đã đi trong thế kỷ XIX) như Anh,
Mỹ, Pháp, Đức; mô hình bán cổ điển như Thuỵ Điển, Nhật ở thế kỷ XX. Bản thân các nước
được gọi là phát triển cao ngày nay cũng đã có những phiên bản khác nhau và có nhiều tiến
triển nội tại. Nói chung, người ta cho rằng có hai phiên bản: phiên bản Anglo-saxon nghiêng
nhiều hơn về kinh tế thị trường tự do và phiên bản châu Âu lục địa nghiêng nhiều hơn theo đặc
tính dân chủ xã hội. Có thể xem Mỹ là một cực còn Thụy Điển là một cực đối lại, các nước
khác nằm ở khoảng đâu đó giữa hai cực điển hình này, thể hiện những sự kết hợp khác nhau
của hai mô hình điển hình đó.
Nhưng ngay cả trong một nước thì trong tiến trình lịch sử của mình cũng đi theo một con đường
ziczac. Chẳng hạn, nước Anh đã chuyển từ một hình thái chủ nghĩa tư bản tự do trong thế kỷ
XIX, để rồi phát triển rất nhiều theo hướng dân chủ xã hội trong thế kỷ XX, đặc biệt giai đoạn
9
sau 1945 đến cuối thập niên 1970. Nhưng đến thập niên 1980 lại chuyển hướng theo mô hình
tân tự do (đầu những năm 1980 ở Anh và Mỹ chứng kiến sự thống trị của chủ nghĩa Thatcher
và chủ nghĩa Reagan, còn được gọi là hai cuộc cách mạng bảo thủ).
Khu vực Đông Á và Đông Nam Á đã cống hiến cho nhân loại một kiểu công nghiệp hóa hiện
đại hóa khá thành công như ở Hàn Quốc, lãnh thổ Đài Loan, đặc khu Hồng Kông, Singapore,
Malaysia, Thái Lan. Với một vài đặc tính tương đối giống nhau, người ta gộp chung những
cách làm này trong thuật ngữ “mô hình Đông Á”.
Nhìn chung, từ thập niên 1950 các nước Mỹ Latin đi theo con đường công nghiệp hóa hiện đại
hóa kiểu Mỹ, nhưng trong nhiều năm sa lầy vào một sự phát triển sai và bế tắc, ngoại trừ sự
thành công muộn hơn ở Chi Lê trong hai thập niên phát triển 1980-1990.
Thế kỷ XX chứng kiến sự nổi lên của mô hình công nghiệp hóa hiện đại hóa mang tính xã hội
chủ nghĩa trước hết ở Nga và sau đó lần lượt ở một loạt nước Trung Á, Đông Âu, châu Á. Phần
lớn các nước này gộp thành mô hình công nghiệp hóa hiện đại hóa mang tính xô viết. Người ta
cũng còn thấy có mô hình bán xã hội chủ nghĩa như ở Ấn Độ và Algerie, mô hình xã hội chủ
nghĩa châu Phi. Khu vực Mỹ Latin từ vài năm gần đây xuất hiện mô hình xã hội chủ nghĩa cánh
tả mới, được gọi là chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI.
Sau vài thập niên thực hiện mô hình công nghiệp hóa hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa mang tính
xô viết và mang đặc tính riêng của mình, từ 1978 Trung Quốc đang thử nghiệm khá thành công
việc chuyển từ mô hình xã hội chủ nghĩa chính thống sang mô hình công nghiệp hóa hiện đại
hóa xã hội chủ nghĩa mang tính cải cách.
Một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam có vẻ như vẫn quan niệm rằng Việt Nam đang ở trong bước
đi ban đầu của quá trình hiện đại hóa, rằng về cơ bản xã hội Việt Nam vẫn nặng tính truyền
thống. Theo chúng tôi, bản thân Việt Nam đã bị cuốn vào quá trình hiện đại hóa toàn cầu từ
cuối thế kỷ XIX, đặc biệt từ đầu thế kỷ XX, dưới áp lực của chủ nghĩa thực dân Pháp. Tuy cho
đến nay Việt Nam vẫn còn ở vị trí thấp trong bảng xếp hạng phát triển quốc tế, song thực ra xã
hội Việt Nam đã biến đổi rất nhiều trong suốt thế kỷ XX, nếu so với chính nó.
Trong vài thập niên đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã hình thành cả một mạng lưới đường sắt
và đường bộ trên cả nước mà cho đến nay về cơ bản vẫn còn sử dụng trên cơ sở mở rộng và
nâng cấp. Nhiều cơ sở công nghiệp đã xuất hiện trong thời Pháp trước 1945, trong thời kỳ xây
dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật ở miền Bắc (1955-1975), trong thời kỳ 1954-1975 ở miền Nam.
Chỉ trong 1-2 thế hệ, người Việt Nam đã chứng kiến hàng loạt biến đổi: chữ quốc ngữ, thơ mới,
văn học mới, nhạc mới, sân khấu, điện ảnh, báo chí, y phục, thể thao, v.v. Hàng loạt định chế xã
hội kiểu hiện đại cũng đã ra đời: chính quyền, đảng phái, quốc hội, hiệp hội, công đoàn, tư
pháp, hệ thống giáo dục phổ thông, bệnh viện và hệ thống y tế, khoa học và giới trí thức. Sản
xuất và tiêu dùng bắt đầu dựa trên công nghệ. Nảy sinh những giá trị và chuẩn mực trong lối
sống khác xa với cổ truyền.
Vào thập niên 1910, Việt Nam vẫn còn cần một phong trào Đông Kinh nghĩa thục để áp dụng
một số "lối sống mới" (áo ngắn, bỏ tóc dài búi tó, chẳng hạn). Và rồi đến đầu Cách mạng tháng
Tám 1945, Hồ Chủ tịch vẫn còn phải kêu gọi xây dựng "đời sống mới", bởi còn có quá nhiều
hủ tục. Cho đến tận đầu những năm 1960, nông thôn miền Bắc vẫn còn sống trong tình trạng rất
mất vệ sinh về mặt nước sinh hoạt và hố xí. Vào khoảng thời gian này (cuối thập niên 1950 đầu
10
1960), Việt Nam ở trong tình trạng xấp xỉ các nước trong khu vực về mức sống và trình độ phát
triển công nghiệp, giáo dục.
Cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đã đặt đất nước vào một xuất phát điểm hiện đại hóa mới. Từ
cuối thập niên 1950, miền Bắc Việt Nam đã bước vào quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa
mang tính xã hội chủ nghĩa, nhưng quá trình này đã bị chiến tranh làm chậm lại, để rồi lại được
khởi động mạnh mẽ trở lại sau 1975. Trong một phương hướng sai lầm chung của cả khối xã
hội chủ nghĩa hiện thực, Việt Nam đã phải đặt lại vấn đề công nghiệp hóa hiện đại hóa bằng
một đường lối mới mà ta gọi là Đổi Mới. Giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại hóa mới này đã
diễn ra được gần 25 năm, trong đó mười năm đầu tập trung vào việc khắc phục cuộc khủng
hoảng kinh tế-xã hội (1986-1996), mười năm tiếp theo đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa
trên cơ sở bước đầu tham gia vào toàn cầu hóa (1996 đến khoảng giữa những năm 2000),
những năm gần đây đánh dấu bước phát triển mới ngày càng hội nhập vào đời sống quốc tế (từ
2006 đến nay, sau khi Việt Nam gia nhập WTO).
Tóm lại, dù nói thế nào thì xã hội Việt Nam cũng đã được công nghiệp hoá hiện đại hoá mãnh
liệt trong suốt thế kỷ XX. Ngay các cuộc chiến tranh cũng không làm giảm, thậm chí theo nhiều
nghĩa, còn thúc đẩy hiện đại hoá, mặc dù chiến tranh đã làm méo mó quá trình này.
Quan niệm về biến đổi xã hội gắn với thực tế lịch sử nêu trên giúp ta nhìn toàn cảnh xã hội rõ
hơn. Nó cho thấy quá trình kiến tạo xã hội hiện đại ở Việt Nam diễn ra với nhiều éo le lịch sử,
nhiều dở dang, phần lớn chịu sự áp đặt của các thế lực ngoại bang. Chỉ đến thời kỳ Đổi Mới
hiện nay, người Việt Nam mới có điều kiện thúc đẩy hiện đại hóa xã hội trong điều kiện có chủ
quyền đầy đủ, mặc dù dưới những áp lực rất lớn của môi trường kinh tế-chính trị quốc tế.
1.2. NHỮNG QUAN ĐIỂM XÃ HỘI HỌC CƠ BẢN
Để nhìn vào một quá trình biến đổi xã hội mang tính vĩ mô và lịch sử như quá trình công
nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, người ta cần phải dựa trên một nền tảng lý luận
nhất định. Mục này trình bày một vài quan điểm xã hội học cơ bản, chúng giúp cho nhà nghiên
cứu và nhà quản lý quá trình biến đổi xã hội hiện nay ở Việt Nam dùng làm công cụ để nhìn
vào thực tế, hiểu và tác động vào thực tế.
1.2.1. QUAN ĐIỂM HÌNH THÁI XÃ HỘI
Chủ nghĩa Mác là một hệ thống tư tưởng phức thể, bao gồm nhiều lý thuyết khác nhau. Một
trong những lý luận then chốt của chủ nghĩa Mác là lý luận hình thái xã hội. Theo Mác, xã hội
loài người có thể được hiểu dưới khái niệm hình thái xã hội, bao gồm mối quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hợp thành phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất tạo
nên cơ sở hạ tầng xã hội mà trên đó là kiến trúc thượng tầng xã hội. Lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất thích ứng với nhau, lực lượng sản xuất là yếu tố động, biến đổi trước, và sẽ biến đổi
đến khi không còn thích hợp với quan hệ sản xuất nữa thì khi đó một thời đại cách mạng xuất
hiện. Sở dĩ như thế là vì loài người không muốn bị mất hết lực lượng sản xuất, nên sẽ từ bỏ
quan hệ sản xuất hiện tồn để giữ lấy những gì đã đạt được về mặt lực lượng sản xuất. Tương tự,
từ cơ cấu kinh tế sẽ tạo ra một xã hội dân sự, các giai cấp, từ đó có một nhà nước và các hình
thái hệ tư tưởng tương ứng. Luận điểm cơ bản này mô tả cấu trúc của một xã hội tổng thể và
“trật tự” của logic và cơ chế của sự biến đổi xã hội.
11
Toàn bộ văn bản của Mác cũng cho ta cơ sở để hiểu các động lực của biến đổi xã hội. Trong mô
hình lý luận chung của Mác, động lực biến đổi xã hội trước hết là lực lượng sản xuất trong sơ
đồ cơ chế quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; là phương thức sản xuất trong
sơ đồ hình thái xã hội; là đấu tranh giai cấp trong sơ đồ phân tích chính trị như là biểu hiện tập
trung của kinh tế. Và cuối cùng là vai trò tích cực của hệ tư tưởng và con người như là chủ thể
của lịch sử.
Sau này nhiều trào lưu mác-xít khác nhau, nhiều nhà mác-xít khác nhau đã “sửa đổi”, “phát
biểu lại”, “hiểu khác đi” những luận điểm trên của Mác theo những cách khác nhau (bản thân
đoạn trên cũng chỉ là một cách diễn giải lại Mác theo cách hiểu chủ quan của tác giả cuốn sách
này). Những sửa đổi và biến thể như vậy là không thể tránh khỏi đối với một lý thuyết hay học
thuyết lớn như của Mác khi trở thành di sản chung của lịch sử và nhân loại.
Những cách hiểu và vận dụng chủ nghĩa Mác một cách khác nhau là do tác động của bối cảnh
xã hội, do các mục đích xã hội cụ thể, v.v. Người ta thường nhắc đến một số cách hiểu phát
triển mới như: quan hệ sản xuất có thể đi trước, tạo điều kiện thúc đẩy lực lượng sản xuất; cách
mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra trước ở những nước không phải là tiên tiến nhất. Bản thân
cách hiểu này có thể không sai nếu được hiểu trong những giới hạn nhất định, song cái mức độ
đẩy lên trong cách làm trong thực tế có thể làm cho những bổ sung, sửa đổi như vậy trở nên
nguồn gốc của hành động sai lầm và thất bại. Đây đã là hiện tượng chung của hầu như mọi
nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, như chính Mác và Engels đã nhấn mạnh, học thuyết của các ông chủ yếu chỉ là kim
chỉ nam chứ không phải là cẩm nang sẵn có cho mọi vấn đề. Hai ông nhấn mạnh rằng không
thể lấy những công thức lý luận của hai ông để thay thế cho sự phân tích cụ thể. Trong thực tế,
không ít người tự nhận là mác-xít đã tự bằng lòng với việc nhắc đi nhắc lại lý luận hình thái xã
hội nói trên theo một kiểu cách mang tính công thức, dùng nó để diễn giải một cách võ đoán và
thô thiển hiện thực xã hội cụ thể mà họ phải đối mặt. Điều này cũng giống như là dùng một cái
bản đồ thế giới để tìm đường đi trong một thành phố cụ thể như Paris, Moskow, Hà Nội hay
Thành phố Hồ Chí Minh vậy.
1.2.2. QUAN ĐIỂM CHỨC NĂNG-CẤU TRÚC-TIẾN HÓA
Trong thực tế khoa học xã hội, người ta thấy có ba quan điểm lý thuyết khác biệt nhau: chức
năng, cấu trúc và tiến hóa. Có thể xem chúng cùng tạo nên một hệ quy chiếu (paradigm) để
nhìn vào quá trình hiện đại hóa, một hệ quy chiếu tạm gọi là tiếp cận chức năng-cấu trúc-tiến
hóa.
Tiếp cận này nhìn hiện đại hoá như là biến đổi xã hội dài hạn, chú ý đến khu biệt hoá xã hội,
hình thành và sắp xếp lại các định chế, phân công lao động, liên kết xã hội. Nó cũng tạo ra tiền
đề lý luận cho thuyết hiện đại hoá theo nghĩa xem hiện đại hoá như là quá trình tất yếu lịch sử
khách quan, không thể tránh khỏi, mang tính hội tụ, về tổng thể dài hạn là tuyến tính (ngày
càng đi lên).
Có thể tóm tắt tư tưởng cơ bản của tiếp cận này như sau. Xã hội có thể được nhìn như là một hệ
thống có cấu trúc bên trong và tiến hóa theo quy luật. Hệ thống xã hội bao gồm những bộ phận
khác nhau nhưng liên hệ với nhau theo một cấu trúc (các quan hệ xã hội bền vững) nhất định,
cấu trúc này vận hành theo những cách thức nhất định (cơ chế hoạt động) để tạo nên cái toàn bộ
12
của hệ thống. Sự vận hành này tạo nên (hay là tuân theo) một sự tiến hóa: hệ thống xã hội đi từ
mức độ đơn giản đến phức tạp về mặt chức năng-cấu trúc. Cấu trúc của hệ thống xã hội ngày
càng bao gồm các định chế được khác biệt hóa sâu hơn về mặt chức năng. Sự đóng góp vào
việc vận hành ổn định của hệ thống được gọi là chức năng.
Từ ý tưởng cơ bản trên, tiếp cận chức năng-cấu trúc-tiến hóa tiến đến một khái niệm then chốt
trong thao tác phân tích. Đó là khái niệm định chế hay thiết chế (institution). Định chế bao hàm
một loạt hiện tượng xã hội phong phú thuộc những lĩnh vực xã hội rất khác nhau, chẳng hạn
trong lĩnh vực giao tiếp (định chế chào hỏi, xã giao, thảo luận), trong sản xuất kinh doanh (công
ty, giao dịch thương mại), trong dịch vụ xã hội (bệnh viện, nhà dưỡng lão), tư pháp (xử án, nhà
tù), giáo dục (nhà trẻ, trường phổ thông, đại học), tôn giáo (nhà thờ, giáo hội), thể thao (câu lạc
bộ bóng đá, liên đoàn thể thao), v.v. Tất cả những cái đó đều là các định chế, chúng là những bộ
phận hợp thành của thực tế đời sống của con người, là yếu tố cơ bản trong nền văn hoá đang
sống của họ. E. Durkheim cho rằng xã hội học là môn khoa học về các định chế, theo ông vì
các định chế làm nên cái cốt lõi của hiện thực xã hội.
Định chế là sự hợp tác được quy tắc hoá của con người, nhằm đáp ứng, thoả mãn một hay một
vài nhu cầu xã hội cơ bản nào đó. B. Malinowski cho rằng định chế là một tập hợp thống nhất
của bốn thành tố. Thứ nhất, một ý tưởng hay định luận nào đó (charter, idée diréctrice, Leitidee)
được các thành viên của một xã hội hay một nhóm thừa nhận và củng cố. Thứ hai, một tập hợp
người đảm nhiệm những vai trò nhất định. Thứ ba, một tập hợp văn hoá hướng dẫn và điều
chỉnh ứng xử của các thành viên (bao gồm các ý nghĩa, giá trị, chuẩn mực, biểu trưng, nghi
thức). Và cuối cùng, một tập hợp các thể nền vật chất gắn với định chế. Quan hệ của bốn thành
tố này tạo nên cấu trúc của một định chế, tương tác qua lại của chúng tạo nên sự vận hành của
cấu trúc (dynamics hoặc cơ chế - mechanism). Phân tích định chế tức là mô tả và giải thích cấu
trúc cũng như sự vận hành của cấu trúc của một định chế.
Vào nửa sau thế kỷ XX, một số nhà nghiên cứu theo hệ quy chiếu chức năng-cấu trúc-tiến hóa
đã xây dựng lý luận và tiến hành nghiên cứu thực nghiệm về chủ đề "biến đổi xã hội". Lý
thuyết khác biệt hoá (differentiation) là một trong các sản phẩm của những nỗ lực như vậy.
Theo P.B. Colomy (1986), lý thuyết khác biệt hoá có ba ý tưởng chính. Thứ nhất, nó cho rằng
có một "xu hướng chủ đạo" của biến đổi xã hội hiện đại: đó là sự thay thế các định chế và các
vai trò đa chức năng (multi-functional) bằng các đơn vị chuyên môn hoá hơn.
Người ta thường thấy nghiên cứu xã hội học vĩ mô về biến đổi xã hội đòi hỏi phải đưa ra một
xu hướng chủ đạo, kèm theo đó là một khái niệm mang tính chỉ đạo cho việc xây dựng lý thuyết
và nghiên cứu. Chẳng hạn, trong thời kỳ xã hội học cổ điển, Mác đề xuất khái niệm hình thái xã
hội (bao gồm trong đó khái niệm phương thức sản xuất) làm công cụ phân tích chính. M.
Weber thì lấy "hợp lý hoá" (rationalization) làm khái niệm trung tâm. Durkheim phân tích sự
chuyển đổi từ gắn kết cơ giới sang gắn kết hữu cơ (mechanic, organic solidarity). Trong thời kỳ
xã hội học hiện đại, xuất hiện lý thuyết hội tụ nhấn mạnh vào xu hướng ngày càng tương đồng,
quy tụ của các xã hội hiện đại hoá, lý thuyết các hệ thống thế giới xây dựng trên trục cơ bản là
mối quan hệ trung tâm-ngoại vi. Tương tự, các nhà lý luận khác biệt hoá xem xu hướng chủ đạo
của biến đổi xã hội là việc thay thế các định chế và vai trò đa chức năng bằng các đơn vị được
chuyên môn hoá hơn.
Thứ hai, lý thuyết khác biệt hóa nêu lên một khung giải thích về nhu cầu xã hội cho việc quá độ
từ đơn vị đa chức năng sang cấu trúc chuyên môn hoá hơn. Khi các yêu cầu chức năng không
13
được thoả mãn một cách hiệu quả, sẽ nổi lên những căng thẳng và mâu thuẫn, chúng sẽ lại thúc
đẩy việc tạo ra những giải pháp khác biệt hoá có hiệu quả hơn. Có thể gọi đây là khung phân
tích "căng thẳng sản sinh ra khác biệt hoá". Sự khác biệt hoá sẽ được thúc đẩy do một cấu trúc
đang vận hành một cách không thích đáng, cấu trúc này là nguyên nhân tạo nên sự không hài
lòng lan rộng. Một biến đổi sẽ kết thúc với việc thiết chế hoá một đơn vị được khác biệt hoá
nhiều hơn và một đơn vị có hiệu quả hơn. Như vậy, việc thực hiện có hiệu quả hơn một chức
năng đã cho sẽ là động lực để tạo ra những cấu trúc khác biệt hoá hơn.
Thứ ba, lý thuyết khác biệt hoá cho rằng việc thiết chế hoá các đơn vị chuyên môn hoá hơn sẽ
làm tăng kết quả và hiệu quả của hệ thống xã hội hoặc của các tiểu hệ thống. Mức độ khác biệt
hoá cao trong toàn bộ hệ thống sẽ đi liền với sự phổ quát hoá giá trị và tăng mức độ bao gồm,
kết dính (inclusion), điều này lại đóng góp vào việc tái liên kết hệ thống đang trở nên phức thể
hơn do khác biệt hoá.
Trong thực tế, biến đổi cấu trúc diễn ra phức tạp hơn nhiều, bao gồm nhiều xu thế chồng lấn
nhau mà không chỉ đơn giản chỉ có xu hướng khác biệt hoá. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm dựa
trên lý thuyết khác biệt hoá phát hiện rằng, bên cạnh xu hướng khác biệt hoá chủ đạo còn có
hàng loạt biểu hiện cụ thể khác: sự phi khác biệt hoá, khác biệt hoá không đều (unequal), khác
biệt hoá không đồng bộ (uneven), khác biệt hoá không đầy đủ, khác biệt hoá hỗn độn.
Phi khác biệt hoá diễn ra là do những bất mãn đối với quá trình hiện đại hoá, thể hiện ở một loạt
hội chứng và phong trào chống lại khác biệt hoá. Mức độ và phạm vi khác biệt hoá cũng diễn ra
khác nhau ở các lĩnh vực xã hội khác nhau, điều này dẫn đến những căng thẳng cấu trúc và văn
hoá, kết quả là xuất hiện sự khác biệt hoá không đều. Khác biệt hoá không đồng bộ liên quan
đến sự khác nhau về mức độ và phạm vi khác biệt hoá trong một khu vực thiết chế hay cấu trúc
vai trò. Khác biệt hoá không đầy đủ liên quan đến tình huống trong đó các bước khác biệt hoá
cần thiết không được hoàn thành, khiến hai hay nhiều cấu trúc cùng chia sẻ hoặc cạnh tranh
nhau một chức năng. Khác biệt hoá hỗn độn diễn ra khi nhiều động lực xã hội tác động móc
xích vào nhau khiến cho quá trình khác biệt hoá bị lôi kéo theo những hướng đối nghịch.
Những thực tế trên khiến cho quá trình khác biệt hoá chủ đạo đứng trước những lựa chọn, kết
quả sẽ là những kết hợp pha trộn của các lựa chọn: hệ thống có thể tăng tỷ lệ, tạo ra những cấu
trúc khác tương tự, thay đổi mức nhấn mạnh tương đối vào những chức năng khác nhau, bổ
sung chức năng mới vào các cấu trúc đã có và ngược lại, ...
Như vậy, dựa trên hệ quy chiếu chức năng-cấu trúc-tiến hóa, các nhà tân chức năng luận đã cố
gắng đưa ra một quan niệm về biến đổi xã hội, chủ yếu dựa trên khái niệm chủ đạo "khác biệt
hoá". Lý thuyết này tập trung vào hai hệ quả trực tiếp: hiệu quả và sự tái liên kết tăng lên. Việc
tăng sự chuyên môn hoá cấu trúc thúc đẩy hiệu quả, nâng cao khả năng của hệ thống thích nghi
linh hoạt với môi trường. Yêu cầu về việc hệ thống nâng cao hiệu quả là động lực hàng đầu dẫn
đến sự khác biệt hoá cấu trúc. Xu hướng chủ đạo này làm cho liên kết xã hội trở thành vấn đề.
Do đó, phải xuất hiện những mã văn hoá chung hơn và những thiết chế chuyên môn hoá phục
vụ cho sự liên kết xã hội. Tuy nhiên, điều này diễn ra không tự động. Các thiết chế khác biệt
hoá tạo ra những cụm lợi ích mới, có thể đối nghịch với nhau. Như vậy, khác biệt hoá tạo ra cả
liên kết lẫn xung đột.
Cho rằng các thời kỳ khác biệt hoá xã hội diễn ra nhanh dễ dẫn đến những phân cực và khủng
hoảng xã hội, J. Alexander, một nhà tân chức năng chủ chốt, cho rằng cần có năm điều kiện để
đối phó thành công với biến động xã hội. Thứ nhất, có sự đồng thuận xã hội ở mức đủ để bất kỳ
14
một vi phạm chuẩn mực nào cũng sẽ bị xem là lệch chuẩn. Thứ hai, có một số lượng đáng kể
nhóm xã hội chia sẻ cảm nhận rằng sự vi phạm nói trên đe doạ cốt lõi của xã hội. Thứ ba, hiệu
quả tích cực của các thiết chế kiểm soát xã hội. Thứ tư, sự huy động và đấu tranh giữa giới tinh
hoa và công luận. Thứ năm, có những giải thích biểu trưng hiệu quả.
1.2.3. QUAN ĐIỂM HÀNH ĐỘNG XÃ HỘI
Một trong những song đề then chốt của khoa học xã hội là sự đối lập giữa việc nhấn mạnh vào
cấu trúc xã hội hay nhấn mạnh vào hành động xã hội. Thậm chí người ta còn nói rằng có hai xã
hội học: một ưu tiên đặt cấu trúc xã hội lên trên (cấu trúc luận), một xem các hệ thống xã hội là
sự sáng tạo, là sản phẩm của con người (các lý thuyết hành động hoặc tương tác luận). Bên
cạnh tiếp cận chức năng-cấu trúc-tiến hóa nêu trên, người ta thấy xuất hiện một tiếp cận khác,
nhấn mạnh đến chiều cạnh ngược lại.
Mác thường được xem là nhà cấu trúc luận và thực chứng luận, vì nghiên cứu của ông chủ yếu
ở cấp độ vĩ mô, ông đặt cho mình nhiệm vụ khám phá những cấu trúc xã hội khách quan, ẩn
ngầm bên dưới chi phối đời sống xã hội, và ông xem sự phát triển xã hội như là một tiến trình
lịch sử-tự nhiên. Hiểu Mác như thế là chưa đầy đủ mặc dù không sai. Mác rất chú trọng đến cái
mà ta có thể gọi là tiếp cận hành động xã hội, cả ở những luận điểm cũng như ở những công
trình nghiên cứu cụ thể mà Mác đã làm.
Mác có một định nghĩa về xã hội như sau: "Xã hội - bất cứ dưới hình thái nào - là gì? Nó là sản
phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người" (Marx, 1976: tr. 7). Khi phân tích về diễn
biến của Công xã Pari, Mác đề cập: "... nếu những 'sự ngẫu nhiên' không có tác dụng gì cả thì
sự sáng tạo ra lịch sử sẽ mang một tính chất rất thần bí. Đương nhiên, những sự ngẫu nhiên này
là một bộ phận trong quá trình phát triển chung và được những sự ngẫu nhiên khác bù trừ lại.
Nhưng phát triển nhanh hay chậm, là phụ thuộc rất nhiều vào những 'sự ngẫu nhiên' như vậy, kể
cả 'sự ngẫu nhiên' như tính cách của những người lúc đầu lãnh đạo phong trào" (Marx, 1976: tr.
50).
Trong một bức thư viết năm 1890, F. Engels nói rõ: "Chúng ta tự sáng tạo ra lịch sử của chúng
ta, nhưng một là sáng tạo với những tiền đề và những điều kiện hết sức rõ ràng... Hai là lịch sử
đã diễn ra theo cái hướng là kết quả cuối cùng luôn luôn phát sinh từ những sự xung đột giữa
nhiều ý chí cá nhân, mỗi ý chí cá nhân này lại do vô số những điều kiện sinh sống đặc biệt tạo
ra" (Marx, 1976: tr. 96 và 97). Ông cũng nhấn mạnh sự khác nhau giữa sự phát triển của tự
nhiên và của xã hội ở một điểm căn bản: "Trái lại, trong lịch sử của xã hội, những nhân tố hoạt
động là những con người có ý thức, hành động có suy nghĩ hay có ham mê, và theo đuổi những
mục đích nhất định; không có gì xảy ra mà lại không có ý định tự giác, không có mục đích
mong muốn" (Marx, 1963: tr. 357-358).
Mặc dù, ngay từ đầu lịch sử xã hội học đã xuất hiện song đề cấu trúc đối lập hành động, phản
ánh hai khuynh hướng tương phản nhau trong xã hội học, song thuật ngữ hành động luận
(actionalism) chỉ xuất hiện trong thập niên 1960 gắn với tên tuổi của A. Touraine, một nhà xã
hội học Pháp. Ông muốn thay thế một xã hội học về xã hội bằng một xã hội học về chủ thể
hành động. Hành động luận của Touraine chủ trương đặt tác nhân vào vị trí trung tâm của xã
hội học: tác nhân không phải là bộ phận hợp thành mà là chủ thể của hệ thống xã hội. Các
phong trào xã hội có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc khắc phục tình trạng trên. Nói cách
15
khác: những hành động xã hội tích cực "làm nên lịch sử" phải là trung tâm của đời sống xã hội
hôm nay, và do đó của nghiên cứu xã hội học.
A. Giddens cố gắng khắc phục sự khác biệt giữa tiếp cận cấu trúc và tiếp cận hành động xã hội.
Ông cho rằng thông thường các nhà lý luận hoặc đặt mình vào cấu trúc và tính chất câu thúc
của chúng, hoặc vào hành động và ý nghĩa. Giddens chủ trương vùng nghiên cứu cơ bản của
khoa học xã hội chẳng phải là kinh nghiệm của các chủ thể, cũng chẳng phải là sự tồn tại của
một hình thái tổng thể xã hội nào, mà là các thực tiễn xã hội được xếp đặt qua không gian và
thời gian (Giddens, 1984).
Luận điểm cơ bản của ông rất đơn giản: cấu trúc và hành động là hai mặt của một đồng xu. Cả
cấu trúc lẫn hành động không thể tồn tại một cách độc lập, chúng liên quan với nhau một cách
sâu sắc. Hành động xã hội tạo nên cấu trúc, thông qua hành động mà cấu trúc được sản xuất và
tái sản xuất. Cấu trúc vừa hạn chế vừa là nguồn lực của hành động. Từ đó, Giddens đề xuất
thuật ngữ "cấu trúc hoá" (structuration). Để giải thích luận điểm của mình, Giddens lấy ví dụ về
sự liên hệ và khác nhau giữa ngôn ngữ và lời nói. Ngôn ngữ thể hiện một cấu trúc các quy tắc
phải tuân theo để có thể hiểu được nhau. Nhưng lời nói là thực tế các hành động trong ngôn
ngữ, các quy tắc ngôn ngữ quy định lời nói nhưng cũng là nguồn lực cho lời nói, lời nói lại tạo
ra và tái tạo ra ngôn ngữ.
Trong môn xã hội học hoặc một vài môn học gần với xã hội học ở Việt Nam hiện nay vẫn còn
quan sát thấy sự tồn tại của một số mặc định tư tưởng và lối tư duy đã bị vượt qua trên thế giới
từ vài thập niên trước (quá nhấn mạnh vào quy luật, cấu trúc, tính tất yếu, ...). Về mặt học thuật,
chỉ nói đến khía cạnh cấu trúc-quy luật-tất yếu thì hoàn toàn không phản ánh đầy đủ diện mạo
tư tưởng xã hội hiện đại nửa sau thế kỷ XX, cũng như không phản ánh đầy đủ tính phong phú
của chủ nghĩa Mác. Quan trọng nữa là về mặt thực tiễn, thông điệp hàm ý (hoặc ẩn ngầm hoặc
không có ý thức) của nó có xu hướng khích lệ người ta chỉ thấy một chiều những câu thúc, chấp
nhận những "tính tất yếu", "cái xã hội khách quan". Kết quả phụ kèm theo là nó không trang bị
cho người ta tính sẵn sàng thay đổi, đón nhận vai trò "chủ thể hành động". Sự nhấn mạnh thái
quá và một chiều nói trên thể hiện khuynh hướng có thể gọi là "bái cấu trúc giáo" (vận dụng
khái niệm bái vật giáo của Mác trong bộ Tư bản).
Xã hội học hành động xã hội giúp ta chú ý và nhấn mạnh đến một chiều cạnh khác của hiện
thực xã hội đối lập với hệ tri thức chức năng-cấu trúc-tiến hoá; trong hiện thực xã hội của xã
hội học hành động, có một không gian rộng lớn dành cho chủ thể sáng tạo. Điều này rất quan
trọng cho những con người đang sống trong những xã hội biến đổi nhanh: nó chỉ cho họ thấy
rằng người ta có thể tạo nên tương đối nhanh chóng những cấu trúc xã hội hoàn toàn mới bằng
hiểu biết và hành động xã hội. Không phải con người bị giam hãm trong những cấu trúc, thụ
động chờ đợi cấu trúc "tự tiến hoá", mà cấu trúc là sản phẩm của hành động con người, hoàn
toàn có thể và chỉ có thể "bị" thay đổi duy nhất bởi chính hành động con người.
Điều nói trên cũng rất quan trọng đối với những quốc gia đang vươn mình đuổi theo thời đại,
như Việt Nam. Xã hội Việt Nam đang ở thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá trong
bối cảnh toàn cầu hoá mạnh mẽ. Nếu so sánh với khu vực và thế giới, khó có thể dự đoán rằng,
với nhiều cách thức mà ta làm trong 15 năm qua, thì có thể khắc phục được sự tụt hậu của mình
hay không. Do đó, việc nhấn mạnh vào chủ thể hành động như trong xã hội học hành động là
rất quan trọng đối với người Việt Nam, từ người lãnh đạo quốc gia, người lãnh đạo ở cấp
ngành, cấp tỉnh và cấp tổ chức, đến dân thường. Bởi vì ta đang cần thoát khỏi sự câu thúc của
16
các "định luật" cấu trúc-tiến hoá, gồm cả sự câu thúc của những tri thức phụ thuộc vào chúng,
thay vào đó là việc chủ động tổ chức nên những cấu trúc-chức năng hiện tại của thời đại, thông
qua chủ thuyết nhấn mạnh vào hành động xã hội. Như Mác đã nói: con người là chủ thể sáng
tạo nên lịch sử, và như xã hội học hành động hiện đại nói: cấu trúc và thiết chế là do con người
tạo ra mà thôi.
1.2.4. QUAN ĐIỂM BIẾN ĐỔI XÃ HỘI
Trong xã hội học, biến đổi xã hội là một trong những mối quan tâm chủ yếu. Xã hội học nhìn
biến đổi như là một quá trình được cấu trúc trong đó diễn ra một xu hướng thay đổi nhất định.
Vào giữa thế kỷ XIX, những nỗ lực đầu tiên trong phân tích xã hội học được thúc đẩy bởi nhu
cầu giải thích hai làn sóng biến đổi lớn đang tràn khắp châu Âu: công nghiệp hóa và sự nổi lên
của lý tưởng và tổ chức nhà nước dân chủ theo mô hình Cách mạng Mỹ và Pháp. Một số nhà xã
hội học cổ điển, trong đó có Mác, tìm cách xây dựng những lý thuyết nhằm giải thích hai hiện
tượng biến đổi xã hội lịch sử nói trên. Trong thế kỷ XX, các lý thuyết về biến đổi xã hội xuất
hiện rất nhiều và ngày càng phức tạp hơn, dù không lý thuyết nào hoàn toàn vượt qua được
những gì mà các nhà cổ điển đã nêu lên.
Biến đổi xã hội có thể khởi xướng từ phía chính phủ thông qua hoạt động lập pháp hay hành
pháp; từ phía công dân khi họ tổ chức lại thành các phong trào xã hội; hay từ việc truyền bá nền
văn hóa này sang nền văn hoá khác; hay do các hệ quả có hoặc không có chủ định của công
nghệ. Biến đổi cũng có thể diễn ra do tác động của những yếu tố môi trường, và những chuyển
dịch trong cán cân kinh tế và chính trị toàn cầu.
Quan điểm chức năng luận về biến đổi xã hội cho rằng, nếu xã hội được xem như một khuôn
mẫu các chức năng phức tạp và tương liên, thì biến đổi có thể được giải thích như một hiện
tượng phụ trong cuộc tìm kiếm thường xuyên sự cân bằng. Những biến đổi xã hội có thể được
hiểu như những điều chỉnh xã hội trước những gãy vỡ hay “rối loạn chức năng” bên trong cơ
thể xã hội.
Lý thuyết của Mác về biến đổi xã hội nhấn mạnh khía cạnh xung đột, trước hết là xung đột giai
cấp và các nhóm lợi ích; đồng thời ủng hộ hành động tích cực, tập trung vào khả năng mà con
người có thể thay đổi số phận của mình thông qua hành động chính trị. Các lý thuyết xung đột
trong thế kỷ XX, chịu ảnh hưởng của Mác, đều giải thích biến đổi xã hội là kết quả của cuộc
đấu tranh giành lợi ích giữa các giai cấp, các sắc tộc hay nhóm xã hội.
Khoa học xã hội thế kỷ XIX thường có xu hướng phân tích vĩ mô và dài hạn, nhìn biến đổi xã
hội như một quá trình tổng thể thuần nhất, các lĩnh vực của đời sống xã hội sớm hay muộn sẽ
theo nhau thay đổi. Khoa học xã hội nửa sau thế kỷ XX thường chú trọng hơn đến tình trạng
không đồng bộ trong sự biến đổi của cấu trúc xã hội, nó quan niệm rằng biến đổi thường là cục
bộ và không đồng đều. Chẳng hạn, Daniel Bell trong cuốn sách “Cultural Contradictions of
Capitalism” (Những tương phản văn hóa của chủ nghĩa tư bản) viết năm 1976 cho rằng biến đổi
trong thế giới hiện đại nảy sinh từ sự căng thẳng giữa ba “lĩnh vực” của thực tiễn xã hội, mỗi
“lĩnh vực” vận hành theo những nguyên lý khác nhau và hướng tới những mục tiêu khác nhau.
Đó là: cấu trúc công nghệ-kinh tế (khoa học, công nghiệp và kinh tế), hệ thống chính trị, và văn
hóa.
17
1.3. HIỆN ĐẠI HÓA NHÌN TỪ KHÁI NIỆM PHÁT TRIỂN
Trong phần trên đã đề cập đến một thực tế là có sự khác biệt nhưng liên quan mật thiết với nhau
giữa ba thuật ngữ hay khái niệm: công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển. Sự liên quan ấy
mật thiết đến mức người ta có thể dùng ba thuật ngữ này thay thế cho nhau. Thuật ngữ công
nghiệp hóa đã xuất hiện trước từ thế kỷ XIX, tiếp theo là “hiện đại hóa” trong nửa đầu thế kỷ
XX, rồi đến “phát triển” trở thành khái niệm then chốt trong lý luận và chính sách quốc tế sau
1945. “Phát triển” trở thành một thuật ngữ phổ biến hơn, vì nó có hàm nghĩa rộng hơn, phản
ánh được nhiều khuynh hướng và hàm nghĩa rộng rãi, thoát khỏi hàm nghĩa là một lý thuyết
đậm khuynh hướng phương Tây như thuật ngữ “hiện đại hóa”.
Mục này trình bày quá trình hiện đại hóa nhìn từ góc độ của khái niệm phát triển. Khái niệm
phát triển ra đời sau 1945 và sau này trở thành một thuật ngữ quốc tế “chính thống” để nói về
quá trình hiện đại hóa xã hội toàn cầu. Nhưng bên dưới thuật ngữ khung này đã xuất hiện nhiều
quan điểm khác nhau về phát triển, chúng lần lượt thay thế nhau và phản bác nhau, nhưng cũng
kế thừa và bổ sung nhau. Chúng cùng góp phần làm rõ hơn quan niệm phát triển. Trong thư trả
lời L. Cughenman năm 1868, Mác nói: “lịch sử của lý luận chắc chắn chỉ rõ rằng quan niệm về
quan hệ giá trị bao giờ cũng là một, chỉ có cái là quan niệm đó rõ hơn hay mờ hơn, bị những ảo
tưởng bao phủ nhiều hơn hay được xác định một cách khoa học hơn. Vì chính bản thân quá
trình tư duy lớn lên từ những quan hệ nhất định, chính bản thân nó là một quá trình tự nhiên,
nên tư duy hiểu được một cách hiện thực, bao giờ cũng chỉ là một, và chỉ có thể biến đổi dần
dần khác đi, theo trình độ chín muồi của sự phát triển, và đặc biệt là của sự phát triển của khí
quan tư duy.” (C. Mác, 1962).
Suốt nửa sau thế kỷ XX đến nay, đã xuất hiện nhiều dòng quan niệm mang tính lý luận về phát
triển. Những quan niệm này đã có ảnh hưởng rất mạnh đến thực tiễn công tác phát triển. Có
nhiều cách chia về tiến trình lịch sử của nghiên cứu lý luận phát triển. Khi theo dõi lĩnh vực
này, chúng tôi thấy có một cách phân chia là nhìn tiến trình này gồm hai giai đoạn: những năm
1940-1970 và 1980 đến nay. Trong giai đoạn trước, các lý thuyết gia và chính trị gia chú ý hơn
đến kinh tế, chính trị, tính đồng nhất với các nước đi trước. Từ 1980 người ta nhấn mạnh hơn
đến con người, phúc lợi, cộng đồng và nền văn hóa cụ thể.
Trong một thời gian dài, nhất là trong những năm 1950 nhưng cũng kéo dài cả sau đó, dòng tư
tưởng chủ lưu coi các vấn đề cơ bản của các nước đang phát triển là có tính kinh tế. Người ta
thường chỉ cho rằng các nước đang phát triển là nghèo theo nghĩa nghèo về kinh tế; nếu những
nước ấy thành công trong tăng trưởng kinh tế thì các khía cạnh khác của đời sống xã hội sẽ tự
động biến đổi theo. Điều này không chỉ thấy trong khoa học xã hội phương Tây mà cả trong
khoa học xã hội các nước xã hội chủ nghĩa trước kia. Nhiều lý thuyết ban đầu về phát triển
trước hết là các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế và biến đổi kinh tế (economic transformation),
rất ít chú ý đến khía cạnh chính trị và xã hội. Chúng tập trung vào những điều kiện mà các nhà
nghiên cứu cho là sẽ thúc đẩy hay gây trở ngại cho tiến bộ kinh tế, trong khi họ rất ít hoặc
không chú ý gì đến khía cạnh xã hội. Hậu quả khi ứng dụng vào thực tế, tức là vào việc hoạch
định chiến lược phát triển thì cũng chỉ là chiến lược kinh tế. Từ đó ảnh hưởng vào trọng tâm
của hoạt động hợp tác quốc tế và viện trợ phát triển cũng là vào lĩnh vực kinh tế.
Các chiến lược dựa trên lý thuyết kinh tế mà Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới
(WB) đề xuất, từ đó, cũng bỏ qua yếu tố chính trị và văn hoá, ít tính đến các tiền đề chính trị
cho cải cách kinh tế. Ngay phần lớn các nhà quản lý ở các nước đang phát triển cũng xem nhẹ
18
yếu tố phi kinh tế. Nguyên do một phần cho quan niệm thô thiển này là vì các nước phát triển
hồi đó đang bắt đầu một quá trình tiến bộ kinh tế rất mạnh, kéo dài đến tận cuối những năm
1970, đặc biệt trong những năm 1960. Do đó, dẫn đến ý tưởng lạc quan rằng tiến bộ kinh tế sẽ
tự nó dẫn đến tiến bộ trong mọi mặt khác của đời sống xã hội. Thêm nữa, từ đó lại thịnh hành
một quan điểm rằng các nước đã phát triển là mô hình lý tưởng cho các nước đi sau, và các
nước đang phát triển có thể áp dụng kinh nghiệm thành công của các nước đã phát triển. Người
ta cũng quan sát thấy một logic lập luận tương tự trong khối các nước xã hội chủ nghĩa, khi các
nước Đông Âu đi theo mô hình xô-viết và đã ít nhiều thành công, đặc biệt trong những nước
phát triển hơn như Tiệp Khắc, Đông Đức, so với các nước Ba Lan, Bulgaria, Hungaria,
Romania.
Dĩ nhiên, ngay trong thời kỳ mà tư tưởng nói trên đóng vai trò chính thống, vẫn có những quan
điểm ngược lại, cung cấp những bằng chứng thực nghiệm và các luận điểm về một thực tế khác
trong các nước đang phát triển, mang tính toàn diện hơn. Sự đấu tranh giữa các luận thuyết
cộng với thực tiễn phát triển cả thành công lẫn thất bại đã ngày càng làm biến đổi tình hình
trong công tác lý luận phát triển. Các nhà nghiên cứu phát triển và hoạch định chính sách phát
triển trở nên cởi mở và nghiêm túc hơn với việc phân tích quá trình phát triển như là một tổng
thể bao gồm cả kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, con người và môi trường. Hai mươi năm qua,
có sự quan tâm mạnh mẽ hơn đến các hoàn cảnh đặc thù trong từng nước, ý thức nhiều hơn đến
các điều kiện địa phương riêng, về tầm quan trọng của biến đổi qua thời gian, chú ý nhiều hơn
đến những khác biệt xã hội và văn hóa, bao gồm khác biệt giới. Cuối cùng là tương tác xã hội
và môi trường đã được đưa vào mối quan tâm của nghiên cứu phát triển và chiến lược phát
triển.
1.3.1. PHÁT TRIỂN NGHĨA LÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Mặc dù J. Schumpeter đã nhấn mạnh đến sự khác biệt giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển
kinh tế, song có thể do những lý do về nhận thức và bối cảnh xã hội mà nhiều nhà kinh tế học
phát triển của những năm 1950 đã xem nhẹ sự phân biệt quan trọng này. Họ có xu hướng coi
tăng trưởng kinh tế là mục tiêu tối hậu tự thân, và cho rằng đó chính là cái mà các nước chậm
phát triển cần. Nhưng công bằng mà nói, khái niệm tăng trưởng kinh tế theo cách hiểu của các
nhà kinh tế học thập niên 1950 thực ra có tính bao quát, gồm cả nâng cao sản xuất và tiêu dùng,
tăng việc làm và nâng cao mức sống, giảm mức tăng dân số. Nói cách khác, các lý thuyết phát
triển dựa trên tăng trưởng kinh tế cũng tính đến một số khía cạnh xã hội của quá trình. Như vậy
có thể nói, về mặt học thuật, các học giả thập niên 1950 đã không sai sót nhiều lắm trong việc
hình thành và sử dụng khái niệm tăng trưởng kinh tế như là một khái niệm then chốt trong
phương pháp luận nghiên cứu. Tuy nhiên, trong thực tiễn chính sách và hành động, lý luận của
họ đã tạo điều kiện cho việc hiểu sai hẹp đi: các nhà hoạch định chính sách thực tiễn có xu
hướng hiểu tăng trưởng kinh tế trước hết là chỉ tiêu tăng GDP (ngay hiện nay ở một số nước, kể
cả ở Việt Nam, vẫn tồn tại xu hướng này).
Trong những năm 1960, các nhà kinh tế học phát triển cũng đặc biệt quan tâm đến vấn đề phân
phối và quan hệ của nó đến tăng trưởng kinh tế, bởi vì có nhiều bằng chứng cho thấy tăng
trưởng kinh tế trong các nước đang phát triển đã diễn ra kèm theo sự bất bình đẳng ngày càng
tăng giữa các nhóm xã hội, vùng địa lý và thành phần kinh tế. Trong bối cảnh ấy, người ta quay
trở lại với di sản của Schumpeter: nhấn mạnh vào phát triển kinh tế hơn là chỉ chú trọng đến
tăng trưởng kinh tế. Các nhà nghiên cứu và làm chính sách nhất trí hơn với nhau rằng phát triển
kinh tế có nghĩa là một quá trình trong đó thu nhập đầu người thực tế của một nước tăng lên
19
trong một giai đoạn dài, trong khi mức độ nghèo khổ giảm xuống và bất bình đẳng nói chung là
được thu hẹp hoặc ít nhất là cũng không tăng lên.
1.3.2. PHÁT TRIỂN VÀ PHỤ THUỘC
Đầu những năm 1960, xuất hiện một số giải thích về phát triển của các nhà khoa học được coi
là mác-xít ở một số nước xã hội chủ nghĩa và ở phương Tây. Dòng lý thuyết này bao gồm hai
khuynh hướng, một tập trung vào mối quan hệ của các nước đang phát triển với các nước
phương Tây, khuynh hướng kia tập trung xem xét các điều kiện bên trong các nước đang phát
triển.
Lý luận của một số nhà nghiên cứu mác-xít xem phát triển là nhằm đạt được độc lập quốc gia
thực sự và tiến bộ kinh tế tự thân (self-centred). Họ cho rằng chủ nghĩa đế quốc và các quyền
lực thuộc địa kiềm chế Thế giới thứ ba trong sự chậm phát triển và phụ thuộc. Phi thực dân hoá
về mặt chính trị mới chỉ là bước khởi đầu, chưa thay đổi được gì nhiều về bản chất tình trạng
này. Để phát triển các nước đó cần tiếp tục tách khỏi các nước công nghiệp hoá chính quốc.
Việc tách khỏi này không phải là mục tiêu tự nó, mà chỉ là công cụ để đạt được sự độc lập quốc
gia thực sự. Cũng cần nói rằng, không phải mọi nhà lý thuyết theo khuynh hướng này đều cho
rằng việc tách ra khỏi thị trường thế giới là cách tốt nhất để đạt được sự độc lập.
Khuynh hướng thứ hai, xem xét các điều kiện bên trong, chủ trương hai quan điểm. Thứ nhất,
các nước đó phải đi lên trên căn bản dựa vào các tiền đề và nguồn lực riêng của mình. Thứ hai,
con đường xã hội chủ nghĩa là có tính ưu việt hơn. Về điểm này, trong các nhà khoa học mácxít cũng có ý kiến khác nhau về cách đi lên chủ nghĩa xã hội. Một cực ý kiến cho rằng phải sử
dụng chủ nghĩa tư bản để phát triển những tiền đề vật chất cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Chú ý
rằng ý kiến này có một hàm ý tương tự lý luận hiện đại hoá: xem các nước đã công nghiệp hoá
cao là hình ảnh mà các nước đi sau tất yếu phải theo. Điều khác nhau chỉ là ở chỗ, với các nhà
lý luận hiện đại hoá thì đó là mục tiêu cuối cùng, còn với các nhà mác-xít theo quan điểm đó thì
đây là mục tiêu trung hạn nhằm tạo ra một trạng thái mới để đi lên chủ nghĩa xã hội. Một cực ý
kiến khác lại cho rằng các nước đang phát triển cần tách ra khỏi thị trường thế giới, xây dựng
nền kinh tế kế hoạch tập trung dưới sự chỉ đạo của nhà nước, bỏ qua con đường tư bản chủ
nghĩa.
Có một hướng chủ đề trong dòng lý thuyết này tập trung vào những phân tích lịch sử và thực
nghiệm về các giai cấp và nhà nước trong các nước đang phát triển. Hàm ý của hướng chủ đề
này là vẫn thừa nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, song cho rằng các nước đang phát triển
chưa đủ tiền đề cho điều ấy trong tương lai trước mắt. Do đó, cần tập trung vào những phương
án phát triển hiện thực hơn cho các nước chậm phát triển, như dân chủ hoá đời sống kinh tế và
chính trị. Họ cũng tán thành một nhà nước mạnh tập trung và một khu vực công cộng chủ đạo,
đồng thời nhấn mạnh đến tăng quyền lực cho người dân, tự quản địa phương, hợp tác xã.
1.3.3. PHÁT TRIỂN NGHĨA LÀ HIỆN ĐẠI HOÁ
Hiện đại hóa được xem như là một quá trình mà cốt lõi là công nghiệp hóa và những quá trình
biến đổi tương thích trong chính trị, văn hóa và xã hội. Những đặc trưng của nó là sự hợp lý
hóa, khu biệt hóa, hiện đại hóa văn hóa, dân chủ.
20
Trong những năm 1940-1950 xuất hiện một hướng lý luận xem sự phát triển như là một quá
trình hiện đại hoá, đó là một sự biến đổi cấu trúc trong đó các xã hội truyền thống và lạc hậu ở
các nước Thế giới thứ ba phát triển theo hướng ngày càng giống hơn với các nước phương Tây.
Những đặc trưng của xã hội hiện đại đáng được bắt chước bao gồm: phân công và chuyên môn
hoá rộng rãi lao động, năng suất lao động cao, tăng trưởng kinh tế ổn định (self-sustaining),
mức sống cao, phân phối tương đối đồng đều, nhà nước dân chủ và điều hành hiệu quả.
Lý thuyết hiện đại hóa cổ điển được bổ sung bởi lý thuyết hiện đại hóa như là một quá trình
biện chứng. Lý thuyết hiện đại hóa biện chứng cũng chấp nhận ý tưởng cơ bản: phát triển là quá
trình mà xã hội ngày càng chấp nhận nhiều hơn các yếu tố hiện đại. Nhưng nó cho rằng đây là
một quá trình biện chứng. Theo đó, truyền thống không nhất thiết cản trở sự phát triển, ngược
lại các định chế hiện đại có thể trong những thời điểm và bối cảnh nhất định lại cản trở phát
triển, không vận hành một cách suôn sẻ, vì không tương thích với các truyền thống của xã hội.
Thêm nữa, tiếp cận này còn cho rằng trong thực tế các định chế xã hội truyền thống là năng
động, đa dạng và có khả năng sống sót trong tiến trình hiện đại hoá. Từ đó đi đến một ý tưởng
chính của lý thuyết này rằng cái truyền thống và cái hiện đại là những hiện tượng xã hội tương
tác một cách biện chứng, trong đó cả hai hiện tượng đều trong quá trình biến đổi, và kết quả là
mang tính hỗn hợp, lai ghép.
Tiếp cận này có một hàm ý quan trọng: nó bác bỏ quan niệm phát triển là một cái gì đó mang
tính phổ quát, với mục tiêu tối hậu là tương đồng một cách tối đa với các xã hội Âu-Mỹ đã công
nghiệp hóa. Thay vào đó là một quan niệm mở: phát triển là tương thích với hoàn cảnh đặc thù
của mỗi xã hội và phù hợp với ý nguyện của người dân sống trong xã hội đó. Tiếp cận này cũng
nhấn mạnh đến các điều kiện phi kinh tế như là những yếu tố trong các quá trình kinh tế và như
là những động lực có ý nghĩa và mang tính tự thân trong đời sống xã hội.
1.3.4. PHÚC LỢI VÀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI LÀ MỤC TIÊU CỦA HIỆN ĐẠI HÓA
VÀ PHÁT TRIỂN
Sự tiến triển của quan niệm phát triển đã diễn ra ngay trong lòng dòng lý thuyết gọi là tăng
trưởng kinh tế. Mặc dù trong cái gọi là "kinh tế", các nhà kinh tế học phát triển đã bao gồm
nhiều khía cạnh xã hội (việc làm, nâng cao mức sống, giảm nghèo, giảm bất bình đẳng), song
mục tiêu cơ bản cũng như cách đo lường phát triển vẫn chủ yếu xoay quanh việc tăng thu nhập.
Một quan niệm lý luận mới nảy sinh với tham vọng đưa ra một quan niệm đối lập (alternative)
đã đặt ra vấn đề quan hệ giữa nâng thu nhập và phúc lợi con người, theo đó cái thứ nhất phải
được xem chỉ là phương tiện cho cái thứ hai, còn cái sau mới chính là mục tiêu tối cao và bản
chất của phát triển. Tăng trưởng kinh tế quốc gia là điều kiện cải thiện đời sống dân cư, song
không phải là điều kiện duy nhất. Chẳng hạn, nhiều nghiên cứu thực nghiệm quốc tế đã chứng
minh rằng tăng trưởng kinh tế không trực tiếp và tự động dẫn đến tiến bộ trong giáo dục và sức
khoẻ.
Chấp nhận lý luận như thế, UNDP đã tạo điều kiện để một số tác giả của dòng lý thuyết trên,
chẳng hạn Mahbub ul Haq, xây dựng một khung tiếp cận mới cho UNDP. Kết quả thể hiện ở
Báo cáo Phát triển Con người đầu tiên của UNDP năm 1990. Có thể xem đây là điểm mốc quan
trọng đối với UNDP: tổ chức này chính thức nêu lên một học thuyết mới, dựa trên một lý luận
phát triển lấy phúc lợi và con người làm trung tâm.
21
Nhóm công tác dưới sự lãnh đạo của Haq đã đưa ra khái niệm "phát triển con người" được hiểu
là quá trình mở rộng những cơ hội cho sự lựa chọn của người dân trên ba lĩnh vực chủ yếu: cơ
hội có một cuộc sống lâu dài và khoẻ mạnh, cơ hội tiếp cận tri thức, cơ hội tiếp cận các nguồn
lực cần thiết để có một mức sống thích đáng.
Xa hơn nữa, không chỉ dừng lại ở cấp độ khái niệm, các tác giả còn đề xuất chỉ báo định lượng
tổng hợp để biểu hiện mức độ phát triển con người về mặt thống kê có thể so sánh được qua
thời gian hoặc giữa các nước, ngày nay đã trở thành nổi tiếng và phổ biến: chỉ số phát triển con
người (human development index, HDI). Sau này, với thời gian, nhiều nội dung khác đã được
bổ sung như: quyền con người, phát triển con người nhìn từ góc độ giới (qua biểu hiện của
GDI, chỉ số phát triển giới), bền vững môi trường, tham gia của người dân, ... Người ta cho
rằng dòng lý luận này đã đưa ra một hệ quan niệm mới cho phát triển, trở thành một khuôn khổ
lý thuyết mới cho nghiên cứu và chiến lược phát triển.
1.3.5. PHÁT TRIỂN CÓ SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN
Trong thực tế, mối quan hệ giữa nhà nước với người dân, giữa các giai tầng bên trên với đông
đảo dân chúng, là một trong những nội dung cơ bản phân biệt các quan niệm và lý luận khác
nhau về phát triển. Đến thập niên 1970 đã nổi lên một hướng nghiên cứu mới về mối quan hệ
trên, xoay quanh một số quan niệm như “phát triển có sự tham gia của người dân”, “phát triển
dựa trên nhu cầu cơ bản”, “phát triển dựa trên tăng cường năng lực”, v.v.
Quan điểm hiện đại hóa cổ điển. Trong những năm 1950-1960, một số lý thuyết gia theo quan
điểm hiện đại hoá cho rằng tham gia và dân chủ không tương thích với tăng trưởng kinh tế
nhanh. Họ cho rằng lôi cuốn người dân quá nhiều vào việc ra quyết định có thể cản trở tăng
trưởng, vì người dân thường chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, thiếu tầm nhìn. Nhưng một số
tác giả lại cho rằng sự tham gia rộng rãi vào đời sống chính trị có thể hoà hợp với tăng trưởng
kinh tế và hiện đại hoá, nếu thiết lập được những kênh tổ chức và kiểm soát có hiệu quả. Chẳng
hạn, S. Huntington nêu lên một luận thuyết khá quan trọng về mối tương quan giữa mức độ
tham gia và tiến trình định chế hoá. Ông cho rằng điểm mấu chốt là giữ cho mức độ tham gia
công cộng không vượt quá mức định chế hoá; mức độ tham gia cần được chuyển vào những
kênh định chế vận hành nhất trí với chính sách chung của nhà nước. Trong thực tế, một số nhà
nước trong các nước đang phát triển đã chấp nhận quan điểm này và áp dụng vào thực tế quản
lý của họ.
Mô hình Đông Á. Một số nhà nước Đông Á, nơi đã có sự thành công kinh tế vang dội, lại đề
cao "các giá trị châu Á" với hàm nghĩa là phải thực hiện chính sách kiểm soát mức độ dân chủ
và tham gia trong tiến trình phát triển nếu muốn đạt được mục tiêu. Quả thực các nhà lãnh đạo
tán thành quan điểm trên đã có thành tích lớn trong việc đưa đất nước họ đạt được mục tiêu
phát triển. Mặc dù vậy, vẫn có nhiều người trong những nước đó cũng như ở bên phương Tây
phê phán về mức độ đúng đắn của các thực tế phát triển ấy, nêu lên nhiều bằng chứng về các
hậu quả của sự thiếu dân chủ trong tiến trình phát triển.
Quyền lực tham gia không cân xứng trong phát triển. Trong thập niên 1950-1960, một số nhà
nghiên cứu được coi là mác-xít đã có những công trình về giai cấp và nhà nước trong các nước
đang phát triển. Họ cho rằng hình thái phát triển kinh tế sẽ bị định hình bởi khuôn mẫu và mức
độ tham gia của dân chúng. Họ nhấn mạnh đến sự tham gia không cân xứng: các giai tầng xã
hội có cơ hội rất khác nhau trong việc tiếp cận và ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của
22
nhà nước. Chính sách kinh tế và ảnh hưởng của nó lên khuôn mẫu phát triển thường bị định
hình bởi các giai tầng có quyền lực, có cơ sở hạ tầng tổ chức mạnh, có cơ hội dễ dàng tiếp cận
đến nhà nước. Thông thường đây cũng là những giai tầng thống trị về mặt kinh tế trong sản
xuất và thị trường. Nhà nước không phải là một tổ chức trung tính, mà nó tổ chức và xúc tác
cho sự tham gia chính trị của giai tầng có quyền lực, đồng thời giảm bớt tính tổ chức của các
giai tầng khác.
Phát triển có sự tham gia của người dân. Giữa những năm 1970 nổi lên dòng lý luận mới về sự
tham gia của người dân trong phát triển. Khác với lý thuyết hiện đại hoá, dòng quan niệm này
cho rằng sự tham gia là cần thiết cho tăng trưởng kinh tế; người nghèo phải nhận được phần
công bằng trong thành quả của phát triển. Nhưng khác với lý thuyết mác-xít những năm 19501960, quan niệm này lại nhìn thấy ở nhà nước một vai trò tích cực: nó cho rằng có thể động
viên và tổ chức người dân, nhất là người nghèo, tham gia vào phát triển với sự trợ giúp tích cực
của nhà nước. Mặc dù sẽ có nhiều trở ngại từ phía các giai tầng nắm quyền lực, song sự tham
gia của người nghèo là có thể thực hiện được và điều này có lợi cho phát triển quốc gia. Lý
thuyết này không công nhận quan niệm về mâu thuẫn đối kháng và những lợi ích loại trừ nhau
trong đấu tranh của các giai cấp, nó cho rằng mọi giai tầng về cơ bản đều có lợi trong sự tham
gia của người dân.
Phát triển dựa trên nhu cầu cơ bản. Các tìm tòi và tranh luận về lý thuyết đã dẫn đến sự hình
thành dòng quan niệm tạm thể hiện theo công thức “phát triển=nhu cầu cơ bản", một quan niệm
mà một số nước Bắc Âu và các tổ chức phát triển quốc tế đã có tiếng nói tích cực (ILO, WB,
UNDP). Quan niệm này gắn với ý tưởng rằng nhu cầu cơ bản của con người là xuất phát điểm
của mọi chiến lược phát triển, việc thoả mãn nhu cầu cơ bản của hàng triệu người nghèo trong
Thế giới thứ ba phải là ưu tiên trước hết trong mọi nỗ lực phát triển. Nó cũng dựa trên một ý
tưởng rằng người nghèo không tự động được hưởng lợi từ những kết quả của tăng trưởng trong
giai đoạn thịnh vượng, nhưng lại là nạn nhân đầu tiên trong giai đoạn đình trệ và suy thoái. Vì
vậy, cần phải có những giải pháp đặc thù để cải thiện đời sống cho người nghèo, tức là cần có
chương trình mục tiêu cho những nhu cầu cơ bản của người nghèo. Quan niệm này đối ngược
lại với một quan niệm chính thống trước kia cho rằng thành quả của phát triển có xu hướng sẽ
tự động chuyển dần từ trên xuống (trick down).
Phát triển là tăng cường năng lực cho người dân. Cùng với thời gian, khái niệm phát triển đã
chuyển từ một sự copy đơn giản mô hình của các nước công nghiệp hoá và nhấn mạnh một
chiều đến các yếu tố kinh tế sang tiếp cận phức thể hơn. Một số nghiên cứu đề xướng dòng
quan niệm mới: gắn phát triển với năng lực ra và thực hiện quyết định. Theo quan niệm này,
một xã hội là phát triển trước hết khi nó biểu lộ khả năng (ability) và năng lực (capacity) tốt
hơn trong việc ra các quyết định và thực hiện chúng một cách hiệu quả. Dòng quan niệm này
đôi khi được gọi là tiếp cận “tăng cường năng lực cho phát triển” (capacity-building) và có
những điểm tương đồng với lý luận hiện đại hoá biện chứng. Nó nhấn mạnh đến hoàn cảnh đặc
thù của các xã hội khác nhau và nhấn mạnh đến những ưu tiên của người dân, nhấn mạnh sự
tham gia có hiệu quả của người dân vào quá trình ra quyết định như là một yếu tố không thể
thiếu của toàn bộ quá trình phát triển.
Ở đây cần cảnh giác với một cái “bẫy” lý luận cũng như hành động. Cũng đề cao sự tham gia
của người dân, song trong quan niệm và hành động thực tiễn người ta có thể rơi vào hai thái độ
rất khác nhau, làm ảnh hưởng đến bản chất và hệ quả của sự tham gia. Thái độ thứ nhất xem sự
tham gia là phương tiện hỗ trợ cho việc đạt được các mục tiêu phát triển, mà những mục tiêu
23
này thì đã xác định trước từ bên trên hoặc từ bên ngoài quần chúng nhân dân nói chung hoặc
bên ngoài một cộng đồng mà các “nhà phát triển” muốn giúp đỡ. Thái độ thứ hai xem tham gia
của người dân là mục đích tự thân, là chính bản thân nội dung phát triển. Thái độ thứ nhất dẫn
đến cách làm theo đó các nhà ra quyết định ở trung ương thay mặt (nhân danh) người nghèo
xây dựng các chiến lược để rồi sau đó lôi kéo người dân tham gia vào quá trình thực hiện. Như
vậy thì những nhu cầu cơ bản của người nghèo là do người khác xác định chứ không phải do
chính bản thân họ. Thái độ thứ hai, được gọi là tiếp cận có sự tham gia của người dân, xem sự
tham gia của dân chúng là mục tiêu tự thân và là quá trình thông qua đó các mục tiêu khác của
phát triển được xác định. Trong quan niệm này, năng lực phải ngày càng được chuyển từ cấp
quốc gia xuống cấp địa phương và cơ sở, từ cấp độ chính quyền xuống cấp độ ngưòi dân.
Người nghèo về kinh tế thì cũng sẽ yếu về chính trị, do đó không có khả năng tác động vào việc
hình thành các mục tiêu quốc gia. Để thay đổi tình trạng này và bảo đảm cho họ có thể tham gia
vào quá trình ra quyết định và xác định các nhu cầu thực sự của họ, người dân cần được trao
quyền sao cho họ có thể tiếp cận được đến nhà nước và những người ra quyết định ở cấp trung
ương.
Trong chiến lược sự tham gia của người dân mà các tổ chức quốc tế khởi xướng có xu hướng
xem sự tham gia như là một phương tiện chứ không phải là mục tiêu tự thân. Trong quá trình
tiến hành các dự án phát triển, các tổ chức này nhấn mạnh đến việc lôi cuốn sự tham gia của các
nhóm hưởng lợi. Thế nhưng sự tham gia được nhấn mạnh ở đây có vẻ như là để ủng hộ cho
những mục tiêu và ưu tiên đã được xác định trước bởi các cơ quan chức năng, mặc dù cũng đã
có những quy chế yêu cầu tạo điều kiện cho người dân tham gia ngay cả trong giai đoạn này.
Như vậy là các chiến lược ấy đã thực hiện theo quan niệm của S. Huntington - sự tham gia
không vượt quá tiến trình định chế hoá, bằng cách kết hợp giữa nâng cao sự tham gia với việc
tăng cường năng lực của các định chế chính phủ địa phương. Người ta đã chú trọng đến tái sắp
xếp định chế để nó thích nghi hơn với sự tham gia ngày càng tăng lên của người dân. Lập luận
ở đây là các cơ quan nhà nước địa phương mong muốn theo đuổi chiến lược giảm nghèo và dân
chủ, chúng cần phải tái cấu trúc để có thể phân phối các nguồn lực đáp ứng với yêu cầu của
người dân.
1.3.6. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Báo cáo của Uỷ ban Brundtland công bố năm 1987 đã trở thành một điểm mốc khi nó đưa ra
khái niệm “phát triển bền vững”. Phát triển bền vững được hiểu như là một quá trình thoả mãn
những nhu cầu con người hiện tại mà không gây thiệt hại cho những cơ hội của các thế hệ sau
trong việc thoả mãn nhu cầu của họ. Báo cáo nêu trên cho rằng việc thoả mãn các nhu cầu và
nguyện vọng của con người là mục tiêu quan trọng nhất của mọi nỗ lực phát triển trên toàn thế
giới. Hàng trăm triệu người nghèo chưa có quyền công bằng đối với việc thoả mãn những nhu
cầu cơ bản và khát vọng có một cuộc sống tốt hơn. Các nhu cầu và mong muốn được quy định
về mặt xã hội và văn hoá về một cuộc sống xa xỉ cần phải bị từ chối như là những điều trái
ngược với nguyên tắc phát triển bền vững trên quan điểm toàn cầu. Báo cáo này cho rằng phát
triển bền vững đòi hỏi khuyến khích một tiêu chuẩn tiêu dùng có tính đến các giớí hạn sinh thái
và tính đến mức độ mà toàn thể nhân loại trên thế giới có thể mong muốn một cách hiện thực.
Lập luận về giới hạn và tiêu chuẩn tiêu dùng dựa trên nhu cầu cơ bản cho đến nay vẫn còn gây
nên tranh cãi. Nhưng lập luận về tính bền vững môi trường thì ngay lập tức đã có được sự nhất
trí rộng rãi. Quan niệm phát triển bền vững ngày nay đã trở thành tiêu chuẩn căn bản cho mọi
hoạch định mục tiêu và chiến lược phát triển.
24
1.3.7. PHÁT TRIỂN LÀ MỘT LỊCH SỬ CỤ THỂ VÀ TỪ NHU CẦU BÊN TRONG
Nếu chú ý đến các mặc định nhận thức luận (epistemological assumptions) trong các lý thuyết
về phát triển, ta sẽ thấy nhiều quan niệm phát triển trình bày ở trên có một hàm ý: mọi nền văn
hoá khác nhau rồi sẽ đi theo một khuôn mẫu tiến hoá chung. Đây là một mặc định phương pháp
luận cơ bản thịnh hành trong thế kỷ XIX, và như ta thấy vẫn còn phổ biến trong nửa sau thế kỷ
XX. Một biểu hiện rõ rệt là thuyết hội tụ.
Phản ứng với quan niệm này, trong nhân học xã hội đã nảy sinh một dòng quan niệm, theo đó
phát triển là một lịch sử không phải theo nghĩa phổ quát mà theo nghĩa như là lịch sử riêng của
mỗi nền văn hoá. Mọi nền văn hoá đều bình đẳng, như nhau, không nền văn hóa nào có thể xác
định các mục tiêu của phát triển nhân danh nền văn hóa khác. Nhà nghiên cứu phải phát hiện và
mô tả các nền văn hoá cụ thể càng chính xác càng tốt, không phải từ quan điểm thay đổi chúng
mà là để hiểu chúng, hiểu nền tảng riêng của chúng. Như vậy, phát triển phải là một quá trình
có nền tảng từ văn hoá bên trong, một quá trình không phải được quyết định từ bên ngoài. Phát
triển là gì, cần phải là gì, được thực hiện như thế nào, điều này được tự quyết định bên trong
mỗi nền văn hoá, chứ không phải từ bất cứ nền văn hoá bên ngoài nào. Bằng cách đó những
khác biệt trong thế giới mới được tôn trọng thực sự, và lịch sử của mỗi nền văn hoá cụ thể mới
được thừa nhận là bình đẳng với lịch sử của mọi nền văn hoá khác. Và chỉ như vậy, phát triển
mới trở thành tự phát triển (self-development). Có thể đặt tên cho quan niệm này là “phát triển
là một lịch sử cụ thể nội tại”. Luận thuyết này có một ý nghĩa quan trọng đối với các nước đang
phát triển, nó ngày càng nhận được sự đồng tình rộng rãi.
1.4. TỪ LÝ LUẬN ĐẾN ĐỊNH HƯỚNG TƯ TƯỞNG VÀ TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH
Các quan điểm lý thuyết không phải là những thao tác thuần túy hàn lâm, chỉ được bàn thảo
trong khuôn viên cơ sở nghiên cứu. Lý luận xã hội không phải là cái gì đó rất xa rời thực tế như
một số nhà chính trị, nhà làm chính sách, thậm chí một số nhà nghiên cứu, vẫn nghĩ. Lê Nin
nói: không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng. Trên thực tế, không có
phong trào xã hội nào mà lại không có một hệ thống diễn giải lý luận của nó (đi trước hoặc/và
kèm theo); không có một chính sách nào, một chuỗi hành động nào mà lại không dựa trên
những mặc định lý luận, dù được ý thức rõ ràng hay bị chi phối ngầm mà người hành động
không tự ý thức được.
Kinh nghiệm lịch sử dẫn đến sự thừa nhận rộng rãi rằng lý thuyết xã hội ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động xã hội, đặc biệt là hoạt động làm chính sách. T.G. Buchholz viết “Các vấn đề chính
sách kinh tế mà chúng ta tranh luận hôm nay … đã được các nhà kinh tế thảo luận hơn hai thế
kỷ rồi. Nhiều chính sách kinh tế hôm nay - cả những chính sách hay lẫn chính sách dở - đều là
kết quả tư tưởng của các nhà kinh tế trong quá khứ” (T.G. Buchholz, 2007, trang 11). Toàn bộ
cuốn sách “Ý tưởng mới từ các kinh tế gia tiền bối” của ông thể hiện rằng giữa lý luận, tư tưởng
và hành động chính sách có một mối liên hệ vô cùng mật thiết.
Bảng 1.1 tóm tắt lại 18 quan điểm lý luận trình bày ở trên và thử đưa ra những minh họa về việc
từ những quan điểm đó có thể đề xuất những định hướng tư tưởng như thế nào trong việc hoạch
định đường lối, và có thể xây dựng nên những định hướng chính sách như thế nào trong thực
tiễn cụ thể.
25
Chẳng hạn, quan điểm duy vật lịch sử mà bản thân Mác đã thực sự phát biểu là quan hệ và trật
tự logic biện chứng từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất, qua xã hội dân sự, giai cấp, tới
nhà nước, hệ tư tưởng. Quan điểm lý luận này đáng lẽ phải được đưa vào định hướng tư tưởng
và từ đó triển khai vào các chính sách theo hướng lấy sự phát triển của lực lượng sản xuất làm
xuất phát điểm, không được tách rời giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Nhiều nước
xã hội chủ nghĩa đã đi ngược lại logic đó, kết quả lâu dài dẫn đến thất bại. Các chính sách cơ
bản hiện nay ở các nước xã hội chủ nghĩa cải cách hoặc đổi mới như Trung Quốc và Việt Nam
thể hiện việc đảo ngược định hướng tư tưởng và chính sách trước kia.
1.5. LÝ LUẬN PHÁT TRIỂN QUỐC TẾ: TÓM TẮT VÀ KIẾN NGHỊ
Nhiều văn kiện gần đây của Đảng nhắc đến tình trạng công tác lý luận và tư tưởng còn nhiều
chậm trễ. Thúc đẩy những tìm tòi lý luận mới để diễn giải hiện thực xã hội (quốc tế và trong
nước) là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Chương Một cố gắng hệ thống một số quan điểm lý
luận đã được chia sẻ trong cộng đồng nghiên cứu quốc tế về quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và phát triển xét từ cách nhìn xã hội học; từ đó gợi ý cách nhìn vào thực tế đó ở Việt Nam.
Xin nêu lên một số kiến nghị sau đây.
o Thúc đẩy công tác hệ thống hóa những thành tựu lý luận quốc tế, kết hợp với tổng kết thực
tiễn Việt Nam để đưa ra những diễn giải lý luận mới. Bên cạnh việc thúc đẩy công tác trên
theo chiều rộng (mở ra thể chế và nguồn tài trợ rộng rãi để nhiều cá nhân và tổ chức có thể
tiếp cận), nên có giải pháp thúc đẩy trọng điểm: hình thành và tài trợ cho một số nhóm nghiên
cứu cao cấp cùng nghiên cứu một cách độc lập về những vấn đề lý luận chủ yếu hiện nay của
thời đại và của Việt Nam.
o Trên cơ sở đó, tổ chức các nhóm/ đề tài nghiên cứu rà soát sự thích ứng và nhất quán giữa
diễn giải lý luận với các định hướng tư tưởng và chính sách hiện tại (như được minh họa
trong Bảng 1.1). Sự bất tương thích giữa diễn giải lý luận về vấn đề trung tâm hiện nay (công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển) với định hướng tư tưởng và chính sách là nguyên nhân
gây ra trạng thái thiếu rõ ràng hiện nay trong công tác tư tưởng và hành động thực tế.
o Nhìn toàn bộ quá trình lịch sử thế giới hiện nay như là một quá trình thống nhất của sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản phát triển đầy đủ, quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới, trong đó những nước phát triển cao đã đạt được những bước tiến hơn cả. Cần xem những
nước này là những biểu hiện cụ thể của một hình mẫu chung của nhân loại mà các nước đi sau
trong đó có Việt Nam nên học hỏi. Chấp nhận quan điểm này thực chất là tôn trọng tiếp cận
cơ bản của chính bản thân Mác.
o Logic với quan điểm nói trên, có thể tạm thời sử dụng các lý luận và phép đo phát triển của
UNDP như là một khung quy chiếu chung cho quá trình phát triển xã hội quốc gia. Dĩ nhiên,
đây không thể là một khung quy chiếu duy nhất, mà chỉ là một trong những khung then chốt,
có độ tin cậy và độ thích ứng tương đối cao với hiện thực quốc tế hiện nay. Thực ra trong thực
tế, nhiều cơ quan lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam đã và đang sử dụng khung quy chiếu này
trong việc giải thích và điều hành chính sách.
Bảng 1.1. Lý luận, định hướng tư tưởng và triển khai vào định hướng chính sách
Lý luận
Nội dung lý luận
Định hướng tư tưởng và triển khai vào
26
1. Chủ nghĩa
Mác nguyên
bản
2. Chức năngcấu trúc-tiến
hóa
3. Hành động
xã hội
4. Cấu trúc
hóa
5. Biến đổi xã
hội
6. Phát triển
trước hết là
phát triển
kinh tế
7. Tăng
trưởng kinh tế
Quan hệ và trật tự logic biện chứng từ lực
lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất, qua xã
hội dân sự, giai cấp, tới nhà nước, hệ tư
tưởng.
Hiện đại hóa là quá trình phát triển lịch sử
mang tính toàn cầu.
Hiện đại hóa: thiết lập một hệ thống chức
năng-cấu trúc hiện đại, gồm các định chế
khác biệt hóa ngày càng sâu về mặt chức
năng.
Xu hướng chủ đạo của biến đổi xã hội hiện
đại: thay thế các định chế và các vai trò đa
chức năng bằng các đơn vị chuyên môn hoá
hơn.
Định chế là sự hợp tác được quy tắc hoá,
nhằm đáp ứng một hay một vài nhu cầu xã
hội cơ bản. Là một tập hợp của: ý tưởng hay
định luận, một tập hợp người đảm nhiệm
những vai trò nhất định, một văn hoá hướng
dẫn và điều chỉnh ứng xử, thể nền vật chất
gắn với định chế.
Khác biệt hóa dẫn đến căng thẳng và xung
đột, điều tạo ra yêu cầu tăng cường liên kết
xã hội
Các hệ thống xã hội là sản phẩm sáng tạo
của con người
o Kết hợp cấu trúc và hành động: cấu trúc
vừa là câu thúc vừa là nguồn lực của hành
động.
o Có một không gian rộng lớn dành cho chủ
thể sáng tạo. Con người có thể tạo nên
nhanh chóng những cấu trúc xã hội hoàn
toàn mới bằng hiểu biết và hành động xã
hội.
o Không phải con người bị giam hãm trong
những cấu trúc, thụ động chờ đợi cấu trúc
"tự tiến hoá", mà cấu trúc là sản phẩm của
hành động con người, hoàn toàn có thể và
chỉ có thể "bị" thay đổi duy nhất bởi
chính hành động con người.
Là quá trình thay đổi cấu trúc, các chức
năng xã hội liên tục tái thích ứng để lập lại
cân bằng, đồng thời là quá trình xung đột
lợi ích.
Phát triển kinh tế: quá trình trong đó thu
nhập đầu người thực tế tăng lên trong giai
đoạn dài, tăng việc làm, giảm nghèo, bất
bình đẳng thu hẹp hoặc ít nhất cũng không
tăng lên.
o Tăng trưởng kinh tế không nhất thiết phải
gắn với bất bình đẳng; vai trò quyết định
chính sách (minh họa)
Tuân thủ trật tự logic biện chứng, không
tách rời giữa các thành tố và không đi
ngược lại logic này.
Môi trường quốc tế hiện tại là xuất phát
điểm trong chiến lược phát triển của đất
nước.
Ưu tiên việc thiết lập đúng đắn những cơ
cấu nền của hệ thống xã hội (chính trị, kinh
tế, pháp lý) như là bộ khung kiến trúc của
xã hội.
o Chủ động chuyên môn hóa, khác biệt hóa
sâu rộng các định chế và tổ chức.
o Đảm bảo tính độc lập tương đối của các
định chế, tổ chức.
o Ưu tiên xây dựng các định chế hiện đại
cơ bản: hiến pháp và các đạo luật cơ bản,
các nhánh quyền lực của nhà nước, thị
trường, xã hội dân sự, giáo dục, y tế.
o Chú trọng xây dựng đồng bộ cả bốn
thành tố của cấu trúc định chế.
Giải quyết mối cân bằng giữa tăng khác
biệt hóa và liên kết xã hội.
o Đường lối và chính sách cần hướng vào
thực tiễn, không phải vào giáo điều.
o Có khả năng chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế nhanh chóng.
o Các định chế, tổ chức, quy tắc lỗi thời có
thể bãi bỏ nhanh chóng được.
o Có khả năng thiết lập ngay những định
chế, tổ chức, quy tắc, chính sách cập
nhật với thời đại (ví dụ đã thực hiện: nối
mạng internet, vào WTO).
o Không gian sáng tạo cho khu vực xã hội
dân sự là điều kiện cho hiện đại hóa
nhanh.
o Chất lượng và sự tự do hành động của
nguồn nhân lực là điều kiện cho hiện đại
hóa nhanh.
o Chú trọng biến đổi về chất liên quan đến
thay đổi cấu trúc.
o Chú trọng kiểm sóat cân bằng và xung
đột.
o Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm.
o Khắc phục định hướng chính sách chỉ
nhấn mạnh tăng trưởng kinh tế, chỉ nhấn
mạnh tốc độ tăng GDP.
o Phân phối công bằng.
o Ưu tiên chiến lược tăng trưởng kinh tế
lấy việc làm làm trọng tâm.
o Chống tư tưởng chấp nhận tăng trưởng
kinh tế đi trước, khắc phục bất bình đẳng
27
và bất bình
đẳng
là ở chính sách.
o Bình đẳng và công bằng xã hội có lợi cho
tăng trưởng kinh tế.
8. Phát triển
theo hướng
tăng độc lập
tự chủ
9. Quan điểm
mác-xít thập
niên 1960 về
lộ trình và
bước đi trong
sự phát triển
của các nước
Thế giới thứ
ba
o Phát triển là nhằm đạt được độc lập quốc
gia thực sự và tiến bộ kinh tế tự thân.
o Các nước phải đi lên trên căn bản dựa vào
các tiền đề và nguồn lực riêng của mình.
o Sử dụng chủ nghĩa tư bản để phát triển
những tiền đề vật chất cần thiết cho chủ
nghĩa xã hội.
o Mục tiêu lâu dài của các nước đang phát
triển là nền kinh tế dân chủ nhân dân.
o Tập trung vào những phương án phát
triển hiện thực cho các nước chậm phát
triển: dân chủ hoá đời sống kinh tế và
chính trị, xây dựng một nhà nước mạnh
tập trung và một khu vực công cộng chủ
đạo, đồng thời tăng quyền lực cho người
dân, tự quản địa phương, hợp tác xã.
o Hiện đại hóa: một quá trình mà cốt lõi là
công nghiệp hóa và những quá trình biến
đổi tương thích trong chính trị, văn hóa và
xã hội.
o Là một sự biến đổi cấu trúc trong đó các
xã hội truyền thống và lạc hậu ở các nước
Thế giới thứ ba phát triển theo hướng
ngày càng giống hơn với các nước
phương Tây.
o Những nguyên lý mang tính đặc trưng của
xã hội hiện đại: hợp lý hóa, khác biệt hóa,
hiện đại hóa văn hóa, dân chủ, pháp trị.
o Những đặc trưng của xã hội hiện đại:
phân công và chuyên môn hoá rộng rãi
lao động, năng suất lao động cao, tăng
trưởng kinh tế ổn định, mức sống cao,
phân phối tương đối đồng đều, nhà nước
dân chủ và điều hành hiệu quả.
o Hiện đại hóa: quá trình xã hội ngày càng
chấp nhận nhiều hơn các yếu tố hiện đại,
nhưng là một quá trình biện chứng.
o Truyền thống không nhất thiết cản trở sự
phát triển, các định chế hiện đại có thể
trong những thời điểm và bối cảnh nhất
định lại cản trở phát triển, không vận
hành một cách suôn sẻ, vì không tương
thích với các truyền thống của xã hội.
o Các định chế xã hội truyền thống là năng
động, đa dạng và có khả năng sống sót
trong tiến trình hiện đại hoá. Cái truyền
thống và cái hiện đại là những hiện tượng
xã hội tương tác một cách biện chứng.
o Hiện đại hóa không phải là phổ quát với
mục tiêu tối hậu: tương đồng tối đa với
các xã hội Âu-Mỹ đã công nghiệp hóa.
Hiện đại hóa phải tương thích với hoàn
cảnh đặc thù của mỗi xã hội và phù hợp
với ý nguyện của người dân sống trong xã
10. Lý thuyết
hiện đại hóa
cổ điển
11. Lý thuyết
hiện đại hóa
biện chứng
sau.
o Ưu tiên chính sách kết hợp ngay từ đầu
tăng trưởng kinh tế và giảm bất bình
đẳng.
o Chính sách khuyến khích nội lực.
o Xây dựng giới làm chính sách và giới
nghiên cứu yêu nước, có năng lực.
o Xây dựng nguồn nhân lực bản xứ.
o Hệ thống kinh tế hỗn hợp.
o Đoàn kết toàn dân là động lực của phát
triển.
o Nhà nước mạnh nhưng quy mô phù hợp
và hiệu quả.
o Khu vực kinh tế công cộng quy mô phù
hợp và hiệu quả.
o Khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp
vừa và nhỏ, hợp tác xã, kinh tế hộ gia
đình.
o Sự tham gia của người dân.
o Chống tham nhũng.
o Thừa nhận xu hướng phổ quát của tiến
trình phát triển thế giới, chống tư tưởng
nhấn mạnh thái quá tính đặc thù.
o Chủ động điều chỉnh sự bất tương thích
giữa các tốc độ biến đổi trong các lĩnh
vực công nghệ, kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội.
o Công tác tư tưởng đề cao các nguyên lý
phổ quát, các đặc điểm chung của tổ
chức xã hội hiện đại.
o Thúc đẩy lối sống công nghiệp.
o Triển khai thực sự các nguyên lý phổ
quát của xã hội công nghiệp hóa hiện đại
hóa vào các chính sách cụ thể.
o Vận dụng có chọn lọc các định chế xã
hội hiện đại phù hợp với môi trường và
truyền thống bản địa.
o Tăng cường bản sắc văn hóa bản địa.
o Vận dụng nền văn hóa và các định chế
truyền thống phục vụ phát triển.
o Xây dựng thực sự các định chế hiện đại,
đảm bảo cho chúng có thể vận hành đúng
chức năng.
o Chống xu hướng truyền thống hóa các
định chế hiện đại để phục vụ các lợi ích
nhóm (đưa các cấu trúc lạc hậu vào cái
vỏ định chế hiện đại).
o Tôn trọng ý nguyện của nhân dân và các
nhóm xã hội khác nhau.
28
12. Lý thuyết
phát triển con
người
13. Quan
điểm mác-xít
thập niên
1960 về sự
tham gia
14. Lý thuyết
tham gia của
người dân
15. Quan
điểm phát
triển dựa trên
nhu cầu cơ
bản
16. Quan
điểm tăng
hội đó.
o Phúc lợi con người là mục tiêu tối cao và
bản chất của phát triển.
o Nâng thu nhập chỉ là phương tiện cho
phúc lợi con người.
o Hình thái phát triển kinh tế sẽ bị định hình
bởi mức độ và cách thức tham gia của
người dân.
o Các giai tầng xã hội có cơ hội rất khác
nhau trong việc tiếp cận và ảnh hưởng
đến quá trình ra quyết định của nhà nước.
o Chính sách kinh tế và ảnh hưởng của nó
lên mô hình phát triển bị định hình bởi
các giai tầng có quyền lực, có cơ sở hạ
tầng tổ chức mạnh, nắm quyền lực kinh
tế, có cơ hội dễ dàng tiếp cận đến nhà
nước.
o Nhà nước không phải là một tổ chức
trung tính, mà nó tổ chức và xúc tác cho
sự tham gia chính trị của giai tầng có
quyền lực, đồng thời giảm bớt tính tổ
chức của các giai tầng khác.
o Việc người dân tham gia rộng rãi vào đời
sống chính trị là cần thiết cho tăng trưởng
kinh tế.
o Sự tham gia có thể hoà hợp với tăng
trưởng kinh tế và hiện đại hoá, nếu thiết
lập được những kênh tổ chức và kiểm
soát có hiệu quả.
o Tham gia của người dân là mục đích tự
thân, là chính bản thân nội dung phát
triển.
o Người nghèo phải nhận được phần công
bằng trong thành quả của phát triển.
o Nhà nước có khả năng động viên và tổ
chức người dân, nhất là người nghèo,
tham gia vào phát triển.
o Dù sẽ có nhiều trở ngại từ phía các giai
tầng nắm quyền lực, sự tham gia của
người nghèo là có thể thực hiện được.
o Nhu cầu cơ bản của con người là xuất
phát điểm.
o Thoả mãn nhu cầu cơ bản của hàng triệu
người nghèo trong Thế giới thứ ba phải là
ưu tiên trước hết trong mọi nỗ lực phát
triển.
o Logic kinh tế-chính trị “nghèo hoặc
không được gì hoặc bị vạ lây”: người
nghèo không tự động được hưởng lợi từ
tăng trưởng trong giai đoạn thịnh vượng,
nhưng lại là nạn nhân đầu tiên trong giai
đoạn đình trệ và suy thoái. Do đó, cần có
chương trình mục tiêu cho những nhu cầu
cơ bản của người nghèo.
o Một xã hội là phát triển trước hết khi nó
biểu lộ khả năng và năng lực tốt hơn
o Thừa nhận và triển khai tư tưởng “con
người là trung tâm của phát triển”
o Phát triển hệ thống các chỉ báo phát triển
con người vào giám sát kết quả chính
sách.
o Thừa nhận logic kinh tế-chính trị “quyền
lực và sức mạnh kinh tế ảnh hưởng đến
cách thức phát triển” để triển khai các
chính sách và cơ chế nhằm hạn chế tác
động ích kỷ của các nhóm có sức mạnh
kinh tế và chính trị đến lợi ích phát triển
chung.
o Phát triển khu vực xã hội dân sự để cân
bằng các lợi ích và ảnh hưởng của các
nhóm xã hội khác nhau.
o Xây dựng khu vực nhà nước và bộ máy
công chức cam kết với lợi ích chung và
điều hành có hiệu quả.
o Quán triệt tư tưởng sự tham gia của
người dân là mục tiêu tự thân, không
phải là phương tiện được huy động cho
các mục tiêu khác.
o Định chế hóa các hoạt động tham gia của
người dân.
o Mở rộng không gian hoạt động của khu
vực xã hội dân sự.
o Tăng cường lợi ích và tiếng nói của các
nhóm yếu thế.
o Xây dựng khu vực nhà nước và bộ máy
công chức có cam kết và khả năng với
chức năng phục vụ sự tham gia của
người dân, nhất là của các tầng lớp yếu
thế.
o Không phải hệ thống xã hội, các tổ chức
và các giáo điều, mà nhu cầu của con
người hiện thực mới là căn cứ xuất phát
điểm của chính sách.
o Chính sách định hướng vào nhu cầu cơ
bản của người dân lao động (ví dụ: chính
sách khuyến khích thực phẩm và hàng
tiêu dùng cơ bản hay thực phẩm và hàng
tiêu dùng cao cấp nhập khẩu, thể dục thể
thao toàn dân hay thể dục thể thao đỉnh
cao và phục vụ trình diễn).
o Chính sách xã hội có mục tiêu và hiệu
quả để giảm nhẹ và thay đổi “logic kinh
tế-chính trị của sự nghèo khổ”.
o Thừa nhận nguyên lý sự tham gia của
người dân vào phát triển.
29
cường năng
lực
17. Phát triển
bền vững
18. Quan
điểm phát
triển là một
lịch sử cụ thể
nội tại
trong việc ra các quyết định và thực hiện
chúng một cách hiệu quả.
o Nhấn mạnh đến hoàn cảnh đặc thù của
các xã hội khác nhau và những ưu tiên
của người dân.
o Sự tham gia có hiệu quả của người dân
vào quá trình ra quyết định là một yếu tố
không thể thiếu của toàn bộ quá trình phát
triển.
o Thoả mãn các nhu cầu và nguyện vọng
của con người là mục tiêu quan trọng nhất
của mọi nỗ lực phát triển.
o Quyền công bằng đối với việc thoả mãn
những nhu cầu cơ bản và khát vọng có
một cuộc sống tốt hơn của đa số dân
nghèo.
o Các nhu cầu và mong muốn về một cuộc
sống xa xỉ cần phải bị từ chối như là
những điều trái ngược với nguyên tắc
phát triển bền vững trên quan điểm toàn
cầu.
o Đòi hỏi khuyến khích một tiêu chuẩn tiêu
dùng có tính đến các giớí hạn sinh thái và
tính đến mức độ mà toàn thể nhân loại
trên thế giới có thể mong muốn một cách
hiện thực.
o Phát triển không phải là một lịch sử phổ
quát mà là lịch sử riêng của mỗi nền văn
hoá.
o Mọi nền văn hoá đều bình đẳng, không
nền văn hóa nào có thể xác định mục tiêu
phát triển nhân danh nền văn hóa khác.
o Phát triển là một quá trình có nền tảng từ
văn hoá bên trong, một quá trình không
phải được quyết định từ bên ngoài.
o Đảm bảo không gian tự do cho các chọn
lựa của con người, của các nhóm xã hội.
o Đảm bảo hệ thống giáo dục đi trước,
mang tính đột phá trong tiến trình hiện
đại hóa.
o Xây dựng xã hội học tập.
o Coi phát triển bền vững là nguyên tắc
không thể khoan nhượng chỉ đạo mọi
hoạt động phát triển.
o Cân bằng giữa nhu cầu phát triển ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn trên nguyên tắc
đề cao nhu cầu và tầm nhìn dài hạn.
o Cân bằng giữa kinh tế, xã hội và môi
trường; cảnh giác cao với áp lực của tăng
trưởng kinh tế và lợi ích của các nhóm
quyền lực kinh tế.
o Chính sách hướng về nhu cầu cơ bản và
khát vọng của đa số dân lao động.
o Chính sách hướng về đáp ứng hợp lý nhu
cầu hiện tại nhưng bảo đảm cho tương
lai.
o Chính sách thân thiện với môi trường.
o Độc lập tự chủ trong phát triển, không
sao chép giáo điều bên ngoài, không mù
quáng chỉ dựa trên lý luận bên ngoài.
o Tăng cường sức mạnh văn hóa truyền
thống.
o Thừa nhận quyền phát triển theo cách
riêng của các dân tộc thiểu số trong
khuôn khổ luật pháp quốc gia chung.
Nguồn: Bùi Thế Cường.
30
CHƯƠNG HAI. KHUNG PHÂN TÍCH HIỆN THỰC XÃ HỘI
VIỆT NAM
2.1. KHUÔN MẪU VĂN HOÁ-XÃ HỘI
Theo cách nhìn xã hội học, văn hoá và cấu trúc xã hội là hai khái niệm rộng nhất, đồng thời lại
gắn chặt với nhau không thể tách rời như là hai mặt của một đồng xu, một tờ giấy, một bánh xe.
Cả hai gắn với nhau tạo nên tổ chức xã hội và cơ chế vận hành của xã hội, có thể gộp hai mặt
ấy lại và tạm gọi là khuôn mẫu văn hóa-xã hội. Trong quản lý sự phát triển xã hội, người ta phải
tư duy và điều hành chúng một cách đồng thời.
Mỗi xã hội cụ thể tại một thời điểm nhất định có một hay một vài khuôn mẫu văn hoá-xã hội cơ
bản. Có thể định nghĩa một khuôn mẫu văn hoá-xã hội liên quan đến một hệ tri thức, giá trị,
chuẩn mực (hợp thành văn hóa) và cấu trúc xã hội (phân bố và tương tác của các vị thế và vai
trò giữa và trong các nhóm, thiết chế, tổ chức), (Bảng 2.1).
Bảng 2.1. Khuôn mẫu văn hoá-xã hội
Hệ tri thức >
Giá trị >
Chuẩn mực >
Văn hoá >
Bánh xe
nhìn dọc:
Hai mặt
tạo nên
tổ chức
xã hội
< Cấu trúc xã hội
Phân bố & tương tác của các
< vị thế & vai trò giữa và trong
các nhóm, thiết chế, tổ chức
Nguồn: Bùi Thế Cường.
2.2. TƯƠNG TÁC CỦA BA KHUÔN MẪU: MỘT KHUNG LÝ THUYẾT ĐỂ NHÌN THỰC
TẾ VIỆT NAM
Công cuộc Đổi Mới từ năm 1986 khởi đầu một biến đổi cơ bản trong văn hoá và cấu trúc của
xã hội Việt Nam. Ngay lập tức, đã có những thay đổi to lớn. Tuy nhiên, xã hội Việt Nam cho
đến nay vẫn còn là một xã hội quá độ và chuyển đổi. Nhìn đại thể, có ba khuôn mẫu văn hoá-xã
hội cơ bản đang tương tác với nhau ở Việt Nam hiện nay (Bảng 2.2).
Thứ nhất, khuôn mẫu văn hoá-xã hội liên quan đến kiểu tổ chức hành chính tập trung quan liêu
bao cấp. Sau Đổi Mới một thời gian, có xu hướng cho rằng vấn đề khắc phục cơ chế quan liêu
bao cấp đã hoàn thành về cơ bản. Thực tế không hoàn toàn như vậy. Thực tiễn hành chính tập
trung bao cấp của chúng ta là một khuôn mẫu văn hóa-xã hội hỗn hợp của tổ chức làng xã cổ
truyền, phương thức sản xuất châu Á và vay mượn mô hình xô-viết. Nhiều nguyên lý và giá trị
của cấu trúc này hiện nay vẫn còn duy trì, một cách vô hình và hữu hình, vô thức và có ý thức.
Chẳng hạn, cho đến gần đây báo chí vẫn còn hàng loạt bài nói đến việc khắc phục cơ chế "xincho". Cải cách hành chính là một trong những vấn đề chủ yếu được nêu lên từ hơn 15 năm
trước song đến nay vẫn còn hoàn toàn dang dở. Phải chăng điều này là biểu hiện của thực tế
rằng vẫn còn nhiều rào cản của cơ chế cũ, với tên gọi "cách quản lý hành chính quan liêu bao
cấp"?
31
Thứ hai, khuôn mẫu văn hoá-xã hội cổ truyền (theo nghĩa chưa công nghiệp hoá, hiện đại hoá).
Khuôn mẫu này một phần gia nhập vào cấu trúc nói trên, một phần bị chính cấu trúc này đẩy
vào lĩnh vực phi chính thống hay phi hình thức. Phần sau này hiện nay đang phục hồi mạnh mẽ
(lễ hội, ma chay, cưới xin, định hướng giá trị theo dòng họ, theo đồng hương, v.v.). Trong cấu
trúc cổ truyền, phải xem xét những cấp độ (hay yếu tố) cơ bản: cá nhân, gia đình/dòng họ, làng
xã, địa phương (tỉnh, vùng) và nhà nước (quốc gia).
Thứ ba, khuôn mẫu văn hoá-xã hội dựa trên nguyên lý thị trường. Hệ giá trị và chuẩn mực này
hoàn toàn không phải là đơn trị đối với phát triển (nó cũng có mặt lợi và hại). Thêm nữa, người
ta phải phân biệt hệ giá trị/ chuẩn mực thị trường trong giai đoạn ban đầu khác với trong giai
đoạn phát triển đầy đủ.
Ba khuôn mẫu nói trên đang tương tác mạnh mẽ trong tiến trình phát triển hiện nay ở Việt
Nam. Chúng là cấu trúc xã hội, là văn hoá, là quyền lực, là động lực, tác động ở mọi cấp độ từ
chiều sâu đến bề mặt đời sống hàng ngày. Một số người đôi khi có cái nhìn một chiều về ba
khuôn mẫu trên, theo kiểu từng khuôn mẫu hoặc chỉ là tích cực hoặc chỉ là tiêu cực. Lý thuyết
hiện đại hoá biện chứng đề xuất cách nhìn đan xen hơn về cái cổ truyền cũng như cái hiện đại
(Xem Chương Một). Theo đó, không phải cái gì hễ là cổ truyền thì đều không thích hợp với
phát triển, cần phải thay thế, còn hễ cái gì là hiện đại thì đều thích hợp với phát triển, cần du
nhập. Trong thực tế, quá độ từ cổ truyền sang hiện đại phức tạp và đa diện hơn, theo đó cái cổ
truyền và cái hiện đại thâm nhập và tương tác lẫn nhau.
Trong hiện thực là sự pha trộn của ba khuôn mẫu. Ba khuôn mẫu gây trở ngại cho nhau, tác
động vào nhau. Tương tác giữa chúng tạo ra xung đột, đột phá, phát triển; nhưng cũng tạo ra
cân bằng, trì trệ, biến dạng, thụt lùi.
Ba khuôn mẫu thể hiện trong mọi lĩnh vực. Chẳng hạn, biểu hiện trong kinh tế là ta thấy có một
thực thể kinh tế ba tầng, ba chiều: khu vực kinh tế quốc doanh, tư nhân, hộ gia đình. Trong lĩnh
vực phúc lợi xã hội ta thấy các định chế và hoạt động phúc lợi của Nhà nước tập trung, phúc lợi
xã hội phi chính thức, phúc lợi doanh nghiệp, hoạt động phúc lợi của cá nhân và gia đình.
Trong lĩnh vực xã hội dân sự ta thấy sự cùng tồn tại của các tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội,
các NGO, hiệp hội kinh doanh.
Sự phát triển quy đến cùng là một tiến trình diễn ra hàng ngày của hàng triệu hành động xã hội
của các cá nhân, nhóm, tổ chức,... Mặc dù các hành động đó là vô cùng lớn về mặt số lượng,
gần như là vô hạn, song chúng có thể quy lại thành một số lượng hạn chế những mô thức ứng
xử, vì chúng bị quy định bởi một tập hợp nhất định các giá trị và chuẩn mực xã hội. Nghiên cứu
xã hội cho phát triển cần tìm hiểu xem đang có những giá trị và chuẩn mực xã hội như thế nào
chi phối mô thức ứng xử và tư duy của con người, mô tả các mô thức quan trọng có tác động
căn bản (theo cả hai chiều) đến phát triển. Điều khó khăn là không có một tương quan đơn nhất
giữa mỗi giá trị và chuẩn mực với nhu cầu phát triển (bởi phát triển là một tập hợp của các chỉ
tiêu khác nhau), không có kết quả đơn trị của mỗi giá trị hay chuẩn mực trong hàm số phát
triển.
Sự ràng buộc của cá nhân vào gia đình/dòng họ, cộng đồng và nhà nước đem lại những tác
dụng trái ngược nhau cho phát triển. Chẳng hạn, người ta có thể sử dụng sự ràng buộc của gia
đình và làng xã làm cơ chế tín chấp cho vấn đề tín dụng cho nông dân, nhất là nông dân nghèo,
một lối thoát cho nơi nào mà cơ chế thế chấp không thể hoạt động. Nó cũng là một cơ sở để
32
đương đầu với thách thức phát triển "mất gốc" (tức là hiện đại hoá kèm theo mất bản sắc văn
hoá). Nó là một cơ chế của bảo đảm xã hội lấp khoảng trống về nhu cầu phúc lợi mà hệ thống
bảo đảm xã hội chính thức chưa đáp ứng được. Nó có thể hỗ trợ cho cá nhân phấn đấu và thành
đạt (các mối liên hệ họ hàng và đồng hương đã hoạt động và có vai trò rất mạnh trong việc giúp
cá nhân thăng tiến). Tuy nhiên, sự ràng buộc này cũng gây trở ngại cho năng động cá nhân và
việc xây dựng một "xã hội công dân" mang tính toàn quốc, vốn là những tiền đề và kết quả của
một nền kinh tế thị trường quốc gia hoạt động có hiệu quả.
Làng xã đem lại một sự ràng buộc cá nhân, nhưng tạo ra lãnh địa riêng mà nhà nước không thể
can thiệp vào ("phép vua thua lệ làng"). Nhà nước có vai trò không thể thay thế được, tầm quan
trọng sống còn của nó đối với phát triển là không thể chối cãi. Song một nhà nước thái quá và
lệch lạc về cấu trúc-chức năng như kiểu nhà nước trong phương thức sản xuất châu Á và trong
cấu trúc xã hội hành chính tập trung quan liêu bao cấp, sẽ đem lại hại nhiều hơn lợi (nếu không
muốn nói là hoàn toàn có hại) cho tiến trình phát triển hiện đại. Trong hai kiểu nhà nước đó
không có chỗ cho năng động cá nhân, thương mại (thị trường), hiệu suất kinh tế, vốn là các yếu
tố của một xã hội thị trường mang tính chức năng (functioning).
Bảng 2.2. Ba khuôn mẫu văn hoá-xã hội trong thực tế xã hội Việt Nam hiện nay
Khuôn mẫu
Cổ truyền
Thiết chế và tổ chức
Nhà nước trung ương tập quyền.
Làng xã.
Gia đình.
Chủ nghĩa xã
hội theo kiểu
hành chính tập
trung bao cấp
Kế hoạch, mệnh lệnh.
Quốc doanh.
Hợp tác xã.
Đoàn thể quần chúng.
Thị trường
Thị trường.
Công ty.
Tổ chức xã hội dân sự.
Nguồn: Bùi Thế Cường.
Đặc điểm cấu trúc và văn hoá
Nông nghiệp nhỏ, tự cung tự cấp.
Tự trị làng/ văn hoá làng.
Logic phân đẳng gia đình/dòng họ/làng/nhà nước.
Cộng đồng luận (lợi ích và sự tồn tại của làng và các
nhóm trong làng).
Sản xuất và tiêu dùng theo kế hoạch mệnh lệnh.
Lợi ích kinh tế nhà nước.
Tập trung dân chủ.
Nhà nước chủ đạo.
Đơn vị sản xuất là đơn vị phúc lợi.
Chủ toàn luận (lợi ích và sự phát triển của cái chung,
cái toàn thể).
Sản xuất và tiêu dùng theo tín hiệu thị trường.
Lợi nhuận và lợi ích kinh tế cá nhân.
Nhà nước hạn chế.
Cơ cấu cá nhân/nhóm lợi ích/nhà nước.
Tự trị tổ chức.
Cá nhân luận (lợi ích và sự phát triển cá nhân).
2.3. TOÀN CẦU LÀ XUẤT PHÁT ĐIỂM
Trong thực tế phát triển nhiều thập niên và cho tới tận ngày nay của Việt Nam, người ta thấy 2
chủ đề nổi bật: thị trường và chủ nghĩa xã hội. Một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam có xu hướng
cho rằng đây là điểm đặc thù của Việt Nam, hoặc chí ít là của một số ít nước xã hội chủ nghĩa.
Cách nhìn này dễ gây ngộ nhận, rơi vào thuyết “chủ nghĩa đặc thù” (particularism). Thực ra,
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội là một khuôn khổ mang tính lịch sử
(ít ra là từ thế kỷ XIX đến tận ngày nay) và mang tính toàn cầu (diễn ra ở tất cả các nước). Toàn
bộ sự nghiệp nghiên cứu và thực tiễn của Mác, Engels và Lê Nin đều dựa trên định đề này.
Trong thập niên 1960, học giả mác-xít E. Wallerstein một lần nữa lại nhấn mạnh đặc trưng đó
33
khi đề xuất ý tưởng rằng để hiểu được các hiện tượng xã hội ngày nay phải luôn xuất phát từ
cách nhìn thế giới là một hệ thống.
Nếu như thế giới là một hệ thống và chỉ có một quá trình lịch sử toàn cầu, thì cần thấy rằng
cũng như mọi quốc gia khác, Việt Nam chỉ là một biểu hiện, một địa điểm cụ thể của quá trình
lịch sử toàn cầu mà thôi. Do đó, về mặt phương pháp luận, việc xác định "vấn đề cơ bản" của
Việt Nam (hiện tại như đã được xác định chính thức đó là vấn đề "công nghiệp hóa, hiện đại
hóa rút ngắn và theo định hướng xã hội chủ nghĩa") cũng như mọi vấn đề cụ thể nảy sinh từ vấn
đề cơ bản này, đều phải xuất phát từ quan điểm lịch sử toàn cầu. Nói cách khác, hoàn cảnh toàn
cầu định hình Việt Nam chứ không phải ngược lại; tuy rằng mọi quốc gia trong đó có Việt Nam
đều tham gia vào “sân khấu” toàn cầu một cách tích cực và sáng tạo.
Từ khoảng năm 2000 trở lại đây, nổi lên tiếng nói ngày càng được tán thành rằng Việt Nam
chưa chú ý nghiêm túc đúng mức đến vấn đề hội nhập quốc tế (gần đây tình hình đã thay đổi:
những khó khăn kinh tế xuất hiện ở Việt Nam năm 2007 và cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu từ 2008 đã khiến các nhà vạch chính sách Việt Nam ý thức được hoàn toàn rõ ràng rằng
Việt Nam phụ thuộc sâu rộng như thế nào vào thế giới). Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu và
nhà làm chính sách có xu hướng nói đến hội nhập quốc tế chỉ thuần tuý về mặt kinh tế. Cần
thấy rằng hội nhập quốc tế không chỉ là động lực và cơ hội kinh tế. Thực ra, hội nhập quốc tế là
một quá trình toàn diện, bao quát mọi mặt, trong đó kinh tế chỉ là một khía cạnh. Không thừa
nhận điều này sẽ dẫn đến sự lúng túng, mâu thuẫn, nửa vời và định hướng chệch trong hành
động.
Lý thuyết mác-xít về quan hệ quốc tế mà Wallerstein đề xuất trong thập niên 1960 nhìn hệ
thống thế giới như là thực thể thống nhất mang tính tư bản chủ nghĩa với ba vùng khác nhau:
trung tâm, ngoại vi và bán ngoại vi. Trong đó vùng trung tâm bao gồm các nước công nghiệp
phát triển nhất, giữ địa vị thống trị, chi phối nguồn vốn toàn cầu, nắm quyền điều hành công
việc thế giới. Từ đó đến nay, thực tế này vẫn không thay đổi nhiều. Thậm chí, điều này còn trở
nên đúng hơn nữa, sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện thực sụp đổ. Về điều này có thể tham
khảo thêm những bài thuyết trình của Samir Amin tại Việt Nam (Quỹ Hòa bình và Phát triển
Việt Nam, 11/2007). Cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu diễn ra trong hai năm 2008-2009 đã đảo
lộn khá mạnh mẽ “cấu trúc” đó. Giới học giả và truyền thông quốc tế nói nhiều đến sự xuất hiện
của G-20, nhóm BRIC, thậm chí của G-2 (Mỹ và Trung Quốc); tranh luận về những khu vực và
thể chế quốc tế mới đang nổi lên; dự đoán về những “tay chơi toàn cầu” mới, đem đến những
cân bằng quyền lực mới. Mặc dù vậy, có vẻ như chưa có thay đổi thực sự gì nhiều trong cái
khuôn khổ cấu trúc quốc tế đã hình thành trong thế kỷ XX.
Trong toàn bộ thời kỳ từ đó cho đến nay, Việt Nam là một quốc gia thuộc vùng ngoại vi. Do
những yếu tố lịch sử khác nhau, mà đất nước thuộc vùng ngoại vi này đã trở thành một tâm
điểm nóng của lịch sử thế giới, nơi đối đầu của hai hệ thống. Nói cách khác, là một vùng ngoại
vi nhưng lại trở thành một yếu tố lớn trong công việc của các quốc gia thuộc "trung tâm". Sau
1975, thực tế này đã thay đổi. Việt Nam dần dần trở lại thành một quốc gia ngoại vi. Để có thể
thay đổi vị thế này, Việt Nam phải xác định được đúng vị thế của mình trong hệ thống, xử lý
được quan hệ của mình với "trung tâm" một cách đúng đắn, bởi vì khu vực "trung tâm" vẫn là
nơi "quản lý" công việc thế giới về mọi mặt (tài chính, chính sách phát triển, hệ tư tưởng, văn
hoá, ...). Điều này cũng giống hệt như tình hình trước 1975: trục cơ bản là xử lý thành công mối
quan hệ của mình với "trung tâm". Chỉ có xử lý đúng đắn trục cơ bản này, mới tạo ra được một
trong những điều kiện cơ bản cho việc thay đổi vị thế trong hệ thống.
34
Nhiều người thường nói rằng phải nỗ lực "để bắt kịp các nước khác". Cách nghĩ và cách nói
này cần được làm sáng tỏ hơn, bởi vì nó dễ dẫn đến sự mơ hồ, xem thế giới như là một không
gian lỏng lẻo, tự do, phân tán, ở đó một quốc gia có thể tham gia hoặc không tham gia "cuộc
chơi". Theo lý thuyết "hệ thống thế giới" (lý thuyết này có manh nha ngay từ trong lý luận của
Lê Nin, cũng như của một số nhà nghiên cứu trước Lê Nin), thế giới không phải như vậy. Thế
giới là một hệ thống chặt chẽ, có sự thống trị và đấu tranh; trong đó các đơn vị của nó có vị thế
bị xác định; việc thay đổi vị thế là "có khả năng", nhưng hết sức khó khăn. Nghiên cứu phát
triển quốc tế cho thấy trong vòng nửa thế kỷ phát triển, chỉ có 5% các nước đang phát triển vượt
thoát khỏi cái bẫy nước nghèo. Báo cáo 2003 của UNDP về phát triển con người nói rằng năm
2000 có 54 nước trở nên nghèo hơn so với 1990, trong thời kỳ 1988-1998 các thông số kinh tế
giảm tại 55 nước và trong vòng một thập niên có 34 nước bị tụt hạng trong bảng xếp hạng về
chỉ số phát triển (Houtart, 2007). Hệ thống quốc tế với các quốc gia như là các tác nhân hành
động chịu sự chi phối của một cấu trúc thế giới cũng chặt chẽ như là một cấu trúc xã hội trong
đó những cá nhân hay hộ gia đình là đơn vị hành động. Các cá nhân và hộ gia đình có thể di
động trong một cấu trúc xã hội định sẵn, song đây là một khả năng rất gian nan.
Theo cách nhìn trên, thì mô hình hay là cấu trúc quan hệ quốc tế toàn cầu là xuất phát điểm để
định hình hành vi của Việt Nam, chứ không phải bắt đầu từ việc định hình bản thân trước rồi
mới tính đến thế giới như là "một hoàn cảnh" bên ngoài, cần phải "khai thác", "vận dụng". Từ
góc độ của tiếp cận xã hội học tiến hoá, các cá thể (con người, tổ chức, nhóm, quốc gia,...) phải
thích nghi với môi trường, chứ không phải ngược lại.
Gần 25 năm Đổi Mới vừa qua là quá trình Việt Nam từng bước học được "logic tất yếu thép"
này, nhưng với cái giá quá cao về thời gian và về nhiều mặt khác. Trong khi đó một số nước
Đông Á và Đông Nam Á đã thừa nhận bài học này từ lâu, thậm chí từ đầu, và đã vận dụng khá
thành công "nguyên lý" này.
2.4. KẾT HỢP CHỦ NGHĨA TƯ BẢN VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Xét về mặt lịch sử và toàn cầu, thì hệ thống thế giới vận động trong sự đấu tranh giữa chủ nghĩa
tư bản và chủ nghĩa xã hội. Điều này đã diễn ra từ gần 200 năm nay trên phạm vi toàn cầu, và
có thể sẽ còn tiếp tục trong một kích thước lịch sử lâu dài. Từ "đấu tranh" nói trên trước hết là
một thuật ngữ "triết học". Nó cũng là thuật ngữ của thực tiễn, nhưng khi đi vào thực tiễn, phải
hiểu thuật ngữ này đầy đủ hơn và vẫn phải hiểu nó là một thuật ngữ học thuật thay vì gán vào
đó một cách hiểu bề mặt đời thường.
Trong thực tiễn, người ta thấy một biểu hiện của “sự đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội” là "sự kết hợp" giữa chúng. Trong quá trình phát triển thực tiễn ở nước Nga, Lê
Nin đã từng có thời điểm nói đến "sự kết hợp" này (Chính sách kinh tế mới, NEP). Điều đáng
tiếc là sau đó xu hướng cực đoan hơn trong phong trào cách mạng đã thắng thế, nhấn mạnh vào
"loại bỏ tất cả mọi thứ của chủ nghĩa tư bản, để xây dựng một chủ nghĩa xã hội theo nghĩa tuyệt
đối và hoàn toàn khác với chủ nghĩa tư bản".
Bên ngoài khối các nước xã hội chủ nghĩa "chính thống", đã diễn ra một loạt "sự kết hợp" giữa
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội theo nhiều kiểu khác nhau. Một phần không nhỏ thì thất
bại: ở châu Phi và châu Mỹ Latin. Nhưng cũng đã có những "thành công": các nước công
nghiệp phát triển cao Âu-Mỹ (đặc biệt là các nước trong mô hình Bắc Âu), Nhật Bản, các nước
35
công nghiệp mới ở Đông và Đông Nam Á. Trung Quốc sau cải cách 1978 và Việt Nam sau Đổi
Mới 1986 đang được xem là những thử nghiệm mới về sự kết hợp này và đang hứa hẹn có
thành công, mặc dù còn tiềm ẩn nhiều rủi ro và nhiều điểm chưa rõ ràng.
Xuất phát từ cách nhìn trên, có thể rút ra 2 luận điểm có liên hệ với nhau sau đây. Thứ nhất, hệ
thống thế giới và quá trình lịch sử toàn cầu là hệ quy chiếu, xuất phát điểm định hình đường lối
và chiến lược phát triển đất nước. Thứ hai, các nước "thành công" trong sự kết hợp giữa chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội là cơ sở thực tiễn duy nhất có "thẩm quyền" (bởi vì đã có bằng
chứng) để học tập. Ngoài ra, không thể căn cứ vào cái gì khác (diễn giải hệ tư tưởng, ...).
Quá trình phụ thuộc lẫn nhau vào hệ thống kinh tế và chính trị toàn cầu đã tiến nhanh. Trong
cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997, nền kinh tế Việt Nam ít chịu ảnh hưởng. Nhưng
sự ảnh hưởng dù không đáng kể này cũng đã chỉ ra mặt thứ hai của nó: nền kinh tế đất nước đã
gắn vào kinh tế thế giới ở mức độ nhất định. Kể từ đó, sự phụ thuộc đã tăng lên nhanh chóng.
Chính sách mở cửa, mở rộng quan hệ đa phương và toàn cầu hoá tư bản chủ nghĩa đang tăng
tốc, ba nhân tố này đã làm cho Việt Nam ngày càng chịu tác động của môi trường quốc tế. Suốt
từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO cuối năm 2006 đến nay, hàng loạt sự kiện kinh tế trong
nước như giá vàng tăng, giá cả mọi hàng hóa tăng, thị trường chứng khoán tụt dốc, đều chứng
tỏ nền kinh tế Việt Nam đang phụ thuộc rất mạnh vào thế giới. Diễn biến kinh tế những năm
2007-2009, rút cuộc, đã chấm dứt (?) cách tư duy “tách rời” (Việt Nam và thế giới) dai dẳng
trong nhiều người Việt Nam khi hoạch định chính sách và nghiên cứu.
Thực tế này làm nảy sinh hai luồng quan điểm, luồng thứ nhất cho rằng định hướng xã hội chủ
nghĩa tỏ ra ngày càng giảm, khó duy trì hơn, một khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát
triển. Luồng quan điểm này dựa trên một khối bằng chứng kinh nghiệm ngày càng lớn, trong đó
có cả những bằng chứng của nghiên cứu xã hội thực nghiệm. Bên cạnh đó, vẫn thấy sự tồn tại
của một kiểu lập luận giáo điều về định hướng xã hội chủ nghĩa, bằng cách bất chấp những khối
tài liệu thực nghiệm mới ngày càng lớn, chỉ dựa trên việc duy trì một "mô hình phân tích kết
cấu xã hội" cũ, không còn ăn nhập với thực tế hiện nay.
Cần phải tính đến những bằng chứng kinh nghiệm mới, không được bỏ qua chúng như kiểu lập
luận giáo điều đang làm. Đồng thời, cần nỗ lực tìm kiếm những nền tảng lý thuyết cho phép
giải thích sâu sắc hơn thực tế hiện nay, tránh cách giải thích đơn giản hoá theo thực chứng luận
của luồng quan điểm thứ nhất. Định hướng xã hội chủ nghĩa là một khả năng hiện thực trong
bối cảnh kinh tế thị trường, điều này đúng với cả cấp độ toàn cầu cũng như cấp độ Việt Nam.
Trong các nước phát triển cao, các yếu tố của định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn trở nên rõ ràng,
mặc dù xu hướng này không phải là đơn thuần tuyến tính.
Trong bối cảnh hình thành kinh tế thị trường ở Việt Nam, định hướng xã hội chủ nghĩa dĩ nhiên
gặp nhiều thách thức hơn, song theo phép biện chứng thì chính điều này lại cũng tạo ra nhiều cơ
hội hơn cho việc bộc lộ định hướng xã hội chủ nghĩa. Gần 25 năm đẩy mạnh xu hướng thị
trường ở Việt Nam cũng là thời kỳ chứng kiến những nỗ lực thành công mang tính xã hội chủ
nghĩa: giảm nghèo, tăng thu nhập từ phúc lợi xã hội, phát triển dân chủ, cân bằng giữa các vùng
và khu vực, mở rộng hệ thống y tế và giáo dục cho toàn dân.
2.5. BẢN ĐỒ TÁC ĐỘNG XÃ HỘI
36
Tồn tại và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa và quá độ lịch sử thế giới mang tính con lắc
giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của những
yếu tố trên. Kết quả là vào cuối thập niên 1980, Việt Nam chuyển sang nền chính trị Đổi Mới.
Có thể nhìn hệ thống chính trị Đổi Mới như là một cấu trúc có mục tiêu và nội dung của mình,
với những hệ quả xã hội nhất định.
Bảng 2.3 là một sơ đồ khái niệm hóa cấu trúc của Đổi Mới và những tác động xã hội của nó.
Cấu trúc của Đổi Mới có thể nhìn nhận từ góc độ bao hàm ba thành tố: chủ trương, thể chế1 và
chính sách. Các chủ trương, thể chế và chính sách lớn này đã mở ra không gian biến đổi xã hội
và văn hoá mạnh mẽ trong xã hội Việt Nam.
Cột 1 đề cập đến 6 chủ trương lớn cấu thành đường lối chính trị Đổi Mới, những chủ trương
này vừa phản ánh điểm xuất phát vừa phản ánh mục tiêu của đường lối Đổi Mới. Trong diễn
tiến thực tế, chủ trương trực tiếp dẫn đến các định hướng chính sách (cột 3), trước khi các thể
chế được tái tổ chức. Nhưng về mặt lô gích, các chủ trương đi vào thực tiễn phải thông qua thể
chế. Kinh nghiệm hiện đại hóa ở các nước phương Tây trong 200 năm qua cũng như kinh
nghiệm xây dựng lại quốc gia của Nga và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã chỉ ra tương
quan vai trò giữa thể chế và chính sách (Xem Hộp 2.1 và xem thêm Chương Bốn, mục 4.2.5).
Cột 2 đề cập ba thể chế trụ cột: kinh tế thị trường, nhà nước và xã hội dân sự.
Cột 3 trình bày các định hướng chính sách được nhóm lại trong 6 vùng chủ đề chính: khu vực
(thành phần) kinh tế, giảm nghèo, nhân lực, hệ thống chính trị, hệ thống phúc lợi xã hội, phát
triển bền vững về mặt môi trường. Cột 4 nêu lên những tác động của các chủ trương chính sách
lớn theo hai chiều (thuận/nghịch, tích cực/tiêu cực, mong muốn/không mong muốn). Nội dung
trong các ô liên hệ và tương tác nhân quả với nhau theo cả chiều dọc, ngang và chéo. Mỗi phân
tích cụ thể được tiến hành bằng cách phát triển các mối liên hệ theo các chiều ngang dọc giữa
những nội dung trong các ô.
Bảng 2.3. Cấu trúc của Đổi Mới và những tác động xã hội
Chủ trương
Đa dạng
hoá, năng
động hoá và
tự do hoá
kinh tế, văn
hóa và xã
hội
Định hướng
xã hội chủ
nghĩa
Cấu trúc của Đổi Mới
Thể chế
Chính sách
Thể chế kinh Cải cách khu vực
tế thị trường kinh tế Nhà nước
Mở rộng khu vực
kinh tế tư nhân
Khuyến khích
kinh tế hộ gia đình
Thể chế nhà
nước: chính
trị, luật pháp,
Giảm nghèo
Tác động xã hội
Hướng tác động chung: Biến đổi cấu trúc xã hội và
văn hoá:
Hình thành một kết cấu giai tầng xã hội mới (biến đổi
vị thế và vai trò của các giai tầng).
Biến đổi hệ giá trị: lợi ích kinh tế, cá nhân và gia đình,
liên kết xã hội, hiện đại hoá, trở về truyền thống, dân
tộc và quốc gia.
Thay đổi quan hệ lao động.
Thay đổi kiểu quan hệ giữa Nhà nước, xã hội và cá
nhân.
Tái tổ chức và tổ chức mới các định chế xã hội.
Những nỗ lực tập thể và phong trào xã hội.
Tích cực:
Năng động hoá và đa dạng hoá đời sống kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hoá và tinh thần.
Về mặt thuật ngữ quốc tế có từ institution được dịch là thiết chế hay định chế, và constitution dịch là thể chế. Ở
đây, sử dụng thuật ngữ thể chế theo tính phổ biến trong khoa học xã hội Việt Nam để chỉ những institution lớn, căn
bản nhất của xã hội; còn lại sẽ sử dụng thuật ngữ định chế.
1
37
Mở cửa hội
nhập
Xây dựng
đời sống
văn hoá
hiện đại,
đậm đà bản
sắc dân tộc
Đại đoàn
kết toàn dân
hành chính,
tư tưởng
Xã hội dân
sự: hiệp hội,
tổ chức xã
hội, mạng
lưới xã hội
Thân thiện
với môi
trường
Nguồn: Bùi Thế Cường
Phát triển nguồn
nhân lực
Đổi mới hệ thống
chính trị
Cải cách hành
chính
Hình thành xã hội
dân sự
Củng cố và mở
rộng hệ thống
phúc lợi xã hội
Phát triển bền
vững về mặt môi
trường
Hình thành kết cấu phân tầng xã hội mới dựa trên thị
trường.
Mức sống của đại bộ phận dân cư tăng lên.
Liên kết xã hội, dân tộc và quốc gia.
Đầu tư nhiều hơn cho giáo dục và mục tiêu dài hạn.
Khung thể chế kinh tế và nhà nước trở nên rõ ràng và
hiệu quả hơn.
Khai thác các nguồn lực quốc tế. Hội nhập với thế
giới.
Tiêu cực:
Tăng cách biệt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và
tinh thần. Tăng cách biệt nông thôn-đô thị và khu vực.
Xung đột xã hội có xu hướng tăng.
Định chế gia đình suy giảm chức năng.
Xu hướng tăng hành vi lệch chuẩn, tội phạm, tệ nạn xã
hội.
Tăng gánh nặng chi phí của xã hội và cá nhân cho y tế
và giáo dục.
Tăng phụ thuộc vào biến động toàn cầu.
Tài nguyên khai thác quá mức, ô nhiễm môi trường.
Hộp 2.1. Vai trò của thể chế trong cải cách: Phỏng vấn của VietnamNet với ông Grzegorz
Kolodko, nguyên Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Tài chính Ba Lan.
Trong bài phát biểu của mình, ông có nhắc đến bài học mà các nước Trung Đông Âu đã
phải trả do liệu pháp sốc gây ra (thất nghiệp ồ ạt, thất thoát tài sản công, lạm phát phi
mã...), Ba Lan đã làm thế nào để vượt qua những khó khăn đó và trở thành nước có nền
kinh tế lớn nhất Trung Đông Âu?
Thật không dễ dàng khi giải quyết gánh nặng mà các biện pháp thiếu tính toán được gọi
là "sốc" đã gây ra. Hậu quả rõ nét nhất là GDP của Ba Lan đã sụt giảm 20%. Khi nhậm
chức Bộ trưởng Tài chính kiêm Phó Thủ tướng (giai đoạn 1994-1997), tôi đã áp dụng
phương thức khác, cụ thể là cam kết mạnh mẽ hơn đối với việc tiến hành cải cách thể
chế. Chuyển đổi nền kinh tế không chỉ giản đơn là tự do hoá hay tư nhân hoá, quan trọng
hơn đó là xây dựng các thể chế, tổ chức cơ cấu pháp lý cho nền kinh tế thị trường
như: thị trường vốn, ngân hàng đầu tư, luật và các tổ chức, chính sách cạnh tranh, bảo hộ
quyền sở hữu tài sản...
Không nên tư nhân hoá ồ ạt, thiếu cân nhắc. VietnamNet. 1/6/2004. Việt Lâm-Cẩm Tú
thực hiện.
2.6. ĐI TÌM MỘT DIỄN GIẢI LÝ LUẬN: TÓM TẮT VÀ KIẾN NGHỊ
Dựa trên những nội dung trình bày ở chương trước, chương này cố gắng sắp xếp một khung
logic để nhìn vào thực tế ở Việt Nam. Khung logic này bao gồm ba nội dung cơ bản. Trước hết,
tác giả đề xuất khái niệm “khuôn mẫu văn hóa-xã hội”. Khái niệm này áp dụng vào thực tế hiện
nay cho thấy xã hội Việt Nam thời kỳ Đổi Mới là một hiện thực hỗn hợp của ba khuôn mẫu văn
hóa-xã hội khác nhau. Các quan điểm lý luận, định hướng tư tưởng và định hướng chính sách
đều xoay quanh sự “chung sống” và “đấu tranh” của ba kiểu khuôn mẫu này. Và chúng đều bị
ba khuôn mẫu này chi phối một cách tự giác hoặc không tự giác.
Tiếp theo, tác giả cho rằng để Việt Nam định hình được bản thân trong tiến trình phát triển lịch
sử thế giới hiện nay thì cần thừa nhận rằng bối cảnh toàn cầu phải là xuất phát điểm của lý luận,
38
định hướng tư tưởng và chính sách. Bối cảnh toàn cầu hiện nay, như cách xác định vẫn có hiệu
lực trong suốt thế kỷ XX, vẫn là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên,
sự quá độ này cần được hiểu lại toàn diện hơn từ quan điểm triết học thực sự của Mác.
Cuối cùng, tác giả trình bày một sơ đồ mô tả cấu trúc của đường lối Đổi Mới và các tác động xã
hội của nó; với hy vọng sơ đồ này góp phần giúp cho tư duy của nhà lý luận và làm chính sách
có được một bản đồ để hiểu và tìm đường trong thực địa (xã hội).
Trong Chương này, xin nêu lên một số kiến nghị sau đây.
o Tiếp tục coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển là vấn đề lý luận và thực tiễn trung
tâm trong công tác nghiên cứu lý luận và hoạch định chính sách.
o Một trong những kiểu tư duy xã hội học có tác dụng bổ ích cho nhà lý luận và hoạch định
chính sách là nhìn thực địa xã hội và hành động trong đó theo hai trục gắn kết chặt chẽ với
nhau: văn hóa và cấu trúc xã hội. Về mặt văn hóa, 3 cốt lõi của nó là hệ tri thức, hệ giá trị và
hệ chuẩn mực. Về mặt cấu trúc xã hội, điểm then chốt là tương tác giữa 3 chủ thể chủ yếu:
các nhóm xã hội, các thiết chế và các tổ chức.
o Nhấn mạnh một cách chính thức và rõ ràng hơn hai luận đề cơ bản trong mọi công tác lý luận,
tư tưởng và định hướng chính sách. Đó là luôn nhìn và định hình các hành động cơ bản trên
quan điểm coi môi trường toàn cầu là xuất phát điểm, và trên quan điểm “kết hợp” chủ nghĩa
tư bản và chủ nghĩa xã hội (“hòa bình, hợp tác và phát triển là xu hướng của thời đại”).
o Tập trung xây dựng khuôn mẫu văn hóa-xã hội hiện đại; chuyển từ một hiện thực xã hội hỗn
hợp của ba khuôn mẫu văn hóa-xã hội sang một hiện thực mới nhất quán với nguyên lý thị
trường định hướng vào xã hội và môi trường, có tính đến những yếu tố truyền thống thích ứng
được với xã hội hiện đại.
o Có những nghiên cứu rộng lớn hơn về cấu trúc thực sự của nền chính trị Đổi Mới, về tương
tác của các thành phần trong cấu trúc ấy (chủ trương, thể chế, chính sách), và về các hệ quả xã
hội của Đổi Mới.
39
CHƯƠNG BA. ĐỘNG THÁI DÂN SỐ VÀ BIẾN ĐỔI XÃ HỘI
Từ lâu, khoa học xã hội đã hiểu rằng dân số là một biến số vô cùng quan trọng tác động đến cấu
trúc và biến đổi xã hội. Có thể ghi nhận công lớn của Thomas Malthus khi ông là người đầu
tiên đặt ra “vấn đề dân số”. Vào thời của ông và rất lâu sau đó, nhiều học giả vẫn chưa thấy hết
tầm quan trọng của cách đặt vấn đề của ông. Khi bàn về biến đổi xã hội, các nhà xã hội học
xem dân số (với các yếu tố của nó như quy mô, cơ cấu dân số, di dân) là một yếu tố có sự tác
động qua lại với biến đổi cấu trúc xã hội (Macionis, 1980; Bottomore, 1963).
Trong Foreign Policy số tháng 9-10/2005, Lý Quang Diệu cho rằng dân số chứ không phải dân
chủ sẽ là vấn đề đau đầu trong tương lai. Người dân ở các nước giàu thì không chịu sinh đẻ, còn
ở nước nghèo thì mức sinh cao. Làm thế nào để các nước giàu duy trì được dân số, các nước
nghèo lo đủ đời sống cho dân số tăng nhanh (Theo Thông tấn xã Việt Nam, 1/10/2005).
Ngành dân số học bao gồm cả loạt chủ đề nghiên cứu cơ bản. Có thể xem dân số học có một
chủ đề bao trùm là động thái dân số. Và đối với một nước như Việt Nam thì động thái dân số
trước hết bao gồm việc giảm mức sinh và mức chết, di dân (phân bố lại dân cư theo khu vực),
già hóa dân cư, và gần đây là vấn đề “kỷ nguyên dân số vàng” (Bùi Thế Cường, 2004) như là
những chủ đề có ý nghĩa nhất.
Chương này tập trung vào ba vấn đề: sự tăng trưởng đột phá của dân số lao động (nguồn nhân
lực), di dân, và già hóa dân số. Đây là ba động lực lớn của dân số có tác động mạnh mẽ đến
phát triển kinh tế và biến đổi xã hội của Việt Nam hiện nay.
3.1. KỶ NGUYÊN DÂN SỐ VÀNG
Những năm gần đây, nhiều nhà dân số học quan tâm đến hiện tượng mà họ gọi bằng nhiều thuật
ngữ: cửa sổ dân số, cơ hội dân số, lợi tức dân số, kỷ nguyên dân số vàng. Trong mục này,
chúng ta sẽ xem xét vấn đề này ở Việt Nam hiện nay và tác động tích cực tiềm tàng của nó đối
với tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
3.1.1. NGHIÊN CỨU VỀ QUAN HỆ GIỮA DÂN SỐ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Lịch sử dân số học đã trải qua ba quan điểm lý luận về quan hệ dân số và tăng trưởng kinh tế.
Mầm mống từ thời Thomas Malthus và nổi lên từ cuối thập niên 1940, "lý thuyết dân số học bi
quan" cho rằng dân số ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế. Nổi bật từ đầu thập niên 1980, "lý thuyết
dân số học lạc quan", ngược lại, cho dân số là cơ sở hỗ trợ phát triển kinh tế. Một số nhà dân số
học thận trọng hơn với ảnh hưởng tích cực đương nhiên của yếu tố dân số. Họ đại diện cho cái
được gọi là "lý thuyết dân số học trung tính" trong thập niên 1990: dân số không tự động có ảnh
hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến kinh tế, mà có một loạt yếu tố can thiệp khác quyết định xu
hướng ảnh hưởng này (Bloom, 2001b và 2003).
Những nghiên cứu thực nghiệm gần đây cho thấy biến đổi dân số không nhất thiết hoặc ảnh
hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến kinh tế, mà phụ thuộc vào khuôn mẫu biến đổi cơ cấu tuổi dân
số cũng như một số nhân tố khác. Phân bố cơ cấu tuổi là một cơ chế tiềm tàng tác động đến
thành công kinh tế. Nhưng điều này sẽ chỉ xảy ra khi một quốc gia có những thể chế xã hội,
kinh tế và chính trị cũng như những chính sách thích hợp, cho phép hiện thực hoá tiềm năng
40
tích cực của quá trình dân số. Điều này đã xảy ra ở một số nước Đông Á và Đông Nam Á khi
tận dụng được cơ hội dân số cho phát triển kinh tế kể từ thập niên 1960 đến nay.
Từ những năm 1990 lại đây, một loạt nhà dân số học đặt lại vấn đề mối quan hệ dân số và kinh
tế từ góc độ xem xét hiện tượng lợi tức dân số nảy sinh từ quá độ dân số. T. Kuroda nói đến "kỷ
nguyên dân số vàng" khi bàn về vấn đề già hoá dân cư ở Hội nghị dân số khu vực châu Á-Thái
Bình Dương (Kuroda, 1991). ADB chú trọng đến vấn đề này trên toàn châu Á trong công trình
năm 1997 "Châu Á đang nổi lên" (ADB, 1997). Nhóm nghiên cứu do D.E. Bloom dẫn đầu đưa
ra tổng quan rộng lớn bao quát một loạt nước về hiện tượng lợi tức dân số đối với kinh tế. Các
tác giả nhấn mạnh một sự thực là bản thân lợi tức dân số không tự động dẫn đến ích lợi kinh tế,
mà chỉ được hiện thực hoá bởi môi trường chính sách (D.E. Bloom, 1997, 2001a, 2001b, 2003).
Đã có một số hội thảo quốc tế bàn đến vấn đề này, chẳng hạn Hội nghị ở Bắc Kinh ngày 10-11
tháng 5 năm 2004 với tiêu đề "Cửa sổ dân số và sự già hoá lành mạnh: Những thách thức và cơ
hội về kinh tế xã hội". Nhóm nghiên cứu K. Wongboonsin, P. Guest và V. Prachuabmoh phân
tích cơ hội dân số của Thái Lan, một nước chỉ mới đi trước Việt Nam ít nhiều trong quá độ dân
số (K. Wongboonsin et al, 2004).
Để diễn tả thực tế nêu trên, các nhà dân số học thế giới sử dụng thuật ngữ "lợi tức dân số"
(demographic dividend). Lợi tức dân số được định nghĩa đơn giản là những ích lợi kinh tế có
được từ biến đổi dân số. Những ích lợi này có thể tích tụ ở cấp độ cá nhân cũng như xã hội.
Chẳng hạn, nó dẫn đến việc nâng cao mức sống, cá nhân có thể kiếm được thu nhập cao hơn để
tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư. Nó tạo khả năng cho xã hội có nguồn nhân lực năng suất hơn dẫn
đến tăng trưởng kinh tế. Lợi tức dân số chỉ xuất hiện trong một giai đoạn nhất định của quá độ
dân số, và thường chỉ diễn ra trong vài thập niên. Như vậy, quá độ dân số là quá trình bên trong
chi phối lợi tức dân số.
Cơ hội cho một quốc gia tận dụng được lợi tức dân số phụ thuộc vào 4 điều kiện có liên hệ qua
lại với nhau. Thứ nhất, các điều kiện dân số: một sự kết hợp của việc giảm mức chết, mức sinh
và tỷ suất phụ thuộc. Thứ hai, cách thức diễn tiến của quá độ dân số. Lợi tức dân số chỉ xuất
hiện vào khoảng giai đoạn giữa của quá độ dân số. Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực. Thứ tư,
môi trường chính sách có tính hỗ trợ cho lực lượng lao động, bao gồm chính sách kinh tế (thị
trường mở, năng động), chính sách lao động tạo ra thị trường lao động linh hoạt, chính sách
phát triển nguồn nhân lực (hệ thống giáo dục và y tế có chất lượng cao), chính sách tài chính hỗ
trợ cho đầu tư và tiết kiệm.
Quá độ dân số cung cấp một khả năng có lợi tức dân số do tăng tỷ lệ số người trong độ tuổi lao
động. Lợi tức dân số, trong khi là hệ quả của quá độ dân số, chỉ có thể trở thành hiện thực thông
qua những nhân tố khác, trước hết là năng suất lao động của nguồn lao động, trình độ nguồn
nhân lực (thông qua giáo dục cao hơn hoặc tốt hơn). Để hiện thực hoá lợi tức dân số, các nhà
chiến lược phải cải thiện năng suất lao động và nguồn nhân lực thông qua nâng cao giáo dục và
đào tạo, tạo ra một môi trường chính sách hỗ trợ cho đầu tư và tiết kiệm.
Khái niệm "cơ hội dân số" liên quan đến mức giảm tổng tỷ suất phụ thuộc, bao gồm hai giai
đoạn. Giai đoạn thứ nhất, khi tổng tỷ suất phụ thuộc giảm, bắt đầu bước vào thời kỳ dân số học
gọi là "cửa sổ cơ hội". Giai đoạn hai, khi chỉ số này xuống dưới ngưỡng 50%, được gọi là "kỷ
nguyên vàng". Kỷ nguyên vàng sẽ kết thúc khi tổng tỷ suất phụ thuộc bắt đầu tăng trở lại và
vượt ngưỡng 50%.
41
Tổng tỷ suất phụ thuộc là đại lượng của số người trong độ tuổi 0-14 cộng với số người trong độ
tuổi 65 trở lên (65+) chia cho số người trong độ tuổi 15-64. Nó nói lên tương quan giữa số
người không ở trong độ tuổi lao động (dưới 15 tuổi và 65 trở lên) so với số người trong độ tuổi
lao động (15-64) trong một quần thể dân cư nhất định. Cần lưu ý khái niệm dân số trong độ tuổi
lao động là khác nhau giữa các nước. Có nước vẫn còn tính độ tuổi lao động trong khoảng 1559, với cách tính này người ta sẽ có những đánh giá khác về "lợi tức dân số" (K. Wongboonsin
et al, 2004).
3.1.2. CƠ HỘI DÂN SỐ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRONG KHU VỰC
Ở châu Á, khu vực Đông Á tiến sớm nhất đến thời kỳ "lợi tức dân số". Đây là trường hợp của
Hàn Quốc, Singapore và lãnh thổ Đài Loan. Có tính toán cho rằng cơ hội dân số đã đóng góp
1/3 mức tăng trưởng kinh tế của ba nước trên trong thời kỳ tăng trưởng nhanh 1960-1990
(Bloom, 1997 và 2001a).
Bảng 3.1 cho thấy tổng tỷ suất phụ thuộc của Nhật, Singapore, Hàn Quốc đã giảm trong thời kỳ
nền kinh tế của họ tăng trưởng nhanh. Tổng tỷ suất phụ thuộc ở Trung Quốc bắt đầu giảm dần
từ thập niên 1970, giảm nhanh trong thập niên 1980. Sau giai đoạn khởi đầu cải cách (19781992), Trung Quốc bước vào thời kỳ cải cách theo chiều sâu ở thập niên 1990 đúng vào lúc mà
ngưỡng tỷ suất phụ thuộc bắt đầu giảm xuống dưới 50. Giống Singapore, Trung Quốc sẽ có một
kỷ nguyên vàng dài tới 40 năm. Những nước nói trên thể hiện mối liên hệ đáng chú ý giữa việc
các điều kiện chín muồi cho phát triển kinh tế đã diễn ra gặp sự hỗ trợ thuận lợi của biến đổi
cấu trúc tuổi dân số theo hướng một nguồn lực lao động lớn được cung ứng đúng vào lúc mà
nền kinh tế có yêu cầu. Sự gặp gỡ của hai yếu tố này đã có tác động thúc đẩy thêm thành công
kinh tế.
Các nước Đông Nam Á đang tiếp bước. Theo tính toán của ADB (ADB, 1997), lợi tức dân số ở
Đông Nam Á hiện đóng góp khoảng 0,7 điểm phần trăm vào mức tăng thu nhập đầu người hàng
năm. Vào khoảng 2015, con số này dự đoán sẽ tăng gấp đôi. Lợi tức dân số của khu vực Đông
Nam Á đang diễn ra sẽ không mạnh bằng khu vực Đông Á thời kỳ 1960-1990.
Bảng 3.1. Tổng tỷ suất phụ thuộc của 9 nước trong khu vực (1950-2050), %
1950
1955
1960
1965
1970
1975
1980
1985
1990
1995
2000
2005
2010
2015
Nhật
Singapore
68
64
56
47
45
47
48
47
44
44
47
51
56
64
75
77
83
86
73
59
47
42
37
40
41
39
34
35
Hàn
Quốc
81
76
83
87
83
71
61
52
45
41
39
39
38
38
Trung
Quốc
61
72
78
80
79
78
67
55
50
48
46
42
40
40
Thái
Lan
83
84
90
94
92
85
75
64
56
50
47
45
44
43
Việt
Nam
56
65
78
93
96
92
88
82
78
72
63
53
46
45
Indonesia
Malaysia
Philippines
76
74
76
80
83
81
78
72
66
60
56
52
49
46
85
88
95
98
92
85
75
74
67
66
61
59
53
50
89
93
96
97
93
90
86
83
79
74
70
64
58
53
42
2020
68
42
40
44
44
45
2025
70
54
46
46
45
45
2030
73
68
54
50
48
45
2035
79
77
61
56
52
46
2040
89
79
69
61
56
48
2045
95
77
75
63
59
52
2050
98
76
79
64
62
56
Nguồn: tính toán dựa trên số liệu của United Nations. 2003.
45
44
44
46
48
51
54
49
50
51
50
50
50
52
51
49
48
47
46
47
49
3.1.3. CƠ HỘI DÂN SỐ Ở VIỆT NAM
Theo Liên hợp quốc ước tính (Bảng 3.1), tổng tỷ suất phụ thuộc của dân số Việt Nam bắt đầu
giảm sau 1975, giảm nhanh từ giữa thập niên 1980. Chỉ số này giảm xuống dưới 50 vào khoảng
trước 2010. Theo dự báo dựa trên Tổng Điều tra dân số 1999, với phương án mức sinh giảm,
Việt Nam có tổng tỷ suất phụ thuộc là 61 vào năm 2000, 50 vào năm 2005 và 43 vào năm 2010
(Tổng cục thống kê/Dự án VIE/97/P14. 2001). Trong thời kỳ 2000-2005 tổng tỷ suất phụ thuộc
giảm 11 điểm phần trăm; trong vòng 10 năm 2000-2010 giảm tới 18 điểm phần trăm, một tốc
độ giống Trung Quốc thời kỳ 1975-1990 và Hàn Quốc thời kỳ 1970-1990. Như vậy, giai đoạn
đầu của cơ hội dân số đã đến với Việt Nam từ thập niên 1980. Sau 2005, cơ hội dân số bước
vào giai đoạn hai: Việt Nam tiến vào cái mà tác giả cuốn sách này gọi là kỷ nguyên dân số vàng
của mình, kéo dài khoảng 30 năm (Bảng 3.2).
Bảng 3.2. Năm bắt đầu và độ dài của "kỷ nguyên dân số vàng" 9 nước trong khu vực
Nước
Nhật
Singapore
Hàn Quốc
Trung Quốc
Thái Lan
Việt Nam
Indonesia
Malaysia
Philippines
Năm bắt đầu
1965
1980
1990
1990
2000
2010
2010
2015
2025
Năm kết thúc
2005
Sau 2020
Sau 2025
2030
2030
2040
2040
2025
2050
Độ dài ước tính (năm)
40
40
35
40
30
30
30
10
25
120
100
80
Tæng tû suÊt phô thuéc
60
Tû suÊt trÎ em phô thuéc
Tû suÊt ng- êi giµ phô thuéc
40
20
20
50
20
40
35
20
20
20
10
20
20
00
19
90
19
80
19
70
19
60
0
19
50
PhÇn tr¨m
Nguồn: tính toán dựa trên số liệu của United Nations. 2003.
N¨m
43
Hình 3.1. Tỷ suất dân số phụ thuộc, Việt Nam 1950-2050
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của United Nations. 2003.
3.1.4. ĐIỀU KIỆN HIỆN THỰC HOÁ CƠ HỘI DÂN SỐ
Kết quả các nghiên cứu chỉ ra rằng "cơ hội dân số" không tự động, không tất yếu đem lại tác
động tích cực, nó phải được giành lấy. Trong khi một số nước đã hiện thực hoá được tiềm năng
tích cực do cơ hội dân số mang lại, thì nhiều nước khác đã bỏ lỡ cơ hội đó. Có hàng loạt điều
kiện cần để hiện thực hoá cơ hội dân số, mà đôi khi vượt quá tầm chủ động của một quốc gia,
một Chính phủ (chẳng hạn chiến tranh, bất ổn của môi trường quốc tế, ...). Tuy nhiên, xét về
mặt chủ quan quốc gia, thì tầm quan trọng hàng đầu thuộc về môi trường chính sách trong
nước. Không có môi trường chính sách phù hợp, trong trường hợp tốt nhất đất nước sẽ bỏ lỡ cơ
hội tăng trưởng cao dài hạn khi cơ hội dân số bắt đầu. Trong trường hợp tồi tệ sẽ là kinh tế trì
trệ, bất ổn chính trị-xã hội do quá tải dân số dẫn đến thất nghiệp cao.
Nếu cơ hội dân số và đặc biệt là giai đoạn dân số vàng diễn ra trùng với thời kỳ kinh tế ổn định
và cất cánh, đồng thời hệ thống giáo dục thực hiện tốt chức năng chuẩn bị học vấn và nghề
nghiệp cho lao động, thì nguồn nhân lực lao động tăng sẽ trở thành động lực mạnh của kinh tế
(tăng việc làm, thu nhập, tiết kiệm, tiêu dùng). Ngược lại, nếu hệ thống kinh tế và giáo dục yếu
kém không đáp ứng được với sự bùng nổ nhân lực này, xã hội sẽ chứng kiến tình trạng thất
nghiệp tràn lan trong giới trẻ, thiếu chỗ làm, thiếu nhân lực được đào tạo, dẫn đến mất ổn định
xã hội. Cơ hội dân số đòi hỏi nhà vạch chính sách phải có những lựa chọn đúng để nắm bắt
được nó.
Đối với Việt Nam, tận dụng cơ hội dân số đòi hỏi chú ý đến ba chủ đề: nâng cao nhận thức,
quán triệt yếu tố "cơ hội dân số" vào các khu vực chính sách cơ bản, đẩy mạnh ngay một số
nghiên cứu có liên quan.
Về mặt nhận thức. Cơ hội dân số đang diễn ra, kỷ nguyên vàng của dân số Việt Nam đang đến,
điều này cần đặt vào đúng vị trí của nó trong mọi tính toán chiến lược hiện nay. Thừa nhận
đúng mức tầm quan trọng đó sẽ khiến cho nhiều yếu tố khác phải được nhìn dưới một ánh sáng
mới. Chẳng hạn, nếu thực sự thừa nhận "yếu tố dân số" thì chiến lược kinh tế không thể không
đi theo hướng ưu tiên tạo nhiều việc làm (labour-based), còn giáo dục trở nên một yếu tố có tầm
chiến lược đặc biệt và lâu dài, phải được nhấn mạnh theo hướng phổ cập, dạy nghề, đại chúng,
tiên tiến. Ngược lại, những mục tiêu kinh tế hoặc xã hội nào đó, cho dù rất hấp dẫn hoặc đầy
thuyết phục, nhưng nếu tỏ ra không tận dụng được cơ hội dân số hoặc có khả năng khiến cơ hội
này trở thành nguy cơ, thì cần kiên quyết không đưa vào lựa chọn chính sách hoặc ít nhất cũng
phải tính đến những hậu quả của chúng.
Về mặt chính sách. Cơ hội dân số tác động đến kinh tế thông qua 3 cơ chế: cung cấp lao động,
tiết kiệm, và vốn con người. Những cơ chế nói trên có phát huy tác động tiềm tàng của chúng
hay không, điều này phụ thuộc vào môi trường chính sách. Một lượng lớn người trong độ tuổi
lao động sẽ chỉ có khả năng tham gia sản xuất với năng suất và hiệu quả nếu thị trường lao
động đủ năng động và linh hoạt cho phép toàn dụng lao động, nếu chính sách kinh tế vĩ mô
khuyến khích đầu tư, nếu nguồn lao động này được trang bị đủ kỹ năng thích hợp với yêu cầu
44
của nền kinh tế. Người ta chỉ tiết kiệm khi dễ dàng tiếp cận được những cơ chế tiết kiệm thích
hợp, tin vào sự chắc chắn và ổn định của thị trường tài chính trong nước.
Như vậy, cơ hội dân số chỉ tạo ra điều kiện, còn môi trường chính sách mới là yếu tố quyết định
cho phép tận dụng được cơ hội dân số. Trong một loạt chính sách tác động trực tiếp và gián
tiếp, có 4 khu vực chính sách đóng vai trò quan trọng nhất trong việc hiện thực hoá cơ hội dân
số, đó là chính sách kinh tế, giáo dục, sức khoẻ, bảo trợ xã hội.
Một số nghiên cứu (Bloom, 1997, 2001b. Navaneetham, 2002) gợi ý rằng các nước thành công
trong việc tận dụng cơ hội dân số ở thập niên 1960-1980 là những nước theo đuổi chính sách
kinh tế mở cửa, khuyến khích tính linh hoạt của thị trường lao động và tín dụng, khuyến khích
đầu tư và tiết kiệm. Tuy nhiên, bản thân những chính sách này cũng không tự động thành công,
chúng phải được điều hành đúng đắn và khéo léo.
Điều lo ngại là trong khi cơ hội dân số ở Việt Nam đã diễn ra, kỷ nguyên dân số vàng (giai
đoạn hứa hẹn nhất của cơ hội dân số) đang bắt đầu, thì những chính sách đóng vai trò trực tiếp
trong việc hiện thực hoá cơ hội này (chính sách kinh tế, giáo dục, sức khoẻ, và bảo trợ xã hội)
lại đang chứa đựng hàng loạt vấn đề bức xúc, chưa có đủ những giải pháp căn bản và đột phá.
Về mặt nghiên cứu. Nhìn chung ở Việt Nam, các nhà kinh tế học và các nhà lập kế hoạch hoặc
hoạch định chính sách kinh tế dường như ít chú ý đến yếu tố dân số, còn các nhà dân số học và
các nhà vạch chính sách dân số lại thường tập trung nhiều vào giảm mức sinh, sức khoẻ sinh
sản và tình dục, tuy đã có nhiều quan tâm đến di dân và gần đây có những bước tiến đáng chú ý
về nghiên cứu vị thành niên. Hệ quả là một khoảng trống: mối liên hệ dân số và kinh tế chưa
được nghiên cứu và chú trọng đầy đủ. Đây có lẽ cũng là biểu hiện của tình trạng thiếu nghiên
cứu đa ngành và liên ngành nói chung ở Việt Nam. Điều này rất tương phản với nhiều nước
khác.
Cần sớm tiến hành những nghiên cứu để hiểu đầy đủ hơn biến đổi cấu trúc tuổi của dân số Việt
Nam trong thời gian qua và sắp tới, tìm hiểu và dự báo được tác động qua lại giữa biến đổi cấu
trúc tuổi và kinh tế. Phải chăng, về mặt chính sách, cơ hội dân số Việt Nam phần nào đã bị bỏ
lỡ trong thập niên 1980; nhưng về mặt thực tế, cơ hội dân số đã là một yếu tố giảm nhẹ tác
động của khủng hoảng kinh tế ở thời kỳ này? Phải chăng cơ hội dân số đã có đóng góp vào
thành công kinh tế Việt Nam từ thập niên 1990 cho đến nay? Nếu có, mức đóng góp là bao
nhiêu?
Quan trọng hơn là câu hỏi nghiên cứu hướng vào tương lai: làm thế nào tận dụng được kỷ
nguyên dân số vàng, giai đoạn hai của cơ hội dân số, đang bắt đầu. Trong chủ đề nghiên cứu
này cần phân tích biến đổi cơ cấu tuổi của khối dân cư trong độ tuổi lao động, có lưu ý đến xu
hướng già hoá dân cư sẽ bắt đầu nhanh sau 2010 (Bùi Thế Cường, 2001). Chú trọng những
nghiên cứu nhằm tạo ra đột phá về nhận thức và chính sách trong việc lựa chọn mô hình đầu tư
và tăng trưởng; cải thiện môi trường chính sách kinh tế; đổi mới sâu rộng thị trường lao động;
cải cách giáo dục, y tế và bảo trợ xã hội.
Phân tích nói trên về biến đổi cấu trúc dân số cho thấy Việt Nam trong thập niên này đã tiến
vào một thời kỳ bùng nổ dân số trong độ tuổi lao động (thời kỳ vàng). Như lịch sử dân số các
nước trên thế giới chỉ ra, đây là một cơ hội lớn có một không hai, nhưng cũng đầy thách thức.
Nếu giai đoạn vàng này diễn ra trùng khớp với một giai đoạn kinh tế ổn định, hệ thống giáo dục
45
thực hiện tốt chức năng chuẩn bị học vấn và nghề nghiệp cho lao động, thì sự bừng nở nguồn
nhân lực này sẽ là một động lực mạnh mẽ của phát triển kinh tế (gia tăng việc làm, thu nhập, và
mức tiêu dùng của quốc gia). Ngược lại, nếu hệ thống kinh tế và giáo dục yếu kém, không đáp
ứng được với sự bùng nổ nhân lực ấy, thì xã hội sẽ chứng kiến tình trạng thất nghiệp tràn lan
trong giới trẻ, thiếu chỗ làm, thiếu nhân lực được đào tạo, dẫn đến tệ nạn và mất ổn định xã hội.
Yếu tố bùng nổ dân số trong độ tuổi lao động ở Việt Nam hiện nay thực sự là một biến số quan
trọng bậc nhất, cần được đưa vào trong mọi tính toán chiến lược kinh tế hiện nay. Sức mạnh tác
động của biến số này chỉ ra rằng trong mọi trường hợp, các chiến lược kinh tế không thể không
đi theo hướng ưu tiên các ngành tạo nhiều việc làm (labour-based), và giáo dục phải theo hướng
phổ cập, dạy nghề, đại chúng.
3.2. DI DÂN
Di dân là một động thái quan trọng của dân số, nhưng cho đến trước thập niên 2000 nó chưa
được thực sự quan trắc có hệ thống và phân tích cẩn thận ở Việt Nam. Điều này đã có cải thiện
đáng kể trong những năm 2000.
Trong suốt hơn nửa thế kỷ qua, dân cư Việt Nam đã di chuyển rất nhiều, có những cuộc di dân
lớn cả triệu người, nhưng ít được nhận diện và nghiên cứu sâu sắc, mặc dù dữ liệu quản lý của
nhà nước vẫn ghi nhận được. “Chính sách điều dân ở Việt Nam là chính sách lớn nhất về mặt
quy mô, ảnh hưởng kinh tế-xã hội trong nước” so với các nước trong khu vực Đông Nam Á
(Ono Mikiko. Trong: Iwai Misaki và Bùi Thế Cường, 2010, trang 34). Chỉ trong khoảng hơn 10
năm qua, dưới áp lực của thực tế di dân mới nổi lên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa
hiện đại hóa, hiện tượng di dân mới trở nên vấn đề nóng trong chính sách, công luận và nghiên
cứu. Có thể xem cuộc Điều tra Di cư Việt Nam 2004 với cỡ mẫu hơn 10.000 người là một cố
gắng có hiệu quả gần đây nhất nhằm cung cấp một bức tranh toàn diện về di dân ở Việt Nam.
Phần này bàn đến một số xu hướng và đặc trưng của di dân trong nước, làm rõ một số khía cạnh
trong mối quan hệ giữa di dân và phát triển ở Việt Nam, đề cập đến những vấn đề bức xúc đang
nổi lên và có liên quan đến quá trình di dân ở trong nước, chủ yếu tập trung vào hình thái di cư
tự nguyện vì mục đích kinh tế.
3.2.1. BỐI CẢNH CỦA DI DÂN
Những biến đổi kinh tế-xã hội to lớn do đường lối Đổi Mới đã thay đổi mạnh mẽ những động
lực “hút” và “đẩy” đối với di dân. Tự do hóa kinh doanh trong nông nghiệp (thay thế hợp tác xã
và các hình thái sản xuất tập thể khác bằng kinh tế hộ gia đình và tư nhân, tự do hoá giá cả và
lưu chuyển sản phẩm nông nghiệp,…) đã giải phóng lao động nông thôn khỏi những ràng buộc
kinh tế và hành chính với nơi họ cư trú. Nền kinh tế công nghiệp và đô thị tăng trưởng mạnh
làm nảy sinh nhu cầu lớn về lao động cũng như khả năng trả công lao động. Đổi Mới cũng xóa
bỏ nhiều quan niệm và thủ tục quản lý con người theo địa bàn cư trú và tem phiếu, khiến người
dân dễ dàng di chuyển nơi sinh sống và làm việc hơn. Tăng trưởng kinh tế dẫn đến tăng nhanh
khác biệt kinh tế theo địa lý, dẫn đến đẩy mạnh di dân vì lý do kinh tế. Các mạng lưới xã hội cổ
truyền (dựa trên họ hàng, đồng hương, …) vốn đã có chức năng quan trọng đối với di dân cả
trong thời kỳ hành chính quan liêu bao cấp, nay còn đóng vai trò lớn hơn nữa trong việc thúc
đẩy di dân dưới thời kinh tế thị trường. Cũng phải kể đến sự cải thiện điều kiện vận tải và
truyền thông khiến con người di chuyển và giao lưu dễ hơn với chi phí thấp hơn. Tất cả những
46
yếu tố tác động trên đã làm tăng động lực “hút-đẩy” đối với di dân (Đặng Nguyên Anh, 1998,
2004, 2009 và 2010 [Trong: Iwai Misaki và Bùi Thế Cường, 2010]).
3.2.2. ĐỘNG THÁI VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA DI DÂN
Về mặt quy mô, trong thời kỳ 5 năm trước cuộc Tổng điều tra Dân số 1999, trên 4.350.000
người đã ra khỏi địa giới hành chính nơi họ thường trú. Dân số di cư chiếm 6,5% tổng số dân từ
5 tuổi trở lên, trong đó 55% di chuyển nội tỉnh và 45% di chuyển đến tỉnh thành khác (GSO &
UNDP, 2001). Trong khi đó, theo thống kê chính thức, thời kỳ này chỉ có hơn 2 triệu người di
cư theo các chương trình Nhà nước (MARD, 2000).
Về mặt địa lý, năm tỉnh thành được xem là điểm đến nhiều nhất của di dân thời kỳ 2002-2004
lần lượt là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Quảng Ninh, Đà Nẵng. Năm tỉnh có
dân đi nơi khác nhiều nhất lần lượt là Thanh Hóa, Nam Định, Thái Bình, Hà Tây, Quảng Nam.
Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên là những điểm đến chủ yếu
của di dân tự do. Di dân đến các khu vực thành thị chiếm trên 53% tổng số người di cư, chủ yếu
là vào Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Hơn 921.000 người đã chuyển đến Đông Nam Bộ
(chiếm 8% dân số khu vực này) trong thời kỳ Tổng điều tra dân số 1999. Phần lớn là Bình
Dương và Đồng Nai. Số di chuyển đến Tây Nguyên trong cùng thời kỳ là 248.000 người, chiếm
9,5% dân số khu vực này. Ngoài ra, Quảng Ninh, Hải Phòng và Đà Nẵng cũng là những điểm
đến đáng chú ý của dân di cư.
Thành phố Hồ Chí Minh là đầu tầu tăng trưởng dân số đô thị của cả nước. Năm 1990, 33% dân
số thành thị sống ở thành phố này. Con số này là 38,4% năm 2002 (Tổng Điều tra dân số 2009
cho thấy tỷ lệ này giảm xuống còn 35%). Dân số Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh tổng cộng
chiếm 53% tổng số dân thành thị của Việt Nam. Tỷ suất di dân thuần tuý của Thành phố Hồ
Chí Minh là +8,15%, cao nhất trong cả nước. Trong khi đó, tỷ suất này của Hà Nội bằng
khoảng một nửa (+ 4,29%). Bình Dương được xem là một điển hình tăng trưởng kinh tế, do đó
cũng là một địa bàn nổi bật về di dân: năm 2005 số người lao động nhập cư chiếm khoảng 40%
trong tổng số hơn 730.000 lao động toàn tỉnh (Nguyễn Văn Hiệp, 2007).
Về khía cạnh tuổi và giới, di dân nội địa thường bao gồm phần lớn dân số trẻ. Hơn một nửa số
người di cư (52%) thuộc nhóm tuổi dưới 25 và chỉ có 10,5% là trên 45 tuổi, so với 48% và 20%
trong nhóm người không di chuyển. Tỷ suất di dân ở nhóm 20-24 tuổi cao gấp đôi so với các
nhóm khác. Phụ nữ di dân chiếm phần đông trong những năm 1990-2000, đáp ứng nhu cầu lao
động nữ trẻ chủ yếu trong khu vực đang tăng trưởng có tính bùng nổ (công nghiệp may mặc,
chế biến hải sản).
Những đặc trưng nhân khẩu-xã hội của người di dân cho thấy người chưa lập gia đình chiếm số
lượng lớn trong các luồng di dân ngoại tỉnh. Mức độ di dân gia tăng theo trình độ học vấn.
Nhiều trường hợp di chuyển để tìm kiếm cơ hội học lên cao. Thay vì trở về quê hương sau khi
tốt nghiệp, phần lớn sinh viên có xu hướng trụ lại tìm việc làm ở các đô thị lớn. Về mặt nghề
nghiệp, lao động di cư xuất hiện chủ yếu trong khu vực sản xuất, xây dựng, công nghiệp nhẹ.
Điều này đặc biệt đúng với các khu vực có vốn đầu tư nước ngoài hoặc hỗn hợp, nơi lao động
di cư chiếm khoảng một phần tư lực lượng lao động. Các ngành dịch vụ có số lao động nhập cư
làm việc đông đảo nhất, chủ yếu là bán hàng, vận chuyển, phục vụ nhà hàng, giúp việc gia đình
47
và các dịch vụ tư nhân khác. Nói chung, các ngành nghề tạo ra thu nhập tiền mặt đều thu hút
lao động di cư.
Bảng 3.3. Di dân nội địa theo vùng địa lý, 1994-1999
Vùng cư trú
năm 1999
Đồng bằng
sông Hồng
Đông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung
Bộ
Duyên hải
miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam
Bộ
Đồng bằng
sông Cửu
Long
Toàn quốc
Tổng số
dân từ 5
tuổi trở lên
Di dân nội vùng
N
13.579.500 125.904
%
Di dân
giữa các vùng
N
%
Di dân
giữa các tỉnh
N
%
0,93
131.262
0,97
257.166
% di
chuyển
giữa
các
vùng
1,89
51,04
9.796.818
1.965.217
8.942.617
66.451
1.825
23.530
0,68
0,09
0,26
65.125
23.418
40.061
0,66
1,19
0,45
131.576
25.243
63.591
1,34
1,28
0,71
49,50
92,77
63,00
5.846.321
45.601
0,78
65.872
1,13
111.473
1,91
59,09
2.624.361
9.268
11.480.881 204.858
0,35
1,78
239.205
716.746
9,12
6,24
248.473
921.604
9,47
8,03
96,27
77,77
14.739.413 186.246
1,26
56.035
0,38
242.281
1,64
23,13
68.975.128 663.683
0,96 1.337.724
1,94 2.001.407
2,9
66,84
Ghi chú: Chỉ tính số dân từ 5 tuổi trở lên.
Nguồn: Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở 1999. Đặng Nguyên Anh, 2004.
Bảng 3.4. Phân bố các loại hình di dân theo giới, 1994-1999
Loại hình di cư
Dân số trên 5 tuổi
Không di chuyển
Di dân nội tỉnh
Di dân ngoại tỉnh
Tổng dân số
Di dân
Nông thôn-nông thôn
Nông thôn-thành thị
Thành thị-nông thôn
Thành thị-thành thị
Tổng dân số di chuyển
Nam
Tổng số
N
%
Nữ
N
%
N
%
31.614.357
1.075.499
1.001.234
33.691.090
93,84
3,19
2,97
100,00
32.878.954
1.404.911
1.000.175
35.284.040
93,18
3,98
2,83
100,00
64.493.311
2.480.410
2.001.409
68.975.130
93,50
3,60
2,90
100,00
711.745
552.544
218.859
535.274
2.018.422
35,3
27,4
10,8
26,5
100,0
897.279
629.745
203.092
602.468
2.332.584
38,5
27,0
8,7
25,8
100,0
1.609.024
1.182.289
421.951
1.137.742
4.351.006
37,0
27,2
9,7
26,1
100,0
Ghi chú: Chỉ tính số dân từ 5 tuổi trở lên.
Nguồn: Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở 1999. Đặng Nguyên Anh, 2004.
3.2.3. NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI LÊN CỦA DI DÂN
Trong mục này đề cập đến một số chủ đề nổi bật liên quan đến di dân. Những chủ đề này vừa
đem lại “vấn đề” vừa đem lại những tác động tích cực cho bản thân người di dân, gia đình và
48
cộng đồng của họ, và xã hội. Điều này đòi hỏi phải có nhiều nghiên cứu khác nhau về mục đích
và phương pháp để có thể nhận diện được tính phức tạp của các tương tác xã hội đa chiều.
Đóng góp của di dân
Đánh giá đóng góp của di dân đối với phúc lợi và phát triển (ở cả cấp độ cá nhân, gia đình,
cộng đồng, địa phương và xã hội) là một câu chuyện thú vị về mặt xã hội học tri thức và xã hội
học khoa học ở Việt Nam. Theo dõi sự tiến triển của quan điểm về di dân ở Việt Nam trong 25
năm Đổi Mới vừa qua cho thấy thực tiễn và kết quả nghiên cứu xã hội đã tác động mạnh mẽ
đến thay đổi nhận thức về di dân. Trước thời kỳ Đổi Mới, các cơ quan chức năng Nhà nước rất
quan tâm đến di dân, coi đây là động lực và giải pháp quan trọng cho phát triển. Tuy nhiên họ
chỉ đánh giá cao di dân có tổ chức (trong kế hoạch Nhà nước) và có quan niệm tiêu cực đối với
di dân tự phát. Điều này có cơ sở lý luận của nó, và đồng thời chi phối định hướng tư tưởng và
hành vi chính sách (Xem lại Chương Một).
Do tác động của Đổi Mới, di dân tự phát ngày càng tăng lên, song định kiến nói trên vẫn tự
động tồn tại như một lăng kính “nhìn và diễn giải thực tế” và như một cơ chế hành động chính
sách trong thập niên 1990. Tuy nhiên, sự phối hợp công tác mạnh mẽ giữa các nhà tài trợ quốc
tế, giới nghiên cứu xã hội, và các cơ quan chức năng Nhà nước, đã làm thay đổi đáng kể nhận
thức và chính sách về di dân và người di dân.
Một thay đổi đáng kể chính là liên quan đến đánh giá về đóng góp của di dân đối với phát triển.
Nghiên cứu thực nghiệm về di dân đã đưa ra những bằng chứng thuyết phục rằng người di cư
có đóng góp to lớn. Một mặt, đối với gia đình và quê hương, di dân làm tăng thu nhập cho
người di cư và gia đình họ ở quê hương, đa dạng hóa nguồn thu nhập, giảm tính dễ bị tổn
thương trước những rủi ro, giảm nhẹ phần nào mức tăng bất bình đẳng, tuy không giúp thực sự
cho việc thoát nghèo song làm cho mức nghèo đỡ gay gắt hơn (Nguyễn Việt Cường và cộng sự,
2009). Mặt khác, đối với nơi đến, người di cư đáp ứng cầu về lao động ở các khu công nghiệp
và đô thị, tham gia tích cực vào tăng trưởng kinh tế. Ước tính người di cư đóng góp 30% GDP
của Thành phố Hồ Chí Minh (Đặng Nguyên Anh, 2009).
Sinh kế, và rộng hơn, kinh tế, là động lực chính chi phối di dân
Đằng sau hầu hết hành vi di dân nông thôn-đô thị là cân nhắc chiến lược sinh kế của các hộ gia
đình. Việc di chuyển được quyết định trong sự suy tính và bàn thảo của cả cá nhân người di cư
lẫn của cả gia đình, thậm chí gia đình mở rộng, nhằm có thêm thu nhập, giảm rủi ro, và mở ra
cơ hội cho thế hệ trẻ (thu nhập, công việc tốt hơn, điều kiện văn hóa-xã hội ở nơi đến tốt hơn).
Các hộ gia đình ở nông thôn thường phân công lao động trên nhiều địa bàn khác nhau nhằm
giảm thiểu rủi ro. Thông qua di dân, các thành viên trong hộ cùng đóng góp và chia sẻ thu nhập
chung. Như vậy, tiền do các thành viên đi làm ăn xa gửi về là một bộ phận hợp thành trong
chiến lược sống của nông hộ nghèo.
Tuy nhiên, di dân không phải là một giải pháp dễ dàng cho những người nghèo nhất vì việc rời
quê hương để kiếm sống ở nơi xa đòi hỏi tiềm lực tài chính nhất định, sức khoẻ, hiểu biết xã hội
và những quan hệ xã hội nhất định. Đây chính là những nguồn vốn không thể có ở người quá
nghèo. Di dân đối với nhóm rất nghèo hay nghèo nhất thường là do việc di dời tái định cư trong
những dự án phát triển hoặc do thiên tai, do bị mất đất hay rơi vào cảnh nợ nần, hoặc do thất bại
của bản thân.
49
Tiết kiệm và tiền gửi về của người di dân
Cơ hội đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp và ngành nghề phi nông ở nông thôn rất hạn chế, nên
tiền gửi về của di dân có ảnh hưởng rất lớn đối với thu nhập của hộ gia đình ở quê: trang trải nợ
nần, tiền học cho con, chi phí đau ốm của người thân. Theo số liệu Điều tra Mức sống dân cư
Việt Nam 1998-1999, trên 23% hộ gia đình đã nhận được tiền gửi trong vòng 12 tháng trước
cuộc điều tra, và số tiền gửi này chiếm 38% các khoản chi tiêu của hộ gia đình (Le and Nguyen,
1999). Một số nghiên cứu cho thấy nếu không có nguồn tiền mặt do các thành viên đi làm ăn xa
gửi về, nhiều hộ gia đình ở nông thôn sẽ không đủ nguồn thu nhập để tồn tại và trang trải cho
chi phí học hành và y tế. Tiền gửi về cũng còn được dùng cho hoạt động đầu tư, xây nhà và
mua sắm vật dụng lâu bền cũng như các vật dụng khác vượt quá nhu cầu vật chất thiết yếu.
Điều này gián tiếp tác động đến nền kinh tế của cộng đồng. Nhìn chung, sự kết hợp giữa thu
nhập từ đồng ruộng và hoạt động phi nông tại chỗ với những khoản tiền gửi về có ý nghĩa rất
quan trọng đối với cuộc sống ở nông thôn hiện nay.
Sự rời bỏ nông thôn quê hương ngày càng tăng của thanh niên, trung niên trẻ và phụ nữ
Như phần trên đề cập, đại đa số người di dân là thanh niên, một phần là những người trẻ trong
lớp tuổi trung niên. Di dân phụ nữ cũng ngày càng tăng trong thập niên 1990 và 2000. Đây là
hiện tượng khác với thập niên 1980. Trong hầu hết các nhóm tuổi, tỷ trọng phụ nữ di cư tương
đương với tỷ trọng của nam giới. Nhóm di dân đông đảo nhất là phụ nữ dưới 25 tuổi, đặc biệt
nhóm 18-22 tuổi. Xu hướng này phản ánh nhu cầu lớn đối với lao động nữ trong các ngành
nghề dịch vụ, thương mại và công nghiệp nhẹ (dệt, may, giày dép và chế biến thực phẩm).
Giống những nước châu Á khác, quá trình này liên quan một phần đến đầu tư trực tiếp nước
ngoài, khả năng hội nhập quốc tế và xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Nhìn chung, lao động
nữ di cư thể hiện khả năng thích nghi nhanh. Di cư thể hiện cơ hội cải thiện điều kiện kinh tế
cho phụ nữ và gia đình họ.
Thiếu bảo vệ xã hội đối với di dân
Người lao động di cư không nhận được sự bảo vệ đầy đủ trong thị trường việc làm cũng như ở
nơi cư trú. Họ thường không có bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm nghề nghiệp. Do bản
chất công việc là tạm thời và không được đăng ký hộ khẩu thường trú, người lao động di cư
khó tự bảo vệ mình trước những rủi ro trong công việc và đời sống. Họ làm việc thường không
có hợp đồng lao động, hoặc hợp đồng lao động không đầy đủ yếu tố pháp lý. Trong hợp đồng
lao động họ thường rơi vào thế yếu. Phần lớn lao động di cư phải làm việc trong điều kiện tồi
tệ. Mấy năm gần đây, người ta quan sát thấy ngày càng tăng số lượt đình công ở các khu công
nghiệp, nơi phần lớn công nhân là người di cư.
Một báo cáo giám sát của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội chỉ ra điều kiện làm việc khó
khăn, vị thế dễ bị tổn thương của lao động trẻ di cư đến các khu công nghiệp và những thị
trường lao động chính thức, trong đó phần lớn là lao động nữ. Báo cáo cho thấy nhiều chủ sử
dụng lao động không thực hiện bổn phận cung cấp bảo hiểm y tế và xã hội cho lao động di cư.
Công nhân phải tự lo thuê nhà, sinh hoạt với đồng lương ít ỏi. Nhiều doanh nghiệp, kể cả doanh
nghiệp nhà nước, thuê lao động không có nghề và theo mùa vụ mà không ký hợp đồng (COSA,
2003).
50
Không chỉ các doanh nghiệp, tại nhiều nơi chính quyền địa phương và các cơ sở dịch vụ xã hội
(đặc biệt là y tế) cũng thiếu quan tâm đến dân di cư. Vẫn còn tồn tại thái độ và cách làm coi
người di cư không phải là “đối tượng chính thức được phục vụ” giống như dân tại chỗ. Thái độ
này có nguồn gốc sâu xa trong tư duy quản lý hành chính thời kế hoạch hóa tập trung quan liêu
bao cấp. Kết quả là di dân ít được lồng ghép vào kế hoạch hoạt động của chính quyền và dịch
vụ xã hội công cộng. Các dự án và chương trình phát triển hay sức khỏe sinh sản thường bỏ qua
lao động nhập cư do vị thế không chính thức của họ về mặt pháp lý ở địa bàn nơi đến.
Xáo trộn gia đình và văn hóa
Di dân với những khó khăn của quá trình này dẫn đến những vấn đề gia đình trong ngắn hạn và
cả dài hạn. Những người di dân trẻ sớm tách rời cha mẹ và cộng đồng, đột ngột bước vào môi
trường sống mới ở khu công nghiệp và các khu ngoại vi đô thị lớn, phần lớn là tạm bợ và xô bồ.
Những người di dân đã có gia đình khiến cho vợ chồng xa nhau lâu ngày, con cái lớn lên trong
nhiều năm thiếu sự dạy dỗ và chăm sóc của cha hoặc mẹ hoặc cả hai. Nhiều trẻ em phải sống
với ông bà hoặc tự chăm nom lẫn nhau để cha mẹ chúng đi kiếm ăn nơi xa. Nhiều người già ở
nông thôn không được chăm sóc đầy đủ, vì phần lớn con cái đi làm ăn xa. Thêm nữa, tuy đã già
yếu họ còn phải trông nom nhà cửa và các cháu nội ngoại, để cha mẹ chúng yên tâm kiếm sống
nơi các khu công nghiệp và đô thị.
Rất khó tính được những hậu quả lâu dài và sâu xa bởi những hoàn cảnh “sốc” như trên về mặt
gia đình và văn hóa đối với người di dân, đối với cha mẹ, vợ chồng, con cái họ. Chưa có nhiều
nghiên cứu về những hậu quả này. Điều đáng tiếc là cuộc Điều tra di cư Việt Nam 2004 cũng
hầu như không có câu hỏi nào cho phép thu được thông tin để đánh giá những hậu quả nói trên
(Tổng cục Thống kê và UNFPA, 2006, xem phần bảng hỏi ở cuối sách). Gần đây đã có một số
nghiên cứu quan tâm đến các khía cạnh văn hóa, xã hội và tâm lý của di dân (Nguyễn Thanh
Liêm, 2009 và Viện Xã hội học, 2009).
Những quá trình di dân và hệ thống quản lý nhân lực qua cơ chế hộ khẩu: Một biểu hiện của
khoảng cách giữa thực tiễn di dân và chính sách
Hàng loạt nghiên cứu trong nước và quốc tế tiến hành trong những năm 1990-2000 đều dẫn đến
kết luận có sự bất cập đáng kể giữa thực tế và chính sách di dân ở Việt Nam (Viện Khoa học xã
hội Việt Nam và Liên hợp quốc, 2009). Ở đây chỉ đề cập đến một biểu hiện trong hệ thống quản
lý hộ khẩu.
Trong thời kỳ thực hiện hệ thống xã hội kế hoạch hóa hành chính bao cấp (từ giữa thập niên
1950 ở miền Bắc, và từ sau 1975 ở miền Nam), tương tự việc di chuyển hàng hóa, di cư nói
chung, đặc biệt di cư đến các thành phố, chịu sự kiểm soát chặt chẽ thông qua hệ thống quản lý
con người bằng hộ khẩu và tem phiếu, di dân trong kế hoạch Nhà nước, và hệ thống tuyển biên
chế và điều động công tác trong khu vực Nhà nước.
Đến cuối thập niên 1980, động lực “hút-đẩy” thay đổi mạnh mẽ, dẫn đến những dòng di cư tự
phát ngày càng lớn, tự phá bỏ cơ chế giám sát di cư cũ. Tuy nhiên, trong một thời gian dài,
chính sách kiểm soát di dân vẫn ở trong tình trạng không rõ ràng, dao động giữa cách làm cũ và
những quá trình kinh tế-xã hội mới. Một mặt, cơ chế giám sát cũ tự động bị nới lỏng. Mặt khác,
vẫn duy trì chế độ hộ khẩu, được dùng làm cơ sở cho các phân loại liên quan đến vị thế pháp lý
và quyền tiếp cận các dịch vụ đời sống. Kết quả là người di cư bị hạn chế hoặc phải trả chi phí
51
cao hơn cho hàng loạt quyền và nhu cầu tiếp cận cơ bản: điện, nước, y tế, giáo dục cho con em,
sở hữu nhà đất, xin việc làm tại khu vực chính thức, vay vốn tín dụng, kinh doanh, đăng ký
hoặc mua bán tài sản lớn, công chứng pháp lý, khai sinh, khai tử, ...
Điều tra di cư Việt Nam 2004 chỉ ra rằng chế độ hộ khẩu hiện tại “ảnh hưởng nhiều đến việc cư
trú lâu dài tại nơi chuyển đến. Dù với lý do di cư bất kỳ nào, việc cư trú ổn định lâu dài ảnh
hưởng rất mạnh tới việc cải thiện được đời sống sau khi chuyển đi” (Tổng cục Thống kê và
UNFPA, 2006, tr. 1).
Tình trạng nói trên đã diễn ra trong suốt gần hai thập niên sau Đổi Mới, tức là một nửa cuộc đời
lao động của một thế hệ, mặc dù quy mô di dân đã bùng phát dữ dội. Chỉ đến rất gần đây mới
có những chuyển biến đáng kể trong nhận thức và thực tế chính sách. (Cuối năm 2006 Quốc
Hội ban hành Luật Cư trú [81/2006/QH11] và năm 2007 Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị
về việc tổ chức triển khai thi hành Luật Cư trú [07/2007/CT-TTg]).
Việc chậm thay đổi chính sách quản lý con người ở Việt Nam qua trường hợp người di dân, có
thể nói, là một ví dụ điển hình cho một hiện tình chung: sự trì trệ của các chính sách và cơ chế
quản lý nhân khẩu-nguồn lao động theo kiểu cũ, trước những biến đổi xã hội nhanh chóng đòi
hỏi những thay đổi mang tính cấu trúc cơ bản, nhưng đã không được đáp ứng kịp thời.
3.3. GIÀ HOÁ DÂN SỐ
3.3.1. GIÀ HÓA: VẤN ĐỀ CỦA MỌI QUỐC GIA TRONG THẾ KỶ XXI
Cho đến khoảng giữa thế kỷ XX, tiến bộ về điều kiện vệ sinh, cung cấp nước sạch và kiểm soát
bệnh truyền nhiễm đã làm giảm mạnh nguy cơ chết sớm trước tuổi. Đồng thời, hàng loạt nhân
tố xã hội khác làm giảm mức sinh. Người ta đã hoan hỉ về tiến bộ tăng tuổi thọ, bỏ qua một vài
cảnh báo sớm về một viễn cảnh già hóa dân số. Nhưng chỉ sau đó ít lâu các nhà dân số học và
quản lý đã phải nhận ra một hiện tượng dân số mới không tiền khoáng hậu: sự già hóa dân số
với những tác động lâu dài và sâu sắc của nó đến nhân loại. Năm 1950, thế giới có khoảng 200
triệu người trên 60 tuổi. Năm 2000, số người thuộc độ tuổi này là 550 triệu (chiếm khoảng 10%
dân số), dự tính năm 2025 đạt tới 1,2 tỷ người (chiếm khoảng 20% dân số).
Cuộc họp Đại hội đồng Liên hợp quốc về già hoá dân số tại Vienna năm 1982 thể hiện sự phối
hợp toàn thế giới đầu tiên đối với vấn đề già hóa, thông qua một chương trình toàn cầu cho vấn
đề này. Nhưng Đại hội chưa thực sự nhận thức được rằng quy mô và tỷ lệ cao của người già
trong dân số sẽ nằm ở khu vực các nước đang phát triển, nơi mà quá trình già hoá bắt đầu và
diễn ra mạnh mẽ trong tình cảnh chưa thoát khỏi sự nghèo khổ. Trong những nước đó, cả xã
hội, nhà nước cũng như gia đình và cá nhân đều có rất ít nguồn lực. Đại hội này cũng chưa đặt
ra một cách rõ ràng về tình trạng tồn tại những hình ảnh và thái độ sai về người cao tuổi. Người
có tuổi vẫn còn là một nhóm bị bỏ quên, bị vô hình trước những người làm công tác phát triển,
thường bị coi là phụ thuộc và thụ động về mặt kinh tế và xã hội. Nhiều người cao tuổi bị phân
biệt đối xử, bị loại trừ, thậm chí bị ngược đãi và bạo hành.
Phần lớn người cao tuổi hiện vẫn không thể dựa nhiều vào các hình thức hỗ trợ nhà nước. Chỉ
có 30% người già trên thế giới hưởng chế độ hưu trí. Trong các nước đang phát triển, phần lớn
người già rất khó tiếp cận những dịch vụ y tế, việc làm, nhà ở, đi lại và chăm sóc. Nhiều nước
bị hạn chế trong việc lập pháp và huy động nguồn lực cho vấn đề già hoá.
52
Hai mươi năm sau, cuộc họp Đại hội đồng Liên hợp quốc về già hoá dân số lần thứ hai diễn ra
tại Madrid năm 2002 đã cố gắng khắc phục những nhược điểm trên, thông qua một chương
trình toàn cầu mới cho vấn đề này. Liên hợp quốc đã thực hiện một loạt nỗ lực từ đó đến nay
nhằm thúc đẩy và hỗ trợ các quốc gia đáp ứng với vấn đề già hóa.
3.3.2. GIÀ HOÁ DÂN SỐ Ở VIỆT NAM
Tại Việt Nam, nếu như vấn đề người cao tuổi đã được quan tâm từ khá lâu, thì vấn đề già hóa
dân số lại mới chỉ được chú ý trong vòng hơn 10 năm trở lại đây. Mặc dù nhiều số liệu khác
nhau, song nhìn chung có thể thấy rằng Việt Nam đã và đang trải qua sự già hóa dân số như
phần lớn quốc gia khác trên thế giới. Năm 1979, mới chỉ có 3,71 triệu người từ độ tuổi 60 trở
lên, chiếm 6,9%. Năm 2006 ước tính con số này là 7,7 triệu người, chiếm 9,2%. Quá trình già
hóa dân số ở Việt Nam có bị chậm đi do các biến cố lịch sử như nạn đói 1945 và các cuộc chiến
tranh ác liệt kéo dài. Nhưng vào khoảng trước 2005 quá trình này đã bắt đầu tăng tốc. Ngay từ
giữa những năm 1990, tỷ lệ người 75 tuổi trở lên trong nhóm người cao tuổi (60+) đã tăng
mạnh, và điều này diễn ra trong suốt thập niên tiếp đó. Vào năm 2010, tỷ lệ này sẽ lên tới 29%,
một con số cao hơn bất kỳ nước châu Á nào khác. Ngay cả ở Việt Nam, tỷ lệ này cũng sẽ không
còn được nhìn thấy nữa cho đến tận sau 2040. Do chiến tranh nên tỷ suất giới tính trong nhóm
người cao tuổi (số người già nữ so với người già nam) lên tới 1,5 lần vào 2010.
Bảng 3.5. Dự báo dân số người cao tuổi Việt Nam dựa trên Tổng điều tra dân số 1999, 20002020
Năm
Số người 60+
2000
6.144.817
2005
6.397.546
2010
6.878.141
2015
8.282.125
2020
10.692.992
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2001.
Chung
7,97
7,73
7,79
8,73
10,57
Tỷ lệ % người 60+ trong tổng dân số
Nam
6,69
6,54
6,68
7,64
9,48
Nữ
9,22
8,90
8,86
9,80
11,65
Bảng 3.6. Dân số người cao tuổi Việt Nam, số liệu 2005-2006
Năm
Dân số 60+ (triệu người)
Tổng dân số (triệu
% dân số 60+ trên tổng dân số
người)
1979
3,71
53,74
6,90
1989
4,64
64,41
7,20
1999
6,19
76,32
8,20
2005
7,46
83,12
8,97
2006
7,75
84,10
9,22
Nguồn: Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em. Báo cáo quốc gia 2002; Niêm giám thống kê 2005; Điều tra
biến đổi dân số và kế hoạch hóa gia đình 2006.
Thế hệ người cao tuổi Việt Nam hiện nay đã trải qua những kinh nghiệm xã hội mang tầm vóc
lịch sử mà rất ít thế hệ trước kia từng trải qua: sự hiện đại hóa liên tục nhưng dở dang và méo
mó trong suốt thế kỷ XX, nạn đói và các xáo trộn xã hội, những cuộc chiến tranh ác liệt kéo dài.
Điều may mắn là trong vòng hơn 10 năm qua, người cao tuổi được hưởng lợi một phần từ
những thành quả của Đổi Mới: tăng trưởng kinh tế cao, ổn định xã hội, chi tiêu phúc lợi xã hội
53
tăng. Nhưng hiện nay và trong 20 năm tới xã hội Việt Nam còn phải trải qua những biến đổi xã
hội to lớn do kết quả của công nghiệp hóa hiện đại hóa quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá.
Cho dù được quản lý tốt, quá trình biến đổi vĩ mô này không tránh khỏi dẫn đến những tác động
xã hội lớn lao.
3.3.3. HOÀN CẢNH KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA NGƯỜI CAO TUỔI
Khảo sát của Tổng cục Thống kê cho thấy vào đầu những năm 2000 có khoảng 25% người cao
tuổi còn lao động (trong đó 15,5% người già ở đô thị và 28% người già ở nông thôn) (Tổng cục
Thống kê, 2003).
Khảo sát về tình hình người cao tuổi Việt Nam tại 8 tỉnh năm 2007 cho kết quả 19,9% người
được hỏi có mức sống khá giả, 57,5% có mức sống trung bình và 23,1% ở mức nghèo (Dao The
Toan, 2007). Một nghiên cứu khác của Hội Người cao tuổi Việt Nam cho biết 10,5% người cao
tuổi trong mẫu khảo sát có mức sống khá giả, 55,5% ở mức trung bình và 34% ở mức nghèo.
Chỉ khoảng 1/3 người cao tuổi được nhận trợ cấp xã hội thường xuyên (dưới dạng chính sách
ưu đãi người có công, hưu trí và trợ giúp xã hội) (Hội Người cao tuổi Việt Nam, 2007).
Điều tra Sức khỏe Quốc gia năm 2001-2002 (VNHS) được xem là cuộc khảo sát định lượng đại
diện quốc gia đầu tiên về sức khỏe dân cư ở Việt Nam, trong đó đã phỏng vấn 15.195 người có
độ tuổi 60 trở lên. Kết quả cho thấy 50% người trong độ tuổi 65-74 nói rằng sức khỏe của họ
kém. Tỷ lệ này là 81% trong độ tuổi 80 trở lên. Trong độ tuổi 65-74 có hơn 10% được xem là
người khuyết tật. Tỷ lệ này là 20% trong độ tuổi 75 trở lên. Khoảng 40% người già trong mẫu
khảo sát có vấn đề về huyết áp. Người cao tuổi Việt Nam có thể nhận được thẻ bảo hiểm y tế từ
4 chế độ: ưu đãi người có công, hưu trí, người nghèo, và đóng bảo hiểm tự nguyện. Tuy nhiên,
hiện nay có tới 66,6% người già (60+) không có thẻ bảo hiểm y tế.
Bảng 3.7. Học vấn, hoạt động kinh tế, hôn nhân và nơi cư trú của người cao tuổi Việt Nam
(60+) theo giới và tuổi, 1999
Chỉ số
60+
Nam
14,2
Nữ
47,6
60-69
Nam
Nữ
8,8
33,8
% không biết chữ
% không được đi
học chính quy
12,9
42,5
8,1
29,4
% đạt học vấn lớp 6
trở lên
35,1
8,0
43,4
11,7
% còn lao động
34,1
19,0
46,7
29,9
% sống ở đô thị
22,0
21,5
22,5
21,9
% đang kết hôn
84,8
44,2
90,9
57,9
% goá
14,0
53,3
7,9
39,0
% chưa bao giờ kết
hôn
0,4
1,2
0,4
1,5
Nguồn: Số liệu Tổng Điều tra dân số Việt Nam 1999 (mẫu 3%).
70-79
Nam
Nữ
18,4
58,3
80+
Nam
34.6
Nữ
75.9
16,8
52,4
30.8
69.6
25,8
19,1
21,5
80,3
18,5
4,5
8,7
20,9
35,3
62,8
13.7
4.5
20.3
60.2
38.5
1.9
1.4
21.4
12.1
86.6
0,4
0,9
0.6
0.9
Như vậy, người cao tuổi Việt Nam và gia đình của họ hiện nay đang phải đối diện với nhiều
khó khăn lớn. Khoảng 1/3 người già và có thể hơn thế còn phải sống ở mức nghèo khổ, một tỷ
lệ cao hơn mức nghèo chung của toàn bộ dân cư. Cũng phải thấy rằng tỷ lệ người cao tuổi ở
mức cận nghèo là khá cao. Đặc biệt, trên cả nước còn hàng trăm ngàn người già phải sống trong
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Một Báo cáo của Hội người cao tuổi Việt Nam cho biết có hơn
54
100.000 người già thiếu quần áo và sống trong điều kiện nhà ở rất tồi tệ. Khoảng 2/3 người già
không có nguồn trợ cấp xã hội thường xuyên và không có bảo hiểm y tế. Nhưng mức trợ cấp xã
hội thường xuyên cũng không đảm bảo được nhu cầu sinh hoạt và chữa bệnh của phần lớn
những người được hưởng trợ cấp.
Đại đa số người già có sức khỏe kém, thường có nhiều bệnh mạn tính. Nhưng phần lớn không
được chăm sóc y tế đầy đủ và có chất lượng, do thiếu tiền và điều kiện tiếp cận dịch vụ y tế
không thuận tiện. Chi phí cho chăm sóc y tế ngày càng tăng.
Có một sự thừa nhận chung trong công luận rằng người cao tuổi Việt Nam hiện nay chưa được
sống trong một môi trường vật lý và xã hội thân thiện với tuổi già (aged-friendly) trong cả gia
đình, cộng đồng và xã hội. Các giá trị cổ truyền tôn vinh tuổi già đang bị xói mòn nghiêm trọng
do nhiều thập niên chiến tranh, do những năm khủng hoảng kinh tế-xã hội, và do quá trình hiện
đại hóa chịu ảnh hưởng nặng của phương Tây.
3.4. ĐỘNG LỰC DÂN SỐ: TÓM TẮT VÀ KIẾN NGHỊ
Sau 25 năm thực hiện quyết liệt chính sách giảm mức sinh, dân số Việt Nam đã đi vào ổn định
ở mức sinh thay thế. Kết quả là Việt Nam tiến vào thời kỳ quá độ dân số. Động thái dân số ở
Việt Nam hiện nay là một động lực ảnh hưởng một cách đa chiều đến quá trình phát triển và
hiện đại hóa. Đặc trưng của sự thay đổi cơ cấu dân số ở Việt Nam là ở chỗ việc tăng tỷ lệ nhân
lực lao động diễn ra cùng quá trình già hóa dân cư. Kỷ nguyên dân số vàng kéo dài vài thập
niên đã và đang tạo ra một cơ hội lớn có một không hai cho sự phát triển mang tính chiến lược
của đất nước. Tỷ lệ nguồn lao động cao là một khả năng tiềm tàng lớn (nếu không nói là lớn
nhất) để giải quyết vấn đề tăng trưởng kinh tế, công nghiệp hóa và phát triển tăng tốc-rút ngắn ở
Việt Nam. Nó cũng là một nhân tố tiềm tàng để giải quyết vấn đề già hóa dân số đang bắt đầu.
Tuy nhiên, thách thức lớn nhất là điều kiện chính sách phù hợp để có thể nắm bắt được cơ hội
này. Trong khi đó, như nhiều nghiên cứu cho thấy, việc hình thành chính sách đúng và đặc biệt
là việc thực hiện chính sách một cách hiệu quả là một trong những yếu kém chủ yếu của Việt
Nam hiện nay.
Bên cạnh cơ hội dân số trẻ và sự già hóa dân cư, quy mô và tốc độ của các quá trình di dân
cũng là động lực lớn đối với quá trình phát triển hiện nay. Tuy có những khó khăn và hậu quả
xã hội do quá trình di dân gây ra, về cơ bản, di dân và đặc biệt là di chuyển nguồn lao động
đang tạo nên những xung lực lớn cho công nghiệp hóa hiện đại hóa. Trong vấn đề này, một lần
nữa quả bóng lại thuộc về Nhà nước - người vạch chính sách và quản lý.
Trong các Bảng 3.8 đến 3.10 dưới đây, tác giả trình bày 3 sơ đồ để khái niệm hóa các động lực
dân số liên quan đến nguồn nhân lực, di dân và già hóa, và định hướng chính sách nhằm vận
dụng và điều chỉnh các động lực phù hợp với mục tiêu phát triển và phúc lợi con người.
Phương pháp của việc xây dựng các sơ đồ khái niệm hóa ở đây là xác định các lĩnh vực tác
động và hành động then chốt. Trong từng lĩnh vực ấy xác định các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề
đang được xem xét. Từ đó nêu lên những định hướng chính sách để giải phóng, định hướng
hoặc hạn chế các tác động của các yếu tố gây ảnh hưởng.
Chẳng hạn, Bảng 3.8 nhằm sơ đồ hóa thực tế và phản ứng chính sách đối với “kỷ nguyên dân số
vàng”. Một yếu tố tác động lớn là thị trường lao động. Để hỗ trợ cho sự phát triển của thị
55
trường lao động, cần những giải pháp chính sách nhằm mở rộng và tăng cường tính linh hoạt
của loại thị trường này. Xem xét yếu tố tác động và định hướng chính sách cũng cần phải được
nhìn xuyên qua các lĩnh vực (trong sơ đồ là nhìn theo các cột dọc). Ví dụ, việc tăng tính linh
hoạt của thị trường lao động rõ ràng cũng chịu sự ảnh hưởng của chính sách mở rộng giáo dục
toàn dân và nâng cao chất lượng giáo dục.
Nhìn một cách tổng quát cho cả ba khu vực động lực dân số được phân tích ở trên, theo chúng
tôi, có 4 định hướng chính sách then chốt đối với ba loại động lực/ vấn đề dân số nói trên. Đó
là:
o Tự do hóa kinh tế định hướng vào tăng trưởng dài hạn.
o Thúc đẩy thị trường lao động thống nhất và năng động.
o Thúc đẩy 4 lĩnh vực xã hội - giáo dục, y tế, thể dục thể thao và phúc lợi xã hội - theo hướng
thị trường hơn, đồng thời phổ cập và toàn dân.
o Hỗ trợ các nhận thức và hành vi “Già hóa tích cực”.
Bảng 3.8. Yếu tố tác động và định hướng chính sách trong kỷ nguyên dân số vàng
Lĩnh vực
Kinh tế
Yếu tố tác động
o Cấu trúc thành phần
kinh tế.
o Quan hệ kinh tế quốc
tế.
o Thị trường lao động.
o Thị trường vốn.
o Tiết kiệm.
Sức khỏe
o Hệ thống chăm sóc
sức khỏe.
o Bảo hiểm y tế.
o Thể dục thể thao.
Giáo dục
o Hệ thống giáo dục.
o Xã hội học tập và mở
cửa.
Phúc lợi xã hội
o Bảo hiểm xã hội.
o Xã hội dân sự.
Nguồn: Bùi Thế Cường.
Định hướng chính sách
o Mở cửa nền kinh tế (vốn, hàng hóa, lao
động, tri thức).
o Khuyến khích kinh tế tư nhân và hộ gia
đình.
o Tính linh hoạt của các thị trường lao động,
thị trường vốn.
o Khuyến khích lối sống tiết kiệm, chú trọng
đầu tư vào tương lai.
o Bảo hiểm sức khỏe toàn dân.
o Chú trọng thể dục thể thao toàn dân.
o Chương trình sức khỏe sinh sản.
o Giáo dục sức khỏe thể chất, tinh thần và xã
hội.
o Mở rộng giáo dục toàn dân.
o Xã hội hóa giáo dục.
o Chất lượng giáo dục định hướng vào nhu
cầu thị trường (trong nước và quốc tế).
o Phúc lợi xã hội toàn dân.
o Phát triển khu vực xã hội dân sự.
56
Bảng 3.9. Động lực di dân và định hướng chính sách
Lĩnh
vực
Chính
trị,
hành
chính,
tư
tưởng
Mặt mạnh, cơ hội,
động lực
o Tự do hóa hàng hóa,
lao động, kinh doanh,
và con người.
o Năng động hóa đời
sống xã hội.
Kinh tế
o Đáp ứng nhu cầu lao
động ở đô thị và vùng
phát triển hơn.
o Đóng góp vào phát
triển kinh tế nơi đến.
o Hỗ trợ phát triển kinh
tế nơi xuất cư.
o Tăng tính thống nhất
thị trường quốc gia.
o Hỗ trợ đoàn tụ gia đình
hoặc ở nơi xuất cư hoặc
ở nơi đến.
o Hỗ trợ vận tải, truyền
thông (phổ biến phương
tiện, giảm chi phí).
Văn
o Tăng tính thống nhất o Gây nên những vấn
o Hỗ trợ giao lưu văn hóa
hóa,
quốc gia.
đề về trật tự trị an.
và tính đa dạng và thống
cộng
o Tăng cường các mạng o Môi trường sống xấu
nhất của quốc gia.
đồng,
lưới xã hội.
đi.
o Tăng cường giáo dục,
xã hội
o Tăng giao lưu văn
o Nếp sống không thích
truyền thông.
hóa.
hợp.
o Đổi mới cách quản lý
o Mất cội rễ.
con người và xã hội.
Nguồn: Bùi Thế Cường.
Gia
đình
o Tăng thu nhập gia
đình, giảm nghèo.
o Mở cơ hội đầu tư
kinh tế hộ gia đình.
Mặt yếu, thách thức,
Định hướng chính sách
vấn đề
o Hộ khẩu.
o Tiếp tục tự do hóa, mở
o Phân biệt đối xử.
cửa kinh tế trong nước
o Định kiến.
và với nước ngoài (vốn,
o Khó khăn cho bộ máy
hàng hóa, lao động, tri
quản lý xã hội.
thức).
o Thay đổi nhận thức về di
dân.
o Bãi bỏ hoàn toàn chế độ
hộ khẩu, các rào cản và
các phân biệt đối xử.
o Hiện đại hóa cách quản
lý con người và xã hội.
o Lồng ghép yếu tố di dân
vào các chiến lược và
chính sách.
o Tăng thêm chênh lệch o Đầu tư và phát triển kinh
kinh tế vùng.
tế cân bằng theo vùng.
o Nơi xuất cư gặp khó
o Hoàn thiện hệ thống
khăn hơn về kinh tế.
pháp luật lao động.
o Thay đổi mạnh cơ
cấu dân số nơi xuất
cư theo hướng giảm
lao động trẻ và có
chất lượng hơn.
o Điều kiện lao động và
sinh hoạt tồi tệ của
dân di cư.
o Gia đình yếu, xa
cách, tan vỡ.
57
Bảng 3.10. Yếu tố tác động và định hướng chính sách người cao tuổi
Lĩnh vực
Yếu tố tác động
Tự lực
o Tình trạng sức khoẻ.
o Khả năng kiếm việc trong
thị trường lao động.
o Tài sản tích luỹ.
o Khả năng an toàn đối với
tài sản.
Gia đình
o Mức thu nhập của con cái.
o Hệ thống gia đình truyền
thống (lòng hiếu thảo của
con cái, sắp xếp gia đình
của con cái).
o Những gánh nặng xã hội
của gia đình (chi phí y tế,
giáo dục, dịch vụ xã
hội,...).
o Môi trường đạo đức xã
hội.
Hệ
o Chế độ ưu đãi xã hội.
thống
o Chế độ bảo hiểm xã hội.
bảo trợ
o Trợ cấp phúc lợi xã hội
xã hội
(người già cô đơn, tàn
quốc gia
tật,...).
o Chế độ bảo hiểm y tế.
o Phúc lợi xã hội theo đơn
vị làm việc, đoàn thể xã
hội, cộng đồng.
o Quỹ hưu nông dân.
o Bảo hiểm nhân thọ.
o Quỹ xã hội (quỹ phụng
dưỡng cha mẹ ông bà,...).
o Mạng lưới chăm sóc
người già của nhà nước và
xã hội.
Nguồn: Bùi Thế Cường.
Định hướng chính sách
o Nâng cao sức khoẻ, giáo dục sức khoẻ và
chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi (chính sách
y tế, thể thao, giáo dục và thuốc chữa bệnh).
o Giúp đỡ năng lực tự tổ chức của người cao
tuổi.
o Chính sách lao động cho người cao tuổi (giảm
thuế, môi giới việc làm, đào tạo,...).
o Tăng cường các biện pháp bảo vệ tài sản cho
người dân nói chung và người cao tuổi nói
riêng (cho vay, chứng khoán, chống lạm phát
và mất giá đồng tiền,...).
o Bảo hộ và phát triển các hệ thống gia đình
truyền thống địa phương.
o Giáo dục lòng hiếu thảo của con cái.
o Có chính sách định hướng vào việc giúp
những gia đình đang nuôi dưỡng cha mẹ già.
o Các chương trình phát triển xã hội nhằm nâng
cao mức sống và năng lực hộ gia đình (xoá
đói giảm nghèo, phát triển hệ thống chăm sóc
sức khoẻ ban đầu và y tế nói chung, phát triển
hệ thống giáo dục, chương trình chống tệ nạn
xã hội, ...).
o Duy trì mức trợ cấp và điều chỉnh mức trợ cấp
phù hợp với biến đổi kinh tế.
o Mở rộng và tăng cường các hệ thống bảo trợ
xã hội quốc gia.
o Điều chỉnh chính sách định hướng hơn vào
những người cao tuổi nghèo và thiếu nguồn
lực giúp đỡ.
o Phát triển năng lực các khu dân cư.
o Phát triển hợp lý mạng lưới chăm sóc người
cao tuổi của nhà nước, cộng đồng, khu vực
kinh doanh và xã hội dân sự (chăm sóc tại
nhà, trung tâm phúc lợi xã hội, câu lạc bộ
dành cho người cao tuổi,...).
58
CHƯƠNG BỐN. VĂN HÓA
Mục 2.1 Chương Hai đã trình bày khái niệm khuôn mẫu văn hóa-xã hội. Trong cách nhìn này,
văn hóa và cấu trúc xã hội (hay còn gọi là kết cấu xã hội hay cơ cấu xã hội) gắn kết với nhau
không thể tách rời. Chúng là hai mặt của tổ chức xã hội, chúng cũng là hai động lực cơ bản của
biến đổi xã hội. Chương Bốn và Chương Năm dành cho việc trình bày những đặc trưng và
những vấn đề đang nổi lên trong hai lĩnh vực đó. Bảng 2.1 có thể xem là khung sơ đồ cho sự
phân tích ở hai Chương này. Theo Bảng 2.1, văn hóa có thể được xem là cấu thành của ba nội
dung lớn: hệ tri thức, giá trị và chuẩn mực. Chương Bốn sẽ xem xét văn hóa theo quan niệm
trên và đặt nó vào bối cảnh hiện đại hóa.
Một đặc điểm quan trọng của cách nhìn xã hội học là nó không chỉ đồng ý với quyết định luận
kinh tế, mà còn thừa nhận và nhấn mạnh tầm quan trọng hàng đầu của văn hóa trong tổ chức xã
hội, trong tiến trình hiện đại hóa. Lý giải sự nổi lên của chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu, xã hội học
đã cống hiến hai cách giải thích đặc sắc: cách giải thích của Mác dựa trên cấu trúc kinh tế (một
kiểu cấu trúc xã hội), và cách giải thích của Weber dựa trên văn hóa. Nói cách khác, Weber
nhìn chủ nghĩa tư bản không phải chỉ là một loại hình cấu trúc xã hội, mà còn là một loại hình
văn hóa. Cả hai cách nhìn này cống hiến cho chúng ta một hàm ý kép: xây dựng một xã hội
hiện đại có nghĩa là (phải) kiến tạo nên một cấu trúc kinh tế-xã hội đặc thù, đồng thời cũng
(phải) là kiến tạo nên một kiểu văn hóa đặc thù.
4.1. VĂN HÓA NHÌN TỪ QUAN ĐIỂM HIỆN ĐẠI HÓA
Xã hội công nghiệp được tổ chức theo nhiều nguyên lý tương phản với xã hội tiền công nghiệp.
Chẳng hạn, các nhà xã hội học thường đồng ý với nhau rằng xã hội công nghiệp dựa trên những
nguyên lý sau đây: xã hội thay cho cộng đồng (quan hệ chức năng thay cho quan hệ sơ cấp), tổ
chức quan liêu, dựa trên công nghệ, đề cao hơn cá nhân luận (kèm theo là quyền con người),
duy lý (reason), hợp lý (rational).
Một số nhà xã hội học đi theo xu hướng kiểm kê những đặc điểm khác nhau phân biệt giữa hai
kiểu xã hội, cổ truyền tiền hiện đại và công nghiệp. Từ đó xây dựng những tiêu chí cho hiện đại
hóa: một khi đạt được rõ nét những đặc điểm này thì được xem là đã hoàn thành quá trình hiện
đại hóa.
Bảng 4.1 minh họa một sự so sánh khác biệt giữa hai kiểu xã hội ngăn cách nhau bởi hiện đại
hóa. Có thể tạm gọi “phương pháp” cho sự hình thành bảng này là “cách thức kiểm kê”. Cách
này có ích lợi về mặt bản đồ nhận thức lẫn chính sách. Nó bắt đầu từ các biểu hiện (đặc điểm)
mang tính thực chứng (trực tiếp, hữu hình, đo lường được). Từ đó người ta có thể đưa ra một hệ
thống chính sách cho sự chuyển đổi và kiến tạo mới một xã hội hiện đại. Khi làm nảy sinh đầy
đủ các “triệu chứng” (đặc điểm) này cho một quốc gia, ta có thể nói đã hoàn thành quá trình
hiện đại hóa.
Xét về mặt văn hóa, quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa bao gồm việc tạo dựng nên một hệ
văn hoá hiện đại, mang tính công nghiệp (cả về tri thức, giá trị, chuẩn mực, và phong cách).
Việc tạo dựng này sẽ là một sự đụng độ sâu sắc với hệ văn hoá tiền công nghiệp. Nhưng một
nhóm người hay cả một quốc gia đi vào hiện đại hóa lại không thể vứt bỏ toàn bộ di sản văn
hoá của mình. Một mặt, nó phải dùng di sản đã có này làm động lực cho quá trình công nghiệp
59
hóa hiện đại hóa. Mặt khác, nó phải giữ di sản này để làm nên bản sắc (identity) ngay cả sau khi
đã hiện đại hóa.
Bảng 4.1. Khác biệt giữa kiểu xã hội cổ truyền và xã hội hiện đại
Vùng / Đặc điểm
Quy mô
Cấu trúc
Kinh tế
xã hội
Xã hội cổ truyền
Nhỏ, rời rạc.
Phân công lao động đơn giản, ít
năng suất, nông nghiệp, thủ công
nghiệp, sản xuất hộ gia đình là phổ
biến, ít lao động trí óc.
Dân số
Nhỏ, rời rạc, đóng, cư trú ở nông
thôn.
Sơ cấp, định danh, ít riêng tư.
Dựa trên nhiều phân loại phi kinh
tế, cứng nhắc và đóng, ít di động.
Phổ biến vị thế gán, ít chuyên biệt
hóa vai trò.
Bất bình đẳng, gia trưởng, bên
trong gia đình.
Bất bình đẳng, gia trưởng, đề cao
tuổi tác một chiều.
Chuyên chế, ít trách nhiệm xã hội.
Quan hệ
Phân tầng
xã hội
Vị thế,
vai trò
Khuôn
mẫu giới
Khuôn
mẫu tuổi
Nhà nước
Gia đình
Tôn giáo
Giáo dục
Sức khỏe
Văn hóa
Truyền
thông
Kiểm
soát xã
hội
Hình thái
tổ chức
Tri thức
Công
nghệ
Giá trị
Chuẩn
mực
Phong
cách sống
Định
hướng
Biến đổi xã hội
Gia đình mở rộng, nhấn mạnh
chức năng kinh tế và xã hội hóa.
Là nền tảng của thế giới quan,
không đa dạng tôn giáo.
Hạn chế trong giới tinh hoa.
Mức sinh, mức chết cao, tuổi thọ
thấp, chưa có ý niệm vệ sinh.
Trực tiếp cá nhân đến cá nhân.
Xã hội hiện đại
Lớn, liên kết, tập trung.
Phân công lao động cao, sản xuất
công nghiệp hàng loạt, năng suất
và hiệu quả, công xưởng và công
ty là phổ biến, tỷ lệ cao lao động
trí óc.
Lớn, liên kết, di động cao, cư trú ở
đô thị.
Chức năng, vô danh, riêng tư.
Chủ yếu dựa trên kinh tế, lỏng và
mở hơn, tính di động xã hội cao.
Phổ biến vị thế giành được, tăng
chuyên biệt hóa vai trò.
Bình đẳng hơn, nhiều tham gia
ngoài gia đình.
Bình đẳng hơn cả trong gia đình,
tổ chức và xã hội.
Dân chủ, đảm nhiệm trách nhiệm
xã hội.
Gia đình hạt nhân, ít chức năng
kinh tế.
Nhạt đạo, đa dạng tôn giáo, không
phải là nền tảng của thế giới quan.
Phổ cập, tiên tiến.
Mức sinh, mức chết thấp, tuổi thọ
cao, nếp sống vệ sinh.
Truyền thông đại chúng.
Trực tiếp, phi kết cấu (informal).
Hệ thống tư pháp, cảnh sát có kết
cấu (formal).
Thuần nhất, toàn trị.
Khác biệt hóa cao.
Dân gian, nghèo.
Tiền công nghiệp, năng lượng cơ
bắp con người hoặc động vật.
Thuần nhất, bị thiêng hóa, cộng
đồng luận (hẹp), ít khoan dung.
Luật tục, cứng nhắc về phong tục
tập quán.
Kiểu cộng đồng nông thôn.
Dựa trên khoa học, tích lũy nhanh.
Công nghiệp, khoa học, nguồn
năng lượng cao cấp.
Đa dạng, thế tục, cá nhân luận,
toàn cầu luận, khoan dung.
Đề cao luật pháp, khoan dung về
phong tục tập quán.
Lối sống đô thị.
Gắn với quá khứ.
Gắn với hiện tại và tương lai.
Chậm, qua nhiều thế hệ.
Nhanh, ngay trong một thế hệ.
60
Nguồn: Macionis (1980) có điều chỉnh, bổ sung của Bùi Thế Cường.
4.2. NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN HÓA HIỆN NAY
Trong những năm 1990, Đảng đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng nền văn hóa mới, xem
đó là nền tảng và động lực tinh thần của xã hội. Năm 1998, Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ 5 (Khoá XIII) ra Nghị quyết "Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". Sau Đề cương văn hóa Việt Nam (1943), đây được xem là
chiến lược văn hoá của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Điều này
nói lên tầm quan trọng chiến lược lâu dài của văn kiện. Gần đây, công tác văn hóa đã được tổng
kết, trên cơ sở đó đề ra những phương hướng công tác mới. Trong phần này, chúng tôi nêu lên
một số vấn đề vừa cơ bản vừa cấp bách hiện nay liên quan đến văn hóa nhìn dưới lăng kính của
những quan điểm xã hội học về văn hóa nêu ở mục trên.
4.2.1. VĂN HOÁ LÀ HỆ TRI THỨC: HIỆN ĐẠI HÓA CẦN MỘT HỆ TRI THỨC QUỐC TẾ
CẬP NHẬT
Trong cách hiểu xã hội học đã được trình bày ở Mục 2.1 (Chương Hai) và ở phần trên, văn hóa
trước hết bao gồm hệ tri thức. Đó là thế giới quan, nhân sinh quan, hiểu biết về công nghệ, tổ
chức xã hội, v.v. Nhìn vào bề mặt đời sống xã hội người ta tưởng rằng hệ tri thức chỉ là một
khối khổng lồ các dữ kiện, thông tin và tri thức. Thực ra, bên dưới biểu hiện rời rạc như vậy,
chúng được xã hội liên kết và tổ chức lại với nhau. Cách liên kết và tổ chức tri thức phụ thuộc
vào bản chất của nền văn hóa và cấu trúc xã hội. Trong xã hội hiện đại, hệ tri thức dựa trên
khoa học và công nghệ, duy lý và hợp lý hóa, có tính quốc tế, được tích lũy với tốc độ nhanh
chóng và thường xuyên biến đổi.
Giống như các xã hội đang phát triển khác, người ta có thể tìm thấy trong xã hội Việt Nam cùng
lúc mọi loại tri thức của quá khứ dân tộc cũng như của thế giới đương đại. Nhưng hệ tri thức,
với tính cách là một kiểu tổ chức tri thức bị định hình bởi cấu trúc xã hội, thì về nhiều mặt hệ tri
thức chủ đạo ở Việt Nam hiện nay tỏ ra là lạc hậu so với thời đại. Một biểu hiện của điều nói
trên là ở chỗ người ta đọc thấy vô số bài báo than phiền về tình trạng tri thức nghèo nàn, lạc
hậu, nhiều sai lạc trong hệ thống giáo dục phổ thông, dạy nghề và đại học.
4.2.2. VĂN HOÁ LÀ HỆ GIÁ TRỊ: HIỆN ĐẠI HOÁ CẦN MỘT HỆ GÍA TRỊ CỦA TÍNH
HIỆN ĐẠI
Trong một xã hội tại mỗi thời điểm lịch sử đều có những điều được xã hội hoặc một số nhóm
xem là "giá trị" (những cái muốn được đạt tới, theo đuổi, những cái được đánh giá cao, được
xem trọng, ...). Hệ các giá trị này tạo ra một môi trường định hướng tư tưởng và hành động cho
con người, cho các cá nhân và nhóm, qua đó tạo ra hành động chung và liên kết xã hội. Khi hệ
giá trị này hỗn loạn, không rõ ràng, đối nghịch nhau, xã hội sẽ rơi vào trạng thái "phi chuẩn
mực" (anomie), ở đó các cá nhân và nhóm thiếu được định hướng trong tư tưởng, cảm xúc và
hành vi.
Khi bàn về sự thành công của các con rồng và con hổ châu Á, người ta thường nhắc đến vai trò
của chính sách nhấn mạnh “giá trị quan châu Á”, đến vai trò của nền văn hóa Khổng giáo. Điều
này đúng. Tuy nhiên, cần thấy một khía cạnh khác là những nước phát triển thành công ấy,
trong khi đề cao các cơ sở văn hóa truyền thống, trên thực tế họ đều cam kết rất mạnh mẽ với
61
hệ giá trị của xã hội công nghiệp. Chẳng hạn, trong nhiều thập niên, định hướng chính sách và
tuyên truyền ở các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Singapore, ở các lãnh thổ như
Đài Loan, Hongkong, đều lấy phát triển kinh tế và đời sống thịnh vượng làm trung tâm, coi
trọng sản xuất và thương mại hiệu quả, đặt toàn bộ xã hội trên nền tảng khoa học và công nghệ.
Cuộc cải cách ở Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình khởi xướng năm 1978 cũng bắt đầu bằng
những mục tiêu (giá trị) mới: làm giàu, để một số giàu trước, 4 hiện đại hóa, v.v.
Trở lại trường hợp Việt Nam, trong bối cảnh hiện nay, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm
của toàn quốc gia. Đây là phương châm đã được Đảng xác định, và nhận được sự đồng thuận
của hầu hết các lực lượng xã hội. Điều này phải đi vào "văn hoá" của xã hội, tức là trở thành
một "giá trị". Chẳng hạn, "giàu" đã trở thành một giá trị, được phát biểu một cách chính thống
trong khẩu hiệu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Tuy nhiên, vẫn
còn hàng loạt quy định, thái độ, cách nghĩ và cách làm không thừa nhận và khuyến khích tinh
thần nói trên ("tinh thần làm giàu"). Bản thân tinh thần đó, giá trị đó cũng không được diễn giải
rõ ràng, khiến cho các cá nhân và nhóm không có những định hướng nhất quán. Sự không rõ
ràng này thể hiện cả ở trong cán bộ chính trị, công chức, giới doanh nghiệp, công luận và trong
đông đảo người dân.
Khi nhấn mạnh đến hệ giá trị của xã hội hiện đại, điều này không có nghĩa là đề cao nó như là
một cái gì tuyệt đối đẹp đẽ, không thể phê phán. Trên thực tế, hệ giá trị của xã hội hiện đại cũng
là điều kiện (nhưng không phải là nguyên nhân, nguồn gốc) cho việc nảy sinh nhiều hệ quả xấu
xa, tệ hại trong hành vi con người. Vấn đề ở đây chỉ là ở chỗ, để giải quyết được bài toán phát
triển, hiện đại hóa, một xã hội phải được thay thế hệ giá trị cổ truyền bằng hệ giá trị hiện đại; và
các thể chế sẽ là những công cụ để hạn chế những hệ quả xấu không mong đợi.
Hộp 4.1. Định hướng giá trị “sự giàu có” trong người lãnh đạo và người dân: Phỏng vấn của
VietnamNet với ông Grzegorz Kolodko, nguyên Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Tài chính Ba
Lan.
Có người cho rằng, những năm dài thực hiện mô hình kế hoạch hóa, quan liêu bao cấp đã
hình thành tâm lý bình quân chủ nghĩa, kỳ thị với người giàu. Theo ông, chúng ta nên giải
quyết trở ngại tâm lý này như thế nào?
Tôi nghĩ đó là câu hỏi đặt ra với hầu hết các nền kinh tế chuyển đổi chứ không riêng gì Việt
Nam. Nếu người giàu trở nên giàu hơn trên sự thiệt thòi của những người nghèo, cần phải có
sự đối thoại trong công luận và điều chỉnh chính sách. Tuy nhiên, trong phần lớn trường hợp,
điều này không đúng. Thực tế là mặc dù có khoảng cách về thu nhập giữa người giàu và người
nghèo song thu nhập của tất cả mọi người đều tăng lên. Nếu những người giàu lên một cách
chính đáng nhờ khả năng quản lý, giáo dục cao... thì không có vấn đề gì. Chính người nghèo
lại được hưởng lợi từ đó. Nhưng nếu khoảng cách giàu nghèo ngày một lớn, nhiều người
nghèo hơn thì Chính phủ phải có phản ứng, có thể bằng chính sách thu nhập hay chính sách xã
hội để tái phân phối của cải.
Không nên tư nhân hoá ồ ạt, thiếu cân nhắc. VietnamNet. 1/6/2004. Việt Lâm-Cẩm Tú thực
hiện.
4.2.3. VĂN HOÁ LÀ HỆ CHUẨN MỰC TRONG ĐÓ LUẬT LÀ CỐT LÕI
Có nhiều định nghĩa, cách hiểu về văn hóa. Cách hiểu của xã hội học về văn hóa có những điểm
khác biệt, có thể đôi khi làm cho các nhà nghiên cứu ở những lĩnh vực khác hoặc công luận nói
chung khó hình dung. Mối liên quan giữa văn hóa với luật pháp có thể là một điểm khác biệt
62
như vậy. Phần lớn nhà xã hội học đồng ý với nhau rằng một nội dung lớn của văn hóa là hệ
chuẩn mực. Nhưng chỉ một số nhất định các nhà xã hội học tiếp tục nghĩ đến luật pháp, với tính
cách là biểu hiện ở trình độ cao của hệ chuẩn mực, cũng là một bộ phận của văn hóa.
Chúng tôi cho rằng việc nhấn mạnh luật là một bộ phận hữu cơ của văn hóa là rất quan trọng
trong việc nhận thức về chủ đề hiện đại hóa. Bởi vì một đặc trưng then chốt của xã hội hiện đại
là nó vận hành trên nền tảng một hệ thống luật pháp rõ ràng, và hệ thống luật pháp này đến lượt
nó lại là một biểu hiện nhất quán theo các nguyên lý tổ chức của xã hội công nghiệp hiện đại
(xem Bảng 4.1). Nhấn mạnh điều này còn có ý nghĩa hơn nữa trong bối cảnh, khi xã hội Việt
Nam của thời kỳ vừa qua và mới chỉ rất gần đây thôi, do những lý do lịch sử khác nhau, đã rơi
vào tình trạng phổ biến xem thường vai trò của luật pháp.
Trên cơ sở hệ thống giá trị, văn hoá tạo ra một loạt chuẩn mực làm định hướng cho tư tưởng và
hành vi con người. Các chuẩn mực tồn tại dưới nhiều hình thái: những cấm kỵ, phong tục, tập
quán, luật pháp. Trong một xã hội văn minh ở thời đại hiện nay, thì cốt lõi của hệ thống chuẩn
mực là luật pháp.
Quan niệm về luật pháp như là một hình thái biểu hiện phát triển cao của văn hoá cho phép giải
thích một tình hình cơ bản và nổi bật hiện nay ở Việt Nam: tình trạng luật pháp không nhất
quán, không đầy đủ, thiếu hiệu lực như hiện nay đương nhiên dẫn đến sự xuống cấp và hỗn
loạn của văn hoá. Ngược lại, muốn giải quyết căn bản trạng thái xuống cấp và hỗn loạn của văn
hoá, cần phải tập trung vào lĩnh vực pháp luật, xem đây là then chốt. Việc né tránh điểm then
chốt này, phân tán nỗ lực vào các khía cạnh không then chốt khác của văn hoá, sẽ không đem
lại được chuyển biến cơ bản trong văn hoá.
4.2.4. VĂN HOÁ LÀ HỆ THỨC SỐNG: CƠ HỘI ĐỂ BIẾN ĐỔI NHANH
Theo cách hiểu xã hội học, văn hoá không phải chỉ liên quan đến đời sống tinh thần, văn hoá là
"cách" mà xã hội làm mọi điều, mọi việc. Như vậy, nói chung lại, văn hoá là lối sống: nó bao
gồm cả cách sản xuất, công nghệ, khối tri thức và cách tạo ra tri thức, cách suy nghĩ và cảm
xúc, cách xã hội hoá (giáo dục và đào tạo) con người, cách sinh hoạt.
Nếu nhìn nhận như thế về văn hoá, chúng ta sẽ thấy việc biến đổi xã hội và phát triển là rất khó
khăn, vì nó liên quan đến toàn bộ "cách thức sống", bao gồm "cách nghĩ" và "cách làm", của cả
một xã hội. Đây là những gì đã được hình thành từ lâu đời, và được cả một khối dân chúng
đông đúc chia sẻ. Do đó, thay đổi sẽ là rất khó khăn.
Nhưng mặt khác, nó cũng cho thấy mục tiêu thay đổi xã hội sẽ trở nên đơn giản nếu biết tập
trung vào cái gì là cốt lõi, bởi vì văn hoá chỉ liên quan đến "cách thức" mà thôi. Một khi chúng
ta thay đổi "cách nghĩ, cách làm" thì chúng ta sẽ không tạo ra những kết quả cũ nữa, mà là
những kết quả mới. Thêm nữa, việc thay đổi "cách nghĩ, cách làm" không nhất thiết phải diễn
ra đồng thời trong toàn xã hội. Trước hết và quan trọng nhất chỉ cần sự thay đổi ở giai tầng lãnh
đạo và quản lý. Điều này được kiểm chứng ở một số xã hội châu Á, nơi có một di sản truyền
thống hàng ngàn năm, nhưng đã giải quyết xong vấn đề hiện đại hoá trong vòng 20-30 năm.
Muốn đạt mục tiêu phát triển "rút ngắn", vào thời điểm này Việt Nam phải tập trung vào chỉ
một việc mà thôi: thay đổi cách nghĩ, cách làm hiện tại của người lãnh đạo quản lý ở mọi cấp,
mọi lĩnh vực.
63
4.2.5. VĂN HÓA LÀ MỘT PHẦN HỮU CƠ CỦA CÁC ĐỊNH CHẾ VÀ TỔ CHỨC
Theo xã hội học, cơ chế then chốt để vận hành xã hội là các định chế, bởi vì các định chế sinh
ra để đáp ứng những nhu cầu cơ bản của xã hội. Các định chế cơ bản của xã hội, bất kể ở hình
thái nào, gồm có: kinh tế, trật tự (pháp luật, chính trị, Nhà nước), giáo dục, niềm tin (tín
ngưỡng, tôn giáo), tái sản xuất (gia đình). Định chế là hỗn hợp của bốn thành phần: ý tưởng cơ
bản, các giá trị và quy tắc (văn hoá), các nhóm xã hội tham gia, cơ sở vật chất (Xem: Jonathan
H. Turner, 1998).
Một định nghĩa khác có thể giúp ta hiểu về bản chất của định chế và yếu tố văn hóa trong định
chế: “Douglas North … định nghĩa định chế là ‘luật chơi’ đề ra những sự khích lệ cũng như uốn
nắn hành vi của một tổ chức và cá nhân trong xã hội. Những định chế có thể là những luật lệ
chính thức, ví dụ như Hiến pháp, luật pháp, nội quy và những quy trình nội bộ trong một quốc
gia. Hay nó có thể là những giá trị, những quy tắc sống không chính thức, ví dụ như những quy
tắc đã đưa người ta đến những hành vi quan liêu. Định chế là do con người tạo ra và bắt nguồn
trong lịch sử. Nó định ra sự khích lệ làm cho xã hội được tổ chức và vận hành một cách trật tự,
cả việc ký các thỏa ước. Những định chế tốt đẹp vững mạnh thường làm cho cộng đồng hiểu
rằng cần thiết cho phép các chính sách hợp lý được thực thi nhằm hỗ trợ cho sự tăng trưởng
kinh tế lâu dài. Những định chế chính là cơ chế vận hành của chính quyền” (Henri Ghesquiere,
2008, trang 149).
Như vậy, văn hoá bao giờ cũng là một phần hữu cơ của mọi định chế, thậm chí là phần hữu cơ
then chốt, là “linh hồn” của định chế. Hiện nay, việc xem xét và xây dựng hợp phần văn hoá
trong định chế chính trị và kinh tế là quan trọng nhất. Nhưng cũng sẽ là khó khăn nhất vì nó
liên quan đến những lợi ích và cách nghĩ, cách làm có cội rễ sâu xa hiện nay trong xã hội Việt
Nam. Định chế và tổ chức là những khâu yếu nhất hiện nay, gây trở ngại cho phát triển. Công
tác tư tưởng văn hoá phải tập trung vào việc tham gia vào áp dụng những hình thái định chế và
tổ chức hiện đại.
4.2.6. HỘI NHẬP QUỐC TẾ VỀ VĂN HOÁ: ĐIỂM NHẤN THEN CHỐT HIỆN NAY
Quan điểm chỉ đạo của Đảng là "nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc". Đây là một chủ trương rất đúng đắn, nhưng trong diễn giải và trong
thực tế triển khai, vế đầu tiên còn nhiều điểm chưa rõ ràng, chưa được đặt ra như là một vế ưu
tiên. Cách giải thích như thế nào là "tiên tiến" chưa thoả đáng, chưa đầy đủ. Cách diễn giải dễ
tạo ra cách hiểu công tác văn hoá đối ngoại chỉ có nghĩa là tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá
bên ngoài và giới thiệu văn hoá của dân tộc ra thế giới. Cách đặt vấn đề cũng chưa tới tầm khái
niệm "hội nhập quốc tế về văn hoá", tới tầm mức độ "hội nhập kiên quyết và nhanh chóng".
Hộp 4.2. Thanh niên Việt Nam đang "tụt hậu từ A đến Z" so với thanh niên trong khu vực và
thế giới: Lo lắng được đặt ra trong Hội thảo "Hội nhập quốc tế thanh niên" do Trung ương
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức sáng 5/6/2004.
Trưởng Ban Quốc tế kiêm Bí thư Trung ương Đoàn Đoàn Văn Thái: "Tham gia hội nhập quốc
tế là nhu cầu tự nhiên của thanh niên Việt Nam... Tuy nhiên, thanh niên Việt Nam nhìn chung
chưa có sự chuẩn bị tích cực tham gia hội nhập quốc tế, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Thêm
vào đó, trình độ ngoại ngữ, tin học, trình độ chuyên môn của thanh niên Việt Nam nhìn chung
còn thấp so với trình độ tương tự của thanh niên các nước trong khu vực và trên thế giới".
Theo ông Trần Văn Miều, hội nhập quốc tế thanh niên là một xu hướng tất yếu, đòi hỏi thanh
64
niên phải nâng cao tâm và trí mới có thể chủ động hội nhập. Tuy nhiên, ông tỏ ra lo lắng: "Vừa
rồi, Bộ Kế hoạch Đầu tư công bố chỉ tiêu về trí tuệ, trình độ ngoại ngữ, khả năng thích ứng
với điều kiện tiếp nhận khoa học kỹ thuật của thanh niên Việt Nam theo chuẩn thang điểm 10
của khu vực khiến người ta phải giật mình: trí tuệ đạt 2,3/10; ngoại ngữ là 2,5/10 và khả
năng thích ứng với điều kiện tiếp cận khoa học kỹ thuật chỉ đạt hơn 2/10 điểm! ".
Dẫn ví dụ cụ thể từ việc yếu kém ý thức lẫn trình độ ngoại ngữ làm cản trở hội nhập quốc tế
thanh niên, ông Ngô Đức Lý kể lại lần đi Hàn Quốc của mình bằng một nhận xét đầy lo lắng
và được lặp đi lặp lại không dưới 3 lần "xấu hổ vô cùng các đồng chí ạ!". Ông kết luận: Mỗi
một lần theo đoàn ra nước ngoài là đại diện cho bộ mặt và thể diện quốc gia, dân tộc. Hình
ảnh đất nước Việt Nam sẽ được quảng bá qua tất cả những hành động, cử chỉ, lối ứng xử của
chúng ta nơi đất khách nên trước khi tổ chức "đoàn ra", cần phải có sự tập huấn kỹ lưỡng về
mọi mặt cho các thành viên trong đoàn, đặc biệt là văn hoá.
Khi được VietnamNet phỏng vấn về các chuyến khảo sát nước ngoài do Đoàn Thanh niên tổ
chức, ông Đoàn Văn Thái nhận xét: sau mỗi chuyến đi, ý thức, tác phong làm việc của thanh
niên cũng có phần nào thay đổi, chuyển biến tích cực. Cụ thể, thanh niên ta học được ở bạn
nhiều điều: từ cách quản lý xã hội, kỷ luật lao động, tác phong làm việc cho đến thái độ phục
vụ. Trong đó, điển hình là sự thay đổi giờ giấc, tác phong làm việc: ít đến muộn, phát biểu,
trình bày vấn đề gì cũng ngắn gọn, bớt rề rà hơn. Khi được hỏi “Những đoàn đi trước về có
truyền đạt kinh nghiệm cho các đoàn sau không?, ông Thái nói: thường thì các đoàn bao giờ đi
về cũng có báo cáo rút kinh nghiệm nhưng viết giống nhau lắm. Mục đích tổ chức các
chuyến đi của Trung ương Đoàn là nhằm giúp cán bộ, đoàn viên thanh niên tìm hiểu học hỏi
kinh nghiệm của Đoàn Thanh niên nước bạn cũng như cơ chế chính sách thanh niên của nước
đó song hầu như các đoàn đi về không làm được điều đó. Phần lớn còn nặng về tham quan du
lịch, ngắm cảnh.
Thanh niên Việt Nam đang “tụt hậu từ A tới Z”. VietnamNet, 6/6/2004.
Đồng thời với việc đề cập khía cạnh bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, cần
nhấn mạnh hơn đến khía cạnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hoá trong văn hoá. Sự nghiệp công
nghiệp hoá hiện đại hoá xã hội sẽ không thể diễn ra nhanh chóng để đạt được mục tiêu "rút
ngắn" nếu khía cạnh hội nhập quốc tế về văn hoá không được nhấn mạnh đầy đủ, thậm chí xem
là khía cạnh then chốt hiện nay. Hội nhập quốc tế về văn hoá chính là hội nhập về "cách nghĩ,
cách làm", các giá trị và chuẩn mực, các định chế và tổ chức mang tính quốc tế, toàn cầu, nảy
sinh trong một quá trình hiện đại hóa lâu dài hơn hai thế kỷ, đặc biệt trong nửa sau thế kỷ XX.
4.2.7. NHỮNG ĐỨC TÍNH CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM
Chủ nghĩa Mác và xã hội học hành động nhấn mạnh đến vai trò của con người trong xã hội và
lịch sử (Xem Mục 1.2.3 Chương Một). Một nhà quan sát có thể “thấy” được một xã hội qua
“nhìn” vào (tìm hiểu) con người ở xã hội ấy. Vì vậy, sự nghiệp phát triển một quốc gia tức là
làm biến đổi cấu trúc xã hội và văn hóa của quốc gia ấy; làm những biến đổi văn hóa-xã hội này
tức là thay đổi con người của xã hội ấy mà kẻ cam kết, thiết kế và thực hiện sự thay đổi lại
chính là họ.
Trở lại với cách giải thích của xã hội học văn hóa về nguồn gốc của thành công kinh tế, tiếp
theo Weber một số học giả đã tìm cách lý giải sự thành công của Nhật Bản và các con rồng
châu Á là nhờ vào sức mạnh văn hóa truyền thống với những giá trị và chuẩn mực Khổng giáo.
Rõ ràng, để có “thần kỳ kinh tế” một dân tộc phải xuất phát từ nền văn hóa của chính mình.
65
Trong Chương Một chúng ta đã có dịp đề cập đến lý thuyết “phát triển là một lịch sử cụ thể và
nội tại”, nói như vậy là bao hàm cả khía cạnh nền văn hóa riêng.
Vậy thì những đức tính văn hóa nào của con người và xã hội Việt Nam có thể phù hợp và phục
vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa ngày nay? Cần phải coi đây là một trong
những câu hỏi nghiên cứu quan trọng nhất hiện nay đối với các nhà xã hội học phát triển ở Việt
Nam và các tổ chức nghiên cứu của họ, mà tiếc rằng cho đến nay chưa được quan tâm đúng
mức. Trong Bảng 4.2, tác giả thử kiểm kê một số nét mạnh của văn hóa Việt Nam có thể trở
thành điểm tựa cho hiện đại hóa thành công.
Dĩ nhiên, xã hội học phát triển cũng phải quan tâm không kém đến một “phản đề” của câu hỏi
nghiên cứu trên: thế còn những đức tính văn hóa nào của con người và xã hội Việt Nam gây trở
ngại cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa ngày nay? Trong một thời gian dài, những
nghiên cứu về “phản đề” này không được giới quan phương và công luận hoan nghênh. Gần
đây, những nghiên cứu theo hướng đó của Vương Trí Nhàn đã được công luận chú ý, song
không phải là không còn nhiều rào cản tâm lý (Vương Trí Nhàn, 2007). Mục 4.2.8 dưới đây sẽ
còn đề cập đến vấn đề này.
Bảng 4.2. Những mặt mạnh về văn hoá của xã hội/con người Việt Nam
o Tương đối bình đẳng.
o Bình đẳng giới, phụ nữ có vị thế tương đối cao.
o Đa dạng văn hoá nhưng có mức thuần nhất tương đối cao (87% người Kinh, chung
ngôn ngữ và văn hoá).
o Mối liên hệ gia đình chặt chẽ, được hỗ trợ bởi nền kinh tế hộ gia đình và tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên.
o Làng là thực thể và tâm linh mạnh.
o Quốc gia có sự liên kết và có cội nguồn lâu đời.
o Có tính thích nghi.
o Dễ làm việc và sinh sống trong một nhóm nhỏ.
o Sẵn sàng tìm kiếm lối thoát kinh tế.
o Có động cơ thăng tiến, thành đạt.
o Muốn và chú trọng cho con cái có được mức giáo dục cao hơn.
o Học là một giá trị quan trọng.
o Văn hoá hỗn dung của Đông Á và Đông Nam Á.
o Có một hệ văn hoá Nho giáo, nhưng đã biến đổi theo bản địa.
o Có một di sản lớn văn hóa Pháp và Mỹ, đã phần nào được bản địa hóa.
o Di sản chủ nghĩa xã hội trong một loạt lĩnh vực: một số cơ sở vật chất-kỹ thuật quan
trọng, mức đi học ở các cấp, tư tưởng và chính sách nhấn mạnh vào phúc lợi, sớm có
công đoàn và một số tổ chức quần chúng có ảnh hưởng mạnh ở cấp toàn quốc và có
mạng lưới đến tận cơ sở.
Nguồn: Bùi Thế Cường.
4.2.8. KIẾN TẠO VĂN HOÁ CẦN LÒNG TỰ TÔN ĐỒNG THỜI TINH THẦN TỰ PHÊ
PHÁN
Trong một thời gian dài kể cả cho đến hôm nay, việc phê phán trực diện những khía cạnh tiêu
cực trong bản sắc văn hoá đã không được khuyến khích trên bình diện nghiên cứu và lý luận.
Trong khoa học xã hội, khái niệm văn hoá vừa mang tính giá trị nhưng vừa là trung tính. Chỉ có
66
như vậy, người ta mới có thể phân tích một cách phê phán, và chỉ có phân tích một cách phê
phán thì hiện trạng mới có thể thay đổi. Trong mọi nền văn hóa dân tộc, không có ngoại lệ, đều
có khía cạnh cần đề cao cũng như cần phê phán, có khía cạnh tích cực và tiêu cực (theo nghĩa
phù hợp hoặc không còn phù hợp với yêu cầu của đời sống hiện tại và tương lai). Trên thực tế
báo chí hàng ngày, chúng ta thấy vô số bài viết phê phán nhiều biểu hiện cụ thể trong lối sống
hiện nay ở người Việt Nam. Tuy nhiên, những phân tích phê phán tổng quát và toàn diện hơn
về văn hoá Việt Nam chưa được sẵn sàng đón nhận, cả ở lãnh đạo cũng như ở công luận.
Chúng ta đang ở trong mục tiêu và mong muốn phát triển "rút ngắn", "đi tắt, đón đầu". Chỉ có
thể thay đổi nhanh, và thay đổi một cách thành công, khi có sự tự tin, tự hào. Nhưng điều này
cũng chỉ có thể có được khi có tinh thần tự phê phán, chấp nhận sự phê phán.
4.2.9. HIỆN ĐẠI HÓA LÀ MỘT SỰ ĐỘT KHỞI VĂN HOÁ
Nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra rằng, để tạo nên một thời đại biến đổi mạnh mẽ, bao giờ
cũng xuất hiện trước đó một "tinh thần thời đại", điều được tạo ra bởi sự đột khởi về văn hoá.
Có tác giả nói chúng ta hiện cần có một "khí thế công nghiệp hoá hiện đại hoá" để tiến hành
được quá trình này một cách mạnh mẽ và rút ngắn (Trần Văn Thọ, 1998).
Sách báo quốc tế đã và đang ghi nhận lại một số thời điểm lịch sử liên quan đến những đột khởi
về văn hóa gắn với phát triển kinh tế. Thời đại Phục Hưng và Khai sáng ở Tây Âu thế kỷ XVIXVIII đã khơi mào cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Cải cách giáo dục đại học ở Đức do vua
Phổ giao cho Humbold khởi xướng sau thất bại năm 1807 trước Napoleon, đã dẫn đến tiến bộ
vượt bậc của khoa học, công nghệ và công nghiệp Đức suốt thế kỷ XIX. Nỗ lực của một thế hệ
các học giả và những trước tác vạch thời đại của họ xung quanh vua Minh Trị ở Nhật Bản cuối
thế kỷ XIX đã dẫn Nhật Bản tới hiện đại hóa thành công. Sau thất bại 1945 của Đức và Nhật,
người ta lại chứng kiến ở hai nước này một sự khởi phát tinh thần mới, điều đã dẫn đến “thần
kỳ kinh tế” của hai nước trong thập niên 1960-1970. Gần đây, tin tức cho ta biết dường như có
nhiều dấu hiệu cho thấy sau một thời kỳ tăng trưởng kinh tế nhanh, xã hội Trung Quốc đang
bước vào thời kỳ khởi phát một “trạng thái tinh thần dân tộc Trung Hoa” mới. Sự trỗi dậy của
Trung Quốc không chỉ là đột phá kinh tế mà còn bao gồm một sự trỗi dậy văn hóa.
Hộp 4.3. Cần và có thể tạo nên một khí thế công nghiệp hóa hiện đại hóa không?
“Thế hệ làm nên chiến thắng cuộc chiến tranh cứu nước nói rằng, lúc trai trẻ hàng ngày họ đi
qua thành cửa Bắc và nhìn thấy hai lỗ đạn đại bác của thực dân mà thấy thấm nỗi nhục mất
nước, nuôi chí giải phóng đất nước. Liệu từ nay, nếu trên các phương tiện thông tin đại
chúng hàng ngày chúng ta thông báo bên cạnh giá vàng, giá USD, nhiệt độ thời tiết có
thêm thông số về thứ hạng nước ta trong nền kinh tế thế giới, số tiền chúng ta đang vay nợ
thì chắc chắn vì thấm nỗi nhục nghèo hèn mà chúng ta nuôi chí vươn lên. Không có động
lực ấy chúng ta vẫn thoả mãn với bước đi chậm rãi, chúng ta sẽ mãi mãi tụt hậu!''
Dương Trung Quốc. Đừng ngồi trong nhà và đóng tất cả cánh cửa lại. VietnamNet, 14/5/2004.
Trong tiến trình khởi động kinh tế vừa qua, Việt Nam có bao hàm một sự khởi phát mới về văn
hóa chưa? Câu trả lời có lẽ là vừa có vừa chưa có. Không còn nghi ngờ gì nữa, Đổi Mới không
chỉ bao hàm nội dung kinh tế-xã hội. Chúng ta đã chứng kiến ngay từ những ngày tháng đầu
tiên của Đổi Mới một sự “bừng nở” (một chữ dùng rất đắt của Lê Đăng Doanh) về văn hóa. Tuy
nhiên, công cuộc tiếp tục Đổi Mới theo nghĩa đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đòi hỏi
một “khí thế tinh thần” rõ rệt hơn nữa, một trạng thái văn hoá tinh thần giống như thời kỳ đầu
Cách mạng tháng Tám 1945, thời kỳ những năm 1950-1970 chống Pháp và chống Mỹ. Gần
67
đây, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kêu gọi hãy có những “Điện Biên Phủ trong kinh tế”. Không
có một trạng thái tinh thần như vậy, khó có thể đạt được mục tiêu phát triển mang tính đột phá
đã đặt ra.
4.2.10. VĂN HOÁ VIỆT NAM: MỘT ĐA VĂN HÓA TỘC NGƯỜI
Trong quá trình lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên trì chủ
trương đúng đắn là đại đoàn kết các dân tộc thiểu số, tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa của
các tộc người. Điều này được liên tục cụ thể hóa trong hệ thống luật pháp và chính sách. Tuy
nhiên, trong thực tế thực hiện chính sách và quản lý điều hành cụ thể, nguyên tắc trên vẫn
không được thể hiện triệt để và có hiệu quả. Căn cứ vào lập luận ở Chương Một (Mục 1.4), rõ
ràng là cần phải có sự rà soát lại tính nhất quán giữa cơ sở lý luận với định hướng tư tưởng và
triển khai chính sách (Xem Bảng 1.1) trong lĩnh vực chính sách và công tác dân tộc, đặc biệt là
vấn đề văn hóa.
Mặc dù đã có chủ trương rõ ràng và đã có nhiều nỗ lực lớn lao trong nhiều thập niên qua, vẫn
còn tồn tại một số vấn đề chưa được giải quyết trong lĩnh vực phát triển văn hóa và ngôn ngữ
của các dân tộc thiểu số. Chắc chắn cần nhiều nghiên cứu toàn diện hơn để làm rõ các nguyên
nhân đa chiều. Trong mục này, tác giả xin nêu lên một trong những nguyên nhân quan trọng,
xuất phát từ logic mang tính phương pháp luận “lý luận-định hướng tư tưởng-triển khai chính
sách” nêu trong Chương Một.
Quan điểm thứ 18 trong Bảng 1.1 thể hiện quan niệm phát triển là một quá trình lịch sử cụ thể
nội tại. Quan niệm này dẫn đến định hướng tư tưởng rằng phát triển không phải là một lịch sử
phổ quát mà là lịch sử riêng của mỗi nền văn hoá; rằng mọi nền văn hoá đều bình đẳng, không
nền văn hóa nào có thể xác định mục tiêu phát triển nhân danh nền văn hóa khác; rằng phát
triển là một quá trình có nền tảng từ văn hoá bên trong, một quá trình không phải được quyết
định từ bên ngoài. Từ đó dẫn đến những gợi ý về định hướng chính sách, chẳng hạn tăng cường
sức mạnh văn hóa truyền thống, thừa nhận quyền phát triển theo cách riêng của các dân tộc
thiểu số trong khuôn khổ luật pháp quốc gia chung. Nhiều quan điểm khác trong Bảng 1.1 cũng
hỗ trợ cho quan điểm thứ 18. Những điểm vừa nêu nếu đúng với toàn bộ Việt Nam trong thế
đứng đối diện với thế giới, với các cường quốc, với các định chế phát triển toàn cầu, thì cũng
đúng với mọi tộc người thiểu số trong nước.
Xem xét chính sách và công tác văn hóa dân tộc thiểu số, người ta có thể thấy những công việc
này phần lớn do trí thức người Kinh đảm nhiệm (trí thức-nhà nghiên cứu, trí thức-nhà quản lý,
trí thức-nhà vạch chính sách), chịu sự chi phối bởi cách nhìn-cách nghĩ của “hệ văn hóa” người
Kinh. Như nhân học và xã hội học đã chỉ ra, đây là điều không thể tránh khỏi, vấn đề chỉ là ở
chỗ tự giác ngộ được “quy luật không thể tránh khỏi” này và có những phương pháp luận và
giải pháp giảm thiểu hạn chế đó.
Một trong những phương pháp luận quan trọng là nghiên cứu về sự phân biệt giữa khái niệm
“văn hóa Việt Nam” (theo nghĩa nền văn hóa của một quốc gia) với “văn hóa Việt” (theo nghĩa
nền văn hóa của người Kinh). Từ đó thừa nhận rằng nền văn hóa Việt Nam là một đa văn hóa,
mà nền văn hóa của người Kinh chỉ là một thành phần trong nền văn hóa quốc gia. Sự phát triển
logic tiếp theo sẽ dẫn đến việc xem xét lại toàn bộ hệ thống chính sách và công tác văn hóa liên
quan đến các tộc người.
68
Liên quan đến cấp độ thực hiện chính sách, một trong những giải pháp định hướng quan trọng
là phát triển giới trí thức dân tộc thiểu số và trao cho họ sứ mệnh là chủ thể chính đảm nhiệm
việc bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, văn hóa của dân tộc họ. Dĩ nhiên, việc này cần có sự hợp
tác và hỗ trợ của Nhà nước và trí thức người Kinh. Song điều có tính nguyên tắc là “sự nghiệp
phục hưng văn hóa và ngôn ngữ một dân tộc, một cộng đồng, phải do chính dân tộc ấy, cộng
đồng ấy thực hiện”. Đây chỉ là một biểu hiện cụ thể của một nguyên tắc chung hơn mà cả các
nhà cách mạng mác-xít tiền bối trước kia lẫn các nhà phát triển quốc tế ngày nay vẫn nhấn
mạnh: cách mạng không thể xuất khẩu, mà phải do nhu cầu và lực lượng bên trong; phát triển
không thể áp đặt từ bên ngoài mà phải được thực hiện từ bên trong.
Trong khi làm việc với các tổ chức quốc tế về phát triển, các nhà trí thức người Kinh (trí thứcnhà quản lý, trí thức-nhà vạch chính sách) vẫn đòi hỏi các tổ chức này phải tôn trọng nguyên
tắc tự lực, tự quyết nêu trên. Và đòi hỏi như vậy là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng khi quay về với
công tác làm chính sách trong mối quan hệ với các dân tộc thiểu số trong nước, một số người
lại hay quên nguyên tắc này, thường áp đặt vũ trụ quan văn hóa người Kinh và có xu hướng
“nghĩ thay, làm thay” cho các cộng đồng dân tộc thiểu số.
Để làm rõ hơn lập luận về điều này có thể so sánh với tình hình phát triển văn hóa và tiếng Việt
trong nửa đầu thế kỷ XX. Với những toan tính thực dân của mình, đầu thế kỷ XX người Pháp
quyết định sử dụng chính thức chữ quốc ngữ, dạy cho trẻ em và thanh niên Việt chữ Pháp, văn
hóa Pháp thông qua một hệ thống giáo dục kiểu Pháp. Có nhiều hệ quả khác nhau từ thực tế
chính sách như thế. Nhưng có một kết quả mà thực dân Pháp không ngờ đến. Đó là, nhờ thế mà
trong nửa đầu thế kỷ XX đã diễn ra một sự đột khởi trong văn hóa và ngôn ngữ người Việt: ra
đời một ngôn ngữ Việt của kỷ nguyên hiện đại, thơ mới, nhạc mới, hội họa mới, kiến trúc mới,
nền báo chí mới, khoa học xã hội và nhân văn kiểu phương Tây, v.v.
Hộp 4.4. Nhiều cách nghĩ và cách làm, khi xem xét kỹ, hóa ra là biểu hiện của “hệ văn hóa
người Kinh”.
Người ta còn nhớ rằng trong khoảng hơn 10 năm đầu sau khi kết thúc chiến tranh, một số tỉnh ở
Trung và Nam Trung bộ, ở Tây Nguyên, đã có chủ trương vận động xóa bỏ nhà dài. Trong một
cuộc khảo sát của Đề tài ở một trường dân tộc nội trú ở DakLak, cuộc thảo luận dẫn đến việc
nói về phong tục khi ở nhà có vấn đề gì quan trọng thì người cậu của gia đình đã đến tận trường
để hỏi ý kiến cô cháu gái đang học ở trường dân tộc nội trú. Nhưng một giáo viên-nhà quản lý
(dĩ nhiên là người Kinh, đến từ một vùng nông thôn Bắc Bộ) đã nói với một số em học sinh gái:
“Chế độ mẫu hệ là lạc hậu, phải bỏ đi”. Người giáo viên-nhà quản lý này không có tý liên hệ
nào điều mà mình nói với tiếp cận giới đang trở nên ngày càng phổ biến trong công tác phát
triển hiện nay ở Việt Nam. Người ta cũng không ý thức được rằng mệnh đề ấy là do có một “hệ
giá trị văn hóa” làm nền tảng chi phối đằng sau: văn hóa “nam trị” cổ truyền của người Kinh
(đặc biệt người Kinh miền Bắc và miền Trung). Mà cái văn hóa “nam trị” này thực ra là cũng
được du nhập từ phương Bắc từ lâu đời. Người Kinh bản địa xa xưa vốn cũng theo định hướng
mẫu hệ.
Bùi Thế Cường. Ghi chép từ khảo sát thực địa của Đề tài KX.02.10. 2001.
Các sản phẩm của văn chương và của nghiên cứu khoa học xã hội trong giai đoạn lịch sử này
cho thấy có sự ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa Pháp, nhưng vẫn hết sức thuần Việt, thấm đẫm
văn hóa Việt cổ truyền, và tinh thần dân tộc. Sự kết hợp giữa văn hóa chân chính của dân tộc
Pháp với văn hóa Việt, tinh thần dân tộc Việt (trong bối cảnh bị cai trị) đã tạo ra những sản
phẩm đặc thù, hết sức Việt, nhưng hoàn toàn mới, mang tính cách tân, mà không hề lai căng,
69
ngoại lai. Các sản phẩm lớn ấy đều do người Việt làm: do đó thời kỳ này đã sản sinh hàng loạt
gương mặt các nhà văn hóa lớn người Việt. Có nhiều nguyên nhân và hoàn cảnh lịch sử dẫn
đến kết quả ấy đòi hỏi nhiều công trình nghiên cứu sâu hơn để lý giải toàn diện và đầy đủ.
Nhưng một điều đã rõ ràng là trong bối cảnh một khuôn khổ cai trị thực dân hà khắc, một vài
thế hệ người Việt đã tự lực làm nên sự nghiệp hiện đại hóa văn hóa dân tộc vĩ đại.
4.3. HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HÓA: TÓM TẮT VÀ KIẾN NGHỊ
Chương Bốn bàn đến văn hóa như là một động lực quan trọng của hiện đại hóa và phát triển.
Để hiểu điều đó trong thực tế Việt Nam hiện nay, cuốn sách này đã sử dụng khái niệm của xã
hội học về văn hóa và đặt cách hiểu đó về văn hóa dưới những áp lực của quá trình hiện đại hóa
đương đại mang tính toàn cầu. Bằng cách như vậy, vấn đề văn hóa đặt ra cho chúng ta những
yêu cầu và ưu tiên then chốt trong bối cảnh ngày hôm nay. Đó là:
o Việc phát triển bắt kịp các nước khác đòi hỏi thái độ tiếp nhận nhanh chóng và thực sự hệ tri
thức quốc tế cập nhật. Hệ tri thức của một xã hội được tổ chức theo những cách thức nhất
định nào đó là một nội dung cơ bản của văn hóa của xã hội đó, “tri thức nào xã hội ấy”.
o Hệ giá trị là nền tảng của văn hóa, của xã hội. Để dẫn dắt một xã hội, một quốc gia, đi theo
một định hướng nào đó, cần có một hệ giá trị rõ ràng, nhất quán, thực sự phù hợp với và hỗ
trợ cho việc tiến theo định hướng ấy. Hệ giá trị của một xã hội cụ thể là một hệ thống phức
hợp, đa tầng. Nó còn trở nên khó nhận diện hơn nữa vì mỗi nhóm xã hội, cho dù đều là thành
viên của cùng một xã hội, song họ lại có quan điểm khác nhau đối với hệ giá trị ấy, do lợi ích,
vị thế, và nhận thức khác nhau. Vì vậy, trong cuốn sách này để làm ví dụ minh họa và tập
trung vào điểm then chốt, tác giả chỉ bước đầu đề cập đến vấn đề coi phát triển kinh tế phải là
một giá trị ưu tiên, như đã nhận được sự đồng thuận của mọi nhóm xã hội.
o Để có một khung logic nhận thức hỗ trợ cho trật tự nhận thức và quản lý, nên tích hợp luật
pháp vào khái niệm văn hóa. Và nếu như hệ chuẩn mực là một nội dung chủ chốt của văn hóa,
bao gồm từ các quy tắc trong tập quán, đến phong tục, đạo đức và luật pháp, thì trong yêu cầu
hiện nay, rõ ràng công tác kiến tạo văn hóa phải hết sức xem trọng luật pháp, coi đây là mắt
xích then chốt. Gắn với hệ giá trị và xây dựng luật pháp là việc tập trung vào xây dựng những
định chế và tổ chức của xã hội hiện đại. Bởi vì văn hóa là thành tố cốt lõi trong định chế còn
định chế là cốt lõi của tổ chức xã hội.
o Việc phát triển nhanh chóng hiện nay của Việt Nam có nhiều cơ hội, trong đó biến đổi văn
hóa là một cơ hội lớn, bởi vì với tư cách là một hệ thức sống (lối sống, phong cách sống), văn
hóa có thể được tiếp nhận và thay đổi rất nhanh. Điều này còn trở nên dễ dàng hơn nữa, khi
kinh nghiệm lịch sử các nước cho thấy, để tạo nên bước ngoặt phát triển chỉ cần tập trung vào
sự thay đổi văn hóa ở giai tầng lãnh đạo quản lý. Trong trường hợp quy mô dân số của Việt
Nam, phạm vi liên quan chỉ là vài trăm ngàn người. Nhà sử học Arnold John Toynbee là
người sử dụng lý thuyết về vai trò của giới tinh hoa (elite) vào sự phân tích lịch sử của các
quốc gia hay xã hội trong những thời điểm bước ngoặt. Nhiều nghiên cứu giải thích bài học
thành công của Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, cũng đi theo hướng này.
o Cuối cùng là những vấn đề liên quan đến mặt mạnh-mặt yếu của con người và bản sắc văn
hóa Việt Nam, sự kết hợp giữa lòng tự tôn với tính tự phê phán, tinh thần đột khởi văn hóa vì
70
sự nghiệp phục hưng đất nước. Đây là những điều kiện cho mục tiêu phát triển tăng tốc hôm
nay.
Nếu có thể và cần tóm tắt lại tất cả những yếu tố khác nhau nêu trên, chúng tôi cho rằng đây
chính là vấn đề của một thái độ văn hóa: hướng đến, tập trung vào mục tiêu hiện đại hóa.
Về vấn đề này, Trần Đình Thiên nhận xét: “Ta đang đua tranh phát triển với thế giới nhưng thử
hình dung thế này, khi anh đã trên đường chạy thì anh cứ thế mà chạy thôi. Cắm cổ mà chạy và
chỉ có chạy. Chạy đua là phải vậy. Nếu không thì thua. Người Việt chúng ta lại có thói quen
hay nhìn lại. Vấn đề không phải là có nên ngoái cổ nhìn lại hay không, mà là mình nên nhìn lại
vào lúc nào… Theo tôi, về nguyên tắc, nếu cần nhìn lại thì nhìn thật kỹ đi trước khi bắt đầu
cuộc đua, có thái độ dứt khoát, rõ ràng với quá khứ và truyền thống. Còn khi bước vào cuộc
đua thì cứ thế mà chạy. Theo cách này thì quá khứ và truyền thống mới nâng bước, mới tiếp sức
cho mình. Còn vừa chạy vừa nhìn lại thì chỉ bị níu kéo lại mà thôi” (Trần Đình Thiên.
VietnamNet, 1/9/2005).
Theo quan điểm đã trình bày ở Chương Một, Chương Hai và ở Chương này, vấn đề bao trùm
của xã hội Việt Nam hiện nay là “hiện đại hóa văn hóa”. Và như vậy, theo logic, thì vấn đề bao
trùm của công tác tư tưởng văn hóa hiện nay chính là xây dựng được một thái độ văn hóa đối
với hiện đại hóa. Về lĩnh vực này, xin có những kiến nghị sau đây.
o Theo một nghĩa nào đó, Đề cương Văn hóa Việt Nam 1943 có thể được xem là một bản phác
họa học thuyết chính trị mới về văn hóa trong thời điểm lịch sử đó. Như đã được thừa nhận
trong các văn kiện và nỗ lực gần đây của các cơ quan chức năng của Đảng, đang chín muồi
yêu cầu về một học thuyết chính trị của giai đoạn hiện nay về văn hóa. Trong nỗ lực này cần
sử dụng những thành tựu lý thuyết và phương pháp liên quan đến khái niệm văn hóa của nhân
học và xã hội học. Theo chúng tôi, kiến tạo về đường lối và chính sách văn hóa vừa qua chưa
tính đến những tiếp cận văn hóa của khoa học xã hội đương đại.
o Trong nỗ lực kiến tạo văn hóa thích hợp với xã hội hiện đại, cần chú trọng đến logic của 3
mắt xích: hệ giá trị -> hệ chuẩn mực -> luật pháp; trong đó điều cần thiết hiện nay là tập trung
vào xây dựng và thực thi một nền luật pháp phù hợp với thời đại.
o Để điều hành công tác văn hóa, chúng ta có một công thức kép đúng đắn vừa chú trọng văn
hóa tiên tiến vừa chú trọng văn hóa cổ truyền. Tuy nhiên, xét từ góc độ yêu cầu hiện đại hóa,
nửa đầu của công thức kép đó ít được chú ý đúng bản chất và tầm vóc của nó. Chưa nói đến
ngay cả nửa sau của công thức ấy, tuy được nhấn mạnh hơn, song cũng chưa được thực hiện
thành công. Theo chúng tôi, trong giai đoạn hiện nay cần tập trung kiến tạo nên những đặc
trưng văn hóa của xã hội hiện đại, làm cho chúng trở nên nổi bật và chủ đạo trong đời sống
hàng ngày.
o Tập trung kiến tạo nên những định chế xã hội hiện đại cơ bản, có tính chất là những đòn bẩy
của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Điều này cũng có nghĩa là chú trọng kiến tạo
thành tố văn hóa trong các định chế xã hội hiện đại ấy.
o Tập trung nỗ lực làm rõ cơ sở văn hóa Việt Nam từ những biểu hiện của lối sống, tín ngưỡng,
tôn giáo, phong tục, … để tạo nên một “tinh thần” (spirit) cho cấu trúc xã hội, tạo ra xung lực
cho sự phát triển quốc gia mang tính đột phá. Trong tinh thần làm rõ cơ sở văn hóa Việt Nam
71
cần đề cao tính đa văn hóa, đa tộc người của văn hóa quốc gia-dân tộc, tránh bị sự chi phối
của thái độ “lấy văn hóa người Kinh làm trung tâm”.
o Về mặt kỹ thuật, “phương pháp cách thức kiểm kê” (trình bày trong Mục 4.1 và Bảng 4.1) có
thể là một gợi ý bổ ích như là một bản đồ phục vụ nhận thức và quản lý chính sách. Sơ đồ
khái niệm hóa này nên được tiếp tục phát triển và chi tiết hóa trong những nghiên cứu sâu
rộng hơn.
Hộp 4.5. Văn hóa là một lối làm việc nảy sinh từ một hệ tri thức, bao gồm thế giới quan: hiện
đại hóa có một lối làm việc chung không?
“Bộ Giáo dục và đào tạo cử ra một số người chịu trách nhiệm biên soạn và đưa ra nhà xuất bản
để in. Nếu tránh dùng chữ độc quyền thì là Bộ Giáo dục và đào tạo ôm hết. Vì ôm hết nên nhất
định không xuể, ôm quá nhiều mà sức người có hạn. Tôi cho rằng, dù mấy ông trong hội đồng
biên soạn có giỏi bao nhiêu đi chăng nữa, Nhà xuất bản Giáo dục có kinh doanh tài giỏi đến
mấy thì với cách làm này cũng không thể tránh được sai lầm…
Như vậy là, mầm mống sai lầm là sai ngay từ trong cách tổ chức làm việc. Vì vậy, chỉ có thể cải
tiến được công tác biên soạn và xuất bản sách giáo khoa khi thay đổi tư duy, làm cách khác. Tốt
nhất là học tập kinh nghiệm của các nước. Không có nước nào làm như kiểu Việt Nam. Vậy thì
chỉ có thể hoặc người ta dốt hơn mình hoặc mình tách hẳn ra như thế nào đấy…
Do đó, chỉ có cách học kinh nghiệm, nhìn những nước văn minh xem họ làm như thế nào. Dĩ
nhiên khi vận dụng vào thì không phải máy móc, nhưng tư duy cơ bản của họ thì mình phải
hiểu vì sao họ làm như vậy. Còn kiểu làm cái gì cũng không giống ai và viện cớ là làm theo
cách của Việt Nam thì cũng rất khó và đó là cách tụt hậu nhanh nhất…
Tôi không đi vào cụ thể, nhưng một vấn đề mà tồn tại đến hàng chục năm và mãi đến bây giờ
vẫn nhiều chuyện như thế thì rõ ràng là cách làm của ta không đúng. Trong khi đó ở nước
ngoài người ta làm khác, vậy phải xem mình sai ở chỗ nào mà sửa.
Hoàng Tụy. Kiểu làm không giống ai là cách tụt hậu nhanh nhất. VietNamNet. 15/9/2008.
72
CHƯƠNG NĂM. BẤT BÌNH ĐẲNG VÀ KẾT CẤU XÃ HỘI
Tiếp theo Chương Bốn về văn hóa, Chương này đề cập đến mặt hữu cơ thứ hai của tổ chức xã
hội bên cạnh văn hóa. Đó là kết cấu xã hội. Ở đây sẽ gắn kết cấu xã hội với bất bình đẳng
(trước hết là bất bình đẳng về kinh tế). Trong Chương này, việc phân tích định lượng chủ yếu
dựa trên các bộ số liệu của VLSS nhằm làm rõ xu thế và đặc điểm của sự khác biệt kinh tế-xã
hội giữa các giai tầng. Tiếp theo, phân tích định tính sẽ nêu lên một vài nhận xét liên quan đến
các đặc trưng và xu hướng của kết cấu xã hội hiện nay ở nước ta.
5.1. KHÁI NIỆM
Thuật ngữ kết cấu xã hội ở đây được dùng theo truyền thống mác-xít: nói đến cấu trúc của các
giai cấp, tầng lớp và nhóm xã hội xét từ tiếp cận kinh tế học chính trị. Trong Báo cáo chính trị
của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng và trong
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Khoá IX hàm ý thể hiện một
khung phân tích lý luận và chính sách về kết cấu xã hội, bao gồm giai cấp công nhân; giai cấp
nông dân; tầng lớp trí thức; và tám khối (nhóm) dân cư: thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh,
người cao tuổi, các nhà doanh nghiệp, các dân tộc thiểu số, đồng bào các tôn giáo, cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001 và 2003).
Kết cấu xã hội thể hiện một sự phân tầng xã hội theo nghĩa xã hội học. Do một số hạn chế, kết
cấu xã hội trong công trình này mới chỉ được nhìn nhận chủ yếu về góc độ kinh tế, tức là liên
quan đến bất bình đẳng kinh tế. Sự khác biệt giai tầng về mặt chính trị, văn hóa và xã hội chưa
được phân tích ở đây.
Nghiên cứu trong thập niên 1950-1960 cho thấy quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phân phối
ở các nước công nghiệp hóa sớm (Anh, Đức, Mỹ) đã diễn ra theo đường cong Kuznets, còn gọi
là chữ U ngược: bất bình đẳng tăng lên trong giai đoạn đầu của sự phát triển, và giảm đi trong
giai đoạn giữa và cuối. Từ đó dẫn đến lập luận rằng sự tăng bất bình đẳng trong giai đoạn hiện
đại hóa ban đầu là bình thường, khó tránh khỏi. Tuy nhiên, một số nghiên cứu từ thập niên
1980 đến nay lại cho thấy quá trình phát triển ở những nước hiện đại hóa muộn và thành công
đã không diễn ra theo “định luật” đường cong Kuznets, chỉ có một số nước hiện đại hóa thất bại
mới thấy xuất hiện nửa đầu của chữ U ngược Kuznets và cho đến nay các số liệu thống kê vẫn
chưa cho phép vẽ nốt nửa sau đi xuống của chữ cái ấy. Nói cách khác, kết quả nghiên cứu
khẳng định rằng đường cong Kuznets không phải là một “định mệnh”, một “tất yếu thép”.
Nhiều nước đi vào phát triển đã thành công trong việc duy trì mối quan hệ thuận giữa tăng
trưởng kinh tế và mức thấp trong bất bình đẳng phân phối, thậm chí duy trì mức bất bình đẳng
thấp còn là điều kiện thúc đẩy tăng trưởng. Then chốt ở đây là cam kết chính trị cao của một
giới lãnh đạo có năng lực ảnh hưởng cộng với một bộ công cụ chính sách có hiệu quả.
5.2. MỘT TÓM LƯỢC VỀ KẾT CẤU XÃ HỘI VIỆT NAM
Thời kỳ 1954-1975 ở miền Bắc có thể chia thành ba giai đoạn. Từ một kết cấu xã hội mang tính
thuộc địa và chuyên chế phong kiến, sau 1954 xã hội miền Bắc đã trải qua một giai đoạn ngắn
mang tính dân chủ nhân dân (kết quả của cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân): ruộng đất
được chia tương đối đồng đều cho nông dân, kinh tế cá thể phát triển ở cả nông thôn lẫn thành
thị, các khu vực kinh tế then chốt chuyển thành sở hữu nhà nước (giai đoạn 1955-1959). Mức
sống dân cư được cải thiện nhanh chóng, nhà nước bắt đầu thu được thuế. Tiếp theo, trong giai
73
đoạn 1960-1964 miền Bắc đã chuyển rất nhanh sang nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp với
hai thành phần cơ bản: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Tốc độ tăng mức sống chậm lại,
nhưng tổng khối lượng tài sản xã hội tăng nhanh do hàng loạt đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế.
Giai đoạn ba, nền kinh tế được điều chỉnh theo hướng một nền kinh tế thời chiến trong suốt 10
năm tiếp theo (1965-1975).
Trong giai đoạn đầu, kết cấu xã hội miền Bắc chủ yếu bao gồm một số lượng đông đảo nông
dân cá thể, một số lượng nhỏ hơn các hộ gia đình cá thể phi nông nghiệp, và khối công nhân
viên chức nhà nước. Trong hai giai đoạn sau, kết cấu này bao gồm đông đảo các thành viên của
tổ chức kinh tế tập thể (nông hoặc phi nông nghiệp) và khối công nhân viên chức nhà nước (lúc
này đã tăng lên rất lớn về số lượng do sự mở rộng khu vực kinh tế nhà nước, khu vực chính trịxã hội nhà nước và do nhân lực cho chiến tranh). Khác với khối các xã viên, khối công nhân
viên chức nhà nước đã có sự khác biệt về mức sống, mặc dù nhìn chung toàn xã hội có một
mức sống bình đẳng nghèo.
Khung học thuyết và chính sách liên quan đến kết cấu xã hội ở miền Bắc thời kỳ trước 1975 về
đại thể cũng giống như đã được thể hiện ở trên khi nói về khung kết cấu xã hội được thể hiện
trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, tức là bao gồm các giai cấp, tầng lớp và khối dân cư.
Trong thời kỳ này, Đảng và Nhà nước nhấn mạnh vào sự bình đẳng, mở rộng sự bao cấp và cơ
hội (học tập, đào tạo, công tác) cho người lao động và gia đình họ, nhưng có sự chú trọng chọn
lọc cho các nhóm được xác định là “thành phần cơ bản” (cán bộ, công nhân, nông dân bần cố
nông). Nhà nước cũng nhấn mạnh vào sự bình quyền nam nữ.
Vào năm 1975, kết cấu xã hội miền Nam về cơ bản bao gồm một khối đông đảo nông dân cá
thể (một tỷ lệ lớn là trung nông, nhất là ở Nam Bộ) và một bộ phận hộ gia đình cá thể phi nông
nghiệp, cộng với một khu vực kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa đã tương đối phát triển (cả trong
nông nghiệp lẫn công nghiệp và thương mại). Những cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa sau 1975 đã
đưa kết cấu xã hội của khu vực phía Nam đi theo hướng khu vực phía Bắc (một khối đông đảo
nông dân tập thể và một khối đông đảo công nhân viên chức nhà nước). Tuy nhiên, mặc dù
những nỗ lực lớn lao của Nhà nước, cho đến trước Đổi Mới, tức là trong suốt thời kỳ 19751985, khu vực các tỉnh phía Nam chưa bao giờ đạt đến một kết cấu xã hội thuần nhất theo kiểu
xã hội miền Bắc. Nó vẫn chủ yếu bao gồm khối đông đảo nông dân cá thể, khối những người
làm trong khu vực kinh tế cá thể và tư nhân ở đô thị, và khối công nhân viên chức nhà nước. Sự
khác biệt mức sống trong các tỉnh phía Nam (nhất là Nam Bộ) vẫn còn lớn, mặc dù nó đã được
cào bằng khá mạnh. Nhưng nhìn tổng thể, cả xã hội Việt Nam cho đến trước Đổi Mới, và cho
đến đầu thập niên 1990 ở trong trạng thái mức sống bình đẳng nghèo. Các nghiên cứu đều ước
tính hơn 80% dân số Việt Nam sống ở dưới ngưỡng nghèo trong thập niên 1980.
Công cuộc Đổi Mới đem lại những biến đổi sâu sắc trong suốt 25 năm qua về nhiều mặt, trong
đó có kết cấu xã hội. Dựa trên một nền kinh tế có quy mô lớn hơn, có tổng khối lượng của cải
lớn hơn, với mức sống cao hơn trước, xã hội Việt Nam ngày nay đã trở nên đa dạng hơn rất
nhiều, xét theo mọi lát cắt. Nhiều giai tầng xã hội tái xuất hiện với những diện mạo mới, tương
quan giữa các giai tầng thay đổi. Người ta không thể nói đến một khối nông dân thuần nhất
được nữa: trong số họ có những điền chủ lớn hoặc trung bình về cây lúa, cây ăn trái hay cây
công nghiệp, cũng như có những người nông dân rất ít hoặc không có ruộng đất. Người ta cũng
không thể nói về một khối các công nhân viên chức và trí thức nhà nước tương đối thuần nhất
về mức sống được nữa. Thu nhập chính thức và chính đáng giữa các ngành nghề và khu vực
trong khối này ngày càng trở nên cách biệt. Trong khi hầu hết giai tầng dân cư đều trở nên
74
khấm khá hơn, sự cách biệt và bất bình đẳng kinh tế cũng tăng lên mạnh mẽ. Kết cấu xã hội ở
Việt Nam ngày nay ngày càng trở nên giống với kết cấu xã hội của các nước xung quanh trong
khu vực.
5.3. KẾT CẤU XÃ HỘI: NHÌN TỪ PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG
Các khảo sát định lượng liên tục trong vòng hơn 15 năm qua đã chỉ ra hai xu thế chủ yếu liên
quan đến kết cấu xã hội ở Việt Nam. Thứ nhất, tổng khối lượng của cải và mức sống chung của
cả nước đã tăng lên rất nhanh. Nhìn chung, cứ khoảng 10 năm thu nhập quốc dân lại tăng gấp
đôi. Thứ hai, sự chênh lệch về các hình thái của cải giữa các nhóm xã hội cũng ngày càng tăng
lên, và tốc độ tăng có tính lũy tiến.
5.3.1. XU HƯỚNG NỀN: MỨC SỐNG CHUNG TĂNG LÊN
Nhìn chung, mức sống đại đa số dân cư đã tăng lên liên tục trong 25 năm Đổi Mới. Tỷ lệ hộ
nghèo giảm mạnh và liên tục, từ hơn 80% vào cuối những năm 1980, giảm xuống còn 58,1%
năm 1993, 37,4% năm 1998, 28,9% năm 2002, 19,5% năm 2004, 16% năm 2006 và 12,1% năm
2008 (Bảng 5.1 và xem: Viện Khoa học Lao động và Xã hội, 2009).
Chi tiêu thực tế đầu người trung bình đã tăng 1,7 lần trong thời kỳ 1993-2002 (Bảng 5.1), thu
nhập bình quân đầu người tăng 5 lần trong thời kỳ 1993-2006 (Ngân hàng Thế giới, 2009).
Trong cả ba đợt khảo sát VLSS từ 1993 đến 2002, từ 96% đến 98% xã được điều tra đều báo
cáo rằng điều kiện sống của họ đã trở nên tốt hơn. Mức sống đều tăng lên ở các giai tầng xã hội
qua thời gian là cơ sở kinh tế cho một sự hài hòa xã hội chung giữa các giai tầng xã hội, cho
một sự đồng thuận xã hội với chính sách Đổi Mới của Đảng và Nhà nước.
Bảng 5.1. Chi tiêu thực tế đầu người và mức nghèo
Thay đổi
1993/1998 (%)
Chi tiêu thực tế đầu người/ năm (nghìn VND) theo khu vực đô thị/nông thôn
Chung
1.936
2.764
3.229
+42,7
Đô thị
3.013
4.829
5.812
+60,3
Nông thôn
1.669
2.166
2.447
+29,8
Chi tiêu thực tế đầu người năm (nghìn VND) theo 5 nhóm chi tiêu
Nghèo
854
1.099
1.197
+28,7
Cận nghèo
1.233
1.632
1.796
+32,3
Trung bình
1.582
2.125
2.386
+34,3
Khá giả
2.098
2.929
3.401
+39,6
Giàu
3.911
6.032
7.363
+54,2
Tỷ lệ hộ nghèo (%) và mức giảm nghèo
Chung
58,1
37,4
28,9
-36
Đô thị
25,1
9,2
6,6
-34
Nông thôn
66,4
45,5
35,6
-32
Kinh & Hoa
53,9
31,1
23,1
-42
Dân tộc thiểu
86,4
75,2
69,3
-13
số
Tỷ lệ hộ đói (%) và mức giảm tỷ lệ hộ đói
Chung
24,9
15,0
10,9
-40
Đô thị
7,9
2,5
1,9
-68
Nông thôn
29,1
18,6
13,6
-36
1993
1998
2002
Thay đổi
1998/2002 (%)
+16,8
+20,3
+12,9
+8,9
+10,1
+12,3
+16,1
+22,1
-23
-28
-22
-26
-8
-27
-26
-27
75
Nguồn: Tổng cục thống kê. Số liệu các VLSS.
5.3.2. BẤT BÌNH ĐẲNG TĂNG CHẬM NHƯNG MỘT CÁCH LŨY TIẾN
Bên cạnh xu hướng nền là mức sống đã tăng lên ở hầu hết mọi giai tầng trong xã hội, số liệu
thống kê cũng chỉ ra xu hướng thứ hai. Đó là sự chênh lệch ngày càng tăng về mọi mặt, trước
hết là về mức sống, hình thành nên những giai tầng và nhóm xã hội khác nhau. Sự phát triển
mang tính cánh kéo và lũy tiến: mọi giai tầng cùng đi lên về mặt tuyệt đối, nhưng khoảng cách
ngày dãn rộng.
Nếu lấy mức chi tiêu thực tế đầu người trung bình làm chỉ số phản ánh mức sống, thì vào năm
1993, mức sống ở đô thị cao gấp 1,8 lần ở nông thôn. Con số này là 2,2 vào năm 1998 và 2,4
vào năm 2002. Chênh lệch mức sống giữa nhóm 20% giàu và nhóm 20% nghèo là 4,58 lần ở
năm 1993, là 5,52 lần ở năm 1998, và là 6,15 ở năm 2002 (Bảng 5.1 và 5.2).
Bảng 5.2 phác họa bức tranh về bất bình đẳng kinh tế ở Việt Nam thời kỳ 1993-2002, dựa trên
tương quan về mức chi tiêu. Năm 2002, nhóm 20% giàu đang chiếm giữ hơn gấp đôi (45,9%),
còn nhóm 20% nghèo chỉ có dưới một nửa (7,8%) tổng chi tiêu dùng xã hội. Nhóm 40% bên
dưới chiếm 19,0% tổng chi tiêu dùng xã hội. Tỷ suất ngũ phân vị (phần chi tiêu dùng của nhóm
20% giàu so với của nhóm 20% nghèo) là 6,03 nhưng sau khi hiệu chỉnh số liệu thì là 8,84.
Bảng 5.2. Tỷ trọng chi tiêu của mỗi nhóm 20% (ngũ phân vị)
Tổng
Giàu
Khá giả
Trung bình
Cận nghèo
Nghèo
Tỷ suất giữa nhóm 20% giàu và 20% nghèo
Chỉ số Gini (từ 0 đến 100%)
Nguồn: Ngân hàng Thế giới. 2004.
1993
100,0
41,8
21,5
16,0
12,3
8,4
4,97
34,0
1998
100,0
43,3
21,2
15,5
11,9
8,2
5,49
35,0
2002
100,0
45,9
20,6
14,6
11,2
7,8
6,03
37,0
Nếu cho rằng mức chênh lệch giữa cách tính dựa trên chi tiêu và cách tính dựa trên thu nhập là
không sai lệch nhau nhiều lắm, thì có thể ước tính nhóm 40% dân số bên dưới (nhóm nghèo và
cận nghèo) đang được hưởng khoảng dưới 20% tổng thu nhập xã hội. Theo quan niệm của
Ngân hàng Thế giới, một xã hội sẽ rơi vào trạng thái bất bình đẳng trung bình khi nhóm 40%
dân cư nghèo hơn chỉ còn chiếm được từ 12% đến 17% tổng thu nhập xã hội. Nếu nhóm này
chỉ chiếm dưới 12% tổng thu nhập, xã hội rơi vào trạng thái bất bình đẳng cao, và có tính báo
động. Như vậy, tính đến các sai số (chi tiêu so với thu nhập, mức độ khai báo không đầy đủ,
đặc biệt của nhóm giàu và khá giả, ...), có thể thấy Việt Nam đang trong kiểu xã hội có mức bất
bình đẳng trung bình. Tuy còn một khoảng cách đáng kể mới rơi vào trạng thái bất bình đẳng
đáng báo động, song xu hướng bất bình đẳng trong phân phối vật chất ở Việt Nam đã và đang
liên tục tăng lên, mặc dù mức tăng chưa nhanh.
Chỉ số Gini đã tăng từ 34% năm 1993 đến 35% năm 1998 và 37% năm 2002 (Số liệu trong
website của Tổng cục thống kê lên tới 42% năm 2002). Tỷ suất ngũ phân vị cũng liên tục tăng
76
qua 10 năm: từ 4,97 năm 1993 lên 5,49 năm 1998 và tới 6,03 năm 2002. Chỉ duy nhất nhóm
20% giàu đã tăng tỷ phần của mình trong 10 năm qua, bốn nhóm còn lại đều giảm.
Nếu dựa trên khung phân loại của Ngân hàng Thế giới, có thể cho rằng xu hướng tăng mức bất
bình đẳng liên tục ở Việt Nam tuy chậm và mức độ chưa quá cao, song rất đáng cảnh báo và
không nên coi là hoàn toàn bình thường.
5.3.3. NHỮNG ĐẶC TRƯNG XÃ HỘI CỦA BẤT BÌNH ĐẲNG HIỆN NAY
Người ta có thể nêu lên hàng loạt đặc trưng của bất bình đẳng kinh tế. Trong mục này, chúng
tôi tập trung vào ba đặc điểm nổi bật. Thứ nhất, nhóm người nghèo và cận nghèo sẽ ngày càng
khó vươn lên hơn, bắt kịp nhịp độ đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, sự tụt hậu của nhóm
nghèo và cận nghèo trở nên nổi bật về mặt tộc người. Thứ ba, sự bất bình đẳng ngày càng được
định hình bởi cấu trúc khu vực-nghề nghiệp.
Mức giảm nghèo chậm lại, cơ hội làm giàu tăng lên. Khi tăng trưởng kinh tế diễn ra liên tục,
cùng với thời gian mức giảm nghèo bị chậm lại. Đồng thời, cùng với mức độ mở cửa nền kinh
tế, các cơ hội làm giàu tăng lên. Mặc dù tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm nhanh, nhưng đang có
xu hướng giảm chậm đi. Giai đoạn 1993-1998, tỷ lệ nghèo giảm trung bình 4% một năm. Giai
đoạn 1998-2002 con số này là 2% mỗi năm. Trong khi đó, các nhóm khá giả có xu hướng giàu
lên nhanh chóng hơn (từ 2006 đến nay, những cơ hội làm giàu đã tăng đến mức chóng mặt: các
nhà môi giới chứng khoán, đầu tư bất động sản, nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng và tài chính,
chủ siêu thị, các nhà xuất nhập khẩu, nhà thầu xây dựng, v.v.). Điều đó làm mức bất bình đẳng
ngày càng tăng.
Dân tộc và miền núi vừa nghèo nhất vừa tăng mức bất bình đẳng. Mức độ giảm nghèo trong
các dân tộc thiểu số đã có những tiến bộ đáng kể, nhưng tình trạng nghèo vẫn còn cao so với
nhóm người Kinh-Hoa. Vùng miền núi Tây Bắc và Tây Nguyên có mức tỷ lệ người nghèo
thuộc loại cao nhất nước (năm 2004 là 59% và 33%). Vào năm 1993, tỷ lệ người nghèo trong
dân tộc thiểu số là 86,4%. Con số này là 75,2% năm 1998, 69,3% năm 2002 và 60,7% năm
2004. Đáng chú ý, tỷ lệ người nghèo lương thực năm 2002 là 41,5% và không giảm chút nào
trong giai đoạn 1998-2002. Chỉ đến năm 2004, tỷ lệ này mới giảm xuống còn hơn 30%. Tỷ
trọng người dân tộc trong tổng số người nghèo cả nước tăng từ 20% năm 1993 lên 30% năm
2002, và gần 40% năm 2004. Một số dự báo dựa trên nguồn số liệu cho đến 2002 đã dự đoán
rằng đến 2010, tỷ trọng này có thể còn tăng lên, nghèo của các dân tộc thiểu số sẽ là trọng tâm
trong vấn đề nghèo của nước ta. Nhưng cần chú ý rằng những nguồn số liệu mới đây cho thấy
đã có những dấu hiệu khả quan, giảm mức tăng tỷ lệ nghèo của dân tộc thiểu số, thậm chí có
phần đảo ngược xu thế này. Tuy nhiên, về xu hướng cơ bản dự đoán trên vẫn còn đúng.
Mức bất bình đẳng cũng tăng lên ở những vùng này. Chỉ số Gini ở vùng miền núi phía Bắc tăng
9 điểm % trong 10 năm qua: từ 25% năm 1993 lên 34% năm 2002. Chỉ số này ở Tây Nguyên
tăng 5 điểm %: từ 31% năm 1993 lên 36% năm 2002.
Như vậy, phạm vi và mức độ nghèo ở đồng bào dân tộc kết hợp với mức bất bình đẳng tăng lên
ở bên trong vùng miền núi phải chăng là một điểm đáng lo ngại nhất hiện nay và trong tương
lai gần?
77
Khác biệt khu vực-nghề nghiệp: cấu trúc bất bình đẳng cơ bản? Khác biệt thu nhập theo khu
vực làm việc và nghề nghiệp là một chỉ báo phản ánh khía cạnh kinh tế chính trị của phân phối
vật chất. Nó cho thấy sự bất bình đẳng xã hội được cơ cấu như thế nào theo khác biệt về kinh tế
chính trị.
Số liệu VLSS năm 1998 cho thấy phần lớn người làm việc trong 3 khu vực đầu (thuộc về nhà
nước về mặt kinh tế và chính trị) có mức sống thuộc nhóm 20% giàu, hoặc rơi vào 2 nhóm trên
(75-80%). Tương tự như vậy ở nhóm làm việc trong doanh nghiệp nước ngoài. Chỉ có 1/3 lao
động trong doanh nghiệp tư nhân và gần 1/5 lao động trong hộ sản xuất kinh doanh nhỏ thuộc
vào nhóm 20% giàu. Khoảng 40% những người lao động thuộc hợp tác xã, doanh nghiệp tư
nhân và hộ sản xuất kinh doanh nhỏ thuộc vào nhóm có mức sống dưới trung bình. 3/4 người
thuộc nhóm 20% nghèo là lao động trong hộ sản xuất kinh doanh nhỏ và "khác", trong khi 60%
người thuộc nhóm 20% giàu làm việc trong 3 khu vực của nhà nước (Bảng 5.3, 5.4 và 5.5).
Như vậy, khả năng để một cá nhân/hộ gia đình có mức sống cao hơn sẽ tăng lên nếu gắn với
khu vực nhà nước (bao gồm kinh tế, hành chính, sự nghiệp, chính trị-xã hội), với khu vực chính
quy (formal sector, chẳng hạn doanh nghiệp có đăng ký), với khu vực đầu tư nước ngoài. Khả
năng để một cá nhân/hộ gia đình có mức sống thấp hơn sẽ tăng lên nếu gắn với khu vực ngoài
nhà nước, khu vực phi chính quy (informal sector, như hộ sản xuất kinh doanh nhỏ, hợp tác xã,
nếu xem hợp tác xã là một lĩnh vực bán chính quy).
Các Bảng 5.6, 5.7 và 5.8 trình bày kết quả phân tích số liệu cuộc Khảo sát mức sống dân cư
2002. Nhìn chung bức tranh là tương đồng với sự phân tích tình hình năm 1998. Các khu vực
giai tầng và nghề nghiệp như viên chức nhà nước, lực lượng vũ trang, trí thức, các nhà chuyên
môn kỹ thuật bậc trung cao cấp, thợ có kỹ thuật có xu hướng nhận được thu nhập cao hơn.
Công nhân, nông dân và lao động giản đơn có xu hướng nhận được thu nhập ít hơn. Số liệu
cuộc Khảo sát năm 2002 cho thấy về cơ bản cấu trúc nói trên vẫn tiếp tục tồn tại. Đây là bức
tranh bất bình đẳng xét theo kết cấu kinh tế chính trị, lát cắt này mang tính điển hình về cấu
trúc xã hội và phân tầng xã hội hiện nay. Khuôn mẫu này có khả năng sẽ tồn tại lâu dài, nếu
không có những thay đổi chính sách mạnh.
Bảng 5.3. Phân bố lao động làm công, làm thuê theo 5 nhóm mức sống phân nhóm trên cơ sở
mức chi tiêu trong từng khu vực kinh tế-chính trị, 1998
Chung
Tổng số
1. Cơ quan quản lý nhà nước, an ninh,
quốc phòng
2. Doanh nghiệp nhà nước
Nghèo
100,0
100,0
12,1
3,4
Cận
nghèo
17,2
7,6
100,0
2,3
7,5
Giàu
Trung
bình
17,7
12,4
Khá
giả
20,2
27,2
12,2
18,0
60,0
32,8
49,4
3. Cơ quan Đảng, đoàn thể, hiệp hội
100,0
0,0
10,3
0,0
25,2
64,4
4. Hợp tác xã
5. Doanh nghiệp tư nhân
100,0
100,0
40,7
10,5
0,0
17,3
40,7
16,2
18,6
22,9
0,0
33,1
6. Hộ sản xuất kinh doanh nhỏ
100,0
18,1
21,4
22,3
20,5
17,1
7. Hỗn hợp
8. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
100,0
100,0
0,0
0,0
13,9
7,8
28,1
12,6
8,2
12,8
49,8
66,8
9. Liên doanh
100,0
9,0
15,7
22,7
22,3
30,3
78
Nguồn: Tổng cục Thống kê. VIE/95/043. Điều tra Mức sống Dân cư Việt Nam 1997-1998. Hà
Nội, 8/1999.
Bảng 5.4. Phân bố lao động làm công, làm thuê theo khu vực kinh tế-chính trị trong từng nhóm
mức sống phân nhóm trên cơ sở mức chi tiêu, 1998
Chung
Tổng số
Nghèo
Cận
nghèo
Trung
bình
Khá
giả
Giàu
100,0
12,1
17,2
17,7
20,2
32,8
100,0
19,8
100,0
5,5
100,0
8,8
100,0
13,9
100,0
26,7
100,0
29,9
14,5
1,9
2,8
0,0
6,3
1,1
10,0
0,0
12,9
2,3
26,5
3,6
0,1
0,4
0,0
0,3
0,1
0,0
10,8
30,5
9,4
47,1
10,9
38,0
9,9
38,4
12,2
30,9
10,9
15,9
7. Hỗn hợp
0,4
0,0
0,4
0,7
0,2
0,7
8. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
9. Liên doanh
1,3
6,8
0,0
5,0
0,6
6,2
1,0
8,7
0,9
7,5
2,7
6,2
13,9
29,8
27,8
17,1
6,3
3,7
1. Cơ quan quản lý nhà nước, an ninh,
quốc phòng
2. Doanh nghiệp nhà nước
3. Cơ quan Đảng, đoàn thể, hiệp hội
4. Hợp tác xã
5. Doanh nghiệp tư nhân
6. Hộ sản xuất kinh doanh nhỏ
10. Khác
Nguồn: Tổng cục Thống kê. VIE/95/043. Điều tra Mức sống Dân cư Việt Nam 1997-1998.
Hà Nội, 8/1999.
Bảng 5.5. Phân bố lao động của 5 nhóm mức sống theo kết cấu kinh tế chính trị, 1998
Các thành phần trong kết cấu kinh
tế chính trị
Chung
Cơ quan quản lý nhà nước, an ninh,
quốc phòng
Doanh nghiệp nhà nước
Cơ quan Đảng, đoàn thể, hiệp hội
Hợp tác xã
Doanh nghiệp tư nhân
Hộ sản xuất kinh doanh nhỏ
Hỗn hợp
Doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài
Liên doanh
Nguồn: Tổng cục Thống kê. 1999.
Chung
Nghèo
100,0
100,0
12,1
3,4
Cận
nghèo
17,2
7,6
Trung
bình
17,7
12,4
Khá
giả
20,2
27,2
Giàu
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
2,3
0,0
40,7
10,5
18,1
0,0
0,0
7,5
10,3
0,0
17,3
21,4
13,9
7,8
12,2
0,0
40,7
16,2
22,3
28,1
12,6
18,0
25,2
18,6
22,9
20,5
8,2
12,8
60,0
64,4
0,0
33,1
17,1
49,8
66,8
100,0
9,0
15,7
22,7
22,3
30,3
32,8
49,4
Bảng 5.6. Phân bố thu nhập tiền công tháng theo kết cấu kinh tế chính trị, 2002
Các thành phần trong
kết cấu kinh tế chính
trị
Tự làm cho gia đình
Chung
100,0
Tổng tiền công nhận được trung bình 1 tháng (VND)
Dưới
201.000- 401.000- 601.000Trên
201.000
400.000
600.000
800.000
800.000
77,0
18.9
2.9
0,7
0,5
79
mình
Làm cho hộ khác
Cơ quan nhà nước, an
ninh, quốc phòng
Cơ quan Đảng, tổ
chức chính trị xã hội
Doanh nghiệp nhà
nước
Thành phần kinh tế
nhà nước khác
Thành phần kinh tế
tập thể
Thành phần kinh tế tư
bản tư nhân
Thành phần kinh tế tư
bản nhà nước
Thành phần kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài
Khác
Chung
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
20,6
36,6
23,6
10,0
9,2
5,3
13,0
17,6
21,0
43,1
12,7
24,4
25,0
13,6
24,4
2,9
10,0
18,0
18,6
50,6
6,1
11,0
24,2
14,0
44,6
36,4
23,9
12,2
10,4
17,0
7,2
18,4
23,1
18,0
33,3
0,0
14,9
20,3
9,5
55,4
3,7
8,9
10,8
17,7
58,8
78,1
30,2
16,8
24,2
2,9
16,5
1,2
10,6
1,0
18,4
Nguồn: Lưu Hồng Minh. 2005. Phân tích kết quả Khảo sát VLSS2002. Chuyên đề KX.02.10.
Bảng 5.7. Phân bố thu nhập tiền công tháng theo khu vực giai tầng, 2002
Khu vực giai tầng
Công chức, viên chức,
lực lượng vũ trang
Trí thức
Công nhân
Nông dân
Buôn bán, dịch vụ
Khác
Chung
Chung
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
Tổng tiền công nhận được trung bình 1 tháng (VND)
Dưới
201.000- 401.000- 601.000Trên
201.000
400.000
600.000
800.000
800.000
8,4
20,0
16,9
11,8
42,9
4,3
11,9
59,6
18,5
0,0
30,2
6,8
27,4
27,1
26,1
75,0
24,2
15,0
25,3
8,2
23,3
25,0
16,5
22,1
15,1
2,7
12,3
0,0
10,6
51,9
20,3
2,3
19,8
0,0
18,4
Nguồn: Lưu Hồng Minh. 2005. Phân tích kết quả Khảo sát VLSS2002. Chuyên đề KX.02.10.
Bảng 5.8. Phân bố thu nhập tiền công tháng theo phân loại nghề nghiệp của Tổng cục Thống
kê, 2002
Nghề nghiệp theo
phân loại của
Tổng cục thống kê
Lãnh đạo các cấp, lực
lượng vũ trang
Nhà chuyên môn kỹ
thuật bậc cao
Nhà chuyên môn kỹ
thuật bậc trung
Nhân viên sơ cấp
Chung
100,0
Tổng tiền công nhận được trung bình 1 tháng (VND)
Dưới
201.000- 401.000- 601.000Trên
201.000
400.000
600.000
800.000
800.000
12,3
26,9
19,3
10,2
31,3
100,0
2,9
2,9
10,0
16,7
67,4
100,0
5,1
9,1
18,1
25,4
42,4
100,0
5,7
16,3
17,6
15,9
44,4
80
Nhân viên dịch vụ,
buôn bán, bảo vệ
Lao động có kỹ thuật
trong nông lâm ngư
Thợ thủ công
Thợ có kỹ thuật
Lao động giản đơn
Khác
Chung
100,0
11,8
20,6
22,6
15,1
30,0
100,0
43,4
18,5
14,2
10,9
13,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
9,3
4,1
45,1
0,0
30,2
24,9
8,1
29,5
75,0
24,2
27,6
13,4
14,1
25,0
16,5
17,1
16,5
5,8
0,0
10,6
21,2
58,0
5,5
0,0
18,4
Nguồn: Lưu Hồng Minh. 2005. Phân tích kết quả Khảo sát VLSS2002. Chuyên đề KX.02.10.
5.4. KẾT CẤU XÃ HỘI: MỘT PHÂN TÍCH ĐỊNH TÍNH
Kết cấu xã hội hay cấu trúc giai tầng ở Việt Nam hiện nay đã định hình tương đối rõ ràng. Nhìn
chung, đặc biệt trong giai đoạn đầu của cải cách, mọi khối dân cư đều được hưởng lợi từ Đổi
Mới. Song, mức độ hưởng lợi là khác nhau ở mức đáng kể, và sự khác nhau này có xu hướng
ngày càng tăng.
Đến giữa và cuối những năm 1990 bối cảnh xã hội của Việt Nam đã thay đổi sâu sắc. Vào thời
điểm này, Đổi Mới đã tiến hành khoảng hơn 10 năm, giải quyết được cuộc khủng hoảng kinh
tế-xã hội những năm 1970-1980, nhưng cũng làm thay đổi mạnh mẽ kết cấu xã hội. Đã hoàn
thành một giai đoạn quá độ cho nền kinh tế: những cơ sở của kinh tế thị trường ngày càng được
xác lập, những cơ chế của nền kinh tế kế hoạch tập trung bao cấp trở nên yếu đi nhiều. Điều
này tạo nên một cơ sở kinh tế khác cho kết cấu xã hội.
Thập niên những năm 2000, sự biến đổi còn sâu sắc hơn nữa, những kết cấu xã hội thì ngày
càng trở nên “đã an bài” hơn: người giàu ngày càng trở nên giàu có với những cơ hội làm giàu
chưa từng thấy thậm chí ngay cả so sánh với những nước phát triển, tầng lớp trung lưu và
nghèo ngày càng khó thay đổi “thân phận” hơn. Phân bố thu nhập theo ngành nghề trở nên rất
khác nhau: xuất hiện những ngành nghề đặc quyền đặc lợi.
Những giai tầng và nhóm được lợi nhiều nhất trong Đổi Mới và chuyển đổi bao gồm doanh
nhân và quản lý kinh doanh (cả nhà nước lẫn tư nhân); giới thực lợi (có thu nhập từ tài sản: nhà
cho thuê, lợi tức); công chức (lĩnh vực đảng, ba ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp, đoàn thể
xã hội); các ngành dịch vụ xã hội (khoa học, giáo dục và y tế); công nhân viên có kỹ thuật trong
các khu vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ tiên tiến.
Những giai tầng và nhóm được hưởng lợi ít hơn bao gồm: nông dân ít đất và không kinh doanh;
người dân tộc; người già không có bảo đảm xã hội; thanh niên và lao động trẻ có thu nhập thấp
hoặc không kiếm được việc làm tốt; người tàn tật và không có sức lao động; công nhân viên kỹ
năng thấp trong các khu vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ thu nhập thấp; người ngoài lề xã
hội.
Mức chênh lệch xã hội chưa phải là quá lớn, song sự chênh lệch này không thể hiện rõ tính
chức năng và hỗ trợ cho phát triển. Điều đáng báo động là sự hưởng lợi mang tính trục lợi là
phổ biến và ở mức độ cao.
81
Lợi ích kinh tế của các chủ thể tham gia vào hệ thống kinh tế-xã hội ngày càng trở nên khác
biệt và xung đột nhau, sự bất bình đẳng tăng lên và ngày càng trở nên khó đảo ngược, nếu
không có những cam kết chính trị đủ mạnh.
Các quyền sở hữu và sự phân bố tài sản, tài nguyên đã trở nên rõ nét. Xuất hiện xu hướng trên
là vì đã diễn ra quá trình phân bố lại cũng như tái sản xuất mới đối với ba nguồn lực cơ bản của
một xã hội: quyền lực, kinh tế và tri thức. Các giai tầng nắm được những nguồn lực nói trên trở
nên có vị thế cao hơn. Gắn với kết cấu giai tầng là vấn đề tái sản xuất nó và sự di động xã hội.
Các giai tầng tỏ ra khép kín hơn trước, di động xã hội liên thế hệ trở nên khó khăn hơn trước.
Quá trình Đổi Mới đã bao hàm quá trình phân phối lại tài nguyên, trước hết là tài nguyên kinh
tế, nhân lực và tri thức. Tài nguyên kinh tế, chẳng hạn như đất đai, nhà cửa, tiền, và các tài sản
khác, đã được tái phân phối mãnh liệt trong thập niên 1990 và cho đến nay, bằng nhiều kênh,
chính thức hay hợp pháp cũng như phi chính thức hay bất hợp pháp, kể cả bán chính thức và
bán hợp pháp nữa.
Hộp 5.1. Những “câu chuyện” mới trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: Người giàu
Tổng tài sản của 50 phụ nữ giàu nhất trên thị trường chứng khoán tính tới cuối 2007 đạt 22.600
tỷ đồng, gấp hơn 2 lần so với lần đầu tiên VnExpress công bố Top 50 phụ nữ giàu cách đây một
năm. Người đứng đầu là bà Đặng Ngọc Lan, phu nhân Phó chủ tịch Ngân hàng ACB Nguyễn
Đức Kiên. Chỉ tham gia góp vốn vào ACB với tư cách phu nhân của Phó chủ tịch, song bà
Đặng Ngọc Lan trở thành người phụ nữ giàu có nhất trên sàn chứng khoán 2007, với số tài sản
1.701,11 tỷ đồng, vượt qua nhiều sếp nữ đang trực tiếp quản lý, điều hành doanh nghiệp. Trong
Top 100, bà Lan đứng thứ 9. Vị trí của bà Lan trong Top 50 và Top 100 của năm 2006 lần lượt
là 4 và 15. Theo đà đi lên nói chung của thị trường trong năm 2007, tổng tài sản của các sếp nữ
cũng phình to hơn. Trong tổng số 2.900 cá nhân có tên trong cáo bạch của gần 240 công ty
niêm yết mà VnExpress khảo sát, nữ giới chiếm gần một phần ba (khoảng 930 người) với số
vốn nắm giữ lên đến 25.710 tỷ đồng. Riêng 50 người đứng đầu sở hữu một lượng cổ phiếu
niêm yết tương đương 22.600 tỷ đồng, tăng đáng kể so với mức 10.600 tỷ đồng tính đến cuối
2006. Muốn lọt vào Top 50 của 2007, mỗi quý bà, quý cô phải có ít nhất 83 tỷ đồng (mức sàn
của năm 2006 chỉ là 24,7 tỷ đồng).
50 phụ nữ giàu nhất trên thị trường chứng khoán 2007. VnExpress 25/1/2008.
Hộp 5.2. Những “câu chuyện” mới trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: Người công nhân
di cư
Sau khi về Thái Bình ăn Tết, chị Trần Thị Hương (Công ty Freetrend Khu chế xuất Linh
Trung Thủ Đức TPHCM) đã không trở lại làm việc nữa. Chị Hương tâm sự: “Lương công nhân
chỉ hơn 1 triệu đồng/tháng, nếu tăng ca thì được khoảng 1,6-1,7 triệu đồng. Mức lương này
không đủ sống nên tôi quyết định ở lại quê tìm việc khác”. Chị Hương đã từng phải rứt ruột gửi
đứa con nhỏ 2 tuổi về quê để cho bố mẹ nuôi. Anh Thành cho biết, 5 năm vào TPHCM làm
công nhân nhưng chẳng dành dụm được gì vì lương công nhân bèo bọt, nhất là thời gian gần
đây, giá cả tăng chóng mặt, cuộc sống của anh thường xuyên thiếu trước hụt sau. Giờ tìm được
việc ở quê, lương có thể thấp hơn nhưng chi phí rẻ, lại được gần nhà để chăm sóc mẹ già.
Thành phố Hồ Chí Minh: Công nhân rùng rùng bỏ việc về quê. VietnamNet 22/2/2008.
Cũng như tài nguyên kinh tế, trong thời kỳ bao cấp, tài nguyên nhân lực về cơ bản thuộc quyền
chiếm hữu, quản lý và phân phối của Nhà nước. Sau Đổi Mới, tài nguyên này dần dần trở thành
82
thuộc về chính người lao động, họ có thể tự quyết định sử dụng cho bản thân và gia đình, trao
đổi trên thị trường lao động, ở đó những người mua tư nhân ngày càng tăng lên.
Tương tự, tài nguyên tri thức ngày càng trở nên có giá trị trên thị trường, đem lại lợi ích ngiêng
về cho những người nắm giữ chúng, đó là giới trí thức. Chi phí học tập và chữa bệnh ngày càng
trở nên đắt đỏ, người cung cấp dịch vụ tri thức ngày càng khá giả (giảng viên, chủ xuất bản, các
nhà cung cấp dịch vụ internet, các nhà cung cấp giải pháp công nghệ và sản phẩm công nghệ
cao như bác sĩ, dược phẩm, viễn thông, v.v.). Đây là những dấu hiệu về sự tái phân phối tài
nguyên này.
Việc công nhận từng bước chủ quyền đất cho nông dân vào cuối những năm 1980 đầu những
năm 1990 đã đem lại cho họ quyền làm chủ đối với một loại tài nguyên cơ bản, điều này đem
lại cho họ một vị thế xã hội mới. Tuy nhiên, nhiều người trong số họ đã phải đem đất đai cầm
cố hoặc bán đứt. Mặt khác, tương quan giá trị của loại tài nguyên này cũng biến đổi rất nhiều
trong bản thân nó cũng như so với các loại tài nguyên khác. Do đó, vị thế xã hội của người
nông dân, nhất là người có nền kinh tế nông nghiệp nhỏ, đã bị sút giảm tương đối từ cuối thập
niên 1990 đến nay. Điều này lý giải một phần vì sao Tây Nam Bộ được xem là vùng có mức
sống cao trong thập niên 1980 (khi thu nhập của khối dân cư phi nông nghiệp giảm sút nghiêm
trọng) đã trở nên vùng nghèo tương đối từ giữa thập niên 1990 trở đi.
Việc xáo trộn tài nguyên đất đai suốt từ sau 1975, việc tài nguyên đất đai trở nên có giá trị hơn
khi công nghiệp hóa được đẩy mạnh, việc đất đai được đưa vào vòng trao đổi thương mại và
phát triển phức tạp; tất cả những yếu tố này hiện nay đang tạo nên những xung đột lợi ích
nghiêm trọng. Tình hình khiếu kiện đất đai trên cả nước, đặc biệt ở vùng Nam Bộ, diễn ra hơn
15 năm qua là biểu hiện của ba yếu tố trên.
Người ta cũng nhận diện ngày càng rõ một giới chủ đất (kèm theo bất động sản) ở mọi nơi: sở
hữu lớn ruộng đất, trang trại lâm nghiệp hay cây công nghiệp, (tham gia) sở hữu khu công
nghiệp, sở hữu các khu đất đô thị có giá trị lớn. Những người chủ đất hình thành từ nhiều xuất
xứ: công chức, doanh nhân trong nước và nước ngoài, cổ đông, tiểu chủ, nông dân có nhiều đất,
người đầu cơ, người may mắn, ...
Phân phối lại tài nguyên đã tạo ra kết cấu xã hội hoàn toàn mới. Xã hội có thể chia thành những
người có nhiều tài nguyên hơn (bất kể loại nào) và những người có ít tài nguyên hơn, hoặc
không có tài nguyên gì cả, ngoại trừ sức lao động của chính họ với một giá thấp vì không có tri
thức, kỹ năng, sức khoẻ.
Ngày nay, sau gần 25 năm Đổi Mới đã ngày càng thấy rõ một "dàn xếp xã hội" mới (social
arrangement): giới cán bộ công chức, giới quản lý kinh tế (nhà nước hay tư nhân), trí thức, tiểu
chủ, công nhân, nông dân, những người ngoài lề. Xuất hiện những thuật ngữ mới dùng để chỉ
những vị thế xã hội-nghề nghiệp mới. Bên trong những giai tầng này lại phân chia thành nhiều
nhóm nhỏ, song có những ảnh hưởng và ý nghĩa xã hội không nhỏ.
Đổi Mới là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế liên tục trong 25 năm qua, điều kiện cơ bản để
bảo đảm ổn định. Nhưng tăng trưởng kinh tế thông qua công cụ thị trường đã làm thay đổi hệ
giá trị và đạo đức, tạo ra một kết cấu xã hội mới khác về rất nhiều mặt với xã hội xã hội chủ
nghĩa tập trung quan liêu bao cấp trước kia.
83
5.5. ĐIỀU CHỈNH KẾT CẤU XÃ HỘI: TÓM TẮT VÀ KIẾN NGHỊ
Kết cấu xã hội (trong đó bất bình đẳng là một thuộc tính cơ bản) là một thành tố tạo nên bộ
khung của kiến trúc xã hội. Do đó, một kết cấu xã hội với ít tính bất bình đẳng vừa là mục tiêu
vừa là điều kiện sống còn của một tổ chức xã hội.
Quá trình Đổi Mới đã thay đổi sâu sắc kết cấu xã hội ở Việt Nam. Trong một diễn biến chung
về mức sống cùng tăng lên đối với đại đa số dân cư, bất bình đẳng đã tăng lên nhanh chóng. Từ
một xã hội tương đối bình đẳng nghèo, Việt Nam đã trở thành một quốc gia có mức bất bình
đẳng trung bình, có những xu hướng không thể xem là bình thường trong bối cảnh lý luận và
chính sách phát triển quốc tế hiện nay. Việt Nam đã có một kết cấu giai tầng tương đối giống
với nhiều quốc gia trong khu vực có mức bất bình đẳng, cả những quốc gia mang tính xã hội
chủ nghĩa như Trung Quốc lẫn những quốc gia phi xã hội chủ nghĩa.
Tác giả cuốn sách này kiến nghị cần sớm hoạch định một chiến lược nhằm điều chỉnh mạnh mẽ
kết cấu xã hội hiện nay. Muốn thế, như kinh nghiệm và nghiên cứu quốc tế đã chỉ rõ, điều kiện
trước tiên là có một cam kết chính trị thực sự ở cấp cao, kết hợp với việc triển khai một hệ
thống công cụ chính sách kinh tế và chính sách xã hội đồng bộ. Đường lối và hệ thống chính
sách cần được tham khảo các nền tảng lý luận mà kinh nghiệm phát triển quốc tế đã đúc kết
(Xem Bảng 1.1 Chương Một).
Hộp 5.3. Những “câu chuyện” mới trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: Người nông dân ở
một làng cách Hà Nội 20 km
Tiền công lao động trong khu vực sản xuất ngoài nông nghiệp (buôn bán, làm thuê, dịch vụ sửa
chữa, vận chuyển vật liệu xây dựng) 50-80.000đ/ngày, tiền công lao động khu vực sản xuất
nông nghiệp (làm đất, cấy, bón phân, làm cỏ, gặt lúa) 20-30.000đ/ngày.
“Chăn nuôi hiện nay lấy công làm lãi, chi phí đầu tư ban đầu nhiều nhưng thu về ít, nuôi không
khéo gặp dịch bệnh thì mất hết. Tiền giống, thức ăn, thuốc phòng dịch giá cao, nhưng giá thịt,
trứng không tăng” (nam, 48 tuổi, chủ hộ, mức sống trung bình).
Nhóm hộ gia đình thuần nông có mức thu nhập thấp (hộ trung bình và nghèo) thu nhập trung
bình năm 2,5-3,5 triệu đồng/người. Nhóm hộ gia đình có mức thu nhập khá giả phi nông nghiệp
thu nhập trung bình năm 8-10 triệu đồng/người.
"Chưa bao giờ chênh lệch mức sống giữa các gia đình lại có khoảng cách xa như hiện nay.
Trước Đổi Mới, kinh tế của dân ở đây tương đối đồng đều nhau, anh này hơn anh kia chỉ là dư
thóc, gạo hoặc một số đồ đạc trong nhà. Nhưng nay khác rồi, khoảng cách giàu nghèo là một
trời một vực. Người ta so bì nhau không phải bằng thóc gạo mà là nhà cao cửa rộng, cùng tiện
nghi sinh hoạt đắt tiền, có sổ tiết kiệm ở ngân hàng" (nam, nông dân, 67 tuổi).
Nguyễn Đức Chiện, 2006. Chuyên đề Đề tài KX02.10.
84
CHƯƠNG SÁU. PHÚC LỢI XÃ HỘI
Trong mọi xã hội, phúc lợi xã hội là một thành phần hữu cơ của tổ chức xã hội, nó đáp ứng
những chức năng xã hội về cơ bản là tương tự nhau. Điều khác nhau chỉ là ở cách thức và hình
thái tổ chức của phúc lợi xã hội mà thôi. Thời kỳ Đổi Mới ở Việt Nam thực chất là sự chuyển
đổi từ tổ chức xã hội dựa trên nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang dựa trên nền
kinh tế thị trường. Những thành tựu của Đổi Mới, như tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định xã
hội, mức bất bình đẳng chưa quá cao, đều có sự đóng góp của hệ thống phúc lợi xã hội có từ
trước đó, cũng như những cố gắng duy trì sự ổn định của hệ thống này trong suốt thời kỳ
chuyển đổi và phát triển.
6.1. KHÁI NIỆM PHÚC LỢI XÃ HỘI
Thuật ngữ phúc lợi xã hội được dùng trong văn kiện chính thức của Đảng lần đầu tiên là trong
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội Đảng lần thứ IX: "Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất,
kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội." (Đảng cộng sản Việt Nam, 2001, trang 88).
Tuy nhiên, gần đây các tài liệu chính thức của Nhà nước có xu hướng sử dụng thuật ngữ “an
sinh xã hội”. Nếu nhìn vào lịch sử vấn đề, ta sẽ thấy nhiều thuật ngữ khác nhau có liên quan: an
toàn xã hội, bảo đảm xã hội, chính sách xã hội, hệ thống phòng chống rủi ro xã hội, v.v. (Bùi
Thế Cường, 2003b).
Trong cuốn sách này, phúc lợi xã hội được xem là một định chế nhằm đảm bảo thoả mãn những
nhu cầu xã hội thiết yếu của các tầng lớp dân cư theo những điều kiện của văn hoá/ cấu trúc xã
hội. Phúc lợi xã hội liên quan đến việc ổn định và phân phối các hoàn cảnh sống của con người
thuộc các nhóm xã hội khác nhau trong lĩnh vực thu nhập, việc làm và phát triển nghề nghiệp,
nhà ở, đi lại, chăm sóc sức khoẻ, gia đình, và học tập; đương đầu với các rủi ro và biến cố đời
sống; trên cơ sở mở rộng bình đẳng và công bằng trong một bối cảnh lịch sử và văn hoá/ cấu
trúc xã hội nhất định. Những hoàn cảnh sống trên hợp thành không gian hay thế giới phúc lợi
con người (Bùi Thế Cường, 2001 và 2003b).
Cuối thập niên 1990, Ngân hàng Thế giới công bố Chiến lược hành động về bảo đảm xã hội,
đưa ra tiếp cận lý luận mới của Ngân hàng Thế giới trong lĩnh vực này dựa trên khái niệm
“quản lý rủi ro xã hội” (Robert Holzmann, 2003). Có thể xem “các rủi ro xã hội” như là mặt trái
của “phúc lợi xã hội”: các rủi ro xã hội gây nên trạng thái không có hoặc thiếu phúc lợi xã hội,
phúc lợi xã hội nhằm tránh cho con người, các cộng đồng và xã hội khỏi các rủi ro xã hội.
Holzmann đã khái niệm hóa vấn đề “nhận diện và nguyên nhân các rủi ro xã hội” và “chiến
lược/ cơ chế quản lý rủi ro xã hội” (Holzmann, 2003, trang 55 và 61. Xem Bảng 6.1). Sơ đồ lý
luận này là công cụ tư duy tốt cho các nhà nghiên cứu và quản lý liên quan đến lĩnh vực phúc
lợi xã hội.
Bảng 2.3 (Chương Hai) mô tả cấu trúc của Đổi Mới, trong đó xem củng cố và mở rộng hệ
thống phúc lợi xã hội như là một trong 6 định hướng chính sách cơ bản của Đổi Mới. Sơ đồ 2.3
đó cũng có thể là một công cụ phân loại hóa tốt cho việc định hình công tác phúc lợi xã hội
trong logic và tiến trình Đổi Mới.
85
Bảng 6.1. Sơ đồ khái niệm hóa loại hình rủi ro xã hội và cơ chế quản lý rủi ro xã hội
Lĩnh vực rủi ro
Sức khỏe
Chu trình sống
Kinh tế
Xã hội
Chính trị
Thiên tai/ biến
động môi trường
Mức độ, phạm vi rủi ro
Cá nhân/gia đình
Cộng đồng/xã hội
Bệnh tật, ốm đau.
Dịch bệnh.
Mất sức lao động.
Sức khỏe xã hội.
Sinh đẻ.
Quá độ dân số.
Tuổi già.
Kỷ nguyên dân số
Chết.
vàng.
Già hóa dân số.
Thất nghiệp.
Suy thoái, khủng
Phá sản.
hoảng kinh tế.
Mất mùa.
Dịch bệnh.
Dịch bệnh.
Trật tự trị an.
Rối loạn xã hội.
Tội phạm.
Chính sách.
Chiến lược và cơ chế
quản lý rủi ro
Ba chiến lược quản lý rủi
ro: phòng ngừa, giảm
thiểu, khắc phục.
Sáu khu vực/ chủ thể quản
lý rủi ro: tổ chức đa
phương quốc tế, Nhà
nước, thị trường, xã hội
dân sự “hiện đại”, phi
chính thức cổ truyền, gia
đình.
Xung đột.
Ba công cụ quản lý rủi ro:
Chiến tranh.
tài chính/ thu nhập, bảo
hiểm, hỗ trợ chính trị-xã
Thiên tai.
Thảm họa môi trường. hội.
Biến đổi khí hậu.
Thiên tai.
Thảm họa môi
trường.
Biến đổi khí hậu.
Nguồn: Bùi Thế Cường phát triển dựa trên 2 sơ đồ của R. Holzmann (Holzmann, 2003, trang
55 và 61).
6.2. PHÚC LỢI XÃ HỘI TRONG XÃ HỘI CÔNG NGHIỆP
Quá trình công nghiệp hóa của mọi quốc gia diễn ra từ đầu thế kỷ XIX đến nay cho thấy tầm
quan trọng của phúc lợi xã hội. Mô hình chủ nghĩa tư bản công nghiệp kiểu Manchester (chủ
nghĩa tư bản hoang dã, vô luật pháp, thiếu sự kiểm soát của nhà nước và xã hội) đã được Mác,
Engels và nhiều tác giả khác mô tả và phê phán sâu sắc. Trong toàn bộ lịch sử thế giới từ đó
cho đến nay, mô hình này đã gây ra nhiều hậu quả khốc liệt đối với con người và xã hội. Kiểu
chủ nghĩa tư bản này đã xuất hiện ở nhiều nơi, nhiều thời điểm, thậm chí ngay cả hiện nay tại
những nơi không ngờ nhất (chẳng hạn, ở nước Nga đầu thập niên 1990 dưới chế độ của Tổng
thống Elsin, ở một số hầm mỏ và lò gạch trên lãnh thổ Trung Quốc với điều kiện lao động nô lệ
như đã được phản ánh trên công luận Trung Quốc và thế giới).
Tuy nhiên, trong lịch sử hiện đại, cũng không có quốc gia nào ở bất kỳ thời điểm nào mà toàn
bộ xã hội lại tồn tại dưới sự thống trị toàn diện và mang tính lịch sử của mô hình thuần túy đó
cả. Nói cách khác, mô hình này chỉ tồn tại có tính cục bộ (về mặt không gian và thời gian).
Ngay cả trong thời đại Mác viết về chủ nghĩa tư bản kiểu Manchester, thì trong bộ Tư bản Mác
đã nói đến các hoạt động thanh tra lao động công xưởng, vai trò của Nghị viện Anh và cuộc đấu
tranh của công nhân và trí thức Anh đối với trạng thái tư bản chủ nghĩa hoang dã này. Khi hình
thái tư bản chủ nghĩa Manchester đang nổi lên ở Anh và sau đó ở lục địa Tây Âu, thì khắp
những nơi ấy vẫn còn phổ biến rộng rãi hình thái sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp cổ
truyền. Phần lớn dân cư vẫn còn sinh sống trong sự che chở của các hình thái phúc lợi nông
thôn và phường hội.
86
Để hỗ trợ cho hình thái tư bản chủ nghĩa đang nổi lên, các xã hội và Nhà nước Tây Âu và Anh
đã sáng tạo nên hệ thống phúc lợi xã hội hiện đại phù hợp với thời đại mới. Đi đầu trong công
việc này là các chính sách xã hội mà Thủ tướng Đức Bismark đã cho tiến hành trong những
năm 1860-1870 nhằm hình thành hệ thống bảo hiểm xã hội Đức nổi tiếng cho đến ngày nay.
Còn ở nước Anh thì chủ nghĩa Fabian (còn gọi là chủ nghĩa xã hội tư sản) đã có công lao lớn
trong việc yêu sách Nhà nước xây dựng nên hệ thống phúc lợi của nước Anh.
Những sáng tạo này nhanh chóng được học hỏi rộng rãi trong khắp thế giới phương Tây, để tạo
nên mô hình gọi là Nhà nước phúc lợi (welfare state), kết hợp giữa hệ thống chính trị dân chủ
với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và phúc lợi xã hội. Một số nước học tập sau thậm
chí còn tạo ra được hệ thống phúc lợi xã hội tốt hơn cả Anh và Đức vốn là những nước đã đi
trước trong hướng phát triển này. Có thể kể ra Hà Lan và các nước Bắc Âu (G. EspingAnderson, 1990).
Trong nhiều thập niên tồn tại của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, song song
với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, các nước này đã rất chú trọng đến mục tiêu tăng
cường phúc lợi xã hội cho các tầng lớp dân cư lao động, giải quyết được vấn đề đảm bảo cho
toàn dân các nhu cầu thiết yếu (lương thực thực phẩm, ăn mặc, nhà ở, giao thông, việc làm, học
tập, chữa bệnh), bảo hiểm xã hội cho người lao động và gia đình họ trước những rủi ro xã hội.
6.3. MÔ HÌNH PHÚC LỢI XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Trong Chương Hai (Mục 2.2) đã đưa ra sơ đồ về "ba khuôn mẫu văn hoá-xã hội" ở Việt Nam
hiện nay. Cụ thể hóa sơ đồ này vào thực tế phúc lợi xã hội, ta sẽ thấy cũng tồn tại ba kiểu phúc
lợi xã hội. Bảng 6.2. mô tả ba kiểu phúc lợi xã hội cùng tồn tại trong hiện thực Việt Nam hiện
nay. Đó là: phúc lợi cổ truyền, phúc lợi xã hội của kinh tế xã hội chủ nghĩa kế hoạch hoá tập
trung và phúc lợi xã hội của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cột 2 trình bày
những chủ thể hành động trong không gian phúc lợi xã hội. Cột 3 thể hiện những đặc trưng
(nguyên tắc) vận hành chính của mỗi loại hình.
Trong kiểu phúc lợi cổ truyền, gia đình và họ hàng, làng xã và các định chế trong lòng nó, đóng
vai trò chủ yếu trong việc chăm sóc phúc lợi. Nhà nước cũng gây ảnh hưởng thông qua các bộ
luật hay chỉ dụ của triều đình.
Những nguyên lý cơ bản của kiểu tổ chức phúc lợi xã hội trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa kế
hoạch hoá tập trung bao gồm:
o Bảo đảm xã hội toàn dân thông qua việc gắn người dân vào hệ thống phúc lợi xã hội khu vực
nhà nước và tập thể.
o Phát triển bảo hiểm xã hội cho người lao động trong khu vực nhà nước và một hệ thống bảo
đảm xã hội cho khu vực tập thể (hợp tác xã), đặc biệt ở nông thôn.
o Nhấn mạnh vào kế hoạch hoá và quản lý của nhà nước trung ương đối với phúc lợi xã hội.
Các nguyên lý của tổ chức phúc lợi xã hội trong nền kinh tế thị trường mang tính xã hội chủ
nghĩa bao gồm:
87
o Nhà nước đóng vai trò nòng cốt, đồng thời thu hút và phát huy sự tham gia của nhiều thành
phần, nhiều lĩnh vực vào phúc lợi xã hội.
o Mở rộng bảo đảm xã hội và bảo hiểm xã hội cho toàn dân, cho mọi khu vực xã hội.
o Tăng cường tự chủ kinh tế và hành chính cho các tổ chức bảo hiểm xã hội nhà nước.
Khái quát hóa các hoạt động phúc lợi xã hội trong thời kỳ Đổi Mới, nhìn chung, có thể thấy
chúng được tổ chức và phát triển xung quanh 4 trục cơ bản sau đây.
o Nhà nước ban hành các chính sách và tiến hành các hoạt động nhằm xây dựng ba khu vực
chính của hệ thống phúc lợi xã hội, đó là: ưu đãi xã hội, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, và
cứu trợ xã hội.
o Nhà nước nỗ lực hình thành các quan hệ lao động trong điều kiện mới, như xây dựng và thực
thi Luật Doanh nghiệp, Luật Lao động.
o Nhà nước tạo dựng khuôn khổ pháp lý và chính sách cho các hoạt động của các chủ thể trong
lĩnh vực phúc lợi xã hội (Nhà nước, đoàn thể xã hội, NGO, doanh nghiệp, nhóm hoạt động,
v.v...).
o Nhà nước xây dựng khuôn khổ và trực tiếp thực thi các chương trình phúc lợi cho các nhóm
xã hội yếu thế (trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi, người tàn tật, người nghèo, người có hoàn
cảnh khó khăn, ...).
Bảng 6.2. Ba mô hình phúc lợi xã hội ở Việt Nam
Mô hình
Phúc lợi cổ truyền
Phúc lợi xã hội dựa
trên kinh tế kế hoạch
hoá xã hội chủ nghĩa
(từ cuối những năm
1950 ở miền Bắc và
từ cuối những năm
1970 trên cả nước
đến cuối những năm
1980)
Phúc lợi xã hội dựa
trên kinh tế thị
trường định hướng
xã hội chủ nghĩa
(từ cuối những năm
1980 đến nay)
Thiết chế
o Gia đình
o Gia đình mở rộng, họ hàng
o Cộng đồng (hàng xóm, làng
xã, các hiệp hội, tổ chức tôn
giáo, v.v...)
o Phường hội
o Nhà nước
o Nhà nước
o Cơ quan/xí nghiệp nhà nước
o Hợp tác xã
o Đoàn thể quần chúng
o Cộng đồng
o Tổ chức quốc tế
o Nhà nước
o Tổ chức kinh doanh/đơn vị cơ
quan nhà nước và không nhà
nước
o Đoàn thể quần chúng
o Gia đình
o Cộng đồng
o Xã hội dân sự
o Cá nhân
o Tổ chức quốc tế
Nguồn: Bùi Thế Cường, 2001, 2003b.
Đặc điểm
o Phúc lợi làng xã: gia đình và gia đình mở rộng
đóng vai trò đầu tiên, nhưng dòng họ và các
thiết chế cộng đồng có vai trò rất quan trọng.
o Nhà nước đưa ra khuôn khổ luật pháp và các
điều chỉnh đối với phúc lợi làng xã.
o Bảo đảm xã hội toàn dân thông qua việc gắn
người dân vào hệ thống phúc lợi xã hội khu
vực nhà nước và tập thể.
o Phát triển bảo hiểm xã hội cho người lao động
trong khu vực nhà nước và một hệ thống bảo
đảm xã hội cho khu vực tập thể, đặc biệt ở
nông thôn.
o Nhấn mạnh vào kế hoạch hoá và quản lý của
nhà nước trung ương đối với phúc lợi xã hội.
o Nhà nước đóng vai trò nòng cốt, đồng thời thu
hút và phát huy sự tham gia của mọi thành
phần, lĩnh vực vào phúc lợi xã hội.
o Thừa nhận và nâng cao vai trò của khu vực tư
nhân.
o Tăng cường vai trò của nhà nước địa phương.
o Đề cao vai trò của hộ gia đình.
o Mở rộng bảo đảm xã hội và bảo hiểm xã hội
cho toàn dân, cho mọi khu vực xã hội.
o Tăng cường tự chủ kinh tế và hành chính cho
các tổ chức bảo hiểm xã hội nhà nước.
o Mở rộng giúp đỡ quốc tế.
88
6.4. PHÚC LỢI XÃ HỘI: NHÌN TỪ PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG
Trong Mục này, chúng ta tìm hiểu mối tương quan giữa chi phúc lợi và kết cấu xã hội dựa trên
số liệu VLSS. Chi phúc lợi xã hội được phản ánh trong hai chỉ số: tỷ lệ người nhận phúc lợi
trong mẫu dân cư khảo sát và mức thu nhập của dân cư từ phúc lợi xã hội. Thu nhập từ phúc lợi
xã hội chủ yếu bao gồm thu từ bảo hiểm xã hội và cứu trợ xã hội. Kết cấu xã hội ở đây được
phản ánh phần nào trong sự phân chia mẫu dân cư theo đô thị-nông thôn và theo 5 nhóm mức
sống.
6.4.1. PHÚC LỢI XÃ HỘI TRONG DÂN CƯ
Số người có thu nhập từ phúc lợi xã hội trong thời kỳ 1993-2002 tăng gấp rưỡi (từ 21,2% lên
32,0%). Trong đó, tỷ lệ người nhận thu nhập từ bảo hiểm xã hội và từ trợ cấp xã hội xấp xỉ gần
10% mỗi loại.
Tỷ lệ người nhận thu nhập từ bảo hiểm xã hội ở đô thị gấp đôi ở nông thôn trong suốt thời kỳ
1993-2002. Nhưng tỷ lệ người nhận thu nhập từ cứu trợ xã hội ở nông thôn cao hơn ở đô thị, và
xu hướng này tăng lên trong thời kỳ nói trên (Bảng 6.3).
Không có sự khác biệt đáng kể trong tỷ lệ người nhận thu nhập từ phúc lợi xã hội theo 5 nhóm
chi tiêu. Nhưng tỷ lệ người nhận thu nhập từ bảo hiểm xã hội ở nhóm 20% giàu gấp 4 lần nhóm
20% nghèo vào năm 2002 (17,0% so với 3,7%). Ngược lại, tỷ lệ người nhận thu nhập từ cứu trợ
xã hội tăng lên từ các nhóm giàu hơn đến nghèo hơn (Bảng 6.4).
Trong suốt thời kỳ chuyển đổi từ cuối những năm 1980, mức chi phúc lợi xã hội được giữ ở
mức cao. Điều này đã đóng góp vào việc duy trì ổn định xã hội trong thời kỳ tăng trưởng
nhanh. Thu nhập từ phúc lợi xã hội của dân cư nói chung đã tăng 3,5 lần trong thời kỳ 19932002, trong đó thu nhập từ bảo hiểm xã hội tăng 2,36 lần còn từ trợ cấp xã hội tăng 4,6 lần
(Bảng 6.5). Lưu ý rằng trong cùng thời gian, mức tăng chi tiêu hoặc thu nhập nói chung chỉ
khoảng 1,7 lần.
Bảng 6.3. Tỷ lệ % người nhận thu nhập từ phúc lợi xã hội theo đô thị/nông thôn
1993
1998
Từ phúc lợi xã hội chung
Chung
21,2
21,2
Đô thị
27,3
23,6
Nông thôn
19,7
20,5
Từ bảo hiểm xã hội
Chung
13,7
11,2
Đô thị
20,7
18,1
Nông thôn
11,9
9,2
Từ trợ cấp xã hội
Chung
9,9
9,6
Đô thị
11,8
7,8
Nông thôn
9,5
10,1
Nguồn: Tổng cục thống kê. Số liệu các VLSS.
2002
Thay đổi
1993/1998
(điểm %)
Thay đổi
1998/2002
(điểm %)
32,0
34,7
31,2
+0
-3,7
+0,8
+10,8
+11,1
+10,7
9,6
15,3
7,9
-2,5
-2,6
-2,7
-1,6
-2,8
1,3
8,2
5,6
9,0
-0,3
-4,0
+0,6
1,4
-2,2
-1,1
89
Bảng 6.4. Tỷ lệ % người nhận thu nhập từ phúc lợi xã hội theo 5 nhóm chi tiêu
1993
Từ phúc lợi xã hội chung
Chung
21,2
Nghèo
20,3
Cận nghèo
17,8
Trung bình
22,3
Khá giả
23,8
Giàu
22,0
Từ bảo hiểm xã hội
Chung
13,7
Nghèo
9,1
Cận nghèo
9,6
Trung bình
15,4
Khá giả
17,5
Giàu
16,7
Từ trợ cấp xã hội
Chung
9,9
Nghèo
12,6
Cận nghèo
9,8
Trung bình
9,8
Khá giả
8,4
Giàu
9,1
Nguồn: Tổng cục thống kê. Số liệu các VLSS.
1998
2002
21,2
19,0
17,7
21,9
24,6
22,7
32,0
30,8
29,1
30,9
33,3
35,9
11,2
3,7
8,1
11,0
15,9
17,4
9,6
3,7
6,1
8,9
12,2
17,0
9,6
9,2
8,7
11,7
10,3
7,9
8,2
14,2
8,7
7,6
6,0
4,5
Bảng 6.5. Thu nhập từ phúc lợi xã hội theo đô thị/nông thôn
1993
1998
2002
Thay đổi
Thay đổi
1993/1998 (%)
1998/2002 (%)
Từ phúc lợi xã hội chung (nghìn VND đầu người/ năm)
Chung
52
117
181
+125
+55
Đô thị
100
205
314
+105
+53
Nông thôn
40
91
140
+128
+54
Trong đó: từ bảo hiểm xã hội (nghìn VND đầu người/ năm)
Chung
47
96
111
+104
+16
Đô thị
95
186
216
+96
+16
Nông thôn
35
70
79
+100
+13
Trong đó: từ trợ cấp xã hội (nghìn VND đầu người/ năm)
Chung
5
19
23
+280
+21
Đô thị
5
17
19
+240
+12
Nông thôn
5
19
24
+280
+26
Nguồn: Tổng cục thống kê. Số liệu các VLSS.
6.4.2. KẾT CẤU XÃ HỘI CỦA PHÚC LỢI XÃ HỘI
90
Trong cơ cấu phúc lợi xã hội, chiếm tỷ trọng cao nhất là chi cho bảo hiểm xã hội, gồm hưu trí
và trợ cấp mất sức, tiếp theo là chi cho trợ cấp xã hội. Điều này cho thấy nguồn lực phúc lợi xã
hội chủ yếu hướng vào các nhóm xã hội hưởng ưu đãi xã hội và chế độ bảo hiểm xã hội của
Nhà nước.
Tuy nhiên, đặc điểm nói trên đã có xu hướng thay đổi trong thời kỳ 1993-2002. Mức tăng trợ
cấp xã hội đã cao hơn mức tăng bảo hiểm xã hội (4,6 lần so với 2,36 lần trong thời kỳ 19932002). Tỷ lệ thu nhập từ bảo hiểm xã hội năm 1993 chiếm tới 90,4% tổng thu nhập từ phúc lợi
xã hội chung, giảm xuống còn 82,1% năm 1998 và 61,3% năm 2002. Trong khi đó, tỷ lệ này
của thu nhập từ trợ cấp xã hội năm 1993 là 9,6%, năm 1998 là 16,2%, và năm 2002 là 12,7%.
Trợ cấp từ các chương trình giảm nghèo và hỗ trợ của các tổ chức NGO ước tính vào năm 1993
chỉ bằng hơn 1% so với thu nhập của bảo hiểm xã hội và trợ cấp xã hội, nhưng vào năm 1998
đã lên tới 13% và năm 2002 có thể là hơn 20%. Điều này có nghĩa là các nhóm xã hội nghèo
hơn hoặc các nhóm không hưởng ưu đãi xã hội và bảo hiểm xã hội Nhà nước đã nhận được
nhiều hơn từ nguồn chi phúc lợi của xã hội.
Bức tranh về tương quan phúc lợi xã hội với các nhóm mức sống khác nhau lại cho thấy một số
xu hướng đáng lưu ý. Trong khi mức tăng thu nhập từ phúc lợi xã hội trong khoảng thời gian
1993-2002 là 3,5 lần trong toàn thể dân cư, thì con số này chỉ là 2,75 lần ở nhóm 20% nghèo,
nhưng lại là 4,13 lần ở nhóm 20% giàu. Về mặt tuyệt đối, thu nhập từ phúc lợi xã hội năm 1993
của nhóm 20% giàu cao gấp 4,8 lần của nhóm 20% nghèo. Nhưng con số này đã là 7,4 lần năm
1998 và 7,2 lần năm 2002. Nhóm 20% giàu cũng tăng khoảng cách của nó trong thu nhập phúc
lợi xã hội ngay cả với nhóm 20% trung bình: vào năm 1993 khoảng cách giữa hai nhóm này là
1,9 lần còn vào năm 2002 là 2,85 lần.
Nhìn vào xu hướng thay đổi của cơ cấu thu nhập từ phúc lợi xã hội người ta có thể hiểu rõ hơn
nguyên nhân dẫn đến đặc điểm nói trên, cũng như có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa
chính sách. Xét về thu nhập từ bảo hiểm xã hội, nhóm 20% nghèo đã không nhận được nhiều
hơn trong thời kỳ 1993-2002, trong khi đó khoản thu này đã tăng lên 3 lần ở nhóm 20% giàu.
Do đó, vào năm 1993 thu nhập từ bảo hiểm xã hội của nhóm 20% giàu cao gấp 5,2 lần so với
của nhóm 20% nghèo, con số này là 12,6 lần vào năm 1998 và 14,9 lần vào năm 2002.
Sự thay đổi trong cơ cấu thu nhập từ trợ cấp xã hội theo một khuôn mẫu khác. Thu nhập từ
nguồn này của nhóm 20% nghèo đã tăng 6 lần trong thời kỳ 1993-2002, còn của nhóm 20%
giàu chỉ tăng 3 lần cùng thời kỳ. Thu nhập từ nguồn này của nhóm 20% giàu gấp 2,3 lần của
nhóm 20% nghèo vào năm 1993. Con số giảm đi còn 1,9 lần vào năm 1998 và 1,2 lần vào năm
2002. Nhóm 20% nghèo đã nhận được trợ giúp từ các chương trình hỗ trợ của các NGO cao
gấp 2,7 lần so với nhóm 20% giàu vào năm 1998. Điều này cho thấy Nhà nước đã có sự điều
chỉnh đáng kể, hướng nguồn lực trợ cấp xã hội vào các nhóm mục tiêu đúng hơn. Còn đối với
các NGO thì chức năng cố hữu của họ là hướng đến những nhóm khó khăn và thiệt thòi nhất
trong xã hội.
Số liệu trên cho thấy có mối tương quan mật thiết giữa chi phúc lợi xã hội với biến đổi mức
sống dân cư và kết cấu xã hội. Phúc lợi xã hội đã đóng góp vào việc tăng mức sống dân cư nói
chung cũng như định hình kết cấu các giai tầng và nhóm xã hội. Tuy nhiên, trong thời kỳ 19932002, vẫn tồn tại xu hướng chi phúc lợi xã hội chưa thực sự nhằm vào các nhóm có vị thế xã
91
hội kém hơn và nghèo hơn, mặc dù trong nửa cuối thời kỳ này xu hướng đó đã được khắc phục
đáng kể.
6.5. NHỮNG CHỦ ĐỀ CHÍNH CỦA PHÚC LỢI XÃ HỘI HIỆN NAY
Quan sát thực tế và khái quát từ các tài liệu, có thể thấy rằng hiện trạng phúc lợi xã hội nước ta
trong những năm Đổi Mới vừa qua có những vấn đề chính đang nổi lên sau đây.
6.5.1. CAM KẾT CHÍNH TRỊ VỚI PHÚC LỢI CỦA NHÂN DÂN
Trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, các nước đã có những nhận thức và cam kết khác
nhau đối với phúc lợi của dân cư, đặc biệt của tầng lớp lao động. Về mặt này, có thể nói đến ba
nhóm nước liên quan đến ba giai đoạn lịch sử. Thứ nhất, những nước phát triển Âu-Mỹ đi trước
trong quá trình công nghiệp hóa. Hệ thống phúc lợi của họ dựa trên Nhà nước và chỉ hình thành
dần dần sau quá trình tăng trưởng công nghiệp. Thứ hai, nhóm nước Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa đã quan tâm xây dựng sớm hệ thống phúc lợi Nhà nước cùng với quá trình công
nghiệp hóa. Thứ ba, nhóm nước Đông Á, khi công nghiệp hóa cũng tương đối chú trọng sớm
đến phúc lợi nhưng nhấn mạnh đến trách nhiệm của bản thân người lao động và gia đình.
Nhìn chung, Nhà nước mang định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, theo truyền thống và
logic của mình, đã có cam kết mạnh mẽ với trách nhiệm phúc lợi xã hội. Điều này thể hiện ở
việc Nhà nước chú trọng thường xuyên đến việc cải thiện hoàn cảnh xã hội cho đông đảo quần
chúng cũng như cho những nhóm xã hội yếu thế trong suốt quá trình chuyển đổi và chuyển
sang kinh tế thị trường. Nhiều phân tích cho thấy một trong những điều kiện cho thành công
của Đổi Mới chính là việc nhận thức đúng tầm quan trọng của phúc lợi xã hội trong quá trình
chuyển đổi. Và đây chính là đặc trưng của truyền thống xã hội chủ nghĩa.
Trong thực tế ở mọi nước, sự kết hợp giữa lý luận với thực tiễn làm nảy sinh học thuyết quốc
gia về phúc lợi xã hội, theo nghĩa nó được chính thức thừa nhận và thực hiện trong nền chính trị
và chính sách quốc gia. Trong thời kỳ thiết lập hệ thống xã hội dựa trên kinh tế kế hoạch hoá
tập trung bao cấp, các nguyên tắc tổ chức của kiểu xã hội này đã tạo nên học thuyết phúc lợi xã
hội tương ứng, góp phần chỉ đạo việc tạo nên một thực tiễn phúc lợi. Những năm quá độ của xã
hội Việt Nam sang kinh tế thị trường thập niên 1990 và 2000 cũng là giai đoạn từng bước tìm
kiếm và hình thành mới học thuyết chính sách phúc lợi xã hội cho đất nước.
Kinh nghiệm về công việc này gợi ý rằng mô hình phúc lợi xã hội của Việt Nam phải xuất phát
từ thực tế lịch sử chính sách xã hội của chính mình để đưa ra một kết hợp cụ thể thích ứng với
bản thân, nhưng cần chú trọng đến kinh nghiệm quốc tế. Có một thực tế là, trong khi các nhà
vạch chính sách ở Việt Nam phải vật lộn với công việc “vừa thiết kế, vừa thi công” hệ thống
phúc lợi quốc gia, họ chưa nhận được nhiều sự hỗ trợ từ các nhà nghiên cứu xã hội trong nước.
Trong thực tế, họ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật nhiều hơn từ phía các tổ chức quốc tế.
Vào thời điểm sau 20 năm Đổi Mới, các nhà vạch chính sách xã hội đã đứng trước một câu hỏi
quan trọng: dưới tác động của việc tiếp tục quá trình Đổi Mới và công nghiệp hoá hiện đại hoá
tăng tốc, hệ thống phúc lợi xã hội cần tiến triển theo hướng nào, cần điều chỉnh và định hình lại
như thế nào? Nhiều dấu hiệu cho thấy hệ thống phúc lợi xã hội cần được đổi mới đáng kể ở mọi
cấp độ của nó: từ "triết lý" của hệ thống, khía cạnh quản lý, đến các lĩnh vực chuyên biệt và cấp
độ tổ chức.
92
6.5.2. HIỆN ĐẠI HÓA VÀ CHUYÊN NGHIỆP HÓA CÔNG TÁC XÃ HỘI
Những năm 1990 là thập niên chuyển biến mạnh mẽ về quan niệm và thực tiễn công tác xã hội.
Nhiều tổ chức đoàn thể hoạt động trong lĩnh vực này đã nhận thấy rằng họ phải tự đổi mới bản
thân, thay đổi tận gốc cách hiểu và cách làm công tác xã hội. Trong thời gian dài, Việt Nam hầu
như không biết đến những tiến triển mới trong quan niệm và thực tiễn công tác xã hội ở các xã
hội dựa trên nền kinh tế thị trường. Trong khi đó, trợ giúp quốc tế ngày càng tăng dẫn đến
những đòi hỏi mới về phương thức công tác xã hội hiện đại.
Điều này đã dẫn đến 4 hiện tượng và quá trình mới trong lĩnh vực công tác xã hội ở Việt Nam
thời gian qua.
o Với chính sách mở cửa, giúp đỡ quốc tế đạt tới một giai đoạn mới. Hàng trăm tổ chức quốc tế
đã tiến hành những chương trình công tác xã hội của mình nhằm giúp đỡ Việt Nam phát triển.
Một kiểu công tác xã hội dựa trên quan niệm quốc tế mới đã ảnh hưởng đáng kể đến thực tế
phúc lợi xã hội Việt Nam.
o Một số trong các đoàn thể quần chúng đã tự điều chỉnh mạnh mẽ, tỏ ra thích hợp với bối cảnh
làm việc mới, tiếp tục phát huy truyền thống và chức năng xã hội của mình (đặc biệt là Hội
phụ nữ). Nhưng nhìn chung, các đoàn thể này vẫn đang đứng trước đòi hỏi cải cách sâu rộng,
mà cho đến nay họ vẫn chưa có được những bước đáp ứng đáng kể.
o Chính sách tự do hóa xã hội của Đổi Mới tạo điều kiện cho một lĩnh vực hoạt động công tác
xã hội phong phú mới, bên cạnh các cơ quan và đoàn thể chính thức. Đó là hoạt động của các
tổ chức công tác xã hội được thành lập bởi những người tình nguyện, các NGO quốc tế và
trong nước, v.v. Thông qua đây, đang bước đầu nổi lên một khu vực xã hội dân sự (không
phải cổ truyền) tham gia mạnh mẽ vào hoạt động phúc lợi, nhưng khuôn khổ thể chế và quản
lý cho khu vực này còn đi chậm hơn sự phát triển của nó khiến cho không giải phóng được
mọi tiềm năng của khu vực này.
o Cùng với những thực tế công tác xã hội mới là việc phát triển đào tạo công tác xã hội theo
hướng cập nhật với thế giới. Nhiều khoảng trống tri thức và kỹ năng công tác xã hội ở Việt
Nam so với thế giới đã được thu hẹp. Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung bao cấp, các nhà
công tác xã hội làm việc chủ yếu dựa trên kinh nghiệm hoạt động chính trị. Hầu như không ở
đâu có chương trình đào tạo chính quy và cập nhật về công tác xã hội. Ngày nay, các nội dung
đào tạo công tác xã hội theo hướng hiện đại và chuyên nghiệp đã xuất hiện cả trong đào tạo
chính quy và dài hạn lẫn không chính quy và ngắn hạn. Tuy nhiên, việc đào tạo này vẫn còn
chưa đáp ứng rộng rãi yêu cầu ngày càng tăng lên.
6.5.3. PHÚC LỢI XÃ HỘI DOANH NGHIỆP
Các tổ chức làm việc, trong đó có doanh nghiệp, ngày càng có tầm quan trọng trong quá trình
công nghiệp hoá hiện đại hoá. Theo đó, công tác phúc lợi doanh nghiệp cũng sẽ ngày càng có ý
nghĩa, cả bên trong doanh nghiệp lẫn đối với xã hội bên ngoài. Đối với bên ngoài, doanh nghiệp
có trách nhiệm với cộng đồng nơi mình trú đóng, với xã hội nói chung trong những khó khăn và
thách thức về đời sống. Khó có con số chính xác và đầy đủ, song có thể thấy sự nghiệp giúp đỡ
xã hội của các doanh nghiệp ở Việt Nam (trong nước và nước ngoài) là vô cùng to lớn, đóng
93
góp đắc lực cho việc giảm thiểu các loại rủi ro xã hội cho nhiều tầng lớp dân cư. Việt Nam là
nước hàng năm chịu nhiều thiên tai, gần đây là những dịch bệnh lớn, gây ra những tổn thất về
người và của. Người ta ước tính rằng hàng năm đất nước này luôn chịu tổn thất hàng ngàn tỷ
đồng do thiên tai, dịch bệnh. Để cứu trợ cho nạn nhân thiên tai, nhà nước đã chi những khoản
hỗ trợ khổng lồ hàng năm. Cứu trợ của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đã hợp
thành một bộ phận không nhỏ. Nhà nước cũng đã có những văn bản để tạo khuôn khổ pháp lý
rộng rãi cho sự tham gia cứu trợ của doanh nghiệp và người dân.
Bức tranh về trách nhiệm phúc lợi bên trong doanh nghiệp cũng tương tự như vậy, song phức
tạp hơn nhiều. Trong 25 năm Đổi Mới, một trong những hướng công tác phúc lợi trọng tâm của
Nhà nước là tạo dựng khuôn khổ quan hệ lao động và chính sách phúc lợi trong doanh nghiệp.
Đây được xem là xương sống của hệ thống chính sách quốc gia, góp phần vào tăng trưởng kinh
tế cao liên tục, ổn định chính trị-xã hội, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao mức sống và mức
an toàn trong đời sống của người lao động và gia đình.
Tuy nhiên, vẫn còn hàng loạt vấn đề nan giải và bức xúc trong lĩnh vực quan hệ lao động và
phúc lợi bên trong doanh nghiệp. Mới chỉ có hơn 50% người lao động thuộc diện phải tham gia
bảo hiểm xã hội bắt buộc là đã thực sự tham gia hệ thống này, phần lớn thuộc khu vực Nhà
nước, lực lượng vũ trang. Số lao động thuộc diện phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc cũng
chỉ chiếm 1/4 tổng số người lao động cả nước (Xem Hộp 6.1). Rất nhiều doanh nghiệp trốn
trách trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Mặc dù mức và các hình thức phúc
lợi mà người lao động trong doanh nghiệp được hưởng đã nâng lên và mở rộng trong nửa sau
thập niên 1990 (Bùi Thế Cường, 2003b, 2003c. Trần Hữu Quang, 2009), song trong bối cảnh
lạm phát và giá cả tăng mạnh trong mấy năm gần đây, người lao động trong doanh nghiệp đã bị
giảm sút nhiều về phúc lợi (Xem Hộp 6.2). Đây là nguyên nhân của nhiều căng thẳng và xung
đột công nghiệp hiện nay (Lê Thanh Sang và đồng nghiệp, 2009).
Nhìn chung, phúc lợi xã hội trong khu vực sản xuất kinh doanh (nhà nước và ngoài nhà nước)
chưa được cấu trúc lại về căn bản, dẫn đến một mặt còn thiếu nhiều chính sách phúc lợi cần
thiết, mặt khác nhiều chính sách phúc lợi gây cản trở cho tăng trưởng và hiệu quả kinh tế. Vấn
đề thất nghiệp, thất nghiệp trá hình, thừa nhân công trong các tổ chức, năng suất lao động thấp,
thiếu các chế độ bảo vệ xã hội cho người làm công,... là những ví dụ nổi bật.
Hộp 6.1. Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam: Một cố gắng bền bỉ trong nhiều thập niên của Nhà nước
phúc lợi kiểu Việt Nam
Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hình thành từ những năm 1960, nhưng phải đến 1995 mới cải cách
chuyển sang cơ chế đóng-hưởng, cân đối thu-chi với 5 chế độ: ốm đau, thai sản, tạn nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất. Hiện có hơn 5,4 triệu người tham gia, tăng gần 2 lần so
với trước đây. Nhưng hiện nay Bảo hiểm xã hội đang bộc lộ 2 vấn đề đáng quan tâm: chưa mở
rộng được tối đa diện tham gia bảo hiểm xã hội và hạch toán trong Quỹ Bảo hiểm xã hội.
Trong 41 triệu người lao động tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh thường xuyên có khoảng
9,6 triệu người thuộc diện phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Tuy nhiên, cơ quan bảo hiểm
xã hội chỉ quản lý được 6,88 triệu người thuộc diện, trong số đó chỉ có 5,39 triệu người thực sự
tham gia, như vậy còn khoảng 4 triệu người lao động (chiếm 44%) thuộc diện bắt buộc mà không
được tham gia bảo hiểm xã hội. Số người này chủ yếu thuộc các doanh nghiệp hoạt động theo
Luật doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, và đặc biệt là ở các tổ chức dân lập, tư thục, các tổ chức, cá
nhân đăng ký kinh doanh nhỏ lẻ có thuê lao động.
Hạch toán trong Quỹ bảo hiểm xã hội chưa hiệu quả, mặc dù Quỹ có tăng cùng với sự tăng đối
94
tượng tham gia và điều chỉnh tiền lương. Theo quy định, Quỹ phải chi trả lương hưu và các loại
trợ cấp cho các đối tượng nghỉ hưởng chế độ hưu, mất sức và tử tuất từ 1/1/1995 về sau. Nhưng
thực tế sau khi tách ra khỏi ngân sách, Quỹ đã phải chi trả chế độ hưu và tử tuất và mức hưởng
bảo hiểm xã hội bình quân đang tăng khá nhanh (năm 2003 so với 2002 là 23,3%) và nếu không
có giải pháp cần thiết thì có thể xảy ra tình trạng mất cân đối sau này.
Nguyễn Thị Hằng (Trả lời phỏng vấn). Bảo hiểm xã hội phải đến với người lao động. Báo điện tử
Thời báo Kinh tế Việt Nam, 13/6/2005.
Hộp 6.2. Phúc lợi doanh nghiệp ngày càng trở thành một điểm “nóng” xã hội
Chỉ có 38% người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân, liên doanh, 100% vốn đầu tư nước
ngoài được ký hợp đồng lao động. Vẫn còn trên 6,5% người lao động phải làm trên 10 giờ/ngày,
7 ngày/tuần, nhiều doanh nghiệp bắt người lao động làm thêm 500-600 giờ/năm, gấp 2-3 lần quy
định. Nhiều doanh nghiệp xây dựng thang lương đến 37-40 bậc, mỗi bậc cách nhau 10.000đ".
(Nguồn: Tổng liên đoàn Lao động VN).
Mức lương phổ biến của người lao động trong các doanh nghiệp FDI (vốn đầu tư trực tiếp từ
nước ngoài), liên doanh hay tư nhân là từ 600.000đ tới 1 triệu đồng/tháng. Tất tần tật mọi khoản
chi, người lao động đều phải trông vào số tiền lương "chết đói" đó. Nói đó là mức lương "chết
đói" không hề là nói quá. Chỉ cần rảo qua các chợ, tham khảo các mức giá thực phẩm, vào các
"nhà trọ công nhân" xem những người lao động ăn ở như thế nào, bữa cơm của họ có mấy món,
gồm những món gì, là có thể kết luận: người lao động đang bị vắt kiệt sức như thế nào, và họ sẽ
còn lao động trong điều kiện như thế được bao lâu nữa?
Khi một người công nhân đi làm, đừng nên nghĩ họ chỉ lấy tiền nuôi bản thân họ. Hầu hết những
công nhân ấy đều ra đi từ nông thôn, từ các gia đình nghèo. Họ đi làm với ước vọng kiếm tiền
giúp đỡ cha mẹ, nuôi các em ăn học. Với mức lương mà chỉ sống cho riêng mình thôi cũng không
đủ ấy, họ làm sao gửi được tiền về giúp đỡ gia đình? Thế nhưng, rất nhiều người trong số họ vẫn
hằng tháng gửi tiền về quê, dù rất ít, cho gia đình. Để dành ra được số tiền ít ỏi ấy, họ đã phải
chắt bóp tiết kiệm đến tận cùng những nhu cầu tối thiểu nhất cho bản thân mình, nhất là trong
chuyện ăn ở.
Trong thời kỳ đầu khi Việt Nam cần kêu gọi đầu tư nước ngoài, thì lợi thế giá nhân công rẻ là
một yếu tố rất quan trọng. Nhưng nhiều năm đã qua, khi nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao,
khi đã vào WTO và sự cạnh tranh ở khu vực và châu lục không còn ở tầm mức cạnh tranh về giá
nhân công rẻ, thì nếu chúng ta vẫn tiếp tục duy trì "khung lương ưu đãi" cho nhà đầu tư, nghĩa là
quy định mức lương tối thiểu quá thấp trong các doanh nghiệp FDI, tất sẽ dẫn tới rất nhiều bất
cập. Người lao động sẽ tới "ngưỡng" của sự chịu đựng, và đình công sẽ liên tục nổ ra. "Nguyên
nhân dẫn đến đình công đã quá rõ ràng. Không thể đổ lỗi cho công nhân không tuân thủ quy định
của pháp luật về trình tự đình công" - một lãnh đạo Công đoàn đã thẳng thắn phát biểu như vậy.
Người ta đã thống kê, ngay tại Thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ đình công liên quan đến tiền lương
chiếm 77,77%.
Thanh Thảo. Lợi thế nhân công giá rẻ. Báo Thanh Niên 3/9/2007.
6.5.4. QUẢN LÝ PHÚC LỢI XÃ HỘI
Tăng trưởng kinh tế và mở rộng quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đã khiến cho khối
lượng và độ phức tạp của công việc phúc lợi xã hội tăng lên mạnh mẽ. Đa dạng hoá phúc lợi xã
hội theo tất cả mọi nghĩa (khu vực, vùng, phương cách,...) đã mở rộng rất nhanh trong những
năm Đổi Mới, đáp ứng được nhu cầu phúc lợi xã hội ngày càng cao của dân cư. Nhưng nó cũng
đặt ra nhiều thách thức cho công tác quản lý phúc lợi xã hội nhà nước. Mặc dù các cơ quan Nhà
95
nước phụ trách công tác phúc lợi đã có nhiều cố gắng, song do nhiều nguyên nhân, công tác
quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực này vẫn còn chưa đáp ứng tốt với hoàn cảnh đang đổi thay.
Liên quan đến hiệu quả quản lý của bộ máy điều hành phúc lợi quốc gia, tác giả nhận thấy có 4
vấn đề nổi lên.
o Thứ nhất, thường xuyên còn có một khoảng cách rất lớn giữa việc ban hành khung chính sách
và pháp luật phúc lợi xã hội với thực tế thi hành. Nhiều chính sách phúc lợi mang tính ưu việt
nhưng vẫn nằm trên văn bản. Các ngành, các cơ quan địa phương, doanh nghiệp, có thể không
thi hành nhưng vẫn không chịu sự giám sát và chế tài.
o Thứ hai, phúc lợi xã hội là lĩnh vực được nhà nước quan tâm đầu tư cao so với nhiều nước có
trình độ kinh tế tương tự. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực kết quả và hiệu quả đầu tư còn
thấp, làm giảm tác động của hệ thống phúc lợi xã hội. Chưa có sự tương xứng giữa đầu tư của
nhà nước và xã hội cho các chương trình công tác xã hội với kết quả thu được.
o Thứ ba, điểm khác biệt với hệ thống phúc lợi trong nền kinh tế kế hoạch hóa hành chính bao
cấp là trong nền kinh tế thị trường có nhiều loại hình chủ thể hành động phúc lợi hơn. Điều
này đặt ra vấn đề phân bố lại vị trí, chức năng và vai trò của các chủ thể trong hệ thống; đồng
thời quy định cách thức quan hệ qua lại lẫn nhau giữa các kiểu chủ thể. Từ góc độ này nổi lên
yêu cầu cải cách khuôn khổ pháp lý và tài chính đối với các chủ thể tham gia vào hệ thống
này. Vẫn còn sự bất bình đẳng giữa các chủ thể hoạt động trong khu vực xã hội. Các tổ chức
xã hội ngoài nhà nước ít được quan tâm, tạo điều kiện. Các đoàn thể chính trị-xã hội được nhà
nước cấp kinh phí dồi dào, được hưởng vị thế xã hội cao trong hệ thống chính trị-xã hội, song
trong một số mặt hoạt động, kết quả và hiệu quả công việc chưa tương xứng. Một số hội đoàn
và NGO trong nước đã xuất hiện và đang thể hiện vai trò và hiệu quả của chúng. Song, họ
thiếu vị thế xã hội cần thiết và phải vật lộn với tình trạng thiếu kinh phí.
o Thứ tư, khu vực công tác phúc lợi xã hội là nơi có nhân lực rất đông đảo làm việc trong
những loại hình tổ chức khác nhau. Giống như mọi khu vực khác, trong lĩnh vực phúc lợi, cả
các tổ chức lẫn con người đều đã phải thay đổi mạnh trong những năm qua. Tuy nhiên, vẫn
còn tồn tại sự trì trệ và xơ cứng cả về mặt nhận thức, thái độ và kỹ năng. Điều có ý nghĩa cấp
thiết hiện nay là nâng cao công tác nghiên cứu, đào tạo cơ bản (dài hạn, có bằng cấp), tập
huấn, truyền bá tri thức, thay đổi tổ chức. Để đáp ứng với giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại
hoá trong thời kỳ hội nhập quốc tế, bản thân công tác phúc lợi xã hội (Nhà nước, thể chế, tổ
chức và con người) cần được hiện đại hoá và chuyên nghiệp hoá.
6.6. TRỞ LẠI VỚI LÝ TƯỞNG PHÚC LỢI TOÀN DÂN: MỘT KIẾN NGHỊ KHẢ THI?
Đổi Mới là thời kỳ xây dựng lại, thích ứng và phát triển mạnh mẽ của phúc lợi xã hội với tính
cách là một hệ thống, một thiết chế trụ cột của xã hội. Nó đã gắn bó mật thiết với biến đổi kinh
tế, góp phần duy trì và tăng mức sống dân cư. Phúc lợi xã hội đã có những thay đổi đáng kể
trong định hướng chính sách, nguyên tắc tổ chức, mở rộng và đa dạng hoá trong nội dung, hình
thức và chủ thể hoạt động. Nó cũng có tương quan mật thiết với biến đổi kết cấu xã hội. Trong
mọi bối cảnh, hệ thống phúc lợi xã hội đã thể hiện vai trò tương đối tốt của nó góp phần vào
việc chuyển đổi thành công vừa qua, khi nó đáp ứng với một loạt nhu cầu và vấn đề xã hội nảy
sinh.
96
Chính sách nhấn mạnh vào phúc lợi con người của Việt Nam được duy trì trong suốt thời kỳ
Đổi Mới, bao gồm cả giai đoạn khắc phục khủng hoảng cũng như cả trong thời kỳ tăng trưởng
nhanh. Điều này góp phần vào ổn định xã hội. Nhưng chính sách phúc lợi cũng đã gắn với các
khuôn mẫu và xu hướng biến đổi của kết cấu giai tầng xã hội, trong đó bất bình đẳng kinh tế có
xu hướng tăng. Phân phối phúc lợi xã hội một mặt góp phần cải thiện mức sống dân cư, nhưng
mặt khác cũng góp phần tăng cách biệt xã hội. Tác giả xin nêu lên những kiến nghị sau đây.
o Tiếp tục duy trì cam kết chính trị cao đối với phúc lợi. Thúc đẩy việc nghiên cứu để tìm kiếm
luận cứ cho việc trở lại với nguyên lý phúc lợi xã hội toàn dân (bao gồm mở rộng bảo hiểm xã
hội và bảo hiểm y tế toàn dân, nâng cao giáo dục phổ cập).
o Tập trung vào việc điều chỉnh bất bình đẳng phúc lợi do kết cấu giai tầng quy định. Qua đó
tham gia điều chỉnh lại bản thân kết cấu giai tầng bất bình đẳng.
o Xác định lại đúng đắn hơn chức năng và trách nhiệm xã hội của Nhà nước, xã hội dân sự, khu
vực kinh doanh và hộ gia đình đối với phúc lợi. Theo hướng Nhà nước tập trung hơn vào hoạt
động lập pháp phúc lợi xã hội, phối hợp hành động; mở rộng không gian cho xã hội dân sự
đảm nhiệm các chức năng phúc lợi; thúc đẩy trách nhiệm xã hội của khu vực kinh doanh; tăng
trách nhiệm đồng thời giảm nhẹ gánh nặng của hộ gia đình đối với phúc lợi của các thành
viên.
o Thành lập Uỷ ban hay Hội đồng phúc lợi xã hội quốc gia, hoạt động như là một cơ quan phối
hợp, tư vấn, hoặc diễn đàn. Thành viên của nó bao gồm nhiều chủ thể với những chức năng
khác nhau: cơ quan Đảng, Quốc hội, các Bộ, tổ chức xã hội, đại diện công ty lớn, nhà nghiên
cứu, nhà tư vấn, v.v. Kiểu tổ chức này có thể có cả ở cấp địa phương. Loại hình cơ quan này
tỏ ra hữu ích cho việc bao quát mọi vấn đề phúc lợi trong một tiếp cận nhất quán, cho việc
phối hợp theo chiều ngang và dọc.
o Tập trung hơn nữa vào nguyên tắc phúc lợi định hướng vào phát triển kinh tế. Có thể nói rằng
Việt Nam là một xã hội phúc lợi, một Nhà nước phúc lợi. Phát biểu này có căn cứ trên hàng
loạt tiêu chí định tính và định lượng: từ cam kết chính trị cao với phúc lợi người dân, đến số
người hưởng phúc lợi, nguồn tài chính và nhân lực dành cho khu vực phúc lợi, ... Song điều
này có một tác động kép: vừa thúc đẩy vừa hạn chế tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Chiến lược phúc lợi quốc gia phải lựa chọn được điểm cân bằng tương đối trong cái nghịch lý
này, đảm bảo ổn định xã hội đồng thời hỗ trợ phát triển kinh tế.
o Cần xem các tổ chức, đặc biệt các doanh nghiệp, là một trọng tâm của công tác phúc lợi hiện
nay. Tạo ra khuôn khổ pháp lý, hỗ trợ, giám sát và chế tài các doanh nghiệp trong việc mở
rộng các chế độ phúc lợi doanh nghiệp. Việc tăng cường công tác phúc lợi doanh nghiệp sẽ
góp phần vào thúc đẩy đà tăng trưởng kinh tế, giảm các xung đột công nghiệp đang có nguy
cơ lan rộng hiện nay. Nhà nước cần đặc biệt quan tâm đến phúc lợi trong khu vực doanh
nghiệp nhỏ và vừa, khu vực hợp tác xã, bởi vì người lao động trong khu vực này hiện được
hưởng rất ít phúc lợi từ nơi làm việc.
o Thúc đẩy việc hiện đại hoá và chuyên nghiệp hoá lĩnh vực nghiên cứu, đào tạo và thực hành
chính sách xã hội và công tác xã hội. Mở rộng việc thành lập các khoa hay trường công tác xã
hội trong các trường đại học, xúc tiến xây dựng chương trình đào tạo chính quy cho bộ môn
97
chính sách xã hội và công tác xã hội, xem đây là giải pháp cơ bản dài hạn cho việc hiện đại
hoá và chuyên nghiệp hoá hai lĩnh vực này.
98
CHƯƠNG BẢY. MÔ HÌNH XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ XÃ HỘI
Đổi Mới đã thúc đẩy những quá trình xã hội ở nhiều cấp độ khác nhau, mở ra những động lực
xã hội trước kia còn tiềm ẩn. Và những điều này diễn ra trong bối cảnh mở cửa với bên ngoài.
Sự tương tác của tất cả những yếu tố đó đã tạo nên một sản phẩm: chúng tạo nên một "mô hình
xã hội" trong hiện thực, một kiểu kết cấu kinh tế chính trị và giai tầng xã hội. Về mặt quản lý,
điều này sẽ liên quan đến vấn đề quản lý chiến lược. Chúng cũng làm nổi lên "những vấn đề cơ
bản", đặt ra vấn đề quản lý biến đổi xã hội. Cuối cùng, các quá trình xã hội cũng tạo nên
"những nhân tố bất ổn định", mà để giải quyết người ta phải xây dựng cơ chế quản lý khủng
hoảng.
Ba cấp độ quản lý này liên quan đến ba cấp độ của sự vật, từ chiều sâu cấu trúc bên trong, lên
đến cấp độ các cơ chế và quá trình biến đổi, và cuối cùng là những quá trình, hiện tượng và
triệu chứng bề mặt.
7.1. MÔ HÌNH ĐÃ HÌNH THÀNH
Kể từ Đổi Mới, có ba nhân tố đã kết hợp và tương tác hàng ngày hàng giờ với nhau. Đó là hiện
trạng xã hội trước Đổi Mới, tác động quốc tế và môi trường chính sách. Trong đó, nhân tố cuối
cùng là quan trọng nhất theo nghĩa, thứ nhất, nó cho phép vận dụng và là bộ lọc của hai nhân tố
trên. Thứ hai, nó hoàn toàn thuộc quyền chủ động của chủ thể là chúng ta. Ba nhân tố này
tương tác với nhau đã tạo nên một "mô hình hiện thực". Theo tác giả, mô hình này có những
đặc trưng chủ yếu sau đây.
7.1.1. HỘI NHẬP QUỐC TẾ SÂU RỘNG
Nền kinh tế phụ thuộc ngày càng tăng vào xuất nhập khẩu, tài chính và giá cả thế giới, ODA,
FDI, WTO, với các luật chơi quốc tế được cấu trúc hóa chặt chẽ và chịu sự chi phối của logic tư
bản toàn cầu.
Ảnh hưởng ngày càng mạnh của văn hoá toàn cầu (phim Mỹ, sách báo nước ngoài, Internet,
nhạc MTV, ...) và khu vực Đông Á (phim ảnh, thời trang và ca nhạc Hàn Quốc, Trung Quốc,
Hồng Kông), đặc biệt ở thành phố và trong thanh niên. Tác động văn hoá có nghĩa là tác động
của hệ tri thức, các giá trị, hệ tư tưởng, lối sống, chuẩn mực, cách diễn giải hiện thực, các quan
hệ và các sự kiện (đặc biệt sự kiện thời sự).
Hình thành và ảnh hưởng ngày càng mạnh của khu vực các công ty nước ngoài, tổ chức đa
phương (WB, ADB, UNDP, IMF), các NGO quốc tế, hoạt động ở Việt Nam, đến chính sách,
quan hệ xã hội, quan niệm tư tưởng, cách làm việc, v.v.
Trên cơ sở vừa nói trên, xuất hiện các nhóm xã hội "đẳng cấp toàn cầu" trong nước, theo nghĩa
các nhóm người mà hoạt động hàng ngày, tư tưởng và lợi ích gắn với khu vực quốc tế nói trên.
Xuất xứ của các nhóm này từ nhiều nguồn: công chức cán bộ (chính quyền, đoàn thể, nghiên
cứu, dịch vụ xã hội), kinh tế tư nhân trong nước, kinh tế liên doanh, cán bộ nhân viên làm việc
trong các tổ chức nước ngoài và quốc tế, những người hoạt động văn hoá.
7.1.2. CÁC QUÁ TRÌNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ
99
Đổi Mới đã hoàn thành một giai đoạn quá độ cho nền kinh tế: những cơ sở chủ chốt của kinh tế
thị trường đã được xác lập. Lợi ích kinh tế của các chủ thể tham gia vào hệ thống kinh tế-xã hội
ngày càng trở nên khác biệt và xung đột nhau, sự bất bình đẳng tăng lên nhanh và ngày càng trở
nên khó đảo ngược, nếu không có những cam kết chính trị đủ mạnh.
Tăng trưởng mạnh của công nghiệp lớn, đô thị lớn, của các cực tăng trưởng (nền kinh tế của
doanh nghiệp lớn nhà nước, của liên doanh, của tư nhân nước ngoài). Kết quả là ảnh hưởng
mang tính chi phối trên cả nước của các doanh nghiệp lớn, gắn với các Bộ lớn, trong mọi ngành
chủ chốt: năng lượng, xây dựng, ô tô xe máy, vật tư nông nghiệp, dược phẩm, ngân hàng, tài
chính, tư vấn, v.v.
Khu vực tư nhân trong nước phát triển tương đối nhanh chóng. Các đơn vị tư nhân lớn cũng bắt
đầu hình thành và ảnh hưởng tăng dần (rõ rệt nhất là ảnh hưởng ở cấp địa phương và ngành).
Sự kết hợp giữa khu vực kinh tế tư nhân và giới công chức tăng lên, theo cả hai nghĩa tích cực
và tiêu cực.
Tư nhân hoá chính thức và phi chính thức diễn ra mãnh liệt (giao ruộng, đất và rừng cho nông
dân sản xuất hoặc kinh doanh; giao khoán đất rừng của tập thể và nông trường cho công nhân
viên; giao, bán và lấn chiếm đất đai và nhà ở đô thị; cổ phần hoá, lấn chiếm, lợi dụng tài sản
công nghiệp; các kênh lưu chuyển một cách hợp pháp và bất hợp pháp đối với tiền, tài sản và
sản phẩm sản xuất từ cơ sở công hữu chuyển sang tư nhân và cá nhân).
7.1.3. KẾT CẤU XÃ HỘI-VĂN HÓA
Các quá trình kinh tế chính trị nói trên dẫn đến sự hình thành một kết cấu xã hội mới. Hình
thành các giai tầng và nhóm với những khác biệt kinh tế, chính trị-xã hội và văn hoá ngày càng
tăng. Các giai tầng và nhóm gắn với việc sở hữu ba nguồn lực cơ bản: chính trị-tổ chức (quyền
lực, quyền hạn), kinh tế, tri thức; gắn với mức độ hưởng lợi từ kết cấu kinh tế chính trị và kết
cấu xã hội.
Các định chế cơ bản và các tổ chức liên quan đến quản lý xã hội (quản lý về mặt tư tưởng, cấu
trúc, văn hoá, con người) thay đổi chưa đủ mức cần thiết theo yêu cầu, chưa nói đến việc chúng
phải đi trước để tạo thuận lợi và động lực cho sự thay đổi.
Có bốn xu hướng chính trong việc hình thành và vận hành các định chế cơ bản. Thứ nhất, phục
hồi các đặc tính cổ truyền (sử dụng các quan hệ dòng họ, đồng hương); đề cao các giá trị và
chuẩn mực cổ truyền nhưng chống lại sự thay đổi/hiện đại hoá; sử dụng các định chế và tổ chức
kiểu cũ. Thứ hai, tái tăng cường các đặc tính của cơ chế xã hội chủ nghĩa bao cấp (cơ chế xincho; sử dụng nguồn lực xã hội đang tăng lên để tiếp tục ưu tiên vào khu vực kinh tế và xã hội
nhà nước; hành chính/quan liêu hoá các lĩnh vực của đời sống xã hội). Thứ ba, thị trường hoá,
thương mại hoá theo kiểu lạm dụng, trục lợi. Thứ tư, hiện đại hoá và phát triển mang tính chức
năng, hợp thức.
Lĩnh vực văn hoá cũng thể hiện nhiều chiều hướng khác nhau tương tự như trên: cổ truyền, chủ
nghĩa xã hội nhà nước, thị trường, hiện đại hoá và phát triển. Người ta nhận thấy trong xã hội
có hiện tượng "anomie" (một thuật ngữ xã hội học chỉ trạng thái xã hội trong đó không có
phương hướng giá trị và quy tắc chuẩn mực, hoặc bị hỗn độn về những điều này).
100
Kết quả của những xu hướng vận động trên trong kết cấu xã hội, văn hoá, định chế và tổ chức
dẫn đến tình trạng mức độ liên kết xã hội giảm đi. Chưa xuất hiện một kết cấu xã hội mới và
một hệ diễn giải văn hoá mới phù hợp với hiện tại, được đa số các nhóm xã hội chấp nhận, tán
thành và cùng sử dụng. Do đó, tình trạng lệch chuẩn, tội phạm và tệ nạn xã hội có xu hướng gia
tăng, thể hiện áp lực nổi trội trong mọi lĩnh vực và trong nhiều nhóm xã hội chủ chốt: công
chức, doanh nhân, thanh niên, trí thức.
7.1.4. QUAN HỆ NHÀ NƯỚC VÀ XÃ HỘI
Vấn đề ổn định chính trị liên quan mật thiết với mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội. Đổi Mới
đã tạo ra nhiều biến đổi trong mối quan hệ này. Phạm vi và mức độ chặt chẽ của việc nhà nước
quản lý xã hội đã dần dần thu hẹp và lỏng đi, Nhà nước không còn kiểm soát toàn bộ lĩnh vực
được gọi là công việc cá nhân và gia đình. Đồng thời Nhà nước cũng giảm bớt trách nhiệm
phúc lợi xã hội của mình. Tham gia ngày càng nhiều hơn vào khoảng trống này là tư nhân, gia
đình và hiệp hội. Kết quả là phát triển khu vực xã hội dân sự, vai trò của các tổ chức chính trịxã hội và xã hội đã ngày càng tăng lên.
Điều chú ý là nhiều cơ quan chức năng vẫn giữ kiểu quan hệ quản lý cũ, một phần do chưa ý
thức được sự thay đổi, một phần do muốn bám giữ các lợi ích trục lợi được từ quan hệ quản lý
kiểu cũ. Kết quả là gây trở ngại cho sự phát triển xã hội, đồng thời việc quản lý cũng không
theo kịp được sự thay đổi, ảnh hưởng đến hiệu quả lãnh đạo và quản lý.
7.1.5. SỰ LÃNH ĐẠO CHÍNH TRỊ: QUẢN LÝ CHIẾN LƯỢC
Trong suốt thời kỳ Đổi Mới, sự lãnh đạo của Đảng được củng cố và phát huy mạnh hơn ở các
cấp và ngành. Đường lối cơ bản được xác lập rõ ràng: một Đảng lãnh đạo, cải cách thị trường
và mở cửa với thế giới. Trong nguyên tắc Đảng lãnh đạo có sự thay đổi nhất định: giảm bớt sự
kiểm soát toàn bộ và trực tiếp mọi phương diện của đời sống con người và xã hội. Các cơ quan
chức năng của Đảng vẫn chưa xây dựng được một hệ tư tưởng và lý luận mới hoàn chỉnh, có
sức lãnh đạo xã hội cho thời kỳ mới, mặc dù những thành tố cụ thể khác nhau của nó đã hình
thành. Chưa có một mô hình xã hội và mô hình nhà nước rõ ràng, phù hợp với hoàn cảnh lịch
sử toàn cầu và trong nước. Đảng và Nhà nước chưa kiểm soát được một cách thực sự hiệu quả
các quá trình cơ bản của ba lĩnh vực nói trên: hội nhập quốc tế, biến đổi trong kinh tế chính trị,
biến đổi kết cấu xã hội và văn hoá.
7.2. MƯỜI VẤN ĐỀ CƠ BẢN ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN: QUẢN LÝ BIẾN ĐỔI XÃ
HỘI
Cấu trúc toàn cầu, cấu trúc vĩ mô quốc gia, và các quá trình bề mặt hàng ngày, tất cả những cấp
độ này tương tác qua lại với nhau tạo nên một loạt vấn đề nổi bật (thường được gọi là những
vấn đề cơ bản và bức xúc), tác động liên tục đến công việc phát triển quốc gia cả trong triển
vọng dài hạn lẫn hàng ngày. Giải quyết chúng thuộc phạm vi quản lý biến đổi xã hội, mặc dù ở
nhiều khía cạnh cũng bao gồm cả quản lý chiến lược. Theo chúng tôi, có 10 vấn đề cơ bản sau
đây.
7.2.1. TOÀN CẦU HOÁ VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA CÁC SIÊU CƯỜNG
101
Như Chương Một đề cập, cấu trúc và lịch sử toàn cầu định hình hệ thống các quốc gia và ứng
xử của họ, phân chia vị thế các chủ thể. Trong đó, một số quốc gia ở "trung tâm" hợp tác và đấu
tranh để "điều hành" công việc thế giới, một mặt nhằm tối đa hoá lợi ích riêng, nhưng mặt khác
cũng phải tính đến "luật chơi" toàn cầu. Mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam, phải xử lý được
vấn đề cấu trúc và quá trình lịch sử này về mặt dài hạn lẫn hàng ngày. Sau khi gia nhập WTO
và tham gia Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, rõ ràng Việt Nam ngày càng va chạm hơn với
biến đổi quốc tế trên tất cả các cấp độ.
7.2.2. BIẾN ĐỔI CẤU TRÚC XÃ HỘI
Một kết cấu giai tầng mới đang hình thành và ngày càng được củng cố; những định chế xã hội
cơ bản cũng đã hình thành với những ý tưởng, cấu trúc, văn hoá, lợi ích và tập hợp người ngày
càng định hình.
Tầm quan trọng của kết cấu kinh tế chính trị và kết cấu giai tầng xã hội là ở chỗ nó tạo nên
xương sống trong kiến trúc tổ chức nhà nước của một dân tộc-quốc gia. Một khi kết cấu kinh tế
chính trị và kết cấu giai tầng xã hội đã được định hình, nó sẽ "tự chỉ đạo" đường hướng phát
triển đất nước; các chủ thể hành động chủ chốt cũng khó thay đổi. Sự tồn tại của kết cấu đó
phải tính đến cả thế kỷ, quá trình thay đổi đòi hỏi nhiều thập niên, với những chi phí xã hội rất
cao (nỗ lực, thời gian, xung đột, khủng hoảng, ...).
Có ba ví dụ nổi bật minh họa cho điều nói trên. Thứ nhất, kinh nghiệm Liên Xô trong việc tạo
nên kết cấu kinh tế chính trị và giai tầng xã hội kiểu kế hoạch hoá tập trung trong 70 năm. Thứ
hai, sự hình thành kết cấu của chủ nghĩa tư bản độc quyền cao của nước Nga từ đầu thập niên
1990 đến nay sẽ định hình cho nước Nga trong rất nhiều thập niên tới mà không thế lực chính
trị nào, kể cả quyền lực lớn của Tổng thống có thể thay đổi. Thứ ba, những cách biệt và mất cân
đối lớn nảy sinh từ chiến lược phát triển của Trung Quốc chỉ trong 20 năm đầu cải cách sẽ phải
mất không dưới nửa thế kỷ nữa để khắc phục. Các nước phương Tây, Mỹ Latin và Đông Á
cũng cho những kinh nghiệm tương tự.
Cấu trúc xã hội còn bao gồm cả yếu tố dân số: quy mô dân số tăng lên, những thay đổi trong cơ
cấu dân số (tuổi và giới), di dân (phân bố dân cư theo không gian địa lý). Ba yếu tố trên đặt ra
những thách thức lớn: những đáp ứng mọi mặt cho một quy mô dân số ngày càng lớn; kỷ
nguyên dân số vàng đang tới (việc làm, giáo dục); sự già hoá dân cư bắt đầu từ 2010 trở đi;
những khu dân cư lớn tập trung ở các đô thị; quản lý con người trong một bối cảnh dân cư đông
đúc và thường xuyên biến động.
Cấu trúc xã hội còn thể hiện ở sự phân bố trên không gian địa lý đối với năm nguồn lực: vật thể
(lực lượng sản xuất), dân cư, kinh tế (nguồn vốn), tri thức, xã hội. Năm nguồn lực trên ngày
càng tập trung vào 2 đô thị cực lớn và một vài đô thị lớn, ở mỗi tỉnh thì ngày càng tập trung vào
thị xã. Những phân bố này hiện đang ngày càng trở nên mất cân đối, có thể tạo nên những tích
tụ động lực địa-kinh tế và địa-xã hội gây căng thẳng và xung đột tiềm tàng.
7.2.3. VĂN HOÁ THAY ĐỔI
Quá độ từ xã hội cổ truyền sang xã hội công nghiệp và hiện đại hoá và chuyển đổi từ cơ chế xã
hội chủ nghĩa bao cấp sang xã hội hiện đại dựa trên thị trường, là một sự thay đổi mang tính
cách mạng về văn hoá, bao gồm hệ giá trị, hệ quy tắc chuẩn mực, kiểu tri thức, nguyên lý và
102
cách tổ chức xã hội. Điều này dẫn đến sự thay đổi mạnh mẽ trong thái độ, thế ứng xử và chiến
lược sống của các chủ thể. Nó cũng dẫn đến việc biến đổi và hình thành các kiểu định chế và tổ
chức mới, định hình lại toàn bộ chúng. Bởi vì văn hoá một mặt gắn liền với tư tưởng, tôn giáo,
và bản sắc; mặt khác cũng gắn với lợi ích và vị thế; thêm nữa còn gắn với thói quen; nên sự
thay đổi văn hoá này là một quá trình lâu dài, khó khăn, quanh co, thăng trầm và đầy xung đột,
hoặc trì trệ.
7.2.4. THỂ CHẾ: KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ NHÀ NƯỚC
Biến đổi cấu trúc xã hội và văn hoá trên thực tế là những biểu hiện bộ phận của một khuôn khổ
mang tính tổng thể hơn. Đó là mô hình xã hội hiểu theo nghĩa rộng, trong mô hình này người ta
phải định nghĩa được tính chất và kiến trúc nhà nước, trong đó có xác định cơ sở kinh tế thị
trường. Kiến trúc nhà nước ở các nước phát triển cao, thể hiện trong Hiến pháp, bao gồm ba
yếu tố: thị trường, pháp quyền và xã hội. Điều nghịch lý là để có thể quản lý tốt biến đổi xã hội,
chúng ta lại cần có những thể chế vững chắc, trước hết là thể chế thị trường và Nhà nước.
7.2.5. THỐNG NHẤT VÀ ĐA DẠNG QUỐC GIA: VẤN ĐỀ TỘC NGƯỜI, TÔN GIÁO,
VĂN HOÁ
Trong một thời gian dài, ở phần lớn mọi quốc gia có xu hướng nhấn mạnh đến sự thống nhất,
thậm chí đồng nhất quốc gia. Trên thực tế, rất ít quốc gia có được điều này, phần lớn đều phải
đương đầu với tình trạng đa dạng về chủng tộc, tộc người, tôn giáo và văn hoá. Nhiều nước
cũng đã chuyển từ hệ tư tưởng nhấn mạnh đến trạng thái độc tôn (một nền văn hoá, một tôn
giáo, một tộc người chủ thể) sang trạng thái đa dạng, bình đẳng. Sự thống nhất quốc gia đạt
được dựa trên quy tắc lấy một cái làm thống trị, độc tôn, chủ đạo thay thế cho duy trì bản sắc
của số nhiều, ngày nay sự thống nhất kiểu này được thay thế bằng sự thống nhất quốc gia dựa
trên đa dạng, khoan dung, chia sẻ những giá trị chung trên cơ sở luật pháp thống nhất. Tuy
nhiên, như kinh nghiệm quá khứ cũng như hiện nay chỉ ra, sự thống nhất và đa dạng quốc gia
vẫn đang là một trục căng thẳng và xung đột.
Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ, khi đất nước có 54 dân tộc, có nhiều tôn giáo lớn và tín
ngưỡng bản địa, tính địa phương của văn hoá rất mạnh. Những khác biệt này ngày nay đang
tích hợp với hàng loạt yếu tố xuyên chéo: quy mô dân số tăng, di dân mở rộng, tăng trưởng
kinh tế và nâng cao mức sống dẫn đến những yêu cầu và khát vọng xã hội tăng lên, kết cấu kinh
tế chính trị và giai tầng xã hội tạo nên những khác biệt ngày càng tăng về nhóm xã hội, tác động
và sự can thiệp của các thế lực bên ngoài.
7.2.6. VẤN ĐỀ NÔNG DÂN: CÁCH BIỆT ĐÔ THỊ-NÔNG THÔN, PHÁT TRIỂN NÔNG
THÔN
Nhiều nước đang phát triển phải đối mặt với vấn đề nông dân như là một vấn đề lịch sử, đồng
thời như là một trong những thách thức lớn nhất khi công nghiệp hoá và hiện đại hoá, do tầm
vóc của quy mô dân số nông thôn. Giống như một số nước điển hình trong vấn đề này (chẳng
hạn Trung Quốc, Ấn Độ), Việt Nam phải đặt trọng tâm vào "vấn đề nông dân" trong toàn bộ
quá trình phát triển. Trong giai đoạn đầu của Đổi Mới, biến đổi xã hội đã diễn ra suôn sẻ một
phần vì nông dân và nông thôn đã được hưởng lợi lớn. Tuy nhiên, giai đoạn hiện nay và sắp tới
sẽ là thách thức lớn, vì sẽ ngày càng khó khăn trong việc đảm bảo cho nông dân và nông thôn
tiếp tục được hưởng thụ một cách công bằng các thành quả của phát triển.
103
7.2.7. GIÁO DỤC
Xét đến cùng, vấn đề giáo dục hiện nay liên quan đến hai khía cạnh cơ bản. Thứ nhất, đó là đạt
mục tiêu giáo dục toàn dân, theo nghĩa mọi người dân đều được cơ hội bình đẳng và công bằng
trong việc tiếp cận giáo dục, hưởng thành quả giáo dục, sử dụng thành quả giáo dục vào việc
cải thiện đời sống và phát huy khả năng con người. Thứ hai, tạo nên một nền giáo dục đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tiến bộ trong giáo dục sẽ là một động lực thúc đẩy biến
đổi xã hội mạnh mẽ nhất.
Sản phẩm của giáo dục phải là những con người thấm nhuần hệ giá trị và chuẩn mực của xã hội
công nghiệp hiện đại, có tri thức và kỹ năng phù hợp với hệ giá trị-chuẩn mực ấy (duy lý,
thượng tôn luật pháp, giải quyết được mối quan hệ giữa cá nhân luận và cộng đồng, thượng tôn
tư cách công dân, chuyên môn hoá và chuyên nghiệp hoá, đạo đức và kỷ luật công nghiệp, tâm
thế sẵn sàng với thay đổi và canh tân, chấp nhận phê phán, ưa thích và khuyến khích kinh
doanh, ...). Hệ giá trị, chuẩn mực và kỹ năng này đối lập sâu sắc với những nguyên lý cổ truyền,
tiền công nghiệp, nhưng hiện đang phổ biến, mang tính chủ đạo, được chia sẻ và được đề cao
trong số đông.
Tương tự, hệ thống giáo dục cũng trang bị chưa đầy đủ, thậm chí còn chuẩn bị lệch hướng, cho
các thế hệ về hệ giá trị, chuẩn mực và kỹ năng mang tính thúc đẩy cho phát triển.
7.2.8. MẠNG LƯỚI AN TOÀN XÃ HỘI CHO XÃ HỘI VÀ CÁC NHÓM YẾU THẾ
Xây dựng hệ thống phúc lợi cho toàn xã hội và cho những nhóm yếu thế là một nội dung hữu
cơ trong chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá. Hệ thống này đồng thời là cơ chế tăng liên
kết xã hội, giảm nhẹ xung đột và khủng hoảng. Do đó, hệ thống này là điều kiện cơ bản cho
việc đảm bảo nền tảng cho những biến đổi xã hội thành công.
7.2.9. LỆCH CHUẨN VÀ TỘI PHẠM
Do biến đổi nhanh chóng của văn hoá và cấu trúc xã hội, sự phát triển không đều giữa chúng,
các hiện tượng lệch chuẩn, tội phạm và tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng về số lượng, phạm vi
cũng như mức độ phổ biến và tính nghiêm trọng. Tình trạng này gây ra những hậu quả nặng nề:
làm chệch hướng phát triển, tăng chi phí kinh tế và xã hội, gây bại hoại về đạo đức xã hội. Hiện
chưa có những đánh giá đầy đủ về thiệt hại kinh tế và xã hội của tội phạm và tệ nạn xã hội,
nhưng có thể ước tính rằng mức độ thiệt hại là rất cao.
7.2.10. MÔI TRƯỜNG VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU
Do tác động của tăng dân số, tăng trưởng kinh tế và tiêu dùng, và đẩy mạnh công nghiệp hoá,
môi trường Việt Nam đang chịu sức ép mất cân bằng, ô nhiễm và suy thoái (Xem thêm Báo cáo
Phần môi trường của Đề tài KX.02.10). Tác động của vấn đề môi trường toàn cầu càng đẩy
Việt Nam vào một tình thế khó khăn lớn hơn, khi Việt Nam được xem là một trong 2 quốc gia
bị ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu (Lê Thanh Sang, 2009). Tác động của
môi trường và biến đổi khí hậu toàn cầu sẽ là những thông số rất mạnh mẽ và sâu xa ảnh hưởng
đến biến đổi xã hội mà không phải lúc nào người ta cũng nhận thức và đo lường được một cách
dễ dàng.
104
7.3. CÁC NHÂN TỐ BẤT ỔN ĐỊNH: QUẢN LÝ KHỦNG HOẢNG
Các quá trình nền ở tầng nấc sâu xa trong cấu trúc xã hội liên quan đến quản lý chiến lược và
quản lý biến đổi, trong sự tương tác qua thời gian sẽ đưa đến những biểu hiện bề mặt, tạo ra
những nhân tố bất ổn định tiềm tàng, có thể không kiểm soát được kịp thời. Có thể dự kiến 8
bất ổn định tiềm tàng sau đây.
o Khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tiền tệ, nhịp độ tăng trưởng giảm sút (do đầu tư sai, chính
sách vĩ mô sai, quản lý vĩ mô yếu kém, quản lý tài chính quốc gia và địa phương yếu kém, do
khủng hoảng kinh tế thế giới hay khu vực).
o Nhu cầu tăng lên do tăng dân số và nguồn lao động mà khả năng xã hội không đáp ứng đủ.
o Lạm quyền và tham nhũng, gây nên mất lòng tin và làm biến dạng các hình thái phát triển.
o Bất bình đẳng tăng quá cao và nghèo đói.
o Các phong trào mang tính tôn giáo hay dân tộc.
o Khả năng lãnh đạo và quản lý bị tụt hậu quá xa so với yêu cầu của xã hội.
o Trung Quốc hoặc khu vực bị khủng hoảng.
o Những diễn biến đột ngột của kinh tế và chính trị toàn cầu.
Những diễn biến ở Việt Nam trong các năm 2007-2009 cho thấy những yếu tố trên không phải
là điều tưởng tượng hoặc quá xa xôi. Nền kinh tế-chính trị toàn cầu đang có những triệu chứng
khó nắm bắt và nhận diện (giá dầu, giá vàng, khủng hoảng tài chính, tiềm ẩn chiến tranh lớn ở
Trung Đông hoặc Thái Bình Dương). Các phản ứng chính sách kém nhạy bén và hiệu quả khiến
cho có lúc có nơi lạm phát tăng cao, tỷ giá và giá các hàng hóa cơ bản biến động thất thường,
một số thị trường cơ bản có lúc có dấu hiệu bị rối loạn.
Điều đáng chú ý là nhiều trong số các nhân tố này gắn liền với động thái kết cấu giai tầng xã
hội và trạng thái văn hoá trong nước. Cần đặc biệt chú ý rằng những nhân tố bất ổn định nói
trên cho đến nay rất ít được theo dõi, quan sát một cách có hệ thống, đồng bộ, khoa học, thu hút
nhiều lực lượng nghiên cứu có phối hợp tổ chức. Giống như việc đo lường các thông số thời tiết
và các thông số sức khỏe cá nhân, trạng thái xã hội cũng cần phải được đo lường thường xuyên
và có hệ thống.
7.4. NHỮNG GIẢI PHÁP NHÌN TỪ TIẾP CẬN XÃ HỘI HỌC
Các Mục trên đề cập đến các quá trình biến đổi dài hạn (chiến lược), trung hạn (biến đổi xã hội
bộ phận), và hàng ngày (các bất ổn định), cũng như mối liên hệ giữa chúng. Mục này đề cập
một số định hướng giải pháp nhìn từ tiếp cận xã hội học.
7.4.1. CHÍNH SÁCH QUỐC TẾ
105
Cần tiến hành sự phân tích lại về cơ bản bối cảnh kinh tế chính trị quốc tế, trên cơ sở đó xây
dựng chính sách đối ngoại phục vụ đúng lợi ích quốc gia hiện thực. Coi bối cảnh quốc tế là một
xuất phát điểm chi phối chiến lược phát triển trong nước, kể cả mô hình phát triển. Cần thay đổi
căn bản cách hình thành và thực hiện chính sách đối ngoại quốc gia. Cách làm cũ coi đây là lĩnh
vực bí mật an ninh quốc gia, việc hình thành và thực hiện chỉ thu hẹp ở cấp cao và trong một số
nhỏ ban ngành chuyên môn. Điều này không phù hợp với hoàn cảnh hiện nay, do những đặc
điểm như sau:
o Tình hình quốc tế ngày càng phức tạp và chuyển biến nhanh, việc nắm bắt đúng chuyển động
quốc tế không thể chỉ dựa vào một số nhân lực và tổ chức hạn hẹp, mà phải dựa vào cả một hệ
thống đông đảo các tổ chức và nhân lực nghiên cứu (các nước phát triển cao đều xây dựng
một nguồn lực hùng hậu cho việc này; gần đây Trung Quốc cũng tăng cường mạnh mẽ nguồn
lực nghiên cứu quốc tế).
o Đất nước không ở trong tình trạng chiến tranh mà đang ở trong thời kỳ hòa bình bình thường.
o Sự phổ biến của ngoại giao toàn diện, ngoại giao nhân dân (quan hệ kinh tế, văn hoá, di cư lao
động, du lịch, ...).
o Tầm quan trọng ngày càng tăng của nghiên cứu khoa học có hệ thống đối với mọi lĩnh vực
(kinh tế, quân sự, chính trị, công nghệ, văn hoá, xã hội).
7.4.2. MÔ HÌNH ĐẦU TƯ-TĂNG TRƯỞNG
Cần nghiên cứu điều chỉnh mô hình đầu tư-tăng trưởng vừa qua. Mô hình này còn có những
điểm trùng hợp với quan niệm và thực tiễn của mô hình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa kiểu
cũ. Đường lối kinh tế của một Đảng cần nêu lên được những nguyên tắc (nguyên lý) chính định
hình nền kinh tế. Mô hình đầu tư-tăng trưởng cần được điều chỉnh theo tính ưu tiên của vấn đề
kỷ nguyên dân số vàng và già hóa dân số (Xem Chương Ba). Sự phát triển và hiện đại hoá sẽ
chỉ đúng hướng khi công nghiệp hoá đạt được những đặc điểm sau: cân đối vùng (đô thị-nông
thôn, vùng địa lý), công nghiệp hoá phi tập trung và đô thị hoá phi tập trung, không tạo ra nền
kinh tế phân cách và nền kinh tế hai tầng.
7.4.3. ĐIỀU CHỈNH ĐỊNH CHẾ VÀ CHÍNH SÁCH
Hiện nay, nhu cầu điều chỉnh cả định chế và chính sách đều cấp bách. Tuy nhiên, trong hai vấn
đề đó cải cách định chế phải được đặt vào trọng tâm và làm trước, bởi vì nó là công cụ để thực
hiện chính sách. Chính sách mới sẽ không thể được thực hiện bởi định chế cũ. Nội dung của cải
cách định chế bao gồm: lãnh đạo, xây dựng năng lực, sắp xếp định chế (xác định các chủ thể;
chức năng nhiệm vụ; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, cũng như cơ chế tương tác qua lại của
các chủ thể).
7.4.4. QUAN HỆ NHÀ NƯỚC-XÃ HỘI
Phải xác lập vững chắc (tức là thể hiện được trong thực tế) quan điểm chủ thể trực tiếp và chủ
yếu của công nghiệp hoá và hiện đại hoá là người dân, tức khu vực dân doanh và tập thể. Nhà
nước chỉ làm nhiệm vụ tạo các cơ sở hạ tầng (môi trường kinh tế, pháp lý vĩ mô, đường sá, điện
106
lực, giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội, v.v.). Đây chính là một nội dung quan trọng của thay đổi
định chế.
7.4.5. PHÂN BỐ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỊA-KINH TẾ, ĐỊACHÍNH TRỊ
Chú trọng quy hoạch phân bố lực lượng sản xuất đáp ứng yêu cầu địa-kinh tế, địa-chính trị.
Việc phân bố các lực lượng sản xuất đã được chú ý trong những năm 1960-1970. Do khủng
hoảng kinh tế và buông lỏng quản lý tập trung những năm 1980, sự phân bố này bị xem nhẹ và
phá vỡ. Sau Đổi Mới, vấn đề này chưa được chú ý đúng mức. Kết quả là hiện nay tồn tại sự mất
cân bằng lớn trong phân bố lực lượng sản xuất (không chỉ cơ sở ngành nghề sản xuất mà bao
gồm cả toàn bộ nhân lực, cơ sở dịch vụ xã hội, phân bố đô thị, ...).
7.4.6. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
Tập trung vào thay đổi căn bản các điều kiện của thị trường lao động trong 5 khu vực: chính trịhành chính, doanh nghiệp nhà nước, giáo dục/đào tạo, khoa học/công nghệ, y tế. Trong vấn đề
này biện pháp đột phá là: tăng trách nhiệm cá nhân và tính tự chủ tổ chức bằng cách huỷ bỏ chế
độ biên chế suốt đời, áp dụng phổ biến hợp đồng lao động có thời hạn, dự tuyển và cạnh tranh
lao động. Thị trường lao động của 5 khu vực này cần được hình thành trên cả nước, xoá bỏ mọi
rào cản khiến nguồn nhân lực không di chuyển được dễ dàng giữa các tổ chức, các khu vực địa
lý. Đây là biện pháp đột phá chính cho cả ba hướng đột phá đã xác định (thể chế thị trường,
giáo dục/đào tạo, cải cách hành chính).
Văn kiện Đai hội Đảng toàn quốc lần thứ X nêu rõ "đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng
nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai, như thị trường lao động, ... thị trường khoa học và công
nghệ". Thời gian qua cho thấy quan điểm này chưa được thể hiện trong các hoạt động quản lý
và chỉ đạo. Xây dựng thị trường lao động chỉ được hiểu một cách thô thiển và hạn hẹp như là
các hoạt động tạo việc làm (dạy nghề, xúc tiến việc làm,...). Thực ra, thị trường lao động là nơi
thể hiện tổng hợp của thể chế, văn hoá (lòng tin, giá trị, quy tắc ứng xử), kết cấu giai tầng xã
hội.
7.4.7. CẤP TỈNH TRONG MẮT XÍCH QUẢN LÝ
Để có thể công nghiệp hoá và đô thị hoá theo kiểu phi tập trung, vai trò và năng lực cấp tỉnh
phải nâng lên. Các tỉnh cần hiểu rõ tầm quan trọng của thay đổi quan niệm và định chế trong
việc thu hút dòng vốn, công nghệ và nhân lực cao (trong kinh tế: nguyên lý thị trường nhiều
hơn, trong xã hội: nhiều pháp quyền hơn, nhiều dân chủ hơn, nhiều tôn trọng cá nhân hơn).
Nhìn từ góc độ cấp tỉnh, tình hình sẽ giống như vấn đề cạnh tranh giữa các quốc gia nhìn từ
toàn cầu. Mỗi tỉnh có những vị thế đã bị quy định trong hệ thống quốc gia: vị thế địa-kinh tế có
sẵn, trạng thái phát triển kinh tế và xã hội đã có. Yếu tố làm thay đổi vị thế và hoàn cảnh là môi
trường chính sách: nguồn vốn, nhân lực và ý tưởng sẽ chỉ chảy vào những nơi nào hứa hẹn lợi
nhuận, dân chủ, phát triển con người.
7.4.8. BA CẤP ĐỘ QUẢN LÝ XÃ HỘI
107
Sự phát triển tổng thể và dài hạn bao gồm những quá trình ở ba cấp độ: chiến lược (liên quan
đến định hướng và tầm nhìn lịch sử), biến đổi xã hội (những diễn tiến mang tính trung hạn), và
khủng hoảng tình huống. Ba cấp độ quá trình này liên hệ mật thiết với nhau, nhưng cũng có
tính độc lập tương đối. Tương đương với ba cấp độ biến đổi này là ba kiểu quản lý: quản lý
chiến lược, quản lý biến đổi xã hội và quản lý khủng hoảng.
Điều này đòi hỏi phải xây dựng các cơ chế riêng cho từng loại hình quản lý, đồng thời phải có
cơ chế phối hợp giữa chúng. Ba cơ chế quản lý liên quan mật thiết: chúng bổ sung và hỗ trợ cho
nhau, cũng có thể gây tổn thất cho nhau. Xác định chiến lược không chính xác sẽ tạo nên những
khó khăn lớn cho quản lý biến đổi và khủng hoảng, bởi quản lý chiến lược sai sẽ tạo nên những
kết cấu kinh tế chính trị và xã hội lệch lạc, thường xuyên đẻ ra những vấn đề của "biến đổi",
sớm muộn cũng tạo ra khủng hoảng.
Tuy nhiên, trong bối cảnh chiến lược đúng đắn và biến đổi diễn ra suôn sẻ, hệ thống vẫn có thể
nảy sinh khủng hoảng. Trong trường hợp đó, nếu quản lý khủng hoảng không hiệu quả sẽ dẫn
đến nguy cơ phá hỏng toàn bộ thành quả của quản lý chiến lược và quản lý biến đổi. Sự kiện
Thái Bình 1997, sự kiện Tây Nguyên 2001 và 2004, các cuộc đình công và khiếu kiện đất đai
tập thể trong những năm qua, đã cho những bài học quý giá về quản lý khủng hoảng, đưa ra
những gợi ý về quản lý biến đổi xã hội, nhưng có thể là chưa bộc lộ rõ chiều sâu của vấn đề để
rút ra được những gợi ý về quản lý chiến lược.
Bảng 7.1. Một sơ đồ khái niệm hoá các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển xã hội hiện nay
Môi
trường
quốc tế
Toàn cầu
hoá:
chính trị,
xã hội,
văn hoá,
kinh tế,
tư tưởng
Chiến
lược các
siêu
cường
Vùng
vấn đề cơ
bản
An ninh
quốc tế
Quốc tế hoá mọi mặt đời
sống
Năng động xã hội
An ninh
liên kết
quốc gia
Văn hoá
Cơ cấu giai tầng xã hội:
hình thành cơ cấu phân tầng
xã hội mới, động lực phát
triển.
Thể chế nhà nước và xã hội
dân sự
Thể chế kinh tế
Cấu trúc
xã hội
Biến
động
trong khu
vực
Các yếu tố tác động xã hội
Biến đổi
môi
trường và
khí hậu
toàn cầu
Tội phạm và lệch chuẩn
Giáo dục
Mạng an toàn xã hội
Vấn đề đô thị/nông thôn
Thống nhất/đa dạng quốc
gia/xã hội.
Thách thức/cơ hội
Ảnh hưởng ngày càng tăng của toàn cầu hoá về
mọi mặt. Sự phụ thuộc và can thiệp quốc tế tăng
lên.
Tăng số lượng các chủ thể xã hội, mở rộng cơ hội
lựa chọn, các hình thái kết hợp. Những phong trào
xã hội mới.
Sắp xếp cơ cấu các vị thế và vai trò của các giai
tầng. Những đòi hỏi chính trị, kinh tế, xã hội của
các giai tầng. Suy giảm hoặc phá vỡ liên kết xã
hội.
Sức lãnh đạo của Đảng. Quan hệ Đảng và nhà
nước. Sự nổi lên của xã hội dân sự đa dạng. Sự
tham gia ngày càng tăng của nhiều chủ thể xã hội.
Bình đẳng và sự chủ đạo của các thành phần kinh
tế. Hội nhập quốc tế. Phát triển công nghệ. Thị
trường lao động.
Bóp méo, làm suy giảm và phá huỷ thành quả phát
triển.
Giáo dục toàn dân. Đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hoá hiện đại hoá. Mẫu người sản phẩm của giáo
dục. Động lực khoa học công nghệ.
Mở rộng phạm vi bảo hiểm xã hội toàn dân. Bảo
hiểm y tế. Tổ chức bảo hiểm xã hội.
Đô thị phát triển thái quá. Cách biệt đô thị/nông
thôn. Di dân. Việc làm. Thu nhập.
Cách biệt dân tộc, tôn giáo, văn hoá, địa phương.
Ngôn ngữ. Sự tham gia xã hội.
108
Dân số tăng và biến đổi cơ
cấu dân số
Môi trường
Nguồn: Bùi Thế Cường.
Quy mô dân số quá lớn. Tăng nhanh nguồn lao
động. Già hoá dân cư sau 2010.
Suy kiệt tài nguyên môi trường. Quan hệ dân sốmôi trường. Biến đổi khí hậu toàn cầu.
109
KẾT LUẬN
Cuốn sách này góp phần trình bày những quan niệm liên quan đến quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và phát triển. Nêu lên 18 quan điểm lý luận, đồng thời cố gắng làm rõ rằng những
quan điểm ấy có mối liên quan mật thiết đến định hướng tư tưởng và sau đó đến việc triển khai
chính sách cụ thể. Tác giả cho rằng trong một sơ đồ diễn giải lý luận mà ta đang cần hôm nay,
có một điểm then chốt. Đó là nhìn sự phát triển của Việt Nam như là một bộ phận, biểu hiện cụ
thể của một quá trình lịch sử toàn cầu, trong đó cũng như Việt Nam, tất cả các nước đang trong
một sự quá độ ở mức độ khác nhau giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.
Công trình nghiên cứu này nhìn các vấn đề xã hội, hay các khía cạnh xã hội, của quá trình công
nghiệp hóa hiện đại hóa trong 4 chủ đề lớn: động lực dân số, văn hóa, kết cấu xã hội và phúc lợi
xã hội.
Trong lĩnh vực dân số, cuốn sách cố gắng làm rõ một điểm then chốt: Việt Nam đang bước vào
kỷ nguyên dân số vàng, một cơ hội lịch sử có một không hai cho phát triển nhanh. Và điều kiện
quan trọng nhất ở đây là khả năng đưa ra được hệ thống chính sách đúng đắn, có khả năng tận
dụng cơ hội lịch sử này. Chúng tôi cũng nhất trí với một số nghiên cứu khác về dân số, cho
rằng di dân về cơ bản là biểu hiện của những quá trình tích cực, và bản thân nó là một động lực
thúc đẩy phát triển. Chương Ba nêu lên thông điệp: cần nhận thức rõ và làm chủ được các động
lực của động thái dân số.
Cuốn sách dựa trên quan điểm xã hội học xem văn hóa và kết cấu xã hội là hai mặt không thể
tách rời của tổ chức xã hội. Chương Bốn hy vọng sẽ được người đọc chia sẻ quan điểm nhấn
mạnh thái độ văn hóa đối với hiện đại hóa. Đồng thời xem luật pháp là bộ phận quan trọng
nhất của văn hóa. Hệ quả của quan niệm này là tiêu điểm mang tính đột phá: tính hiện đại của
văn hóa và thượng tôn luật pháp.
Cuốn sách cố gắng nêu lên một bức tranh tóm lược về kết cấu xã hội: sự bất bình đẳng tăng dần
giữa các nhóm phân chia theo đô thị-nông thôn, tộc người, khu vực-nghề nghiệp trong việc sở
hữu và kiểm soát các tài nguyên kinh tế, tri thức và quyền lực. Chúng tôi cũng nêu lên một
mong ước: nhìn thấy một cam kết chính trị cao trong việc đảo ngược xu thế tăng bất bình đẳng
hiện nay kết hợp với điều chỉnh kết cấu giai cấp xã hội.
Một trụ cột của bất cứ xã hội hiện đại nào là hệ thống phúc lợi xã hội. Hệ thống này đã đóng vai
trò tương đối xuất sắc trong 25 năm Đổi Mới vừa qua góp phần vào tăng trưởng kinh tế, giảm
nghèo, ổn định chính trị-xã hội, phát triển con người. Nhưng người ta mong đợi ở nó nhiều hơn
nữa trong việc tạo nên một hệ thống phúc lợi toàn dân.
Cuối cùng, cuốn sách đề cập đến những vấn đề cơ bản ảnh hưởng đến biến đổi xã hội hiện nay
và những yếu tố gây mất ổn định tiềm tàng, với hy vọng đặt những bảng cảnh báo ở những
khúc ngoặt chính trên bản đồ mô tả thực địa cho các nhà vạch chính sách trên chuyến lữ hành
gian khó của họ.
Phạm Xanh nhìn lịch sử Việt Nam thế kỷ XX như một cuộn phim với sáu trường đoạn đầy ấn
tượng:
110
o Trường đoạn một: phong trào đổi mới tư duy của lớp nho sĩ yêu nước đầu thế kỷ. Do tác động
của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) và luồng gió tân văn tân thư đến từ
Trung Quốc và Nhật Bản, các bậc sĩ phu đầu thế kỷ XX đã có những thay đổi mạnh mẽ về tri
thức và tư duy. Phong trào Duy Tân và Phong trào Đông Kinh nghĩa thục thời kỳ 1906-1908
chính là những biểu hiện đỉnh cao của sự thay đổi ấy.
o Trường đoạn hai: giao thoa văn hoá Đông-Tây những năm 1920.
o Trường đoạn ba: cuộc đấu tranh xoay quanh nhiệm vụ giải phóng dân tộc khởi đầu từ năm
1925. Lần đầu tiên ở Việt Nam xuất hiện các đảng phái chính trị, khởi nghĩa Yên Bái của
Quốc dân đảng thất bại đồng thời Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời nắm lấy ngọn cờ chống
chủ nghĩa thực dân.
o Trường đoạn bốn: ba cuộc tập dượt dẫn đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 dựng nên Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đầu tiên ở khu vực thuộc địa.
o Trường đoạn năm: cuộc trường chinh 30 năm giành độc lập và thống nhất dân tộc.
o Và trường đoạn sáu: Đổi Mới tư duy lần nữa (Phạm Xanh, 2001).
Với mục tiêu năm 2020 về cơ bản Việt Nam trở thành một nước công nghiệp hiện đại, thì còn
rất ít thời gian để thế hệ hôm nay hoàn thành hành trình hơn một trăm năm hiện đại hóa đất
nước.
Nếu nói đến Đổi Mới như là giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại hóa thực sự, thì thời gian cũng
không còn nhiều: chúng ta đã sử dụng gần 70% trong thời lượng 35 năm mà bài toán phát triển
/ hiện đại hóa cho phép, trong khi khối lượng công việc còn ngổn ngang. Cần lưu ý rằng trong
một thời lượng mà thời đại đã ban tặng (hay đòi hỏi, cho phép?) cho các nước thuộc khu vực
châu Á-Thái Bình Dương để giải quyết xong “vấn đề công nghiệp hóa hiện đại hóa”, Việt Nam
hiện nay đang ở vào thời điểm tương tự xấp xỉ trước sau 1990 của Singapore, Hàn Quốc,
Malaysia, lãnh thổ Hong kong, lãnh thổ Đài Loan, Thái Lan. Vào khoảng thời đoạn ấy, các
nước và các lãnh thổ đó đã hoàn thành được những gì trên chuyến lữ hành của họ?
Để hoàn thành mục tiêu của chuyến lữ hành, người ta cần sự nỗ lực, dũng cảm và những tấm
bản đồ đúng đắn phù hợp với thực địa. "Từ lâu tôi đã có một niềm tin chắc chắn rằng đối với xã
hội học, điều quan trọng không phải là các sự kiện mà là bản đồ xã hội, tức là lý luận"
(Sztompka, 2003).
111
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.
20.
Ban chỉ đạo Tổng Điều tra Dân số và nhà ở Trung ương. 2000. Tổng Điều tra dân số và
nhà ở Việt Nam 1999. Kết quả điều tra mẫu. Hà Nội: Nhà xuất bản Thế giới.
Bélanger, Danièler. 1995. Cơ cấu gia đình và mô hình hình thành gia đình ở Việt Nam
trong những năm đầu thập kỷ 1990.
Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường / Ngân hàng Thế giới (VIE/89/034). 1994. Dự án
Quy hoạch Tổng thể Đồng bằng sông Hồng: Báo cáo Khởi đầu.
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. 2003. Toạ đàm "Hệ thống an sinh xã hội Việt Nam.
Hà Nội: Khách sạn Thắng Lợi. 1/4/2003.
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Cơ quan Hợp tác Kỹ thuật Đức (GTZ). 2009.
Hội thảo khởi động "Xây dựng chiến lược an sinh xã hội Giai đoạn 2011-2020. Ninh
Thuận ngày 4-5/8/2009.
Bộ Ngoại giao. 1995. Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc
gia.
Bộ Y tế và Tổng cục thống kê. 2003. Báo cáo kết quả Điều tra y tế quốc gia 2001-2002.
Hà Nội.
Buchholz, Todd G. 2007. Ý tưởng mới từ các kinh tế gia tiền bối. Hà Nội: Nhà xuất bản
Tri thức.
Bùi Quang Dũng. 2004. Nhập môn lịch sử xã hội học. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã
hội.
Bùi Thế Cường. 1999. Phúc lợi xã hội Việt Nam trong những năm 90. Tạp chí Xã hội học,
số 3&4.1999.
Bùi Thế Cường. 2001. Già hoá dân số Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối với chính
sách người cao tuổi. Tạp chí Xã hội học. Số 1.2001.
Bùi Thế Cường. 2001. Bầu cử Hội đồng nhân dân ở làng xã miền Bắc: Từ một đánh giá
nhanh nông thôn. Tạp chí Xã hội học. Số 3/2001.
Bùi Thế Cường. 2001. Chính sách xã hội và công tác xã hội ở Việt Nam thập niên 90. Hà
Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
Bùi Thế Cường (Chủ biên). 2002. Phúc lợi xã hội châu Á-Thái Bình Dương. Phúc lợi
doanh nghiệp. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
Bùi Thế Cường. 2003a. Nghiên cứu xã hội trong thời kỳ Đổi Mới: Thử nhìn lại và hướng
đến 2010. Hà Nội, 10/5/2003.
Bùi Thế Cường (Chủ biên). 2003b. Phúc lợi xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ Đổi Mới:
Hiện trạng, vấn đề và điều chỉnh. Báo cáo tổng quan đề tài cấp Bộ "Phúc lợi xã hội ở Việt
Nam: Hiện trạng và xu hướng". Hà Nội: Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
Bùi Thế Cường (Chủ biên). 2003c. HIV/AIDS ở nơi làm việc: hiểu biết, chính sách và vai
trò của phúc lợi doanh nghiệp. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
Bùi Thế Cường. 2003d. Nỗ lực tập thể và phong trào xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hoá và hiện đại hoá: Một khởi thảo nghiên cứu. Tạp chí Xã hội học. Số
1/2003.
Bùi Thế Cường. 2003e. Đến với các lý thuyết xã hội học hiện đại: Quan điểm tiến hoá.
Trong: Tạp chí xã hội học. Số 4.2003. Hà Nội.
Bùi Thế Cường. 2004. Cơ hội dân số và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Trong: Tạp chí
Hoạt động khoa học. Hà Nội: Bộ Khoa học và công nghệ. Số 9(544)/2004.
112
21. Bùi Thế Cường. 2005. Trong Miền an sinh xã hội. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia.
22. Bùi Thế Cường. 2006. Randall Collins: Xã hội học về Đấng tối cao. Tạp chí Khoa học xã
hội. Số 3&4 (91-92)/2006.
23. Bùi Thế Cường. 2006. Phân tích chức năng trong nghiên cứu xã hội. Tạp chí Khoa học xã
hội. Số 5(93)/2006.
24. Bùi Thế Cường và Đỗ Minh Khuê. 2006. Một lịch sử ngắn về quan niệm phát triển. Tạp
chí Khoa học xã hội. Số 10(98)/2006.
25. Bùi Thế Cường. 2006. Các lý thuyết về hành động xã hội. Tạp chí Khoa học xã hội. Số
6(94)/2006.
26. Bùi Thế Cường, Nguyễn Quang Vinh, và Joerg Wischermann. 2001. Các tổ chức xã hội
Việt Nam: Một nghiên cứu ở Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
27. Dapice, David. 2006. Những thách thức của sự phát triển nhanh và bền vững ở Việt Nam.
Hội thảo bàn tròn cấp cao lần thứ tư Dự án Hỗ trợ Tổng kết 20 năm Đổi Mới ở Việt Nam.
Khách sạn Melia 15-16/6/2006.
28. Darity Jr., William A. 2008. Xã hội dân sự. Lương Nguyễn dịch. Talawas 491. 7/9/2008.
29. Diễn đàn Phát triển GRIPS. 2003. Gắn tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo. Cơ sở hạ tầng
quy mô lớn trong bối cảnh Chiến lược toàn diện về Tăng trưởng và Xóa đói giảm nghèo ở
Việt Nam.
30. Dương Trung Quốc. 2004. Đừng ngồi trong nhà và đóng tất cả cánh cửa lại. VietnamNet
14/5/2004.
31. Đặng Kim Sơn. 2001. Công nghiệp hoá từ nông nghiệp. Lý luận Thực tiễn và Triển vọng
áp dụng ở Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Nông nghiệp.
32. Đặng Nghiêm Vạn. 2001. Dân tộc Văn hoá Tôn giáo. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Xã
hội.
33. Đặng Ngọc Dinh. 2006. Xã hội dân sự - Bản chất, cấu trúc và xu hướng phát triển ở Việt
Nam. Tạp chí Khoa học xã hội. Số 12(100)/2006.
34. Đặng Nguyên Anh. 1998. Vai trò của mạng lưới xã hội trong quá trình di cư. Trong: Tạp
chí xã hội học. Số 2.1998. Hà Nội.
35. Đặng Nguyên Anh. 2004. Hiện trạng và chính sách dân số trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa hiện đại hóa. Báo cáo chuyên đề Đề tài KX.02.10. Hà Nội: Viện Khoa học Xã
hội Việt Nam.
36. Đặng Nguyên Anh. 2009. Di cư và phát triển ở Việt Nam: Những vấn đề nổi bật cần xem
xét về chính sách. Trong: Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Liên hợp quốc. 2009. Hội
thảo khoa học “Di dân, phát triển và giảm nghèo”. Hà Nội: 5-6/10/2009.
37. Đặng Thu, 1996. Một số vấn đề về dân số Việt Nam. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Xã
hội.
38. Đinh Văn Ân (Chủ biên). 2005. Quan niệm và thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội tốc độ
nhanh, bền vững chất lượng cao ở Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê.
39. Đinh Văn Ân và Hoàng Thu Hòa (Đồng Chủ biên). 2006. Đổi mới cung ứng dịch vụ công
ở Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê.
40. Đinh Văn Ân và Lê Xuân Bá. 2006. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ
thuật.
41. Đinh Xuân Lâm và Phạm Hồng Tung. Khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam: Thử
nhận diện một vài tồn tại và thách thức dưới góc nhìn lịch sử và phương pháp luận. Tạp
chí Khoa học xã hội. Số 10(86)/2005.
113
42. Downs, Robert B. 2003. Những tác phẩm biến đổi thế giới. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao
động. Trang 181-280.
43. Đỗ Hoài Nam và Võ Đại Lược (Chủ biên). 2005. Một số vấn đề phát triển kinh tế của Việt
Nam hiện nay. Hà Nội: Nhà xuất bản Thế Giới.
44. Đỗ Lai Thúy. 2006 (In lần thứ hai). Chân trời có người bay. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn
hóa-Thông tin.
45. Đỗ Minh Cương (Chủ biên). 1994. Những luận cứ khoa học để đổi mới bảo hiểm xã hội
đối với người lao động trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Hà Nội.
46. Đỗ Minh Khuê. 2004. Những vấn đề xã hội của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa:
Trường hợp Hà Nội. Báo cáo chuyên đề Đề tài KX.02.10. Hà Nội: Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam.
47. Đỗ Thiên Kính. 2002. Tìm hiểu phân tầng xã hội trong lịch sử và áp dụng vào nghiên cứu
phân hoá giàu nghèo ở nước ta hiện nay. Trong: Tạp chí xã hội học. Số 1.2002. Hà Nội.
48. Đỗ Thiên Kính. 2004. Phân tầng xã hội và di động xã hội. Báo cáo chuyên đề Đề tài
KX.02.10. Hà Nội: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
49. Đỗ Thiên Kính. 2006. Công nghiệp hóa, phân tầng xã hội và đo lường di động xã hội liên
thế hệ. Tạp chí Khoa học xã hội. Số 11(99)/2006.
50. Drucker, Peter. 1998. Hậu chủ nghĩa tư bản. Trong: Tạp chí xã hội học. Số 4.1998. Hà
Nội.
51. Friedman, Thomas L. 2005. Chiếc Lexus và cây Ôliu: Tìm hiểu kỷ nguyên toàn cầu hóa.
Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
52. Ghesquiere, Henri. 2008. Bài học thành công của Singapore. Singapore: Cengage
Learning Asia Pte Ltd. Người dịch: Phạm Văn Nga-Phạm Hồng Đức.
53. Giang Thanh Long và Dương Kim Hồng (Chủ biên). 2007. Các vấn đề xã hội trong quá
trình chuyển đổi và hội nhập kinh tế ở Việt Nam. Tập 1. Diễn đàn Phát triển Việt Nam
(VDF).
54. Hà Dịu. 2008. TPHCM: Công nhân rùng rùng bỏ việc về quê. VietnamNet 22/2/2008.
55. Hirschman, Charles và Vũ Mạnh Lợi. 1994. Gia đình và cấu trúc hộ gia đình ở Việt Nam.
Tạp chí Xã hội học. Hà Nội. Số 3/1994.
56. Hoàng Chí Bảo. 2005. Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay. Hà Nội:
Nhà xuất bản Lý luận Chính trị.
57. Hoàng Tụy. 2008. Kiểu làm không giống ai là cách tụt hậu nhanh nhất. VietNamNet.
15/9/2008. Bảo Anh (thực hiện phỏng vấn).
58. Holzmann, Robert. 2003. Quản lý rủi ro xã hội: Cơ sở lý luận xây dựng hệ thống bảo đảm
xã hội. Trong: Palier, Bruno và Louis-Charles Viossat. 2003. Chính sách xã hội và quá
trình toàn cầu hóa. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Trang 41-72.
59. Houtart, Francois. 2007. Đấu tranh chống đói nghèo theo cách của chủ nghĩa tự do mới.
Tạp chí Xã hội học. Hà Nội. Số 1(97)/2007.
60. Huntington, Samuel. 2003. Sự va chạm của các nền văn minh. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao
động.
61. Iwai Misaki và Bùi Thế Cường (Chủ biên). 2010. Kỷ yếu tọa đàm Di dân ở Việt Nam
trong thời kỳ hiện đại hóa, công nghiệp hóa. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
62. Kleinen, John. 2007. Làng Việt đối diện tương lai hồi sinh quá khứ. Đà Nẵng: Nhà xuất
bản Đà Nẵng.
63. Lê Đăng Doanh. 2001. Đổi Mới và sự phát triển con người ở Việt Nam. Thời đại. Tạp chí
nghiên cứu & thảo luận. Số 5.2001. Paris, Pháp. Trang 30-40.
64. Lê Hữu Tầng (Chủ biên). 1997. Về động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội. Hà Nội: Nhà
xuất bản Khoa học xã hội.
114
65. Lê Thanh Sang, 2009. Biến đổi khí hậu và sự quan tâm của người dân Đồng bằng sông
Cửu Long. Tạp chí Khoa học xã hội học. Thành phố Hồ Chí Minh: Viện Phát triển bền
vững vùng Nam Bộ. Số 9/2009.
66. Lê Thanh Sang, Huỳnh Thị Ngọc Tuyết, Nguyễn Thị Minh Châu, Nguyễn Lan Hương,
Trần Minh Út. 2009. Quan hệ lao động và tranh chấp lao động, đình công. Thành phố Hồ
Chí Minh: Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (Đang xuất bản).
67. Lê Văn Dụy. 1991. Dự tính dân số Việt Nam đến năm 2014. Thông tin Dân số. Số 6/1991.
68. Lê Văn Dụy và Phan Thị Ngọc Trâm. 1997. Cấu trúc dân số và cơ cấu hộ gia đình. Hà
Nội: Nhà xuất bản Thống kê.
69. Lê Xuân Bá và Nguyễn Thị Tuệ Anh. 2006. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 15 năm (19912005) từ góc độ phân tích đóng góp của các nhân tố sản xuất. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa
học và Kỹ thuật.
70. Letourmy, Alain. 2003. Quản lý phi tập trung đối với hệ thống bảo hiểm xã hội và cơ chế
huy động sự tham gia của người dân vào việc quản lý bảo hiểm xã hội. Một mô hình phù
hợp với các nước có thu nhập thấp. Trong: Khoá họp lần thứ tư Diễn đàn kinh tế-tài chính
Việt-Pháp "Vì một xã hội và sự tăng trưởng công bằng". Thành phố Hồ Chí Minh, 1011/9/2003.
71. Lục Học Nghệ (Chủ biên). 2004. Báo cáo nghiên cứu giai tầng xã hội Trung Quốc đương
đại. Hà Nội: Viện Nghiên cứu Trung Quốc.
72. Lương Văn Hy (Chủ biên). 2000. Ngôn từ, giới và nhóm xã hội. Từ thực tiễn tiếng Việt.
Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
73. Lưu Hồng Minh. 2005. Kết cấu giai tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay. Báo cáo chuyên đề
Đề tài KX.02.10. Hà Nội: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
74. Mai Huy Bích. 2002. Một số vấn đề xã hội học tri thức đặt ra từ "Đông phương học" của
E.W. Said. Trong: Tạp chí xã hội học. Số 2.2002. Hà Nội.
75. Mai Văn Hai. 2002. Biểu tượng và văn hoá biểu tượng trong tư duy xã hội học. Trong:
Tạp chí xã hội học. Số 2.2002. Hà Nội.
76. Martinelli, Alberto. 2002. Thế giới bước vào thế kỷ XXI và những vấn đề của xã hội học.
Trong: Tạp chí xã hội học. Số 3.2002. Hà Nội.
77. Marx, Carl. 1961. Đấu tranh giai cấp ở Pháp. Hà Nội: Nhà xuất bản Sự Thật.
78. Marx, Carl và Friedrich Engels. 1976. Một số thư về chủ nghĩa duy vật lịch sử. Hà Nội:
Nhà xuất bản Sự Thật.
79. Marx, Carl, Friedrich Engels, và Vladimir I. Lenin. 1963. Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Hà
Nội: Nhà xuất bản Sự Thật.
80. Nguyễn Đức Chiện. 2006. Các khuôn mẫu xã hội mới và khả năng tham gia tiếp nhận của
các nhóm xã hội ở một làng Việt cổ truyền châu thổ sông Hồng sau hai mươi năm Đổi
Mới. Chuyên đề KX.02.10.
81. Nguyễn Đức Truyến. 2002. Những vấn đề xã hội học của các phong trào xã hội qua sự
kiện Thái Bình 1996-1997. Trong: Bùi Thế Cường và cộng sự. 2002. Phong trào xã hội
trong thời kỳ Đổi Mới: Một nghiên cứu bước đầu. Viện Xã hội học. Phòng Phúc lợi xã
hội. Báo cáo đề tài tiềm lực năm 2002.
82. Nguyễn Đức Truyến. 2003. Công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nông thôn. Báo cáo chuyên
đề Đề tài KX.02.10. Hà Nội: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam..
83. Nguyễn Hải Hữu. 2006. Phát triển Hệ thống an sinh xã hội hiện đại phù hợp với nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tạp chí Xã hội học. Hà Nội. Số 1(93)/2006.
84. Nguyễn Hải Hữu. 2007. Công bằng xã hội với chính sách bảo trợ xã hội trong mối quan
hệ với tăng trưởng kinh tế. Tạp chí Xã hội học. Hà Nội. Số 1(97)/2007.
115
85. Nguyễn Hiến Lê. 2001. Hồi ký Nguyễn Hiến Lê. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản
Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
86. Nguyễn Hữu Dũng. 2002. Khía cạnh thể chế, xã hội và văn hoá của thị trường lao động.
Báo cáo chuyên đề Đề tài KX.02.10. Hà Nội: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
87. Nguyễn Khắc Mai. 1996. Vị trí, vai trò các hiệp hội quần chúng ở nước ta. Hà Nội: Nhà
xuất bản Lao động.
88. Nguyễn Phương Quỳnh Trang, Jonathan S., et al. 2002. Hiệp hội kinh doanh ở Việt Nam:
Hiện trạng, vai trò và hoạt động (Thảo luận về khu vực tư nhân No.13). Hà Nội: MPDF
và Asia Foundation.
89. Nguyễn Thanh Liêm. 2009. Di dân thanh niên và biến đổi xã hội ở Việt Nam. Viện Khoa
học xã hội Việt Nam và Liên hợp quốc. 2009. Hội thảo khoa học “Di dân, phát triển và
giảm nghèo”. Hà Nội: 5-6/10/2009.
90. Nguyễn Thị Hằng. 2005. Bảo hiểm xã hội phải đến với người lao động. Báo điện tử Thời
báo Kinh tế Việt Nam 13/6/2005. (Trả lời phỏng vấn).
91. Nguyễn Thị Oanh. 1978. Công tác xã hội ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Bài
không xuất bản.
92. Nguyễn Văn Nam và Trần Thọ Đạt. 2006. Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân.
93. Nguyễn Văn Thanh. 1998. Nhìn nhận lại vai trò của các tổ chức phi Chính phủ nước
ngoài ở Việt Nam. Tạp Chí Cộng Sản. Số 7 (9-1998).
94. Nguyễn Văn Thường và Nguyễn Kế Tuấn (Chủ biên). 2006. Kinh tế Việt Nam năm 2005
Trước ngưỡng cửa của Tổ chức Thương mại Thế giới. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học
Kinh tế Quốc dân.
95. Nguyễn Văn Xuân. 2000. Phong trào Duy Tân. Đà Nẵng: Nhà xuất bản Đà Nẵng.
96. Nguyễn Viết Vượng. 1994. Các đoàn thể nhân dân trong kinh tế thị trường. Hà Nội: Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia.
97. Nguyễn Việt Cường, Marrit Van den Berg, Robert Lensink. 2009. Tác động của di dân
đến phúc lợi, nghèo đói và bất bình đẳng ở cấp độ hộ gia đình: Những bằng chứng mới ở
Việt Nam. Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Liên hợp quốc. 2009. Hội thảo khoa học
“Di dân, phát triển và giảm nghèo”. Hà Nội: 5-6/10/2009.
98. Nguyễn Xuân Sanh. 2004. Nước Đức thế kỷ thứ XIX. Những thành tựu khoa học và kỹ
thuật. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
99. Nhà xuất bản Trẻ. 2006. Thời cơ Vàng của chúng ta: Tuyển tập những bài viết và ý kiến về
vận hội mới của đất nước đã đăng trên báo điện tử VietNamNet. Thành phố Hồ Chí Minh:
Nhà xuất bản Trẻ.
100. Nhà xuất bản Tri thức. 2006. Tranh luận và đồng thuận: Tuyển chọn các bài viết góp ý
kiến cho Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng X. Hà Nội: Nhà xuất bản Tri thức.
101. Nolan, Peter. 2005. Trung Quốc trước ngã ba đường. Dịch: Trần Thị Thái Hà. Hà Nội:
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
102. Ohno, Kenichi (Chủ biên). 2006. Hoạch định chính sách công nghiệp ở Thái Lan,
Malaysia và Nhật Bản. Bài học kinh nghiệm cho các nhà hoạch định chính sách Việt Nam.
Diễn đàn Phát triển Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao động Xã hội.
103. Ohno, Kenichi và Nguyễn Văn Thường (Chủ biên). 2005. Hoàn thiện chiến lược phát
triển công nghiệp Việt Nam. Diễn đàn Phát triển Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Lý luận
Chính trị.
104. Ohno, Kenichi và Nguyễn Văn Thường (Chủ biên). 2005. Môi trường cà chính sách kinh
doanh của Hà Nội. Diễn đàn Phát triển Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao động Xã hội.
116
105. Palier, Bruno và Louis-Charles Viossat. 2003. Chính sách xã hội và quá trình toàn cầu
hóa. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
106. Passeron, Jean-Claud. Lý luận xã hội học. Hà Nội: Nhà xuất bản Thế Giới.
107. Phạm Đỗ Nhật Tân. 2007. Công bằng xã hội trong chính sách bảo hiểm xã hội. Tạp chí
Xã hội học. Hà Nội. Số 1(97)/2007.
108. Phạm Xanh. 2001. Ngoảnh nhìn Thế kỷ 20. Diễn đàn Doanh nghiệp. Số Xuân Canh Thìn.
109. Phan Đại Doãn. 1995. Nhà nước và xã hội - từ thực tế nông thôn hiện nay. Trong: Tạp chí
xã hội học. Số 3.1995. Hà Nội.
110. Phan Ngọc. 1998. Bản sắc văn hoá Việt Nam. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội.
111. Phan Xuân Sơn. 2003. Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay.
Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
112. Phùng Thị Huệ. 2004. Những vấn đề xã hội bức xúc trong nông thôn Trung Quốc thời kỳ
cải cách mở cửa: Thực trạng và giải pháp. Báo cáo Đề tài cấp Bộ. Hà Nội: Viện Nghiên
cứu Trung Quốc.
113. Pressman, Steven. 2003. 50 Nhà kinh tế tiêu biểu. Hà Nội: Nhà xuất bản lao động. Nguyên
bản: Pressman, Steven. 1999. Fifty Major Economists. London: Routledge.
114. Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam. 11/2007. Một số bài phát biểu của Samir Amin. Hà
Nội.
115. Soto, Hernando de. 2003. Bí ẩn của vốn. Vì sao chủ nghĩa tư bản thành công ở phương
Tây và thất bại ở mọi nơi khác. Hà Nội: Chương trình KX.02/2001-2005.
116. Sztompka, Piotr. 2003. Xã hội học và đời sống hàng ngày của những con người bình
thường. Trong: Tạp chí xã hội học. Số 1(81)/2003. Hà Nội.
117. Thang Văn Phúc (Chủ biên). 2002. Vai trò của các Hội trong Đổi Mới và phát triển đất
nước. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
118. Thanh Thảo. Lợi thế nhân công giá rẻ. Báo Thanh Niên 3/9/2007.
119. Thông tấn xã Việt Nam. Tạp chí Chính sách đối ngoại Mỹ và một số dự báo. Trong: Tài
liệu Tham khảo Đặc biệt. Số 227-TTX. Ngày 1/10/2005.
120. Tiêu Phong. 2004. Hai chủ nghĩa một trăm năm. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia.
121. Tô Duy Hợp. 2004. Một vài khía cạnh xã hội của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa
ở một tỉnh miền Trung: Trường hợp tỉnh Quảng Ngãi. Báo cáo chuyên đề Đề tài
KX.02.10. Hà Nội: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
122. Tô Duy Hợp và Nguyễn Thị Minh Phương. 2007. An sinh xã hội ở khu vực nông thôn Nghiên cứu trường hợp một xã ngoại thành Hà Nội. Tạp chí Xã hội học. Hà Nội. Số
1(97)/2007.
123. Tô Huy Rứa và Hoàng Chí Bảo (Chủ biên). 2006. Quá trình Đổi mới tư duy lý luận của
Đảng từ 1986 đến nay. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
124. Tổng cục thống kê/Dự án VIE/97/P14. 2001. Kết quả dự báo dân số cho cả nước, các
vùng địa lý-kinh tế và 61 tỉnh/thành phố. Việt Nam, 1999-2024. Hà Nội: Nhà xuất bản
Thống kê.
125. Tổng cục Thống kê và UNFPA. 2006. Điều tra di cư Việt Nam năm 2004: Chất lượng
cuộc sống của người di cư ở Việt Nam. Hà Nội.
126. Trần Đình Thiên. 2005. Tiềm năng cho tăng trưởng. VietnamNet, 1/9/2005.
127. Trần Hữu Quang. 2004. Những vấn đề xã hội của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa:
Trường hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Báo cáo chuyên đề Đề tài KX.02.10. Hà Nội: Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam.
128. Trần Hữu Quang. 2007. Đồng tiền và xã hội Việt Nam ngày nay. Thời Đại Mới. Tạp chí
Nghiên cứu & Thảo luận. Số 10 (Tháng 3/2007).
117
129. Trần Hữu Quang. 2009. Hệ thống phúc lợi ở Thành phố Hồ Chí Minh với mục tiêu tiến bộ
và công bằng xã hội. Thành phố Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ
Chí Minh.
130. Trần Minh Vỹ (Sưu tầm tuyển chọn). 2002. Một số quy định pháp luật về quản lý, tổ chức,
hoạt động của các hội, đoàn thể xã hội. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao động.
131. Trần Ngọc Thêm. 1997. Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà
xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.
132. Trần Quốc Vượng (Chủ biên). 1998. Cơ sở văn hoá Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo
dục.
133. Trần Từ. 1996. Góp phần nghiên cứu văn hoá và tộc người. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa
học Xã hội.
134. Trần Văn Thọ. 1997. Công nghiệp hoá Việt Nam trong Thời đại châu Á-Thái Bình Dương.
Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.
135. Trần Văn Thọ. 2003. Chiến lược công nghiệp hóa nông thôn Việt Nam: Phương pháp luận
và thực tiễn miền Trung. Thời Đại. Tạp chí Nghiên cứu & Thảo luận. Số 8/2003: 60-81.
136. Trịnh Duy Luân (Chủ biên). 2002. Phát triển xã hội ở Việt Nam. Một tổng quan xã hội
học năm 2000. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
137. Trung tâm mác-xít Pháp. 1975. Bàn về các xã hội tiền tư bản. Những đoạn tuyển chọn của
Mác, Ăng-ghen, Lê Nin. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
138. Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường Đại học Quốc gia Hà Nội. 2002. Phát
triển bền vững miền núi Việt Nam: 10 năm nhìn lại và những vấn đề đặt ra. Hà Nội.
139. Trường Đại học Công đoàn Việt Nam. 2002. Kỷ yếu Hội thảo khoa học. Giai cấp công
nhân và Công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hà Nội:
Công ty in Công đoàn.
140. Tương Lai. 1995. Khảo sát xã hội học về phân tầng xã hội - cơ sở lý luận và phương pháp
luận. Trong: Tạp chí xã hội học. Số 3.1995. Hà Nội.
141. Vasavakul, Thaveeporn. 2006. Đổi mới hệ thống chính trị: Kinh nghiệm Việt Nam trên
quan điểm so sánh (1986-2002). Hội thảo bàn tròn cấp cao lần thứ tư Dự án Hỗ trợ Tổng
kết 20 năm Đổi Mới ở Việt Nam. Khách sạn Melia 15-16/6/2006.
142. Viện Khoa học Lao động và Xã hội. 2009. Tình hình thực hiện chính sách an sinh xã hội
giai đoạn 2001-2010. Trong: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Cơ quan Hợp tác
Kỹ thuật Đức (GTZ). 2009. Hội thảo khởi động "Xây dựng chiến lược an sinh xã hội Giai
đoạn 2011-2020. Ninh Thuận ngày 4-5/8/2009.
143. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. 2007. Báo cáo cập nhật nghèo 2006. Nghèo và giảm
nghèo ở Việt Nam giai đoạn 1993-2004. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
144. Viện Xã hội học. 1993. Tạp chí Xã hội học. Số 1.1993. Chuyên đề về công tác xã hội. Hà
Nội: Viện Xã hội học.
145. Viện Xã hội học. 2009. Tác động của di dân trong nước đến hộ gia đình ở lại quê hương.
Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Liên hợp quốc. 2009. Hội thảo khoa học “Di dân,
phát triển và giảm nghèo”. Hà Nội: 5-6/10/2009.
146. VnExpress. 50 phụ nữ giàu nhất trên TTCK 2007. VnExpress 25/1/2008.
147. Vũ Mạnh Lợi. 1999. Sinh thái học xã hội-lịch sử và những vấn đề đương đại. Trong: Tạp
chí xã hội học. Số 1.1999. Hà Nội.
148. Vũ Quang Việt. 2002. Toàn cầu hóa, giao lưu tri thức và bản sắc dân tộc. Thời Đại. Tạp
chí Nghiên cứu & Thảo luận. Số 7/2002: 23-48.
149. Vũ Tuấn Huy. 2005. Biến đổi gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt
Nam. Báo cáo chuyên đề Đề tài KX.02.10. Hà Nội: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
118
150. Vương Trí Nhàn. 2006. Một cách nhìn mới về văn hóa Việt Nam thông qua việc so sánh
với văn hóa Nhật Bản. Nhân đọc `Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hóa` của Vĩnh Sính.
Thời Đại Mới. Tạp chí Nghiên cứu & Thảo luận. Số 8 (Tháng 7/2006).
151. Vương Trí Nhàn. 2007. Vương Trí Nhàn: Dân tộc Việt là khối tự phát khổng lồ.
VietnamNet 20/10/2007.
152. Walder, Andrew G. Một vài suy nghĩ về Việt Nam và nền học thuật thế giới. Tạp chí Văn
hóa Dân gian. Số 4(112)/2007. Hà Nội: Viện Nghiên cứu Văn hóa. Trang 48-56.
153. Wells-Dang, Andrew. 2006. Những động lực của sự thay đổi xã hội ở Việt Nam. Hội thảo
bàn tròn cấp cao lần thứ tư Dự án Hỗ trợ Tổng kết 20 năm Đổi Mới ở Việt Nam. Khách
sạn Melia 15-16/6/2006.
154. Wischermann, Joerg, Bùi Thế Cường, Nguyễn Quang Vinh. 2002. Quan hệ giữa các tổ
chức xã hội và cơ quan Nhà nước ở Việt Nam - Những kết quả chọn lọc của một cuộc
khảo sát thực nghiệm ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Tiếng nước ngoài
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
Asian Development Bank. 1997. Emerging Asia: Changes and Challenges. Manila: ADB.
Bach Tan Sinh. 2001. Civil Society and NGOs in Vietnam: Some Initial Thoughts on
Developments and Obstacles. Ha Noi.
Bailey,Gordon and Noga Gayle. 2003. Social Theory. Essensial Readings. Ontario:
Oxford University Press.
Bell, Daniel. 1973. The Comming of Post-Industrial Society. New York: Basic Books.
Bell, Daniel. 2000. The End of Ideology. On the Exhaustion of Political Ideas in the
Fifties. Cambridge and London: Harvard University Press.
Bilton, Tony et al. 2002. Introductory Sociology. 1981, 1987, 1996, 2002 ed. Hampshire
and New York: Palgrave Macmillan.
Bloom, David E. and Jeffrey G. Williamson. 1997. Demographic Transitions and
Economic Miracles in Emerging Asia. Working Paper 6268. Cambridge, M.A. NBER.
http://www.nber.org/papers/w6268. Cũng in trong: World Bank Economic Review. 1998.
No. 12. 419-456.
Bloom, David E., David Canning, and Jaypee Sevilla. 2001a. The Effect of Health on
Economic Growth: Theory and Evidence. Working Paper 8587.Cambridge, MA. NBER
Working Paper Series. http://www.nber.org/papers/w8587.
Bloom, David E., David Canning, and Jaypee Sevilla. 2001b. Economic Growth and the
Demographic Transition. Working Paper 8685. Cambridge, MA. NBER Working Paper
Series. http://www.nber.org/papers/w8685.
Bloom, David E., David Canning, A.K. nandakumar, Jaypee Sevilla, Kinga Huzarski,
David Levy, and Manjiri Bhawalkar. 2001c. Demographic Transition and Economic
Opportunity: The Case of Jordan. Bethesda, Maryland: The Partners for Health
Reformplus Project, Abt Associates Inc. Order No. TE011.
Bloom, David E., David Canning, and Jaypee Sevilla. 2003. The Demographic Dividend.
A New Perspective on the Economic Consequence of Population Change. Santa Monica:
Rand.
Bottomore, Tom B. 1963. Sociology: A Guide to Problems and Literature. Englewood
Cliffs: Prentice-Hall.
Central Census Steering Committee. 2000. Population and Housing Census Viet Nam
1999. Sample Results. Ha Noi: The Gioi Publishers.
119
14. Cheal, David. 2005. Dimensions of Sociological Theory. Hampshire and New York:
Palgrave Macmillan.
15. Churton, Mel. 2000. Theory and Method.Macmillan Press.
16. Collins, Randall. 1992. Sociological Insight. An Introduction to Non-Obvious Sociology.
1982, 1992 ed. New York/Oxford: Oxford University Press.
17. Collins, Randall. 1994. Four Sociological Traditions. New York/Oxford: Oxford
University Press.
18. COSA. 1998. Policies for Spontaneous Migration. Conference Proceedings. Ho Chi Minh
City, July 1998.
19. COSA. 2002. People-elected Delegates with Policy to Eliminate All Forms of Violence
Against Women. National Workshop Proceedings of the the National Assembly's
Committee for Social Affairs. Ha Noi, 1-2 Feb 2002.
20. COSA. 2003. Some Critical Problems in Employment and Vocational Training. Report
No. 482TT/UBXH to the National Assembly’s Standing Committee. Ha Noi, 20 Oct 2003.
21. Crotty, Michael. 1998. The Foundations of Social Research. Meaning and perspective in
the research process. London: SAGE Publications.
22. Cuff, E. C., W.W.Sharrock, and D.W.Francis. 2003. Perspectives in Sociology. Vol. 1st:
1979, 3rd: 1990, 1992, 1993, 1994, 4th: 1998, 2003. London: Routledge.
23. Dahrendorf, Ralf. 1959. Class and Class Conflict in Industrial Society. Stanford: Stanford
University Press.
24. Dang Nguyen Anh. 1998. The Role of Social Networks in the Process of Migration. In:
Population Council (ed.) Proceedings. International Seminar on Internal Migration:
Implications for Migration Policy in Viet Nam. Population Council Ha Noi.
25. Dang Nguyen Anh. 1999. Market Reforms and Internal Labour Migration. Asian and
Pacific Migration Journal. 8(3): 381-409.
26. Dang Nguyen Anh, C. Tacoli and H. X. Thanh. 2002. Migration in Vietnam: A review of
information on current trends and patterns, and their policy implications. Research Paper.
RMMRU and DFID: Dahka.
27. Dang Nguyen Anh. 2004. Stay on the Farm, Weave in the Village, Leave the Home. Ha
Noi: The Gioi Publisher.
28. Do, V. H. 2000 “Situation of spontaneous migration and suggested solutions for the
upcoming time”, Paper presented at the National Conference on Population Policy,
Reproductive Health and Development in Viet Nam, Committee for Social Affair of the
National Assembly: Ha Noi.
29. Doan, M. D. and Trinh K. T. 1996. “Survey of Spontaneous Migration to a Rural and an
Urban Area in Viet Nam”, Asian Population Studies Series No. 142, ESCAP, United
Nations, New York.
30. Douglass, M. et al. 2002. The Urban Transition in Viet Nam University of Hawai’i at
Manoa, Honolulu, Hawai’i, USA, and United Nations Centre for Human Settlements,
Fukuoka, Japan.
31. Engardio, Pete. 2002. The Chance of a Lifetime: Poor Nations Get a "Demographic
Dividend".
Business
Week
Online:
International
Asian
Cover
Story.
http://icpd.eastwestcenter.org/news_mar_02.asp.
32. Esping-Anderson, Gosta. 1990. The Three Worlds of Welfare Capitalism. Princeton/New
Jersey: Princeton University Press.
33. Friedrichs, Juergen, M.Reiner Lepsius, and Karl Ulrich Mayer, "Die Diagnosefaehigkeit
der Soziologie," Koelner Zeitschrift fuer Soziologie und Sozialpsychologie Sonderheft
38/1998 (1998).
120
34. General Statistics Office and UNDP. 2001. Census Monograph on Internal Migration and
Urbanization in Viet Nam. Ha Noi: Statistical Publishing House.
35. Giddens, Anthony. 1998. Sociology. Third Edition. Polity Press.
36. Gouldner, A. W. 1971. The Comming Crisis of Western Sociology. London: Heinemann.
37. Gordon, Scott. 2001. The History and Philosophy of Social Science. 1991, 1993, 1995,
1997, 2000, 2001 ed. London: Routledge.
38. Guest, P. M. 1998. The Dynamics of Internal Migration in Viet Nam. UNDP Discussion
Paper I. UNDP: Ha Noi.
39. Hamilton, Roger. 2000. A Demographic Opportunity. Latin America is Entering an
Unusual Era When Proportionately More Workers Will Provide for Fewer Children and
Retirees. IDBAmérica. March-April 2000.
40. Harrison, David. 1997. The Sociology of Medernization and Development. London and
New York: Routledge.
41. Homans, George C. 1964. Bringing Men Back In. American Sociological Review. Volume
29. No. 5. December, 1964. Trang 809-818.
42. IER. 1996. Survey on Spontaneous Migration to Ho Chi Minh City. Institute of Economic
Research: Ho Chi Minh City.
43. Institute of Sociology. 1998. Migration and Health Survey Viet Nam 1997, Survey Report.
Institute of Sociology and Population Studies and Training Centre: Ha Noi.
44. Kidd, Warren. 2002. Culture and Identity. New York: Palgrave Macmillan.
45. Kuhn, Thomas S. 1970. The Structure of Scientific Revolutions. Chicago: University of
Chicago Press.
46. Kuroda, Toshio. 1991. Structural Change of Age Composition in the Future and Its SocioEconomic Implications. Trong: ESCAP/ JOICFP. 1991. Population Ageing in Asia. New
York: United Nations. Trang 89-95.
47. Le Bach Duong, Khuat Thu Hong, Bach Tan Sinh, and Nguyen Thanh Tung. Civil Society
in Vietnam. Center for Social Development Studies.
48. Le, M. T. and Nguyen D. V. 1999. “Remittances and the distribution of income” pp. 167181 in Haughton, Dominique, et al (eds.) Health and Wealth in Viet Nam - An Analysis of
Households Living Standard. Institute of Southeast Asian Studies, Singapore.
49. Letourmy, Alain. 2002. The Support to Mutual Health Insurance Societies: an Experience
Report.
50. Levin, William C. 1994. Sociological Ideas. Concepts and Applications. 4th ed. Belmont,
California: Wadsworth Publishing Company.
51. Lie, John. 1991. Sociology. Readings and Study Guide. New York & London: W.W.
Norton & Company, Inc.
52. Macionis, John J. 1980. Sociology. Englewood Cliffs: Prentice-Hall.
53. Marshall, Gordon. 1998. Oxford Dictionary of Sociology. Second Edition. New York:
Oxford University Press.
54. Mason, Andrew and Sang-Hyop Lee. 2004. The Demographic Dividend and Poverty
Reduction.
55. Mills, C. W. 1956. The Power Elite. New York.
56. Mills, C. W. 1970. The Sociological Imagination. Harmondsworth: Penguin.
57. MRSC. 2002. Migrant Women Working in Garment Factories in Ho Chi Minh City, Viet
Nam: Mobility and Vulnerability. Ho Chi Minh City: MRSC.
58. Navaneetham, K. 2002. Age Structural Transition and Economic Growth: Evidence from
South and Southeast Asia. Working Paper of CDS (Centre for Development Studies). WP
337. http://www.cds.edu.
121
59. Ohno, Kenichi. 2006. The Economic Development of Japan. The Path Traveled by Japan
as a Developing Country. GRIPS Development Forum.
60. Ohno, Kenichi and Takahiro Fujimoto (Editor). 2006. Industrialization of Developing
Countries: Analyses by Japanese Economists. Tokyo: GRIPS.
61. Parker, Noel and Stuart Sim (editors). 1997. The A-Z Guide to Modern Social and
Political Theorists. Hemel Hempstead Hertfordshire: Prentice Hall/Harvester Wheatsheaf.
62. Sachs, Wolfgang. 1992. The Development Dictionary. London and New Jersey: Zed
Books Ltd.
63. Schmidt, Manfred G. 1988. Sozialpolitik. Historische Entwicklung und Internationale
Vergleich. Opladen: Leske und Budrich.
64. Stark, Rodney. 2001. Sociology. Wadsworth Publishing Company.
65. Turner, Jonathan H. 1998. The Structure of Sociological Theory. Sixth Edition.
Wadsworth Publishing Company.
66. Turner, Jonathan H., Leonard Beegley, and Charles H.Powers. 2002. The Emergence of
Sociological Theory. 5th ed. Belmont: Wadsworth Thomson Learning.
67. United Nations. 2003. World Population Prospects. The 2002 Revision. New York:
United Nations.
68. Wallace, Ruth A. and Alson Wolf. 1998. Contemporary Sociological Theory. Expanding
the Classical Tradition. Fifth edition. Upper Saddle River (New Jersey): Prentice-Hall,
Inc.
69. Watson, Tony J. 2001. Sociology, Work and Industry. London and New York: Routledge.
70. Wilensky, Harold L. & Charles N. Lebeaux. 1965. Industrial Society and Social Welfare.
The Free Press. New York.
71. World Bank. 1999. Viet Nam: Attacking Poverty. Viet Nam Development Report 2000.
World Bank: Ha Noi.
72. World Bank. 2009. 2008 Social Development Report. Getting Migration to Work
Effectively for Viet Nam. World Bank: Ha Noi.
73. Webster, Andrew. 1992. Introduction to the Sociology of Development. Second Edition.
London and Hong Kong: Macmillan.
74. Wongboonsin, Kua. 2004. The demographic dividend and M-curve labour-force
participation in Thailand. Applied Population and Policy 1(2), 115-122.
75. Wongboonsin, Kua, Philip Guest, and Vipan Prachuabmoh. 2004. Demographic Change
and the Demographic Dividend in Thailand. Paper at the International Conference on the
Demographic Window and Healthy Aging: Socioeconomic Challenges and Opportunities.
Beijing, May 10-11, 2004.
Tài liệu điện tử
(Lấy từ Internet. Có thể nguồn gốc không được bảo đảm hoặc chắc chắn)
1. Bá Dương. Người Trung Quốc xấu xí. Người dịch: Nguyễn Hồi Thủ. 18/2/2005.
2. Dalton, Russell J., Pham Minh Hac, Pham Thanh Nghi, Nhu-Ngoc T. Ong. Social
Relations and Social Capital in Vietnam: The 2001 World Values Survey.
http://www.democ.uci.edu/democ/papers/vietnam02.pdf.
3. Dapice, David. Lịch sử hay chính sách: Tại sao các tỉnh phía Bắc không tăng trưởng
nhanh hơn? http://www.undp.org.vn/undp/docs/2004/nprov/nprovv.pdf
4. Glewwe, Paul, Michele Gragnolati, Hassan Zaman. Who Gained from Vietnams Boom
in the 1990’s? An Analysis of Poverty and Inequality Trends. Development Research
Group. The World Bank.
122
5. Regan, Patrick M. On the Prospects for Social Revolution in the Industrialized
Democracies in the West. Department of Political Science. Binghamton University.
pregan@binghamton.edu.
6. Quý Đỗ. Vốn xã hội tích lũy lâu đời. Trong: Bộ Khoa học và Công nghệ. Tạp chí Tia
sáng-tiasang.com.vn. 5/7/2006.
7. Schneider, Friedrich and Alexander F. Wagner. 2001. Institutions of Conflict
Management and Economic Growth in the European Union. Kyklos. 54(4). pp. 509532.
8. Trần Văn Đoàn. Nho giáo và Kitô giáo. Phản tỉnh về mối tương khắc giữa hai ý hệ.
9/3/2005.
9. Walle, Dominique van de, and Dileni Gunewardena. Sources of Ethnic Inequality in
Viet Nam. The World Bank’s Rural Development and Poverty and Human Resources
(under RPO681-39) Team in Development Research Group.
123