Academia.eduAcademia.edu
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM VIỆN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG NAM BỘ ________________________ Bùi Thế Cường Góp phần tìm hiểu biến đổi xã hội ở Việt Nam hiện nay Nhà xuất bản Khoa học xã hội VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM VIỆN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG NAM BỘ Bùi Thế Cường Góp phần tìm hiểu biến đổi xã hội ở Việt Nam hiện nay Kết quả nghiên cứu của Đề tài KX.02.10 (2001-2005) Nhà xuất bản Khoa học xã hội 2010 1 NHỮNG NGƯỜI THAM GIA TRONG ĐỀ TÀI KX.02.10 (PHẦN XÃ HỘI) 1. PGS.TSKH. Bùi Quang Dũng 2. TS. Dương Chí Thiện 3. ThS. Đặng Ngọc Quang 4. PGS.TS. Đặng Nguyên Anh 5. ThS. Đặng Việt Phương 6. ThS. Đỗ Minh Khuê 7. TS. Đỗ Thiên Kính 8. ThS. Lê Hải Hà 9. ThS. Lê Mạnh Năm 10. TS. Lê Thanh Sang 11. TS. Lưu Hồng Minh 12. PGS.TS. Mai Quỳnh Nam 13. PGS.TS. Mai Văn Hai 14. ThS. Nguyễn Đức Chiện 15. TS. Nguyễn Đức Truyến 16. ThS. Nguyễn Hồng Quang 17. TS. Nguyễn Hữu Dũng 18. Nguyễn Phan Lâm 19. ThS. Phạm Liên Kết 20. PGS.TS. Phạm Văn Bích 21. Phạm Xuân Đại 22. GS.TS. Tô Duy Hợp 23. PGS.TS. Trần Hữu Quang 24. TS. Trịnh Hòa Bình 25. Trịnh Huy Hóa 26. TS. Trương Xuân Trường 27. TS. Võ Công Nguyện 28. PGS.TS. Vũ Tuấn Huy Viện Xã hội học Viện Xã hội học Trung tâm dịch vụ phát triển nông thôn Viện Khoa học xã hội Việt Nam Viện Xã hội học Viện Xã hội học Viện Xã hội học Đại học Y tế công cộng Viện Xã hội học Viện Phát triển bền vững Vùng Nam Bộ. Học viện Chính trị-hành chính quốc gia Hồ Chí Minh Viện Nghiên cứu con người Viện Xã hội học Viện Xã hội học Viện Xã hội học Trung tâm Nghiên cứu và tư vấn về phát triển Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội Viện Xã hội học Viện Xã hội học Viện Xã hội học Viện Xã hội học Viện Xã hội học Viện Phát triển bền vững Vùng Nam Bộ. Viện Xã hội học Nhà nghiên cứu tự do Viện Xã hội học Viện Phát triển bền vững Vùng Nam Bộ. Viện Xã hội học 2 MỤC LỤC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG DANH MỤC HỘP VÀ HÌNH MỞ ĐẦU CHƯƠNG MỘT. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN 1.1. Xã hội học về công nghiệp hoá hiện đại hoá 1.2. Những quan điểm xã hội học cơ bản 1.3. Hiện đại hóa nhìn từ khái niệm phát triển 1.4. Từ lý luận đến định hướng tư tưởng và triển khai chính sách 1.5. Lý luận phát triển quốc tế: Tóm tắt và kiến nghị CHƯƠNG HAI. KHUNG PHÂN TÍCH HIỆN THỰC XÃ HỘI VIỆT NAM 2.1. Khuôn mẫu văn hoá-xã hội 2.2. Tương tác của ba khuôn mẫu: Một khung lý thuyết để nhìn thực tế Việt Nam 2.3. Toàn cầu là xuất phát điểm 2.4. Kết hợp chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội 2.5. Bản đồ tác động xã hội 2.6. Đi tìm một diễn giải lý luận: Tóm tắt và kiến nghị CHƯƠNG BA. ĐỘNG THÁI DÂN SỐ VÀ BIẾN ĐỔI XÃ HỘI 3.1. Kỷ nguyên dân số vàng 3.2. Di dân 3.3. Già hoá dân số 3.4. Động lực dân số: Tóm tắt và kiến nghị CHƯƠNG BỐN. VĂN HÓA 4.1. Văn hóa nhìn từ quan điểm hiện đại hóa 4.2. Những vấn đề văn hóa hiện nay 4.3. Hiện đại hóa văn hóa: Tóm tắt và kiến nghị CHƯƠNG NĂM. BẤT BÌNH ĐẲNG VÀ KẾT CẤU XÃ HỘI 5.1. Khái niệm 5.2. Một tóm lược về kết cấu xã hội Việt Nam 5.3. Kết cấu xã hội: Nhìn từ phân tích định lượng 5.4. Kết cấu xã hội: Một phân tích định tính 5.5. Điều chỉnh kết cấu xã hội: Tóm tắt và kiến nghị CHƯƠNG SÁU. PHÚC LỢI XÃ HỘI 3 6.1. Khái niệm phúc lợi xã hội 6.2. Phúc lợi xã hội trong xã hội công nghiệp 6.3. Mô hình phúc lợi xã hội ở Việt Nam 6.4. Phúc lợi xã hội: Nhìn từ phân tích định lượng 6.5. Những chủ đề chính của phúc lợi xã hội hiện nay 6.6. Trở lại với lý tưởng phúc lợi toàn dân: Một kiến nghị khả thi? CHƯƠNG BẢY. MÔ HÌNH XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ XÃ HỘI 7.1. Mô hình đã hình thành 7.2. Mười vấn đề cơ bản ảnh hưởng đến phát triển: quản lý biến đổi xã hội 7.3. Các nhân tố bất ổn định: quản lý khủng hoảng 7.4. Những giải pháp nhìn từ tiếp cận xã hội học KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO 4 CHỮ VIẾT TẮT ADB FDI GDI GDP HDI ILO IMF MTV NGO ODA UNDP VLSS VNHS WB WTO Ngân hàng Phát triển châu Á Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài Chỉ số Phát triển Giới Tổng Sản phẩm Quốc nội Chỉ số Phát triển Con người Tổ chức Lao động Quốc tế Quỹ Tiền tệ Quốc tế Nhạc Television Tổ chức Phi Chính phủ Viện trợ Phát triển Chính thức Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc Khảo sát Mức sống Việt Nam Điều tra Sức khỏe Quốc gia Ngân hàng Thế giới Tổ chức Thương mại Thế giới 5 DANH MỤC BẢNG Bảng 1.1. Lý luận, định hướng tư tưởng và triển khai vào định hướng chính sách Bảng 2.1. Khuôn mẫu văn hoá-xã hội Bảng 2.2. Ba khuôn mẫu văn hoá-xã hội trong thực tế xã hội Việt Nam hiện nay Bảng 2.3. Cấu trúc của Đổi Mới và những tác động xã hội Bảng 3.1. Tổng tỷ suất phụ thuộc của 9 nước trong khu vực (1950-2050), % Bảng 3.2. Năm bắt đầu và độ dài của "kỷ nguyên dân số vàng" 9 nước trong khu vực Bảng 3.3. Di dân nội địa theo vùng địa lý, 1994-1999 Bảng 3.4. Phân bố các loại hình di dân theo giới, 1994-1999 Bảng 3.5. Dự báo dân số người cao tuổi Việt Nam dựa trên Tổng điều tra dân số 1999, 2000-2020 Bảng 3.6. Dân số người cao tuổi Việt Nam, số liệu 2005-2006 Bảng 3.7. Học vấn, hoạt động kinh tế, hôn nhân và nơi cư trú của người cao tuổi Việt Nam (60+) theo giới và tuổi, 1999 Bảng 3.8. Yếu tố tác động và định hướng chính sách trong kỷ nguyên dân số vàng Bảng 3.9. Động lực di dân và định hướng chính sách Bảng 3.10. Yếu tố tác động và định hướng chính sách người cao tuổi Bảng 4.1. Khác biệt giữa kiểu xã hội cổ truyền và xã hội hiện đại Bảng 4.2. Những mặt mạnh về văn hoá của xã hội/con người Việt Nam Bảng 5.1. Chi tiêu thực tế đầu người và mức nghèo Bảng 5.2. Tỷ trọng chi tiêu của mỗi nhóm 20% (ngũ phân vị) Bảng 5.3. Phân bố lao động làm công, làm thuê theo 5 nhóm mức sống phân nhóm trên cơ sở mức chi tiêu trong từng khu vực kinh tế-chính trị, 1998 Bảng 5.4. Phân bố lao động làm công, làm thuê theo khu vực kinh tế-chính trị trong từng nhóm mức sống phân nhóm trên cơ sở mức chi tiêu, 1998 Bảng 5.5. Phân bố lao động của 5 nhóm mức sống theo kết cấu kinh tế chính trị, 1998 Bảng 5.6. Phân bố thu nhập tiền công tháng theo kết cấu kinh tế chính trị, 2002 Bảng 5.7. Phân bố thu nhập tiền công tháng theo khu vực giai tầng, 2002 Bảng 5.8. Phân bố thu nhập tiền công tháng theo phân loại nghề nghiệp của Tổng cục Thống kê, 2002 Bảng 6.1. Sơ đồ khái niệm hóa loại hình rủi ro xã hội và cơ chế quản lý rủi ro xã hội Bảng 6.2. Ba mô hình phúc lợi xã hội ở Việt Nam Bảng 6.3. Tỷ lệ % người nhận thu nhập từ phúc lợi xã hội theo đô thị/nông thôn Bảng 6.4. Tỷ lệ % người nhận thu nhập từ phúc lợi xã hội theo 5 nhóm chi tiêu Bảng 6.5. Thu nhập từ phúc lợi xã hội theo đô thị/nông thôn Bảng 7.1. Một sơ đồ khái niệm hoá các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển xã hội hiện nay 6 DANH MỤC HỘP VÀ HÌNH Hộp 2.1. Vai trò của thể chế trong cải cách: Phỏng vấn của VietnamNet với ông Grzegorz Kolodko, nguyên Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Tài chính Ba Lan Hình 3.1.Tỷ suất dân số phụ thuộc, Việt Nam 1950-2050 Hộp 4.1. Định hướng giá trị “sự giàu có” trong người lãnh đạo và người dân: Phỏng vấn của VietnamNet với ông Grzegorz Kolodko, nguyên Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Tài chính Ba Lan Hộp 4.2. Thanh niên Việt Nam đang "tụt hậu từ A đến Z" so với thanh niên trong khu vực và thế giới: Lo lắng được đặt ra trong Hội thảo "Hội nhập quốc tế thanh niên" do Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức sáng 5/6/2004 Hộp 4.3. Cần và có thể tạo nên một khí thế công nghiệp hóa hiện đại hóa không? Hộp 4.4. Nhiều cách nghĩ và cách làm, khi xem xét kỹ, hóa ra là biểu hiện của “hệ văn hóa người Kinh” Hộp 4.5. Văn hóa là một lối làm việc nảy sinh từ một hệ tri thức, bao gồm thế giới quan: Hiện đại hóa có một lối làm việc chung không? Hộp 5.1. Những “câu chuyện” mới trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: Người giàu Hộp 5.2. Những “câu chuyện” mới trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: Người công nhân di cư Hộp 5.3. Những “câu chuyện” mới trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: Người nông dân ở một làng cách Hà Nội 20 km Hộp 6.1. Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam: Một cố gắng bền bỉ trong nhiều thập niên của Nhà nước phúc lợi kiểu Việt Nam Hộp 6.2. Phúc lợi doanh nghiệp ngày càng trở thành một điểm “nóng” xã hội 7 MỞ ĐẦU Đề tài KX.02.10 “Các vấn đề xã hội và môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” thuộc Chương trình Khoa học xã hội cấp nhà nước giai đoạn 2001-2005 mã số KX.02 “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa – Con đường và bước đi”. Cuốn sách này dựa trên các kết quả về phần xã hội của Đề tài nói trên, kết hợp với một số thông tin cập nhật. Trong cuốn sách, trước hết tác giả thử xây dựng một vài quan điểm mang tính xã hội học để lý giải khía cạnh xã hội quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam trên cấp độ vĩ mô. Bản thân quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay là một vấn đề xã hội cơ bản, bao trùm nhất. Tiếp theo, tác giả phân tích hiện trạng và những vấn đề đặt ra trong 4 chủ đề liên quan mật thiết đến khía cạnh xã hội của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay. Đó là: dân số, văn hóa, kết cấu xã hội, và phúc lợi xã hội. Đây là bốn lĩnh vực xã hội then chốt tạo nên những cột trụ của quá trình hiện đại hóa một xã hội. Chúng cũng tạo nên những động lực xã hội của quá trình này. Cuối cùng, cuốn sách đề cập đến những đặc điểm của mô hình xã hội hiện tại, những vấn đề cơ bản ảnh hưởng đến sự phát triển hiện nay và các nhân tố bất ổn định. Trên cơ sở đó kiến nghị giải pháp liên quan đến 3 cấp độ quản lý xã hội: quản lý chiến lược, quản lý biến đổi xã hội và quản lý khủng hoảng. Tác giả chân thành cảm ơn GS.TS. Đỗ Hoài Nam, Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Giám đốc Chương trình KX.02 đã tạo điều kiện cho tác giả có cơ hội thực hiện Đề tài KX.02.10, chân thành cảm ơn nhiều đồng nghiệp đã tham gia vào viết các chuyên đề nghiên cứu của Đề tài. Bùi Thế Cường Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ cuongbuithe@yahoo.com. 8 CHƯƠNG MỘT. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN Từ đầu thế kỷ XIX, khi nước Anh và phần lục địa Tây Âu, rồi khu vực Bắc Mỹ, lần lượt bước vào quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa tư bản chủ nghĩa, thì giới lãnh đạo, giới nghiên cứu và công luận đã luôn luôn tranh luận về bản chất và các hệ quả của quá trình xã hội to lớn đó, một hiện tượng chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Vào thời ấy, đây được xem là vấn đề xã hội cơ bản nhất, bao trùm nhất, nó chi phối mọi quá trình và hiện tượng xã hội khác. Sau Đại chiến thế giới lần thứ hai, một loạt nước không thuộc phần đất Tây-Bắc Âu và Bắc Mỹ cũng bước vào quá trình này với những hoàn cảnh và kinh nghiệm mới. Trong suốt vài thập niên ở những nước đó, quá trình này cũng được xem là vấn đề xã hội trung tâm của quốc gia, đòi hỏi toàn bộ thời gian và nỗ lực của giới làm chính sách cũng như học thuật. 1.1. XÃ HỘI HỌC VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ Trên thế giới và trong lịch sử, có nhiều tên gọi cho quá trình xã hội tương tự như quá trình đang diễn ra hiện nay ở Việt Nam. Cùng với thuật ngữ là những quan niệm và lý thuyết. Nói chung, có ba thuật ngữ thông dụng: công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển. Ba tên gọi nói trên có những hàm nghĩa và nội dung khác nhau, xuất hiện trong những bối cảnh lịch sử khác nhau. Nhưng mặt khác, chúng đều ít nhiều nói đến một quá trình xã hội vĩ mô và dài hạn chung, từ một trạng thái xã hội này đến một trạng thái xã hội khác. Chẳng hạn, industrialism là một thuật ngữ bao hàm rộng hơn lĩnh vực công nghệ và kinh tế. Từ điển bách khoa Anh định nghĩa hiện đại hoá là "sự chuyển biến (transformation) từ một xã hội truyền thống, nông thôn, nông nghiệp sang một xã hội thế tục (secular), đô thị, công nghiệp. Xã hội hiện đại là xã hội công nghiệp. Để hiện đại hoá một xã hội thì trước hết phải công nghiệp hoá nó. Về mặt lịch sử, sự nổi lên của xã hội hiện đại gắn liền với sự nổi lên của xã hội công nghiệp. Mọi đặc điểm liên quan đến tính hiện đại (modernity) đều gắn với những biến đổi, trong không đầy hai thế kỷ, đưa đến kiểu xã hội công nghiệp. Điều này gợi ý rằng thuật ngữ chủ nghĩa công nghiệp (industrialism) và xã hội công nghiệp hàm ý nhiều hơn là tính kinh tế và công nghệ, cho dù đó là những cốt lõi. Chủ nghĩa công nghiệp là một lối sống (way of life) bao gồm những biến đổi kinh tế, xã hội, chính trị, và văn hoá. Thông qua sự chuyển biến tổng thể của công nghiệp hoá mà xã hội trở thành hiện đại" (Dẫn lại theo Wischermann, 2001). Khi bước vào quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay (được xác định từ Đại hội Đảng lần thứ VIII năm 1996), Việt Nam đã có nhiều kinh nghiệm của các nước cũng như của chính bản thân mình. Thế giới đã biết đến những mô hình công nghiệp hóa hiện đại hóa được gọi là cổ điển (tức là mô hình mà những nước tiên tiến đã đi trong thế kỷ XIX) như Anh, Mỹ, Pháp, Đức; mô hình bán cổ điển như Thuỵ Điển, Nhật ở thế kỷ XX. Bản thân các nước được gọi là phát triển cao ngày nay cũng đã có những phiên bản khác nhau và có nhiều tiến triển nội tại. Nói chung, người ta cho rằng có hai phiên bản: phiên bản Anglo-saxon nghiêng nhiều hơn về kinh tế thị trường tự do và phiên bản châu Âu lục địa nghiêng nhiều hơn theo đặc tính dân chủ xã hội. Có thể xem Mỹ là một cực còn Thụy Điển là một cực đối lại, các nước khác nằm ở khoảng đâu đó giữa hai cực điển hình này, thể hiện những sự kết hợp khác nhau của hai mô hình điển hình đó. Nhưng ngay cả trong một nước thì trong tiến trình lịch sử của mình cũng đi theo một con đường ziczac. Chẳng hạn, nước Anh đã chuyển từ một hình thái chủ nghĩa tư bản tự do trong thế kỷ XIX, để rồi phát triển rất nhiều theo hướng dân chủ xã hội trong thế kỷ XX, đặc biệt giai đoạn 9 sau 1945 đến cuối thập niên 1970. Nhưng đến thập niên 1980 lại chuyển hướng theo mô hình tân tự do (đầu những năm 1980 ở Anh và Mỹ chứng kiến sự thống trị của chủ nghĩa Thatcher và chủ nghĩa Reagan, còn được gọi là hai cuộc cách mạng bảo thủ). Khu vực Đông Á và Đông Nam Á đã cống hiến cho nhân loại một kiểu công nghiệp hóa hiện đại hóa khá thành công như ở Hàn Quốc, lãnh thổ Đài Loan, đặc khu Hồng Kông, Singapore, Malaysia, Thái Lan. Với một vài đặc tính tương đối giống nhau, người ta gộp chung những cách làm này trong thuật ngữ “mô hình Đông Á”. Nhìn chung, từ thập niên 1950 các nước Mỹ Latin đi theo con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa kiểu Mỹ, nhưng trong nhiều năm sa lầy vào một sự phát triển sai và bế tắc, ngoại trừ sự thành công muộn hơn ở Chi Lê trong hai thập niên phát triển 1980-1990. Thế kỷ XX chứng kiến sự nổi lên của mô hình công nghiệp hóa hiện đại hóa mang tính xã hội chủ nghĩa trước hết ở Nga và sau đó lần lượt ở một loạt nước Trung Á, Đông Âu, châu Á. Phần lớn các nước này gộp thành mô hình công nghiệp hóa hiện đại hóa mang tính xô viết. Người ta cũng còn thấy có mô hình bán xã hội chủ nghĩa như ở Ấn Độ và Algerie, mô hình xã hội chủ nghĩa châu Phi. Khu vực Mỹ Latin từ vài năm gần đây xuất hiện mô hình xã hội chủ nghĩa cánh tả mới, được gọi là chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI. Sau vài thập niên thực hiện mô hình công nghiệp hóa hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa mang tính xô viết và mang đặc tính riêng của mình, từ 1978 Trung Quốc đang thử nghiệm khá thành công việc chuyển từ mô hình xã hội chủ nghĩa chính thống sang mô hình công nghiệp hóa hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa mang tính cải cách. Một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam có vẻ như vẫn quan niệm rằng Việt Nam đang ở trong bước đi ban đầu của quá trình hiện đại hóa, rằng về cơ bản xã hội Việt Nam vẫn nặng tính truyền thống. Theo chúng tôi, bản thân Việt Nam đã bị cuốn vào quá trình hiện đại hóa toàn cầu từ cuối thế kỷ XIX, đặc biệt từ đầu thế kỷ XX, dưới áp lực của chủ nghĩa thực dân Pháp. Tuy cho đến nay Việt Nam vẫn còn ở vị trí thấp trong bảng xếp hạng phát triển quốc tế, song thực ra xã hội Việt Nam đã biến đổi rất nhiều trong suốt thế kỷ XX, nếu so với chính nó. Trong vài thập niên đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã hình thành cả một mạng lưới đường sắt và đường bộ trên cả nước mà cho đến nay về cơ bản vẫn còn sử dụng trên cơ sở mở rộng và nâng cấp. Nhiều cơ sở công nghiệp đã xuất hiện trong thời Pháp trước 1945, trong thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật ở miền Bắc (1955-1975), trong thời kỳ 1954-1975 ở miền Nam. Chỉ trong 1-2 thế hệ, người Việt Nam đã chứng kiến hàng loạt biến đổi: chữ quốc ngữ, thơ mới, văn học mới, nhạc mới, sân khấu, điện ảnh, báo chí, y phục, thể thao, v.v. Hàng loạt định chế xã hội kiểu hiện đại cũng đã ra đời: chính quyền, đảng phái, quốc hội, hiệp hội, công đoàn, tư pháp, hệ thống giáo dục phổ thông, bệnh viện và hệ thống y tế, khoa học và giới trí thức. Sản xuất và tiêu dùng bắt đầu dựa trên công nghệ. Nảy sinh những giá trị và chuẩn mực trong lối sống khác xa với cổ truyền. Vào thập niên 1910, Việt Nam vẫn còn cần một phong trào Đông Kinh nghĩa thục để áp dụng một số "lối sống mới" (áo ngắn, bỏ tóc dài búi tó, chẳng hạn). Và rồi đến đầu Cách mạng tháng Tám 1945, Hồ Chủ tịch vẫn còn phải kêu gọi xây dựng "đời sống mới", bởi còn có quá nhiều hủ tục. Cho đến tận đầu những năm 1960, nông thôn miền Bắc vẫn còn sống trong tình trạng rất mất vệ sinh về mặt nước sinh hoạt và hố xí. Vào khoảng thời gian này (cuối thập niên 1950 đầu 10 1960), Việt Nam ở trong tình trạng xấp xỉ các nước trong khu vực về mức sống và trình độ phát triển công nghiệp, giáo dục. Cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đã đặt đất nước vào một xuất phát điểm hiện đại hóa mới. Từ cuối thập niên 1950, miền Bắc Việt Nam đã bước vào quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa mang tính xã hội chủ nghĩa, nhưng quá trình này đã bị chiến tranh làm chậm lại, để rồi lại được khởi động mạnh mẽ trở lại sau 1975. Trong một phương hướng sai lầm chung của cả khối xã hội chủ nghĩa hiện thực, Việt Nam đã phải đặt lại vấn đề công nghiệp hóa hiện đại hóa bằng một đường lối mới mà ta gọi là Đổi Mới. Giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại hóa mới này đã diễn ra được gần 25 năm, trong đó mười năm đầu tập trung vào việc khắc phục cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội (1986-1996), mười năm tiếp theo đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa trên cơ sở bước đầu tham gia vào toàn cầu hóa (1996 đến khoảng giữa những năm 2000), những năm gần đây đánh dấu bước phát triển mới ngày càng hội nhập vào đời sống quốc tế (từ 2006 đến nay, sau khi Việt Nam gia nhập WTO). Tóm lại, dù nói thế nào thì xã hội Việt Nam cũng đã được công nghiệp hoá hiện đại hoá mãnh liệt trong suốt thế kỷ XX. Ngay các cuộc chiến tranh cũng không làm giảm, thậm chí theo nhiều nghĩa, còn thúc đẩy hiện đại hoá, mặc dù chiến tranh đã làm méo mó quá trình này. Quan niệm về biến đổi xã hội gắn với thực tế lịch sử nêu trên giúp ta nhìn toàn cảnh xã hội rõ hơn. Nó cho thấy quá trình kiến tạo xã hội hiện đại ở Việt Nam diễn ra với nhiều éo le lịch sử, nhiều dở dang, phần lớn chịu sự áp đặt của các thế lực ngoại bang. Chỉ đến thời kỳ Đổi Mới hiện nay, người Việt Nam mới có điều kiện thúc đẩy hiện đại hóa xã hội trong điều kiện có chủ quyền đầy đủ, mặc dù dưới những áp lực rất lớn của môi trường kinh tế-chính trị quốc tế. 1.2. NHỮNG QUAN ĐIỂM XÃ HỘI HỌC CƠ BẢN Để nhìn vào một quá trình biến đổi xã hội mang tính vĩ mô và lịch sử như quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, người ta cần phải dựa trên một nền tảng lý luận nhất định. Mục này trình bày một vài quan điểm xã hội học cơ bản, chúng giúp cho nhà nghiên cứu và nhà quản lý quá trình biến đổi xã hội hiện nay ở Việt Nam dùng làm công cụ để nhìn vào thực tế, hiểu và tác động vào thực tế. 1.2.1. QUAN ĐIỂM HÌNH THÁI XÃ HỘI Chủ nghĩa Mác là một hệ thống tư tưởng phức thể, bao gồm nhiều lý thuyết khác nhau. Một trong những lý luận then chốt của chủ nghĩa Mác là lý luận hình thái xã hội. Theo Mác, xã hội loài người có thể được hiểu dưới khái niệm hình thái xã hội, bao gồm mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hợp thành phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất tạo nên cơ sở hạ tầng xã hội mà trên đó là kiến trúc thượng tầng xã hội. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thích ứng với nhau, lực lượng sản xuất là yếu tố động, biến đổi trước, và sẽ biến đổi đến khi không còn thích hợp với quan hệ sản xuất nữa thì khi đó một thời đại cách mạng xuất hiện. Sở dĩ như thế là vì loài người không muốn bị mất hết lực lượng sản xuất, nên sẽ từ bỏ quan hệ sản xuất hiện tồn để giữ lấy những gì đã đạt được về mặt lực lượng sản xuất. Tương tự, từ cơ cấu kinh tế sẽ tạo ra một xã hội dân sự, các giai cấp, từ đó có một nhà nước và các hình thái hệ tư tưởng tương ứng. Luận điểm cơ bản này mô tả cấu trúc của một xã hội tổng thể và “trật tự” của logic và cơ chế của sự biến đổi xã hội. 11 Toàn bộ văn bản của Mác cũng cho ta cơ sở để hiểu các động lực của biến đổi xã hội. Trong mô hình lý luận chung của Mác, động lực biến đổi xã hội trước hết là lực lượng sản xuất trong sơ đồ cơ chế quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; là phương thức sản xuất trong sơ đồ hình thái xã hội; là đấu tranh giai cấp trong sơ đồ phân tích chính trị như là biểu hiện tập trung của kinh tế. Và cuối cùng là vai trò tích cực của hệ tư tưởng và con người như là chủ thể của lịch sử. Sau này nhiều trào lưu mác-xít khác nhau, nhiều nhà mác-xít khác nhau đã “sửa đổi”, “phát biểu lại”, “hiểu khác đi” những luận điểm trên của Mác theo những cách khác nhau (bản thân đoạn trên cũng chỉ là một cách diễn giải lại Mác theo cách hiểu chủ quan của tác giả cuốn sách này). Những sửa đổi và biến thể như vậy là không thể tránh khỏi đối với một lý thuyết hay học thuyết lớn như của Mác khi trở thành di sản chung của lịch sử và nhân loại. Những cách hiểu và vận dụng chủ nghĩa Mác một cách khác nhau là do tác động của bối cảnh xã hội, do các mục đích xã hội cụ thể, v.v. Người ta thường nhắc đến một số cách hiểu phát triển mới như: quan hệ sản xuất có thể đi trước, tạo điều kiện thúc đẩy lực lượng sản xuất; cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra trước ở những nước không phải là tiên tiến nhất. Bản thân cách hiểu này có thể không sai nếu được hiểu trong những giới hạn nhất định, song cái mức độ đẩy lên trong cách làm trong thực tế có thể làm cho những bổ sung, sửa đổi như vậy trở nên nguồn gốc của hành động sai lầm và thất bại. Đây đã là hiện tượng chung của hầu như mọi nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, như chính Mác và Engels đã nhấn mạnh, học thuyết của các ông chủ yếu chỉ là kim chỉ nam chứ không phải là cẩm nang sẵn có cho mọi vấn đề. Hai ông nhấn mạnh rằng không thể lấy những công thức lý luận của hai ông để thay thế cho sự phân tích cụ thể. Trong thực tế, không ít người tự nhận là mác-xít đã tự bằng lòng với việc nhắc đi nhắc lại lý luận hình thái xã hội nói trên theo một kiểu cách mang tính công thức, dùng nó để diễn giải một cách võ đoán và thô thiển hiện thực xã hội cụ thể mà họ phải đối mặt. Điều này cũng giống như là dùng một cái bản đồ thế giới để tìm đường đi trong một thành phố cụ thể như Paris, Moskow, Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh vậy. 1.2.2. QUAN ĐIỂM CHỨC NĂNG-CẤU TRÚC-TIẾN HÓA Trong thực tế khoa học xã hội, người ta thấy có ba quan điểm lý thuyết khác biệt nhau: chức năng, cấu trúc và tiến hóa. Có thể xem chúng cùng tạo nên một hệ quy chiếu (paradigm) để nhìn vào quá trình hiện đại hóa, một hệ quy chiếu tạm gọi là tiếp cận chức năng-cấu trúc-tiến hóa. Tiếp cận này nhìn hiện đại hoá như là biến đổi xã hội dài hạn, chú ý đến khu biệt hoá xã hội, hình thành và sắp xếp lại các định chế, phân công lao động, liên kết xã hội. Nó cũng tạo ra tiền đề lý luận cho thuyết hiện đại hoá theo nghĩa xem hiện đại hoá như là quá trình tất yếu lịch sử khách quan, không thể tránh khỏi, mang tính hội tụ, về tổng thể dài hạn là tuyến tính (ngày càng đi lên). Có thể tóm tắt tư tưởng cơ bản của tiếp cận này như sau. Xã hội có thể được nhìn như là một hệ thống có cấu trúc bên trong và tiến hóa theo quy luật. Hệ thống xã hội bao gồm những bộ phận khác nhau nhưng liên hệ với nhau theo một cấu trúc (các quan hệ xã hội bền vững) nhất định, cấu trúc này vận hành theo những cách thức nhất định (cơ chế hoạt động) để tạo nên cái toàn bộ 12 của hệ thống. Sự vận hành này tạo nên (hay là tuân theo) một sự tiến hóa: hệ thống xã hội đi từ mức độ đơn giản đến phức tạp về mặt chức năng-cấu trúc. Cấu trúc của hệ thống xã hội ngày càng bao gồm các định chế được khác biệt hóa sâu hơn về mặt chức năng. Sự đóng góp vào việc vận hành ổn định của hệ thống được gọi là chức năng. Từ ý tưởng cơ bản trên, tiếp cận chức năng-cấu trúc-tiến hóa tiến đến một khái niệm then chốt trong thao tác phân tích. Đó là khái niệm định chế hay thiết chế (institution). Định chế bao hàm một loạt hiện tượng xã hội phong phú thuộc những lĩnh vực xã hội rất khác nhau, chẳng hạn trong lĩnh vực giao tiếp (định chế chào hỏi, xã giao, thảo luận), trong sản xuất kinh doanh (công ty, giao dịch thương mại), trong dịch vụ xã hội (bệnh viện, nhà dưỡng lão), tư pháp (xử án, nhà tù), giáo dục (nhà trẻ, trường phổ thông, đại học), tôn giáo (nhà thờ, giáo hội), thể thao (câu lạc bộ bóng đá, liên đoàn thể thao), v.v. Tất cả những cái đó đều là các định chế, chúng là những bộ phận hợp thành của thực tế đời sống của con người, là yếu tố cơ bản trong nền văn hoá đang sống của họ. E. Durkheim cho rằng xã hội học là môn khoa học về các định chế, theo ông vì các định chế làm nên cái cốt lõi của hiện thực xã hội. Định chế là sự hợp tác được quy tắc hoá của con người, nhằm đáp ứng, thoả mãn một hay một vài nhu cầu xã hội cơ bản nào đó. B. Malinowski cho rằng định chế là một tập hợp thống nhất của bốn thành tố. Thứ nhất, một ý tưởng hay định luận nào đó (charter, idée diréctrice, Leitidee) được các thành viên của một xã hội hay một nhóm thừa nhận và củng cố. Thứ hai, một tập hợp người đảm nhiệm những vai trò nhất định. Thứ ba, một tập hợp văn hoá hướng dẫn và điều chỉnh ứng xử của các thành viên (bao gồm các ý nghĩa, giá trị, chuẩn mực, biểu trưng, nghi thức). Và cuối cùng, một tập hợp các thể nền vật chất gắn với định chế. Quan hệ của bốn thành tố này tạo nên cấu trúc của một định chế, tương tác qua lại của chúng tạo nên sự vận hành của cấu trúc (dynamics hoặc cơ chế - mechanism). Phân tích định chế tức là mô tả và giải thích cấu trúc cũng như sự vận hành của cấu trúc của một định chế. Vào nửa sau thế kỷ XX, một số nhà nghiên cứu theo hệ quy chiếu chức năng-cấu trúc-tiến hóa đã xây dựng lý luận và tiến hành nghiên cứu thực nghiệm về chủ đề "biến đổi xã hội". Lý thuyết khác biệt hoá (differentiation) là một trong các sản phẩm của những nỗ lực như vậy. Theo P.B. Colomy (1986), lý thuyết khác biệt hoá có ba ý tưởng chính. Thứ nhất, nó cho rằng có một "xu hướng chủ đạo" của biến đổi xã hội hiện đại: đó là sự thay thế các định chế và các vai trò đa chức năng (multi-functional) bằng các đơn vị chuyên môn hoá hơn. Người ta thường thấy nghiên cứu xã hội học vĩ mô về biến đổi xã hội đòi hỏi phải đưa ra một xu hướng chủ đạo, kèm theo đó là một khái niệm mang tính chỉ đạo cho việc xây dựng lý thuyết và nghiên cứu. Chẳng hạn, trong thời kỳ xã hội học cổ điển, Mác đề xuất khái niệm hình thái xã hội (bao gồm trong đó khái niệm phương thức sản xuất) làm công cụ phân tích chính. M. Weber thì lấy "hợp lý hoá" (rationalization) làm khái niệm trung tâm. Durkheim phân tích sự chuyển đổi từ gắn kết cơ giới sang gắn kết hữu cơ (mechanic, organic solidarity). Trong thời kỳ xã hội học hiện đại, xuất hiện lý thuyết hội tụ nhấn mạnh vào xu hướng ngày càng tương đồng, quy tụ của các xã hội hiện đại hoá, lý thuyết các hệ thống thế giới xây dựng trên trục cơ bản là mối quan hệ trung tâm-ngoại vi. Tương tự, các nhà lý luận khác biệt hoá xem xu hướng chủ đạo của biến đổi xã hội là việc thay thế các định chế và vai trò đa chức năng bằng các đơn vị được chuyên môn hoá hơn. Thứ hai, lý thuyết khác biệt hóa nêu lên một khung giải thích về nhu cầu xã hội cho việc quá độ từ đơn vị đa chức năng sang cấu trúc chuyên môn hoá hơn. Khi các yêu cầu chức năng không 13 được thoả mãn một cách hiệu quả, sẽ nổi lên những căng thẳng và mâu thuẫn, chúng sẽ lại thúc đẩy việc tạo ra những giải pháp khác biệt hoá có hiệu quả hơn. Có thể gọi đây là khung phân tích "căng thẳng sản sinh ra khác biệt hoá". Sự khác biệt hoá sẽ được thúc đẩy do một cấu trúc đang vận hành một cách không thích đáng, cấu trúc này là nguyên nhân tạo nên sự không hài lòng lan rộng. Một biến đổi sẽ kết thúc với việc thiết chế hoá một đơn vị được khác biệt hoá nhiều hơn và một đơn vị có hiệu quả hơn. Như vậy, việc thực hiện có hiệu quả hơn một chức năng đã cho sẽ là động lực để tạo ra những cấu trúc khác biệt hoá hơn. Thứ ba, lý thuyết khác biệt hoá cho rằng việc thiết chế hoá các đơn vị chuyên môn hoá hơn sẽ làm tăng kết quả và hiệu quả của hệ thống xã hội hoặc của các tiểu hệ thống. Mức độ khác biệt hoá cao trong toàn bộ hệ thống sẽ đi liền với sự phổ quát hoá giá trị và tăng mức độ bao gồm, kết dính (inclusion), điều này lại đóng góp vào việc tái liên kết hệ thống đang trở nên phức thể hơn do khác biệt hoá. Trong thực tế, biến đổi cấu trúc diễn ra phức tạp hơn nhiều, bao gồm nhiều xu thế chồng lấn nhau mà không chỉ đơn giản chỉ có xu hướng khác biệt hoá. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm dựa trên lý thuyết khác biệt hoá phát hiện rằng, bên cạnh xu hướng khác biệt hoá chủ đạo còn có hàng loạt biểu hiện cụ thể khác: sự phi khác biệt hoá, khác biệt hoá không đều (unequal), khác biệt hoá không đồng bộ (uneven), khác biệt hoá không đầy đủ, khác biệt hoá hỗn độn. Phi khác biệt hoá diễn ra là do những bất mãn đối với quá trình hiện đại hoá, thể hiện ở một loạt hội chứng và phong trào chống lại khác biệt hoá. Mức độ và phạm vi khác biệt hoá cũng diễn ra khác nhau ở các lĩnh vực xã hội khác nhau, điều này dẫn đến những căng thẳng cấu trúc và văn hoá, kết quả là xuất hiện sự khác biệt hoá không đều. Khác biệt hoá không đồng bộ liên quan đến sự khác nhau về mức độ và phạm vi khác biệt hoá trong một khu vực thiết chế hay cấu trúc vai trò. Khác biệt hoá không đầy đủ liên quan đến tình huống trong đó các bước khác biệt hoá cần thiết không được hoàn thành, khiến hai hay nhiều cấu trúc cùng chia sẻ hoặc cạnh tranh nhau một chức năng. Khác biệt hoá hỗn độn diễn ra khi nhiều động lực xã hội tác động móc xích vào nhau khiến cho quá trình khác biệt hoá bị lôi kéo theo những hướng đối nghịch. Những thực tế trên khiến cho quá trình khác biệt hoá chủ đạo đứng trước những lựa chọn, kết quả sẽ là những kết hợp pha trộn của các lựa chọn: hệ thống có thể tăng tỷ lệ, tạo ra những cấu trúc khác tương tự, thay đổi mức nhấn mạnh tương đối vào những chức năng khác nhau, bổ sung chức năng mới vào các cấu trúc đã có và ngược lại, ... Như vậy, dựa trên hệ quy chiếu chức năng-cấu trúc-tiến hóa, các nhà tân chức năng luận đã cố gắng đưa ra một quan niệm về biến đổi xã hội, chủ yếu dựa trên khái niệm chủ đạo "khác biệt hoá". Lý thuyết này tập trung vào hai hệ quả trực tiếp: hiệu quả và sự tái liên kết tăng lên. Việc tăng sự chuyên môn hoá cấu trúc thúc đẩy hiệu quả, nâng cao khả năng của hệ thống thích nghi linh hoạt với môi trường. Yêu cầu về việc hệ thống nâng cao hiệu quả là động lực hàng đầu dẫn đến sự khác biệt hoá cấu trúc. Xu hướng chủ đạo này làm cho liên kết xã hội trở thành vấn đề. Do đó, phải xuất hiện những mã văn hoá chung hơn và những thiết chế chuyên môn hoá phục vụ cho sự liên kết xã hội. Tuy nhiên, điều này diễn ra không tự động. Các thiết chế khác biệt hoá tạo ra những cụm lợi ích mới, có thể đối nghịch với nhau. Như vậy, khác biệt hoá tạo ra cả liên kết lẫn xung đột. Cho rằng các thời kỳ khác biệt hoá xã hội diễn ra nhanh dễ dẫn đến những phân cực và khủng hoảng xã hội, J. Alexander, một nhà tân chức năng chủ chốt, cho rằng cần có năm điều kiện để đối phó thành công với biến động xã hội. Thứ nhất, có sự đồng thuận xã hội ở mức đủ để bất kỳ 14 một vi phạm chuẩn mực nào cũng sẽ bị xem là lệch chuẩn. Thứ hai, có một số lượng đáng kể nhóm xã hội chia sẻ cảm nhận rằng sự vi phạm nói trên đe doạ cốt lõi của xã hội. Thứ ba, hiệu quả tích cực của các thiết chế kiểm soát xã hội. Thứ tư, sự huy động và đấu tranh giữa giới tinh hoa và công luận. Thứ năm, có những giải thích biểu trưng hiệu quả. 1.2.3. QUAN ĐIỂM HÀNH ĐỘNG XÃ HỘI Một trong những song đề then chốt của khoa học xã hội là sự đối lập giữa việc nhấn mạnh vào cấu trúc xã hội hay nhấn mạnh vào hành động xã hội. Thậm chí người ta còn nói rằng có hai xã hội học: một ưu tiên đặt cấu trúc xã hội lên trên (cấu trúc luận), một xem các hệ thống xã hội là sự sáng tạo, là sản phẩm của con người (các lý thuyết hành động hoặc tương tác luận). Bên cạnh tiếp cận chức năng-cấu trúc-tiến hóa nêu trên, người ta thấy xuất hiện một tiếp cận khác, nhấn mạnh đến chiều cạnh ngược lại. Mác thường được xem là nhà cấu trúc luận và thực chứng luận, vì nghiên cứu của ông chủ yếu ở cấp độ vĩ mô, ông đặt cho mình nhiệm vụ khám phá những cấu trúc xã hội khách quan, ẩn ngầm bên dưới chi phối đời sống xã hội, và ông xem sự phát triển xã hội như là một tiến trình lịch sử-tự nhiên. Hiểu Mác như thế là chưa đầy đủ mặc dù không sai. Mác rất chú trọng đến cái mà ta có thể gọi là tiếp cận hành động xã hội, cả ở những luận điểm cũng như ở những công trình nghiên cứu cụ thể mà Mác đã làm. Mác có một định nghĩa về xã hội như sau: "Xã hội - bất cứ dưới hình thái nào - là gì? Nó là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người" (Marx, 1976: tr. 7). Khi phân tích về diễn biến của Công xã Pari, Mác đề cập: "... nếu những 'sự ngẫu nhiên' không có tác dụng gì cả thì sự sáng tạo ra lịch sử sẽ mang một tính chất rất thần bí. Đương nhiên, những sự ngẫu nhiên này là một bộ phận trong quá trình phát triển chung và được những sự ngẫu nhiên khác bù trừ lại. Nhưng phát triển nhanh hay chậm, là phụ thuộc rất nhiều vào những 'sự ngẫu nhiên' như vậy, kể cả 'sự ngẫu nhiên' như tính cách của những người lúc đầu lãnh đạo phong trào" (Marx, 1976: tr. 50). Trong một bức thư viết năm 1890, F. Engels nói rõ: "Chúng ta tự sáng tạo ra lịch sử của chúng ta, nhưng một là sáng tạo với những tiền đề và những điều kiện hết sức rõ ràng... Hai là lịch sử đã diễn ra theo cái hướng là kết quả cuối cùng luôn luôn phát sinh từ những sự xung đột giữa nhiều ý chí cá nhân, mỗi ý chí cá nhân này lại do vô số những điều kiện sinh sống đặc biệt tạo ra" (Marx, 1976: tr. 96 và 97). Ông cũng nhấn mạnh sự khác nhau giữa sự phát triển của tự nhiên và của xã hội ở một điểm căn bản: "Trái lại, trong lịch sử của xã hội, những nhân tố hoạt động là những con người có ý thức, hành động có suy nghĩ hay có ham mê, và theo đuổi những mục đích nhất định; không có gì xảy ra mà lại không có ý định tự giác, không có mục đích mong muốn" (Marx, 1963: tr. 357-358). Mặc dù, ngay từ đầu lịch sử xã hội học đã xuất hiện song đề cấu trúc đối lập hành động, phản ánh hai khuynh hướng tương phản nhau trong xã hội học, song thuật ngữ hành động luận (actionalism) chỉ xuất hiện trong thập niên 1960 gắn với tên tuổi của A. Touraine, một nhà xã hội học Pháp. Ông muốn thay thế một xã hội học về xã hội bằng một xã hội học về chủ thể hành động. Hành động luận của Touraine chủ trương đặt tác nhân vào vị trí trung tâm của xã hội học: tác nhân không phải là bộ phận hợp thành mà là chủ thể của hệ thống xã hội. Các phong trào xã hội có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc khắc phục tình trạng trên. Nói cách 15 khác: những hành động xã hội tích cực "làm nên lịch sử" phải là trung tâm của đời sống xã hội hôm nay, và do đó của nghiên cứu xã hội học. A. Giddens cố gắng khắc phục sự khác biệt giữa tiếp cận cấu trúc và tiếp cận hành động xã hội. Ông cho rằng thông thường các nhà lý luận hoặc đặt mình vào cấu trúc và tính chất câu thúc của chúng, hoặc vào hành động và ý nghĩa. Giddens chủ trương vùng nghiên cứu cơ bản của khoa học xã hội chẳng phải là kinh nghiệm của các chủ thể, cũng chẳng phải là sự tồn tại của một hình thái tổng thể xã hội nào, mà là các thực tiễn xã hội được xếp đặt qua không gian và thời gian (Giddens, 1984). Luận điểm cơ bản của ông rất đơn giản: cấu trúc và hành động là hai mặt của một đồng xu. Cả cấu trúc lẫn hành động không thể tồn tại một cách độc lập, chúng liên quan với nhau một cách sâu sắc. Hành động xã hội tạo nên cấu trúc, thông qua hành động mà cấu trúc được sản xuất và tái sản xuất. Cấu trúc vừa hạn chế vừa là nguồn lực của hành động. Từ đó, Giddens đề xuất thuật ngữ "cấu trúc hoá" (structuration). Để giải thích luận điểm của mình, Giddens lấy ví dụ về sự liên hệ và khác nhau giữa ngôn ngữ và lời nói. Ngôn ngữ thể hiện một cấu trúc các quy tắc phải tuân theo để có thể hiểu được nhau. Nhưng lời nói là thực tế các hành động trong ngôn ngữ, các quy tắc ngôn ngữ quy định lời nói nhưng cũng là nguồn lực cho lời nói, lời nói lại tạo ra và tái tạo ra ngôn ngữ. Trong môn xã hội học hoặc một vài môn học gần với xã hội học ở Việt Nam hiện nay vẫn còn quan sát thấy sự tồn tại của một số mặc định tư tưởng và lối tư duy đã bị vượt qua trên thế giới từ vài thập niên trước (quá nhấn mạnh vào quy luật, cấu trúc, tính tất yếu, ...). Về mặt học thuật, chỉ nói đến khía cạnh cấu trúc-quy luật-tất yếu thì hoàn toàn không phản ánh đầy đủ diện mạo tư tưởng xã hội hiện đại nửa sau thế kỷ XX, cũng như không phản ánh đầy đủ tính phong phú của chủ nghĩa Mác. Quan trọng nữa là về mặt thực tiễn, thông điệp hàm ý (hoặc ẩn ngầm hoặc không có ý thức) của nó có xu hướng khích lệ người ta chỉ thấy một chiều những câu thúc, chấp nhận những "tính tất yếu", "cái xã hội khách quan". Kết quả phụ kèm theo là nó không trang bị cho người ta tính sẵn sàng thay đổi, đón nhận vai trò "chủ thể hành động". Sự nhấn mạnh thái quá và một chiều nói trên thể hiện khuynh hướng có thể gọi là "bái cấu trúc giáo" (vận dụng khái niệm bái vật giáo của Mác trong bộ Tư bản). Xã hội học hành động xã hội giúp ta chú ý và nhấn mạnh đến một chiều cạnh khác của hiện thực xã hội đối lập với hệ tri thức chức năng-cấu trúc-tiến hoá; trong hiện thực xã hội của xã hội học hành động, có một không gian rộng lớn dành cho chủ thể sáng tạo. Điều này rất quan trọng cho những con người đang sống trong những xã hội biến đổi nhanh: nó chỉ cho họ thấy rằng người ta có thể tạo nên tương đối nhanh chóng những cấu trúc xã hội hoàn toàn mới bằng hiểu biết và hành động xã hội. Không phải con người bị giam hãm trong những cấu trúc, thụ động chờ đợi cấu trúc "tự tiến hoá", mà cấu trúc là sản phẩm của hành động con người, hoàn toàn có thể và chỉ có thể "bị" thay đổi duy nhất bởi chính hành động con người. Điều nói trên cũng rất quan trọng đối với những quốc gia đang vươn mình đuổi theo thời đại, như Việt Nam. Xã hội Việt Nam đang ở thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá mạnh mẽ. Nếu so sánh với khu vực và thế giới, khó có thể dự đoán rằng, với nhiều cách thức mà ta làm trong 15 năm qua, thì có thể khắc phục được sự tụt hậu của mình hay không. Do đó, việc nhấn mạnh vào chủ thể hành động như trong xã hội học hành động là rất quan trọng đối với người Việt Nam, từ người lãnh đạo quốc gia, người lãnh đạo ở cấp ngành, cấp tỉnh và cấp tổ chức, đến dân thường. Bởi vì ta đang cần thoát khỏi sự câu thúc của 16 các "định luật" cấu trúc-tiến hoá, gồm cả sự câu thúc của những tri thức phụ thuộc vào chúng, thay vào đó là việc chủ động tổ chức nên những cấu trúc-chức năng hiện tại của thời đại, thông qua chủ thuyết nhấn mạnh vào hành động xã hội. Như Mác đã nói: con người là chủ thể sáng tạo nên lịch sử, và như xã hội học hành động hiện đại nói: cấu trúc và thiết chế là do con người tạo ra mà thôi. 1.2.4. QUAN ĐIỂM BIẾN ĐỔI XÃ HỘI Trong xã hội học, biến đổi xã hội là một trong những mối quan tâm chủ yếu. Xã hội học nhìn biến đổi như là một quá trình được cấu trúc trong đó diễn ra một xu hướng thay đổi nhất định. Vào giữa thế kỷ XIX, những nỗ lực đầu tiên trong phân tích xã hội học được thúc đẩy bởi nhu cầu giải thích hai làn sóng biến đổi lớn đang tràn khắp châu Âu: công nghiệp hóa và sự nổi lên của lý tưởng và tổ chức nhà nước dân chủ theo mô hình Cách mạng Mỹ và Pháp. Một số nhà xã hội học cổ điển, trong đó có Mác, tìm cách xây dựng những lý thuyết nhằm giải thích hai hiện tượng biến đổi xã hội lịch sử nói trên. Trong thế kỷ XX, các lý thuyết về biến đổi xã hội xuất hiện rất nhiều và ngày càng phức tạp hơn, dù không lý thuyết nào hoàn toàn vượt qua được những gì mà các nhà cổ điển đã nêu lên. Biến đổi xã hội có thể khởi xướng từ phía chính phủ thông qua hoạt động lập pháp hay hành pháp; từ phía công dân khi họ tổ chức lại thành các phong trào xã hội; hay từ việc truyền bá nền văn hóa này sang nền văn hoá khác; hay do các hệ quả có hoặc không có chủ định của công nghệ. Biến đổi cũng có thể diễn ra do tác động của những yếu tố môi trường, và những chuyển dịch trong cán cân kinh tế và chính trị toàn cầu. Quan điểm chức năng luận về biến đổi xã hội cho rằng, nếu xã hội được xem như một khuôn mẫu các chức năng phức tạp và tương liên, thì biến đổi có thể được giải thích như một hiện tượng phụ trong cuộc tìm kiếm thường xuyên sự cân bằng. Những biến đổi xã hội có thể được hiểu như những điều chỉnh xã hội trước những gãy vỡ hay “rối loạn chức năng” bên trong cơ thể xã hội. Lý thuyết của Mác về biến đổi xã hội nhấn mạnh khía cạnh xung đột, trước hết là xung đột giai cấp và các nhóm lợi ích; đồng thời ủng hộ hành động tích cực, tập trung vào khả năng mà con người có thể thay đổi số phận của mình thông qua hành động chính trị. Các lý thuyết xung đột trong thế kỷ XX, chịu ảnh hưởng của Mác, đều giải thích biến đổi xã hội là kết quả của cuộc đấu tranh giành lợi ích giữa các giai cấp, các sắc tộc hay nhóm xã hội. Khoa học xã hội thế kỷ XIX thường có xu hướng phân tích vĩ mô và dài hạn, nhìn biến đổi xã hội như một quá trình tổng thể thuần nhất, các lĩnh vực của đời sống xã hội sớm hay muộn sẽ theo nhau thay đổi. Khoa học xã hội nửa sau thế kỷ XX thường chú trọng hơn đến tình trạng không đồng bộ trong sự biến đổi của cấu trúc xã hội, nó quan niệm rằng biến đổi thường là cục bộ và không đồng đều. Chẳng hạn, Daniel Bell trong cuốn sách “Cultural Contradictions of Capitalism” (Những tương phản văn hóa của chủ nghĩa tư bản) viết năm 1976 cho rằng biến đổi trong thế giới hiện đại nảy sinh từ sự căng thẳng giữa ba “lĩnh vực” của thực tiễn xã hội, mỗi “lĩnh vực” vận hành theo những nguyên lý khác nhau và hướng tới những mục tiêu khác nhau. Đó là: cấu trúc công nghệ-kinh tế (khoa học, công nghiệp và kinh tế), hệ thống chính trị, và văn hóa. 17 1.3. HIỆN ĐẠI HÓA NHÌN TỪ KHÁI NIỆM PHÁT TRIỂN Trong phần trên đã đề cập đến một thực tế là có sự khác biệt nhưng liên quan mật thiết với nhau giữa ba thuật ngữ hay khái niệm: công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển. Sự liên quan ấy mật thiết đến mức người ta có thể dùng ba thuật ngữ này thay thế cho nhau. Thuật ngữ công nghiệp hóa đã xuất hiện trước từ thế kỷ XIX, tiếp theo là “hiện đại hóa” trong nửa đầu thế kỷ XX, rồi đến “phát triển” trở thành khái niệm then chốt trong lý luận và chính sách quốc tế sau 1945. “Phát triển” trở thành một thuật ngữ phổ biến hơn, vì nó có hàm nghĩa rộng hơn, phản ánh được nhiều khuynh hướng và hàm nghĩa rộng rãi, thoát khỏi hàm nghĩa là một lý thuyết đậm khuynh hướng phương Tây như thuật ngữ “hiện đại hóa”. Mục này trình bày quá trình hiện đại hóa nhìn từ góc độ của khái niệm phát triển. Khái niệm phát triển ra đời sau 1945 và sau này trở thành một thuật ngữ quốc tế “chính thống” để nói về quá trình hiện đại hóa xã hội toàn cầu. Nhưng bên dưới thuật ngữ khung này đã xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau về phát triển, chúng lần lượt thay thế nhau và phản bác nhau, nhưng cũng kế thừa và bổ sung nhau. Chúng cùng góp phần làm rõ hơn quan niệm phát triển. Trong thư trả lời L. Cughenman năm 1868, Mác nói: “lịch sử của lý luận chắc chắn chỉ rõ rằng quan niệm về quan hệ giá trị bao giờ cũng là một, chỉ có cái là quan niệm đó rõ hơn hay mờ hơn, bị những ảo tưởng bao phủ nhiều hơn hay được xác định một cách khoa học hơn. Vì chính bản thân quá trình tư duy lớn lên từ những quan hệ nhất định, chính bản thân nó là một quá trình tự nhiên, nên tư duy hiểu được một cách hiện thực, bao giờ cũng chỉ là một, và chỉ có thể biến đổi dần dần khác đi, theo trình độ chín muồi của sự phát triển, và đặc biệt là của sự phát triển của khí quan tư duy.” (C. Mác, 1962). Suốt nửa sau thế kỷ XX đến nay, đã xuất hiện nhiều dòng quan niệm mang tính lý luận về phát triển. Những quan niệm này đã có ảnh hưởng rất mạnh đến thực tiễn công tác phát triển. Có nhiều cách chia về tiến trình lịch sử của nghiên cứu lý luận phát triển. Khi theo dõi lĩnh vực này, chúng tôi thấy có một cách phân chia là nhìn tiến trình này gồm hai giai đoạn: những năm 1940-1970 và 1980 đến nay. Trong giai đoạn trước, các lý thuyết gia và chính trị gia chú ý hơn đến kinh tế, chính trị, tính đồng nhất với các nước đi trước. Từ 1980 người ta nhấn mạnh hơn đến con người, phúc lợi, cộng đồng và nền văn hóa cụ thể. Trong một thời gian dài, nhất là trong những năm 1950 nhưng cũng kéo dài cả sau đó, dòng tư tưởng chủ lưu coi các vấn đề cơ bản của các nước đang phát triển là có tính kinh tế. Người ta thường chỉ cho rằng các nước đang phát triển là nghèo theo nghĩa nghèo về kinh tế; nếu những nước ấy thành công trong tăng trưởng kinh tế thì các khía cạnh khác của đời sống xã hội sẽ tự động biến đổi theo. Điều này không chỉ thấy trong khoa học xã hội phương Tây mà cả trong khoa học xã hội các nước xã hội chủ nghĩa trước kia. Nhiều lý thuyết ban đầu về phát triển trước hết là các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế và biến đổi kinh tế (economic transformation), rất ít chú ý đến khía cạnh chính trị và xã hội. Chúng tập trung vào những điều kiện mà các nhà nghiên cứu cho là sẽ thúc đẩy hay gây trở ngại cho tiến bộ kinh tế, trong khi họ rất ít hoặc không chú ý gì đến khía cạnh xã hội. Hậu quả khi ứng dụng vào thực tế, tức là vào việc hoạch định chiến lược phát triển thì cũng chỉ là chiến lược kinh tế. Từ đó ảnh hưởng vào trọng tâm của hoạt động hợp tác quốc tế và viện trợ phát triển cũng là vào lĩnh vực kinh tế. Các chiến lược dựa trên lý thuyết kinh tế mà Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) đề xuất, từ đó, cũng bỏ qua yếu tố chính trị và văn hoá, ít tính đến các tiền đề chính trị cho cải cách kinh tế. Ngay phần lớn các nhà quản lý ở các nước đang phát triển cũng xem nhẹ 18 yếu tố phi kinh tế. Nguyên do một phần cho quan niệm thô thiển này là vì các nước phát triển hồi đó đang bắt đầu một quá trình tiến bộ kinh tế rất mạnh, kéo dài đến tận cuối những năm 1970, đặc biệt trong những năm 1960. Do đó, dẫn đến ý tưởng lạc quan rằng tiến bộ kinh tế sẽ tự nó dẫn đến tiến bộ trong mọi mặt khác của đời sống xã hội. Thêm nữa, từ đó lại thịnh hành một quan điểm rằng các nước đã phát triển là mô hình lý tưởng cho các nước đi sau, và các nước đang phát triển có thể áp dụng kinh nghiệm thành công của các nước đã phát triển. Người ta cũng quan sát thấy một logic lập luận tương tự trong khối các nước xã hội chủ nghĩa, khi các nước Đông Âu đi theo mô hình xô-viết và đã ít nhiều thành công, đặc biệt trong những nước phát triển hơn như Tiệp Khắc, Đông Đức, so với các nước Ba Lan, Bulgaria, Hungaria, Romania. Dĩ nhiên, ngay trong thời kỳ mà tư tưởng nói trên đóng vai trò chính thống, vẫn có những quan điểm ngược lại, cung cấp những bằng chứng thực nghiệm và các luận điểm về một thực tế khác trong các nước đang phát triển, mang tính toàn diện hơn. Sự đấu tranh giữa các luận thuyết cộng với thực tiễn phát triển cả thành công lẫn thất bại đã ngày càng làm biến đổi tình hình trong công tác lý luận phát triển. Các nhà nghiên cứu phát triển và hoạch định chính sách phát triển trở nên cởi mở và nghiêm túc hơn với việc phân tích quá trình phát triển như là một tổng thể bao gồm cả kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, con người và môi trường. Hai mươi năm qua, có sự quan tâm mạnh mẽ hơn đến các hoàn cảnh đặc thù trong từng nước, ý thức nhiều hơn đến các điều kiện địa phương riêng, về tầm quan trọng của biến đổi qua thời gian, chú ý nhiều hơn đến những khác biệt xã hội và văn hóa, bao gồm khác biệt giới. Cuối cùng là tương tác xã hội và môi trường đã được đưa vào mối quan tâm của nghiên cứu phát triển và chiến lược phát triển. 1.3.1. PHÁT TRIỂN NGHĨA LÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Mặc dù J. Schumpeter đã nhấn mạnh đến sự khác biệt giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế, song có thể do những lý do về nhận thức và bối cảnh xã hội mà nhiều nhà kinh tế học phát triển của những năm 1950 đã xem nhẹ sự phân biệt quan trọng này. Họ có xu hướng coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu tối hậu tự thân, và cho rằng đó chính là cái mà các nước chậm phát triển cần. Nhưng công bằng mà nói, khái niệm tăng trưởng kinh tế theo cách hiểu của các nhà kinh tế học thập niên 1950 thực ra có tính bao quát, gồm cả nâng cao sản xuất và tiêu dùng, tăng việc làm và nâng cao mức sống, giảm mức tăng dân số. Nói cách khác, các lý thuyết phát triển dựa trên tăng trưởng kinh tế cũng tính đến một số khía cạnh xã hội của quá trình. Như vậy có thể nói, về mặt học thuật, các học giả thập niên 1950 đã không sai sót nhiều lắm trong việc hình thành và sử dụng khái niệm tăng trưởng kinh tế như là một khái niệm then chốt trong phương pháp luận nghiên cứu. Tuy nhiên, trong thực tiễn chính sách và hành động, lý luận của họ đã tạo điều kiện cho việc hiểu sai hẹp đi: các nhà hoạch định chính sách thực tiễn có xu hướng hiểu tăng trưởng kinh tế trước hết là chỉ tiêu tăng GDP (ngay hiện nay ở một số nước, kể cả ở Việt Nam, vẫn tồn tại xu hướng này). Trong những năm 1960, các nhà kinh tế học phát triển cũng đặc biệt quan tâm đến vấn đề phân phối và quan hệ của nó đến tăng trưởng kinh tế, bởi vì có nhiều bằng chứng cho thấy tăng trưởng kinh tế trong các nước đang phát triển đã diễn ra kèm theo sự bất bình đẳng ngày càng tăng giữa các nhóm xã hội, vùng địa lý và thành phần kinh tế. Trong bối cảnh ấy, người ta quay trở lại với di sản của Schumpeter: nhấn mạnh vào phát triển kinh tế hơn là chỉ chú trọng đến tăng trưởng kinh tế. Các nhà nghiên cứu và làm chính sách nhất trí hơn với nhau rằng phát triển kinh tế có nghĩa là một quá trình trong đó thu nhập đầu người thực tế của một nước tăng lên 19 trong một giai đoạn dài, trong khi mức độ nghèo khổ giảm xuống và bất bình đẳng nói chung là được thu hẹp hoặc ít nhất là cũng không tăng lên. 1.3.2. PHÁT TRIỂN VÀ PHỤ THUỘC Đầu những năm 1960, xuất hiện một số giải thích về phát triển của các nhà khoa học được coi là mác-xít ở một số nước xã hội chủ nghĩa và ở phương Tây. Dòng lý thuyết này bao gồm hai khuynh hướng, một tập trung vào mối quan hệ của các nước đang phát triển với các nước phương Tây, khuynh hướng kia tập trung xem xét các điều kiện bên trong các nước đang phát triển. Lý luận của một số nhà nghiên cứu mác-xít xem phát triển là nhằm đạt được độc lập quốc gia thực sự và tiến bộ kinh tế tự thân (self-centred). Họ cho rằng chủ nghĩa đế quốc và các quyền lực thuộc địa kiềm chế Thế giới thứ ba trong sự chậm phát triển và phụ thuộc. Phi thực dân hoá về mặt chính trị mới chỉ là bước khởi đầu, chưa thay đổi được gì nhiều về bản chất tình trạng này. Để phát triển các nước đó cần tiếp tục tách khỏi các nước công nghiệp hoá chính quốc. Việc tách khỏi này không phải là mục tiêu tự nó, mà chỉ là công cụ để đạt được sự độc lập quốc gia thực sự. Cũng cần nói rằng, không phải mọi nhà lý thuyết theo khuynh hướng này đều cho rằng việc tách ra khỏi thị trường thế giới là cách tốt nhất để đạt được sự độc lập. Khuynh hướng thứ hai, xem xét các điều kiện bên trong, chủ trương hai quan điểm. Thứ nhất, các nước đó phải đi lên trên căn bản dựa vào các tiền đề và nguồn lực riêng của mình. Thứ hai, con đường xã hội chủ nghĩa là có tính ưu việt hơn. Về điểm này, trong các nhà khoa học mácxít cũng có ý kiến khác nhau về cách đi lên chủ nghĩa xã hội. Một cực ý kiến cho rằng phải sử dụng chủ nghĩa tư bản để phát triển những tiền đề vật chất cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Chú ý rằng ý kiến này có một hàm ý tương tự lý luận hiện đại hoá: xem các nước đã công nghiệp hoá cao là hình ảnh mà các nước đi sau tất yếu phải theo. Điều khác nhau chỉ là ở chỗ, với các nhà lý luận hiện đại hoá thì đó là mục tiêu cuối cùng, còn với các nhà mác-xít theo quan điểm đó thì đây là mục tiêu trung hạn nhằm tạo ra một trạng thái mới để đi lên chủ nghĩa xã hội. Một cực ý kiến khác lại cho rằng các nước đang phát triển cần tách ra khỏi thị trường thế giới, xây dựng nền kinh tế kế hoạch tập trung dưới sự chỉ đạo của nhà nước, bỏ qua con đường tư bản chủ nghĩa. Có một hướng chủ đề trong dòng lý thuyết này tập trung vào những phân tích lịch sử và thực nghiệm về các giai cấp và nhà nước trong các nước đang phát triển. Hàm ý của hướng chủ đề này là vẫn thừa nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, song cho rằng các nước đang phát triển chưa đủ tiền đề cho điều ấy trong tương lai trước mắt. Do đó, cần tập trung vào những phương án phát triển hiện thực hơn cho các nước chậm phát triển, như dân chủ hoá đời sống kinh tế và chính trị. Họ cũng tán thành một nhà nước mạnh tập trung và một khu vực công cộng chủ đạo, đồng thời nhấn mạnh đến tăng quyền lực cho người dân, tự quản địa phương, hợp tác xã. 1.3.3. PHÁT TRIỂN NGHĨA LÀ HIỆN ĐẠI HOÁ Hiện đại hóa được xem như là một quá trình mà cốt lõi là công nghiệp hóa và những quá trình biến đổi tương thích trong chính trị, văn hóa và xã hội. Những đặc trưng của nó là sự hợp lý hóa, khu biệt hóa, hiện đại hóa văn hóa, dân chủ. 20 Trong những năm 1940-1950 xuất hiện một hướng lý luận xem sự phát triển như là một quá trình hiện đại hoá, đó là một sự biến đổi cấu trúc trong đó các xã hội truyền thống và lạc hậu ở các nước Thế giới thứ ba phát triển theo hướng ngày càng giống hơn với các nước phương Tây. Những đặc trưng của xã hội hiện đại đáng được bắt chước bao gồm: phân công và chuyên môn hoá rộng rãi lao động, năng suất lao động cao, tăng trưởng kinh tế ổn định (self-sustaining), mức sống cao, phân phối tương đối đồng đều, nhà nước dân chủ và điều hành hiệu quả. Lý thuyết hiện đại hóa cổ điển được bổ sung bởi lý thuyết hiện đại hóa như là một quá trình biện chứng. Lý thuyết hiện đại hóa biện chứng cũng chấp nhận ý tưởng cơ bản: phát triển là quá trình mà xã hội ngày càng chấp nhận nhiều hơn các yếu tố hiện đại. Nhưng nó cho rằng đây là một quá trình biện chứng. Theo đó, truyền thống không nhất thiết cản trở sự phát triển, ngược lại các định chế hiện đại có thể trong những thời điểm và bối cảnh nhất định lại cản trở phát triển, không vận hành một cách suôn sẻ, vì không tương thích với các truyền thống của xã hội. Thêm nữa, tiếp cận này còn cho rằng trong thực tế các định chế xã hội truyền thống là năng động, đa dạng và có khả năng sống sót trong tiến trình hiện đại hoá. Từ đó đi đến một ý tưởng chính của lý thuyết này rằng cái truyền thống và cái hiện đại là những hiện tượng xã hội tương tác một cách biện chứng, trong đó cả hai hiện tượng đều trong quá trình biến đổi, và kết quả là mang tính hỗn hợp, lai ghép. Tiếp cận này có một hàm ý quan trọng: nó bác bỏ quan niệm phát triển là một cái gì đó mang tính phổ quát, với mục tiêu tối hậu là tương đồng một cách tối đa với các xã hội Âu-Mỹ đã công nghiệp hóa. Thay vào đó là một quan niệm mở: phát triển là tương thích với hoàn cảnh đặc thù của mỗi xã hội và phù hợp với ý nguyện của người dân sống trong xã hội đó. Tiếp cận này cũng nhấn mạnh đến các điều kiện phi kinh tế như là những yếu tố trong các quá trình kinh tế và như là những động lực có ý nghĩa và mang tính tự thân trong đời sống xã hội. 1.3.4. PHÚC LỢI VÀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI LÀ MỤC TIÊU CỦA HIỆN ĐẠI HÓA VÀ PHÁT TRIỂN Sự tiến triển của quan niệm phát triển đã diễn ra ngay trong lòng dòng lý thuyết gọi là tăng trưởng kinh tế. Mặc dù trong cái gọi là "kinh tế", các nhà kinh tế học phát triển đã bao gồm nhiều khía cạnh xã hội (việc làm, nâng cao mức sống, giảm nghèo, giảm bất bình đẳng), song mục tiêu cơ bản cũng như cách đo lường phát triển vẫn chủ yếu xoay quanh việc tăng thu nhập. Một quan niệm lý luận mới nảy sinh với tham vọng đưa ra một quan niệm đối lập (alternative) đã đặt ra vấn đề quan hệ giữa nâng thu nhập và phúc lợi con người, theo đó cái thứ nhất phải được xem chỉ là phương tiện cho cái thứ hai, còn cái sau mới chính là mục tiêu tối cao và bản chất của phát triển. Tăng trưởng kinh tế quốc gia là điều kiện cải thiện đời sống dân cư, song không phải là điều kiện duy nhất. Chẳng hạn, nhiều nghiên cứu thực nghiệm quốc tế đã chứng minh rằng tăng trưởng kinh tế không trực tiếp và tự động dẫn đến tiến bộ trong giáo dục và sức khoẻ. Chấp nhận lý luận như thế, UNDP đã tạo điều kiện để một số tác giả của dòng lý thuyết trên, chẳng hạn Mahbub ul Haq, xây dựng một khung tiếp cận mới cho UNDP. Kết quả thể hiện ở Báo cáo Phát triển Con người đầu tiên của UNDP năm 1990. Có thể xem đây là điểm mốc quan trọng đối với UNDP: tổ chức này chính thức nêu lên một học thuyết mới, dựa trên một lý luận phát triển lấy phúc lợi và con người làm trung tâm. 21 Nhóm công tác dưới sự lãnh đạo của Haq đã đưa ra khái niệm "phát triển con người" được hiểu là quá trình mở rộng những cơ hội cho sự lựa chọn của người dân trên ba lĩnh vực chủ yếu: cơ hội có một cuộc sống lâu dài và khoẻ mạnh, cơ hội tiếp cận tri thức, cơ hội tiếp cận các nguồn lực cần thiết để có một mức sống thích đáng. Xa hơn nữa, không chỉ dừng lại ở cấp độ khái niệm, các tác giả còn đề xuất chỉ báo định lượng tổng hợp để biểu hiện mức độ phát triển con người về mặt thống kê có thể so sánh được qua thời gian hoặc giữa các nước, ngày nay đã trở thành nổi tiếng và phổ biến: chỉ số phát triển con người (human development index, HDI). Sau này, với thời gian, nhiều nội dung khác đã được bổ sung như: quyền con người, phát triển con người nhìn từ góc độ giới (qua biểu hiện của GDI, chỉ số phát triển giới), bền vững môi trường, tham gia của người dân, ... Người ta cho rằng dòng lý luận này đã đưa ra một hệ quan niệm mới cho phát triển, trở thành một khuôn khổ lý thuyết mới cho nghiên cứu và chiến lược phát triển. 1.3.5. PHÁT TRIỂN CÓ SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN Trong thực tế, mối quan hệ giữa nhà nước với người dân, giữa các giai tầng bên trên với đông đảo dân chúng, là một trong những nội dung cơ bản phân biệt các quan niệm và lý luận khác nhau về phát triển. Đến thập niên 1970 đã nổi lên một hướng nghiên cứu mới về mối quan hệ trên, xoay quanh một số quan niệm như “phát triển có sự tham gia của người dân”, “phát triển dựa trên nhu cầu cơ bản”, “phát triển dựa trên tăng cường năng lực”, v.v. Quan điểm hiện đại hóa cổ điển. Trong những năm 1950-1960, một số lý thuyết gia theo quan điểm hiện đại hoá cho rằng tham gia và dân chủ không tương thích với tăng trưởng kinh tế nhanh. Họ cho rằng lôi cuốn người dân quá nhiều vào việc ra quyết định có thể cản trở tăng trưởng, vì người dân thường chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, thiếu tầm nhìn. Nhưng một số tác giả lại cho rằng sự tham gia rộng rãi vào đời sống chính trị có thể hoà hợp với tăng trưởng kinh tế và hiện đại hoá, nếu thiết lập được những kênh tổ chức và kiểm soát có hiệu quả. Chẳng hạn, S. Huntington nêu lên một luận thuyết khá quan trọng về mối tương quan giữa mức độ tham gia và tiến trình định chế hoá. Ông cho rằng điểm mấu chốt là giữ cho mức độ tham gia công cộng không vượt quá mức định chế hoá; mức độ tham gia cần được chuyển vào những kênh định chế vận hành nhất trí với chính sách chung của nhà nước. Trong thực tế, một số nhà nước trong các nước đang phát triển đã chấp nhận quan điểm này và áp dụng vào thực tế quản lý của họ. Mô hình Đông Á. Một số nhà nước Đông Á, nơi đã có sự thành công kinh tế vang dội, lại đề cao "các giá trị châu Á" với hàm nghĩa là phải thực hiện chính sách kiểm soát mức độ dân chủ và tham gia trong tiến trình phát triển nếu muốn đạt được mục tiêu. Quả thực các nhà lãnh đạo tán thành quan điểm trên đã có thành tích lớn trong việc đưa đất nước họ đạt được mục tiêu phát triển. Mặc dù vậy, vẫn có nhiều người trong những nước đó cũng như ở bên phương Tây phê phán về mức độ đúng đắn của các thực tế phát triển ấy, nêu lên nhiều bằng chứng về các hậu quả của sự thiếu dân chủ trong tiến trình phát triển. Quyền lực tham gia không cân xứng trong phát triển. Trong thập niên 1950-1960, một số nhà nghiên cứu được coi là mác-xít đã có những công trình về giai cấp và nhà nước trong các nước đang phát triển. Họ cho rằng hình thái phát triển kinh tế sẽ bị định hình bởi khuôn mẫu và mức độ tham gia của dân chúng. Họ nhấn mạnh đến sự tham gia không cân xứng: các giai tầng xã hội có cơ hội rất khác nhau trong việc tiếp cận và ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của 22 nhà nước. Chính sách kinh tế và ảnh hưởng của nó lên khuôn mẫu phát triển thường bị định hình bởi các giai tầng có quyền lực, có cơ sở hạ tầng tổ chức mạnh, có cơ hội dễ dàng tiếp cận đến nhà nước. Thông thường đây cũng là những giai tầng thống trị về mặt kinh tế trong sản xuất và thị trường. Nhà nước không phải là một tổ chức trung tính, mà nó tổ chức và xúc tác cho sự tham gia chính trị của giai tầng có quyền lực, đồng thời giảm bớt tính tổ chức của các giai tầng khác. Phát triển có sự tham gia của người dân. Giữa những năm 1970 nổi lên dòng lý luận mới về sự tham gia của người dân trong phát triển. Khác với lý thuyết hiện đại hoá, dòng quan niệm này cho rằng sự tham gia là cần thiết cho tăng trưởng kinh tế; người nghèo phải nhận được phần công bằng trong thành quả của phát triển. Nhưng khác với lý thuyết mác-xít những năm 19501960, quan niệm này lại nhìn thấy ở nhà nước một vai trò tích cực: nó cho rằng có thể động viên và tổ chức người dân, nhất là người nghèo, tham gia vào phát triển với sự trợ giúp tích cực của nhà nước. Mặc dù sẽ có nhiều trở ngại từ phía các giai tầng nắm quyền lực, song sự tham gia của người nghèo là có thể thực hiện được và điều này có lợi cho phát triển quốc gia. Lý thuyết này không công nhận quan niệm về mâu thuẫn đối kháng và những lợi ích loại trừ nhau trong đấu tranh của các giai cấp, nó cho rằng mọi giai tầng về cơ bản đều có lợi trong sự tham gia của người dân. Phát triển dựa trên nhu cầu cơ bản. Các tìm tòi và tranh luận về lý thuyết đã dẫn đến sự hình thành dòng quan niệm tạm thể hiện theo công thức “phát triển=nhu cầu cơ bản", một quan niệm mà một số nước Bắc Âu và các tổ chức phát triển quốc tế đã có tiếng nói tích cực (ILO, WB, UNDP). Quan niệm này gắn với ý tưởng rằng nhu cầu cơ bản của con người là xuất phát điểm của mọi chiến lược phát triển, việc thoả mãn nhu cầu cơ bản của hàng triệu người nghèo trong Thế giới thứ ba phải là ưu tiên trước hết trong mọi nỗ lực phát triển. Nó cũng dựa trên một ý tưởng rằng người nghèo không tự động được hưởng lợi từ những kết quả của tăng trưởng trong giai đoạn thịnh vượng, nhưng lại là nạn nhân đầu tiên trong giai đoạn đình trệ và suy thoái. Vì vậy, cần phải có những giải pháp đặc thù để cải thiện đời sống cho người nghèo, tức là cần có chương trình mục tiêu cho những nhu cầu cơ bản của người nghèo. Quan niệm này đối ngược lại với một quan niệm chính thống trước kia cho rằng thành quả của phát triển có xu hướng sẽ tự động chuyển dần từ trên xuống (trick down). Phát triển là tăng cường năng lực cho người dân. Cùng với thời gian, khái niệm phát triển đã chuyển từ một sự copy đơn giản mô hình của các nước công nghiệp hoá và nhấn mạnh một chiều đến các yếu tố kinh tế sang tiếp cận phức thể hơn. Một số nghiên cứu đề xướng dòng quan niệm mới: gắn phát triển với năng lực ra và thực hiện quyết định. Theo quan niệm này, một xã hội là phát triển trước hết khi nó biểu lộ khả năng (ability) và năng lực (capacity) tốt hơn trong việc ra các quyết định và thực hiện chúng một cách hiệu quả. Dòng quan niệm này đôi khi được gọi là tiếp cận “tăng cường năng lực cho phát triển” (capacity-building) và có những điểm tương đồng với lý luận hiện đại hoá biện chứng. Nó nhấn mạnh đến hoàn cảnh đặc thù của các xã hội khác nhau và nhấn mạnh đến những ưu tiên của người dân, nhấn mạnh sự tham gia có hiệu quả của người dân vào quá trình ra quyết định như là một yếu tố không thể thiếu của toàn bộ quá trình phát triển. Ở đây cần cảnh giác với một cái “bẫy” lý luận cũng như hành động. Cũng đề cao sự tham gia của người dân, song trong quan niệm và hành động thực tiễn người ta có thể rơi vào hai thái độ rất khác nhau, làm ảnh hưởng đến bản chất và hệ quả của sự tham gia. Thái độ thứ nhất xem sự tham gia là phương tiện hỗ trợ cho việc đạt được các mục tiêu phát triển, mà những mục tiêu 23 này thì đã xác định trước từ bên trên hoặc từ bên ngoài quần chúng nhân dân nói chung hoặc bên ngoài một cộng đồng mà các “nhà phát triển” muốn giúp đỡ. Thái độ thứ hai xem tham gia của người dân là mục đích tự thân, là chính bản thân nội dung phát triển. Thái độ thứ nhất dẫn đến cách làm theo đó các nhà ra quyết định ở trung ương thay mặt (nhân danh) người nghèo xây dựng các chiến lược để rồi sau đó lôi kéo người dân tham gia vào quá trình thực hiện. Như vậy thì những nhu cầu cơ bản của người nghèo là do người khác xác định chứ không phải do chính bản thân họ. Thái độ thứ hai, được gọi là tiếp cận có sự tham gia của người dân, xem sự tham gia của dân chúng là mục tiêu tự thân và là quá trình thông qua đó các mục tiêu khác của phát triển được xác định. Trong quan niệm này, năng lực phải ngày càng được chuyển từ cấp quốc gia xuống cấp địa phương và cơ sở, từ cấp độ chính quyền xuống cấp độ ngưòi dân. Người nghèo về kinh tế thì cũng sẽ yếu về chính trị, do đó không có khả năng tác động vào việc hình thành các mục tiêu quốc gia. Để thay đổi tình trạng này và bảo đảm cho họ có thể tham gia vào quá trình ra quyết định và xác định các nhu cầu thực sự của họ, người dân cần được trao quyền sao cho họ có thể tiếp cận được đến nhà nước và những người ra quyết định ở cấp trung ương. Trong chiến lược sự tham gia của người dân mà các tổ chức quốc tế khởi xướng có xu hướng xem sự tham gia như là một phương tiện chứ không phải là mục tiêu tự thân. Trong quá trình tiến hành các dự án phát triển, các tổ chức này nhấn mạnh đến việc lôi cuốn sự tham gia của các nhóm hưởng lợi. Thế nhưng sự tham gia được nhấn mạnh ở đây có vẻ như là để ủng hộ cho những mục tiêu và ưu tiên đã được xác định trước bởi các cơ quan chức năng, mặc dù cũng đã có những quy chế yêu cầu tạo điều kiện cho người dân tham gia ngay cả trong giai đoạn này. Như vậy là các chiến lược ấy đã thực hiện theo quan niệm của S. Huntington - sự tham gia không vượt quá tiến trình định chế hoá, bằng cách kết hợp giữa nâng cao sự tham gia với việc tăng cường năng lực của các định chế chính phủ địa phương. Người ta đã chú trọng đến tái sắp xếp định chế để nó thích nghi hơn với sự tham gia ngày càng tăng lên của người dân. Lập luận ở đây là các cơ quan nhà nước địa phương mong muốn theo đuổi chiến lược giảm nghèo và dân chủ, chúng cần phải tái cấu trúc để có thể phân phối các nguồn lực đáp ứng với yêu cầu của người dân. 1.3.6. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Báo cáo của Uỷ ban Brundtland công bố năm 1987 đã trở thành một điểm mốc khi nó đưa ra khái niệm “phát triển bền vững”. Phát triển bền vững được hiểu như là một quá trình thoả mãn những nhu cầu con người hiện tại mà không gây thiệt hại cho những cơ hội của các thế hệ sau trong việc thoả mãn nhu cầu của họ. Báo cáo nêu trên cho rằng việc thoả mãn các nhu cầu và nguyện vọng của con người là mục tiêu quan trọng nhất của mọi nỗ lực phát triển trên toàn thế giới. Hàng trăm triệu người nghèo chưa có quyền công bằng đối với việc thoả mãn những nhu cầu cơ bản và khát vọng có một cuộc sống tốt hơn. Các nhu cầu và mong muốn được quy định về mặt xã hội và văn hoá về một cuộc sống xa xỉ cần phải bị từ chối như là những điều trái ngược với nguyên tắc phát triển bền vững trên quan điểm toàn cầu. Báo cáo này cho rằng phát triển bền vững đòi hỏi khuyến khích một tiêu chuẩn tiêu dùng có tính đến các giớí hạn sinh thái và tính đến mức độ mà toàn thể nhân loại trên thế giới có thể mong muốn một cách hiện thực. Lập luận về giới hạn và tiêu chuẩn tiêu dùng dựa trên nhu cầu cơ bản cho đến nay vẫn còn gây nên tranh cãi. Nhưng lập luận về tính bền vững môi trường thì ngay lập tức đã có được sự nhất trí rộng rãi. Quan niệm phát triển bền vững ngày nay đã trở thành tiêu chuẩn căn bản cho mọi hoạch định mục tiêu và chiến lược phát triển. 24 1.3.7. PHÁT TRIỂN LÀ MỘT LỊCH SỬ CỤ THỂ VÀ TỪ NHU CẦU BÊN TRONG Nếu chú ý đến các mặc định nhận thức luận (epistemological assumptions) trong các lý thuyết về phát triển, ta sẽ thấy nhiều quan niệm phát triển trình bày ở trên có một hàm ý: mọi nền văn hoá khác nhau rồi sẽ đi theo một khuôn mẫu tiến hoá chung. Đây là một mặc định phương pháp luận cơ bản thịnh hành trong thế kỷ XIX, và như ta thấy vẫn còn phổ biến trong nửa sau thế kỷ XX. Một biểu hiện rõ rệt là thuyết hội tụ. Phản ứng với quan niệm này, trong nhân học xã hội đã nảy sinh một dòng quan niệm, theo đó phát triển là một lịch sử không phải theo nghĩa phổ quát mà theo nghĩa như là lịch sử riêng của mỗi nền văn hoá. Mọi nền văn hoá đều bình đẳng, như nhau, không nền văn hóa nào có thể xác định các mục tiêu của phát triển nhân danh nền văn hóa khác. Nhà nghiên cứu phải phát hiện và mô tả các nền văn hoá cụ thể càng chính xác càng tốt, không phải từ quan điểm thay đổi chúng mà là để hiểu chúng, hiểu nền tảng riêng của chúng. Như vậy, phát triển phải là một quá trình có nền tảng từ văn hoá bên trong, một quá trình không phải được quyết định từ bên ngoài. Phát triển là gì, cần phải là gì, được thực hiện như thế nào, điều này được tự quyết định bên trong mỗi nền văn hoá, chứ không phải từ bất cứ nền văn hoá bên ngoài nào. Bằng cách đó những khác biệt trong thế giới mới được tôn trọng thực sự, và lịch sử của mỗi nền văn hoá cụ thể mới được thừa nhận là bình đẳng với lịch sử của mọi nền văn hoá khác. Và chỉ như vậy, phát triển mới trở thành tự phát triển (self-development). Có thể đặt tên cho quan niệm này là “phát triển là một lịch sử cụ thể nội tại”. Luận thuyết này có một ý nghĩa quan trọng đối với các nước đang phát triển, nó ngày càng nhận được sự đồng tình rộng rãi. 1.4. TỪ LÝ LUẬN ĐẾN ĐỊNH HƯỚNG TƯ TƯỞNG VÀ TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH Các quan điểm lý thuyết không phải là những thao tác thuần túy hàn lâm, chỉ được bàn thảo trong khuôn viên cơ sở nghiên cứu. Lý luận xã hội không phải là cái gì đó rất xa rời thực tế như một số nhà chính trị, nhà làm chính sách, thậm chí một số nhà nghiên cứu, vẫn nghĩ. Lê Nin nói: không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng. Trên thực tế, không có phong trào xã hội nào mà lại không có một hệ thống diễn giải lý luận của nó (đi trước hoặc/và kèm theo); không có một chính sách nào, một chuỗi hành động nào mà lại không dựa trên những mặc định lý luận, dù được ý thức rõ ràng hay bị chi phối ngầm mà người hành động không tự ý thức được. Kinh nghiệm lịch sử dẫn đến sự thừa nhận rộng rãi rằng lý thuyết xã hội ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xã hội, đặc biệt là hoạt động làm chính sách. T.G. Buchholz viết “Các vấn đề chính sách kinh tế mà chúng ta tranh luận hôm nay … đã được các nhà kinh tế thảo luận hơn hai thế kỷ rồi. Nhiều chính sách kinh tế hôm nay - cả những chính sách hay lẫn chính sách dở - đều là kết quả tư tưởng của các nhà kinh tế trong quá khứ” (T.G. Buchholz, 2007, trang 11). Toàn bộ cuốn sách “Ý tưởng mới từ các kinh tế gia tiền bối” của ông thể hiện rằng giữa lý luận, tư tưởng và hành động chính sách có một mối liên hệ vô cùng mật thiết. Bảng 1.1 tóm tắt lại 18 quan điểm lý luận trình bày ở trên và thử đưa ra những minh họa về việc từ những quan điểm đó có thể đề xuất những định hướng tư tưởng như thế nào trong việc hoạch định đường lối, và có thể xây dựng nên những định hướng chính sách như thế nào trong thực tiễn cụ thể. 25 Chẳng hạn, quan điểm duy vật lịch sử mà bản thân Mác đã thực sự phát biểu là quan hệ và trật tự logic biện chứng từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất, qua xã hội dân sự, giai cấp, tới nhà nước, hệ tư tưởng. Quan điểm lý luận này đáng lẽ phải được đưa vào định hướng tư tưởng và từ đó triển khai vào các chính sách theo hướng lấy sự phát triển của lực lượng sản xuất làm xuất phát điểm, không được tách rời giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã đi ngược lại logic đó, kết quả lâu dài dẫn đến thất bại. Các chính sách cơ bản hiện nay ở các nước xã hội chủ nghĩa cải cách hoặc đổi mới như Trung Quốc và Việt Nam thể hiện việc đảo ngược định hướng tư tưởng và chính sách trước kia. 1.5. LÝ LUẬN PHÁT TRIỂN QUỐC TẾ: TÓM TẮT VÀ KIẾN NGHỊ Nhiều văn kiện gần đây của Đảng nhắc đến tình trạng công tác lý luận và tư tưởng còn nhiều chậm trễ. Thúc đẩy những tìm tòi lý luận mới để diễn giải hiện thực xã hội (quốc tế và trong nước) là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Chương Một cố gắng hệ thống một số quan điểm lý luận đã được chia sẻ trong cộng đồng nghiên cứu quốc tế về quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển xét từ cách nhìn xã hội học; từ đó gợi ý cách nhìn vào thực tế đó ở Việt Nam. Xin nêu lên một số kiến nghị sau đây. o Thúc đẩy công tác hệ thống hóa những thành tựu lý luận quốc tế, kết hợp với tổng kết thực tiễn Việt Nam để đưa ra những diễn giải lý luận mới. Bên cạnh việc thúc đẩy công tác trên theo chiều rộng (mở ra thể chế và nguồn tài trợ rộng rãi để nhiều cá nhân và tổ chức có thể tiếp cận), nên có giải pháp thúc đẩy trọng điểm: hình thành và tài trợ cho một số nhóm nghiên cứu cao cấp cùng nghiên cứu một cách độc lập về những vấn đề lý luận chủ yếu hiện nay của thời đại và của Việt Nam. o Trên cơ sở đó, tổ chức các nhóm/ đề tài nghiên cứu rà soát sự thích ứng và nhất quán giữa diễn giải lý luận với các định hướng tư tưởng và chính sách hiện tại (như được minh họa trong Bảng 1.1). Sự bất tương thích giữa diễn giải lý luận về vấn đề trung tâm hiện nay (công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển) với định hướng tư tưởng và chính sách là nguyên nhân gây ra trạng thái thiếu rõ ràng hiện nay trong công tác tư tưởng và hành động thực tế. o Nhìn toàn bộ quá trình lịch sử thế giới hiện nay như là một quá trình thống nhất của sự phát triển của chủ nghĩa tư bản phát triển đầy đủ, quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, trong đó những nước phát triển cao đã đạt được những bước tiến hơn cả. Cần xem những nước này là những biểu hiện cụ thể của một hình mẫu chung của nhân loại mà các nước đi sau trong đó có Việt Nam nên học hỏi. Chấp nhận quan điểm này thực chất là tôn trọng tiếp cận cơ bản của chính bản thân Mác. o Logic với quan điểm nói trên, có thể tạm thời sử dụng các lý luận và phép đo phát triển của UNDP như là một khung quy chiếu chung cho quá trình phát triển xã hội quốc gia. Dĩ nhiên, đây không thể là một khung quy chiếu duy nhất, mà chỉ là một trong những khung then chốt, có độ tin cậy và độ thích ứng tương đối cao với hiện thực quốc tế hiện nay. Thực ra trong thực tế, nhiều cơ quan lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam đã và đang sử dụng khung quy chiếu này trong việc giải thích và điều hành chính sách. Bảng 1.1. Lý luận, định hướng tư tưởng và triển khai vào định hướng chính sách Lý luận Nội dung lý luận Định hướng tư tưởng và triển khai vào 26 1. Chủ nghĩa Mác nguyên bản 2. Chức năngcấu trúc-tiến hóa 3. Hành động xã hội 4. Cấu trúc hóa 5. Biến đổi xã hội 6. Phát triển trước hết là phát triển kinh tế 7. Tăng trưởng kinh tế Quan hệ và trật tự logic biện chứng từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất, qua xã hội dân sự, giai cấp, tới nhà nước, hệ tư tưởng. Hiện đại hóa là quá trình phát triển lịch sử mang tính toàn cầu. Hiện đại hóa: thiết lập một hệ thống chức năng-cấu trúc hiện đại, gồm các định chế khác biệt hóa ngày càng sâu về mặt chức năng. Xu hướng chủ đạo của biến đổi xã hội hiện đại: thay thế các định chế và các vai trò đa chức năng bằng các đơn vị chuyên môn hoá hơn. Định chế là sự hợp tác được quy tắc hoá, nhằm đáp ứng một hay một vài nhu cầu xã hội cơ bản. Là một tập hợp của: ý tưởng hay định luận, một tập hợp người đảm nhiệm những vai trò nhất định, một văn hoá hướng dẫn và điều chỉnh ứng xử, thể nền vật chất gắn với định chế. Khác biệt hóa dẫn đến căng thẳng và xung đột, điều tạo ra yêu cầu tăng cường liên kết xã hội Các hệ thống xã hội là sản phẩm sáng tạo của con người o Kết hợp cấu trúc và hành động: cấu trúc vừa là câu thúc vừa là nguồn lực của hành động. o Có một không gian rộng lớn dành cho chủ thể sáng tạo. Con người có thể tạo nên nhanh chóng những cấu trúc xã hội hoàn toàn mới bằng hiểu biết và hành động xã hội. o Không phải con người bị giam hãm trong những cấu trúc, thụ động chờ đợi cấu trúc "tự tiến hoá", mà cấu trúc là sản phẩm của hành động con người, hoàn toàn có thể và chỉ có thể "bị" thay đổi duy nhất bởi chính hành động con người. Là quá trình thay đổi cấu trúc, các chức năng xã hội liên tục tái thích ứng để lập lại cân bằng, đồng thời là quá trình xung đột lợi ích. Phát triển kinh tế: quá trình trong đó thu nhập đầu người thực tế tăng lên trong giai đoạn dài, tăng việc làm, giảm nghèo, bất bình đẳng thu hẹp hoặc ít nhất cũng không tăng lên. o Tăng trưởng kinh tế không nhất thiết phải gắn với bất bình đẳng; vai trò quyết định chính sách (minh họa) Tuân thủ trật tự logic biện chứng, không tách rời giữa các thành tố và không đi ngược lại logic này. Môi trường quốc tế hiện tại là xuất phát điểm trong chiến lược phát triển của đất nước. Ưu tiên việc thiết lập đúng đắn những cơ cấu nền của hệ thống xã hội (chính trị, kinh tế, pháp lý) như là bộ khung kiến trúc của xã hội. o Chủ động chuyên môn hóa, khác biệt hóa sâu rộng các định chế và tổ chức. o Đảm bảo tính độc lập tương đối của các định chế, tổ chức. o Ưu tiên xây dựng các định chế hiện đại cơ bản: hiến pháp và các đạo luật cơ bản, các nhánh quyền lực của nhà nước, thị trường, xã hội dân sự, giáo dục, y tế. o Chú trọng xây dựng đồng bộ cả bốn thành tố của cấu trúc định chế. Giải quyết mối cân bằng giữa tăng khác biệt hóa và liên kết xã hội. o Đường lối và chính sách cần hướng vào thực tiễn, không phải vào giáo điều. o Có khả năng chủ động và tích cực hội nhập quốc tế nhanh chóng. o Các định chế, tổ chức, quy tắc lỗi thời có thể bãi bỏ nhanh chóng được. o Có khả năng thiết lập ngay những định chế, tổ chức, quy tắc, chính sách cập nhật với thời đại (ví dụ đã thực hiện: nối mạng internet, vào WTO). o Không gian sáng tạo cho khu vực xã hội dân sự là điều kiện cho hiện đại hóa nhanh. o Chất lượng và sự tự do hành động của nguồn nhân lực là điều kiện cho hiện đại hóa nhanh. o Chú trọng biến đổi về chất liên quan đến thay đổi cấu trúc. o Chú trọng kiểm sóat cân bằng và xung đột. o Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm. o Khắc phục định hướng chính sách chỉ nhấn mạnh tăng trưởng kinh tế, chỉ nhấn mạnh tốc độ tăng GDP. o Phân phối công bằng. o Ưu tiên chiến lược tăng trưởng kinh tế lấy việc làm làm trọng tâm. o Chống tư tưởng chấp nhận tăng trưởng kinh tế đi trước, khắc phục bất bình đẳng 27 và bất bình đẳng là ở chính sách. o Bình đẳng và công bằng xã hội có lợi cho tăng trưởng kinh tế. 8. Phát triển theo hướng tăng độc lập tự chủ 9. Quan điểm mác-xít thập niên 1960 về lộ trình và bước đi trong sự phát triển của các nước Thế giới thứ ba o Phát triển là nhằm đạt được độc lập quốc gia thực sự và tiến bộ kinh tế tự thân. o Các nước phải đi lên trên căn bản dựa vào các tiền đề và nguồn lực riêng của mình. o Sử dụng chủ nghĩa tư bản để phát triển những tiền đề vật chất cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. o Mục tiêu lâu dài của các nước đang phát triển là nền kinh tế dân chủ nhân dân. o Tập trung vào những phương án phát triển hiện thực cho các nước chậm phát triển: dân chủ hoá đời sống kinh tế và chính trị, xây dựng một nhà nước mạnh tập trung và một khu vực công cộng chủ đạo, đồng thời tăng quyền lực cho người dân, tự quản địa phương, hợp tác xã. o Hiện đại hóa: một quá trình mà cốt lõi là công nghiệp hóa và những quá trình biến đổi tương thích trong chính trị, văn hóa và xã hội. o Là một sự biến đổi cấu trúc trong đó các xã hội truyền thống và lạc hậu ở các nước Thế giới thứ ba phát triển theo hướng ngày càng giống hơn với các nước phương Tây. o Những nguyên lý mang tính đặc trưng của xã hội hiện đại: hợp lý hóa, khác biệt hóa, hiện đại hóa văn hóa, dân chủ, pháp trị. o Những đặc trưng của xã hội hiện đại: phân công và chuyên môn hoá rộng rãi lao động, năng suất lao động cao, tăng trưởng kinh tế ổn định, mức sống cao, phân phối tương đối đồng đều, nhà nước dân chủ và điều hành hiệu quả. o Hiện đại hóa: quá trình xã hội ngày càng chấp nhận nhiều hơn các yếu tố hiện đại, nhưng là một quá trình biện chứng. o Truyền thống không nhất thiết cản trở sự phát triển, các định chế hiện đại có thể trong những thời điểm và bối cảnh nhất định lại cản trở phát triển, không vận hành một cách suôn sẻ, vì không tương thích với các truyền thống của xã hội. o Các định chế xã hội truyền thống là năng động, đa dạng và có khả năng sống sót trong tiến trình hiện đại hoá. Cái truyền thống và cái hiện đại là những hiện tượng xã hội tương tác một cách biện chứng. o Hiện đại hóa không phải là phổ quát với mục tiêu tối hậu: tương đồng tối đa với các xã hội Âu-Mỹ đã công nghiệp hóa. Hiện đại hóa phải tương thích với hoàn cảnh đặc thù của mỗi xã hội và phù hợp với ý nguyện của người dân sống trong xã 10. Lý thuyết hiện đại hóa cổ điển 11. Lý thuyết hiện đại hóa biện chứng sau. o Ưu tiên chính sách kết hợp ngay từ đầu tăng trưởng kinh tế và giảm bất bình đẳng. o Chính sách khuyến khích nội lực. o Xây dựng giới làm chính sách và giới nghiên cứu yêu nước, có năng lực. o Xây dựng nguồn nhân lực bản xứ. o Hệ thống kinh tế hỗn hợp. o Đoàn kết toàn dân là động lực của phát triển. o Nhà nước mạnh nhưng quy mô phù hợp và hiệu quả. o Khu vực kinh tế công cộng quy mô phù hợp và hiệu quả. o Khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình. o Sự tham gia của người dân. o Chống tham nhũng. o Thừa nhận xu hướng phổ quát của tiến trình phát triển thế giới, chống tư tưởng nhấn mạnh thái quá tính đặc thù. o Chủ động điều chỉnh sự bất tương thích giữa các tốc độ biến đổi trong các lĩnh vực công nghệ, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. o Công tác tư tưởng đề cao các nguyên lý phổ quát, các đặc điểm chung của tổ chức xã hội hiện đại. o Thúc đẩy lối sống công nghiệp. o Triển khai thực sự các nguyên lý phổ quát của xã hội công nghiệp hóa hiện đại hóa vào các chính sách cụ thể. o Vận dụng có chọn lọc các định chế xã hội hiện đại phù hợp với môi trường và truyền thống bản địa. o Tăng cường bản sắc văn hóa bản địa. o Vận dụng nền văn hóa và các định chế truyền thống phục vụ phát triển. o Xây dựng thực sự các định chế hiện đại, đảm bảo cho chúng có thể vận hành đúng chức năng. o Chống xu hướng truyền thống hóa các định chế hiện đại để phục vụ các lợi ích nhóm (đưa các cấu trúc lạc hậu vào cái vỏ định chế hiện đại). o Tôn trọng ý nguyện của nhân dân và các nhóm xã hội khác nhau. 28 12. Lý thuyết phát triển con người 13. Quan điểm mác-xít thập niên 1960 về sự tham gia 14. Lý thuyết tham gia của người dân 15. Quan điểm phát triển dựa trên nhu cầu cơ bản 16. Quan điểm tăng hội đó. o Phúc lợi con người là mục tiêu tối cao và bản chất của phát triển. o Nâng thu nhập chỉ là phương tiện cho phúc lợi con người. o Hình thái phát triển kinh tế sẽ bị định hình bởi mức độ và cách thức tham gia của người dân. o Các giai tầng xã hội có cơ hội rất khác nhau trong việc tiếp cận và ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của nhà nước. o Chính sách kinh tế và ảnh hưởng của nó lên mô hình phát triển bị định hình bởi các giai tầng có quyền lực, có cơ sở hạ tầng tổ chức mạnh, nắm quyền lực kinh tế, có cơ hội dễ dàng tiếp cận đến nhà nước. o Nhà nước không phải là một tổ chức trung tính, mà nó tổ chức và xúc tác cho sự tham gia chính trị của giai tầng có quyền lực, đồng thời giảm bớt tính tổ chức của các giai tầng khác. o Việc người dân tham gia rộng rãi vào đời sống chính trị là cần thiết cho tăng trưởng kinh tế. o Sự tham gia có thể hoà hợp với tăng trưởng kinh tế và hiện đại hoá, nếu thiết lập được những kênh tổ chức và kiểm soát có hiệu quả. o Tham gia của người dân là mục đích tự thân, là chính bản thân nội dung phát triển. o Người nghèo phải nhận được phần công bằng trong thành quả của phát triển. o Nhà nước có khả năng động viên và tổ chức người dân, nhất là người nghèo, tham gia vào phát triển. o Dù sẽ có nhiều trở ngại từ phía các giai tầng nắm quyền lực, sự tham gia của người nghèo là có thể thực hiện được. o Nhu cầu cơ bản của con người là xuất phát điểm. o Thoả mãn nhu cầu cơ bản của hàng triệu người nghèo trong Thế giới thứ ba phải là ưu tiên trước hết trong mọi nỗ lực phát triển. o Logic kinh tế-chính trị “nghèo hoặc không được gì hoặc bị vạ lây”: người nghèo không tự động được hưởng lợi từ tăng trưởng trong giai đoạn thịnh vượng, nhưng lại là nạn nhân đầu tiên trong giai đoạn đình trệ và suy thoái. Do đó, cần có chương trình mục tiêu cho những nhu cầu cơ bản của người nghèo. o Một xã hội là phát triển trước hết khi nó biểu lộ khả năng và năng lực tốt hơn o Thừa nhận và triển khai tư tưởng “con người là trung tâm của phát triển” o Phát triển hệ thống các chỉ báo phát triển con người vào giám sát kết quả chính sách. o Thừa nhận logic kinh tế-chính trị “quyền lực và sức mạnh kinh tế ảnh hưởng đến cách thức phát triển” để triển khai các chính sách và cơ chế nhằm hạn chế tác động ích kỷ của các nhóm có sức mạnh kinh tế và chính trị đến lợi ích phát triển chung. o Phát triển khu vực xã hội dân sự để cân bằng các lợi ích và ảnh hưởng của các nhóm xã hội khác nhau. o Xây dựng khu vực nhà nước và bộ máy công chức cam kết với lợi ích chung và điều hành có hiệu quả. o Quán triệt tư tưởng sự tham gia của người dân là mục tiêu tự thân, không phải là phương tiện được huy động cho các mục tiêu khác. o Định chế hóa các hoạt động tham gia của người dân. o Mở rộng không gian hoạt động của khu vực xã hội dân sự. o Tăng cường lợi ích và tiếng nói của các nhóm yếu thế. o Xây dựng khu vực nhà nước và bộ máy công chức có cam kết và khả năng với chức năng phục vụ sự tham gia của người dân, nhất là của các tầng lớp yếu thế. o Không phải hệ thống xã hội, các tổ chức và các giáo điều, mà nhu cầu của con người hiện thực mới là căn cứ xuất phát điểm của chính sách. o Chính sách định hướng vào nhu cầu cơ bản của người dân lao động (ví dụ: chính sách khuyến khích thực phẩm và hàng tiêu dùng cơ bản hay thực phẩm và hàng tiêu dùng cao cấp nhập khẩu, thể dục thể thao toàn dân hay thể dục thể thao đỉnh cao và phục vụ trình diễn). o Chính sách xã hội có mục tiêu và hiệu quả để giảm nhẹ và thay đổi “logic kinh tế-chính trị của sự nghèo khổ”. o Thừa nhận nguyên lý sự tham gia của người dân vào phát triển. 29 cường năng lực 17. Phát triển bền vững 18. Quan điểm phát triển là một lịch sử cụ thể nội tại trong việc ra các quyết định và thực hiện chúng một cách hiệu quả. o Nhấn mạnh đến hoàn cảnh đặc thù của các xã hội khác nhau và những ưu tiên của người dân. o Sự tham gia có hiệu quả của người dân vào quá trình ra quyết định là một yếu tố không thể thiếu của toàn bộ quá trình phát triển. o Thoả mãn các nhu cầu và nguyện vọng của con người là mục tiêu quan trọng nhất của mọi nỗ lực phát triển. o Quyền công bằng đối với việc thoả mãn những nhu cầu cơ bản và khát vọng có một cuộc sống tốt hơn của đa số dân nghèo. o Các nhu cầu và mong muốn về một cuộc sống xa xỉ cần phải bị từ chối như là những điều trái ngược với nguyên tắc phát triển bền vững trên quan điểm toàn cầu. o Đòi hỏi khuyến khích một tiêu chuẩn tiêu dùng có tính đến các giớí hạn sinh thái và tính đến mức độ mà toàn thể nhân loại trên thế giới có thể mong muốn một cách hiện thực. o Phát triển không phải là một lịch sử phổ quát mà là lịch sử riêng của mỗi nền văn hoá. o Mọi nền văn hoá đều bình đẳng, không nền văn hóa nào có thể xác định mục tiêu phát triển nhân danh nền văn hóa khác. o Phát triển là một quá trình có nền tảng từ văn hoá bên trong, một quá trình không phải được quyết định từ bên ngoài. o Đảm bảo không gian tự do cho các chọn lựa của con người, của các nhóm xã hội. o Đảm bảo hệ thống giáo dục đi trước, mang tính đột phá trong tiến trình hiện đại hóa. o Xây dựng xã hội học tập. o Coi phát triển bền vững là nguyên tắc không thể khoan nhượng chỉ đạo mọi hoạt động phát triển. o Cân bằng giữa nhu cầu phát triển ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trên nguyên tắc đề cao nhu cầu và tầm nhìn dài hạn. o Cân bằng giữa kinh tế, xã hội và môi trường; cảnh giác cao với áp lực của tăng trưởng kinh tế và lợi ích của các nhóm quyền lực kinh tế. o Chính sách hướng về nhu cầu cơ bản và khát vọng của đa số dân lao động. o Chính sách hướng về đáp ứng hợp lý nhu cầu hiện tại nhưng bảo đảm cho tương lai. o Chính sách thân thiện với môi trường. o Độc lập tự chủ trong phát triển, không sao chép giáo điều bên ngoài, không mù quáng chỉ dựa trên lý luận bên ngoài. o Tăng cường sức mạnh văn hóa truyền thống. o Thừa nhận quyền phát triển theo cách riêng của các dân tộc thiểu số trong khuôn khổ luật pháp quốc gia chung. Nguồn: Bùi Thế Cường. 30 CHƯƠNG HAI. KHUNG PHÂN TÍCH HIỆN THỰC XÃ HỘI VIỆT NAM 2.1. KHUÔN MẪU VĂN HOÁ-XÃ HỘI Theo cách nhìn xã hội học, văn hoá và cấu trúc xã hội là hai khái niệm rộng nhất, đồng thời lại gắn chặt với nhau không thể tách rời như là hai mặt của một đồng xu, một tờ giấy, một bánh xe. Cả hai gắn với nhau tạo nên tổ chức xã hội và cơ chế vận hành của xã hội, có thể gộp hai mặt ấy lại và tạm gọi là khuôn mẫu văn hóa-xã hội. Trong quản lý sự phát triển xã hội, người ta phải tư duy và điều hành chúng một cách đồng thời. Mỗi xã hội cụ thể tại một thời điểm nhất định có một hay một vài khuôn mẫu văn hoá-xã hội cơ bản. Có thể định nghĩa một khuôn mẫu văn hoá-xã hội liên quan đến một hệ tri thức, giá trị, chuẩn mực (hợp thành văn hóa) và cấu trúc xã hội (phân bố và tương tác của các vị thế và vai trò giữa và trong các nhóm, thiết chế, tổ chức), (Bảng 2.1). Bảng 2.1. Khuôn mẫu văn hoá-xã hội Hệ tri thức > Giá trị > Chuẩn mực > Văn hoá > Bánh xe nhìn dọc: Hai mặt tạo nên tổ chức xã hội < Cấu trúc xã hội Phân bố & tương tác của các < vị thế & vai trò giữa và trong các nhóm, thiết chế, tổ chức Nguồn: Bùi Thế Cường. 2.2. TƯƠNG TÁC CỦA BA KHUÔN MẪU: MỘT KHUNG LÝ THUYẾT ĐỂ NHÌN THỰC TẾ VIỆT NAM Công cuộc Đổi Mới từ năm 1986 khởi đầu một biến đổi cơ bản trong văn hoá và cấu trúc của xã hội Việt Nam. Ngay lập tức, đã có những thay đổi to lớn. Tuy nhiên, xã hội Việt Nam cho đến nay vẫn còn là một xã hội quá độ và chuyển đổi. Nhìn đại thể, có ba khuôn mẫu văn hoá-xã hội cơ bản đang tương tác với nhau ở Việt Nam hiện nay (Bảng 2.2). Thứ nhất, khuôn mẫu văn hoá-xã hội liên quan đến kiểu tổ chức hành chính tập trung quan liêu bao cấp. Sau Đổi Mới một thời gian, có xu hướng cho rằng vấn đề khắc phục cơ chế quan liêu bao cấp đã hoàn thành về cơ bản. Thực tế không hoàn toàn như vậy. Thực tiễn hành chính tập trung bao cấp của chúng ta là một khuôn mẫu văn hóa-xã hội hỗn hợp của tổ chức làng xã cổ truyền, phương thức sản xuất châu Á và vay mượn mô hình xô-viết. Nhiều nguyên lý và giá trị của cấu trúc này hiện nay vẫn còn duy trì, một cách vô hình và hữu hình, vô thức và có ý thức. Chẳng hạn, cho đến gần đây báo chí vẫn còn hàng loạt bài nói đến việc khắc phục cơ chế "xincho". Cải cách hành chính là một trong những vấn đề chủ yếu được nêu lên từ hơn 15 năm trước song đến nay vẫn còn hoàn toàn dang dở. Phải chăng điều này là biểu hiện của thực tế rằng vẫn còn nhiều rào cản của cơ chế cũ, với tên gọi "cách quản lý hành chính quan liêu bao cấp"? 31 Thứ hai, khuôn mẫu văn hoá-xã hội cổ truyền (theo nghĩa chưa công nghiệp hoá, hiện đại hoá). Khuôn mẫu này một phần gia nhập vào cấu trúc nói trên, một phần bị chính cấu trúc này đẩy vào lĩnh vực phi chính thống hay phi hình thức. Phần sau này hiện nay đang phục hồi mạnh mẽ (lễ hội, ma chay, cưới xin, định hướng giá trị theo dòng họ, theo đồng hương, v.v.). Trong cấu trúc cổ truyền, phải xem xét những cấp độ (hay yếu tố) cơ bản: cá nhân, gia đình/dòng họ, làng xã, địa phương (tỉnh, vùng) và nhà nước (quốc gia). Thứ ba, khuôn mẫu văn hoá-xã hội dựa trên nguyên lý thị trường. Hệ giá trị và chuẩn mực này hoàn toàn không phải là đơn trị đối với phát triển (nó cũng có mặt lợi và hại). Thêm nữa, người ta phải phân biệt hệ giá trị/ chuẩn mực thị trường trong giai đoạn ban đầu khác với trong giai đoạn phát triển đầy đủ. Ba khuôn mẫu nói trên đang tương tác mạnh mẽ trong tiến trình phát triển hiện nay ở Việt Nam. Chúng là cấu trúc xã hội, là văn hoá, là quyền lực, là động lực, tác động ở mọi cấp độ từ chiều sâu đến bề mặt đời sống hàng ngày. Một số người đôi khi có cái nhìn một chiều về ba khuôn mẫu trên, theo kiểu từng khuôn mẫu hoặc chỉ là tích cực hoặc chỉ là tiêu cực. Lý thuyết hiện đại hoá biện chứng đề xuất cách nhìn đan xen hơn về cái cổ truyền cũng như cái hiện đại (Xem Chương Một). Theo đó, không phải cái gì hễ là cổ truyền thì đều không thích hợp với phát triển, cần phải thay thế, còn hễ cái gì là hiện đại thì đều thích hợp với phát triển, cần du nhập. Trong thực tế, quá độ từ cổ truyền sang hiện đại phức tạp và đa diện hơn, theo đó cái cổ truyền và cái hiện đại thâm nhập và tương tác lẫn nhau. Trong hiện thực là sự pha trộn của ba khuôn mẫu. Ba khuôn mẫu gây trở ngại cho nhau, tác động vào nhau. Tương tác giữa chúng tạo ra xung đột, đột phá, phát triển; nhưng cũng tạo ra cân bằng, trì trệ, biến dạng, thụt lùi. Ba khuôn mẫu thể hiện trong mọi lĩnh vực. Chẳng hạn, biểu hiện trong kinh tế là ta thấy có một thực thể kinh tế ba tầng, ba chiều: khu vực kinh tế quốc doanh, tư nhân, hộ gia đình. Trong lĩnh vực phúc lợi xã hội ta thấy các định chế và hoạt động phúc lợi của Nhà nước tập trung, phúc lợi xã hội phi chính thức, phúc lợi doanh nghiệp, hoạt động phúc lợi của cá nhân và gia đình. Trong lĩnh vực xã hội dân sự ta thấy sự cùng tồn tại của các tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội, các NGO, hiệp hội kinh doanh. Sự phát triển quy đến cùng là một tiến trình diễn ra hàng ngày của hàng triệu hành động xã hội của các cá nhân, nhóm, tổ chức,... Mặc dù các hành động đó là vô cùng lớn về mặt số lượng, gần như là vô hạn, song chúng có thể quy lại thành một số lượng hạn chế những mô thức ứng xử, vì chúng bị quy định bởi một tập hợp nhất định các giá trị và chuẩn mực xã hội. Nghiên cứu xã hội cho phát triển cần tìm hiểu xem đang có những giá trị và chuẩn mực xã hội như thế nào chi phối mô thức ứng xử và tư duy của con người, mô tả các mô thức quan trọng có tác động căn bản (theo cả hai chiều) đến phát triển. Điều khó khăn là không có một tương quan đơn nhất giữa mỗi giá trị và chuẩn mực với nhu cầu phát triển (bởi phát triển là một tập hợp của các chỉ tiêu khác nhau), không có kết quả đơn trị của mỗi giá trị hay chuẩn mực trong hàm số phát triển. Sự ràng buộc của cá nhân vào gia đình/dòng họ, cộng đồng và nhà nước đem lại những tác dụng trái ngược nhau cho phát triển. Chẳng hạn, người ta có thể sử dụng sự ràng buộc của gia đình và làng xã làm cơ chế tín chấp cho vấn đề tín dụng cho nông dân, nhất là nông dân nghèo, một lối thoát cho nơi nào mà cơ chế thế chấp không thể hoạt động. Nó cũng là một cơ sở để 32 đương đầu với thách thức phát triển "mất gốc" (tức là hiện đại hoá kèm theo mất bản sắc văn hoá). Nó là một cơ chế của bảo đảm xã hội lấp khoảng trống về nhu cầu phúc lợi mà hệ thống bảo đảm xã hội chính thức chưa đáp ứng được. Nó có thể hỗ trợ cho cá nhân phấn đấu và thành đạt (các mối liên hệ họ hàng và đồng hương đã hoạt động và có vai trò rất mạnh trong việc giúp cá nhân thăng tiến). Tuy nhiên, sự ràng buộc này cũng gây trở ngại cho năng động cá nhân và việc xây dựng một "xã hội công dân" mang tính toàn quốc, vốn là những tiền đề và kết quả của một nền kinh tế thị trường quốc gia hoạt động có hiệu quả. Làng xã đem lại một sự ràng buộc cá nhân, nhưng tạo ra lãnh địa riêng mà nhà nước không thể can thiệp vào ("phép vua thua lệ làng"). Nhà nước có vai trò không thể thay thế được, tầm quan trọng sống còn của nó đối với phát triển là không thể chối cãi. Song một nhà nước thái quá và lệch lạc về cấu trúc-chức năng như kiểu nhà nước trong phương thức sản xuất châu Á và trong cấu trúc xã hội hành chính tập trung quan liêu bao cấp, sẽ đem lại hại nhiều hơn lợi (nếu không muốn nói là hoàn toàn có hại) cho tiến trình phát triển hiện đại. Trong hai kiểu nhà nước đó không có chỗ cho năng động cá nhân, thương mại (thị trường), hiệu suất kinh tế, vốn là các yếu tố của một xã hội thị trường mang tính chức năng (functioning). Bảng 2.2. Ba khuôn mẫu văn hoá-xã hội trong thực tế xã hội Việt Nam hiện nay Khuôn mẫu Cổ truyền Thiết chế và tổ chức Nhà nước trung ương tập quyền. Làng xã. Gia đình. Chủ nghĩa xã hội theo kiểu hành chính tập trung bao cấp Kế hoạch, mệnh lệnh. Quốc doanh. Hợp tác xã. Đoàn thể quần chúng. Thị trường Thị trường. Công ty. Tổ chức xã hội dân sự. Nguồn: Bùi Thế Cường. Đặc điểm cấu trúc và văn hoá Nông nghiệp nhỏ, tự cung tự cấp. Tự trị làng/ văn hoá làng. Logic phân đẳng gia đình/dòng họ/làng/nhà nước. Cộng đồng luận (lợi ích và sự tồn tại của làng và các nhóm trong làng). Sản xuất và tiêu dùng theo kế hoạch mệnh lệnh. Lợi ích kinh tế nhà nước. Tập trung dân chủ. Nhà nước chủ đạo. Đơn vị sản xuất là đơn vị phúc lợi. Chủ toàn luận (lợi ích và sự phát triển của cái chung, cái toàn thể). Sản xuất và tiêu dùng theo tín hiệu thị trường. Lợi nhuận và lợi ích kinh tế cá nhân. Nhà nước hạn chế. Cơ cấu cá nhân/nhóm lợi ích/nhà nước. Tự trị tổ chức. Cá nhân luận (lợi ích và sự phát triển cá nhân). 2.3. TOÀN CẦU LÀ XUẤT PHÁT ĐIỂM Trong thực tế phát triển nhiều thập niên và cho tới tận ngày nay của Việt Nam, người ta thấy 2 chủ đề nổi bật: thị trường và chủ nghĩa xã hội. Một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam có xu hướng cho rằng đây là điểm đặc thù của Việt Nam, hoặc chí ít là của một số ít nước xã hội chủ nghĩa. Cách nhìn này dễ gây ngộ nhận, rơi vào thuyết “chủ nghĩa đặc thù” (particularism). Thực ra, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội là một khuôn khổ mang tính lịch sử (ít ra là từ thế kỷ XIX đến tận ngày nay) và mang tính toàn cầu (diễn ra ở tất cả các nước). Toàn bộ sự nghiệp nghiên cứu và thực tiễn của Mác, Engels và Lê Nin đều dựa trên định đề này. Trong thập niên 1960, học giả mác-xít E. Wallerstein một lần nữa lại nhấn mạnh đặc trưng đó 33 khi đề xuất ý tưởng rằng để hiểu được các hiện tượng xã hội ngày nay phải luôn xuất phát từ cách nhìn thế giới là một hệ thống. Nếu như thế giới là một hệ thống và chỉ có một quá trình lịch sử toàn cầu, thì cần thấy rằng cũng như mọi quốc gia khác, Việt Nam chỉ là một biểu hiện, một địa điểm cụ thể của quá trình lịch sử toàn cầu mà thôi. Do đó, về mặt phương pháp luận, việc xác định "vấn đề cơ bản" của Việt Nam (hiện tại như đã được xác định chính thức đó là vấn đề "công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn và theo định hướng xã hội chủ nghĩa") cũng như mọi vấn đề cụ thể nảy sinh từ vấn đề cơ bản này, đều phải xuất phát từ quan điểm lịch sử toàn cầu. Nói cách khác, hoàn cảnh toàn cầu định hình Việt Nam chứ không phải ngược lại; tuy rằng mọi quốc gia trong đó có Việt Nam đều tham gia vào “sân khấu” toàn cầu một cách tích cực và sáng tạo. Từ khoảng năm 2000 trở lại đây, nổi lên tiếng nói ngày càng được tán thành rằng Việt Nam chưa chú ý nghiêm túc đúng mức đến vấn đề hội nhập quốc tế (gần đây tình hình đã thay đổi: những khó khăn kinh tế xuất hiện ở Việt Nam năm 2007 và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu từ 2008 đã khiến các nhà vạch chính sách Việt Nam ý thức được hoàn toàn rõ ràng rằng Việt Nam phụ thuộc sâu rộng như thế nào vào thế giới). Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu và nhà làm chính sách có xu hướng nói đến hội nhập quốc tế chỉ thuần tuý về mặt kinh tế. Cần thấy rằng hội nhập quốc tế không chỉ là động lực và cơ hội kinh tế. Thực ra, hội nhập quốc tế là một quá trình toàn diện, bao quát mọi mặt, trong đó kinh tế chỉ là một khía cạnh. Không thừa nhận điều này sẽ dẫn đến sự lúng túng, mâu thuẫn, nửa vời và định hướng chệch trong hành động. Lý thuyết mác-xít về quan hệ quốc tế mà Wallerstein đề xuất trong thập niên 1960 nhìn hệ thống thế giới như là thực thể thống nhất mang tính tư bản chủ nghĩa với ba vùng khác nhau: trung tâm, ngoại vi và bán ngoại vi. Trong đó vùng trung tâm bao gồm các nước công nghiệp phát triển nhất, giữ địa vị thống trị, chi phối nguồn vốn toàn cầu, nắm quyền điều hành công việc thế giới. Từ đó đến nay, thực tế này vẫn không thay đổi nhiều. Thậm chí, điều này còn trở nên đúng hơn nữa, sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện thực sụp đổ. Về điều này có thể tham khảo thêm những bài thuyết trình của Samir Amin tại Việt Nam (Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam, 11/2007). Cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu diễn ra trong hai năm 2008-2009 đã đảo lộn khá mạnh mẽ “cấu trúc” đó. Giới học giả và truyền thông quốc tế nói nhiều đến sự xuất hiện của G-20, nhóm BRIC, thậm chí của G-2 (Mỹ và Trung Quốc); tranh luận về những khu vực và thể chế quốc tế mới đang nổi lên; dự đoán về những “tay chơi toàn cầu” mới, đem đến những cân bằng quyền lực mới. Mặc dù vậy, có vẻ như chưa có thay đổi thực sự gì nhiều trong cái khuôn khổ cấu trúc quốc tế đã hình thành trong thế kỷ XX. Trong toàn bộ thời kỳ từ đó cho đến nay, Việt Nam là một quốc gia thuộc vùng ngoại vi. Do những yếu tố lịch sử khác nhau, mà đất nước thuộc vùng ngoại vi này đã trở thành một tâm điểm nóng của lịch sử thế giới, nơi đối đầu của hai hệ thống. Nói cách khác, là một vùng ngoại vi nhưng lại trở thành một yếu tố lớn trong công việc của các quốc gia thuộc "trung tâm". Sau 1975, thực tế này đã thay đổi. Việt Nam dần dần trở lại thành một quốc gia ngoại vi. Để có thể thay đổi vị thế này, Việt Nam phải xác định được đúng vị thế của mình trong hệ thống, xử lý được quan hệ của mình với "trung tâm" một cách đúng đắn, bởi vì khu vực "trung tâm" vẫn là nơi "quản lý" công việc thế giới về mọi mặt (tài chính, chính sách phát triển, hệ tư tưởng, văn hoá, ...). Điều này cũng giống hệt như tình hình trước 1975: trục cơ bản là xử lý thành công mối quan hệ của mình với "trung tâm". Chỉ có xử lý đúng đắn trục cơ bản này, mới tạo ra được một trong những điều kiện cơ bản cho việc thay đổi vị thế trong hệ thống. 34 Nhiều người thường nói rằng phải nỗ lực "để bắt kịp các nước khác". Cách nghĩ và cách nói này cần được làm sáng tỏ hơn, bởi vì nó dễ dẫn đến sự mơ hồ, xem thế giới như là một không gian lỏng lẻo, tự do, phân tán, ở đó một quốc gia có thể tham gia hoặc không tham gia "cuộc chơi". Theo lý thuyết "hệ thống thế giới" (lý thuyết này có manh nha ngay từ trong lý luận của Lê Nin, cũng như của một số nhà nghiên cứu trước Lê Nin), thế giới không phải như vậy. Thế giới là một hệ thống chặt chẽ, có sự thống trị và đấu tranh; trong đó các đơn vị của nó có vị thế bị xác định; việc thay đổi vị thế là "có khả năng", nhưng hết sức khó khăn. Nghiên cứu phát triển quốc tế cho thấy trong vòng nửa thế kỷ phát triển, chỉ có 5% các nước đang phát triển vượt thoát khỏi cái bẫy nước nghèo. Báo cáo 2003 của UNDP về phát triển con người nói rằng năm 2000 có 54 nước trở nên nghèo hơn so với 1990, trong thời kỳ 1988-1998 các thông số kinh tế giảm tại 55 nước và trong vòng một thập niên có 34 nước bị tụt hạng trong bảng xếp hạng về chỉ số phát triển (Houtart, 2007). Hệ thống quốc tế với các quốc gia như là các tác nhân hành động chịu sự chi phối của một cấu trúc thế giới cũng chặt chẽ như là một cấu trúc xã hội trong đó những cá nhân hay hộ gia đình là đơn vị hành động. Các cá nhân và hộ gia đình có thể di động trong một cấu trúc xã hội định sẵn, song đây là một khả năng rất gian nan. Theo cách nhìn trên, thì mô hình hay là cấu trúc quan hệ quốc tế toàn cầu là xuất phát điểm để định hình hành vi của Việt Nam, chứ không phải bắt đầu từ việc định hình bản thân trước rồi mới tính đến thế giới như là "một hoàn cảnh" bên ngoài, cần phải "khai thác", "vận dụng". Từ góc độ của tiếp cận xã hội học tiến hoá, các cá thể (con người, tổ chức, nhóm, quốc gia,...) phải thích nghi với môi trường, chứ không phải ngược lại. Gần 25 năm Đổi Mới vừa qua là quá trình Việt Nam từng bước học được "logic tất yếu thép" này, nhưng với cái giá quá cao về thời gian và về nhiều mặt khác. Trong khi đó một số nước Đông Á và Đông Nam Á đã thừa nhận bài học này từ lâu, thậm chí từ đầu, và đã vận dụng khá thành công "nguyên lý" này. 2.4. KẾT HỢP CHỦ NGHĨA TƯ BẢN VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Xét về mặt lịch sử và toàn cầu, thì hệ thống thế giới vận động trong sự đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Điều này đã diễn ra từ gần 200 năm nay trên phạm vi toàn cầu, và có thể sẽ còn tiếp tục trong một kích thước lịch sử lâu dài. Từ "đấu tranh" nói trên trước hết là một thuật ngữ "triết học". Nó cũng là thuật ngữ của thực tiễn, nhưng khi đi vào thực tiễn, phải hiểu thuật ngữ này đầy đủ hơn và vẫn phải hiểu nó là một thuật ngữ học thuật thay vì gán vào đó một cách hiểu bề mặt đời thường. Trong thực tiễn, người ta thấy một biểu hiện của “sự đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội” là "sự kết hợp" giữa chúng. Trong quá trình phát triển thực tiễn ở nước Nga, Lê Nin đã từng có thời điểm nói đến "sự kết hợp" này (Chính sách kinh tế mới, NEP). Điều đáng tiếc là sau đó xu hướng cực đoan hơn trong phong trào cách mạng đã thắng thế, nhấn mạnh vào "loại bỏ tất cả mọi thứ của chủ nghĩa tư bản, để xây dựng một chủ nghĩa xã hội theo nghĩa tuyệt đối và hoàn toàn khác với chủ nghĩa tư bản". Bên ngoài khối các nước xã hội chủ nghĩa "chính thống", đã diễn ra một loạt "sự kết hợp" giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội theo nhiều kiểu khác nhau. Một phần không nhỏ thì thất bại: ở châu Phi và châu Mỹ Latin. Nhưng cũng đã có những "thành công": các nước công nghiệp phát triển cao Âu-Mỹ (đặc biệt là các nước trong mô hình Bắc Âu), Nhật Bản, các nước 35 công nghiệp mới ở Đông và Đông Nam Á. Trung Quốc sau cải cách 1978 và Việt Nam sau Đổi Mới 1986 đang được xem là những thử nghiệm mới về sự kết hợp này và đang hứa hẹn có thành công, mặc dù còn tiềm ẩn nhiều rủi ro và nhiều điểm chưa rõ ràng. Xuất phát từ cách nhìn trên, có thể rút ra 2 luận điểm có liên hệ với nhau sau đây. Thứ nhất, hệ thống thế giới và quá trình lịch sử toàn cầu là hệ quy chiếu, xuất phát điểm định hình đường lối và chiến lược phát triển đất nước. Thứ hai, các nước "thành công" trong sự kết hợp giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội là cơ sở thực tiễn duy nhất có "thẩm quyền" (bởi vì đã có bằng chứng) để học tập. Ngoài ra, không thể căn cứ vào cái gì khác (diễn giải hệ tư tưởng, ...). Quá trình phụ thuộc lẫn nhau vào hệ thống kinh tế và chính trị toàn cầu đã tiến nhanh. Trong cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997, nền kinh tế Việt Nam ít chịu ảnh hưởng. Nhưng sự ảnh hưởng dù không đáng kể này cũng đã chỉ ra mặt thứ hai của nó: nền kinh tế đất nước đã gắn vào kinh tế thế giới ở mức độ nhất định. Kể từ đó, sự phụ thuộc đã tăng lên nhanh chóng. Chính sách mở cửa, mở rộng quan hệ đa phương và toàn cầu hoá tư bản chủ nghĩa đang tăng tốc, ba nhân tố này đã làm cho Việt Nam ngày càng chịu tác động của môi trường quốc tế. Suốt từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO cuối năm 2006 đến nay, hàng loạt sự kiện kinh tế trong nước như giá vàng tăng, giá cả mọi hàng hóa tăng, thị trường chứng khoán tụt dốc, đều chứng tỏ nền kinh tế Việt Nam đang phụ thuộc rất mạnh vào thế giới. Diễn biến kinh tế những năm 2007-2009, rút cuộc, đã chấm dứt (?) cách tư duy “tách rời” (Việt Nam và thế giới) dai dẳng trong nhiều người Việt Nam khi hoạch định chính sách và nghiên cứu. Thực tế này làm nảy sinh hai luồng quan điểm, luồng thứ nhất cho rằng định hướng xã hội chủ nghĩa tỏ ra ngày càng giảm, khó duy trì hơn, một khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Luồng quan điểm này dựa trên một khối bằng chứng kinh nghiệm ngày càng lớn, trong đó có cả những bằng chứng của nghiên cứu xã hội thực nghiệm. Bên cạnh đó, vẫn thấy sự tồn tại của một kiểu lập luận giáo điều về định hướng xã hội chủ nghĩa, bằng cách bất chấp những khối tài liệu thực nghiệm mới ngày càng lớn, chỉ dựa trên việc duy trì một "mô hình phân tích kết cấu xã hội" cũ, không còn ăn nhập với thực tế hiện nay. Cần phải tính đến những bằng chứng kinh nghiệm mới, không được bỏ qua chúng như kiểu lập luận giáo điều đang làm. Đồng thời, cần nỗ lực tìm kiếm những nền tảng lý thuyết cho phép giải thích sâu sắc hơn thực tế hiện nay, tránh cách giải thích đơn giản hoá theo thực chứng luận của luồng quan điểm thứ nhất. Định hướng xã hội chủ nghĩa là một khả năng hiện thực trong bối cảnh kinh tế thị trường, điều này đúng với cả cấp độ toàn cầu cũng như cấp độ Việt Nam. Trong các nước phát triển cao, các yếu tố của định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn trở nên rõ ràng, mặc dù xu hướng này không phải là đơn thuần tuyến tính. Trong bối cảnh hình thành kinh tế thị trường ở Việt Nam, định hướng xã hội chủ nghĩa dĩ nhiên gặp nhiều thách thức hơn, song theo phép biện chứng thì chính điều này lại cũng tạo ra nhiều cơ hội hơn cho việc bộc lộ định hướng xã hội chủ nghĩa. Gần 25 năm đẩy mạnh xu hướng thị trường ở Việt Nam cũng là thời kỳ chứng kiến những nỗ lực thành công mang tính xã hội chủ nghĩa: giảm nghèo, tăng thu nhập từ phúc lợi xã hội, phát triển dân chủ, cân bằng giữa các vùng và khu vực, mở rộng hệ thống y tế và giáo dục cho toàn dân. 2.5. BẢN ĐỒ TÁC ĐỘNG XÃ HỘI 36 Tồn tại và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa và quá độ lịch sử thế giới mang tính con lắc giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của những yếu tố trên. Kết quả là vào cuối thập niên 1980, Việt Nam chuyển sang nền chính trị Đổi Mới. Có thể nhìn hệ thống chính trị Đổi Mới như là một cấu trúc có mục tiêu và nội dung của mình, với những hệ quả xã hội nhất định. Bảng 2.3 là một sơ đồ khái niệm hóa cấu trúc của Đổi Mới và những tác động xã hội của nó. Cấu trúc của Đổi Mới có thể nhìn nhận từ góc độ bao hàm ba thành tố: chủ trương, thể chế1 và chính sách. Các chủ trương, thể chế và chính sách lớn này đã mở ra không gian biến đổi xã hội và văn hoá mạnh mẽ trong xã hội Việt Nam. Cột 1 đề cập đến 6 chủ trương lớn cấu thành đường lối chính trị Đổi Mới, những chủ trương này vừa phản ánh điểm xuất phát vừa phản ánh mục tiêu của đường lối Đổi Mới. Trong diễn tiến thực tế, chủ trương trực tiếp dẫn đến các định hướng chính sách (cột 3), trước khi các thể chế được tái tổ chức. Nhưng về mặt lô gích, các chủ trương đi vào thực tiễn phải thông qua thể chế. Kinh nghiệm hiện đại hóa ở các nước phương Tây trong 200 năm qua cũng như kinh nghiệm xây dựng lại quốc gia của Nga và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã chỉ ra tương quan vai trò giữa thể chế và chính sách (Xem Hộp 2.1 và xem thêm Chương Bốn, mục 4.2.5). Cột 2 đề cập ba thể chế trụ cột: kinh tế thị trường, nhà nước và xã hội dân sự. Cột 3 trình bày các định hướng chính sách được nhóm lại trong 6 vùng chủ đề chính: khu vực (thành phần) kinh tế, giảm nghèo, nhân lực, hệ thống chính trị, hệ thống phúc lợi xã hội, phát triển bền vững về mặt môi trường. Cột 4 nêu lên những tác động của các chủ trương chính sách lớn theo hai chiều (thuận/nghịch, tích cực/tiêu cực, mong muốn/không mong muốn). Nội dung trong các ô liên hệ và tương tác nhân quả với nhau theo cả chiều dọc, ngang và chéo. Mỗi phân tích cụ thể được tiến hành bằng cách phát triển các mối liên hệ theo các chiều ngang dọc giữa những nội dung trong các ô. Bảng 2.3. Cấu trúc của Đổi Mới và những tác động xã hội Chủ trương Đa dạng hoá, năng động hoá và tự do hoá kinh tế, văn hóa và xã hội Định hướng xã hội chủ nghĩa Cấu trúc của Đổi Mới Thể chế Chính sách Thể chế kinh Cải cách khu vực tế thị trường kinh tế Nhà nước Mở rộng khu vực kinh tế tư nhân Khuyến khích kinh tế hộ gia đình Thể chế nhà nước: chính trị, luật pháp, Giảm nghèo Tác động xã hội Hướng tác động chung: Biến đổi cấu trúc xã hội và văn hoá: Hình thành một kết cấu giai tầng xã hội mới (biến đổi vị thế và vai trò của các giai tầng). Biến đổi hệ giá trị: lợi ích kinh tế, cá nhân và gia đình, liên kết xã hội, hiện đại hoá, trở về truyền thống, dân tộc và quốc gia. Thay đổi quan hệ lao động. Thay đổi kiểu quan hệ giữa Nhà nước, xã hội và cá nhân. Tái tổ chức và tổ chức mới các định chế xã hội. Những nỗ lực tập thể và phong trào xã hội. Tích cực: Năng động hoá và đa dạng hoá đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và tinh thần. Về mặt thuật ngữ quốc tế có từ institution được dịch là thiết chế hay định chế, và constitution dịch là thể chế. Ở đây, sử dụng thuật ngữ thể chế theo tính phổ biến trong khoa học xã hội Việt Nam để chỉ những institution lớn, căn bản nhất của xã hội; còn lại sẽ sử dụng thuật ngữ định chế. 1 37 Mở cửa hội nhập Xây dựng đời sống văn hoá hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc Đại đoàn kết toàn dân hành chính, tư tưởng Xã hội dân sự: hiệp hội, tổ chức xã hội, mạng lưới xã hội Thân thiện với môi trường Nguồn: Bùi Thế Cường Phát triển nguồn nhân lực Đổi mới hệ thống chính trị Cải cách hành chính Hình thành xã hội dân sự Củng cố và mở rộng hệ thống phúc lợi xã hội Phát triển bền vững về mặt môi trường Hình thành kết cấu phân tầng xã hội mới dựa trên thị trường. Mức sống của đại bộ phận dân cư tăng lên. Liên kết xã hội, dân tộc và quốc gia. Đầu tư nhiều hơn cho giáo dục và mục tiêu dài hạn. Khung thể chế kinh tế và nhà nước trở nên rõ ràng và hiệu quả hơn. Khai thác các nguồn lực quốc tế. Hội nhập với thế giới. Tiêu cực: Tăng cách biệt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và tinh thần. Tăng cách biệt nông thôn-đô thị và khu vực. Xung đột xã hội có xu hướng tăng. Định chế gia đình suy giảm chức năng. Xu hướng tăng hành vi lệch chuẩn, tội phạm, tệ nạn xã hội. Tăng gánh nặng chi phí của xã hội và cá nhân cho y tế và giáo dục. Tăng phụ thuộc vào biến động toàn cầu. Tài nguyên khai thác quá mức, ô nhiễm môi trường. Hộp 2.1. Vai trò của thể chế trong cải cách: Phỏng vấn của VietnamNet với ông Grzegorz Kolodko, nguyên Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Tài chính Ba Lan. Trong bài phát biểu của mình, ông có nhắc đến bài học mà các nước Trung Đông Âu đã phải trả do liệu pháp sốc gây ra (thất nghiệp ồ ạt, thất thoát tài sản công, lạm phát phi mã...), Ba Lan đã làm thế nào để vượt qua những khó khăn đó và trở thành nước có nền kinh tế lớn nhất Trung Đông Âu? Thật không dễ dàng khi giải quyết gánh nặng mà các biện pháp thiếu tính toán được gọi là "sốc" đã gây ra. Hậu quả rõ nét nhất là GDP của Ba Lan đã sụt giảm 20%. Khi nhậm chức Bộ trưởng Tài chính kiêm Phó Thủ tướng (giai đoạn 1994-1997), tôi đã áp dụng phương thức khác, cụ thể là cam kết mạnh mẽ hơn đối với việc tiến hành cải cách thể chế. Chuyển đổi nền kinh tế không chỉ giản đơn là tự do hoá hay tư nhân hoá, quan trọng hơn đó là xây dựng các thể chế, tổ chức cơ cấu pháp lý cho nền kinh tế thị trường như: thị trường vốn, ngân hàng đầu tư, luật và các tổ chức, chính sách cạnh tranh, bảo hộ quyền sở hữu tài sản... Không nên tư nhân hoá ồ ạt, thiếu cân nhắc. VietnamNet. 1/6/2004. Việt Lâm-Cẩm Tú thực hiện. 2.6. ĐI TÌM MỘT DIỄN GIẢI LÝ LUẬN: TÓM TẮT VÀ KIẾN NGHỊ Dựa trên những nội dung trình bày ở chương trước, chương này cố gắng sắp xếp một khung logic để nhìn vào thực tế ở Việt Nam. Khung logic này bao gồm ba nội dung cơ bản. Trước hết, tác giả đề xuất khái niệm “khuôn mẫu văn hóa-xã hội”. Khái niệm này áp dụng vào thực tế hiện nay cho thấy xã hội Việt Nam thời kỳ Đổi Mới là một hiện thực hỗn hợp của ba khuôn mẫu văn hóa-xã hội khác nhau. Các quan điểm lý luận, định hướng tư tưởng và định hướng chính sách đều xoay quanh sự “chung sống” và “đấu tranh” của ba kiểu khuôn mẫu này. Và chúng đều bị ba khuôn mẫu này chi phối một cách tự giác hoặc không tự giác. Tiếp theo, tác giả cho rằng để Việt Nam định hình được bản thân trong tiến trình phát triển lịch sử thế giới hiện nay thì cần thừa nhận rằng bối cảnh toàn cầu phải là xuất phát điểm của lý luận, 38 định hướng tư tưởng và chính sách. Bối cảnh toàn cầu hiện nay, như cách xác định vẫn có hiệu lực trong suốt thế kỷ XX, vẫn là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sự quá độ này cần được hiểu lại toàn diện hơn từ quan điểm triết học thực sự của Mác. Cuối cùng, tác giả trình bày một sơ đồ mô tả cấu trúc của đường lối Đổi Mới và các tác động xã hội của nó; với hy vọng sơ đồ này góp phần giúp cho tư duy của nhà lý luận và làm chính sách có được một bản đồ để hiểu và tìm đường trong thực địa (xã hội). Trong Chương này, xin nêu lên một số kiến nghị sau đây. o Tiếp tục coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển là vấn đề lý luận và thực tiễn trung tâm trong công tác nghiên cứu lý luận và hoạch định chính sách. o Một trong những kiểu tư duy xã hội học có tác dụng bổ ích cho nhà lý luận và hoạch định chính sách là nhìn thực địa xã hội và hành động trong đó theo hai trục gắn kết chặt chẽ với nhau: văn hóa và cấu trúc xã hội. Về mặt văn hóa, 3 cốt lõi của nó là hệ tri thức, hệ giá trị và hệ chuẩn mực. Về mặt cấu trúc xã hội, điểm then chốt là tương tác giữa 3 chủ thể chủ yếu: các nhóm xã hội, các thiết chế và các tổ chức. o Nhấn mạnh một cách chính thức và rõ ràng hơn hai luận đề cơ bản trong mọi công tác lý luận, tư tưởng và định hướng chính sách. Đó là luôn nhìn và định hình các hành động cơ bản trên quan điểm coi môi trường toàn cầu là xuất phát điểm, và trên quan điểm “kết hợp” chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội (“hòa bình, hợp tác và phát triển là xu hướng của thời đại”). o Tập trung xây dựng khuôn mẫu văn hóa-xã hội hiện đại; chuyển từ một hiện thực xã hội hỗn hợp của ba khuôn mẫu văn hóa-xã hội sang một hiện thực mới nhất quán với nguyên lý thị trường định hướng vào xã hội và môi trường, có tính đến những yếu tố truyền thống thích ứng được với xã hội hiện đại. o Có những nghiên cứu rộng lớn hơn về cấu trúc thực sự của nền chính trị Đổi Mới, về tương tác của các thành phần trong cấu trúc ấy (chủ trương, thể chế, chính sách), và về các hệ quả xã hội của Đổi Mới. 39 CHƯƠNG BA. ĐỘNG THÁI DÂN SỐ VÀ BIẾN ĐỔI XÃ HỘI Từ lâu, khoa học xã hội đã hiểu rằng dân số là một biến số vô cùng quan trọng tác động đến cấu trúc và biến đổi xã hội. Có thể ghi nhận công lớn của Thomas Malthus khi ông là người đầu tiên đặt ra “vấn đề dân số”. Vào thời của ông và rất lâu sau đó, nhiều học giả vẫn chưa thấy hết tầm quan trọng của cách đặt vấn đề của ông. Khi bàn về biến đổi xã hội, các nhà xã hội học xem dân số (với các yếu tố của nó như quy mô, cơ cấu dân số, di dân) là một yếu tố có sự tác động qua lại với biến đổi cấu trúc xã hội (Macionis, 1980; Bottomore, 1963). Trong Foreign Policy số tháng 9-10/2005, Lý Quang Diệu cho rằng dân số chứ không phải dân chủ sẽ là vấn đề đau đầu trong tương lai. Người dân ở các nước giàu thì không chịu sinh đẻ, còn ở nước nghèo thì mức sinh cao. Làm thế nào để các nước giàu duy trì được dân số, các nước nghèo lo đủ đời sống cho dân số tăng nhanh (Theo Thông tấn xã Việt Nam, 1/10/2005). Ngành dân số học bao gồm cả loạt chủ đề nghiên cứu cơ bản. Có thể xem dân số học có một chủ đề bao trùm là động thái dân số. Và đối với một nước như Việt Nam thì động thái dân số trước hết bao gồm việc giảm mức sinh và mức chết, di dân (phân bố lại dân cư theo khu vực), già hóa dân cư, và gần đây là vấn đề “kỷ nguyên dân số vàng” (Bùi Thế Cường, 2004) như là những chủ đề có ý nghĩa nhất. Chương này tập trung vào ba vấn đề: sự tăng trưởng đột phá của dân số lao động (nguồn nhân lực), di dân, và già hóa dân số. Đây là ba động lực lớn của dân số có tác động mạnh mẽ đến phát triển kinh tế và biến đổi xã hội của Việt Nam hiện nay. 3.1. KỶ NGUYÊN DÂN SỐ VÀNG Những năm gần đây, nhiều nhà dân số học quan tâm đến hiện tượng mà họ gọi bằng nhiều thuật ngữ: cửa sổ dân số, cơ hội dân số, lợi tức dân số, kỷ nguyên dân số vàng. Trong mục này, chúng ta sẽ xem xét vấn đề này ở Việt Nam hiện nay và tác động tích cực tiềm tàng của nó đối với tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. 3.1.1. NGHIÊN CỨU VỀ QUAN HỆ GIỮA DÂN SỐ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Lịch sử dân số học đã trải qua ba quan điểm lý luận về quan hệ dân số và tăng trưởng kinh tế. Mầm mống từ thời Thomas Malthus và nổi lên từ cuối thập niên 1940, "lý thuyết dân số học bi quan" cho rằng dân số ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế. Nổi bật từ đầu thập niên 1980, "lý thuyết dân số học lạc quan", ngược lại, cho dân số là cơ sở hỗ trợ phát triển kinh tế. Một số nhà dân số học thận trọng hơn với ảnh hưởng tích cực đương nhiên của yếu tố dân số. Họ đại diện cho cái được gọi là "lý thuyết dân số học trung tính" trong thập niên 1990: dân số không tự động có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến kinh tế, mà có một loạt yếu tố can thiệp khác quyết định xu hướng ảnh hưởng này (Bloom, 2001b và 2003). Những nghiên cứu thực nghiệm gần đây cho thấy biến đổi dân số không nhất thiết hoặc ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến kinh tế, mà phụ thuộc vào khuôn mẫu biến đổi cơ cấu tuổi dân số cũng như một số nhân tố khác. Phân bố cơ cấu tuổi là một cơ chế tiềm tàng tác động đến thành công kinh tế. Nhưng điều này sẽ chỉ xảy ra khi một quốc gia có những thể chế xã hội, kinh tế và chính trị cũng như những chính sách thích hợp, cho phép hiện thực hoá tiềm năng 40 tích cực của quá trình dân số. Điều này đã xảy ra ở một số nước Đông Á và Đông Nam Á khi tận dụng được cơ hội dân số cho phát triển kinh tế kể từ thập niên 1960 đến nay. Từ những năm 1990 lại đây, một loạt nhà dân số học đặt lại vấn đề mối quan hệ dân số và kinh tế từ góc độ xem xét hiện tượng lợi tức dân số nảy sinh từ quá độ dân số. T. Kuroda nói đến "kỷ nguyên dân số vàng" khi bàn về vấn đề già hoá dân cư ở Hội nghị dân số khu vực châu Á-Thái Bình Dương (Kuroda, 1991). ADB chú trọng đến vấn đề này trên toàn châu Á trong công trình năm 1997 "Châu Á đang nổi lên" (ADB, 1997). Nhóm nghiên cứu do D.E. Bloom dẫn đầu đưa ra tổng quan rộng lớn bao quát một loạt nước về hiện tượng lợi tức dân số đối với kinh tế. Các tác giả nhấn mạnh một sự thực là bản thân lợi tức dân số không tự động dẫn đến ích lợi kinh tế, mà chỉ được hiện thực hoá bởi môi trường chính sách (D.E. Bloom, 1997, 2001a, 2001b, 2003). Đã có một số hội thảo quốc tế bàn đến vấn đề này, chẳng hạn Hội nghị ở Bắc Kinh ngày 10-11 tháng 5 năm 2004 với tiêu đề "Cửa sổ dân số và sự già hoá lành mạnh: Những thách thức và cơ hội về kinh tế xã hội". Nhóm nghiên cứu K. Wongboonsin, P. Guest và V. Prachuabmoh phân tích cơ hội dân số của Thái Lan, một nước chỉ mới đi trước Việt Nam ít nhiều trong quá độ dân số (K. Wongboonsin et al, 2004). Để diễn tả thực tế nêu trên, các nhà dân số học thế giới sử dụng thuật ngữ "lợi tức dân số" (demographic dividend). Lợi tức dân số được định nghĩa đơn giản là những ích lợi kinh tế có được từ biến đổi dân số. Những ích lợi này có thể tích tụ ở cấp độ cá nhân cũng như xã hội. Chẳng hạn, nó dẫn đến việc nâng cao mức sống, cá nhân có thể kiếm được thu nhập cao hơn để tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư. Nó tạo khả năng cho xã hội có nguồn nhân lực năng suất hơn dẫn đến tăng trưởng kinh tế. Lợi tức dân số chỉ xuất hiện trong một giai đoạn nhất định của quá độ dân số, và thường chỉ diễn ra trong vài thập niên. Như vậy, quá độ dân số là quá trình bên trong chi phối lợi tức dân số. Cơ hội cho một quốc gia tận dụng được lợi tức dân số phụ thuộc vào 4 điều kiện có liên hệ qua lại với nhau. Thứ nhất, các điều kiện dân số: một sự kết hợp của việc giảm mức chết, mức sinh và tỷ suất phụ thuộc. Thứ hai, cách thức diễn tiến của quá độ dân số. Lợi tức dân số chỉ xuất hiện vào khoảng giai đoạn giữa của quá độ dân số. Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực. Thứ tư, môi trường chính sách có tính hỗ trợ cho lực lượng lao động, bao gồm chính sách kinh tế (thị trường mở, năng động), chính sách lao động tạo ra thị trường lao động linh hoạt, chính sách phát triển nguồn nhân lực (hệ thống giáo dục và y tế có chất lượng cao), chính sách tài chính hỗ trợ cho đầu tư và tiết kiệm. Quá độ dân số cung cấp một khả năng có lợi tức dân số do tăng tỷ lệ số người trong độ tuổi lao động. Lợi tức dân số, trong khi là hệ quả của quá độ dân số, chỉ có thể trở thành hiện thực thông qua những nhân tố khác, trước hết là năng suất lao động của nguồn lao động, trình độ nguồn nhân lực (thông qua giáo dục cao hơn hoặc tốt hơn). Để hiện thực hoá lợi tức dân số, các nhà chiến lược phải cải thiện năng suất lao động và nguồn nhân lực thông qua nâng cao giáo dục và đào tạo, tạo ra một môi trường chính sách hỗ trợ cho đầu tư và tiết kiệm. Khái niệm "cơ hội dân số" liên quan đến mức giảm tổng tỷ suất phụ thuộc, bao gồm hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất, khi tổng tỷ suất phụ thuộc giảm, bắt đầu bước vào thời kỳ dân số học gọi là "cửa sổ cơ hội". Giai đoạn hai, khi chỉ số này xuống dưới ngưỡng 50%, được gọi là "kỷ nguyên vàng". Kỷ nguyên vàng sẽ kết thúc khi tổng tỷ suất phụ thuộc bắt đầu tăng trở lại và vượt ngưỡng 50%. 41 Tổng tỷ suất phụ thuộc là đại lượng của số người trong độ tuổi 0-14 cộng với số người trong độ tuổi 65 trở lên (65+) chia cho số người trong độ tuổi 15-64. Nó nói lên tương quan giữa số người không ở trong độ tuổi lao động (dưới 15 tuổi và 65 trở lên) so với số người trong độ tuổi lao động (15-64) trong một quần thể dân cư nhất định. Cần lưu ý khái niệm dân số trong độ tuổi lao động là khác nhau giữa các nước. Có nước vẫn còn tính độ tuổi lao động trong khoảng 1559, với cách tính này người ta sẽ có những đánh giá khác về "lợi tức dân số" (K. Wongboonsin et al, 2004). 3.1.2. CƠ HỘI DÂN SỐ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRONG KHU VỰC Ở châu Á, khu vực Đông Á tiến sớm nhất đến thời kỳ "lợi tức dân số". Đây là trường hợp của Hàn Quốc, Singapore và lãnh thổ Đài Loan. Có tính toán cho rằng cơ hội dân số đã đóng góp 1/3 mức tăng trưởng kinh tế của ba nước trên trong thời kỳ tăng trưởng nhanh 1960-1990 (Bloom, 1997 và 2001a). Bảng 3.1 cho thấy tổng tỷ suất phụ thuộc của Nhật, Singapore, Hàn Quốc đã giảm trong thời kỳ nền kinh tế của họ tăng trưởng nhanh. Tổng tỷ suất phụ thuộc ở Trung Quốc bắt đầu giảm dần từ thập niên 1970, giảm nhanh trong thập niên 1980. Sau giai đoạn khởi đầu cải cách (19781992), Trung Quốc bước vào thời kỳ cải cách theo chiều sâu ở thập niên 1990 đúng vào lúc mà ngưỡng tỷ suất phụ thuộc bắt đầu giảm xuống dưới 50. Giống Singapore, Trung Quốc sẽ có một kỷ nguyên vàng dài tới 40 năm. Những nước nói trên thể hiện mối liên hệ đáng chú ý giữa việc các điều kiện chín muồi cho phát triển kinh tế đã diễn ra gặp sự hỗ trợ thuận lợi của biến đổi cấu trúc tuổi dân số theo hướng một nguồn lực lao động lớn được cung ứng đúng vào lúc mà nền kinh tế có yêu cầu. Sự gặp gỡ của hai yếu tố này đã có tác động thúc đẩy thêm thành công kinh tế. Các nước Đông Nam Á đang tiếp bước. Theo tính toán của ADB (ADB, 1997), lợi tức dân số ở Đông Nam Á hiện đóng góp khoảng 0,7 điểm phần trăm vào mức tăng thu nhập đầu người hàng năm. Vào khoảng 2015, con số này dự đoán sẽ tăng gấp đôi. Lợi tức dân số của khu vực Đông Nam Á đang diễn ra sẽ không mạnh bằng khu vực Đông Á thời kỳ 1960-1990. Bảng 3.1. Tổng tỷ suất phụ thuộc của 9 nước trong khu vực (1950-2050), % 1950 1955 1960 1965 1970 1975 1980 1985 1990 1995 2000 2005 2010 2015 Nhật Singapore 68 64 56 47 45 47 48 47 44 44 47 51 56 64 75 77 83 86 73 59 47 42 37 40 41 39 34 35 Hàn Quốc 81 76 83 87 83 71 61 52 45 41 39 39 38 38 Trung Quốc 61 72 78 80 79 78 67 55 50 48 46 42 40 40 Thái Lan 83 84 90 94 92 85 75 64 56 50 47 45 44 43 Việt Nam 56 65 78 93 96 92 88 82 78 72 63 53 46 45 Indonesia Malaysia Philippines 76 74 76 80 83 81 78 72 66 60 56 52 49 46 85 88 95 98 92 85 75 74 67 66 61 59 53 50 89 93 96 97 93 90 86 83 79 74 70 64 58 53 42 2020 68 42 40 44 44 45 2025 70 54 46 46 45 45 2030 73 68 54 50 48 45 2035 79 77 61 56 52 46 2040 89 79 69 61 56 48 2045 95 77 75 63 59 52 2050 98 76 79 64 62 56 Nguồn: tính toán dựa trên số liệu của United Nations. 2003. 45 44 44 46 48 51 54 49 50 51 50 50 50 52 51 49 48 47 46 47 49 3.1.3. CƠ HỘI DÂN SỐ Ở VIỆT NAM Theo Liên hợp quốc ước tính (Bảng 3.1), tổng tỷ suất phụ thuộc của dân số Việt Nam bắt đầu giảm sau 1975, giảm nhanh từ giữa thập niên 1980. Chỉ số này giảm xuống dưới 50 vào khoảng trước 2010. Theo dự báo dựa trên Tổng Điều tra dân số 1999, với phương án mức sinh giảm, Việt Nam có tổng tỷ suất phụ thuộc là 61 vào năm 2000, 50 vào năm 2005 và 43 vào năm 2010 (Tổng cục thống kê/Dự án VIE/97/P14. 2001). Trong thời kỳ 2000-2005 tổng tỷ suất phụ thuộc giảm 11 điểm phần trăm; trong vòng 10 năm 2000-2010 giảm tới 18 điểm phần trăm, một tốc độ giống Trung Quốc thời kỳ 1975-1990 và Hàn Quốc thời kỳ 1970-1990. Như vậy, giai đoạn đầu của cơ hội dân số đã đến với Việt Nam từ thập niên 1980. Sau 2005, cơ hội dân số bước vào giai đoạn hai: Việt Nam tiến vào cái mà tác giả cuốn sách này gọi là kỷ nguyên dân số vàng của mình, kéo dài khoảng 30 năm (Bảng 3.2). Bảng 3.2. Năm bắt đầu và độ dài của "kỷ nguyên dân số vàng" 9 nước trong khu vực Nước Nhật Singapore Hàn Quốc Trung Quốc Thái Lan Việt Nam Indonesia Malaysia Philippines Năm bắt đầu 1965 1980 1990 1990 2000 2010 2010 2015 2025 Năm kết thúc 2005 Sau 2020 Sau 2025 2030 2030 2040 2040 2025 2050 Độ dài ước tính (năm) 40 40 35 40 30 30 30 10 25 120 100 80 Tæng tû suÊt phô thuéc 60 Tû suÊt trÎ em phô thuéc Tû suÊt ng- êi giµ phô thuéc 40 20 20 50 20 40 35 20 20 20 10 20 20 00 19 90 19 80 19 70 19 60 0 19 50 PhÇn tr¨m Nguồn: tính toán dựa trên số liệu của United Nations. 2003. N¨m 43 Hình 3.1. Tỷ suất dân số phụ thuộc, Việt Nam 1950-2050 Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của United Nations. 2003. 3.1.4. ĐIỀU KIỆN HIỆN THỰC HOÁ CƠ HỘI DÂN SỐ Kết quả các nghiên cứu chỉ ra rằng "cơ hội dân số" không tự động, không tất yếu đem lại tác động tích cực, nó phải được giành lấy. Trong khi một số nước đã hiện thực hoá được tiềm năng tích cực do cơ hội dân số mang lại, thì nhiều nước khác đã bỏ lỡ cơ hội đó. Có hàng loạt điều kiện cần để hiện thực hoá cơ hội dân số, mà đôi khi vượt quá tầm chủ động của một quốc gia, một Chính phủ (chẳng hạn chiến tranh, bất ổn của môi trường quốc tế, ...). Tuy nhiên, xét về mặt chủ quan quốc gia, thì tầm quan trọng hàng đầu thuộc về môi trường chính sách trong nước. Không có môi trường chính sách phù hợp, trong trường hợp tốt nhất đất nước sẽ bỏ lỡ cơ hội tăng trưởng cao dài hạn khi cơ hội dân số bắt đầu. Trong trường hợp tồi tệ sẽ là kinh tế trì trệ, bất ổn chính trị-xã hội do quá tải dân số dẫn đến thất nghiệp cao. Nếu cơ hội dân số và đặc biệt là giai đoạn dân số vàng diễn ra trùng với thời kỳ kinh tế ổn định và cất cánh, đồng thời hệ thống giáo dục thực hiện tốt chức năng chuẩn bị học vấn và nghề nghiệp cho lao động, thì nguồn nhân lực lao động tăng sẽ trở thành động lực mạnh của kinh tế (tăng việc làm, thu nhập, tiết kiệm, tiêu dùng). Ngược lại, nếu hệ thống kinh tế và giáo dục yếu kém không đáp ứng được với sự bùng nổ nhân lực này, xã hội sẽ chứng kiến tình trạng thất nghiệp tràn lan trong giới trẻ, thiếu chỗ làm, thiếu nhân lực được đào tạo, dẫn đến mất ổn định xã hội. Cơ hội dân số đòi hỏi nhà vạch chính sách phải có những lựa chọn đúng để nắm bắt được nó. Đối với Việt Nam, tận dụng cơ hội dân số đòi hỏi chú ý đến ba chủ đề: nâng cao nhận thức, quán triệt yếu tố "cơ hội dân số" vào các khu vực chính sách cơ bản, đẩy mạnh ngay một số nghiên cứu có liên quan. Về mặt nhận thức. Cơ hội dân số đang diễn ra, kỷ nguyên vàng của dân số Việt Nam đang đến, điều này cần đặt vào đúng vị trí của nó trong mọi tính toán chiến lược hiện nay. Thừa nhận đúng mức tầm quan trọng đó sẽ khiến cho nhiều yếu tố khác phải được nhìn dưới một ánh sáng mới. Chẳng hạn, nếu thực sự thừa nhận "yếu tố dân số" thì chiến lược kinh tế không thể không đi theo hướng ưu tiên tạo nhiều việc làm (labour-based), còn giáo dục trở nên một yếu tố có tầm chiến lược đặc biệt và lâu dài, phải được nhấn mạnh theo hướng phổ cập, dạy nghề, đại chúng, tiên tiến. Ngược lại, những mục tiêu kinh tế hoặc xã hội nào đó, cho dù rất hấp dẫn hoặc đầy thuyết phục, nhưng nếu tỏ ra không tận dụng được cơ hội dân số hoặc có khả năng khiến cơ hội này trở thành nguy cơ, thì cần kiên quyết không đưa vào lựa chọn chính sách hoặc ít nhất cũng phải tính đến những hậu quả của chúng. Về mặt chính sách. Cơ hội dân số tác động đến kinh tế thông qua 3 cơ chế: cung cấp lao động, tiết kiệm, và vốn con người. Những cơ chế nói trên có phát huy tác động tiềm tàng của chúng hay không, điều này phụ thuộc vào môi trường chính sách. Một lượng lớn người trong độ tuổi lao động sẽ chỉ có khả năng tham gia sản xuất với năng suất và hiệu quả nếu thị trường lao động đủ năng động và linh hoạt cho phép toàn dụng lao động, nếu chính sách kinh tế vĩ mô khuyến khích đầu tư, nếu nguồn lao động này được trang bị đủ kỹ năng thích hợp với yêu cầu 44 của nền kinh tế. Người ta chỉ tiết kiệm khi dễ dàng tiếp cận được những cơ chế tiết kiệm thích hợp, tin vào sự chắc chắn và ổn định của thị trường tài chính trong nước. Như vậy, cơ hội dân số chỉ tạo ra điều kiện, còn môi trường chính sách mới là yếu tố quyết định cho phép tận dụng được cơ hội dân số. Trong một loạt chính sách tác động trực tiếp và gián tiếp, có 4 khu vực chính sách đóng vai trò quan trọng nhất trong việc hiện thực hoá cơ hội dân số, đó là chính sách kinh tế, giáo dục, sức khoẻ, bảo trợ xã hội. Một số nghiên cứu (Bloom, 1997, 2001b. Navaneetham, 2002) gợi ý rằng các nước thành công trong việc tận dụng cơ hội dân số ở thập niên 1960-1980 là những nước theo đuổi chính sách kinh tế mở cửa, khuyến khích tính linh hoạt của thị trường lao động và tín dụng, khuyến khích đầu tư và tiết kiệm. Tuy nhiên, bản thân những chính sách này cũng không tự động thành công, chúng phải được điều hành đúng đắn và khéo léo. Điều lo ngại là trong khi cơ hội dân số ở Việt Nam đã diễn ra, kỷ nguyên dân số vàng (giai đoạn hứa hẹn nhất của cơ hội dân số) đang bắt đầu, thì những chính sách đóng vai trò trực tiếp trong việc hiện thực hoá cơ hội này (chính sách kinh tế, giáo dục, sức khoẻ, và bảo trợ xã hội) lại đang chứa đựng hàng loạt vấn đề bức xúc, chưa có đủ những giải pháp căn bản và đột phá. Về mặt nghiên cứu. Nhìn chung ở Việt Nam, các nhà kinh tế học và các nhà lập kế hoạch hoặc hoạch định chính sách kinh tế dường như ít chú ý đến yếu tố dân số, còn các nhà dân số học và các nhà vạch chính sách dân số lại thường tập trung nhiều vào giảm mức sinh, sức khoẻ sinh sản và tình dục, tuy đã có nhiều quan tâm đến di dân và gần đây có những bước tiến đáng chú ý về nghiên cứu vị thành niên. Hệ quả là một khoảng trống: mối liên hệ dân số và kinh tế chưa được nghiên cứu và chú trọng đầy đủ. Đây có lẽ cũng là biểu hiện của tình trạng thiếu nghiên cứu đa ngành và liên ngành nói chung ở Việt Nam. Điều này rất tương phản với nhiều nước khác. Cần sớm tiến hành những nghiên cứu để hiểu đầy đủ hơn biến đổi cấu trúc tuổi của dân số Việt Nam trong thời gian qua và sắp tới, tìm hiểu và dự báo được tác động qua lại giữa biến đổi cấu trúc tuổi và kinh tế. Phải chăng, về mặt chính sách, cơ hội dân số Việt Nam phần nào đã bị bỏ lỡ trong thập niên 1980; nhưng về mặt thực tế, cơ hội dân số đã là một yếu tố giảm nhẹ tác động của khủng hoảng kinh tế ở thời kỳ này? Phải chăng cơ hội dân số đã có đóng góp vào thành công kinh tế Việt Nam từ thập niên 1990 cho đến nay? Nếu có, mức đóng góp là bao nhiêu? Quan trọng hơn là câu hỏi nghiên cứu hướng vào tương lai: làm thế nào tận dụng được kỷ nguyên dân số vàng, giai đoạn hai của cơ hội dân số, đang bắt đầu. Trong chủ đề nghiên cứu này cần phân tích biến đổi cơ cấu tuổi của khối dân cư trong độ tuổi lao động, có lưu ý đến xu hướng già hoá dân cư sẽ bắt đầu nhanh sau 2010 (Bùi Thế Cường, 2001). Chú trọng những nghiên cứu nhằm tạo ra đột phá về nhận thức và chính sách trong việc lựa chọn mô hình đầu tư và tăng trưởng; cải thiện môi trường chính sách kinh tế; đổi mới sâu rộng thị trường lao động; cải cách giáo dục, y tế và bảo trợ xã hội. Phân tích nói trên về biến đổi cấu trúc dân số cho thấy Việt Nam trong thập niên này đã tiến vào một thời kỳ bùng nổ dân số trong độ tuổi lao động (thời kỳ vàng). Như lịch sử dân số các nước trên thế giới chỉ ra, đây là một cơ hội lớn có một không hai, nhưng cũng đầy thách thức. Nếu giai đoạn vàng này diễn ra trùng khớp với một giai đoạn kinh tế ổn định, hệ thống giáo dục 45 thực hiện tốt chức năng chuẩn bị học vấn và nghề nghiệp cho lao động, thì sự bừng nở nguồn nhân lực này sẽ là một động lực mạnh mẽ của phát triển kinh tế (gia tăng việc làm, thu nhập, và mức tiêu dùng của quốc gia). Ngược lại, nếu hệ thống kinh tế và giáo dục yếu kém, không đáp ứng được với sự bùng nổ nhân lực ấy, thì xã hội sẽ chứng kiến tình trạng thất nghiệp tràn lan trong giới trẻ, thiếu chỗ làm, thiếu nhân lực được đào tạo, dẫn đến tệ nạn và mất ổn định xã hội. Yếu tố bùng nổ dân số trong độ tuổi lao động ở Việt Nam hiện nay thực sự là một biến số quan trọng bậc nhất, cần được đưa vào trong mọi tính toán chiến lược kinh tế hiện nay. Sức mạnh tác động của biến số này chỉ ra rằng trong mọi trường hợp, các chiến lược kinh tế không thể không đi theo hướng ưu tiên các ngành tạo nhiều việc làm (labour-based), và giáo dục phải theo hướng phổ cập, dạy nghề, đại chúng. 3.2. DI DÂN Di dân là một động thái quan trọng của dân số, nhưng cho đến trước thập niên 2000 nó chưa được thực sự quan trắc có hệ thống và phân tích cẩn thận ở Việt Nam. Điều này đã có cải thiện đáng kể trong những năm 2000. Trong suốt hơn nửa thế kỷ qua, dân cư Việt Nam đã di chuyển rất nhiều, có những cuộc di dân lớn cả triệu người, nhưng ít được nhận diện và nghiên cứu sâu sắc, mặc dù dữ liệu quản lý của nhà nước vẫn ghi nhận được. “Chính sách điều dân ở Việt Nam là chính sách lớn nhất về mặt quy mô, ảnh hưởng kinh tế-xã hội trong nước” so với các nước trong khu vực Đông Nam Á (Ono Mikiko. Trong: Iwai Misaki và Bùi Thế Cường, 2010, trang 34). Chỉ trong khoảng hơn 10 năm qua, dưới áp lực của thực tế di dân mới nổi lên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, hiện tượng di dân mới trở nên vấn đề nóng trong chính sách, công luận và nghiên cứu. Có thể xem cuộc Điều tra Di cư Việt Nam 2004 với cỡ mẫu hơn 10.000 người là một cố gắng có hiệu quả gần đây nhất nhằm cung cấp một bức tranh toàn diện về di dân ở Việt Nam. Phần này bàn đến một số xu hướng và đặc trưng của di dân trong nước, làm rõ một số khía cạnh trong mối quan hệ giữa di dân và phát triển ở Việt Nam, đề cập đến những vấn đề bức xúc đang nổi lên và có liên quan đến quá trình di dân ở trong nước, chủ yếu tập trung vào hình thái di cư tự nguyện vì mục đích kinh tế. 3.2.1. BỐI CẢNH CỦA DI DÂN Những biến đổi kinh tế-xã hội to lớn do đường lối Đổi Mới đã thay đổi mạnh mẽ những động lực “hút” và “đẩy” đối với di dân. Tự do hóa kinh doanh trong nông nghiệp (thay thế hợp tác xã và các hình thái sản xuất tập thể khác bằng kinh tế hộ gia đình và tư nhân, tự do hoá giá cả và lưu chuyển sản phẩm nông nghiệp,…) đã giải phóng lao động nông thôn khỏi những ràng buộc kinh tế và hành chính với nơi họ cư trú. Nền kinh tế công nghiệp và đô thị tăng trưởng mạnh làm nảy sinh nhu cầu lớn về lao động cũng như khả năng trả công lao động. Đổi Mới cũng xóa bỏ nhiều quan niệm và thủ tục quản lý con người theo địa bàn cư trú và tem phiếu, khiến người dân dễ dàng di chuyển nơi sinh sống và làm việc hơn. Tăng trưởng kinh tế dẫn đến tăng nhanh khác biệt kinh tế theo địa lý, dẫn đến đẩy mạnh di dân vì lý do kinh tế. Các mạng lưới xã hội cổ truyền (dựa trên họ hàng, đồng hương, …) vốn đã có chức năng quan trọng đối với di dân cả trong thời kỳ hành chính quan liêu bao cấp, nay còn đóng vai trò lớn hơn nữa trong việc thúc đẩy di dân dưới thời kinh tế thị trường. Cũng phải kể đến sự cải thiện điều kiện vận tải và truyền thông khiến con người di chuyển và giao lưu dễ hơn với chi phí thấp hơn. Tất cả những 46 yếu tố tác động trên đã làm tăng động lực “hút-đẩy” đối với di dân (Đặng Nguyên Anh, 1998, 2004, 2009 và 2010 [Trong: Iwai Misaki và Bùi Thế Cường, 2010]). 3.2.2. ĐỘNG THÁI VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA DI DÂN Về mặt quy mô, trong thời kỳ 5 năm trước cuộc Tổng điều tra Dân số 1999, trên 4.350.000 người đã ra khỏi địa giới hành chính nơi họ thường trú. Dân số di cư chiếm 6,5% tổng số dân từ 5 tuổi trở lên, trong đó 55% di chuyển nội tỉnh và 45% di chuyển đến tỉnh thành khác (GSO & UNDP, 2001). Trong khi đó, theo thống kê chính thức, thời kỳ này chỉ có hơn 2 triệu người di cư theo các chương trình Nhà nước (MARD, 2000). Về mặt địa lý, năm tỉnh thành được xem là điểm đến nhiều nhất của di dân thời kỳ 2002-2004 lần lượt là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Quảng Ninh, Đà Nẵng. Năm tỉnh có dân đi nơi khác nhiều nhất lần lượt là Thanh Hóa, Nam Định, Thái Bình, Hà Tây, Quảng Nam. Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên là những điểm đến chủ yếu của di dân tự do. Di dân đến các khu vực thành thị chiếm trên 53% tổng số người di cư, chủ yếu là vào Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Hơn 921.000 người đã chuyển đến Đông Nam Bộ (chiếm 8% dân số khu vực này) trong thời kỳ Tổng điều tra dân số 1999. Phần lớn là Bình Dương và Đồng Nai. Số di chuyển đến Tây Nguyên trong cùng thời kỳ là 248.000 người, chiếm 9,5% dân số khu vực này. Ngoài ra, Quảng Ninh, Hải Phòng và Đà Nẵng cũng là những điểm đến đáng chú ý của dân di cư. Thành phố Hồ Chí Minh là đầu tầu tăng trưởng dân số đô thị của cả nước. Năm 1990, 33% dân số thành thị sống ở thành phố này. Con số này là 38,4% năm 2002 (Tổng Điều tra dân số 2009 cho thấy tỷ lệ này giảm xuống còn 35%). Dân số Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh tổng cộng chiếm 53% tổng số dân thành thị của Việt Nam. Tỷ suất di dân thuần tuý của Thành phố Hồ Chí Minh là +8,15%, cao nhất trong cả nước. Trong khi đó, tỷ suất này của Hà Nội bằng khoảng một nửa (+ 4,29%). Bình Dương được xem là một điển hình tăng trưởng kinh tế, do đó cũng là một địa bàn nổi bật về di dân: năm 2005 số người lao động nhập cư chiếm khoảng 40% trong tổng số hơn 730.000 lao động toàn tỉnh (Nguyễn Văn Hiệp, 2007). Về khía cạnh tuổi và giới, di dân nội địa thường bao gồm phần lớn dân số trẻ. Hơn một nửa số người di cư (52%) thuộc nhóm tuổi dưới 25 và chỉ có 10,5% là trên 45 tuổi, so với 48% và 20% trong nhóm người không di chuyển. Tỷ suất di dân ở nhóm 20-24 tuổi cao gấp đôi so với các nhóm khác. Phụ nữ di dân chiếm phần đông trong những năm 1990-2000, đáp ứng nhu cầu lao động nữ trẻ chủ yếu trong khu vực đang tăng trưởng có tính bùng nổ (công nghiệp may mặc, chế biến hải sản). Những đặc trưng nhân khẩu-xã hội của người di dân cho thấy người chưa lập gia đình chiếm số lượng lớn trong các luồng di dân ngoại tỉnh. Mức độ di dân gia tăng theo trình độ học vấn. Nhiều trường hợp di chuyển để tìm kiếm cơ hội học lên cao. Thay vì trở về quê hương sau khi tốt nghiệp, phần lớn sinh viên có xu hướng trụ lại tìm việc làm ở các đô thị lớn. Về mặt nghề nghiệp, lao động di cư xuất hiện chủ yếu trong khu vực sản xuất, xây dựng, công nghiệp nhẹ. Điều này đặc biệt đúng với các khu vực có vốn đầu tư nước ngoài hoặc hỗn hợp, nơi lao động di cư chiếm khoảng một phần tư lực lượng lao động. Các ngành dịch vụ có số lao động nhập cư làm việc đông đảo nhất, chủ yếu là bán hàng, vận chuyển, phục vụ nhà hàng, giúp việc gia đình 47 và các dịch vụ tư nhân khác. Nói chung, các ngành nghề tạo ra thu nhập tiền mặt đều thu hút lao động di cư. Bảng 3.3. Di dân nội địa theo vùng địa lý, 1994-1999 Vùng cư trú năm 1999 Đồng bằng sông Hồng Đông Bắc Tây Bắc Bắc Trung Bộ Duyên hải miền Trung Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long Toàn quốc Tổng số dân từ 5 tuổi trở lên Di dân nội vùng N 13.579.500 125.904 % Di dân giữa các vùng N % Di dân giữa các tỉnh N % 0,93 131.262 0,97 257.166 % di chuyển giữa các vùng 1,89 51,04 9.796.818 1.965.217 8.942.617 66.451 1.825 23.530 0,68 0,09 0,26 65.125 23.418 40.061 0,66 1,19 0,45 131.576 25.243 63.591 1,34 1,28 0,71 49,50 92,77 63,00 5.846.321 45.601 0,78 65.872 1,13 111.473 1,91 59,09 2.624.361 9.268 11.480.881 204.858 0,35 1,78 239.205 716.746 9,12 6,24 248.473 921.604 9,47 8,03 96,27 77,77 14.739.413 186.246 1,26 56.035 0,38 242.281 1,64 23,13 68.975.128 663.683 0,96 1.337.724 1,94 2.001.407 2,9 66,84 Ghi chú: Chỉ tính số dân từ 5 tuổi trở lên. Nguồn: Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở 1999. Đặng Nguyên Anh, 2004. Bảng 3.4. Phân bố các loại hình di dân theo giới, 1994-1999 Loại hình di cư Dân số trên 5 tuổi Không di chuyển Di dân nội tỉnh Di dân ngoại tỉnh Tổng dân số Di dân Nông thôn-nông thôn Nông thôn-thành thị Thành thị-nông thôn Thành thị-thành thị Tổng dân số di chuyển Nam Tổng số N % Nữ N % N % 31.614.357 1.075.499 1.001.234 33.691.090 93,84 3,19 2,97 100,00 32.878.954 1.404.911 1.000.175 35.284.040 93,18 3,98 2,83 100,00 64.493.311 2.480.410 2.001.409 68.975.130 93,50 3,60 2,90 100,00 711.745 552.544 218.859 535.274 2.018.422 35,3 27,4 10,8 26,5 100,0 897.279 629.745 203.092 602.468 2.332.584 38,5 27,0 8,7 25,8 100,0 1.609.024 1.182.289 421.951 1.137.742 4.351.006 37,0 27,2 9,7 26,1 100,0 Ghi chú: Chỉ tính số dân từ 5 tuổi trở lên. Nguồn: Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở 1999. Đặng Nguyên Anh, 2004. 3.2.3. NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI LÊN CỦA DI DÂN Trong mục này đề cập đến một số chủ đề nổi bật liên quan đến di dân. Những chủ đề này vừa đem lại “vấn đề” vừa đem lại những tác động tích cực cho bản thân người di dân, gia đình và 48 cộng đồng của họ, và xã hội. Điều này đòi hỏi phải có nhiều nghiên cứu khác nhau về mục đích và phương pháp để có thể nhận diện được tính phức tạp của các tương tác xã hội đa chiều. Đóng góp của di dân Đánh giá đóng góp của di dân đối với phúc lợi và phát triển (ở cả cấp độ cá nhân, gia đình, cộng đồng, địa phương và xã hội) là một câu chuyện thú vị về mặt xã hội học tri thức và xã hội học khoa học ở Việt Nam. Theo dõi sự tiến triển của quan điểm về di dân ở Việt Nam trong 25 năm Đổi Mới vừa qua cho thấy thực tiễn và kết quả nghiên cứu xã hội đã tác động mạnh mẽ đến thay đổi nhận thức về di dân. Trước thời kỳ Đổi Mới, các cơ quan chức năng Nhà nước rất quan tâm đến di dân, coi đây là động lực và giải pháp quan trọng cho phát triển. Tuy nhiên họ chỉ đánh giá cao di dân có tổ chức (trong kế hoạch Nhà nước) và có quan niệm tiêu cực đối với di dân tự phát. Điều này có cơ sở lý luận của nó, và đồng thời chi phối định hướng tư tưởng và hành vi chính sách (Xem lại Chương Một). Do tác động của Đổi Mới, di dân tự phát ngày càng tăng lên, song định kiến nói trên vẫn tự động tồn tại như một lăng kính “nhìn và diễn giải thực tế” và như một cơ chế hành động chính sách trong thập niên 1990. Tuy nhiên, sự phối hợp công tác mạnh mẽ giữa các nhà tài trợ quốc tế, giới nghiên cứu xã hội, và các cơ quan chức năng Nhà nước, đã làm thay đổi đáng kể nhận thức và chính sách về di dân và người di dân. Một thay đổi đáng kể chính là liên quan đến đánh giá về đóng góp của di dân đối với phát triển. Nghiên cứu thực nghiệm về di dân đã đưa ra những bằng chứng thuyết phục rằng người di cư có đóng góp to lớn. Một mặt, đối với gia đình và quê hương, di dân làm tăng thu nhập cho người di cư và gia đình họ ở quê hương, đa dạng hóa nguồn thu nhập, giảm tính dễ bị tổn thương trước những rủi ro, giảm nhẹ phần nào mức tăng bất bình đẳng, tuy không giúp thực sự cho việc thoát nghèo song làm cho mức nghèo đỡ gay gắt hơn (Nguyễn Việt Cường và cộng sự, 2009). Mặt khác, đối với nơi đến, người di cư đáp ứng cầu về lao động ở các khu công nghiệp và đô thị, tham gia tích cực vào tăng trưởng kinh tế. Ước tính người di cư đóng góp 30% GDP của Thành phố Hồ Chí Minh (Đặng Nguyên Anh, 2009). Sinh kế, và rộng hơn, kinh tế, là động lực chính chi phối di dân Đằng sau hầu hết hành vi di dân nông thôn-đô thị là cân nhắc chiến lược sinh kế của các hộ gia đình. Việc di chuyển được quyết định trong sự suy tính và bàn thảo của cả cá nhân người di cư lẫn của cả gia đình, thậm chí gia đình mở rộng, nhằm có thêm thu nhập, giảm rủi ro, và mở ra cơ hội cho thế hệ trẻ (thu nhập, công việc tốt hơn, điều kiện văn hóa-xã hội ở nơi đến tốt hơn). Các hộ gia đình ở nông thôn thường phân công lao động trên nhiều địa bàn khác nhau nhằm giảm thiểu rủi ro. Thông qua di dân, các thành viên trong hộ cùng đóng góp và chia sẻ thu nhập chung. Như vậy, tiền do các thành viên đi làm ăn xa gửi về là một bộ phận hợp thành trong chiến lược sống của nông hộ nghèo. Tuy nhiên, di dân không phải là một giải pháp dễ dàng cho những người nghèo nhất vì việc rời quê hương để kiếm sống ở nơi xa đòi hỏi tiềm lực tài chính nhất định, sức khoẻ, hiểu biết xã hội và những quan hệ xã hội nhất định. Đây chính là những nguồn vốn không thể có ở người quá nghèo. Di dân đối với nhóm rất nghèo hay nghèo nhất thường là do việc di dời tái định cư trong những dự án phát triển hoặc do thiên tai, do bị mất đất hay rơi vào cảnh nợ nần, hoặc do thất bại của bản thân. 49 Tiết kiệm và tiền gửi về của người di dân Cơ hội đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp và ngành nghề phi nông ở nông thôn rất hạn chế, nên tiền gửi về của di dân có ảnh hưởng rất lớn đối với thu nhập của hộ gia đình ở quê: trang trải nợ nần, tiền học cho con, chi phí đau ốm của người thân. Theo số liệu Điều tra Mức sống dân cư Việt Nam 1998-1999, trên 23% hộ gia đình đã nhận được tiền gửi trong vòng 12 tháng trước cuộc điều tra, và số tiền gửi này chiếm 38% các khoản chi tiêu của hộ gia đình (Le and Nguyen, 1999). Một số nghiên cứu cho thấy nếu không có nguồn tiền mặt do các thành viên đi làm ăn xa gửi về, nhiều hộ gia đình ở nông thôn sẽ không đủ nguồn thu nhập để tồn tại và trang trải cho chi phí học hành và y tế. Tiền gửi về cũng còn được dùng cho hoạt động đầu tư, xây nhà và mua sắm vật dụng lâu bền cũng như các vật dụng khác vượt quá nhu cầu vật chất thiết yếu. Điều này gián tiếp tác động đến nền kinh tế của cộng đồng. Nhìn chung, sự kết hợp giữa thu nhập từ đồng ruộng và hoạt động phi nông tại chỗ với những khoản tiền gửi về có ý nghĩa rất quan trọng đối với cuộc sống ở nông thôn hiện nay. Sự rời bỏ nông thôn quê hương ngày càng tăng của thanh niên, trung niên trẻ và phụ nữ Như phần trên đề cập, đại đa số người di dân là thanh niên, một phần là những người trẻ trong lớp tuổi trung niên. Di dân phụ nữ cũng ngày càng tăng trong thập niên 1990 và 2000. Đây là hiện tượng khác với thập niên 1980. Trong hầu hết các nhóm tuổi, tỷ trọng phụ nữ di cư tương đương với tỷ trọng của nam giới. Nhóm di dân đông đảo nhất là phụ nữ dưới 25 tuổi, đặc biệt nhóm 18-22 tuổi. Xu hướng này phản ánh nhu cầu lớn đối với lao động nữ trong các ngành nghề dịch vụ, thương mại và công nghiệp nhẹ (dệt, may, giày dép và chế biến thực phẩm). Giống những nước châu Á khác, quá trình này liên quan một phần đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, khả năng hội nhập quốc tế và xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Nhìn chung, lao động nữ di cư thể hiện khả năng thích nghi nhanh. Di cư thể hiện cơ hội cải thiện điều kiện kinh tế cho phụ nữ và gia đình họ. Thiếu bảo vệ xã hội đối với di dân Người lao động di cư không nhận được sự bảo vệ đầy đủ trong thị trường việc làm cũng như ở nơi cư trú. Họ thường không có bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm nghề nghiệp. Do bản chất công việc là tạm thời và không được đăng ký hộ khẩu thường trú, người lao động di cư khó tự bảo vệ mình trước những rủi ro trong công việc và đời sống. Họ làm việc thường không có hợp đồng lao động, hoặc hợp đồng lao động không đầy đủ yếu tố pháp lý. Trong hợp đồng lao động họ thường rơi vào thế yếu. Phần lớn lao động di cư phải làm việc trong điều kiện tồi tệ. Mấy năm gần đây, người ta quan sát thấy ngày càng tăng số lượt đình công ở các khu công nghiệp, nơi phần lớn công nhân là người di cư. Một báo cáo giám sát của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội chỉ ra điều kiện làm việc khó khăn, vị thế dễ bị tổn thương của lao động trẻ di cư đến các khu công nghiệp và những thị trường lao động chính thức, trong đó phần lớn là lao động nữ. Báo cáo cho thấy nhiều chủ sử dụng lao động không thực hiện bổn phận cung cấp bảo hiểm y tế và xã hội cho lao động di cư. Công nhân phải tự lo thuê nhà, sinh hoạt với đồng lương ít ỏi. Nhiều doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước, thuê lao động không có nghề và theo mùa vụ mà không ký hợp đồng (COSA, 2003). 50 Không chỉ các doanh nghiệp, tại nhiều nơi chính quyền địa phương và các cơ sở dịch vụ xã hội (đặc biệt là y tế) cũng thiếu quan tâm đến dân di cư. Vẫn còn tồn tại thái độ và cách làm coi người di cư không phải là “đối tượng chính thức được phục vụ” giống như dân tại chỗ. Thái độ này có nguồn gốc sâu xa trong tư duy quản lý hành chính thời kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp. Kết quả là di dân ít được lồng ghép vào kế hoạch hoạt động của chính quyền và dịch vụ xã hội công cộng. Các dự án và chương trình phát triển hay sức khỏe sinh sản thường bỏ qua lao động nhập cư do vị thế không chính thức của họ về mặt pháp lý ở địa bàn nơi đến. Xáo trộn gia đình và văn hóa Di dân với những khó khăn của quá trình này dẫn đến những vấn đề gia đình trong ngắn hạn và cả dài hạn. Những người di dân trẻ sớm tách rời cha mẹ và cộng đồng, đột ngột bước vào môi trường sống mới ở khu công nghiệp và các khu ngoại vi đô thị lớn, phần lớn là tạm bợ và xô bồ. Những người di dân đã có gia đình khiến cho vợ chồng xa nhau lâu ngày, con cái lớn lên trong nhiều năm thiếu sự dạy dỗ và chăm sóc của cha hoặc mẹ hoặc cả hai. Nhiều trẻ em phải sống với ông bà hoặc tự chăm nom lẫn nhau để cha mẹ chúng đi kiếm ăn nơi xa. Nhiều người già ở nông thôn không được chăm sóc đầy đủ, vì phần lớn con cái đi làm ăn xa. Thêm nữa, tuy đã già yếu họ còn phải trông nom nhà cửa và các cháu nội ngoại, để cha mẹ chúng yên tâm kiếm sống nơi các khu công nghiệp và đô thị. Rất khó tính được những hậu quả lâu dài và sâu xa bởi những hoàn cảnh “sốc” như trên về mặt gia đình và văn hóa đối với người di dân, đối với cha mẹ, vợ chồng, con cái họ. Chưa có nhiều nghiên cứu về những hậu quả này. Điều đáng tiếc là cuộc Điều tra di cư Việt Nam 2004 cũng hầu như không có câu hỏi nào cho phép thu được thông tin để đánh giá những hậu quả nói trên (Tổng cục Thống kê và UNFPA, 2006, xem phần bảng hỏi ở cuối sách). Gần đây đã có một số nghiên cứu quan tâm đến các khía cạnh văn hóa, xã hội và tâm lý của di dân (Nguyễn Thanh Liêm, 2009 và Viện Xã hội học, 2009). Những quá trình di dân và hệ thống quản lý nhân lực qua cơ chế hộ khẩu: Một biểu hiện của khoảng cách giữa thực tiễn di dân và chính sách Hàng loạt nghiên cứu trong nước và quốc tế tiến hành trong những năm 1990-2000 đều dẫn đến kết luận có sự bất cập đáng kể giữa thực tế và chính sách di dân ở Việt Nam (Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Liên hợp quốc, 2009). Ở đây chỉ đề cập đến một biểu hiện trong hệ thống quản lý hộ khẩu. Trong thời kỳ thực hiện hệ thống xã hội kế hoạch hóa hành chính bao cấp (từ giữa thập niên 1950 ở miền Bắc, và từ sau 1975 ở miền Nam), tương tự việc di chuyển hàng hóa, di cư nói chung, đặc biệt di cư đến các thành phố, chịu sự kiểm soát chặt chẽ thông qua hệ thống quản lý con người bằng hộ khẩu và tem phiếu, di dân trong kế hoạch Nhà nước, và hệ thống tuyển biên chế và điều động công tác trong khu vực Nhà nước. Đến cuối thập niên 1980, động lực “hút-đẩy” thay đổi mạnh mẽ, dẫn đến những dòng di cư tự phát ngày càng lớn, tự phá bỏ cơ chế giám sát di cư cũ. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, chính sách kiểm soát di dân vẫn ở trong tình trạng không rõ ràng, dao động giữa cách làm cũ và những quá trình kinh tế-xã hội mới. Một mặt, cơ chế giám sát cũ tự động bị nới lỏng. Mặt khác, vẫn duy trì chế độ hộ khẩu, được dùng làm cơ sở cho các phân loại liên quan đến vị thế pháp lý và quyền tiếp cận các dịch vụ đời sống. Kết quả là người di cư bị hạn chế hoặc phải trả chi phí 51 cao hơn cho hàng loạt quyền và nhu cầu tiếp cận cơ bản: điện, nước, y tế, giáo dục cho con em, sở hữu nhà đất, xin việc làm tại khu vực chính thức, vay vốn tín dụng, kinh doanh, đăng ký hoặc mua bán tài sản lớn, công chứng pháp lý, khai sinh, khai tử, ... Điều tra di cư Việt Nam 2004 chỉ ra rằng chế độ hộ khẩu hiện tại “ảnh hưởng nhiều đến việc cư trú lâu dài tại nơi chuyển đến. Dù với lý do di cư bất kỳ nào, việc cư trú ổn định lâu dài ảnh hưởng rất mạnh tới việc cải thiện được đời sống sau khi chuyển đi” (Tổng cục Thống kê và UNFPA, 2006, tr. 1). Tình trạng nói trên đã diễn ra trong suốt gần hai thập niên sau Đổi Mới, tức là một nửa cuộc đời lao động của một thế hệ, mặc dù quy mô di dân đã bùng phát dữ dội. Chỉ đến rất gần đây mới có những chuyển biến đáng kể trong nhận thức và thực tế chính sách. (Cuối năm 2006 Quốc Hội ban hành Luật Cư trú [81/2006/QH11] và năm 2007 Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị về việc tổ chức triển khai thi hành Luật Cư trú [07/2007/CT-TTg]). Việc chậm thay đổi chính sách quản lý con người ở Việt Nam qua trường hợp người di dân, có thể nói, là một ví dụ điển hình cho một hiện tình chung: sự trì trệ của các chính sách và cơ chế quản lý nhân khẩu-nguồn lao động theo kiểu cũ, trước những biến đổi xã hội nhanh chóng đòi hỏi những thay đổi mang tính cấu trúc cơ bản, nhưng đã không được đáp ứng kịp thời. 3.3. GIÀ HOÁ DÂN SỐ 3.3.1. GIÀ HÓA: VẤN ĐỀ CỦA MỌI QUỐC GIA TRONG THẾ KỶ XXI Cho đến khoảng giữa thế kỷ XX, tiến bộ về điều kiện vệ sinh, cung cấp nước sạch và kiểm soát bệnh truyền nhiễm đã làm giảm mạnh nguy cơ chết sớm trước tuổi. Đồng thời, hàng loạt nhân tố xã hội khác làm giảm mức sinh. Người ta đã hoan hỉ về tiến bộ tăng tuổi thọ, bỏ qua một vài cảnh báo sớm về một viễn cảnh già hóa dân số. Nhưng chỉ sau đó ít lâu các nhà dân số học và quản lý đã phải nhận ra một hiện tượng dân số mới không tiền khoáng hậu: sự già hóa dân số với những tác động lâu dài và sâu sắc của nó đến nhân loại. Năm 1950, thế giới có khoảng 200 triệu người trên 60 tuổi. Năm 2000, số người thuộc độ tuổi này là 550 triệu (chiếm khoảng 10% dân số), dự tính năm 2025 đạt tới 1,2 tỷ người (chiếm khoảng 20% dân số). Cuộc họp Đại hội đồng Liên hợp quốc về già hoá dân số tại Vienna năm 1982 thể hiện sự phối hợp toàn thế giới đầu tiên đối với vấn đề già hóa, thông qua một chương trình toàn cầu cho vấn đề này. Nhưng Đại hội chưa thực sự nhận thức được rằng quy mô và tỷ lệ cao của người già trong dân số sẽ nằm ở khu vực các nước đang phát triển, nơi mà quá trình già hoá bắt đầu và diễn ra mạnh mẽ trong tình cảnh chưa thoát khỏi sự nghèo khổ. Trong những nước đó, cả xã hội, nhà nước cũng như gia đình và cá nhân đều có rất ít nguồn lực. Đại hội này cũng chưa đặt ra một cách rõ ràng về tình trạng tồn tại những hình ảnh và thái độ sai về người cao tuổi. Người có tuổi vẫn còn là một nhóm bị bỏ quên, bị vô hình trước những người làm công tác phát triển, thường bị coi là phụ thuộc và thụ động về mặt kinh tế và xã hội. Nhiều người cao tuổi bị phân biệt đối xử, bị loại trừ, thậm chí bị ngược đãi và bạo hành. Phần lớn người cao tuổi hiện vẫn không thể dựa nhiều vào các hình thức hỗ trợ nhà nước. Chỉ có 30% người già trên thế giới hưởng chế độ hưu trí. Trong các nước đang phát triển, phần lớn người già rất khó tiếp cận những dịch vụ y tế, việc làm, nhà ở, đi lại và chăm sóc. Nhiều nước bị hạn chế trong việc lập pháp và huy động nguồn lực cho vấn đề già hoá. 52 Hai mươi năm sau, cuộc họp Đại hội đồng Liên hợp quốc về già hoá dân số lần thứ hai diễn ra tại Madrid năm 2002 đã cố gắng khắc phục những nhược điểm trên, thông qua một chương trình toàn cầu mới cho vấn đề này. Liên hợp quốc đã thực hiện một loạt nỗ lực từ đó đến nay nhằm thúc đẩy và hỗ trợ các quốc gia đáp ứng với vấn đề già hóa. 3.3.2. GIÀ HOÁ DÂN SỐ Ở VIỆT NAM Tại Việt Nam, nếu như vấn đề người cao tuổi đã được quan tâm từ khá lâu, thì vấn đề già hóa dân số lại mới chỉ được chú ý trong vòng hơn 10 năm trở lại đây. Mặc dù nhiều số liệu khác nhau, song nhìn chung có thể thấy rằng Việt Nam đã và đang trải qua sự già hóa dân số như phần lớn quốc gia khác trên thế giới. Năm 1979, mới chỉ có 3,71 triệu người từ độ tuổi 60 trở lên, chiếm 6,9%. Năm 2006 ước tính con số này là 7,7 triệu người, chiếm 9,2%. Quá trình già hóa dân số ở Việt Nam có bị chậm đi do các biến cố lịch sử như nạn đói 1945 và các cuộc chiến tranh ác liệt kéo dài. Nhưng vào khoảng trước 2005 quá trình này đã bắt đầu tăng tốc. Ngay từ giữa những năm 1990, tỷ lệ người 75 tuổi trở lên trong nhóm người cao tuổi (60+) đã tăng mạnh, và điều này diễn ra trong suốt thập niên tiếp đó. Vào năm 2010, tỷ lệ này sẽ lên tới 29%, một con số cao hơn bất kỳ nước châu Á nào khác. Ngay cả ở Việt Nam, tỷ lệ này cũng sẽ không còn được nhìn thấy nữa cho đến tận sau 2040. Do chiến tranh nên tỷ suất giới tính trong nhóm người cao tuổi (số người già nữ so với người già nam) lên tới 1,5 lần vào 2010. Bảng 3.5. Dự báo dân số người cao tuổi Việt Nam dựa trên Tổng điều tra dân số 1999, 20002020 Năm Số người 60+ 2000 6.144.817 2005 6.397.546 2010 6.878.141 2015 8.282.125 2020 10.692.992 Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2001. Chung 7,97 7,73 7,79 8,73 10,57 Tỷ lệ % người 60+ trong tổng dân số Nam 6,69 6,54 6,68 7,64 9,48 Nữ 9,22 8,90 8,86 9,80 11,65 Bảng 3.6. Dân số người cao tuổi Việt Nam, số liệu 2005-2006 Năm Dân số 60+ (triệu người) Tổng dân số (triệu % dân số 60+ trên tổng dân số người) 1979 3,71 53,74 6,90 1989 4,64 64,41 7,20 1999 6,19 76,32 8,20 2005 7,46 83,12 8,97 2006 7,75 84,10 9,22 Nguồn: Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em. Báo cáo quốc gia 2002; Niêm giám thống kê 2005; Điều tra biến đổi dân số và kế hoạch hóa gia đình 2006. Thế hệ người cao tuổi Việt Nam hiện nay đã trải qua những kinh nghiệm xã hội mang tầm vóc lịch sử mà rất ít thế hệ trước kia từng trải qua: sự hiện đại hóa liên tục nhưng dở dang và méo mó trong suốt thế kỷ XX, nạn đói và các xáo trộn xã hội, những cuộc chiến tranh ác liệt kéo dài. Điều may mắn là trong vòng hơn 10 năm qua, người cao tuổi được hưởng lợi một phần từ những thành quả của Đổi Mới: tăng trưởng kinh tế cao, ổn định xã hội, chi tiêu phúc lợi xã hội 53 tăng. Nhưng hiện nay và trong 20 năm tới xã hội Việt Nam còn phải trải qua những biến đổi xã hội to lớn do kết quả của công nghiệp hóa hiện đại hóa quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá. Cho dù được quản lý tốt, quá trình biến đổi vĩ mô này không tránh khỏi dẫn đến những tác động xã hội lớn lao. 3.3.3. HOÀN CẢNH KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA NGƯỜI CAO TUỔI Khảo sát của Tổng cục Thống kê cho thấy vào đầu những năm 2000 có khoảng 25% người cao tuổi còn lao động (trong đó 15,5% người già ở đô thị và 28% người già ở nông thôn) (Tổng cục Thống kê, 2003). Khảo sát về tình hình người cao tuổi Việt Nam tại 8 tỉnh năm 2007 cho kết quả 19,9% người được hỏi có mức sống khá giả, 57,5% có mức sống trung bình và 23,1% ở mức nghèo (Dao The Toan, 2007). Một nghiên cứu khác của Hội Người cao tuổi Việt Nam cho biết 10,5% người cao tuổi trong mẫu khảo sát có mức sống khá giả, 55,5% ở mức trung bình và 34% ở mức nghèo. Chỉ khoảng 1/3 người cao tuổi được nhận trợ cấp xã hội thường xuyên (dưới dạng chính sách ưu đãi người có công, hưu trí và trợ giúp xã hội) (Hội Người cao tuổi Việt Nam, 2007). Điều tra Sức khỏe Quốc gia năm 2001-2002 (VNHS) được xem là cuộc khảo sát định lượng đại diện quốc gia đầu tiên về sức khỏe dân cư ở Việt Nam, trong đó đã phỏng vấn 15.195 người có độ tuổi 60 trở lên. Kết quả cho thấy 50% người trong độ tuổi 65-74 nói rằng sức khỏe của họ kém. Tỷ lệ này là 81% trong độ tuổi 80 trở lên. Trong độ tuổi 65-74 có hơn 10% được xem là người khuyết tật. Tỷ lệ này là 20% trong độ tuổi 75 trở lên. Khoảng 40% người già trong mẫu khảo sát có vấn đề về huyết áp. Người cao tuổi Việt Nam có thể nhận được thẻ bảo hiểm y tế từ 4 chế độ: ưu đãi người có công, hưu trí, người nghèo, và đóng bảo hiểm tự nguyện. Tuy nhiên, hiện nay có tới 66,6% người già (60+) không có thẻ bảo hiểm y tế. Bảng 3.7. Học vấn, hoạt động kinh tế, hôn nhân và nơi cư trú của người cao tuổi Việt Nam (60+) theo giới và tuổi, 1999 Chỉ số 60+ Nam 14,2 Nữ 47,6 60-69 Nam Nữ 8,8 33,8 % không biết chữ % không được đi học chính quy 12,9 42,5 8,1 29,4 % đạt học vấn lớp 6 trở lên 35,1 8,0 43,4 11,7 % còn lao động 34,1 19,0 46,7 29,9 % sống ở đô thị 22,0 21,5 22,5 21,9 % đang kết hôn 84,8 44,2 90,9 57,9 % goá 14,0 53,3 7,9 39,0 % chưa bao giờ kết hôn 0,4 1,2 0,4 1,5 Nguồn: Số liệu Tổng Điều tra dân số Việt Nam 1999 (mẫu 3%). 70-79 Nam Nữ 18,4 58,3 80+ Nam 34.6 Nữ 75.9 16,8 52,4 30.8 69.6 25,8 19,1 21,5 80,3 18,5 4,5 8,7 20,9 35,3 62,8 13.7 4.5 20.3 60.2 38.5 1.9 1.4 21.4 12.1 86.6 0,4 0,9 0.6 0.9 Như vậy, người cao tuổi Việt Nam và gia đình của họ hiện nay đang phải đối diện với nhiều khó khăn lớn. Khoảng 1/3 người già và có thể hơn thế còn phải sống ở mức nghèo khổ, một tỷ lệ cao hơn mức nghèo chung của toàn bộ dân cư. Cũng phải thấy rằng tỷ lệ người cao tuổi ở mức cận nghèo là khá cao. Đặc biệt, trên cả nước còn hàng trăm ngàn người già phải sống trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Một Báo cáo của Hội người cao tuổi Việt Nam cho biết có hơn 54 100.000 người già thiếu quần áo và sống trong điều kiện nhà ở rất tồi tệ. Khoảng 2/3 người già không có nguồn trợ cấp xã hội thường xuyên và không có bảo hiểm y tế. Nhưng mức trợ cấp xã hội thường xuyên cũng không đảm bảo được nhu cầu sinh hoạt và chữa bệnh của phần lớn những người được hưởng trợ cấp. Đại đa số người già có sức khỏe kém, thường có nhiều bệnh mạn tính. Nhưng phần lớn không được chăm sóc y tế đầy đủ và có chất lượng, do thiếu tiền và điều kiện tiếp cận dịch vụ y tế không thuận tiện. Chi phí cho chăm sóc y tế ngày càng tăng. Có một sự thừa nhận chung trong công luận rằng người cao tuổi Việt Nam hiện nay chưa được sống trong một môi trường vật lý và xã hội thân thiện với tuổi già (aged-friendly) trong cả gia đình, cộng đồng và xã hội. Các giá trị cổ truyền tôn vinh tuổi già đang bị xói mòn nghiêm trọng do nhiều thập niên chiến tranh, do những năm khủng hoảng kinh tế-xã hội, và do quá trình hiện đại hóa chịu ảnh hưởng nặng của phương Tây. 3.4. ĐỘNG LỰC DÂN SỐ: TÓM TẮT VÀ KIẾN NGHỊ Sau 25 năm thực hiện quyết liệt chính sách giảm mức sinh, dân số Việt Nam đã đi vào ổn định ở mức sinh thay thế. Kết quả là Việt Nam tiến vào thời kỳ quá độ dân số. Động thái dân số ở Việt Nam hiện nay là một động lực ảnh hưởng một cách đa chiều đến quá trình phát triển và hiện đại hóa. Đặc trưng của sự thay đổi cơ cấu dân số ở Việt Nam là ở chỗ việc tăng tỷ lệ nhân lực lao động diễn ra cùng quá trình già hóa dân cư. Kỷ nguyên dân số vàng kéo dài vài thập niên đã và đang tạo ra một cơ hội lớn có một không hai cho sự phát triển mang tính chiến lược của đất nước. Tỷ lệ nguồn lao động cao là một khả năng tiềm tàng lớn (nếu không nói là lớn nhất) để giải quyết vấn đề tăng trưởng kinh tế, công nghiệp hóa và phát triển tăng tốc-rút ngắn ở Việt Nam. Nó cũng là một nhân tố tiềm tàng để giải quyết vấn đề già hóa dân số đang bắt đầu. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất là điều kiện chính sách phù hợp để có thể nắm bắt được cơ hội này. Trong khi đó, như nhiều nghiên cứu cho thấy, việc hình thành chính sách đúng và đặc biệt là việc thực hiện chính sách một cách hiệu quả là một trong những yếu kém chủ yếu của Việt Nam hiện nay. Bên cạnh cơ hội dân số trẻ và sự già hóa dân cư, quy mô và tốc độ của các quá trình di dân cũng là động lực lớn đối với quá trình phát triển hiện nay. Tuy có những khó khăn và hậu quả xã hội do quá trình di dân gây ra, về cơ bản, di dân và đặc biệt là di chuyển nguồn lao động đang tạo nên những xung lực lớn cho công nghiệp hóa hiện đại hóa. Trong vấn đề này, một lần nữa quả bóng lại thuộc về Nhà nước - người vạch chính sách và quản lý. Trong các Bảng 3.8 đến 3.10 dưới đây, tác giả trình bày 3 sơ đồ để khái niệm hóa các động lực dân số liên quan đến nguồn nhân lực, di dân và già hóa, và định hướng chính sách nhằm vận dụng và điều chỉnh các động lực phù hợp với mục tiêu phát triển và phúc lợi con người. Phương pháp của việc xây dựng các sơ đồ khái niệm hóa ở đây là xác định các lĩnh vực tác động và hành động then chốt. Trong từng lĩnh vực ấy xác định các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề đang được xem xét. Từ đó nêu lên những định hướng chính sách để giải phóng, định hướng hoặc hạn chế các tác động của các yếu tố gây ảnh hưởng. Chẳng hạn, Bảng 3.8 nhằm sơ đồ hóa thực tế và phản ứng chính sách đối với “kỷ nguyên dân số vàng”. Một yếu tố tác động lớn là thị trường lao động. Để hỗ trợ cho sự phát triển của thị 55 trường lao động, cần những giải pháp chính sách nhằm mở rộng và tăng cường tính linh hoạt của loại thị trường này. Xem xét yếu tố tác động và định hướng chính sách cũng cần phải được nhìn xuyên qua các lĩnh vực (trong sơ đồ là nhìn theo các cột dọc). Ví dụ, việc tăng tính linh hoạt của thị trường lao động rõ ràng cũng chịu sự ảnh hưởng của chính sách mở rộng giáo dục toàn dân và nâng cao chất lượng giáo dục. Nhìn một cách tổng quát cho cả ba khu vực động lực dân số được phân tích ở trên, theo chúng tôi, có 4 định hướng chính sách then chốt đối với ba loại động lực/ vấn đề dân số nói trên. Đó là: o Tự do hóa kinh tế định hướng vào tăng trưởng dài hạn. o Thúc đẩy thị trường lao động thống nhất và năng động. o Thúc đẩy 4 lĩnh vực xã hội - giáo dục, y tế, thể dục thể thao và phúc lợi xã hội - theo hướng thị trường hơn, đồng thời phổ cập và toàn dân. o Hỗ trợ các nhận thức và hành vi “Già hóa tích cực”. Bảng 3.8. Yếu tố tác động và định hướng chính sách trong kỷ nguyên dân số vàng Lĩnh vực Kinh tế Yếu tố tác động o Cấu trúc thành phần kinh tế. o Quan hệ kinh tế quốc tế. o Thị trường lao động. o Thị trường vốn. o Tiết kiệm. Sức khỏe o Hệ thống chăm sóc sức khỏe. o Bảo hiểm y tế. o Thể dục thể thao. Giáo dục o Hệ thống giáo dục. o Xã hội học tập và mở cửa. Phúc lợi xã hội o Bảo hiểm xã hội. o Xã hội dân sự. Nguồn: Bùi Thế Cường. Định hướng chính sách o Mở cửa nền kinh tế (vốn, hàng hóa, lao động, tri thức). o Khuyến khích kinh tế tư nhân và hộ gia đình. o Tính linh hoạt của các thị trường lao động, thị trường vốn. o Khuyến khích lối sống tiết kiệm, chú trọng đầu tư vào tương lai. o Bảo hiểm sức khỏe toàn dân. o Chú trọng thể dục thể thao toàn dân. o Chương trình sức khỏe sinh sản. o Giáo dục sức khỏe thể chất, tinh thần và xã hội. o Mở rộng giáo dục toàn dân. o Xã hội hóa giáo dục. o Chất lượng giáo dục định hướng vào nhu cầu thị trường (trong nước và quốc tế). o Phúc lợi xã hội toàn dân. o Phát triển khu vực xã hội dân sự. 56 Bảng 3.9. Động lực di dân và định hướng chính sách Lĩnh vực Chính trị, hành chính, tư tưởng Mặt mạnh, cơ hội, động lực o Tự do hóa hàng hóa, lao động, kinh doanh, và con người. o Năng động hóa đời sống xã hội. Kinh tế o Đáp ứng nhu cầu lao động ở đô thị và vùng phát triển hơn. o Đóng góp vào phát triển kinh tế nơi đến. o Hỗ trợ phát triển kinh tế nơi xuất cư. o Tăng tính thống nhất thị trường quốc gia. o Hỗ trợ đoàn tụ gia đình hoặc ở nơi xuất cư hoặc ở nơi đến. o Hỗ trợ vận tải, truyền thông (phổ biến phương tiện, giảm chi phí). Văn o Tăng tính thống nhất o Gây nên những vấn o Hỗ trợ giao lưu văn hóa hóa, quốc gia. đề về trật tự trị an. và tính đa dạng và thống cộng o Tăng cường các mạng o Môi trường sống xấu nhất của quốc gia. đồng, lưới xã hội. đi. o Tăng cường giáo dục, xã hội o Tăng giao lưu văn o Nếp sống không thích truyền thông. hóa. hợp. o Đổi mới cách quản lý o Mất cội rễ. con người và xã hội. Nguồn: Bùi Thế Cường. Gia đình o Tăng thu nhập gia đình, giảm nghèo. o Mở cơ hội đầu tư kinh tế hộ gia đình. Mặt yếu, thách thức, Định hướng chính sách vấn đề o Hộ khẩu. o Tiếp tục tự do hóa, mở o Phân biệt đối xử. cửa kinh tế trong nước o Định kiến. và với nước ngoài (vốn, o Khó khăn cho bộ máy hàng hóa, lao động, tri quản lý xã hội. thức). o Thay đổi nhận thức về di dân. o Bãi bỏ hoàn toàn chế độ hộ khẩu, các rào cản và các phân biệt đối xử. o Hiện đại hóa cách quản lý con người và xã hội. o Lồng ghép yếu tố di dân vào các chiến lược và chính sách. o Tăng thêm chênh lệch o Đầu tư và phát triển kinh kinh tế vùng. tế cân bằng theo vùng. o Nơi xuất cư gặp khó o Hoàn thiện hệ thống khăn hơn về kinh tế. pháp luật lao động. o Thay đổi mạnh cơ cấu dân số nơi xuất cư theo hướng giảm lao động trẻ và có chất lượng hơn. o Điều kiện lao động và sinh hoạt tồi tệ của dân di cư. o Gia đình yếu, xa cách, tan vỡ. 57 Bảng 3.10. Yếu tố tác động và định hướng chính sách người cao tuổi Lĩnh vực Yếu tố tác động Tự lực o Tình trạng sức khoẻ. o Khả năng kiếm việc trong thị trường lao động. o Tài sản tích luỹ. o Khả năng an toàn đối với tài sản. Gia đình o Mức thu nhập của con cái. o Hệ thống gia đình truyền thống (lòng hiếu thảo của con cái, sắp xếp gia đình của con cái). o Những gánh nặng xã hội của gia đình (chi phí y tế, giáo dục, dịch vụ xã hội,...). o Môi trường đạo đức xã hội. Hệ o Chế độ ưu đãi xã hội. thống o Chế độ bảo hiểm xã hội. bảo trợ o Trợ cấp phúc lợi xã hội xã hội (người già cô đơn, tàn quốc gia tật,...). o Chế độ bảo hiểm y tế. o Phúc lợi xã hội theo đơn vị làm việc, đoàn thể xã hội, cộng đồng. o Quỹ hưu nông dân. o Bảo hiểm nhân thọ. o Quỹ xã hội (quỹ phụng dưỡng cha mẹ ông bà,...). o Mạng lưới chăm sóc người già của nhà nước và xã hội. Nguồn: Bùi Thế Cường. Định hướng chính sách o Nâng cao sức khoẻ, giáo dục sức khoẻ và chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi (chính sách y tế, thể thao, giáo dục và thuốc chữa bệnh). o Giúp đỡ năng lực tự tổ chức của người cao tuổi. o Chính sách lao động cho người cao tuổi (giảm thuế, môi giới việc làm, đào tạo,...). o Tăng cường các biện pháp bảo vệ tài sản cho người dân nói chung và người cao tuổi nói riêng (cho vay, chứng khoán, chống lạm phát và mất giá đồng tiền,...). o Bảo hộ và phát triển các hệ thống gia đình truyền thống địa phương. o Giáo dục lòng hiếu thảo của con cái. o Có chính sách định hướng vào việc giúp những gia đình đang nuôi dưỡng cha mẹ già. o Các chương trình phát triển xã hội nhằm nâng cao mức sống và năng lực hộ gia đình (xoá đói giảm nghèo, phát triển hệ thống chăm sóc sức khoẻ ban đầu và y tế nói chung, phát triển hệ thống giáo dục, chương trình chống tệ nạn xã hội, ...). o Duy trì mức trợ cấp và điều chỉnh mức trợ cấp phù hợp với biến đổi kinh tế. o Mở rộng và tăng cường các hệ thống bảo trợ xã hội quốc gia. o Điều chỉnh chính sách định hướng hơn vào những người cao tuổi nghèo và thiếu nguồn lực giúp đỡ. o Phát triển năng lực các khu dân cư. o Phát triển hợp lý mạng lưới chăm sóc người cao tuổi của nhà nước, cộng đồng, khu vực kinh doanh và xã hội dân sự (chăm sóc tại nhà, trung tâm phúc lợi xã hội, câu lạc bộ dành cho người cao tuổi,...). 58 CHƯƠNG BỐN. VĂN HÓA Mục 2.1 Chương Hai đã trình bày khái niệm khuôn mẫu văn hóa-xã hội. Trong cách nhìn này, văn hóa và cấu trúc xã hội (hay còn gọi là kết cấu xã hội hay cơ cấu xã hội) gắn kết với nhau không thể tách rời. Chúng là hai mặt của tổ chức xã hội, chúng cũng là hai động lực cơ bản của biến đổi xã hội. Chương Bốn và Chương Năm dành cho việc trình bày những đặc trưng và những vấn đề đang nổi lên trong hai lĩnh vực đó. Bảng 2.1 có thể xem là khung sơ đồ cho sự phân tích ở hai Chương này. Theo Bảng 2.1, văn hóa có thể được xem là cấu thành của ba nội dung lớn: hệ tri thức, giá trị và chuẩn mực. Chương Bốn sẽ xem xét văn hóa theo quan niệm trên và đặt nó vào bối cảnh hiện đại hóa. Một đặc điểm quan trọng của cách nhìn xã hội học là nó không chỉ đồng ý với quyết định luận kinh tế, mà còn thừa nhận và nhấn mạnh tầm quan trọng hàng đầu của văn hóa trong tổ chức xã hội, trong tiến trình hiện đại hóa. Lý giải sự nổi lên của chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu, xã hội học đã cống hiến hai cách giải thích đặc sắc: cách giải thích của Mác dựa trên cấu trúc kinh tế (một kiểu cấu trúc xã hội), và cách giải thích của Weber dựa trên văn hóa. Nói cách khác, Weber nhìn chủ nghĩa tư bản không phải chỉ là một loại hình cấu trúc xã hội, mà còn là một loại hình văn hóa. Cả hai cách nhìn này cống hiến cho chúng ta một hàm ý kép: xây dựng một xã hội hiện đại có nghĩa là (phải) kiến tạo nên một cấu trúc kinh tế-xã hội đặc thù, đồng thời cũng (phải) là kiến tạo nên một kiểu văn hóa đặc thù. 4.1. VĂN HÓA NHÌN TỪ QUAN ĐIỂM HIỆN ĐẠI HÓA Xã hội công nghiệp được tổ chức theo nhiều nguyên lý tương phản với xã hội tiền công nghiệp. Chẳng hạn, các nhà xã hội học thường đồng ý với nhau rằng xã hội công nghiệp dựa trên những nguyên lý sau đây: xã hội thay cho cộng đồng (quan hệ chức năng thay cho quan hệ sơ cấp), tổ chức quan liêu, dựa trên công nghệ, đề cao hơn cá nhân luận (kèm theo là quyền con người), duy lý (reason), hợp lý (rational). Một số nhà xã hội học đi theo xu hướng kiểm kê những đặc điểm khác nhau phân biệt giữa hai kiểu xã hội, cổ truyền tiền hiện đại và công nghiệp. Từ đó xây dựng những tiêu chí cho hiện đại hóa: một khi đạt được rõ nét những đặc điểm này thì được xem là đã hoàn thành quá trình hiện đại hóa. Bảng 4.1 minh họa một sự so sánh khác biệt giữa hai kiểu xã hội ngăn cách nhau bởi hiện đại hóa. Có thể tạm gọi “phương pháp” cho sự hình thành bảng này là “cách thức kiểm kê”. Cách này có ích lợi về mặt bản đồ nhận thức lẫn chính sách. Nó bắt đầu từ các biểu hiện (đặc điểm) mang tính thực chứng (trực tiếp, hữu hình, đo lường được). Từ đó người ta có thể đưa ra một hệ thống chính sách cho sự chuyển đổi và kiến tạo mới một xã hội hiện đại. Khi làm nảy sinh đầy đủ các “triệu chứng” (đặc điểm) này cho một quốc gia, ta có thể nói đã hoàn thành quá trình hiện đại hóa. Xét về mặt văn hóa, quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa bao gồm việc tạo dựng nên một hệ văn hoá hiện đại, mang tính công nghiệp (cả về tri thức, giá trị, chuẩn mực, và phong cách). Việc tạo dựng này sẽ là một sự đụng độ sâu sắc với hệ văn hoá tiền công nghiệp. Nhưng một nhóm người hay cả một quốc gia đi vào hiện đại hóa lại không thể vứt bỏ toàn bộ di sản văn hoá của mình. Một mặt, nó phải dùng di sản đã có này làm động lực cho quá trình công nghiệp 59 hóa hiện đại hóa. Mặt khác, nó phải giữ di sản này để làm nên bản sắc (identity) ngay cả sau khi đã hiện đại hóa. Bảng 4.1. Khác biệt giữa kiểu xã hội cổ truyền và xã hội hiện đại Vùng / Đặc điểm Quy mô Cấu trúc Kinh tế xã hội Xã hội cổ truyền Nhỏ, rời rạc. Phân công lao động đơn giản, ít năng suất, nông nghiệp, thủ công nghiệp, sản xuất hộ gia đình là phổ biến, ít lao động trí óc. Dân số Nhỏ, rời rạc, đóng, cư trú ở nông thôn. Sơ cấp, định danh, ít riêng tư. Dựa trên nhiều phân loại phi kinh tế, cứng nhắc và đóng, ít di động. Phổ biến vị thế gán, ít chuyên biệt hóa vai trò. Bất bình đẳng, gia trưởng, bên trong gia đình. Bất bình đẳng, gia trưởng, đề cao tuổi tác một chiều. Chuyên chế, ít trách nhiệm xã hội. Quan hệ Phân tầng xã hội Vị thế, vai trò Khuôn mẫu giới Khuôn mẫu tuổi Nhà nước Gia đình Tôn giáo Giáo dục Sức khỏe Văn hóa Truyền thông Kiểm soát xã hội Hình thái tổ chức Tri thức Công nghệ Giá trị Chuẩn mực Phong cách sống Định hướng Biến đổi xã hội Gia đình mở rộng, nhấn mạnh chức năng kinh tế và xã hội hóa. Là nền tảng của thế giới quan, không đa dạng tôn giáo. Hạn chế trong giới tinh hoa. Mức sinh, mức chết cao, tuổi thọ thấp, chưa có ý niệm vệ sinh. Trực tiếp cá nhân đến cá nhân. Xã hội hiện đại Lớn, liên kết, tập trung. Phân công lao động cao, sản xuất công nghiệp hàng loạt, năng suất và hiệu quả, công xưởng và công ty là phổ biến, tỷ lệ cao lao động trí óc. Lớn, liên kết, di động cao, cư trú ở đô thị. Chức năng, vô danh, riêng tư. Chủ yếu dựa trên kinh tế, lỏng và mở hơn, tính di động xã hội cao. Phổ biến vị thế giành được, tăng chuyên biệt hóa vai trò. Bình đẳng hơn, nhiều tham gia ngoài gia đình. Bình đẳng hơn cả trong gia đình, tổ chức và xã hội. Dân chủ, đảm nhiệm trách nhiệm xã hội. Gia đình hạt nhân, ít chức năng kinh tế. Nhạt đạo, đa dạng tôn giáo, không phải là nền tảng của thế giới quan. Phổ cập, tiên tiến. Mức sinh, mức chết thấp, tuổi thọ cao, nếp sống vệ sinh. Truyền thông đại chúng. Trực tiếp, phi kết cấu (informal). Hệ thống tư pháp, cảnh sát có kết cấu (formal). Thuần nhất, toàn trị. Khác biệt hóa cao. Dân gian, nghèo. Tiền công nghiệp, năng lượng cơ bắp con người hoặc động vật. Thuần nhất, bị thiêng hóa, cộng đồng luận (hẹp), ít khoan dung. Luật tục, cứng nhắc về phong tục tập quán. Kiểu cộng đồng nông thôn. Dựa trên khoa học, tích lũy nhanh. Công nghiệp, khoa học, nguồn năng lượng cao cấp. Đa dạng, thế tục, cá nhân luận, toàn cầu luận, khoan dung. Đề cao luật pháp, khoan dung về phong tục tập quán. Lối sống đô thị. Gắn với quá khứ. Gắn với hiện tại và tương lai. Chậm, qua nhiều thế hệ. Nhanh, ngay trong một thế hệ. 60 Nguồn: Macionis (1980) có điều chỉnh, bổ sung của Bùi Thế Cường. 4.2. NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN HÓA HIỆN NAY Trong những năm 1990, Đảng đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng nền văn hóa mới, xem đó là nền tảng và động lực tinh thần của xã hội. Năm 1998, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (Khoá XIII) ra Nghị quyết "Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". Sau Đề cương văn hóa Việt Nam (1943), đây được xem là chiến lược văn hoá của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Điều này nói lên tầm quan trọng chiến lược lâu dài của văn kiện. Gần đây, công tác văn hóa đã được tổng kết, trên cơ sở đó đề ra những phương hướng công tác mới. Trong phần này, chúng tôi nêu lên một số vấn đề vừa cơ bản vừa cấp bách hiện nay liên quan đến văn hóa nhìn dưới lăng kính của những quan điểm xã hội học về văn hóa nêu ở mục trên. 4.2.1. VĂN HOÁ LÀ HỆ TRI THỨC: HIỆN ĐẠI HÓA CẦN MỘT HỆ TRI THỨC QUỐC TẾ CẬP NHẬT Trong cách hiểu xã hội học đã được trình bày ở Mục 2.1 (Chương Hai) và ở phần trên, văn hóa trước hết bao gồm hệ tri thức. Đó là thế giới quan, nhân sinh quan, hiểu biết về công nghệ, tổ chức xã hội, v.v. Nhìn vào bề mặt đời sống xã hội người ta tưởng rằng hệ tri thức chỉ là một khối khổng lồ các dữ kiện, thông tin và tri thức. Thực ra, bên dưới biểu hiện rời rạc như vậy, chúng được xã hội liên kết và tổ chức lại với nhau. Cách liên kết và tổ chức tri thức phụ thuộc vào bản chất của nền văn hóa và cấu trúc xã hội. Trong xã hội hiện đại, hệ tri thức dựa trên khoa học và công nghệ, duy lý và hợp lý hóa, có tính quốc tế, được tích lũy với tốc độ nhanh chóng và thường xuyên biến đổi. Giống như các xã hội đang phát triển khác, người ta có thể tìm thấy trong xã hội Việt Nam cùng lúc mọi loại tri thức của quá khứ dân tộc cũng như của thế giới đương đại. Nhưng hệ tri thức, với tính cách là một kiểu tổ chức tri thức bị định hình bởi cấu trúc xã hội, thì về nhiều mặt hệ tri thức chủ đạo ở Việt Nam hiện nay tỏ ra là lạc hậu so với thời đại. Một biểu hiện của điều nói trên là ở chỗ người ta đọc thấy vô số bài báo than phiền về tình trạng tri thức nghèo nàn, lạc hậu, nhiều sai lạc trong hệ thống giáo dục phổ thông, dạy nghề và đại học. 4.2.2. VĂN HOÁ LÀ HỆ GIÁ TRỊ: HIỆN ĐẠI HOÁ CẦN MỘT HỆ GÍA TRỊ CỦA TÍNH HIỆN ĐẠI Trong một xã hội tại mỗi thời điểm lịch sử đều có những điều được xã hội hoặc một số nhóm xem là "giá trị" (những cái muốn được đạt tới, theo đuổi, những cái được đánh giá cao, được xem trọng, ...). Hệ các giá trị này tạo ra một môi trường định hướng tư tưởng và hành động cho con người, cho các cá nhân và nhóm, qua đó tạo ra hành động chung và liên kết xã hội. Khi hệ giá trị này hỗn loạn, không rõ ràng, đối nghịch nhau, xã hội sẽ rơi vào trạng thái "phi chuẩn mực" (anomie), ở đó các cá nhân và nhóm thiếu được định hướng trong tư tưởng, cảm xúc và hành vi. Khi bàn về sự thành công của các con rồng và con hổ châu Á, người ta thường nhắc đến vai trò của chính sách nhấn mạnh “giá trị quan châu Á”, đến vai trò của nền văn hóa Khổng giáo. Điều này đúng. Tuy nhiên, cần thấy một khía cạnh khác là những nước phát triển thành công ấy, trong khi đề cao các cơ sở văn hóa truyền thống, trên thực tế họ đều cam kết rất mạnh mẽ với 61 hệ giá trị của xã hội công nghiệp. Chẳng hạn, trong nhiều thập niên, định hướng chính sách và tuyên truyền ở các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Singapore, ở các lãnh thổ như Đài Loan, Hongkong, đều lấy phát triển kinh tế và đời sống thịnh vượng làm trung tâm, coi trọng sản xuất và thương mại hiệu quả, đặt toàn bộ xã hội trên nền tảng khoa học và công nghệ. Cuộc cải cách ở Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình khởi xướng năm 1978 cũng bắt đầu bằng những mục tiêu (giá trị) mới: làm giàu, để một số giàu trước, 4 hiện đại hóa, v.v. Trở lại trường hợp Việt Nam, trong bối cảnh hiện nay, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm của toàn quốc gia. Đây là phương châm đã được Đảng xác định, và nhận được sự đồng thuận của hầu hết các lực lượng xã hội. Điều này phải đi vào "văn hoá" của xã hội, tức là trở thành một "giá trị". Chẳng hạn, "giàu" đã trở thành một giá trị, được phát biểu một cách chính thống trong khẩu hiệu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Tuy nhiên, vẫn còn hàng loạt quy định, thái độ, cách nghĩ và cách làm không thừa nhận và khuyến khích tinh thần nói trên ("tinh thần làm giàu"). Bản thân tinh thần đó, giá trị đó cũng không được diễn giải rõ ràng, khiến cho các cá nhân và nhóm không có những định hướng nhất quán. Sự không rõ ràng này thể hiện cả ở trong cán bộ chính trị, công chức, giới doanh nghiệp, công luận và trong đông đảo người dân. Khi nhấn mạnh đến hệ giá trị của xã hội hiện đại, điều này không có nghĩa là đề cao nó như là một cái gì tuyệt đối đẹp đẽ, không thể phê phán. Trên thực tế, hệ giá trị của xã hội hiện đại cũng là điều kiện (nhưng không phải là nguyên nhân, nguồn gốc) cho việc nảy sinh nhiều hệ quả xấu xa, tệ hại trong hành vi con người. Vấn đề ở đây chỉ là ở chỗ, để giải quyết được bài toán phát triển, hiện đại hóa, một xã hội phải được thay thế hệ giá trị cổ truyền bằng hệ giá trị hiện đại; và các thể chế sẽ là những công cụ để hạn chế những hệ quả xấu không mong đợi. Hộp 4.1. Định hướng giá trị “sự giàu có” trong người lãnh đạo và người dân: Phỏng vấn của VietnamNet với ông Grzegorz Kolodko, nguyên Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Tài chính Ba Lan. Có người cho rằng, những năm dài thực hiện mô hình kế hoạch hóa, quan liêu bao cấp đã hình thành tâm lý bình quân chủ nghĩa, kỳ thị với người giàu. Theo ông, chúng ta nên giải quyết trở ngại tâm lý này như thế nào? Tôi nghĩ đó là câu hỏi đặt ra với hầu hết các nền kinh tế chuyển đổi chứ không riêng gì Việt Nam. Nếu người giàu trở nên giàu hơn trên sự thiệt thòi của những người nghèo, cần phải có sự đối thoại trong công luận và điều chỉnh chính sách. Tuy nhiên, trong phần lớn trường hợp, điều này không đúng. Thực tế là mặc dù có khoảng cách về thu nhập giữa người giàu và người nghèo song thu nhập của tất cả mọi người đều tăng lên. Nếu những người giàu lên một cách chính đáng nhờ khả năng quản lý, giáo dục cao... thì không có vấn đề gì. Chính người nghèo lại được hưởng lợi từ đó. Nhưng nếu khoảng cách giàu nghèo ngày một lớn, nhiều người nghèo hơn thì Chính phủ phải có phản ứng, có thể bằng chính sách thu nhập hay chính sách xã hội để tái phân phối của cải. Không nên tư nhân hoá ồ ạt, thiếu cân nhắc. VietnamNet. 1/6/2004. Việt Lâm-Cẩm Tú thực hiện. 4.2.3. VĂN HOÁ LÀ HỆ CHUẨN MỰC TRONG ĐÓ LUẬT LÀ CỐT LÕI Có nhiều định nghĩa, cách hiểu về văn hóa. Cách hiểu của xã hội học về văn hóa có những điểm khác biệt, có thể đôi khi làm cho các nhà nghiên cứu ở những lĩnh vực khác hoặc công luận nói chung khó hình dung. Mối liên quan giữa văn hóa với luật pháp có thể là một điểm khác biệt 62 như vậy. Phần lớn nhà xã hội học đồng ý với nhau rằng một nội dung lớn của văn hóa là hệ chuẩn mực. Nhưng chỉ một số nhất định các nhà xã hội học tiếp tục nghĩ đến luật pháp, với tính cách là biểu hiện ở trình độ cao của hệ chuẩn mực, cũng là một bộ phận của văn hóa. Chúng tôi cho rằng việc nhấn mạnh luật là một bộ phận hữu cơ của văn hóa là rất quan trọng trong việc nhận thức về chủ đề hiện đại hóa. Bởi vì một đặc trưng then chốt của xã hội hiện đại là nó vận hành trên nền tảng một hệ thống luật pháp rõ ràng, và hệ thống luật pháp này đến lượt nó lại là một biểu hiện nhất quán theo các nguyên lý tổ chức của xã hội công nghiệp hiện đại (xem Bảng 4.1). Nhấn mạnh điều này còn có ý nghĩa hơn nữa trong bối cảnh, khi xã hội Việt Nam của thời kỳ vừa qua và mới chỉ rất gần đây thôi, do những lý do lịch sử khác nhau, đã rơi vào tình trạng phổ biến xem thường vai trò của luật pháp. Trên cơ sở hệ thống giá trị, văn hoá tạo ra một loạt chuẩn mực làm định hướng cho tư tưởng và hành vi con người. Các chuẩn mực tồn tại dưới nhiều hình thái: những cấm kỵ, phong tục, tập quán, luật pháp. Trong một xã hội văn minh ở thời đại hiện nay, thì cốt lõi của hệ thống chuẩn mực là luật pháp. Quan niệm về luật pháp như là một hình thái biểu hiện phát triển cao của văn hoá cho phép giải thích một tình hình cơ bản và nổi bật hiện nay ở Việt Nam: tình trạng luật pháp không nhất quán, không đầy đủ, thiếu hiệu lực như hiện nay đương nhiên dẫn đến sự xuống cấp và hỗn loạn của văn hoá. Ngược lại, muốn giải quyết căn bản trạng thái xuống cấp và hỗn loạn của văn hoá, cần phải tập trung vào lĩnh vực pháp luật, xem đây là then chốt. Việc né tránh điểm then chốt này, phân tán nỗ lực vào các khía cạnh không then chốt khác của văn hoá, sẽ không đem lại được chuyển biến cơ bản trong văn hoá. 4.2.4. VĂN HOÁ LÀ HỆ THỨC SỐNG: CƠ HỘI ĐỂ BIẾN ĐỔI NHANH Theo cách hiểu xã hội học, văn hoá không phải chỉ liên quan đến đời sống tinh thần, văn hoá là "cách" mà xã hội làm mọi điều, mọi việc. Như vậy, nói chung lại, văn hoá là lối sống: nó bao gồm cả cách sản xuất, công nghệ, khối tri thức và cách tạo ra tri thức, cách suy nghĩ và cảm xúc, cách xã hội hoá (giáo dục và đào tạo) con người, cách sinh hoạt. Nếu nhìn nhận như thế về văn hoá, chúng ta sẽ thấy việc biến đổi xã hội và phát triển là rất khó khăn, vì nó liên quan đến toàn bộ "cách thức sống", bao gồm "cách nghĩ" và "cách làm", của cả một xã hội. Đây là những gì đã được hình thành từ lâu đời, và được cả một khối dân chúng đông đúc chia sẻ. Do đó, thay đổi sẽ là rất khó khăn. Nhưng mặt khác, nó cũng cho thấy mục tiêu thay đổi xã hội sẽ trở nên đơn giản nếu biết tập trung vào cái gì là cốt lõi, bởi vì văn hoá chỉ liên quan đến "cách thức" mà thôi. Một khi chúng ta thay đổi "cách nghĩ, cách làm" thì chúng ta sẽ không tạo ra những kết quả cũ nữa, mà là những kết quả mới. Thêm nữa, việc thay đổi "cách nghĩ, cách làm" không nhất thiết phải diễn ra đồng thời trong toàn xã hội. Trước hết và quan trọng nhất chỉ cần sự thay đổi ở giai tầng lãnh đạo và quản lý. Điều này được kiểm chứng ở một số xã hội châu Á, nơi có một di sản truyền thống hàng ngàn năm, nhưng đã giải quyết xong vấn đề hiện đại hoá trong vòng 20-30 năm. Muốn đạt mục tiêu phát triển "rút ngắn", vào thời điểm này Việt Nam phải tập trung vào chỉ một việc mà thôi: thay đổi cách nghĩ, cách làm hiện tại của người lãnh đạo quản lý ở mọi cấp, mọi lĩnh vực. 63 4.2.5. VĂN HÓA LÀ MỘT PHẦN HỮU CƠ CỦA CÁC ĐỊNH CHẾ VÀ TỔ CHỨC Theo xã hội học, cơ chế then chốt để vận hành xã hội là các định chế, bởi vì các định chế sinh ra để đáp ứng những nhu cầu cơ bản của xã hội. Các định chế cơ bản của xã hội, bất kể ở hình thái nào, gồm có: kinh tế, trật tự (pháp luật, chính trị, Nhà nước), giáo dục, niềm tin (tín ngưỡng, tôn giáo), tái sản xuất (gia đình). Định chế là hỗn hợp của bốn thành phần: ý tưởng cơ bản, các giá trị và quy tắc (văn hoá), các nhóm xã hội tham gia, cơ sở vật chất (Xem: Jonathan H. Turner, 1998). Một định nghĩa khác có thể giúp ta hiểu về bản chất của định chế và yếu tố văn hóa trong định chế: “Douglas North … định nghĩa định chế là ‘luật chơi’ đề ra những sự khích lệ cũng như uốn nắn hành vi của một tổ chức và cá nhân trong xã hội. Những định chế có thể là những luật lệ chính thức, ví dụ như Hiến pháp, luật pháp, nội quy và những quy trình nội bộ trong một quốc gia. Hay nó có thể là những giá trị, những quy tắc sống không chính thức, ví dụ như những quy tắc đã đưa người ta đến những hành vi quan liêu. Định chế là do con người tạo ra và bắt nguồn trong lịch sử. Nó định ra sự khích lệ làm cho xã hội được tổ chức và vận hành một cách trật tự, cả việc ký các thỏa ước. Những định chế tốt đẹp vững mạnh thường làm cho cộng đồng hiểu rằng cần thiết cho phép các chính sách hợp lý được thực thi nhằm hỗ trợ cho sự tăng trưởng kinh tế lâu dài. Những định chế chính là cơ chế vận hành của chính quyền” (Henri Ghesquiere, 2008, trang 149). Như vậy, văn hoá bao giờ cũng là một phần hữu cơ của mọi định chế, thậm chí là phần hữu cơ then chốt, là “linh hồn” của định chế. Hiện nay, việc xem xét và xây dựng hợp phần văn hoá trong định chế chính trị và kinh tế là quan trọng nhất. Nhưng cũng sẽ là khó khăn nhất vì nó liên quan đến những lợi ích và cách nghĩ, cách làm có cội rễ sâu xa hiện nay trong xã hội Việt Nam. Định chế và tổ chức là những khâu yếu nhất hiện nay, gây trở ngại cho phát triển. Công tác tư tưởng văn hoá phải tập trung vào việc tham gia vào áp dụng những hình thái định chế và tổ chức hiện đại. 4.2.6. HỘI NHẬP QUỐC TẾ VỀ VĂN HOÁ: ĐIỂM NHẤN THEN CHỐT HIỆN NAY Quan điểm chỉ đạo của Đảng là "nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". Đây là một chủ trương rất đúng đắn, nhưng trong diễn giải và trong thực tế triển khai, vế đầu tiên còn nhiều điểm chưa rõ ràng, chưa được đặt ra như là một vế ưu tiên. Cách giải thích như thế nào là "tiên tiến" chưa thoả đáng, chưa đầy đủ. Cách diễn giải dễ tạo ra cách hiểu công tác văn hoá đối ngoại chỉ có nghĩa là tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá bên ngoài và giới thiệu văn hoá của dân tộc ra thế giới. Cách đặt vấn đề cũng chưa tới tầm khái niệm "hội nhập quốc tế về văn hoá", tới tầm mức độ "hội nhập kiên quyết và nhanh chóng". Hộp 4.2. Thanh niên Việt Nam đang "tụt hậu từ A đến Z" so với thanh niên trong khu vực và thế giới: Lo lắng được đặt ra trong Hội thảo "Hội nhập quốc tế thanh niên" do Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức sáng 5/6/2004. Trưởng Ban Quốc tế kiêm Bí thư Trung ương Đoàn Đoàn Văn Thái: "Tham gia hội nhập quốc tế là nhu cầu tự nhiên của thanh niên Việt Nam... Tuy nhiên, thanh niên Việt Nam nhìn chung chưa có sự chuẩn bị tích cực tham gia hội nhập quốc tế, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Thêm vào đó, trình độ ngoại ngữ, tin học, trình độ chuyên môn của thanh niên Việt Nam nhìn chung còn thấp so với trình độ tương tự của thanh niên các nước trong khu vực và trên thế giới". Theo ông Trần Văn Miều, hội nhập quốc tế thanh niên là một xu hướng tất yếu, đòi hỏi thanh 64 niên phải nâng cao tâm và trí mới có thể chủ động hội nhập. Tuy nhiên, ông tỏ ra lo lắng: "Vừa rồi, Bộ Kế hoạch Đầu tư công bố chỉ tiêu về trí tuệ, trình độ ngoại ngữ, khả năng thích ứng với điều kiện tiếp nhận khoa học kỹ thuật của thanh niên Việt Nam theo chuẩn thang điểm 10 của khu vực khiến người ta phải giật mình: trí tuệ đạt 2,3/10; ngoại ngữ là 2,5/10 và khả năng thích ứng với điều kiện tiếp cận khoa học kỹ thuật chỉ đạt hơn 2/10 điểm! ". Dẫn ví dụ cụ thể từ việc yếu kém ý thức lẫn trình độ ngoại ngữ làm cản trở hội nhập quốc tế thanh niên, ông Ngô Đức Lý kể lại lần đi Hàn Quốc của mình bằng một nhận xét đầy lo lắng và được lặp đi lặp lại không dưới 3 lần "xấu hổ vô cùng các đồng chí ạ!". Ông kết luận: Mỗi một lần theo đoàn ra nước ngoài là đại diện cho bộ mặt và thể diện quốc gia, dân tộc. Hình ảnh đất nước Việt Nam sẽ được quảng bá qua tất cả những hành động, cử chỉ, lối ứng xử của chúng ta nơi đất khách nên trước khi tổ chức "đoàn ra", cần phải có sự tập huấn kỹ lưỡng về mọi mặt cho các thành viên trong đoàn, đặc biệt là văn hoá. Khi được VietnamNet phỏng vấn về các chuyến khảo sát nước ngoài do Đoàn Thanh niên tổ chức, ông Đoàn Văn Thái nhận xét: sau mỗi chuyến đi, ý thức, tác phong làm việc của thanh niên cũng có phần nào thay đổi, chuyển biến tích cực. Cụ thể, thanh niên ta học được ở bạn nhiều điều: từ cách quản lý xã hội, kỷ luật lao động, tác phong làm việc cho đến thái độ phục vụ. Trong đó, điển hình là sự thay đổi giờ giấc, tác phong làm việc: ít đến muộn, phát biểu, trình bày vấn đề gì cũng ngắn gọn, bớt rề rà hơn. Khi được hỏi “Những đoàn đi trước về có truyền đạt kinh nghiệm cho các đoàn sau không?, ông Thái nói: thường thì các đoàn bao giờ đi về cũng có báo cáo rút kinh nghiệm nhưng viết giống nhau lắm. Mục đích tổ chức các chuyến đi của Trung ương Đoàn là nhằm giúp cán bộ, đoàn viên thanh niên tìm hiểu học hỏi kinh nghiệm của Đoàn Thanh niên nước bạn cũng như cơ chế chính sách thanh niên của nước đó song hầu như các đoàn đi về không làm được điều đó. Phần lớn còn nặng về tham quan du lịch, ngắm cảnh. Thanh niên Việt Nam đang “tụt hậu từ A tới Z”. VietnamNet, 6/6/2004. Đồng thời với việc đề cập khía cạnh bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, cần nhấn mạnh hơn đến khía cạnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hoá trong văn hoá. Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá xã hội sẽ không thể diễn ra nhanh chóng để đạt được mục tiêu "rút ngắn" nếu khía cạnh hội nhập quốc tế về văn hoá không được nhấn mạnh đầy đủ, thậm chí xem là khía cạnh then chốt hiện nay. Hội nhập quốc tế về văn hoá chính là hội nhập về "cách nghĩ, cách làm", các giá trị và chuẩn mực, các định chế và tổ chức mang tính quốc tế, toàn cầu, nảy sinh trong một quá trình hiện đại hóa lâu dài hơn hai thế kỷ, đặc biệt trong nửa sau thế kỷ XX. 4.2.7. NHỮNG ĐỨC TÍNH CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM Chủ nghĩa Mác và xã hội học hành động nhấn mạnh đến vai trò của con người trong xã hội và lịch sử (Xem Mục 1.2.3 Chương Một). Một nhà quan sát có thể “thấy” được một xã hội qua “nhìn” vào (tìm hiểu) con người ở xã hội ấy. Vì vậy, sự nghiệp phát triển một quốc gia tức là làm biến đổi cấu trúc xã hội và văn hóa của quốc gia ấy; làm những biến đổi văn hóa-xã hội này tức là thay đổi con người của xã hội ấy mà kẻ cam kết, thiết kế và thực hiện sự thay đổi lại chính là họ. Trở lại với cách giải thích của xã hội học văn hóa về nguồn gốc của thành công kinh tế, tiếp theo Weber một số học giả đã tìm cách lý giải sự thành công của Nhật Bản và các con rồng châu Á là nhờ vào sức mạnh văn hóa truyền thống với những giá trị và chuẩn mực Khổng giáo. Rõ ràng, để có “thần kỳ kinh tế” một dân tộc phải xuất phát từ nền văn hóa của chính mình. 65 Trong Chương Một chúng ta đã có dịp đề cập đến lý thuyết “phát triển là một lịch sử cụ thể và nội tại”, nói như vậy là bao hàm cả khía cạnh nền văn hóa riêng. Vậy thì những đức tính văn hóa nào của con người và xã hội Việt Nam có thể phù hợp và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa ngày nay? Cần phải coi đây là một trong những câu hỏi nghiên cứu quan trọng nhất hiện nay đối với các nhà xã hội học phát triển ở Việt Nam và các tổ chức nghiên cứu của họ, mà tiếc rằng cho đến nay chưa được quan tâm đúng mức. Trong Bảng 4.2, tác giả thử kiểm kê một số nét mạnh của văn hóa Việt Nam có thể trở thành điểm tựa cho hiện đại hóa thành công. Dĩ nhiên, xã hội học phát triển cũng phải quan tâm không kém đến một “phản đề” của câu hỏi nghiên cứu trên: thế còn những đức tính văn hóa nào của con người và xã hội Việt Nam gây trở ngại cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa ngày nay? Trong một thời gian dài, những nghiên cứu về “phản đề” này không được giới quan phương và công luận hoan nghênh. Gần đây, những nghiên cứu theo hướng đó của Vương Trí Nhàn đã được công luận chú ý, song không phải là không còn nhiều rào cản tâm lý (Vương Trí Nhàn, 2007). Mục 4.2.8 dưới đây sẽ còn đề cập đến vấn đề này. Bảng 4.2. Những mặt mạnh về văn hoá của xã hội/con người Việt Nam o Tương đối bình đẳng. o Bình đẳng giới, phụ nữ có vị thế tương đối cao. o Đa dạng văn hoá nhưng có mức thuần nhất tương đối cao (87% người Kinh, chung ngôn ngữ và văn hoá). o Mối liên hệ gia đình chặt chẽ, được hỗ trợ bởi nền kinh tế hộ gia đình và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. o Làng là thực thể và tâm linh mạnh. o Quốc gia có sự liên kết và có cội nguồn lâu đời. o Có tính thích nghi. o Dễ làm việc và sinh sống trong một nhóm nhỏ. o Sẵn sàng tìm kiếm lối thoát kinh tế. o Có động cơ thăng tiến, thành đạt. o Muốn và chú trọng cho con cái có được mức giáo dục cao hơn. o Học là một giá trị quan trọng. o Văn hoá hỗn dung của Đông Á và Đông Nam Á. o Có một hệ văn hoá Nho giáo, nhưng đã biến đổi theo bản địa. o Có một di sản lớn văn hóa Pháp và Mỹ, đã phần nào được bản địa hóa. o Di sản chủ nghĩa xã hội trong một loạt lĩnh vực: một số cơ sở vật chất-kỹ thuật quan trọng, mức đi học ở các cấp, tư tưởng và chính sách nhấn mạnh vào phúc lợi, sớm có công đoàn và một số tổ chức quần chúng có ảnh hưởng mạnh ở cấp toàn quốc và có mạng lưới đến tận cơ sở. Nguồn: Bùi Thế Cường. 4.2.8. KIẾN TẠO VĂN HOÁ CẦN LÒNG TỰ TÔN ĐỒNG THỜI TINH THẦN TỰ PHÊ PHÁN Trong một thời gian dài kể cả cho đến hôm nay, việc phê phán trực diện những khía cạnh tiêu cực trong bản sắc văn hoá đã không được khuyến khích trên bình diện nghiên cứu và lý luận. Trong khoa học xã hội, khái niệm văn hoá vừa mang tính giá trị nhưng vừa là trung tính. Chỉ có 66 như vậy, người ta mới có thể phân tích một cách phê phán, và chỉ có phân tích một cách phê phán thì hiện trạng mới có thể thay đổi. Trong mọi nền văn hóa dân tộc, không có ngoại lệ, đều có khía cạnh cần đề cao cũng như cần phê phán, có khía cạnh tích cực và tiêu cực (theo nghĩa phù hợp hoặc không còn phù hợp với yêu cầu của đời sống hiện tại và tương lai). Trên thực tế báo chí hàng ngày, chúng ta thấy vô số bài viết phê phán nhiều biểu hiện cụ thể trong lối sống hiện nay ở người Việt Nam. Tuy nhiên, những phân tích phê phán tổng quát và toàn diện hơn về văn hoá Việt Nam chưa được sẵn sàng đón nhận, cả ở lãnh đạo cũng như ở công luận. Chúng ta đang ở trong mục tiêu và mong muốn phát triển "rút ngắn", "đi tắt, đón đầu". Chỉ có thể thay đổi nhanh, và thay đổi một cách thành công, khi có sự tự tin, tự hào. Nhưng điều này cũng chỉ có thể có được khi có tinh thần tự phê phán, chấp nhận sự phê phán. 4.2.9. HIỆN ĐẠI HÓA LÀ MỘT SỰ ĐỘT KHỞI VĂN HOÁ Nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra rằng, để tạo nên một thời đại biến đổi mạnh mẽ, bao giờ cũng xuất hiện trước đó một "tinh thần thời đại", điều được tạo ra bởi sự đột khởi về văn hoá. Có tác giả nói chúng ta hiện cần có một "khí thế công nghiệp hoá hiện đại hoá" để tiến hành được quá trình này một cách mạnh mẽ và rút ngắn (Trần Văn Thọ, 1998). Sách báo quốc tế đã và đang ghi nhận lại một số thời điểm lịch sử liên quan đến những đột khởi về văn hóa gắn với phát triển kinh tế. Thời đại Phục Hưng và Khai sáng ở Tây Âu thế kỷ XVIXVIII đã khơi mào cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Cải cách giáo dục đại học ở Đức do vua Phổ giao cho Humbold khởi xướng sau thất bại năm 1807 trước Napoleon, đã dẫn đến tiến bộ vượt bậc của khoa học, công nghệ và công nghiệp Đức suốt thế kỷ XIX. Nỗ lực của một thế hệ các học giả và những trước tác vạch thời đại của họ xung quanh vua Minh Trị ở Nhật Bản cuối thế kỷ XIX đã dẫn Nhật Bản tới hiện đại hóa thành công. Sau thất bại 1945 của Đức và Nhật, người ta lại chứng kiến ở hai nước này một sự khởi phát tinh thần mới, điều đã dẫn đến “thần kỳ kinh tế” của hai nước trong thập niên 1960-1970. Gần đây, tin tức cho ta biết dường như có nhiều dấu hiệu cho thấy sau một thời kỳ tăng trưởng kinh tế nhanh, xã hội Trung Quốc đang bước vào thời kỳ khởi phát một “trạng thái tinh thần dân tộc Trung Hoa” mới. Sự trỗi dậy của Trung Quốc không chỉ là đột phá kinh tế mà còn bao gồm một sự trỗi dậy văn hóa. Hộp 4.3. Cần và có thể tạo nên một khí thế công nghiệp hóa hiện đại hóa không? “Thế hệ làm nên chiến thắng cuộc chiến tranh cứu nước nói rằng, lúc trai trẻ hàng ngày họ đi qua thành cửa Bắc và nhìn thấy hai lỗ đạn đại bác của thực dân mà thấy thấm nỗi nhục mất nước, nuôi chí giải phóng đất nước. Liệu từ nay, nếu trên các phương tiện thông tin đại chúng hàng ngày chúng ta thông báo bên cạnh giá vàng, giá USD, nhiệt độ thời tiết có thêm thông số về thứ hạng nước ta trong nền kinh tế thế giới, số tiền chúng ta đang vay nợ thì chắc chắn vì thấm nỗi nhục nghèo hèn mà chúng ta nuôi chí vươn lên. Không có động lực ấy chúng ta vẫn thoả mãn với bước đi chậm rãi, chúng ta sẽ mãi mãi tụt hậu!'' Dương Trung Quốc. Đừng ngồi trong nhà và đóng tất cả cánh cửa lại. VietnamNet, 14/5/2004. Trong tiến trình khởi động kinh tế vừa qua, Việt Nam có bao hàm một sự khởi phát mới về văn hóa chưa? Câu trả lời có lẽ là vừa có vừa chưa có. Không còn nghi ngờ gì nữa, Đổi Mới không chỉ bao hàm nội dung kinh tế-xã hội. Chúng ta đã chứng kiến ngay từ những ngày tháng đầu tiên của Đổi Mới một sự “bừng nở” (một chữ dùng rất đắt của Lê Đăng Doanh) về văn hóa. Tuy nhiên, công cuộc tiếp tục Đổi Mới theo nghĩa đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đòi hỏi một “khí thế tinh thần” rõ rệt hơn nữa, một trạng thái văn hoá tinh thần giống như thời kỳ đầu Cách mạng tháng Tám 1945, thời kỳ những năm 1950-1970 chống Pháp và chống Mỹ. Gần 67 đây, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kêu gọi hãy có những “Điện Biên Phủ trong kinh tế”. Không có một trạng thái tinh thần như vậy, khó có thể đạt được mục tiêu phát triển mang tính đột phá đã đặt ra. 4.2.10. VĂN HOÁ VIỆT NAM: MỘT ĐA VĂN HÓA TỘC NGƯỜI Trong quá trình lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên trì chủ trương đúng đắn là đại đoàn kết các dân tộc thiểu số, tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa của các tộc người. Điều này được liên tục cụ thể hóa trong hệ thống luật pháp và chính sách. Tuy nhiên, trong thực tế thực hiện chính sách và quản lý điều hành cụ thể, nguyên tắc trên vẫn không được thể hiện triệt để và có hiệu quả. Căn cứ vào lập luận ở Chương Một (Mục 1.4), rõ ràng là cần phải có sự rà soát lại tính nhất quán giữa cơ sở lý luận với định hướng tư tưởng và triển khai chính sách (Xem Bảng 1.1) trong lĩnh vực chính sách và công tác dân tộc, đặc biệt là vấn đề văn hóa. Mặc dù đã có chủ trương rõ ràng và đã có nhiều nỗ lực lớn lao trong nhiều thập niên qua, vẫn còn tồn tại một số vấn đề chưa được giải quyết trong lĩnh vực phát triển văn hóa và ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số. Chắc chắn cần nhiều nghiên cứu toàn diện hơn để làm rõ các nguyên nhân đa chiều. Trong mục này, tác giả xin nêu lên một trong những nguyên nhân quan trọng, xuất phát từ logic mang tính phương pháp luận “lý luận-định hướng tư tưởng-triển khai chính sách” nêu trong Chương Một. Quan điểm thứ 18 trong Bảng 1.1 thể hiện quan niệm phát triển là một quá trình lịch sử cụ thể nội tại. Quan niệm này dẫn đến định hướng tư tưởng rằng phát triển không phải là một lịch sử phổ quát mà là lịch sử riêng của mỗi nền văn hoá; rằng mọi nền văn hoá đều bình đẳng, không nền văn hóa nào có thể xác định mục tiêu phát triển nhân danh nền văn hóa khác; rằng phát triển là một quá trình có nền tảng từ văn hoá bên trong, một quá trình không phải được quyết định từ bên ngoài. Từ đó dẫn đến những gợi ý về định hướng chính sách, chẳng hạn tăng cường sức mạnh văn hóa truyền thống, thừa nhận quyền phát triển theo cách riêng của các dân tộc thiểu số trong khuôn khổ luật pháp quốc gia chung. Nhiều quan điểm khác trong Bảng 1.1 cũng hỗ trợ cho quan điểm thứ 18. Những điểm vừa nêu nếu đúng với toàn bộ Việt Nam trong thế đứng đối diện với thế giới, với các cường quốc, với các định chế phát triển toàn cầu, thì cũng đúng với mọi tộc người thiểu số trong nước. Xem xét chính sách và công tác văn hóa dân tộc thiểu số, người ta có thể thấy những công việc này phần lớn do trí thức người Kinh đảm nhiệm (trí thức-nhà nghiên cứu, trí thức-nhà quản lý, trí thức-nhà vạch chính sách), chịu sự chi phối bởi cách nhìn-cách nghĩ của “hệ văn hóa” người Kinh. Như nhân học và xã hội học đã chỉ ra, đây là điều không thể tránh khỏi, vấn đề chỉ là ở chỗ tự giác ngộ được “quy luật không thể tránh khỏi” này và có những phương pháp luận và giải pháp giảm thiểu hạn chế đó. Một trong những phương pháp luận quan trọng là nghiên cứu về sự phân biệt giữa khái niệm “văn hóa Việt Nam” (theo nghĩa nền văn hóa của một quốc gia) với “văn hóa Việt” (theo nghĩa nền văn hóa của người Kinh). Từ đó thừa nhận rằng nền văn hóa Việt Nam là một đa văn hóa, mà nền văn hóa của người Kinh chỉ là một thành phần trong nền văn hóa quốc gia. Sự phát triển logic tiếp theo sẽ dẫn đến việc xem xét lại toàn bộ hệ thống chính sách và công tác văn hóa liên quan đến các tộc người. 68 Liên quan đến cấp độ thực hiện chính sách, một trong những giải pháp định hướng quan trọng là phát triển giới trí thức dân tộc thiểu số và trao cho họ sứ mệnh là chủ thể chính đảm nhiệm việc bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, văn hóa của dân tộc họ. Dĩ nhiên, việc này cần có sự hợp tác và hỗ trợ của Nhà nước và trí thức người Kinh. Song điều có tính nguyên tắc là “sự nghiệp phục hưng văn hóa và ngôn ngữ một dân tộc, một cộng đồng, phải do chính dân tộc ấy, cộng đồng ấy thực hiện”. Đây chỉ là một biểu hiện cụ thể của một nguyên tắc chung hơn mà cả các nhà cách mạng mác-xít tiền bối trước kia lẫn các nhà phát triển quốc tế ngày nay vẫn nhấn mạnh: cách mạng không thể xuất khẩu, mà phải do nhu cầu và lực lượng bên trong; phát triển không thể áp đặt từ bên ngoài mà phải được thực hiện từ bên trong. Trong khi làm việc với các tổ chức quốc tế về phát triển, các nhà trí thức người Kinh (trí thứcnhà quản lý, trí thức-nhà vạch chính sách) vẫn đòi hỏi các tổ chức này phải tôn trọng nguyên tắc tự lực, tự quyết nêu trên. Và đòi hỏi như vậy là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng khi quay về với công tác làm chính sách trong mối quan hệ với các dân tộc thiểu số trong nước, một số người lại hay quên nguyên tắc này, thường áp đặt vũ trụ quan văn hóa người Kinh và có xu hướng “nghĩ thay, làm thay” cho các cộng đồng dân tộc thiểu số. Để làm rõ hơn lập luận về điều này có thể so sánh với tình hình phát triển văn hóa và tiếng Việt trong nửa đầu thế kỷ XX. Với những toan tính thực dân của mình, đầu thế kỷ XX người Pháp quyết định sử dụng chính thức chữ quốc ngữ, dạy cho trẻ em và thanh niên Việt chữ Pháp, văn hóa Pháp thông qua một hệ thống giáo dục kiểu Pháp. Có nhiều hệ quả khác nhau từ thực tế chính sách như thế. Nhưng có một kết quả mà thực dân Pháp không ngờ đến. Đó là, nhờ thế mà trong nửa đầu thế kỷ XX đã diễn ra một sự đột khởi trong văn hóa và ngôn ngữ người Việt: ra đời một ngôn ngữ Việt của kỷ nguyên hiện đại, thơ mới, nhạc mới, hội họa mới, kiến trúc mới, nền báo chí mới, khoa học xã hội và nhân văn kiểu phương Tây, v.v. Hộp 4.4. Nhiều cách nghĩ và cách làm, khi xem xét kỹ, hóa ra là biểu hiện của “hệ văn hóa người Kinh”. Người ta còn nhớ rằng trong khoảng hơn 10 năm đầu sau khi kết thúc chiến tranh, một số tỉnh ở Trung và Nam Trung bộ, ở Tây Nguyên, đã có chủ trương vận động xóa bỏ nhà dài. Trong một cuộc khảo sát của Đề tài ở một trường dân tộc nội trú ở DakLak, cuộc thảo luận dẫn đến việc nói về phong tục khi ở nhà có vấn đề gì quan trọng thì người cậu của gia đình đã đến tận trường để hỏi ý kiến cô cháu gái đang học ở trường dân tộc nội trú. Nhưng một giáo viên-nhà quản lý (dĩ nhiên là người Kinh, đến từ một vùng nông thôn Bắc Bộ) đã nói với một số em học sinh gái: “Chế độ mẫu hệ là lạc hậu, phải bỏ đi”. Người giáo viên-nhà quản lý này không có tý liên hệ nào điều mà mình nói với tiếp cận giới đang trở nên ngày càng phổ biến trong công tác phát triển hiện nay ở Việt Nam. Người ta cũng không ý thức được rằng mệnh đề ấy là do có một “hệ giá trị văn hóa” làm nền tảng chi phối đằng sau: văn hóa “nam trị” cổ truyền của người Kinh (đặc biệt người Kinh miền Bắc và miền Trung). Mà cái văn hóa “nam trị” này thực ra là cũng được du nhập từ phương Bắc từ lâu đời. Người Kinh bản địa xa xưa vốn cũng theo định hướng mẫu hệ. Bùi Thế Cường. Ghi chép từ khảo sát thực địa của Đề tài KX.02.10. 2001. Các sản phẩm của văn chương và của nghiên cứu khoa học xã hội trong giai đoạn lịch sử này cho thấy có sự ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa Pháp, nhưng vẫn hết sức thuần Việt, thấm đẫm văn hóa Việt cổ truyền, và tinh thần dân tộc. Sự kết hợp giữa văn hóa chân chính của dân tộc Pháp với văn hóa Việt, tinh thần dân tộc Việt (trong bối cảnh bị cai trị) đã tạo ra những sản phẩm đặc thù, hết sức Việt, nhưng hoàn toàn mới, mang tính cách tân, mà không hề lai căng, 69 ngoại lai. Các sản phẩm lớn ấy đều do người Việt làm: do đó thời kỳ này đã sản sinh hàng loạt gương mặt các nhà văn hóa lớn người Việt. Có nhiều nguyên nhân và hoàn cảnh lịch sử dẫn đến kết quả ấy đòi hỏi nhiều công trình nghiên cứu sâu hơn để lý giải toàn diện và đầy đủ. Nhưng một điều đã rõ ràng là trong bối cảnh một khuôn khổ cai trị thực dân hà khắc, một vài thế hệ người Việt đã tự lực làm nên sự nghiệp hiện đại hóa văn hóa dân tộc vĩ đại. 4.3. HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HÓA: TÓM TẮT VÀ KIẾN NGHỊ Chương Bốn bàn đến văn hóa như là một động lực quan trọng của hiện đại hóa và phát triển. Để hiểu điều đó trong thực tế Việt Nam hiện nay, cuốn sách này đã sử dụng khái niệm của xã hội học về văn hóa và đặt cách hiểu đó về văn hóa dưới những áp lực của quá trình hiện đại hóa đương đại mang tính toàn cầu. Bằng cách như vậy, vấn đề văn hóa đặt ra cho chúng ta những yêu cầu và ưu tiên then chốt trong bối cảnh ngày hôm nay. Đó là: o Việc phát triển bắt kịp các nước khác đòi hỏi thái độ tiếp nhận nhanh chóng và thực sự hệ tri thức quốc tế cập nhật. Hệ tri thức của một xã hội được tổ chức theo những cách thức nhất định nào đó là một nội dung cơ bản của văn hóa của xã hội đó, “tri thức nào xã hội ấy”. o Hệ giá trị là nền tảng của văn hóa, của xã hội. Để dẫn dắt một xã hội, một quốc gia, đi theo một định hướng nào đó, cần có một hệ giá trị rõ ràng, nhất quán, thực sự phù hợp với và hỗ trợ cho việc tiến theo định hướng ấy. Hệ giá trị của một xã hội cụ thể là một hệ thống phức hợp, đa tầng. Nó còn trở nên khó nhận diện hơn nữa vì mỗi nhóm xã hội, cho dù đều là thành viên của cùng một xã hội, song họ lại có quan điểm khác nhau đối với hệ giá trị ấy, do lợi ích, vị thế, và nhận thức khác nhau. Vì vậy, trong cuốn sách này để làm ví dụ minh họa và tập trung vào điểm then chốt, tác giả chỉ bước đầu đề cập đến vấn đề coi phát triển kinh tế phải là một giá trị ưu tiên, như đã nhận được sự đồng thuận của mọi nhóm xã hội. o Để có một khung logic nhận thức hỗ trợ cho trật tự nhận thức và quản lý, nên tích hợp luật pháp vào khái niệm văn hóa. Và nếu như hệ chuẩn mực là một nội dung chủ chốt của văn hóa, bao gồm từ các quy tắc trong tập quán, đến phong tục, đạo đức và luật pháp, thì trong yêu cầu hiện nay, rõ ràng công tác kiến tạo văn hóa phải hết sức xem trọng luật pháp, coi đây là mắt xích then chốt. Gắn với hệ giá trị và xây dựng luật pháp là việc tập trung vào xây dựng những định chế và tổ chức của xã hội hiện đại. Bởi vì văn hóa là thành tố cốt lõi trong định chế còn định chế là cốt lõi của tổ chức xã hội. o Việc phát triển nhanh chóng hiện nay của Việt Nam có nhiều cơ hội, trong đó biến đổi văn hóa là một cơ hội lớn, bởi vì với tư cách là một hệ thức sống (lối sống, phong cách sống), văn hóa có thể được tiếp nhận và thay đổi rất nhanh. Điều này còn trở nên dễ dàng hơn nữa, khi kinh nghiệm lịch sử các nước cho thấy, để tạo nên bước ngoặt phát triển chỉ cần tập trung vào sự thay đổi văn hóa ở giai tầng lãnh đạo quản lý. Trong trường hợp quy mô dân số của Việt Nam, phạm vi liên quan chỉ là vài trăm ngàn người. Nhà sử học Arnold John Toynbee là người sử dụng lý thuyết về vai trò của giới tinh hoa (elite) vào sự phân tích lịch sử của các quốc gia hay xã hội trong những thời điểm bước ngoặt. Nhiều nghiên cứu giải thích bài học thành công của Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, cũng đi theo hướng này. o Cuối cùng là những vấn đề liên quan đến mặt mạnh-mặt yếu của con người và bản sắc văn hóa Việt Nam, sự kết hợp giữa lòng tự tôn với tính tự phê phán, tinh thần đột khởi văn hóa vì 70 sự nghiệp phục hưng đất nước. Đây là những điều kiện cho mục tiêu phát triển tăng tốc hôm nay. Nếu có thể và cần tóm tắt lại tất cả những yếu tố khác nhau nêu trên, chúng tôi cho rằng đây chính là vấn đề của một thái độ văn hóa: hướng đến, tập trung vào mục tiêu hiện đại hóa. Về vấn đề này, Trần Đình Thiên nhận xét: “Ta đang đua tranh phát triển với thế giới nhưng thử hình dung thế này, khi anh đã trên đường chạy thì anh cứ thế mà chạy thôi. Cắm cổ mà chạy và chỉ có chạy. Chạy đua là phải vậy. Nếu không thì thua. Người Việt chúng ta lại có thói quen hay nhìn lại. Vấn đề không phải là có nên ngoái cổ nhìn lại hay không, mà là mình nên nhìn lại vào lúc nào… Theo tôi, về nguyên tắc, nếu cần nhìn lại thì nhìn thật kỹ đi trước khi bắt đầu cuộc đua, có thái độ dứt khoát, rõ ràng với quá khứ và truyền thống. Còn khi bước vào cuộc đua thì cứ thế mà chạy. Theo cách này thì quá khứ và truyền thống mới nâng bước, mới tiếp sức cho mình. Còn vừa chạy vừa nhìn lại thì chỉ bị níu kéo lại mà thôi” (Trần Đình Thiên. VietnamNet, 1/9/2005). Theo quan điểm đã trình bày ở Chương Một, Chương Hai và ở Chương này, vấn đề bao trùm của xã hội Việt Nam hiện nay là “hiện đại hóa văn hóa”. Và như vậy, theo logic, thì vấn đề bao trùm của công tác tư tưởng văn hóa hiện nay chính là xây dựng được một thái độ văn hóa đối với hiện đại hóa. Về lĩnh vực này, xin có những kiến nghị sau đây. o Theo một nghĩa nào đó, Đề cương Văn hóa Việt Nam 1943 có thể được xem là một bản phác họa học thuyết chính trị mới về văn hóa trong thời điểm lịch sử đó. Như đã được thừa nhận trong các văn kiện và nỗ lực gần đây của các cơ quan chức năng của Đảng, đang chín muồi yêu cầu về một học thuyết chính trị của giai đoạn hiện nay về văn hóa. Trong nỗ lực này cần sử dụng những thành tựu lý thuyết và phương pháp liên quan đến khái niệm văn hóa của nhân học và xã hội học. Theo chúng tôi, kiến tạo về đường lối và chính sách văn hóa vừa qua chưa tính đến những tiếp cận văn hóa của khoa học xã hội đương đại. o Trong nỗ lực kiến tạo văn hóa thích hợp với xã hội hiện đại, cần chú trọng đến logic của 3 mắt xích: hệ giá trị -> hệ chuẩn mực -> luật pháp; trong đó điều cần thiết hiện nay là tập trung vào xây dựng và thực thi một nền luật pháp phù hợp với thời đại. o Để điều hành công tác văn hóa, chúng ta có một công thức kép đúng đắn vừa chú trọng văn hóa tiên tiến vừa chú trọng văn hóa cổ truyền. Tuy nhiên, xét từ góc độ yêu cầu hiện đại hóa, nửa đầu của công thức kép đó ít được chú ý đúng bản chất và tầm vóc của nó. Chưa nói đến ngay cả nửa sau của công thức ấy, tuy được nhấn mạnh hơn, song cũng chưa được thực hiện thành công. Theo chúng tôi, trong giai đoạn hiện nay cần tập trung kiến tạo nên những đặc trưng văn hóa của xã hội hiện đại, làm cho chúng trở nên nổi bật và chủ đạo trong đời sống hàng ngày. o Tập trung kiến tạo nên những định chế xã hội hiện đại cơ bản, có tính chất là những đòn bẩy của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Điều này cũng có nghĩa là chú trọng kiến tạo thành tố văn hóa trong các định chế xã hội hiện đại ấy. o Tập trung nỗ lực làm rõ cơ sở văn hóa Việt Nam từ những biểu hiện của lối sống, tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục, … để tạo nên một “tinh thần” (spirit) cho cấu trúc xã hội, tạo ra xung lực cho sự phát triển quốc gia mang tính đột phá. Trong tinh thần làm rõ cơ sở văn hóa Việt Nam 71 cần đề cao tính đa văn hóa, đa tộc người của văn hóa quốc gia-dân tộc, tránh bị sự chi phối của thái độ “lấy văn hóa người Kinh làm trung tâm”. o Về mặt kỹ thuật, “phương pháp cách thức kiểm kê” (trình bày trong Mục 4.1 và Bảng 4.1) có thể là một gợi ý bổ ích như là một bản đồ phục vụ nhận thức và quản lý chính sách. Sơ đồ khái niệm hóa này nên được tiếp tục phát triển và chi tiết hóa trong những nghiên cứu sâu rộng hơn. Hộp 4.5. Văn hóa là một lối làm việc nảy sinh từ một hệ tri thức, bao gồm thế giới quan: hiện đại hóa có một lối làm việc chung không? “Bộ Giáo dục và đào tạo cử ra một số người chịu trách nhiệm biên soạn và đưa ra nhà xuất bản để in. Nếu tránh dùng chữ độc quyền thì là Bộ Giáo dục và đào tạo ôm hết. Vì ôm hết nên nhất định không xuể, ôm quá nhiều mà sức người có hạn. Tôi cho rằng, dù mấy ông trong hội đồng biên soạn có giỏi bao nhiêu đi chăng nữa, Nhà xuất bản Giáo dục có kinh doanh tài giỏi đến mấy thì với cách làm này cũng không thể tránh được sai lầm… Như vậy là, mầm mống sai lầm là sai ngay từ trong cách tổ chức làm việc. Vì vậy, chỉ có thể cải tiến được công tác biên soạn và xuất bản sách giáo khoa khi thay đổi tư duy, làm cách khác. Tốt nhất là học tập kinh nghiệm của các nước. Không có nước nào làm như kiểu Việt Nam. Vậy thì chỉ có thể hoặc người ta dốt hơn mình hoặc mình tách hẳn ra như thế nào đấy… Do đó, chỉ có cách học kinh nghiệm, nhìn những nước văn minh xem họ làm như thế nào. Dĩ nhiên khi vận dụng vào thì không phải máy móc, nhưng tư duy cơ bản của họ thì mình phải hiểu vì sao họ làm như vậy. Còn kiểu làm cái gì cũng không giống ai và viện cớ là làm theo cách của Việt Nam thì cũng rất khó và đó là cách tụt hậu nhanh nhất… Tôi không đi vào cụ thể, nhưng một vấn đề mà tồn tại đến hàng chục năm và mãi đến bây giờ vẫn nhiều chuyện như thế thì rõ ràng là cách làm của ta không đúng. Trong khi đó ở nước ngoài người ta làm khác, vậy phải xem mình sai ở chỗ nào mà sửa. Hoàng Tụy. Kiểu làm không giống ai là cách tụt hậu nhanh nhất. VietNamNet. 15/9/2008. 72 CHƯƠNG NĂM. BẤT BÌNH ĐẲNG VÀ KẾT CẤU XÃ HỘI Tiếp theo Chương Bốn về văn hóa, Chương này đề cập đến mặt hữu cơ thứ hai của tổ chức xã hội bên cạnh văn hóa. Đó là kết cấu xã hội. Ở đây sẽ gắn kết cấu xã hội với bất bình đẳng (trước hết là bất bình đẳng về kinh tế). Trong Chương này, việc phân tích định lượng chủ yếu dựa trên các bộ số liệu của VLSS nhằm làm rõ xu thế và đặc điểm của sự khác biệt kinh tế-xã hội giữa các giai tầng. Tiếp theo, phân tích định tính sẽ nêu lên một vài nhận xét liên quan đến các đặc trưng và xu hướng của kết cấu xã hội hiện nay ở nước ta. 5.1. KHÁI NIỆM Thuật ngữ kết cấu xã hội ở đây được dùng theo truyền thống mác-xít: nói đến cấu trúc của các giai cấp, tầng lớp và nhóm xã hội xét từ tiếp cận kinh tế học chính trị. Trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng và trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Khoá IX hàm ý thể hiện một khung phân tích lý luận và chính sách về kết cấu xã hội, bao gồm giai cấp công nhân; giai cấp nông dân; tầng lớp trí thức; và tám khối (nhóm) dân cư: thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, các nhà doanh nghiệp, các dân tộc thiểu số, đồng bào các tôn giáo, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001 và 2003). Kết cấu xã hội thể hiện một sự phân tầng xã hội theo nghĩa xã hội học. Do một số hạn chế, kết cấu xã hội trong công trình này mới chỉ được nhìn nhận chủ yếu về góc độ kinh tế, tức là liên quan đến bất bình đẳng kinh tế. Sự khác biệt giai tầng về mặt chính trị, văn hóa và xã hội chưa được phân tích ở đây. Nghiên cứu trong thập niên 1950-1960 cho thấy quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phân phối ở các nước công nghiệp hóa sớm (Anh, Đức, Mỹ) đã diễn ra theo đường cong Kuznets, còn gọi là chữ U ngược: bất bình đẳng tăng lên trong giai đoạn đầu của sự phát triển, và giảm đi trong giai đoạn giữa và cuối. Từ đó dẫn đến lập luận rằng sự tăng bất bình đẳng trong giai đoạn hiện đại hóa ban đầu là bình thường, khó tránh khỏi. Tuy nhiên, một số nghiên cứu từ thập niên 1980 đến nay lại cho thấy quá trình phát triển ở những nước hiện đại hóa muộn và thành công đã không diễn ra theo “định luật” đường cong Kuznets, chỉ có một số nước hiện đại hóa thất bại mới thấy xuất hiện nửa đầu của chữ U ngược Kuznets và cho đến nay các số liệu thống kê vẫn chưa cho phép vẽ nốt nửa sau đi xuống của chữ cái ấy. Nói cách khác, kết quả nghiên cứu khẳng định rằng đường cong Kuznets không phải là một “định mệnh”, một “tất yếu thép”. Nhiều nước đi vào phát triển đã thành công trong việc duy trì mối quan hệ thuận giữa tăng trưởng kinh tế và mức thấp trong bất bình đẳng phân phối, thậm chí duy trì mức bất bình đẳng thấp còn là điều kiện thúc đẩy tăng trưởng. Then chốt ở đây là cam kết chính trị cao của một giới lãnh đạo có năng lực ảnh hưởng cộng với một bộ công cụ chính sách có hiệu quả. 5.2. MỘT TÓM LƯỢC VỀ KẾT CẤU XÃ HỘI VIỆT NAM Thời kỳ 1954-1975 ở miền Bắc có thể chia thành ba giai đoạn. Từ một kết cấu xã hội mang tính thuộc địa và chuyên chế phong kiến, sau 1954 xã hội miền Bắc đã trải qua một giai đoạn ngắn mang tính dân chủ nhân dân (kết quả của cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân): ruộng đất được chia tương đối đồng đều cho nông dân, kinh tế cá thể phát triển ở cả nông thôn lẫn thành thị, các khu vực kinh tế then chốt chuyển thành sở hữu nhà nước (giai đoạn 1955-1959). Mức sống dân cư được cải thiện nhanh chóng, nhà nước bắt đầu thu được thuế. Tiếp theo, trong giai 73 đoạn 1960-1964 miền Bắc đã chuyển rất nhanh sang nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp với hai thành phần cơ bản: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Tốc độ tăng mức sống chậm lại, nhưng tổng khối lượng tài sản xã hội tăng nhanh do hàng loạt đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế. Giai đoạn ba, nền kinh tế được điều chỉnh theo hướng một nền kinh tế thời chiến trong suốt 10 năm tiếp theo (1965-1975). Trong giai đoạn đầu, kết cấu xã hội miền Bắc chủ yếu bao gồm một số lượng đông đảo nông dân cá thể, một số lượng nhỏ hơn các hộ gia đình cá thể phi nông nghiệp, và khối công nhân viên chức nhà nước. Trong hai giai đoạn sau, kết cấu này bao gồm đông đảo các thành viên của tổ chức kinh tế tập thể (nông hoặc phi nông nghiệp) và khối công nhân viên chức nhà nước (lúc này đã tăng lên rất lớn về số lượng do sự mở rộng khu vực kinh tế nhà nước, khu vực chính trịxã hội nhà nước và do nhân lực cho chiến tranh). Khác với khối các xã viên, khối công nhân viên chức nhà nước đã có sự khác biệt về mức sống, mặc dù nhìn chung toàn xã hội có một mức sống bình đẳng nghèo. Khung học thuyết và chính sách liên quan đến kết cấu xã hội ở miền Bắc thời kỳ trước 1975 về đại thể cũng giống như đã được thể hiện ở trên khi nói về khung kết cấu xã hội được thể hiện trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, tức là bao gồm các giai cấp, tầng lớp và khối dân cư. Trong thời kỳ này, Đảng và Nhà nước nhấn mạnh vào sự bình đẳng, mở rộng sự bao cấp và cơ hội (học tập, đào tạo, công tác) cho người lao động và gia đình họ, nhưng có sự chú trọng chọn lọc cho các nhóm được xác định là “thành phần cơ bản” (cán bộ, công nhân, nông dân bần cố nông). Nhà nước cũng nhấn mạnh vào sự bình quyền nam nữ. Vào năm 1975, kết cấu xã hội miền Nam về cơ bản bao gồm một khối đông đảo nông dân cá thể (một tỷ lệ lớn là trung nông, nhất là ở Nam Bộ) và một bộ phận hộ gia đình cá thể phi nông nghiệp, cộng với một khu vực kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa đã tương đối phát triển (cả trong nông nghiệp lẫn công nghiệp và thương mại). Những cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa sau 1975 đã đưa kết cấu xã hội của khu vực phía Nam đi theo hướng khu vực phía Bắc (một khối đông đảo nông dân tập thể và một khối đông đảo công nhân viên chức nhà nước). Tuy nhiên, mặc dù những nỗ lực lớn lao của Nhà nước, cho đến trước Đổi Mới, tức là trong suốt thời kỳ 19751985, khu vực các tỉnh phía Nam chưa bao giờ đạt đến một kết cấu xã hội thuần nhất theo kiểu xã hội miền Bắc. Nó vẫn chủ yếu bao gồm khối đông đảo nông dân cá thể, khối những người làm trong khu vực kinh tế cá thể và tư nhân ở đô thị, và khối công nhân viên chức nhà nước. Sự khác biệt mức sống trong các tỉnh phía Nam (nhất là Nam Bộ) vẫn còn lớn, mặc dù nó đã được cào bằng khá mạnh. Nhưng nhìn tổng thể, cả xã hội Việt Nam cho đến trước Đổi Mới, và cho đến đầu thập niên 1990 ở trong trạng thái mức sống bình đẳng nghèo. Các nghiên cứu đều ước tính hơn 80% dân số Việt Nam sống ở dưới ngưỡng nghèo trong thập niên 1980. Công cuộc Đổi Mới đem lại những biến đổi sâu sắc trong suốt 25 năm qua về nhiều mặt, trong đó có kết cấu xã hội. Dựa trên một nền kinh tế có quy mô lớn hơn, có tổng khối lượng của cải lớn hơn, với mức sống cao hơn trước, xã hội Việt Nam ngày nay đã trở nên đa dạng hơn rất nhiều, xét theo mọi lát cắt. Nhiều giai tầng xã hội tái xuất hiện với những diện mạo mới, tương quan giữa các giai tầng thay đổi. Người ta không thể nói đến một khối nông dân thuần nhất được nữa: trong số họ có những điền chủ lớn hoặc trung bình về cây lúa, cây ăn trái hay cây công nghiệp, cũng như có những người nông dân rất ít hoặc không có ruộng đất. Người ta cũng không thể nói về một khối các công nhân viên chức và trí thức nhà nước tương đối thuần nhất về mức sống được nữa. Thu nhập chính thức và chính đáng giữa các ngành nghề và khu vực trong khối này ngày càng trở nên cách biệt. Trong khi hầu hết giai tầng dân cư đều trở nên 74 khấm khá hơn, sự cách biệt và bất bình đẳng kinh tế cũng tăng lên mạnh mẽ. Kết cấu xã hội ở Việt Nam ngày nay ngày càng trở nên giống với kết cấu xã hội của các nước xung quanh trong khu vực. 5.3. KẾT CẤU XÃ HỘI: NHÌN TỪ PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG Các khảo sát định lượng liên tục trong vòng hơn 15 năm qua đã chỉ ra hai xu thế chủ yếu liên quan đến kết cấu xã hội ở Việt Nam. Thứ nhất, tổng khối lượng của cải và mức sống chung của cả nước đã tăng lên rất nhanh. Nhìn chung, cứ khoảng 10 năm thu nhập quốc dân lại tăng gấp đôi. Thứ hai, sự chênh lệch về các hình thái của cải giữa các nhóm xã hội cũng ngày càng tăng lên, và tốc độ tăng có tính lũy tiến. 5.3.1. XU HƯỚNG NỀN: MỨC SỐNG CHUNG TĂNG LÊN Nhìn chung, mức sống đại đa số dân cư đã tăng lên liên tục trong 25 năm Đổi Mới. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh và liên tục, từ hơn 80% vào cuối những năm 1980, giảm xuống còn 58,1% năm 1993, 37,4% năm 1998, 28,9% năm 2002, 19,5% năm 2004, 16% năm 2006 và 12,1% năm 2008 (Bảng 5.1 và xem: Viện Khoa học Lao động và Xã hội, 2009). Chi tiêu thực tế đầu người trung bình đã tăng 1,7 lần trong thời kỳ 1993-2002 (Bảng 5.1), thu nhập bình quân đầu người tăng 5 lần trong thời kỳ 1993-2006 (Ngân hàng Thế giới, 2009). Trong cả ba đợt khảo sát VLSS từ 1993 đến 2002, từ 96% đến 98% xã được điều tra đều báo cáo rằng điều kiện sống của họ đã trở nên tốt hơn. Mức sống đều tăng lên ở các giai tầng xã hội qua thời gian là cơ sở kinh tế cho một sự hài hòa xã hội chung giữa các giai tầng xã hội, cho một sự đồng thuận xã hội với chính sách Đổi Mới của Đảng và Nhà nước. Bảng 5.1. Chi tiêu thực tế đầu người và mức nghèo Thay đổi 1993/1998 (%) Chi tiêu thực tế đầu người/ năm (nghìn VND) theo khu vực đô thị/nông thôn Chung 1.936 2.764 3.229 +42,7 Đô thị 3.013 4.829 5.812 +60,3 Nông thôn 1.669 2.166 2.447 +29,8 Chi tiêu thực tế đầu người năm (nghìn VND) theo 5 nhóm chi tiêu Nghèo 854 1.099 1.197 +28,7 Cận nghèo 1.233 1.632 1.796 +32,3 Trung bình 1.582 2.125 2.386 +34,3 Khá giả 2.098 2.929 3.401 +39,6 Giàu 3.911 6.032 7.363 +54,2 Tỷ lệ hộ nghèo (%) và mức giảm nghèo Chung 58,1 37,4 28,9 -36 Đô thị 25,1 9,2 6,6 -34 Nông thôn 66,4 45,5 35,6 -32 Kinh & Hoa 53,9 31,1 23,1 -42 Dân tộc thiểu 86,4 75,2 69,3 -13 số Tỷ lệ hộ đói (%) và mức giảm tỷ lệ hộ đói Chung 24,9 15,0 10,9 -40 Đô thị 7,9 2,5 1,9 -68 Nông thôn 29,1 18,6 13,6 -36 1993 1998 2002 Thay đổi 1998/2002 (%) +16,8 +20,3 +12,9 +8,9 +10,1 +12,3 +16,1 +22,1 -23 -28 -22 -26 -8 -27 -26 -27 75 Nguồn: Tổng cục thống kê. Số liệu các VLSS. 5.3.2. BẤT BÌNH ĐẲNG TĂNG CHẬM NHƯNG MỘT CÁCH LŨY TIẾN Bên cạnh xu hướng nền là mức sống đã tăng lên ở hầu hết mọi giai tầng trong xã hội, số liệu thống kê cũng chỉ ra xu hướng thứ hai. Đó là sự chênh lệch ngày càng tăng về mọi mặt, trước hết là về mức sống, hình thành nên những giai tầng và nhóm xã hội khác nhau. Sự phát triển mang tính cánh kéo và lũy tiến: mọi giai tầng cùng đi lên về mặt tuyệt đối, nhưng khoảng cách ngày dãn rộng. Nếu lấy mức chi tiêu thực tế đầu người trung bình làm chỉ số phản ánh mức sống, thì vào năm 1993, mức sống ở đô thị cao gấp 1,8 lần ở nông thôn. Con số này là 2,2 vào năm 1998 và 2,4 vào năm 2002. Chênh lệch mức sống giữa nhóm 20% giàu và nhóm 20% nghèo là 4,58 lần ở năm 1993, là 5,52 lần ở năm 1998, và là 6,15 ở năm 2002 (Bảng 5.1 và 5.2). Bảng 5.2 phác họa bức tranh về bất bình đẳng kinh tế ở Việt Nam thời kỳ 1993-2002, dựa trên tương quan về mức chi tiêu. Năm 2002, nhóm 20% giàu đang chiếm giữ hơn gấp đôi (45,9%), còn nhóm 20% nghèo chỉ có dưới một nửa (7,8%) tổng chi tiêu dùng xã hội. Nhóm 40% bên dưới chiếm 19,0% tổng chi tiêu dùng xã hội. Tỷ suất ngũ phân vị (phần chi tiêu dùng của nhóm 20% giàu so với của nhóm 20% nghèo) là 6,03 nhưng sau khi hiệu chỉnh số liệu thì là 8,84. Bảng 5.2. Tỷ trọng chi tiêu của mỗi nhóm 20% (ngũ phân vị) Tổng Giàu Khá giả Trung bình Cận nghèo Nghèo Tỷ suất giữa nhóm 20% giàu và 20% nghèo Chỉ số Gini (từ 0 đến 100%) Nguồn: Ngân hàng Thế giới. 2004. 1993 100,0 41,8 21,5 16,0 12,3 8,4 4,97 34,0 1998 100,0 43,3 21,2 15,5 11,9 8,2 5,49 35,0 2002 100,0 45,9 20,6 14,6 11,2 7,8 6,03 37,0 Nếu cho rằng mức chênh lệch giữa cách tính dựa trên chi tiêu và cách tính dựa trên thu nhập là không sai lệch nhau nhiều lắm, thì có thể ước tính nhóm 40% dân số bên dưới (nhóm nghèo và cận nghèo) đang được hưởng khoảng dưới 20% tổng thu nhập xã hội. Theo quan niệm của Ngân hàng Thế giới, một xã hội sẽ rơi vào trạng thái bất bình đẳng trung bình khi nhóm 40% dân cư nghèo hơn chỉ còn chiếm được từ 12% đến 17% tổng thu nhập xã hội. Nếu nhóm này chỉ chiếm dưới 12% tổng thu nhập, xã hội rơi vào trạng thái bất bình đẳng cao, và có tính báo động. Như vậy, tính đến các sai số (chi tiêu so với thu nhập, mức độ khai báo không đầy đủ, đặc biệt của nhóm giàu và khá giả, ...), có thể thấy Việt Nam đang trong kiểu xã hội có mức bất bình đẳng trung bình. Tuy còn một khoảng cách đáng kể mới rơi vào trạng thái bất bình đẳng đáng báo động, song xu hướng bất bình đẳng trong phân phối vật chất ở Việt Nam đã và đang liên tục tăng lên, mặc dù mức tăng chưa nhanh. Chỉ số Gini đã tăng từ 34% năm 1993 đến 35% năm 1998 và 37% năm 2002 (Số liệu trong website của Tổng cục thống kê lên tới 42% năm 2002). Tỷ suất ngũ phân vị cũng liên tục tăng 76 qua 10 năm: từ 4,97 năm 1993 lên 5,49 năm 1998 và tới 6,03 năm 2002. Chỉ duy nhất nhóm 20% giàu đã tăng tỷ phần của mình trong 10 năm qua, bốn nhóm còn lại đều giảm. Nếu dựa trên khung phân loại của Ngân hàng Thế giới, có thể cho rằng xu hướng tăng mức bất bình đẳng liên tục ở Việt Nam tuy chậm và mức độ chưa quá cao, song rất đáng cảnh báo và không nên coi là hoàn toàn bình thường. 5.3.3. NHỮNG ĐẶC TRƯNG XÃ HỘI CỦA BẤT BÌNH ĐẲNG HIỆN NAY Người ta có thể nêu lên hàng loạt đặc trưng của bất bình đẳng kinh tế. Trong mục này, chúng tôi tập trung vào ba đặc điểm nổi bật. Thứ nhất, nhóm người nghèo và cận nghèo sẽ ngày càng khó vươn lên hơn, bắt kịp nhịp độ đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, sự tụt hậu của nhóm nghèo và cận nghèo trở nên nổi bật về mặt tộc người. Thứ ba, sự bất bình đẳng ngày càng được định hình bởi cấu trúc khu vực-nghề nghiệp. Mức giảm nghèo chậm lại, cơ hội làm giàu tăng lên. Khi tăng trưởng kinh tế diễn ra liên tục, cùng với thời gian mức giảm nghèo bị chậm lại. Đồng thời, cùng với mức độ mở cửa nền kinh tế, các cơ hội làm giàu tăng lên. Mặc dù tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm nhanh, nhưng đang có xu hướng giảm chậm đi. Giai đoạn 1993-1998, tỷ lệ nghèo giảm trung bình 4% một năm. Giai đoạn 1998-2002 con số này là 2% mỗi năm. Trong khi đó, các nhóm khá giả có xu hướng giàu lên nhanh chóng hơn (từ 2006 đến nay, những cơ hội làm giàu đã tăng đến mức chóng mặt: các nhà môi giới chứng khoán, đầu tư bất động sản, nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng và tài chính, chủ siêu thị, các nhà xuất nhập khẩu, nhà thầu xây dựng, v.v.). Điều đó làm mức bất bình đẳng ngày càng tăng. Dân tộc và miền núi vừa nghèo nhất vừa tăng mức bất bình đẳng. Mức độ giảm nghèo trong các dân tộc thiểu số đã có những tiến bộ đáng kể, nhưng tình trạng nghèo vẫn còn cao so với nhóm người Kinh-Hoa. Vùng miền núi Tây Bắc và Tây Nguyên có mức tỷ lệ người nghèo thuộc loại cao nhất nước (năm 2004 là 59% và 33%). Vào năm 1993, tỷ lệ người nghèo trong dân tộc thiểu số là 86,4%. Con số này là 75,2% năm 1998, 69,3% năm 2002 và 60,7% năm 2004. Đáng chú ý, tỷ lệ người nghèo lương thực năm 2002 là 41,5% và không giảm chút nào trong giai đoạn 1998-2002. Chỉ đến năm 2004, tỷ lệ này mới giảm xuống còn hơn 30%. Tỷ trọng người dân tộc trong tổng số người nghèo cả nước tăng từ 20% năm 1993 lên 30% năm 2002, và gần 40% năm 2004. Một số dự báo dựa trên nguồn số liệu cho đến 2002 đã dự đoán rằng đến 2010, tỷ trọng này có thể còn tăng lên, nghèo của các dân tộc thiểu số sẽ là trọng tâm trong vấn đề nghèo của nước ta. Nhưng cần chú ý rằng những nguồn số liệu mới đây cho thấy đã có những dấu hiệu khả quan, giảm mức tăng tỷ lệ nghèo của dân tộc thiểu số, thậm chí có phần đảo ngược xu thế này. Tuy nhiên, về xu hướng cơ bản dự đoán trên vẫn còn đúng. Mức bất bình đẳng cũng tăng lên ở những vùng này. Chỉ số Gini ở vùng miền núi phía Bắc tăng 9 điểm % trong 10 năm qua: từ 25% năm 1993 lên 34% năm 2002. Chỉ số này ở Tây Nguyên tăng 5 điểm %: từ 31% năm 1993 lên 36% năm 2002. Như vậy, phạm vi và mức độ nghèo ở đồng bào dân tộc kết hợp với mức bất bình đẳng tăng lên ở bên trong vùng miền núi phải chăng là một điểm đáng lo ngại nhất hiện nay và trong tương lai gần? 77 Khác biệt khu vực-nghề nghiệp: cấu trúc bất bình đẳng cơ bản? Khác biệt thu nhập theo khu vực làm việc và nghề nghiệp là một chỉ báo phản ánh khía cạnh kinh tế chính trị của phân phối vật chất. Nó cho thấy sự bất bình đẳng xã hội được cơ cấu như thế nào theo khác biệt về kinh tế chính trị. Số liệu VLSS năm 1998 cho thấy phần lớn người làm việc trong 3 khu vực đầu (thuộc về nhà nước về mặt kinh tế và chính trị) có mức sống thuộc nhóm 20% giàu, hoặc rơi vào 2 nhóm trên (75-80%). Tương tự như vậy ở nhóm làm việc trong doanh nghiệp nước ngoài. Chỉ có 1/3 lao động trong doanh nghiệp tư nhân và gần 1/5 lao động trong hộ sản xuất kinh doanh nhỏ thuộc vào nhóm 20% giàu. Khoảng 40% những người lao động thuộc hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân và hộ sản xuất kinh doanh nhỏ thuộc vào nhóm có mức sống dưới trung bình. 3/4 người thuộc nhóm 20% nghèo là lao động trong hộ sản xuất kinh doanh nhỏ và "khác", trong khi 60% người thuộc nhóm 20% giàu làm việc trong 3 khu vực của nhà nước (Bảng 5.3, 5.4 và 5.5). Như vậy, khả năng để một cá nhân/hộ gia đình có mức sống cao hơn sẽ tăng lên nếu gắn với khu vực nhà nước (bao gồm kinh tế, hành chính, sự nghiệp, chính trị-xã hội), với khu vực chính quy (formal sector, chẳng hạn doanh nghiệp có đăng ký), với khu vực đầu tư nước ngoài. Khả năng để một cá nhân/hộ gia đình có mức sống thấp hơn sẽ tăng lên nếu gắn với khu vực ngoài nhà nước, khu vực phi chính quy (informal sector, như hộ sản xuất kinh doanh nhỏ, hợp tác xã, nếu xem hợp tác xã là một lĩnh vực bán chính quy). Các Bảng 5.6, 5.7 và 5.8 trình bày kết quả phân tích số liệu cuộc Khảo sát mức sống dân cư 2002. Nhìn chung bức tranh là tương đồng với sự phân tích tình hình năm 1998. Các khu vực giai tầng và nghề nghiệp như viên chức nhà nước, lực lượng vũ trang, trí thức, các nhà chuyên môn kỹ thuật bậc trung cao cấp, thợ có kỹ thuật có xu hướng nhận được thu nhập cao hơn. Công nhân, nông dân và lao động giản đơn có xu hướng nhận được thu nhập ít hơn. Số liệu cuộc Khảo sát năm 2002 cho thấy về cơ bản cấu trúc nói trên vẫn tiếp tục tồn tại. Đây là bức tranh bất bình đẳng xét theo kết cấu kinh tế chính trị, lát cắt này mang tính điển hình về cấu trúc xã hội và phân tầng xã hội hiện nay. Khuôn mẫu này có khả năng sẽ tồn tại lâu dài, nếu không có những thay đổi chính sách mạnh. Bảng 5.3. Phân bố lao động làm công, làm thuê theo 5 nhóm mức sống phân nhóm trên cơ sở mức chi tiêu trong từng khu vực kinh tế-chính trị, 1998 Chung Tổng số 1. Cơ quan quản lý nhà nước, an ninh, quốc phòng 2. Doanh nghiệp nhà nước Nghèo 100,0 100,0 12,1 3,4 Cận nghèo 17,2 7,6 100,0 2,3 7,5 Giàu Trung bình 17,7 12,4 Khá giả 20,2 27,2 12,2 18,0 60,0 32,8 49,4 3. Cơ quan Đảng, đoàn thể, hiệp hội 100,0 0,0 10,3 0,0 25,2 64,4 4. Hợp tác xã 5. Doanh nghiệp tư nhân 100,0 100,0 40,7 10,5 0,0 17,3 40,7 16,2 18,6 22,9 0,0 33,1 6. Hộ sản xuất kinh doanh nhỏ 100,0 18,1 21,4 22,3 20,5 17,1 7. Hỗn hợp 8. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài 100,0 100,0 0,0 0,0 13,9 7,8 28,1 12,6 8,2 12,8 49,8 66,8 9. Liên doanh 100,0 9,0 15,7 22,7 22,3 30,3 78 Nguồn: Tổng cục Thống kê. VIE/95/043. Điều tra Mức sống Dân cư Việt Nam 1997-1998. Hà Nội, 8/1999. Bảng 5.4. Phân bố lao động làm công, làm thuê theo khu vực kinh tế-chính trị trong từng nhóm mức sống phân nhóm trên cơ sở mức chi tiêu, 1998 Chung Tổng số Nghèo Cận nghèo Trung bình Khá giả Giàu 100,0 12,1 17,2 17,7 20,2 32,8 100,0 19,8 100,0 5,5 100,0 8,8 100,0 13,9 100,0 26,7 100,0 29,9 14,5 1,9 2,8 0,0 6,3 1,1 10,0 0,0 12,9 2,3 26,5 3,6 0,1 0,4 0,0 0,3 0,1 0,0 10,8 30,5 9,4 47,1 10,9 38,0 9,9 38,4 12,2 30,9 10,9 15,9 7. Hỗn hợp 0,4 0,0 0,4 0,7 0,2 0,7 8. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài 9. Liên doanh 1,3 6,8 0,0 5,0 0,6 6,2 1,0 8,7 0,9 7,5 2,7 6,2 13,9 29,8 27,8 17,1 6,3 3,7 1. Cơ quan quản lý nhà nước, an ninh, quốc phòng 2. Doanh nghiệp nhà nước 3. Cơ quan Đảng, đoàn thể, hiệp hội 4. Hợp tác xã 5. Doanh nghiệp tư nhân 6. Hộ sản xuất kinh doanh nhỏ 10. Khác Nguồn: Tổng cục Thống kê. VIE/95/043. Điều tra Mức sống Dân cư Việt Nam 1997-1998. Hà Nội, 8/1999. Bảng 5.5. Phân bố lao động của 5 nhóm mức sống theo kết cấu kinh tế chính trị, 1998 Các thành phần trong kết cấu kinh tế chính trị Chung Cơ quan quản lý nhà nước, an ninh, quốc phòng Doanh nghiệp nhà nước Cơ quan Đảng, đoàn thể, hiệp hội Hợp tác xã Doanh nghiệp tư nhân Hộ sản xuất kinh doanh nhỏ Hỗn hợp Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Liên doanh Nguồn: Tổng cục Thống kê. 1999. Chung Nghèo 100,0 100,0 12,1 3,4 Cận nghèo 17,2 7,6 Trung bình 17,7 12,4 Khá giả 20,2 27,2 Giàu 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 2,3 0,0 40,7 10,5 18,1 0,0 0,0 7,5 10,3 0,0 17,3 21,4 13,9 7,8 12,2 0,0 40,7 16,2 22,3 28,1 12,6 18,0 25,2 18,6 22,9 20,5 8,2 12,8 60,0 64,4 0,0 33,1 17,1 49,8 66,8 100,0 9,0 15,7 22,7 22,3 30,3 32,8 49,4 Bảng 5.6. Phân bố thu nhập tiền công tháng theo kết cấu kinh tế chính trị, 2002 Các thành phần trong kết cấu kinh tế chính trị Tự làm cho gia đình Chung 100,0 Tổng tiền công nhận được trung bình 1 tháng (VND) Dưới 201.000- 401.000- 601.000Trên 201.000 400.000 600.000 800.000 800.000 77,0 18.9 2.9 0,7 0,5 79 mình Làm cho hộ khác Cơ quan nhà nước, an ninh, quốc phòng Cơ quan Đảng, tổ chức chính trị xã hội Doanh nghiệp nhà nước Thành phần kinh tế nhà nước khác Thành phần kinh tế tập thể Thành phần kinh tế tư bản tư nhân Thành phần kinh tế tư bản nhà nước Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Khác Chung 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 20,6 36,6 23,6 10,0 9,2 5,3 13,0 17,6 21,0 43,1 12,7 24,4 25,0 13,6 24,4 2,9 10,0 18,0 18,6 50,6 6,1 11,0 24,2 14,0 44,6 36,4 23,9 12,2 10,4 17,0 7,2 18,4 23,1 18,0 33,3 0,0 14,9 20,3 9,5 55,4 3,7 8,9 10,8 17,7 58,8 78,1 30,2 16,8 24,2 2,9 16,5 1,2 10,6 1,0 18,4 Nguồn: Lưu Hồng Minh. 2005. Phân tích kết quả Khảo sát VLSS2002. Chuyên đề KX.02.10. Bảng 5.7. Phân bố thu nhập tiền công tháng theo khu vực giai tầng, 2002 Khu vực giai tầng Công chức, viên chức, lực lượng vũ trang Trí thức Công nhân Nông dân Buôn bán, dịch vụ Khác Chung Chung 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Tổng tiền công nhận được trung bình 1 tháng (VND) Dưới 201.000- 401.000- 601.000Trên 201.000 400.000 600.000 800.000 800.000 8,4 20,0 16,9 11,8 42,9 4,3 11,9 59,6 18,5 0,0 30,2 6,8 27,4 27,1 26,1 75,0 24,2 15,0 25,3 8,2 23,3 25,0 16,5 22,1 15,1 2,7 12,3 0,0 10,6 51,9 20,3 2,3 19,8 0,0 18,4 Nguồn: Lưu Hồng Minh. 2005. Phân tích kết quả Khảo sát VLSS2002. Chuyên đề KX.02.10. Bảng 5.8. Phân bố thu nhập tiền công tháng theo phân loại nghề nghiệp của Tổng cục Thống kê, 2002 Nghề nghiệp theo phân loại của Tổng cục thống kê Lãnh đạo các cấp, lực lượng vũ trang Nhà chuyên môn kỹ thuật bậc cao Nhà chuyên môn kỹ thuật bậc trung Nhân viên sơ cấp Chung 100,0 Tổng tiền công nhận được trung bình 1 tháng (VND) Dưới 201.000- 401.000- 601.000Trên 201.000 400.000 600.000 800.000 800.000 12,3 26,9 19,3 10,2 31,3 100,0 2,9 2,9 10,0 16,7 67,4 100,0 5,1 9,1 18,1 25,4 42,4 100,0 5,7 16,3 17,6 15,9 44,4 80 Nhân viên dịch vụ, buôn bán, bảo vệ Lao động có kỹ thuật trong nông lâm ngư Thợ thủ công Thợ có kỹ thuật Lao động giản đơn Khác Chung 100,0 11,8 20,6 22,6 15,1 30,0 100,0 43,4 18,5 14,2 10,9 13,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 9,3 4,1 45,1 0,0 30,2 24,9 8,1 29,5 75,0 24,2 27,6 13,4 14,1 25,0 16,5 17,1 16,5 5,8 0,0 10,6 21,2 58,0 5,5 0,0 18,4 Nguồn: Lưu Hồng Minh. 2005. Phân tích kết quả Khảo sát VLSS2002. Chuyên đề KX.02.10. 5.4. KẾT CẤU XÃ HỘI: MỘT PHÂN TÍCH ĐỊNH TÍNH Kết cấu xã hội hay cấu trúc giai tầng ở Việt Nam hiện nay đã định hình tương đối rõ ràng. Nhìn chung, đặc biệt trong giai đoạn đầu của cải cách, mọi khối dân cư đều được hưởng lợi từ Đổi Mới. Song, mức độ hưởng lợi là khác nhau ở mức đáng kể, và sự khác nhau này có xu hướng ngày càng tăng. Đến giữa và cuối những năm 1990 bối cảnh xã hội của Việt Nam đã thay đổi sâu sắc. Vào thời điểm này, Đổi Mới đã tiến hành khoảng hơn 10 năm, giải quyết được cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội những năm 1970-1980, nhưng cũng làm thay đổi mạnh mẽ kết cấu xã hội. Đã hoàn thành một giai đoạn quá độ cho nền kinh tế: những cơ sở của kinh tế thị trường ngày càng được xác lập, những cơ chế của nền kinh tế kế hoạch tập trung bao cấp trở nên yếu đi nhiều. Điều này tạo nên một cơ sở kinh tế khác cho kết cấu xã hội. Thập niên những năm 2000, sự biến đổi còn sâu sắc hơn nữa, những kết cấu xã hội thì ngày càng trở nên “đã an bài” hơn: người giàu ngày càng trở nên giàu có với những cơ hội làm giàu chưa từng thấy thậm chí ngay cả so sánh với những nước phát triển, tầng lớp trung lưu và nghèo ngày càng khó thay đổi “thân phận” hơn. Phân bố thu nhập theo ngành nghề trở nên rất khác nhau: xuất hiện những ngành nghề đặc quyền đặc lợi. Những giai tầng và nhóm được lợi nhiều nhất trong Đổi Mới và chuyển đổi bao gồm doanh nhân và quản lý kinh doanh (cả nhà nước lẫn tư nhân); giới thực lợi (có thu nhập từ tài sản: nhà cho thuê, lợi tức); công chức (lĩnh vực đảng, ba ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp, đoàn thể xã hội); các ngành dịch vụ xã hội (khoa học, giáo dục và y tế); công nhân viên có kỹ thuật trong các khu vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ tiên tiến. Những giai tầng và nhóm được hưởng lợi ít hơn bao gồm: nông dân ít đất và không kinh doanh; người dân tộc; người già không có bảo đảm xã hội; thanh niên và lao động trẻ có thu nhập thấp hoặc không kiếm được việc làm tốt; người tàn tật và không có sức lao động; công nhân viên kỹ năng thấp trong các khu vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ thu nhập thấp; người ngoài lề xã hội. Mức chênh lệch xã hội chưa phải là quá lớn, song sự chênh lệch này không thể hiện rõ tính chức năng và hỗ trợ cho phát triển. Điều đáng báo động là sự hưởng lợi mang tính trục lợi là phổ biến và ở mức độ cao. 81 Lợi ích kinh tế của các chủ thể tham gia vào hệ thống kinh tế-xã hội ngày càng trở nên khác biệt và xung đột nhau, sự bất bình đẳng tăng lên và ngày càng trở nên khó đảo ngược, nếu không có những cam kết chính trị đủ mạnh. Các quyền sở hữu và sự phân bố tài sản, tài nguyên đã trở nên rõ nét. Xuất hiện xu hướng trên là vì đã diễn ra quá trình phân bố lại cũng như tái sản xuất mới đối với ba nguồn lực cơ bản của một xã hội: quyền lực, kinh tế và tri thức. Các giai tầng nắm được những nguồn lực nói trên trở nên có vị thế cao hơn. Gắn với kết cấu giai tầng là vấn đề tái sản xuất nó và sự di động xã hội. Các giai tầng tỏ ra khép kín hơn trước, di động xã hội liên thế hệ trở nên khó khăn hơn trước. Quá trình Đổi Mới đã bao hàm quá trình phân phối lại tài nguyên, trước hết là tài nguyên kinh tế, nhân lực và tri thức. Tài nguyên kinh tế, chẳng hạn như đất đai, nhà cửa, tiền, và các tài sản khác, đã được tái phân phối mãnh liệt trong thập niên 1990 và cho đến nay, bằng nhiều kênh, chính thức hay hợp pháp cũng như phi chính thức hay bất hợp pháp, kể cả bán chính thức và bán hợp pháp nữa. Hộp 5.1. Những “câu chuyện” mới trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: Người giàu Tổng tài sản của 50 phụ nữ giàu nhất trên thị trường chứng khoán tính tới cuối 2007 đạt 22.600 tỷ đồng, gấp hơn 2 lần so với lần đầu tiên VnExpress công bố Top 50 phụ nữ giàu cách đây một năm. Người đứng đầu là bà Đặng Ngọc Lan, phu nhân Phó chủ tịch Ngân hàng ACB Nguyễn Đức Kiên. Chỉ tham gia góp vốn vào ACB với tư cách phu nhân của Phó chủ tịch, song bà Đặng Ngọc Lan trở thành người phụ nữ giàu có nhất trên sàn chứng khoán 2007, với số tài sản 1.701,11 tỷ đồng, vượt qua nhiều sếp nữ đang trực tiếp quản lý, điều hành doanh nghiệp. Trong Top 100, bà Lan đứng thứ 9. Vị trí của bà Lan trong Top 50 và Top 100 của năm 2006 lần lượt là 4 và 15. Theo đà đi lên nói chung của thị trường trong năm 2007, tổng tài sản của các sếp nữ cũng phình to hơn. Trong tổng số 2.900 cá nhân có tên trong cáo bạch của gần 240 công ty niêm yết mà VnExpress khảo sát, nữ giới chiếm gần một phần ba (khoảng 930 người) với số vốn nắm giữ lên đến 25.710 tỷ đồng. Riêng 50 người đứng đầu sở hữu một lượng cổ phiếu niêm yết tương đương 22.600 tỷ đồng, tăng đáng kể so với mức 10.600 tỷ đồng tính đến cuối 2006. Muốn lọt vào Top 50 của 2007, mỗi quý bà, quý cô phải có ít nhất 83 tỷ đồng (mức sàn của năm 2006 chỉ là 24,7 tỷ đồng). 50 phụ nữ giàu nhất trên thị trường chứng khoán 2007. VnExpress 25/1/2008. Hộp 5.2. Những “câu chuyện” mới trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: Người công nhân di cư Sau khi về Thái Bình ăn Tết, chị Trần Thị Hương (Công ty Freetrend Khu chế xuất Linh Trung Thủ Đức TPHCM) đã không trở lại làm việc nữa. Chị Hương tâm sự: “Lương công nhân chỉ hơn 1 triệu đồng/tháng, nếu tăng ca thì được khoảng 1,6-1,7 triệu đồng. Mức lương này không đủ sống nên tôi quyết định ở lại quê tìm việc khác”. Chị Hương đã từng phải rứt ruột gửi đứa con nhỏ 2 tuổi về quê để cho bố mẹ nuôi. Anh Thành cho biết, 5 năm vào TPHCM làm công nhân nhưng chẳng dành dụm được gì vì lương công nhân bèo bọt, nhất là thời gian gần đây, giá cả tăng chóng mặt, cuộc sống của anh thường xuyên thiếu trước hụt sau. Giờ tìm được việc ở quê, lương có thể thấp hơn nhưng chi phí rẻ, lại được gần nhà để chăm sóc mẹ già. Thành phố Hồ Chí Minh: Công nhân rùng rùng bỏ việc về quê. VietnamNet 22/2/2008. Cũng như tài nguyên kinh tế, trong thời kỳ bao cấp, tài nguyên nhân lực về cơ bản thuộc quyền chiếm hữu, quản lý và phân phối của Nhà nước. Sau Đổi Mới, tài nguyên này dần dần trở thành 82 thuộc về chính người lao động, họ có thể tự quyết định sử dụng cho bản thân và gia đình, trao đổi trên thị trường lao động, ở đó những người mua tư nhân ngày càng tăng lên. Tương tự, tài nguyên tri thức ngày càng trở nên có giá trị trên thị trường, đem lại lợi ích ngiêng về cho những người nắm giữ chúng, đó là giới trí thức. Chi phí học tập và chữa bệnh ngày càng trở nên đắt đỏ, người cung cấp dịch vụ tri thức ngày càng khá giả (giảng viên, chủ xuất bản, các nhà cung cấp dịch vụ internet, các nhà cung cấp giải pháp công nghệ và sản phẩm công nghệ cao như bác sĩ, dược phẩm, viễn thông, v.v.). Đây là những dấu hiệu về sự tái phân phối tài nguyên này. Việc công nhận từng bước chủ quyền đất cho nông dân vào cuối những năm 1980 đầu những năm 1990 đã đem lại cho họ quyền làm chủ đối với một loại tài nguyên cơ bản, điều này đem lại cho họ một vị thế xã hội mới. Tuy nhiên, nhiều người trong số họ đã phải đem đất đai cầm cố hoặc bán đứt. Mặt khác, tương quan giá trị của loại tài nguyên này cũng biến đổi rất nhiều trong bản thân nó cũng như so với các loại tài nguyên khác. Do đó, vị thế xã hội của người nông dân, nhất là người có nền kinh tế nông nghiệp nhỏ, đã bị sút giảm tương đối từ cuối thập niên 1990 đến nay. Điều này lý giải một phần vì sao Tây Nam Bộ được xem là vùng có mức sống cao trong thập niên 1980 (khi thu nhập của khối dân cư phi nông nghiệp giảm sút nghiêm trọng) đã trở nên vùng nghèo tương đối từ giữa thập niên 1990 trở đi. Việc xáo trộn tài nguyên đất đai suốt từ sau 1975, việc tài nguyên đất đai trở nên có giá trị hơn khi công nghiệp hóa được đẩy mạnh, việc đất đai được đưa vào vòng trao đổi thương mại và phát triển phức tạp; tất cả những yếu tố này hiện nay đang tạo nên những xung đột lợi ích nghiêm trọng. Tình hình khiếu kiện đất đai trên cả nước, đặc biệt ở vùng Nam Bộ, diễn ra hơn 15 năm qua là biểu hiện của ba yếu tố trên. Người ta cũng nhận diện ngày càng rõ một giới chủ đất (kèm theo bất động sản) ở mọi nơi: sở hữu lớn ruộng đất, trang trại lâm nghiệp hay cây công nghiệp, (tham gia) sở hữu khu công nghiệp, sở hữu các khu đất đô thị có giá trị lớn. Những người chủ đất hình thành từ nhiều xuất xứ: công chức, doanh nhân trong nước và nước ngoài, cổ đông, tiểu chủ, nông dân có nhiều đất, người đầu cơ, người may mắn, ... Phân phối lại tài nguyên đã tạo ra kết cấu xã hội hoàn toàn mới. Xã hội có thể chia thành những người có nhiều tài nguyên hơn (bất kể loại nào) và những người có ít tài nguyên hơn, hoặc không có tài nguyên gì cả, ngoại trừ sức lao động của chính họ với một giá thấp vì không có tri thức, kỹ năng, sức khoẻ. Ngày nay, sau gần 25 năm Đổi Mới đã ngày càng thấy rõ một "dàn xếp xã hội" mới (social arrangement): giới cán bộ công chức, giới quản lý kinh tế (nhà nước hay tư nhân), trí thức, tiểu chủ, công nhân, nông dân, những người ngoài lề. Xuất hiện những thuật ngữ mới dùng để chỉ những vị thế xã hội-nghề nghiệp mới. Bên trong những giai tầng này lại phân chia thành nhiều nhóm nhỏ, song có những ảnh hưởng và ý nghĩa xã hội không nhỏ. Đổi Mới là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế liên tục trong 25 năm qua, điều kiện cơ bản để bảo đảm ổn định. Nhưng tăng trưởng kinh tế thông qua công cụ thị trường đã làm thay đổi hệ giá trị và đạo đức, tạo ra một kết cấu xã hội mới khác về rất nhiều mặt với xã hội xã hội chủ nghĩa tập trung quan liêu bao cấp trước kia. 83 5.5. ĐIỀU CHỈNH KẾT CẤU XÃ HỘI: TÓM TẮT VÀ KIẾN NGHỊ Kết cấu xã hội (trong đó bất bình đẳng là một thuộc tính cơ bản) là một thành tố tạo nên bộ khung của kiến trúc xã hội. Do đó, một kết cấu xã hội với ít tính bất bình đẳng vừa là mục tiêu vừa là điều kiện sống còn của một tổ chức xã hội. Quá trình Đổi Mới đã thay đổi sâu sắc kết cấu xã hội ở Việt Nam. Trong một diễn biến chung về mức sống cùng tăng lên đối với đại đa số dân cư, bất bình đẳng đã tăng lên nhanh chóng. Từ một xã hội tương đối bình đẳng nghèo, Việt Nam đã trở thành một quốc gia có mức bất bình đẳng trung bình, có những xu hướng không thể xem là bình thường trong bối cảnh lý luận và chính sách phát triển quốc tế hiện nay. Việt Nam đã có một kết cấu giai tầng tương đối giống với nhiều quốc gia trong khu vực có mức bất bình đẳng, cả những quốc gia mang tính xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc lẫn những quốc gia phi xã hội chủ nghĩa. Tác giả cuốn sách này kiến nghị cần sớm hoạch định một chiến lược nhằm điều chỉnh mạnh mẽ kết cấu xã hội hiện nay. Muốn thế, như kinh nghiệm và nghiên cứu quốc tế đã chỉ rõ, điều kiện trước tiên là có một cam kết chính trị thực sự ở cấp cao, kết hợp với việc triển khai một hệ thống công cụ chính sách kinh tế và chính sách xã hội đồng bộ. Đường lối và hệ thống chính sách cần được tham khảo các nền tảng lý luận mà kinh nghiệm phát triển quốc tế đã đúc kết (Xem Bảng 1.1 Chương Một). Hộp 5.3. Những “câu chuyện” mới trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: Người nông dân ở một làng cách Hà Nội 20 km Tiền công lao động trong khu vực sản xuất ngoài nông nghiệp (buôn bán, làm thuê, dịch vụ sửa chữa, vận chuyển vật liệu xây dựng) 50-80.000đ/ngày, tiền công lao động khu vực sản xuất nông nghiệp (làm đất, cấy, bón phân, làm cỏ, gặt lúa) 20-30.000đ/ngày. “Chăn nuôi hiện nay lấy công làm lãi, chi phí đầu tư ban đầu nhiều nhưng thu về ít, nuôi không khéo gặp dịch bệnh thì mất hết. Tiền giống, thức ăn, thuốc phòng dịch giá cao, nhưng giá thịt, trứng không tăng” (nam, 48 tuổi, chủ hộ, mức sống trung bình). Nhóm hộ gia đình thuần nông có mức thu nhập thấp (hộ trung bình và nghèo) thu nhập trung bình năm 2,5-3,5 triệu đồng/người. Nhóm hộ gia đình có mức thu nhập khá giả phi nông nghiệp thu nhập trung bình năm 8-10 triệu đồng/người. "Chưa bao giờ chênh lệch mức sống giữa các gia đình lại có khoảng cách xa như hiện nay. Trước Đổi Mới, kinh tế của dân ở đây tương đối đồng đều nhau, anh này hơn anh kia chỉ là dư thóc, gạo hoặc một số đồ đạc trong nhà. Nhưng nay khác rồi, khoảng cách giàu nghèo là một trời một vực. Người ta so bì nhau không phải bằng thóc gạo mà là nhà cao cửa rộng, cùng tiện nghi sinh hoạt đắt tiền, có sổ tiết kiệm ở ngân hàng" (nam, nông dân, 67 tuổi). Nguyễn Đức Chiện, 2006. Chuyên đề Đề tài KX02.10. 84 CHƯƠNG SÁU. PHÚC LỢI XÃ HỘI Trong mọi xã hội, phúc lợi xã hội là một thành phần hữu cơ của tổ chức xã hội, nó đáp ứng những chức năng xã hội về cơ bản là tương tự nhau. Điều khác nhau chỉ là ở cách thức và hình thái tổ chức của phúc lợi xã hội mà thôi. Thời kỳ Đổi Mới ở Việt Nam thực chất là sự chuyển đổi từ tổ chức xã hội dựa trên nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang dựa trên nền kinh tế thị trường. Những thành tựu của Đổi Mới, như tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định xã hội, mức bất bình đẳng chưa quá cao, đều có sự đóng góp của hệ thống phúc lợi xã hội có từ trước đó, cũng như những cố gắng duy trì sự ổn định của hệ thống này trong suốt thời kỳ chuyển đổi và phát triển. 6.1. KHÁI NIỆM PHÚC LỢI XÃ HỘI Thuật ngữ phúc lợi xã hội được dùng trong văn kiện chính thức của Đảng lần đầu tiên là trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội Đảng lần thứ IX: "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội." (Đảng cộng sản Việt Nam, 2001, trang 88). Tuy nhiên, gần đây các tài liệu chính thức của Nhà nước có xu hướng sử dụng thuật ngữ “an sinh xã hội”. Nếu nhìn vào lịch sử vấn đề, ta sẽ thấy nhiều thuật ngữ khác nhau có liên quan: an toàn xã hội, bảo đảm xã hội, chính sách xã hội, hệ thống phòng chống rủi ro xã hội, v.v. (Bùi Thế Cường, 2003b). Trong cuốn sách này, phúc lợi xã hội được xem là một định chế nhằm đảm bảo thoả mãn những nhu cầu xã hội thiết yếu của các tầng lớp dân cư theo những điều kiện của văn hoá/ cấu trúc xã hội. Phúc lợi xã hội liên quan đến việc ổn định và phân phối các hoàn cảnh sống của con người thuộc các nhóm xã hội khác nhau trong lĩnh vực thu nhập, việc làm và phát triển nghề nghiệp, nhà ở, đi lại, chăm sóc sức khoẻ, gia đình, và học tập; đương đầu với các rủi ro và biến cố đời sống; trên cơ sở mở rộng bình đẳng và công bằng trong một bối cảnh lịch sử và văn hoá/ cấu trúc xã hội nhất định. Những hoàn cảnh sống trên hợp thành không gian hay thế giới phúc lợi con người (Bùi Thế Cường, 2001 và 2003b). Cuối thập niên 1990, Ngân hàng Thế giới công bố Chiến lược hành động về bảo đảm xã hội, đưa ra tiếp cận lý luận mới của Ngân hàng Thế giới trong lĩnh vực này dựa trên khái niệm “quản lý rủi ro xã hội” (Robert Holzmann, 2003). Có thể xem “các rủi ro xã hội” như là mặt trái của “phúc lợi xã hội”: các rủi ro xã hội gây nên trạng thái không có hoặc thiếu phúc lợi xã hội, phúc lợi xã hội nhằm tránh cho con người, các cộng đồng và xã hội khỏi các rủi ro xã hội. Holzmann đã khái niệm hóa vấn đề “nhận diện và nguyên nhân các rủi ro xã hội” và “chiến lược/ cơ chế quản lý rủi ro xã hội” (Holzmann, 2003, trang 55 và 61. Xem Bảng 6.1). Sơ đồ lý luận này là công cụ tư duy tốt cho các nhà nghiên cứu và quản lý liên quan đến lĩnh vực phúc lợi xã hội. Bảng 2.3 (Chương Hai) mô tả cấu trúc của Đổi Mới, trong đó xem củng cố và mở rộng hệ thống phúc lợi xã hội như là một trong 6 định hướng chính sách cơ bản của Đổi Mới. Sơ đồ 2.3 đó cũng có thể là một công cụ phân loại hóa tốt cho việc định hình công tác phúc lợi xã hội trong logic và tiến trình Đổi Mới. 85 Bảng 6.1. Sơ đồ khái niệm hóa loại hình rủi ro xã hội và cơ chế quản lý rủi ro xã hội Lĩnh vực rủi ro Sức khỏe Chu trình sống Kinh tế Xã hội Chính trị Thiên tai/ biến động môi trường Mức độ, phạm vi rủi ro Cá nhân/gia đình Cộng đồng/xã hội Bệnh tật, ốm đau. Dịch bệnh. Mất sức lao động. Sức khỏe xã hội. Sinh đẻ. Quá độ dân số. Tuổi già. Kỷ nguyên dân số Chết. vàng. Già hóa dân số. Thất nghiệp. Suy thoái, khủng Phá sản. hoảng kinh tế. Mất mùa. Dịch bệnh. Dịch bệnh. Trật tự trị an. Rối loạn xã hội. Tội phạm. Chính sách. Chiến lược và cơ chế quản lý rủi ro Ba chiến lược quản lý rủi ro: phòng ngừa, giảm thiểu, khắc phục. Sáu khu vực/ chủ thể quản lý rủi ro: tổ chức đa phương quốc tế, Nhà nước, thị trường, xã hội dân sự “hiện đại”, phi chính thức cổ truyền, gia đình. Xung đột. Ba công cụ quản lý rủi ro: Chiến tranh. tài chính/ thu nhập, bảo hiểm, hỗ trợ chính trị-xã Thiên tai. Thảm họa môi trường. hội. Biến đổi khí hậu. Thiên tai. Thảm họa môi trường. Biến đổi khí hậu. Nguồn: Bùi Thế Cường phát triển dựa trên 2 sơ đồ của R. Holzmann (Holzmann, 2003, trang 55 và 61). 6.2. PHÚC LỢI XÃ HỘI TRONG XÃ HỘI CÔNG NGHIỆP Quá trình công nghiệp hóa của mọi quốc gia diễn ra từ đầu thế kỷ XIX đến nay cho thấy tầm quan trọng của phúc lợi xã hội. Mô hình chủ nghĩa tư bản công nghiệp kiểu Manchester (chủ nghĩa tư bản hoang dã, vô luật pháp, thiếu sự kiểm soát của nhà nước và xã hội) đã được Mác, Engels và nhiều tác giả khác mô tả và phê phán sâu sắc. Trong toàn bộ lịch sử thế giới từ đó cho đến nay, mô hình này đã gây ra nhiều hậu quả khốc liệt đối với con người và xã hội. Kiểu chủ nghĩa tư bản này đã xuất hiện ở nhiều nơi, nhiều thời điểm, thậm chí ngay cả hiện nay tại những nơi không ngờ nhất (chẳng hạn, ở nước Nga đầu thập niên 1990 dưới chế độ của Tổng thống Elsin, ở một số hầm mỏ và lò gạch trên lãnh thổ Trung Quốc với điều kiện lao động nô lệ như đã được phản ánh trên công luận Trung Quốc và thế giới). Tuy nhiên, trong lịch sử hiện đại, cũng không có quốc gia nào ở bất kỳ thời điểm nào mà toàn bộ xã hội lại tồn tại dưới sự thống trị toàn diện và mang tính lịch sử của mô hình thuần túy đó cả. Nói cách khác, mô hình này chỉ tồn tại có tính cục bộ (về mặt không gian và thời gian). Ngay cả trong thời đại Mác viết về chủ nghĩa tư bản kiểu Manchester, thì trong bộ Tư bản Mác đã nói đến các hoạt động thanh tra lao động công xưởng, vai trò của Nghị viện Anh và cuộc đấu tranh của công nhân và trí thức Anh đối với trạng thái tư bản chủ nghĩa hoang dã này. Khi hình thái tư bản chủ nghĩa Manchester đang nổi lên ở Anh và sau đó ở lục địa Tây Âu, thì khắp những nơi ấy vẫn còn phổ biến rộng rãi hình thái sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp cổ truyền. Phần lớn dân cư vẫn còn sinh sống trong sự che chở của các hình thái phúc lợi nông thôn và phường hội. 86 Để hỗ trợ cho hình thái tư bản chủ nghĩa đang nổi lên, các xã hội và Nhà nước Tây Âu và Anh đã sáng tạo nên hệ thống phúc lợi xã hội hiện đại phù hợp với thời đại mới. Đi đầu trong công việc này là các chính sách xã hội mà Thủ tướng Đức Bismark đã cho tiến hành trong những năm 1860-1870 nhằm hình thành hệ thống bảo hiểm xã hội Đức nổi tiếng cho đến ngày nay. Còn ở nước Anh thì chủ nghĩa Fabian (còn gọi là chủ nghĩa xã hội tư sản) đã có công lao lớn trong việc yêu sách Nhà nước xây dựng nên hệ thống phúc lợi của nước Anh. Những sáng tạo này nhanh chóng được học hỏi rộng rãi trong khắp thế giới phương Tây, để tạo nên mô hình gọi là Nhà nước phúc lợi (welfare state), kết hợp giữa hệ thống chính trị dân chủ với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và phúc lợi xã hội. Một số nước học tập sau thậm chí còn tạo ra được hệ thống phúc lợi xã hội tốt hơn cả Anh và Đức vốn là những nước đã đi trước trong hướng phát triển này. Có thể kể ra Hà Lan và các nước Bắc Âu (G. EspingAnderson, 1990). Trong nhiều thập niên tồn tại của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, song song với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, các nước này đã rất chú trọng đến mục tiêu tăng cường phúc lợi xã hội cho các tầng lớp dân cư lao động, giải quyết được vấn đề đảm bảo cho toàn dân các nhu cầu thiết yếu (lương thực thực phẩm, ăn mặc, nhà ở, giao thông, việc làm, học tập, chữa bệnh), bảo hiểm xã hội cho người lao động và gia đình họ trước những rủi ro xã hội. 6.3. MÔ HÌNH PHÚC LỢI XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Trong Chương Hai (Mục 2.2) đã đưa ra sơ đồ về "ba khuôn mẫu văn hoá-xã hội" ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể hóa sơ đồ này vào thực tế phúc lợi xã hội, ta sẽ thấy cũng tồn tại ba kiểu phúc lợi xã hội. Bảng 6.2. mô tả ba kiểu phúc lợi xã hội cùng tồn tại trong hiện thực Việt Nam hiện nay. Đó là: phúc lợi cổ truyền, phúc lợi xã hội của kinh tế xã hội chủ nghĩa kế hoạch hoá tập trung và phúc lợi xã hội của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cột 2 trình bày những chủ thể hành động trong không gian phúc lợi xã hội. Cột 3 thể hiện những đặc trưng (nguyên tắc) vận hành chính của mỗi loại hình. Trong kiểu phúc lợi cổ truyền, gia đình và họ hàng, làng xã và các định chế trong lòng nó, đóng vai trò chủ yếu trong việc chăm sóc phúc lợi. Nhà nước cũng gây ảnh hưởng thông qua các bộ luật hay chỉ dụ của triều đình. Những nguyên lý cơ bản của kiểu tổ chức phúc lợi xã hội trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa kế hoạch hoá tập trung bao gồm: o Bảo đảm xã hội toàn dân thông qua việc gắn người dân vào hệ thống phúc lợi xã hội khu vực nhà nước và tập thể. o Phát triển bảo hiểm xã hội cho người lao động trong khu vực nhà nước và một hệ thống bảo đảm xã hội cho khu vực tập thể (hợp tác xã), đặc biệt ở nông thôn. o Nhấn mạnh vào kế hoạch hoá và quản lý của nhà nước trung ương đối với phúc lợi xã hội. Các nguyên lý của tổ chức phúc lợi xã hội trong nền kinh tế thị trường mang tính xã hội chủ nghĩa bao gồm: 87 o Nhà nước đóng vai trò nòng cốt, đồng thời thu hút và phát huy sự tham gia của nhiều thành phần, nhiều lĩnh vực vào phúc lợi xã hội. o Mở rộng bảo đảm xã hội và bảo hiểm xã hội cho toàn dân, cho mọi khu vực xã hội. o Tăng cường tự chủ kinh tế và hành chính cho các tổ chức bảo hiểm xã hội nhà nước. Khái quát hóa các hoạt động phúc lợi xã hội trong thời kỳ Đổi Mới, nhìn chung, có thể thấy chúng được tổ chức và phát triển xung quanh 4 trục cơ bản sau đây. o Nhà nước ban hành các chính sách và tiến hành các hoạt động nhằm xây dựng ba khu vực chính của hệ thống phúc lợi xã hội, đó là: ưu đãi xã hội, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, và cứu trợ xã hội. o Nhà nước nỗ lực hình thành các quan hệ lao động trong điều kiện mới, như xây dựng và thực thi Luật Doanh nghiệp, Luật Lao động. o Nhà nước tạo dựng khuôn khổ pháp lý và chính sách cho các hoạt động của các chủ thể trong lĩnh vực phúc lợi xã hội (Nhà nước, đoàn thể xã hội, NGO, doanh nghiệp, nhóm hoạt động, v.v...). o Nhà nước xây dựng khuôn khổ và trực tiếp thực thi các chương trình phúc lợi cho các nhóm xã hội yếu thế (trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi, người tàn tật, người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, ...). Bảng 6.2. Ba mô hình phúc lợi xã hội ở Việt Nam Mô hình Phúc lợi cổ truyền Phúc lợi xã hội dựa trên kinh tế kế hoạch hoá xã hội chủ nghĩa (từ cuối những năm 1950 ở miền Bắc và từ cuối những năm 1970 trên cả nước đến cuối những năm 1980) Phúc lợi xã hội dựa trên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (từ cuối những năm 1980 đến nay) Thiết chế o Gia đình o Gia đình mở rộng, họ hàng o Cộng đồng (hàng xóm, làng xã, các hiệp hội, tổ chức tôn giáo, v.v...) o Phường hội o Nhà nước o Nhà nước o Cơ quan/xí nghiệp nhà nước o Hợp tác xã o Đoàn thể quần chúng o Cộng đồng o Tổ chức quốc tế o Nhà nước o Tổ chức kinh doanh/đơn vị cơ quan nhà nước và không nhà nước o Đoàn thể quần chúng o Gia đình o Cộng đồng o Xã hội dân sự o Cá nhân o Tổ chức quốc tế Nguồn: Bùi Thế Cường, 2001, 2003b. Đặc điểm o Phúc lợi làng xã: gia đình và gia đình mở rộng đóng vai trò đầu tiên, nhưng dòng họ và các thiết chế cộng đồng có vai trò rất quan trọng. o Nhà nước đưa ra khuôn khổ luật pháp và các điều chỉnh đối với phúc lợi làng xã. o Bảo đảm xã hội toàn dân thông qua việc gắn người dân vào hệ thống phúc lợi xã hội khu vực nhà nước và tập thể. o Phát triển bảo hiểm xã hội cho người lao động trong khu vực nhà nước và một hệ thống bảo đảm xã hội cho khu vực tập thể, đặc biệt ở nông thôn. o Nhấn mạnh vào kế hoạch hoá và quản lý của nhà nước trung ương đối với phúc lợi xã hội. o Nhà nước đóng vai trò nòng cốt, đồng thời thu hút và phát huy sự tham gia của mọi thành phần, lĩnh vực vào phúc lợi xã hội. o Thừa nhận và nâng cao vai trò của khu vực tư nhân. o Tăng cường vai trò của nhà nước địa phương. o Đề cao vai trò của hộ gia đình. o Mở rộng bảo đảm xã hội và bảo hiểm xã hội cho toàn dân, cho mọi khu vực xã hội. o Tăng cường tự chủ kinh tế và hành chính cho các tổ chức bảo hiểm xã hội nhà nước. o Mở rộng giúp đỡ quốc tế. 88 6.4. PHÚC LỢI XÃ HỘI: NHÌN TỪ PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG Trong Mục này, chúng ta tìm hiểu mối tương quan giữa chi phúc lợi và kết cấu xã hội dựa trên số liệu VLSS. Chi phúc lợi xã hội được phản ánh trong hai chỉ số: tỷ lệ người nhận phúc lợi trong mẫu dân cư khảo sát và mức thu nhập của dân cư từ phúc lợi xã hội. Thu nhập từ phúc lợi xã hội chủ yếu bao gồm thu từ bảo hiểm xã hội và cứu trợ xã hội. Kết cấu xã hội ở đây được phản ánh phần nào trong sự phân chia mẫu dân cư theo đô thị-nông thôn và theo 5 nhóm mức sống. 6.4.1. PHÚC LỢI XÃ HỘI TRONG DÂN CƯ Số người có thu nhập từ phúc lợi xã hội trong thời kỳ 1993-2002 tăng gấp rưỡi (từ 21,2% lên 32,0%). Trong đó, tỷ lệ người nhận thu nhập từ bảo hiểm xã hội và từ trợ cấp xã hội xấp xỉ gần 10% mỗi loại. Tỷ lệ người nhận thu nhập từ bảo hiểm xã hội ở đô thị gấp đôi ở nông thôn trong suốt thời kỳ 1993-2002. Nhưng tỷ lệ người nhận thu nhập từ cứu trợ xã hội ở nông thôn cao hơn ở đô thị, và xu hướng này tăng lên trong thời kỳ nói trên (Bảng 6.3). Không có sự khác biệt đáng kể trong tỷ lệ người nhận thu nhập từ phúc lợi xã hội theo 5 nhóm chi tiêu. Nhưng tỷ lệ người nhận thu nhập từ bảo hiểm xã hội ở nhóm 20% giàu gấp 4 lần nhóm 20% nghèo vào năm 2002 (17,0% so với 3,7%). Ngược lại, tỷ lệ người nhận thu nhập từ cứu trợ xã hội tăng lên từ các nhóm giàu hơn đến nghèo hơn (Bảng 6.4). Trong suốt thời kỳ chuyển đổi từ cuối những năm 1980, mức chi phúc lợi xã hội được giữ ở mức cao. Điều này đã đóng góp vào việc duy trì ổn định xã hội trong thời kỳ tăng trưởng nhanh. Thu nhập từ phúc lợi xã hội của dân cư nói chung đã tăng 3,5 lần trong thời kỳ 19932002, trong đó thu nhập từ bảo hiểm xã hội tăng 2,36 lần còn từ trợ cấp xã hội tăng 4,6 lần (Bảng 6.5). Lưu ý rằng trong cùng thời gian, mức tăng chi tiêu hoặc thu nhập nói chung chỉ khoảng 1,7 lần. Bảng 6.3. Tỷ lệ % người nhận thu nhập từ phúc lợi xã hội theo đô thị/nông thôn 1993 1998 Từ phúc lợi xã hội chung Chung 21,2 21,2 Đô thị 27,3 23,6 Nông thôn 19,7 20,5 Từ bảo hiểm xã hội Chung 13,7 11,2 Đô thị 20,7 18,1 Nông thôn 11,9 9,2 Từ trợ cấp xã hội Chung 9,9 9,6 Đô thị 11,8 7,8 Nông thôn 9,5 10,1 Nguồn: Tổng cục thống kê. Số liệu các VLSS. 2002 Thay đổi 1993/1998 (điểm %) Thay đổi 1998/2002 (điểm %) 32,0 34,7 31,2 +0 -3,7 +0,8 +10,8 +11,1 +10,7 9,6 15,3 7,9 -2,5 -2,6 -2,7 -1,6 -2,8 1,3 8,2 5,6 9,0 -0,3 -4,0 +0,6 1,4 -2,2 -1,1 89 Bảng 6.4. Tỷ lệ % người nhận thu nhập từ phúc lợi xã hội theo 5 nhóm chi tiêu 1993 Từ phúc lợi xã hội chung Chung 21,2 Nghèo 20,3 Cận nghèo 17,8 Trung bình 22,3 Khá giả 23,8 Giàu 22,0 Từ bảo hiểm xã hội Chung 13,7 Nghèo 9,1 Cận nghèo 9,6 Trung bình 15,4 Khá giả 17,5 Giàu 16,7 Từ trợ cấp xã hội Chung 9,9 Nghèo 12,6 Cận nghèo 9,8 Trung bình 9,8 Khá giả 8,4 Giàu 9,1 Nguồn: Tổng cục thống kê. Số liệu các VLSS. 1998 2002 21,2 19,0 17,7 21,9 24,6 22,7 32,0 30,8 29,1 30,9 33,3 35,9 11,2 3,7 8,1 11,0 15,9 17,4 9,6 3,7 6,1 8,9 12,2 17,0 9,6 9,2 8,7 11,7 10,3 7,9 8,2 14,2 8,7 7,6 6,0 4,5 Bảng 6.5. Thu nhập từ phúc lợi xã hội theo đô thị/nông thôn 1993 1998 2002 Thay đổi Thay đổi 1993/1998 (%) 1998/2002 (%) Từ phúc lợi xã hội chung (nghìn VND đầu người/ năm) Chung 52 117 181 +125 +55 Đô thị 100 205 314 +105 +53 Nông thôn 40 91 140 +128 +54 Trong đó: từ bảo hiểm xã hội (nghìn VND đầu người/ năm) Chung 47 96 111 +104 +16 Đô thị 95 186 216 +96 +16 Nông thôn 35 70 79 +100 +13 Trong đó: từ trợ cấp xã hội (nghìn VND đầu người/ năm) Chung 5 19 23 +280 +21 Đô thị 5 17 19 +240 +12 Nông thôn 5 19 24 +280 +26 Nguồn: Tổng cục thống kê. Số liệu các VLSS. 6.4.2. KẾT CẤU XÃ HỘI CỦA PHÚC LỢI XÃ HỘI 90 Trong cơ cấu phúc lợi xã hội, chiếm tỷ trọng cao nhất là chi cho bảo hiểm xã hội, gồm hưu trí và trợ cấp mất sức, tiếp theo là chi cho trợ cấp xã hội. Điều này cho thấy nguồn lực phúc lợi xã hội chủ yếu hướng vào các nhóm xã hội hưởng ưu đãi xã hội và chế độ bảo hiểm xã hội của Nhà nước. Tuy nhiên, đặc điểm nói trên đã có xu hướng thay đổi trong thời kỳ 1993-2002. Mức tăng trợ cấp xã hội đã cao hơn mức tăng bảo hiểm xã hội (4,6 lần so với 2,36 lần trong thời kỳ 19932002). Tỷ lệ thu nhập từ bảo hiểm xã hội năm 1993 chiếm tới 90,4% tổng thu nhập từ phúc lợi xã hội chung, giảm xuống còn 82,1% năm 1998 và 61,3% năm 2002. Trong khi đó, tỷ lệ này của thu nhập từ trợ cấp xã hội năm 1993 là 9,6%, năm 1998 là 16,2%, và năm 2002 là 12,7%. Trợ cấp từ các chương trình giảm nghèo và hỗ trợ của các tổ chức NGO ước tính vào năm 1993 chỉ bằng hơn 1% so với thu nhập của bảo hiểm xã hội và trợ cấp xã hội, nhưng vào năm 1998 đã lên tới 13% và năm 2002 có thể là hơn 20%. Điều này có nghĩa là các nhóm xã hội nghèo hơn hoặc các nhóm không hưởng ưu đãi xã hội và bảo hiểm xã hội Nhà nước đã nhận được nhiều hơn từ nguồn chi phúc lợi của xã hội. Bức tranh về tương quan phúc lợi xã hội với các nhóm mức sống khác nhau lại cho thấy một số xu hướng đáng lưu ý. Trong khi mức tăng thu nhập từ phúc lợi xã hội trong khoảng thời gian 1993-2002 là 3,5 lần trong toàn thể dân cư, thì con số này chỉ là 2,75 lần ở nhóm 20% nghèo, nhưng lại là 4,13 lần ở nhóm 20% giàu. Về mặt tuyệt đối, thu nhập từ phúc lợi xã hội năm 1993 của nhóm 20% giàu cao gấp 4,8 lần của nhóm 20% nghèo. Nhưng con số này đã là 7,4 lần năm 1998 và 7,2 lần năm 2002. Nhóm 20% giàu cũng tăng khoảng cách của nó trong thu nhập phúc lợi xã hội ngay cả với nhóm 20% trung bình: vào năm 1993 khoảng cách giữa hai nhóm này là 1,9 lần còn vào năm 2002 là 2,85 lần. Nhìn vào xu hướng thay đổi của cơ cấu thu nhập từ phúc lợi xã hội người ta có thể hiểu rõ hơn nguyên nhân dẫn đến đặc điểm nói trên, cũng như có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa chính sách. Xét về thu nhập từ bảo hiểm xã hội, nhóm 20% nghèo đã không nhận được nhiều hơn trong thời kỳ 1993-2002, trong khi đó khoản thu này đã tăng lên 3 lần ở nhóm 20% giàu. Do đó, vào năm 1993 thu nhập từ bảo hiểm xã hội của nhóm 20% giàu cao gấp 5,2 lần so với của nhóm 20% nghèo, con số này là 12,6 lần vào năm 1998 và 14,9 lần vào năm 2002. Sự thay đổi trong cơ cấu thu nhập từ trợ cấp xã hội theo một khuôn mẫu khác. Thu nhập từ nguồn này của nhóm 20% nghèo đã tăng 6 lần trong thời kỳ 1993-2002, còn của nhóm 20% giàu chỉ tăng 3 lần cùng thời kỳ. Thu nhập từ nguồn này của nhóm 20% giàu gấp 2,3 lần của nhóm 20% nghèo vào năm 1993. Con số giảm đi còn 1,9 lần vào năm 1998 và 1,2 lần vào năm 2002. Nhóm 20% nghèo đã nhận được trợ giúp từ các chương trình hỗ trợ của các NGO cao gấp 2,7 lần so với nhóm 20% giàu vào năm 1998. Điều này cho thấy Nhà nước đã có sự điều chỉnh đáng kể, hướng nguồn lực trợ cấp xã hội vào các nhóm mục tiêu đúng hơn. Còn đối với các NGO thì chức năng cố hữu của họ là hướng đến những nhóm khó khăn và thiệt thòi nhất trong xã hội. Số liệu trên cho thấy có mối tương quan mật thiết giữa chi phúc lợi xã hội với biến đổi mức sống dân cư và kết cấu xã hội. Phúc lợi xã hội đã đóng góp vào việc tăng mức sống dân cư nói chung cũng như định hình kết cấu các giai tầng và nhóm xã hội. Tuy nhiên, trong thời kỳ 19932002, vẫn tồn tại xu hướng chi phúc lợi xã hội chưa thực sự nhằm vào các nhóm có vị thế xã 91 hội kém hơn và nghèo hơn, mặc dù trong nửa cuối thời kỳ này xu hướng đó đã được khắc phục đáng kể. 6.5. NHỮNG CHỦ ĐỀ CHÍNH CỦA PHÚC LỢI XÃ HỘI HIỆN NAY Quan sát thực tế và khái quát từ các tài liệu, có thể thấy rằng hiện trạng phúc lợi xã hội nước ta trong những năm Đổi Mới vừa qua có những vấn đề chính đang nổi lên sau đây. 6.5.1. CAM KẾT CHÍNH TRỊ VỚI PHÚC LỢI CỦA NHÂN DÂN Trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, các nước đã có những nhận thức và cam kết khác nhau đối với phúc lợi của dân cư, đặc biệt của tầng lớp lao động. Về mặt này, có thể nói đến ba nhóm nước liên quan đến ba giai đoạn lịch sử. Thứ nhất, những nước phát triển Âu-Mỹ đi trước trong quá trình công nghiệp hóa. Hệ thống phúc lợi của họ dựa trên Nhà nước và chỉ hình thành dần dần sau quá trình tăng trưởng công nghiệp. Thứ hai, nhóm nước Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã quan tâm xây dựng sớm hệ thống phúc lợi Nhà nước cùng với quá trình công nghiệp hóa. Thứ ba, nhóm nước Đông Á, khi công nghiệp hóa cũng tương đối chú trọng sớm đến phúc lợi nhưng nhấn mạnh đến trách nhiệm của bản thân người lao động và gia đình. Nhìn chung, Nhà nước mang định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, theo truyền thống và logic của mình, đã có cam kết mạnh mẽ với trách nhiệm phúc lợi xã hội. Điều này thể hiện ở việc Nhà nước chú trọng thường xuyên đến việc cải thiện hoàn cảnh xã hội cho đông đảo quần chúng cũng như cho những nhóm xã hội yếu thế trong suốt quá trình chuyển đổi và chuyển sang kinh tế thị trường. Nhiều phân tích cho thấy một trong những điều kiện cho thành công của Đổi Mới chính là việc nhận thức đúng tầm quan trọng của phúc lợi xã hội trong quá trình chuyển đổi. Và đây chính là đặc trưng của truyền thống xã hội chủ nghĩa. Trong thực tế ở mọi nước, sự kết hợp giữa lý luận với thực tiễn làm nảy sinh học thuyết quốc gia về phúc lợi xã hội, theo nghĩa nó được chính thức thừa nhận và thực hiện trong nền chính trị và chính sách quốc gia. Trong thời kỳ thiết lập hệ thống xã hội dựa trên kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, các nguyên tắc tổ chức của kiểu xã hội này đã tạo nên học thuyết phúc lợi xã hội tương ứng, góp phần chỉ đạo việc tạo nên một thực tiễn phúc lợi. Những năm quá độ của xã hội Việt Nam sang kinh tế thị trường thập niên 1990 và 2000 cũng là giai đoạn từng bước tìm kiếm và hình thành mới học thuyết chính sách phúc lợi xã hội cho đất nước. Kinh nghiệm về công việc này gợi ý rằng mô hình phúc lợi xã hội của Việt Nam phải xuất phát từ thực tế lịch sử chính sách xã hội của chính mình để đưa ra một kết hợp cụ thể thích ứng với bản thân, nhưng cần chú trọng đến kinh nghiệm quốc tế. Có một thực tế là, trong khi các nhà vạch chính sách ở Việt Nam phải vật lộn với công việc “vừa thiết kế, vừa thi công” hệ thống phúc lợi quốc gia, họ chưa nhận được nhiều sự hỗ trợ từ các nhà nghiên cứu xã hội trong nước. Trong thực tế, họ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật nhiều hơn từ phía các tổ chức quốc tế. Vào thời điểm sau 20 năm Đổi Mới, các nhà vạch chính sách xã hội đã đứng trước một câu hỏi quan trọng: dưới tác động của việc tiếp tục quá trình Đổi Mới và công nghiệp hoá hiện đại hoá tăng tốc, hệ thống phúc lợi xã hội cần tiến triển theo hướng nào, cần điều chỉnh và định hình lại như thế nào? Nhiều dấu hiệu cho thấy hệ thống phúc lợi xã hội cần được đổi mới đáng kể ở mọi cấp độ của nó: từ "triết lý" của hệ thống, khía cạnh quản lý, đến các lĩnh vực chuyên biệt và cấp độ tổ chức. 92 6.5.2. HIỆN ĐẠI HÓA VÀ CHUYÊN NGHIỆP HÓA CÔNG TÁC XÃ HỘI Những năm 1990 là thập niên chuyển biến mạnh mẽ về quan niệm và thực tiễn công tác xã hội. Nhiều tổ chức đoàn thể hoạt động trong lĩnh vực này đã nhận thấy rằng họ phải tự đổi mới bản thân, thay đổi tận gốc cách hiểu và cách làm công tác xã hội. Trong thời gian dài, Việt Nam hầu như không biết đến những tiến triển mới trong quan niệm và thực tiễn công tác xã hội ở các xã hội dựa trên nền kinh tế thị trường. Trong khi đó, trợ giúp quốc tế ngày càng tăng dẫn đến những đòi hỏi mới về phương thức công tác xã hội hiện đại. Điều này đã dẫn đến 4 hiện tượng và quá trình mới trong lĩnh vực công tác xã hội ở Việt Nam thời gian qua. o Với chính sách mở cửa, giúp đỡ quốc tế đạt tới một giai đoạn mới. Hàng trăm tổ chức quốc tế đã tiến hành những chương trình công tác xã hội của mình nhằm giúp đỡ Việt Nam phát triển. Một kiểu công tác xã hội dựa trên quan niệm quốc tế mới đã ảnh hưởng đáng kể đến thực tế phúc lợi xã hội Việt Nam. o Một số trong các đoàn thể quần chúng đã tự điều chỉnh mạnh mẽ, tỏ ra thích hợp với bối cảnh làm việc mới, tiếp tục phát huy truyền thống và chức năng xã hội của mình (đặc biệt là Hội phụ nữ). Nhưng nhìn chung, các đoàn thể này vẫn đang đứng trước đòi hỏi cải cách sâu rộng, mà cho đến nay họ vẫn chưa có được những bước đáp ứng đáng kể. o Chính sách tự do hóa xã hội của Đổi Mới tạo điều kiện cho một lĩnh vực hoạt động công tác xã hội phong phú mới, bên cạnh các cơ quan và đoàn thể chính thức. Đó là hoạt động của các tổ chức công tác xã hội được thành lập bởi những người tình nguyện, các NGO quốc tế và trong nước, v.v. Thông qua đây, đang bước đầu nổi lên một khu vực xã hội dân sự (không phải cổ truyền) tham gia mạnh mẽ vào hoạt động phúc lợi, nhưng khuôn khổ thể chế và quản lý cho khu vực này còn đi chậm hơn sự phát triển của nó khiến cho không giải phóng được mọi tiềm năng của khu vực này. o Cùng với những thực tế công tác xã hội mới là việc phát triển đào tạo công tác xã hội theo hướng cập nhật với thế giới. Nhiều khoảng trống tri thức và kỹ năng công tác xã hội ở Việt Nam so với thế giới đã được thu hẹp. Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung bao cấp, các nhà công tác xã hội làm việc chủ yếu dựa trên kinh nghiệm hoạt động chính trị. Hầu như không ở đâu có chương trình đào tạo chính quy và cập nhật về công tác xã hội. Ngày nay, các nội dung đào tạo công tác xã hội theo hướng hiện đại và chuyên nghiệp đã xuất hiện cả trong đào tạo chính quy và dài hạn lẫn không chính quy và ngắn hạn. Tuy nhiên, việc đào tạo này vẫn còn chưa đáp ứng rộng rãi yêu cầu ngày càng tăng lên. 6.5.3. PHÚC LỢI XÃ HỘI DOANH NGHIỆP Các tổ chức làm việc, trong đó có doanh nghiệp, ngày càng có tầm quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Theo đó, công tác phúc lợi doanh nghiệp cũng sẽ ngày càng có ý nghĩa, cả bên trong doanh nghiệp lẫn đối với xã hội bên ngoài. Đối với bên ngoài, doanh nghiệp có trách nhiệm với cộng đồng nơi mình trú đóng, với xã hội nói chung trong những khó khăn và thách thức về đời sống. Khó có con số chính xác và đầy đủ, song có thể thấy sự nghiệp giúp đỡ xã hội của các doanh nghiệp ở Việt Nam (trong nước và nước ngoài) là vô cùng to lớn, đóng 93 góp đắc lực cho việc giảm thiểu các loại rủi ro xã hội cho nhiều tầng lớp dân cư. Việt Nam là nước hàng năm chịu nhiều thiên tai, gần đây là những dịch bệnh lớn, gây ra những tổn thất về người và của. Người ta ước tính rằng hàng năm đất nước này luôn chịu tổn thất hàng ngàn tỷ đồng do thiên tai, dịch bệnh. Để cứu trợ cho nạn nhân thiên tai, nhà nước đã chi những khoản hỗ trợ khổng lồ hàng năm. Cứu trợ của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đã hợp thành một bộ phận không nhỏ. Nhà nước cũng đã có những văn bản để tạo khuôn khổ pháp lý rộng rãi cho sự tham gia cứu trợ của doanh nghiệp và người dân. Bức tranh về trách nhiệm phúc lợi bên trong doanh nghiệp cũng tương tự như vậy, song phức tạp hơn nhiều. Trong 25 năm Đổi Mới, một trong những hướng công tác phúc lợi trọng tâm của Nhà nước là tạo dựng khuôn khổ quan hệ lao động và chính sách phúc lợi trong doanh nghiệp. Đây được xem là xương sống của hệ thống chính sách quốc gia, góp phần vào tăng trưởng kinh tế cao liên tục, ổn định chính trị-xã hội, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao mức sống và mức an toàn trong đời sống của người lao động và gia đình. Tuy nhiên, vẫn còn hàng loạt vấn đề nan giải và bức xúc trong lĩnh vực quan hệ lao động và phúc lợi bên trong doanh nghiệp. Mới chỉ có hơn 50% người lao động thuộc diện phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là đã thực sự tham gia hệ thống này, phần lớn thuộc khu vực Nhà nước, lực lượng vũ trang. Số lao động thuộc diện phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc cũng chỉ chiếm 1/4 tổng số người lao động cả nước (Xem Hộp 6.1). Rất nhiều doanh nghiệp trốn trách trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Mặc dù mức và các hình thức phúc lợi mà người lao động trong doanh nghiệp được hưởng đã nâng lên và mở rộng trong nửa sau thập niên 1990 (Bùi Thế Cường, 2003b, 2003c. Trần Hữu Quang, 2009), song trong bối cảnh lạm phát và giá cả tăng mạnh trong mấy năm gần đây, người lao động trong doanh nghiệp đã bị giảm sút nhiều về phúc lợi (Xem Hộp 6.2). Đây là nguyên nhân của nhiều căng thẳng và xung đột công nghiệp hiện nay (Lê Thanh Sang và đồng nghiệp, 2009). Nhìn chung, phúc lợi xã hội trong khu vực sản xuất kinh doanh (nhà nước và ngoài nhà nước) chưa được cấu trúc lại về căn bản, dẫn đến một mặt còn thiếu nhiều chính sách phúc lợi cần thiết, mặt khác nhiều chính sách phúc lợi gây cản trở cho tăng trưởng và hiệu quả kinh tế. Vấn đề thất nghiệp, thất nghiệp trá hình, thừa nhân công trong các tổ chức, năng suất lao động thấp, thiếu các chế độ bảo vệ xã hội cho người làm công,... là những ví dụ nổi bật. Hộp 6.1. Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam: Một cố gắng bền bỉ trong nhiều thập niên của Nhà nước phúc lợi kiểu Việt Nam Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hình thành từ những năm 1960, nhưng phải đến 1995 mới cải cách chuyển sang cơ chế đóng-hưởng, cân đối thu-chi với 5 chế độ: ốm đau, thai sản, tạn nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất. Hiện có hơn 5,4 triệu người tham gia, tăng gần 2 lần so với trước đây. Nhưng hiện nay Bảo hiểm xã hội đang bộc lộ 2 vấn đề đáng quan tâm: chưa mở rộng được tối đa diện tham gia bảo hiểm xã hội và hạch toán trong Quỹ Bảo hiểm xã hội. Trong 41 triệu người lao động tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh thường xuyên có khoảng 9,6 triệu người thuộc diện phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Tuy nhiên, cơ quan bảo hiểm xã hội chỉ quản lý được 6,88 triệu người thuộc diện, trong số đó chỉ có 5,39 triệu người thực sự tham gia, như vậy còn khoảng 4 triệu người lao động (chiếm 44%) thuộc diện bắt buộc mà không được tham gia bảo hiểm xã hội. Số người này chủ yếu thuộc các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, và đặc biệt là ở các tổ chức dân lập, tư thục, các tổ chức, cá nhân đăng ký kinh doanh nhỏ lẻ có thuê lao động. Hạch toán trong Quỹ bảo hiểm xã hội chưa hiệu quả, mặc dù Quỹ có tăng cùng với sự tăng đối 94 tượng tham gia và điều chỉnh tiền lương. Theo quy định, Quỹ phải chi trả lương hưu và các loại trợ cấp cho các đối tượng nghỉ hưởng chế độ hưu, mất sức và tử tuất từ 1/1/1995 về sau. Nhưng thực tế sau khi tách ra khỏi ngân sách, Quỹ đã phải chi trả chế độ hưu và tử tuất và mức hưởng bảo hiểm xã hội bình quân đang tăng khá nhanh (năm 2003 so với 2002 là 23,3%) và nếu không có giải pháp cần thiết thì có thể xảy ra tình trạng mất cân đối sau này. Nguyễn Thị Hằng (Trả lời phỏng vấn). Bảo hiểm xã hội phải đến với người lao động. Báo điện tử Thời báo Kinh tế Việt Nam, 13/6/2005. Hộp 6.2. Phúc lợi doanh nghiệp ngày càng trở thành một điểm “nóng” xã hội Chỉ có 38% người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân, liên doanh, 100% vốn đầu tư nước ngoài được ký hợp đồng lao động. Vẫn còn trên 6,5% người lao động phải làm trên 10 giờ/ngày, 7 ngày/tuần, nhiều doanh nghiệp bắt người lao động làm thêm 500-600 giờ/năm, gấp 2-3 lần quy định. Nhiều doanh nghiệp xây dựng thang lương đến 37-40 bậc, mỗi bậc cách nhau 10.000đ". (Nguồn: Tổng liên đoàn Lao động VN). Mức lương phổ biến của người lao động trong các doanh nghiệp FDI (vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài), liên doanh hay tư nhân là từ 600.000đ tới 1 triệu đồng/tháng. Tất tần tật mọi khoản chi, người lao động đều phải trông vào số tiền lương "chết đói" đó. Nói đó là mức lương "chết đói" không hề là nói quá. Chỉ cần rảo qua các chợ, tham khảo các mức giá thực phẩm, vào các "nhà trọ công nhân" xem những người lao động ăn ở như thế nào, bữa cơm của họ có mấy món, gồm những món gì, là có thể kết luận: người lao động đang bị vắt kiệt sức như thế nào, và họ sẽ còn lao động trong điều kiện như thế được bao lâu nữa? Khi một người công nhân đi làm, đừng nên nghĩ họ chỉ lấy tiền nuôi bản thân họ. Hầu hết những công nhân ấy đều ra đi từ nông thôn, từ các gia đình nghèo. Họ đi làm với ước vọng kiếm tiền giúp đỡ cha mẹ, nuôi các em ăn học. Với mức lương mà chỉ sống cho riêng mình thôi cũng không đủ ấy, họ làm sao gửi được tiền về giúp đỡ gia đình? Thế nhưng, rất nhiều người trong số họ vẫn hằng tháng gửi tiền về quê, dù rất ít, cho gia đình. Để dành ra được số tiền ít ỏi ấy, họ đã phải chắt bóp tiết kiệm đến tận cùng những nhu cầu tối thiểu nhất cho bản thân mình, nhất là trong chuyện ăn ở. Trong thời kỳ đầu khi Việt Nam cần kêu gọi đầu tư nước ngoài, thì lợi thế giá nhân công rẻ là một yếu tố rất quan trọng. Nhưng nhiều năm đã qua, khi nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, khi đã vào WTO và sự cạnh tranh ở khu vực và châu lục không còn ở tầm mức cạnh tranh về giá nhân công rẻ, thì nếu chúng ta vẫn tiếp tục duy trì "khung lương ưu đãi" cho nhà đầu tư, nghĩa là quy định mức lương tối thiểu quá thấp trong các doanh nghiệp FDI, tất sẽ dẫn tới rất nhiều bất cập. Người lao động sẽ tới "ngưỡng" của sự chịu đựng, và đình công sẽ liên tục nổ ra. "Nguyên nhân dẫn đến đình công đã quá rõ ràng. Không thể đổ lỗi cho công nhân không tuân thủ quy định của pháp luật về trình tự đình công" - một lãnh đạo Công đoàn đã thẳng thắn phát biểu như vậy. Người ta đã thống kê, ngay tại Thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ đình công liên quan đến tiền lương chiếm 77,77%. Thanh Thảo. Lợi thế nhân công giá rẻ. Báo Thanh Niên 3/9/2007. 6.5.4. QUẢN LÝ PHÚC LỢI XÃ HỘI Tăng trưởng kinh tế và mở rộng quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đã khiến cho khối lượng và độ phức tạp của công việc phúc lợi xã hội tăng lên mạnh mẽ. Đa dạng hoá phúc lợi xã hội theo tất cả mọi nghĩa (khu vực, vùng, phương cách,...) đã mở rộng rất nhanh trong những năm Đổi Mới, đáp ứng được nhu cầu phúc lợi xã hội ngày càng cao của dân cư. Nhưng nó cũng đặt ra nhiều thách thức cho công tác quản lý phúc lợi xã hội nhà nước. Mặc dù các cơ quan Nhà 95 nước phụ trách công tác phúc lợi đã có nhiều cố gắng, song do nhiều nguyên nhân, công tác quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực này vẫn còn chưa đáp ứng tốt với hoàn cảnh đang đổi thay. Liên quan đến hiệu quả quản lý của bộ máy điều hành phúc lợi quốc gia, tác giả nhận thấy có 4 vấn đề nổi lên. o Thứ nhất, thường xuyên còn có một khoảng cách rất lớn giữa việc ban hành khung chính sách và pháp luật phúc lợi xã hội với thực tế thi hành. Nhiều chính sách phúc lợi mang tính ưu việt nhưng vẫn nằm trên văn bản. Các ngành, các cơ quan địa phương, doanh nghiệp, có thể không thi hành nhưng vẫn không chịu sự giám sát và chế tài. o Thứ hai, phúc lợi xã hội là lĩnh vực được nhà nước quan tâm đầu tư cao so với nhiều nước có trình độ kinh tế tương tự. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực kết quả và hiệu quả đầu tư còn thấp, làm giảm tác động của hệ thống phúc lợi xã hội. Chưa có sự tương xứng giữa đầu tư của nhà nước và xã hội cho các chương trình công tác xã hội với kết quả thu được. o Thứ ba, điểm khác biệt với hệ thống phúc lợi trong nền kinh tế kế hoạch hóa hành chính bao cấp là trong nền kinh tế thị trường có nhiều loại hình chủ thể hành động phúc lợi hơn. Điều này đặt ra vấn đề phân bố lại vị trí, chức năng và vai trò của các chủ thể trong hệ thống; đồng thời quy định cách thức quan hệ qua lại lẫn nhau giữa các kiểu chủ thể. Từ góc độ này nổi lên yêu cầu cải cách khuôn khổ pháp lý và tài chính đối với các chủ thể tham gia vào hệ thống này. Vẫn còn sự bất bình đẳng giữa các chủ thể hoạt động trong khu vực xã hội. Các tổ chức xã hội ngoài nhà nước ít được quan tâm, tạo điều kiện. Các đoàn thể chính trị-xã hội được nhà nước cấp kinh phí dồi dào, được hưởng vị thế xã hội cao trong hệ thống chính trị-xã hội, song trong một số mặt hoạt động, kết quả và hiệu quả công việc chưa tương xứng. Một số hội đoàn và NGO trong nước đã xuất hiện và đang thể hiện vai trò và hiệu quả của chúng. Song, họ thiếu vị thế xã hội cần thiết và phải vật lộn với tình trạng thiếu kinh phí. o Thứ tư, khu vực công tác phúc lợi xã hội là nơi có nhân lực rất đông đảo làm việc trong những loại hình tổ chức khác nhau. Giống như mọi khu vực khác, trong lĩnh vực phúc lợi, cả các tổ chức lẫn con người đều đã phải thay đổi mạnh trong những năm qua. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại sự trì trệ và xơ cứng cả về mặt nhận thức, thái độ và kỹ năng. Điều có ý nghĩa cấp thiết hiện nay là nâng cao công tác nghiên cứu, đào tạo cơ bản (dài hạn, có bằng cấp), tập huấn, truyền bá tri thức, thay đổi tổ chức. Để đáp ứng với giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá trong thời kỳ hội nhập quốc tế, bản thân công tác phúc lợi xã hội (Nhà nước, thể chế, tổ chức và con người) cần được hiện đại hoá và chuyên nghiệp hoá. 6.6. TRỞ LẠI VỚI LÝ TƯỞNG PHÚC LỢI TOÀN DÂN: MỘT KIẾN NGHỊ KHẢ THI? Đổi Mới là thời kỳ xây dựng lại, thích ứng và phát triển mạnh mẽ của phúc lợi xã hội với tính cách là một hệ thống, một thiết chế trụ cột của xã hội. Nó đã gắn bó mật thiết với biến đổi kinh tế, góp phần duy trì và tăng mức sống dân cư. Phúc lợi xã hội đã có những thay đổi đáng kể trong định hướng chính sách, nguyên tắc tổ chức, mở rộng và đa dạng hoá trong nội dung, hình thức và chủ thể hoạt động. Nó cũng có tương quan mật thiết với biến đổi kết cấu xã hội. Trong mọi bối cảnh, hệ thống phúc lợi xã hội đã thể hiện vai trò tương đối tốt của nó góp phần vào việc chuyển đổi thành công vừa qua, khi nó đáp ứng với một loạt nhu cầu và vấn đề xã hội nảy sinh. 96 Chính sách nhấn mạnh vào phúc lợi con người của Việt Nam được duy trì trong suốt thời kỳ Đổi Mới, bao gồm cả giai đoạn khắc phục khủng hoảng cũng như cả trong thời kỳ tăng trưởng nhanh. Điều này góp phần vào ổn định xã hội. Nhưng chính sách phúc lợi cũng đã gắn với các khuôn mẫu và xu hướng biến đổi của kết cấu giai tầng xã hội, trong đó bất bình đẳng kinh tế có xu hướng tăng. Phân phối phúc lợi xã hội một mặt góp phần cải thiện mức sống dân cư, nhưng mặt khác cũng góp phần tăng cách biệt xã hội. Tác giả xin nêu lên những kiến nghị sau đây. o Tiếp tục duy trì cam kết chính trị cao đối với phúc lợi. Thúc đẩy việc nghiên cứu để tìm kiếm luận cứ cho việc trở lại với nguyên lý phúc lợi xã hội toàn dân (bao gồm mở rộng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế toàn dân, nâng cao giáo dục phổ cập). o Tập trung vào việc điều chỉnh bất bình đẳng phúc lợi do kết cấu giai tầng quy định. Qua đó tham gia điều chỉnh lại bản thân kết cấu giai tầng bất bình đẳng. o Xác định lại đúng đắn hơn chức năng và trách nhiệm xã hội của Nhà nước, xã hội dân sự, khu vực kinh doanh và hộ gia đình đối với phúc lợi. Theo hướng Nhà nước tập trung hơn vào hoạt động lập pháp phúc lợi xã hội, phối hợp hành động; mở rộng không gian cho xã hội dân sự đảm nhiệm các chức năng phúc lợi; thúc đẩy trách nhiệm xã hội của khu vực kinh doanh; tăng trách nhiệm đồng thời giảm nhẹ gánh nặng của hộ gia đình đối với phúc lợi của các thành viên. o Thành lập Uỷ ban hay Hội đồng phúc lợi xã hội quốc gia, hoạt động như là một cơ quan phối hợp, tư vấn, hoặc diễn đàn. Thành viên của nó bao gồm nhiều chủ thể với những chức năng khác nhau: cơ quan Đảng, Quốc hội, các Bộ, tổ chức xã hội, đại diện công ty lớn, nhà nghiên cứu, nhà tư vấn, v.v. Kiểu tổ chức này có thể có cả ở cấp địa phương. Loại hình cơ quan này tỏ ra hữu ích cho việc bao quát mọi vấn đề phúc lợi trong một tiếp cận nhất quán, cho việc phối hợp theo chiều ngang và dọc. o Tập trung hơn nữa vào nguyên tắc phúc lợi định hướng vào phát triển kinh tế. Có thể nói rằng Việt Nam là một xã hội phúc lợi, một Nhà nước phúc lợi. Phát biểu này có căn cứ trên hàng loạt tiêu chí định tính và định lượng: từ cam kết chính trị cao với phúc lợi người dân, đến số người hưởng phúc lợi, nguồn tài chính và nhân lực dành cho khu vực phúc lợi, ... Song điều này có một tác động kép: vừa thúc đẩy vừa hạn chế tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Chiến lược phúc lợi quốc gia phải lựa chọn được điểm cân bằng tương đối trong cái nghịch lý này, đảm bảo ổn định xã hội đồng thời hỗ trợ phát triển kinh tế. o Cần xem các tổ chức, đặc biệt các doanh nghiệp, là một trọng tâm của công tác phúc lợi hiện nay. Tạo ra khuôn khổ pháp lý, hỗ trợ, giám sát và chế tài các doanh nghiệp trong việc mở rộng các chế độ phúc lợi doanh nghiệp. Việc tăng cường công tác phúc lợi doanh nghiệp sẽ góp phần vào thúc đẩy đà tăng trưởng kinh tế, giảm các xung đột công nghiệp đang có nguy cơ lan rộng hiện nay. Nhà nước cần đặc biệt quan tâm đến phúc lợi trong khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, khu vực hợp tác xã, bởi vì người lao động trong khu vực này hiện được hưởng rất ít phúc lợi từ nơi làm việc. o Thúc đẩy việc hiện đại hoá và chuyên nghiệp hoá lĩnh vực nghiên cứu, đào tạo và thực hành chính sách xã hội và công tác xã hội. Mở rộng việc thành lập các khoa hay trường công tác xã hội trong các trường đại học, xúc tiến xây dựng chương trình đào tạo chính quy cho bộ môn 97 chính sách xã hội và công tác xã hội, xem đây là giải pháp cơ bản dài hạn cho việc hiện đại hoá và chuyên nghiệp hoá hai lĩnh vực này. 98 CHƯƠNG BẢY. MÔ HÌNH XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ XÃ HỘI Đổi Mới đã thúc đẩy những quá trình xã hội ở nhiều cấp độ khác nhau, mở ra những động lực xã hội trước kia còn tiềm ẩn. Và những điều này diễn ra trong bối cảnh mở cửa với bên ngoài. Sự tương tác của tất cả những yếu tố đó đã tạo nên một sản phẩm: chúng tạo nên một "mô hình xã hội" trong hiện thực, một kiểu kết cấu kinh tế chính trị và giai tầng xã hội. Về mặt quản lý, điều này sẽ liên quan đến vấn đề quản lý chiến lược. Chúng cũng làm nổi lên "những vấn đề cơ bản", đặt ra vấn đề quản lý biến đổi xã hội. Cuối cùng, các quá trình xã hội cũng tạo nên "những nhân tố bất ổn định", mà để giải quyết người ta phải xây dựng cơ chế quản lý khủng hoảng. Ba cấp độ quản lý này liên quan đến ba cấp độ của sự vật, từ chiều sâu cấu trúc bên trong, lên đến cấp độ các cơ chế và quá trình biến đổi, và cuối cùng là những quá trình, hiện tượng và triệu chứng bề mặt. 7.1. MÔ HÌNH ĐÃ HÌNH THÀNH Kể từ Đổi Mới, có ba nhân tố đã kết hợp và tương tác hàng ngày hàng giờ với nhau. Đó là hiện trạng xã hội trước Đổi Mới, tác động quốc tế và môi trường chính sách. Trong đó, nhân tố cuối cùng là quan trọng nhất theo nghĩa, thứ nhất, nó cho phép vận dụng và là bộ lọc của hai nhân tố trên. Thứ hai, nó hoàn toàn thuộc quyền chủ động của chủ thể là chúng ta. Ba nhân tố này tương tác với nhau đã tạo nên một "mô hình hiện thực". Theo tác giả, mô hình này có những đặc trưng chủ yếu sau đây. 7.1.1. HỘI NHẬP QUỐC TẾ SÂU RỘNG Nền kinh tế phụ thuộc ngày càng tăng vào xuất nhập khẩu, tài chính và giá cả thế giới, ODA, FDI, WTO, với các luật chơi quốc tế được cấu trúc hóa chặt chẽ và chịu sự chi phối của logic tư bản toàn cầu. Ảnh hưởng ngày càng mạnh của văn hoá toàn cầu (phim Mỹ, sách báo nước ngoài, Internet, nhạc MTV, ...) và khu vực Đông Á (phim ảnh, thời trang và ca nhạc Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông), đặc biệt ở thành phố và trong thanh niên. Tác động văn hoá có nghĩa là tác động của hệ tri thức, các giá trị, hệ tư tưởng, lối sống, chuẩn mực, cách diễn giải hiện thực, các quan hệ và các sự kiện (đặc biệt sự kiện thời sự). Hình thành và ảnh hưởng ngày càng mạnh của khu vực các công ty nước ngoài, tổ chức đa phương (WB, ADB, UNDP, IMF), các NGO quốc tế, hoạt động ở Việt Nam, đến chính sách, quan hệ xã hội, quan niệm tư tưởng, cách làm việc, v.v. Trên cơ sở vừa nói trên, xuất hiện các nhóm xã hội "đẳng cấp toàn cầu" trong nước, theo nghĩa các nhóm người mà hoạt động hàng ngày, tư tưởng và lợi ích gắn với khu vực quốc tế nói trên. Xuất xứ của các nhóm này từ nhiều nguồn: công chức cán bộ (chính quyền, đoàn thể, nghiên cứu, dịch vụ xã hội), kinh tế tư nhân trong nước, kinh tế liên doanh, cán bộ nhân viên làm việc trong các tổ chức nước ngoài và quốc tế, những người hoạt động văn hoá. 7.1.2. CÁC QUÁ TRÌNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ 99 Đổi Mới đã hoàn thành một giai đoạn quá độ cho nền kinh tế: những cơ sở chủ chốt của kinh tế thị trường đã được xác lập. Lợi ích kinh tế của các chủ thể tham gia vào hệ thống kinh tế-xã hội ngày càng trở nên khác biệt và xung đột nhau, sự bất bình đẳng tăng lên nhanh và ngày càng trở nên khó đảo ngược, nếu không có những cam kết chính trị đủ mạnh. Tăng trưởng mạnh của công nghiệp lớn, đô thị lớn, của các cực tăng trưởng (nền kinh tế của doanh nghiệp lớn nhà nước, của liên doanh, của tư nhân nước ngoài). Kết quả là ảnh hưởng mang tính chi phối trên cả nước của các doanh nghiệp lớn, gắn với các Bộ lớn, trong mọi ngành chủ chốt: năng lượng, xây dựng, ô tô xe máy, vật tư nông nghiệp, dược phẩm, ngân hàng, tài chính, tư vấn, v.v. Khu vực tư nhân trong nước phát triển tương đối nhanh chóng. Các đơn vị tư nhân lớn cũng bắt đầu hình thành và ảnh hưởng tăng dần (rõ rệt nhất là ảnh hưởng ở cấp địa phương và ngành). Sự kết hợp giữa khu vực kinh tế tư nhân và giới công chức tăng lên, theo cả hai nghĩa tích cực và tiêu cực. Tư nhân hoá chính thức và phi chính thức diễn ra mãnh liệt (giao ruộng, đất và rừng cho nông dân sản xuất hoặc kinh doanh; giao khoán đất rừng của tập thể và nông trường cho công nhân viên; giao, bán và lấn chiếm đất đai và nhà ở đô thị; cổ phần hoá, lấn chiếm, lợi dụng tài sản công nghiệp; các kênh lưu chuyển một cách hợp pháp và bất hợp pháp đối với tiền, tài sản và sản phẩm sản xuất từ cơ sở công hữu chuyển sang tư nhân và cá nhân). 7.1.3. KẾT CẤU XÃ HỘI-VĂN HÓA Các quá trình kinh tế chính trị nói trên dẫn đến sự hình thành một kết cấu xã hội mới. Hình thành các giai tầng và nhóm với những khác biệt kinh tế, chính trị-xã hội và văn hoá ngày càng tăng. Các giai tầng và nhóm gắn với việc sở hữu ba nguồn lực cơ bản: chính trị-tổ chức (quyền lực, quyền hạn), kinh tế, tri thức; gắn với mức độ hưởng lợi từ kết cấu kinh tế chính trị và kết cấu xã hội. Các định chế cơ bản và các tổ chức liên quan đến quản lý xã hội (quản lý về mặt tư tưởng, cấu trúc, văn hoá, con người) thay đổi chưa đủ mức cần thiết theo yêu cầu, chưa nói đến việc chúng phải đi trước để tạo thuận lợi và động lực cho sự thay đổi. Có bốn xu hướng chính trong việc hình thành và vận hành các định chế cơ bản. Thứ nhất, phục hồi các đặc tính cổ truyền (sử dụng các quan hệ dòng họ, đồng hương); đề cao các giá trị và chuẩn mực cổ truyền nhưng chống lại sự thay đổi/hiện đại hoá; sử dụng các định chế và tổ chức kiểu cũ. Thứ hai, tái tăng cường các đặc tính của cơ chế xã hội chủ nghĩa bao cấp (cơ chế xincho; sử dụng nguồn lực xã hội đang tăng lên để tiếp tục ưu tiên vào khu vực kinh tế và xã hội nhà nước; hành chính/quan liêu hoá các lĩnh vực của đời sống xã hội). Thứ ba, thị trường hoá, thương mại hoá theo kiểu lạm dụng, trục lợi. Thứ tư, hiện đại hoá và phát triển mang tính chức năng, hợp thức. Lĩnh vực văn hoá cũng thể hiện nhiều chiều hướng khác nhau tương tự như trên: cổ truyền, chủ nghĩa xã hội nhà nước, thị trường, hiện đại hoá và phát triển. Người ta nhận thấy trong xã hội có hiện tượng "anomie" (một thuật ngữ xã hội học chỉ trạng thái xã hội trong đó không có phương hướng giá trị và quy tắc chuẩn mực, hoặc bị hỗn độn về những điều này). 100 Kết quả của những xu hướng vận động trên trong kết cấu xã hội, văn hoá, định chế và tổ chức dẫn đến tình trạng mức độ liên kết xã hội giảm đi. Chưa xuất hiện một kết cấu xã hội mới và một hệ diễn giải văn hoá mới phù hợp với hiện tại, được đa số các nhóm xã hội chấp nhận, tán thành và cùng sử dụng. Do đó, tình trạng lệch chuẩn, tội phạm và tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng, thể hiện áp lực nổi trội trong mọi lĩnh vực và trong nhiều nhóm xã hội chủ chốt: công chức, doanh nhân, thanh niên, trí thức. 7.1.4. QUAN HỆ NHÀ NƯỚC VÀ XÃ HỘI Vấn đề ổn định chính trị liên quan mật thiết với mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội. Đổi Mới đã tạo ra nhiều biến đổi trong mối quan hệ này. Phạm vi và mức độ chặt chẽ của việc nhà nước quản lý xã hội đã dần dần thu hẹp và lỏng đi, Nhà nước không còn kiểm soát toàn bộ lĩnh vực được gọi là công việc cá nhân và gia đình. Đồng thời Nhà nước cũng giảm bớt trách nhiệm phúc lợi xã hội của mình. Tham gia ngày càng nhiều hơn vào khoảng trống này là tư nhân, gia đình và hiệp hội. Kết quả là phát triển khu vực xã hội dân sự, vai trò của các tổ chức chính trịxã hội và xã hội đã ngày càng tăng lên. Điều chú ý là nhiều cơ quan chức năng vẫn giữ kiểu quan hệ quản lý cũ, một phần do chưa ý thức được sự thay đổi, một phần do muốn bám giữ các lợi ích trục lợi được từ quan hệ quản lý kiểu cũ. Kết quả là gây trở ngại cho sự phát triển xã hội, đồng thời việc quản lý cũng không theo kịp được sự thay đổi, ảnh hưởng đến hiệu quả lãnh đạo và quản lý. 7.1.5. SỰ LÃNH ĐẠO CHÍNH TRỊ: QUẢN LÝ CHIẾN LƯỢC Trong suốt thời kỳ Đổi Mới, sự lãnh đạo của Đảng được củng cố và phát huy mạnh hơn ở các cấp và ngành. Đường lối cơ bản được xác lập rõ ràng: một Đảng lãnh đạo, cải cách thị trường và mở cửa với thế giới. Trong nguyên tắc Đảng lãnh đạo có sự thay đổi nhất định: giảm bớt sự kiểm soát toàn bộ và trực tiếp mọi phương diện của đời sống con người và xã hội. Các cơ quan chức năng của Đảng vẫn chưa xây dựng được một hệ tư tưởng và lý luận mới hoàn chỉnh, có sức lãnh đạo xã hội cho thời kỳ mới, mặc dù những thành tố cụ thể khác nhau của nó đã hình thành. Chưa có một mô hình xã hội và mô hình nhà nước rõ ràng, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử toàn cầu và trong nước. Đảng và Nhà nước chưa kiểm soát được một cách thực sự hiệu quả các quá trình cơ bản của ba lĩnh vực nói trên: hội nhập quốc tế, biến đổi trong kinh tế chính trị, biến đổi kết cấu xã hội và văn hoá. 7.2. MƯỜI VẤN ĐỀ CƠ BẢN ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN: QUẢN LÝ BIẾN ĐỔI XÃ HỘI Cấu trúc toàn cầu, cấu trúc vĩ mô quốc gia, và các quá trình bề mặt hàng ngày, tất cả những cấp độ này tương tác qua lại với nhau tạo nên một loạt vấn đề nổi bật (thường được gọi là những vấn đề cơ bản và bức xúc), tác động liên tục đến công việc phát triển quốc gia cả trong triển vọng dài hạn lẫn hàng ngày. Giải quyết chúng thuộc phạm vi quản lý biến đổi xã hội, mặc dù ở nhiều khía cạnh cũng bao gồm cả quản lý chiến lược. Theo chúng tôi, có 10 vấn đề cơ bản sau đây. 7.2.1. TOÀN CẦU HOÁ VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA CÁC SIÊU CƯỜNG 101 Như Chương Một đề cập, cấu trúc và lịch sử toàn cầu định hình hệ thống các quốc gia và ứng xử của họ, phân chia vị thế các chủ thể. Trong đó, một số quốc gia ở "trung tâm" hợp tác và đấu tranh để "điều hành" công việc thế giới, một mặt nhằm tối đa hoá lợi ích riêng, nhưng mặt khác cũng phải tính đến "luật chơi" toàn cầu. Mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam, phải xử lý được vấn đề cấu trúc và quá trình lịch sử này về mặt dài hạn lẫn hàng ngày. Sau khi gia nhập WTO và tham gia Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, rõ ràng Việt Nam ngày càng va chạm hơn với biến đổi quốc tế trên tất cả các cấp độ. 7.2.2. BIẾN ĐỔI CẤU TRÚC XÃ HỘI Một kết cấu giai tầng mới đang hình thành và ngày càng được củng cố; những định chế xã hội cơ bản cũng đã hình thành với những ý tưởng, cấu trúc, văn hoá, lợi ích và tập hợp người ngày càng định hình. Tầm quan trọng của kết cấu kinh tế chính trị và kết cấu giai tầng xã hội là ở chỗ nó tạo nên xương sống trong kiến trúc tổ chức nhà nước của một dân tộc-quốc gia. Một khi kết cấu kinh tế chính trị và kết cấu giai tầng xã hội đã được định hình, nó sẽ "tự chỉ đạo" đường hướng phát triển đất nước; các chủ thể hành động chủ chốt cũng khó thay đổi. Sự tồn tại của kết cấu đó phải tính đến cả thế kỷ, quá trình thay đổi đòi hỏi nhiều thập niên, với những chi phí xã hội rất cao (nỗ lực, thời gian, xung đột, khủng hoảng, ...). Có ba ví dụ nổi bật minh họa cho điều nói trên. Thứ nhất, kinh nghiệm Liên Xô trong việc tạo nên kết cấu kinh tế chính trị và giai tầng xã hội kiểu kế hoạch hoá tập trung trong 70 năm. Thứ hai, sự hình thành kết cấu của chủ nghĩa tư bản độc quyền cao của nước Nga từ đầu thập niên 1990 đến nay sẽ định hình cho nước Nga trong rất nhiều thập niên tới mà không thế lực chính trị nào, kể cả quyền lực lớn của Tổng thống có thể thay đổi. Thứ ba, những cách biệt và mất cân đối lớn nảy sinh từ chiến lược phát triển của Trung Quốc chỉ trong 20 năm đầu cải cách sẽ phải mất không dưới nửa thế kỷ nữa để khắc phục. Các nước phương Tây, Mỹ Latin và Đông Á cũng cho những kinh nghiệm tương tự. Cấu trúc xã hội còn bao gồm cả yếu tố dân số: quy mô dân số tăng lên, những thay đổi trong cơ cấu dân số (tuổi và giới), di dân (phân bố dân cư theo không gian địa lý). Ba yếu tố trên đặt ra những thách thức lớn: những đáp ứng mọi mặt cho một quy mô dân số ngày càng lớn; kỷ nguyên dân số vàng đang tới (việc làm, giáo dục); sự già hoá dân cư bắt đầu từ 2010 trở đi; những khu dân cư lớn tập trung ở các đô thị; quản lý con người trong một bối cảnh dân cư đông đúc và thường xuyên biến động. Cấu trúc xã hội còn thể hiện ở sự phân bố trên không gian địa lý đối với năm nguồn lực: vật thể (lực lượng sản xuất), dân cư, kinh tế (nguồn vốn), tri thức, xã hội. Năm nguồn lực trên ngày càng tập trung vào 2 đô thị cực lớn và một vài đô thị lớn, ở mỗi tỉnh thì ngày càng tập trung vào thị xã. Những phân bố này hiện đang ngày càng trở nên mất cân đối, có thể tạo nên những tích tụ động lực địa-kinh tế và địa-xã hội gây căng thẳng và xung đột tiềm tàng. 7.2.3. VĂN HOÁ THAY ĐỔI Quá độ từ xã hội cổ truyền sang xã hội công nghiệp và hiện đại hoá và chuyển đổi từ cơ chế xã hội chủ nghĩa bao cấp sang xã hội hiện đại dựa trên thị trường, là một sự thay đổi mang tính cách mạng về văn hoá, bao gồm hệ giá trị, hệ quy tắc chuẩn mực, kiểu tri thức, nguyên lý và 102 cách tổ chức xã hội. Điều này dẫn đến sự thay đổi mạnh mẽ trong thái độ, thế ứng xử và chiến lược sống của các chủ thể. Nó cũng dẫn đến việc biến đổi và hình thành các kiểu định chế và tổ chức mới, định hình lại toàn bộ chúng. Bởi vì văn hoá một mặt gắn liền với tư tưởng, tôn giáo, và bản sắc; mặt khác cũng gắn với lợi ích và vị thế; thêm nữa còn gắn với thói quen; nên sự thay đổi văn hoá này là một quá trình lâu dài, khó khăn, quanh co, thăng trầm và đầy xung đột, hoặc trì trệ. 7.2.4. THỂ CHẾ: KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ NHÀ NƯỚC Biến đổi cấu trúc xã hội và văn hoá trên thực tế là những biểu hiện bộ phận của một khuôn khổ mang tính tổng thể hơn. Đó là mô hình xã hội hiểu theo nghĩa rộng, trong mô hình này người ta phải định nghĩa được tính chất và kiến trúc nhà nước, trong đó có xác định cơ sở kinh tế thị trường. Kiến trúc nhà nước ở các nước phát triển cao, thể hiện trong Hiến pháp, bao gồm ba yếu tố: thị trường, pháp quyền và xã hội. Điều nghịch lý là để có thể quản lý tốt biến đổi xã hội, chúng ta lại cần có những thể chế vững chắc, trước hết là thể chế thị trường và Nhà nước. 7.2.5. THỐNG NHẤT VÀ ĐA DẠNG QUỐC GIA: VẤN ĐỀ TỘC NGƯỜI, TÔN GIÁO, VĂN HOÁ Trong một thời gian dài, ở phần lớn mọi quốc gia có xu hướng nhấn mạnh đến sự thống nhất, thậm chí đồng nhất quốc gia. Trên thực tế, rất ít quốc gia có được điều này, phần lớn đều phải đương đầu với tình trạng đa dạng về chủng tộc, tộc người, tôn giáo và văn hoá. Nhiều nước cũng đã chuyển từ hệ tư tưởng nhấn mạnh đến trạng thái độc tôn (một nền văn hoá, một tôn giáo, một tộc người chủ thể) sang trạng thái đa dạng, bình đẳng. Sự thống nhất quốc gia đạt được dựa trên quy tắc lấy một cái làm thống trị, độc tôn, chủ đạo thay thế cho duy trì bản sắc của số nhiều, ngày nay sự thống nhất kiểu này được thay thế bằng sự thống nhất quốc gia dựa trên đa dạng, khoan dung, chia sẻ những giá trị chung trên cơ sở luật pháp thống nhất. Tuy nhiên, như kinh nghiệm quá khứ cũng như hiện nay chỉ ra, sự thống nhất và đa dạng quốc gia vẫn đang là một trục căng thẳng và xung đột. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ, khi đất nước có 54 dân tộc, có nhiều tôn giáo lớn và tín ngưỡng bản địa, tính địa phương của văn hoá rất mạnh. Những khác biệt này ngày nay đang tích hợp với hàng loạt yếu tố xuyên chéo: quy mô dân số tăng, di dân mở rộng, tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống dẫn đến những yêu cầu và khát vọng xã hội tăng lên, kết cấu kinh tế chính trị và giai tầng xã hội tạo nên những khác biệt ngày càng tăng về nhóm xã hội, tác động và sự can thiệp của các thế lực bên ngoài. 7.2.6. VẤN ĐỀ NÔNG DÂN: CÁCH BIỆT ĐÔ THỊ-NÔNG THÔN, PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN Nhiều nước đang phát triển phải đối mặt với vấn đề nông dân như là một vấn đề lịch sử, đồng thời như là một trong những thách thức lớn nhất khi công nghiệp hoá và hiện đại hoá, do tầm vóc của quy mô dân số nông thôn. Giống như một số nước điển hình trong vấn đề này (chẳng hạn Trung Quốc, Ấn Độ), Việt Nam phải đặt trọng tâm vào "vấn đề nông dân" trong toàn bộ quá trình phát triển. Trong giai đoạn đầu của Đổi Mới, biến đổi xã hội đã diễn ra suôn sẻ một phần vì nông dân và nông thôn đã được hưởng lợi lớn. Tuy nhiên, giai đoạn hiện nay và sắp tới sẽ là thách thức lớn, vì sẽ ngày càng khó khăn trong việc đảm bảo cho nông dân và nông thôn tiếp tục được hưởng thụ một cách công bằng các thành quả của phát triển. 103 7.2.7. GIÁO DỤC Xét đến cùng, vấn đề giáo dục hiện nay liên quan đến hai khía cạnh cơ bản. Thứ nhất, đó là đạt mục tiêu giáo dục toàn dân, theo nghĩa mọi người dân đều được cơ hội bình đẳng và công bằng trong việc tiếp cận giáo dục, hưởng thành quả giáo dục, sử dụng thành quả giáo dục vào việc cải thiện đời sống và phát huy khả năng con người. Thứ hai, tạo nên một nền giáo dục đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tiến bộ trong giáo dục sẽ là một động lực thúc đẩy biến đổi xã hội mạnh mẽ nhất. Sản phẩm của giáo dục phải là những con người thấm nhuần hệ giá trị và chuẩn mực của xã hội công nghiệp hiện đại, có tri thức và kỹ năng phù hợp với hệ giá trị-chuẩn mực ấy (duy lý, thượng tôn luật pháp, giải quyết được mối quan hệ giữa cá nhân luận và cộng đồng, thượng tôn tư cách công dân, chuyên môn hoá và chuyên nghiệp hoá, đạo đức và kỷ luật công nghiệp, tâm thế sẵn sàng với thay đổi và canh tân, chấp nhận phê phán, ưa thích và khuyến khích kinh doanh, ...). Hệ giá trị, chuẩn mực và kỹ năng này đối lập sâu sắc với những nguyên lý cổ truyền, tiền công nghiệp, nhưng hiện đang phổ biến, mang tính chủ đạo, được chia sẻ và được đề cao trong số đông. Tương tự, hệ thống giáo dục cũng trang bị chưa đầy đủ, thậm chí còn chuẩn bị lệch hướng, cho các thế hệ về hệ giá trị, chuẩn mực và kỹ năng mang tính thúc đẩy cho phát triển. 7.2.8. MẠNG LƯỚI AN TOÀN XÃ HỘI CHO XÃ HỘI VÀ CÁC NHÓM YẾU THẾ Xây dựng hệ thống phúc lợi cho toàn xã hội và cho những nhóm yếu thế là một nội dung hữu cơ trong chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá. Hệ thống này đồng thời là cơ chế tăng liên kết xã hội, giảm nhẹ xung đột và khủng hoảng. Do đó, hệ thống này là điều kiện cơ bản cho việc đảm bảo nền tảng cho những biến đổi xã hội thành công. 7.2.9. LỆCH CHUẨN VÀ TỘI PHẠM Do biến đổi nhanh chóng của văn hoá và cấu trúc xã hội, sự phát triển không đều giữa chúng, các hiện tượng lệch chuẩn, tội phạm và tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng về số lượng, phạm vi cũng như mức độ phổ biến và tính nghiêm trọng. Tình trạng này gây ra những hậu quả nặng nề: làm chệch hướng phát triển, tăng chi phí kinh tế và xã hội, gây bại hoại về đạo đức xã hội. Hiện chưa có những đánh giá đầy đủ về thiệt hại kinh tế và xã hội của tội phạm và tệ nạn xã hội, nhưng có thể ước tính rằng mức độ thiệt hại là rất cao. 7.2.10. MÔI TRƯỜNG VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU Do tác động của tăng dân số, tăng trưởng kinh tế và tiêu dùng, và đẩy mạnh công nghiệp hoá, môi trường Việt Nam đang chịu sức ép mất cân bằng, ô nhiễm và suy thoái (Xem thêm Báo cáo Phần môi trường của Đề tài KX.02.10). Tác động của vấn đề môi trường toàn cầu càng đẩy Việt Nam vào một tình thế khó khăn lớn hơn, khi Việt Nam được xem là một trong 2 quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu (Lê Thanh Sang, 2009). Tác động của môi trường và biến đổi khí hậu toàn cầu sẽ là những thông số rất mạnh mẽ và sâu xa ảnh hưởng đến biến đổi xã hội mà không phải lúc nào người ta cũng nhận thức và đo lường được một cách dễ dàng. 104 7.3. CÁC NHÂN TỐ BẤT ỔN ĐỊNH: QUẢN LÝ KHỦNG HOẢNG Các quá trình nền ở tầng nấc sâu xa trong cấu trúc xã hội liên quan đến quản lý chiến lược và quản lý biến đổi, trong sự tương tác qua thời gian sẽ đưa đến những biểu hiện bề mặt, tạo ra những nhân tố bất ổn định tiềm tàng, có thể không kiểm soát được kịp thời. Có thể dự kiến 8 bất ổn định tiềm tàng sau đây. o Khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tiền tệ, nhịp độ tăng trưởng giảm sút (do đầu tư sai, chính sách vĩ mô sai, quản lý vĩ mô yếu kém, quản lý tài chính quốc gia và địa phương yếu kém, do khủng hoảng kinh tế thế giới hay khu vực). o Nhu cầu tăng lên do tăng dân số và nguồn lao động mà khả năng xã hội không đáp ứng đủ. o Lạm quyền và tham nhũng, gây nên mất lòng tin và làm biến dạng các hình thái phát triển. o Bất bình đẳng tăng quá cao và nghèo đói. o Các phong trào mang tính tôn giáo hay dân tộc. o Khả năng lãnh đạo và quản lý bị tụt hậu quá xa so với yêu cầu của xã hội. o Trung Quốc hoặc khu vực bị khủng hoảng. o Những diễn biến đột ngột của kinh tế và chính trị toàn cầu. Những diễn biến ở Việt Nam trong các năm 2007-2009 cho thấy những yếu tố trên không phải là điều tưởng tượng hoặc quá xa xôi. Nền kinh tế-chính trị toàn cầu đang có những triệu chứng khó nắm bắt và nhận diện (giá dầu, giá vàng, khủng hoảng tài chính, tiềm ẩn chiến tranh lớn ở Trung Đông hoặc Thái Bình Dương). Các phản ứng chính sách kém nhạy bén và hiệu quả khiến cho có lúc có nơi lạm phát tăng cao, tỷ giá và giá các hàng hóa cơ bản biến động thất thường, một số thị trường cơ bản có lúc có dấu hiệu bị rối loạn. Điều đáng chú ý là nhiều trong số các nhân tố này gắn liền với động thái kết cấu giai tầng xã hội và trạng thái văn hoá trong nước. Cần đặc biệt chú ý rằng những nhân tố bất ổn định nói trên cho đến nay rất ít được theo dõi, quan sát một cách có hệ thống, đồng bộ, khoa học, thu hút nhiều lực lượng nghiên cứu có phối hợp tổ chức. Giống như việc đo lường các thông số thời tiết và các thông số sức khỏe cá nhân, trạng thái xã hội cũng cần phải được đo lường thường xuyên và có hệ thống. 7.4. NHỮNG GIẢI PHÁP NHÌN TỪ TIẾP CẬN XÃ HỘI HỌC Các Mục trên đề cập đến các quá trình biến đổi dài hạn (chiến lược), trung hạn (biến đổi xã hội bộ phận), và hàng ngày (các bất ổn định), cũng như mối liên hệ giữa chúng. Mục này đề cập một số định hướng giải pháp nhìn từ tiếp cận xã hội học. 7.4.1. CHÍNH SÁCH QUỐC TẾ 105 Cần tiến hành sự phân tích lại về cơ bản bối cảnh kinh tế chính trị quốc tế, trên cơ sở đó xây dựng chính sách đối ngoại phục vụ đúng lợi ích quốc gia hiện thực. Coi bối cảnh quốc tế là một xuất phát điểm chi phối chiến lược phát triển trong nước, kể cả mô hình phát triển. Cần thay đổi căn bản cách hình thành và thực hiện chính sách đối ngoại quốc gia. Cách làm cũ coi đây là lĩnh vực bí mật an ninh quốc gia, việc hình thành và thực hiện chỉ thu hẹp ở cấp cao và trong một số nhỏ ban ngành chuyên môn. Điều này không phù hợp với hoàn cảnh hiện nay, do những đặc điểm như sau: o Tình hình quốc tế ngày càng phức tạp và chuyển biến nhanh, việc nắm bắt đúng chuyển động quốc tế không thể chỉ dựa vào một số nhân lực và tổ chức hạn hẹp, mà phải dựa vào cả một hệ thống đông đảo các tổ chức và nhân lực nghiên cứu (các nước phát triển cao đều xây dựng một nguồn lực hùng hậu cho việc này; gần đây Trung Quốc cũng tăng cường mạnh mẽ nguồn lực nghiên cứu quốc tế). o Đất nước không ở trong tình trạng chiến tranh mà đang ở trong thời kỳ hòa bình bình thường. o Sự phổ biến của ngoại giao toàn diện, ngoại giao nhân dân (quan hệ kinh tế, văn hoá, di cư lao động, du lịch, ...). o Tầm quan trọng ngày càng tăng của nghiên cứu khoa học có hệ thống đối với mọi lĩnh vực (kinh tế, quân sự, chính trị, công nghệ, văn hoá, xã hội). 7.4.2. MÔ HÌNH ĐẦU TƯ-TĂNG TRƯỞNG Cần nghiên cứu điều chỉnh mô hình đầu tư-tăng trưởng vừa qua. Mô hình này còn có những điểm trùng hợp với quan niệm và thực tiễn của mô hình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa kiểu cũ. Đường lối kinh tế của một Đảng cần nêu lên được những nguyên tắc (nguyên lý) chính định hình nền kinh tế. Mô hình đầu tư-tăng trưởng cần được điều chỉnh theo tính ưu tiên của vấn đề kỷ nguyên dân số vàng và già hóa dân số (Xem Chương Ba). Sự phát triển và hiện đại hoá sẽ chỉ đúng hướng khi công nghiệp hoá đạt được những đặc điểm sau: cân đối vùng (đô thị-nông thôn, vùng địa lý), công nghiệp hoá phi tập trung và đô thị hoá phi tập trung, không tạo ra nền kinh tế phân cách và nền kinh tế hai tầng. 7.4.3. ĐIỀU CHỈNH ĐỊNH CHẾ VÀ CHÍNH SÁCH Hiện nay, nhu cầu điều chỉnh cả định chế và chính sách đều cấp bách. Tuy nhiên, trong hai vấn đề đó cải cách định chế phải được đặt vào trọng tâm và làm trước, bởi vì nó là công cụ để thực hiện chính sách. Chính sách mới sẽ không thể được thực hiện bởi định chế cũ. Nội dung của cải cách định chế bao gồm: lãnh đạo, xây dựng năng lực, sắp xếp định chế (xác định các chủ thể; chức năng nhiệm vụ; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, cũng như cơ chế tương tác qua lại của các chủ thể). 7.4.4. QUAN HỆ NHÀ NƯỚC-XÃ HỘI Phải xác lập vững chắc (tức là thể hiện được trong thực tế) quan điểm chủ thể trực tiếp và chủ yếu của công nghiệp hoá và hiện đại hoá là người dân, tức khu vực dân doanh và tập thể. Nhà nước chỉ làm nhiệm vụ tạo các cơ sở hạ tầng (môi trường kinh tế, pháp lý vĩ mô, đường sá, điện 106 lực, giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội, v.v.). Đây chính là một nội dung quan trọng của thay đổi định chế. 7.4.5. PHÂN BỐ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỊA-KINH TẾ, ĐỊACHÍNH TRỊ Chú trọng quy hoạch phân bố lực lượng sản xuất đáp ứng yêu cầu địa-kinh tế, địa-chính trị. Việc phân bố các lực lượng sản xuất đã được chú ý trong những năm 1960-1970. Do khủng hoảng kinh tế và buông lỏng quản lý tập trung những năm 1980, sự phân bố này bị xem nhẹ và phá vỡ. Sau Đổi Mới, vấn đề này chưa được chú ý đúng mức. Kết quả là hiện nay tồn tại sự mất cân bằng lớn trong phân bố lực lượng sản xuất (không chỉ cơ sở ngành nghề sản xuất mà bao gồm cả toàn bộ nhân lực, cơ sở dịch vụ xã hội, phân bố đô thị, ...). 7.4.6. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG Tập trung vào thay đổi căn bản các điều kiện của thị trường lao động trong 5 khu vực: chính trịhành chính, doanh nghiệp nhà nước, giáo dục/đào tạo, khoa học/công nghệ, y tế. Trong vấn đề này biện pháp đột phá là: tăng trách nhiệm cá nhân và tính tự chủ tổ chức bằng cách huỷ bỏ chế độ biên chế suốt đời, áp dụng phổ biến hợp đồng lao động có thời hạn, dự tuyển và cạnh tranh lao động. Thị trường lao động của 5 khu vực này cần được hình thành trên cả nước, xoá bỏ mọi rào cản khiến nguồn nhân lực không di chuyển được dễ dàng giữa các tổ chức, các khu vực địa lý. Đây là biện pháp đột phá chính cho cả ba hướng đột phá đã xác định (thể chế thị trường, giáo dục/đào tạo, cải cách hành chính). Văn kiện Đai hội Đảng toàn quốc lần thứ X nêu rõ "đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai, như thị trường lao động, ... thị trường khoa học và công nghệ". Thời gian qua cho thấy quan điểm này chưa được thể hiện trong các hoạt động quản lý và chỉ đạo. Xây dựng thị trường lao động chỉ được hiểu một cách thô thiển và hạn hẹp như là các hoạt động tạo việc làm (dạy nghề, xúc tiến việc làm,...). Thực ra, thị trường lao động là nơi thể hiện tổng hợp của thể chế, văn hoá (lòng tin, giá trị, quy tắc ứng xử), kết cấu giai tầng xã hội. 7.4.7. CẤP TỈNH TRONG MẮT XÍCH QUẢN LÝ Để có thể công nghiệp hoá và đô thị hoá theo kiểu phi tập trung, vai trò và năng lực cấp tỉnh phải nâng lên. Các tỉnh cần hiểu rõ tầm quan trọng của thay đổi quan niệm và định chế trong việc thu hút dòng vốn, công nghệ và nhân lực cao (trong kinh tế: nguyên lý thị trường nhiều hơn, trong xã hội: nhiều pháp quyền hơn, nhiều dân chủ hơn, nhiều tôn trọng cá nhân hơn). Nhìn từ góc độ cấp tỉnh, tình hình sẽ giống như vấn đề cạnh tranh giữa các quốc gia nhìn từ toàn cầu. Mỗi tỉnh có những vị thế đã bị quy định trong hệ thống quốc gia: vị thế địa-kinh tế có sẵn, trạng thái phát triển kinh tế và xã hội đã có. Yếu tố làm thay đổi vị thế và hoàn cảnh là môi trường chính sách: nguồn vốn, nhân lực và ý tưởng sẽ chỉ chảy vào những nơi nào hứa hẹn lợi nhuận, dân chủ, phát triển con người. 7.4.8. BA CẤP ĐỘ QUẢN LÝ XÃ HỘI 107 Sự phát triển tổng thể và dài hạn bao gồm những quá trình ở ba cấp độ: chiến lược (liên quan đến định hướng và tầm nhìn lịch sử), biến đổi xã hội (những diễn tiến mang tính trung hạn), và khủng hoảng tình huống. Ba cấp độ quá trình này liên hệ mật thiết với nhau, nhưng cũng có tính độc lập tương đối. Tương đương với ba cấp độ biến đổi này là ba kiểu quản lý: quản lý chiến lược, quản lý biến đổi xã hội và quản lý khủng hoảng. Điều này đòi hỏi phải xây dựng các cơ chế riêng cho từng loại hình quản lý, đồng thời phải có cơ chế phối hợp giữa chúng. Ba cơ chế quản lý liên quan mật thiết: chúng bổ sung và hỗ trợ cho nhau, cũng có thể gây tổn thất cho nhau. Xác định chiến lược không chính xác sẽ tạo nên những khó khăn lớn cho quản lý biến đổi và khủng hoảng, bởi quản lý chiến lược sai sẽ tạo nên những kết cấu kinh tế chính trị và xã hội lệch lạc, thường xuyên đẻ ra những vấn đề của "biến đổi", sớm muộn cũng tạo ra khủng hoảng. Tuy nhiên, trong bối cảnh chiến lược đúng đắn và biến đổi diễn ra suôn sẻ, hệ thống vẫn có thể nảy sinh khủng hoảng. Trong trường hợp đó, nếu quản lý khủng hoảng không hiệu quả sẽ dẫn đến nguy cơ phá hỏng toàn bộ thành quả của quản lý chiến lược và quản lý biến đổi. Sự kiện Thái Bình 1997, sự kiện Tây Nguyên 2001 và 2004, các cuộc đình công và khiếu kiện đất đai tập thể trong những năm qua, đã cho những bài học quý giá về quản lý khủng hoảng, đưa ra những gợi ý về quản lý biến đổi xã hội, nhưng có thể là chưa bộc lộ rõ chiều sâu của vấn đề để rút ra được những gợi ý về quản lý chiến lược. Bảng 7.1. Một sơ đồ khái niệm hoá các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển xã hội hiện nay Môi trường quốc tế Toàn cầu hoá: chính trị, xã hội, văn hoá, kinh tế, tư tưởng Chiến lược các siêu cường Vùng vấn đề cơ bản An ninh quốc tế Quốc tế hoá mọi mặt đời sống Năng động xã hội An ninh liên kết quốc gia Văn hoá Cơ cấu giai tầng xã hội: hình thành cơ cấu phân tầng xã hội mới, động lực phát triển. Thể chế nhà nước và xã hội dân sự Thể chế kinh tế Cấu trúc xã hội Biến động trong khu vực Các yếu tố tác động xã hội Biến đổi môi trường và khí hậu toàn cầu Tội phạm và lệch chuẩn Giáo dục Mạng an toàn xã hội Vấn đề đô thị/nông thôn Thống nhất/đa dạng quốc gia/xã hội. Thách thức/cơ hội Ảnh hưởng ngày càng tăng của toàn cầu hoá về mọi mặt. Sự phụ thuộc và can thiệp quốc tế tăng lên. Tăng số lượng các chủ thể xã hội, mở rộng cơ hội lựa chọn, các hình thái kết hợp. Những phong trào xã hội mới. Sắp xếp cơ cấu các vị thế và vai trò của các giai tầng. Những đòi hỏi chính trị, kinh tế, xã hội của các giai tầng. Suy giảm hoặc phá vỡ liên kết xã hội. Sức lãnh đạo của Đảng. Quan hệ Đảng và nhà nước. Sự nổi lên của xã hội dân sự đa dạng. Sự tham gia ngày càng tăng của nhiều chủ thể xã hội. Bình đẳng và sự chủ đạo của các thành phần kinh tế. Hội nhập quốc tế. Phát triển công nghệ. Thị trường lao động. Bóp méo, làm suy giảm và phá huỷ thành quả phát triển. Giáo dục toàn dân. Đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá. Mẫu người sản phẩm của giáo dục. Động lực khoa học công nghệ. Mở rộng phạm vi bảo hiểm xã hội toàn dân. Bảo hiểm y tế. Tổ chức bảo hiểm xã hội. Đô thị phát triển thái quá. Cách biệt đô thị/nông thôn. Di dân. Việc làm. Thu nhập. Cách biệt dân tộc, tôn giáo, văn hoá, địa phương. Ngôn ngữ. Sự tham gia xã hội. 108 Dân số tăng và biến đổi cơ cấu dân số Môi trường Nguồn: Bùi Thế Cường. Quy mô dân số quá lớn. Tăng nhanh nguồn lao động. Già hoá dân cư sau 2010. Suy kiệt tài nguyên môi trường. Quan hệ dân sốmôi trường. Biến đổi khí hậu toàn cầu. 109 KẾT LUẬN Cuốn sách này góp phần trình bày những quan niệm liên quan đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển. Nêu lên 18 quan điểm lý luận, đồng thời cố gắng làm rõ rằng những quan điểm ấy có mối liên quan mật thiết đến định hướng tư tưởng và sau đó đến việc triển khai chính sách cụ thể. Tác giả cho rằng trong một sơ đồ diễn giải lý luận mà ta đang cần hôm nay, có một điểm then chốt. Đó là nhìn sự phát triển của Việt Nam như là một bộ phận, biểu hiện cụ thể của một quá trình lịch sử toàn cầu, trong đó cũng như Việt Nam, tất cả các nước đang trong một sự quá độ ở mức độ khác nhau giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Công trình nghiên cứu này nhìn các vấn đề xã hội, hay các khía cạnh xã hội, của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa trong 4 chủ đề lớn: động lực dân số, văn hóa, kết cấu xã hội và phúc lợi xã hội. Trong lĩnh vực dân số, cuốn sách cố gắng làm rõ một điểm then chốt: Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên dân số vàng, một cơ hội lịch sử có một không hai cho phát triển nhanh. Và điều kiện quan trọng nhất ở đây là khả năng đưa ra được hệ thống chính sách đúng đắn, có khả năng tận dụng cơ hội lịch sử này. Chúng tôi cũng nhất trí với một số nghiên cứu khác về dân số, cho rằng di dân về cơ bản là biểu hiện của những quá trình tích cực, và bản thân nó là một động lực thúc đẩy phát triển. Chương Ba nêu lên thông điệp: cần nhận thức rõ và làm chủ được các động lực của động thái dân số. Cuốn sách dựa trên quan điểm xã hội học xem văn hóa và kết cấu xã hội là hai mặt không thể tách rời của tổ chức xã hội. Chương Bốn hy vọng sẽ được người đọc chia sẻ quan điểm nhấn mạnh thái độ văn hóa đối với hiện đại hóa. Đồng thời xem luật pháp là bộ phận quan trọng nhất của văn hóa. Hệ quả của quan niệm này là tiêu điểm mang tính đột phá: tính hiện đại của văn hóa và thượng tôn luật pháp. Cuốn sách cố gắng nêu lên một bức tranh tóm lược về kết cấu xã hội: sự bất bình đẳng tăng dần giữa các nhóm phân chia theo đô thị-nông thôn, tộc người, khu vực-nghề nghiệp trong việc sở hữu và kiểm soát các tài nguyên kinh tế, tri thức và quyền lực. Chúng tôi cũng nêu lên một mong ước: nhìn thấy một cam kết chính trị cao trong việc đảo ngược xu thế tăng bất bình đẳng hiện nay kết hợp với điều chỉnh kết cấu giai cấp xã hội. Một trụ cột của bất cứ xã hội hiện đại nào là hệ thống phúc lợi xã hội. Hệ thống này đã đóng vai trò tương đối xuất sắc trong 25 năm Đổi Mới vừa qua góp phần vào tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo, ổn định chính trị-xã hội, phát triển con người. Nhưng người ta mong đợi ở nó nhiều hơn nữa trong việc tạo nên một hệ thống phúc lợi toàn dân. Cuối cùng, cuốn sách đề cập đến những vấn đề cơ bản ảnh hưởng đến biến đổi xã hội hiện nay và những yếu tố gây mất ổn định tiềm tàng, với hy vọng đặt những bảng cảnh báo ở những khúc ngoặt chính trên bản đồ mô tả thực địa cho các nhà vạch chính sách trên chuyến lữ hành gian khó của họ. Phạm Xanh nhìn lịch sử Việt Nam thế kỷ XX như một cuộn phim với sáu trường đoạn đầy ấn tượng: 110 o Trường đoạn một: phong trào đổi mới tư duy của lớp nho sĩ yêu nước đầu thế kỷ. Do tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) và luồng gió tân văn tân thư đến từ Trung Quốc và Nhật Bản, các bậc sĩ phu đầu thế kỷ XX đã có những thay đổi mạnh mẽ về tri thức và tư duy. Phong trào Duy Tân và Phong trào Đông Kinh nghĩa thục thời kỳ 1906-1908 chính là những biểu hiện đỉnh cao của sự thay đổi ấy. o Trường đoạn hai: giao thoa văn hoá Đông-Tây những năm 1920. o Trường đoạn ba: cuộc đấu tranh xoay quanh nhiệm vụ giải phóng dân tộc khởi đầu từ năm 1925. Lần đầu tiên ở Việt Nam xuất hiện các đảng phái chính trị, khởi nghĩa Yên Bái của Quốc dân đảng thất bại đồng thời Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời nắm lấy ngọn cờ chống chủ nghĩa thực dân. o Trường đoạn bốn: ba cuộc tập dượt dẫn đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 dựng nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đầu tiên ở khu vực thuộc địa. o Trường đoạn năm: cuộc trường chinh 30 năm giành độc lập và thống nhất dân tộc. o Và trường đoạn sáu: Đổi Mới tư duy lần nữa (Phạm Xanh, 2001). Với mục tiêu năm 2020 về cơ bản Việt Nam trở thành một nước công nghiệp hiện đại, thì còn rất ít thời gian để thế hệ hôm nay hoàn thành hành trình hơn một trăm năm hiện đại hóa đất nước. Nếu nói đến Đổi Mới như là giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại hóa thực sự, thì thời gian cũng không còn nhiều: chúng ta đã sử dụng gần 70% trong thời lượng 35 năm mà bài toán phát triển / hiện đại hóa cho phép, trong khi khối lượng công việc còn ngổn ngang. Cần lưu ý rằng trong một thời lượng mà thời đại đã ban tặng (hay đòi hỏi, cho phép?) cho các nước thuộc khu vực châu Á-Thái Bình Dương để giải quyết xong “vấn đề công nghiệp hóa hiện đại hóa”, Việt Nam hiện nay đang ở vào thời điểm tương tự xấp xỉ trước sau 1990 của Singapore, Hàn Quốc, Malaysia, lãnh thổ Hong kong, lãnh thổ Đài Loan, Thái Lan. Vào khoảng thời đoạn ấy, các nước và các lãnh thổ đó đã hoàn thành được những gì trên chuyến lữ hành của họ? Để hoàn thành mục tiêu của chuyến lữ hành, người ta cần sự nỗ lực, dũng cảm và những tấm bản đồ đúng đắn phù hợp với thực địa. "Từ lâu tôi đã có một niềm tin chắc chắn rằng đối với xã hội học, điều quan trọng không phải là các sự kiện mà là bản đồ xã hội, tức là lý luận" (Sztompka, 2003). 111 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. 13. 14. 15. 16. 17. 18. 19. 20. Ban chỉ đạo Tổng Điều tra Dân số và nhà ở Trung ương. 2000. Tổng Điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999. Kết quả điều tra mẫu. Hà Nội: Nhà xuất bản Thế giới. Bélanger, Danièler. 1995. Cơ cấu gia đình và mô hình hình thành gia đình ở Việt Nam trong những năm đầu thập kỷ 1990. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường / Ngân hàng Thế giới (VIE/89/034). 1994. Dự án Quy hoạch Tổng thể Đồng bằng sông Hồng: Báo cáo Khởi đầu. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. 2003. Toạ đàm "Hệ thống an sinh xã hội Việt Nam. Hà Nội: Khách sạn Thắng Lợi. 1/4/2003. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Cơ quan Hợp tác Kỹ thuật Đức (GTZ). 2009. Hội thảo khởi động "Xây dựng chiến lược an sinh xã hội Giai đoạn 2011-2020. Ninh Thuận ngày 4-5/8/2009. Bộ Ngoại giao. 1995. Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia. Bộ Y tế và Tổng cục thống kê. 2003. Báo cáo kết quả Điều tra y tế quốc gia 2001-2002. Hà Nội. Buchholz, Todd G. 2007. Ý tưởng mới từ các kinh tế gia tiền bối. Hà Nội: Nhà xuất bản Tri thức. Bùi Quang Dũng. 2004. Nhập môn lịch sử xã hội học. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Bùi Thế Cường. 1999. Phúc lợi xã hội Việt Nam trong những năm 90. Tạp chí Xã hội học, số 3&4.1999. Bùi Thế Cường. 2001. Già hoá dân số Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối với chính sách người cao tuổi. Tạp chí Xã hội học. Số 1.2001. Bùi Thế Cường. 2001. Bầu cử Hội đồng nhân dân ở làng xã miền Bắc: Từ một đánh giá nhanh nông thôn. Tạp chí Xã hội học. Số 3/2001. Bùi Thế Cường. 2001. Chính sách xã hội và công tác xã hội ở Việt Nam thập niên 90. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Bùi Thế Cường (Chủ biên). 2002. Phúc lợi xã hội châu Á-Thái Bình Dương. Phúc lợi doanh nghiệp. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Bùi Thế Cường. 2003a. Nghiên cứu xã hội trong thời kỳ Đổi Mới: Thử nhìn lại và hướng đến 2010. Hà Nội, 10/5/2003. Bùi Thế Cường (Chủ biên). 2003b. Phúc lợi xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ Đổi Mới: Hiện trạng, vấn đề và điều chỉnh. Báo cáo tổng quan đề tài cấp Bộ "Phúc lợi xã hội ở Việt Nam: Hiện trạng và xu hướng". Hà Nội: Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Bùi Thế Cường (Chủ biên). 2003c. HIV/AIDS ở nơi làm việc: hiểu biết, chính sách và vai trò của phúc lợi doanh nghiệp. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Bùi Thế Cường. 2003d. Nỗ lực tập thể và phong trào xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá: Một khởi thảo nghiên cứu. Tạp chí Xã hội học. Số 1/2003. Bùi Thế Cường. 2003e. Đến với các lý thuyết xã hội học hiện đại: Quan điểm tiến hoá. Trong: Tạp chí xã hội học. Số 4.2003. Hà Nội. Bùi Thế Cường. 2004. Cơ hội dân số và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Trong: Tạp chí Hoạt động khoa học. Hà Nội: Bộ Khoa học và công nghệ. Số 9(544)/2004. 112 21. Bùi Thế Cường. 2005. Trong Miền an sinh xã hội. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia. 22. Bùi Thế Cường. 2006. Randall Collins: Xã hội học về Đấng tối cao. Tạp chí Khoa học xã hội. Số 3&4 (91-92)/2006. 23. Bùi Thế Cường. 2006. Phân tích chức năng trong nghiên cứu xã hội. Tạp chí Khoa học xã hội. Số 5(93)/2006. 24. Bùi Thế Cường và Đỗ Minh Khuê. 2006. Một lịch sử ngắn về quan niệm phát triển. Tạp chí Khoa học xã hội. Số 10(98)/2006. 25. Bùi Thế Cường. 2006. Các lý thuyết về hành động xã hội. Tạp chí Khoa học xã hội. Số 6(94)/2006. 26. Bùi Thế Cường, Nguyễn Quang Vinh, và Joerg Wischermann. 2001. Các tổ chức xã hội Việt Nam: Một nghiên cứu ở Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh. 27. Dapice, David. 2006. Những thách thức của sự phát triển nhanh và bền vững ở Việt Nam. Hội thảo bàn tròn cấp cao lần thứ tư Dự án Hỗ trợ Tổng kết 20 năm Đổi Mới ở Việt Nam. Khách sạn Melia 15-16/6/2006. 28. Darity Jr., William A. 2008. Xã hội dân sự. Lương Nguyễn dịch. Talawas 491. 7/9/2008. 29. Diễn đàn Phát triển GRIPS. 2003. Gắn tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo. Cơ sở hạ tầng quy mô lớn trong bối cảnh Chiến lược toàn diện về Tăng trưởng và Xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. 30. Dương Trung Quốc. 2004. Đừng ngồi trong nhà và đóng tất cả cánh cửa lại. VietnamNet 14/5/2004. 31. Đặng Kim Sơn. 2001. Công nghiệp hoá từ nông nghiệp. Lý luận Thực tiễn và Triển vọng áp dụng ở Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Nông nghiệp. 32. Đặng Nghiêm Vạn. 2001. Dân tộc Văn hoá Tôn giáo. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội. 33. Đặng Ngọc Dinh. 2006. Xã hội dân sự - Bản chất, cấu trúc và xu hướng phát triển ở Việt Nam. Tạp chí Khoa học xã hội. Số 12(100)/2006. 34. Đặng Nguyên Anh. 1998. Vai trò của mạng lưới xã hội trong quá trình di cư. Trong: Tạp chí xã hội học. Số 2.1998. Hà Nội. 35. Đặng Nguyên Anh. 2004. Hiện trạng và chính sách dân số trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa. Báo cáo chuyên đề Đề tài KX.02.10. Hà Nội: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. 36. Đặng Nguyên Anh. 2009. Di cư và phát triển ở Việt Nam: Những vấn đề nổi bật cần xem xét về chính sách. Trong: Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Liên hợp quốc. 2009. Hội thảo khoa học “Di dân, phát triển và giảm nghèo”. Hà Nội: 5-6/10/2009. 37. Đặng Thu, 1996. Một số vấn đề về dân số Việt Nam. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội. 38. Đinh Văn Ân (Chủ biên). 2005. Quan niệm và thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội tốc độ nhanh, bền vững chất lượng cao ở Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê. 39. Đinh Văn Ân và Hoàng Thu Hòa (Đồng Chủ biên). 2006. Đổi mới cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê. 40. Đinh Văn Ân và Lê Xuân Bá. 2006. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật. 41. Đinh Xuân Lâm và Phạm Hồng Tung. Khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam: Thử nhận diện một vài tồn tại và thách thức dưới góc nhìn lịch sử và phương pháp luận. Tạp chí Khoa học xã hội. Số 10(86)/2005. 113 42. Downs, Robert B. 2003. Những tác phẩm biến đổi thế giới. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao động. Trang 181-280. 43. Đỗ Hoài Nam và Võ Đại Lược (Chủ biên). 2005. Một số vấn đề phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay. Hà Nội: Nhà xuất bản Thế Giới. 44. Đỗ Lai Thúy. 2006 (In lần thứ hai). Chân trời có người bay. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin. 45. Đỗ Minh Cương (Chủ biên). 1994. Những luận cứ khoa học để đổi mới bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Hà Nội. 46. Đỗ Minh Khuê. 2004. Những vấn đề xã hội của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa: Trường hợp Hà Nội. Báo cáo chuyên đề Đề tài KX.02.10. Hà Nội: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. 47. Đỗ Thiên Kính. 2002. Tìm hiểu phân tầng xã hội trong lịch sử và áp dụng vào nghiên cứu phân hoá giàu nghèo ở nước ta hiện nay. Trong: Tạp chí xã hội học. Số 1.2002. Hà Nội. 48. Đỗ Thiên Kính. 2004. Phân tầng xã hội và di động xã hội. Báo cáo chuyên đề Đề tài KX.02.10. Hà Nội: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. 49. Đỗ Thiên Kính. 2006. Công nghiệp hóa, phân tầng xã hội và đo lường di động xã hội liên thế hệ. Tạp chí Khoa học xã hội. Số 11(99)/2006. 50. Drucker, Peter. 1998. Hậu chủ nghĩa tư bản. Trong: Tạp chí xã hội học. Số 4.1998. Hà Nội. 51. Friedman, Thomas L. 2005. Chiếc Lexus và cây Ôliu: Tìm hiểu kỷ nguyên toàn cầu hóa. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. 52. Ghesquiere, Henri. 2008. Bài học thành công của Singapore. Singapore: Cengage Learning Asia Pte Ltd. Người dịch: Phạm Văn Nga-Phạm Hồng Đức. 53. Giang Thanh Long và Dương Kim Hồng (Chủ biên). 2007. Các vấn đề xã hội trong quá trình chuyển đổi và hội nhập kinh tế ở Việt Nam. Tập 1. Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF). 54. Hà Dịu. 2008. TPHCM: Công nhân rùng rùng bỏ việc về quê. VietnamNet 22/2/2008. 55. Hirschman, Charles và Vũ Mạnh Lợi. 1994. Gia đình và cấu trúc hộ gia đình ở Việt Nam. Tạp chí Xã hội học. Hà Nội. Số 3/1994. 56. Hoàng Chí Bảo. 2005. Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay. Hà Nội: Nhà xuất bản Lý luận Chính trị. 57. Hoàng Tụy. 2008. Kiểu làm không giống ai là cách tụt hậu nhanh nhất. VietNamNet. 15/9/2008. Bảo Anh (thực hiện phỏng vấn). 58. Holzmann, Robert. 2003. Quản lý rủi ro xã hội: Cơ sở lý luận xây dựng hệ thống bảo đảm xã hội. Trong: Palier, Bruno và Louis-Charles Viossat. 2003. Chính sách xã hội và quá trình toàn cầu hóa. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Trang 41-72. 59. Houtart, Francois. 2007. Đấu tranh chống đói nghèo theo cách của chủ nghĩa tự do mới. Tạp chí Xã hội học. Hà Nội. Số 1(97)/2007. 60. Huntington, Samuel. 2003. Sự va chạm của các nền văn minh. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao động. 61. Iwai Misaki và Bùi Thế Cường (Chủ biên). 2010. Kỷ yếu tọa đàm Di dân ở Việt Nam trong thời kỳ hiện đại hóa, công nghiệp hóa. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 62. Kleinen, John. 2007. Làng Việt đối diện tương lai hồi sinh quá khứ. Đà Nẵng: Nhà xuất bản Đà Nẵng. 63. Lê Đăng Doanh. 2001. Đổi Mới và sự phát triển con người ở Việt Nam. Thời đại. Tạp chí nghiên cứu & thảo luận. Số 5.2001. Paris, Pháp. Trang 30-40. 64. Lê Hữu Tầng (Chủ biên). 1997. Về động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 114 65. Lê Thanh Sang, 2009. Biến đổi khí hậu và sự quan tâm của người dân Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Khoa học xã hội học. Thành phố Hồ Chí Minh: Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ. Số 9/2009. 66. Lê Thanh Sang, Huỳnh Thị Ngọc Tuyết, Nguyễn Thị Minh Châu, Nguyễn Lan Hương, Trần Minh Út. 2009. Quan hệ lao động và tranh chấp lao động, đình công. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (Đang xuất bản). 67. Lê Văn Dụy. 1991. Dự tính dân số Việt Nam đến năm 2014. Thông tin Dân số. Số 6/1991. 68. Lê Văn Dụy và Phan Thị Ngọc Trâm. 1997. Cấu trúc dân số và cơ cấu hộ gia đình. Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê. 69. Lê Xuân Bá và Nguyễn Thị Tuệ Anh. 2006. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 15 năm (19912005) từ góc độ phân tích đóng góp của các nhân tố sản xuất. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật. 70. Letourmy, Alain. 2003. Quản lý phi tập trung đối với hệ thống bảo hiểm xã hội và cơ chế huy động sự tham gia của người dân vào việc quản lý bảo hiểm xã hội. Một mô hình phù hợp với các nước có thu nhập thấp. Trong: Khoá họp lần thứ tư Diễn đàn kinh tế-tài chính Việt-Pháp "Vì một xã hội và sự tăng trưởng công bằng". Thành phố Hồ Chí Minh, 1011/9/2003. 71. Lục Học Nghệ (Chủ biên). 2004. Báo cáo nghiên cứu giai tầng xã hội Trung Quốc đương đại. Hà Nội: Viện Nghiên cứu Trung Quốc. 72. Lương Văn Hy (Chủ biên). 2000. Ngôn từ, giới và nhóm xã hội. Từ thực tiễn tiếng Việt. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 73. Lưu Hồng Minh. 2005. Kết cấu giai tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay. Báo cáo chuyên đề Đề tài KX.02.10. Hà Nội: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. 74. Mai Huy Bích. 2002. Một số vấn đề xã hội học tri thức đặt ra từ "Đông phương học" của E.W. Said. Trong: Tạp chí xã hội học. Số 2.2002. Hà Nội. 75. Mai Văn Hai. 2002. Biểu tượng và văn hoá biểu tượng trong tư duy xã hội học. Trong: Tạp chí xã hội học. Số 2.2002. Hà Nội. 76. Martinelli, Alberto. 2002. Thế giới bước vào thế kỷ XXI và những vấn đề của xã hội học. Trong: Tạp chí xã hội học. Số 3.2002. Hà Nội. 77. Marx, Carl. 1961. Đấu tranh giai cấp ở Pháp. Hà Nội: Nhà xuất bản Sự Thật. 78. Marx, Carl và Friedrich Engels. 1976. Một số thư về chủ nghĩa duy vật lịch sử. Hà Nội: Nhà xuất bản Sự Thật. 79. Marx, Carl, Friedrich Engels, và Vladimir I. Lenin. 1963. Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Hà Nội: Nhà xuất bản Sự Thật. 80. Nguyễn Đức Chiện. 2006. Các khuôn mẫu xã hội mới và khả năng tham gia tiếp nhận của các nhóm xã hội ở một làng Việt cổ truyền châu thổ sông Hồng sau hai mươi năm Đổi Mới. Chuyên đề KX.02.10. 81. Nguyễn Đức Truyến. 2002. Những vấn đề xã hội học của các phong trào xã hội qua sự kiện Thái Bình 1996-1997. Trong: Bùi Thế Cường và cộng sự. 2002. Phong trào xã hội trong thời kỳ Đổi Mới: Một nghiên cứu bước đầu. Viện Xã hội học. Phòng Phúc lợi xã hội. Báo cáo đề tài tiềm lực năm 2002. 82. Nguyễn Đức Truyến. 2003. Công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nông thôn. Báo cáo chuyên đề Đề tài KX.02.10. Hà Nội: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.. 83. Nguyễn Hải Hữu. 2006. Phát triển Hệ thống an sinh xã hội hiện đại phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tạp chí Xã hội học. Hà Nội. Số 1(93)/2006. 84. Nguyễn Hải Hữu. 2007. Công bằng xã hội với chính sách bảo trợ xã hội trong mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế. Tạp chí Xã hội học. Hà Nội. Số 1(97)/2007. 115 85. Nguyễn Hiến Lê. 2001. Hồi ký Nguyễn Hiến Lê. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. 86. Nguyễn Hữu Dũng. 2002. Khía cạnh thể chế, xã hội và văn hoá của thị trường lao động. Báo cáo chuyên đề Đề tài KX.02.10. Hà Nội: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. 87. Nguyễn Khắc Mai. 1996. Vị trí, vai trò các hiệp hội quần chúng ở nước ta. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao động. 88. Nguyễn Phương Quỳnh Trang, Jonathan S., et al. 2002. Hiệp hội kinh doanh ở Việt Nam: Hiện trạng, vai trò và hoạt động (Thảo luận về khu vực tư nhân No.13). Hà Nội: MPDF và Asia Foundation. 89. Nguyễn Thanh Liêm. 2009. Di dân thanh niên và biến đổi xã hội ở Việt Nam. Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Liên hợp quốc. 2009. Hội thảo khoa học “Di dân, phát triển và giảm nghèo”. Hà Nội: 5-6/10/2009. 90. Nguyễn Thị Hằng. 2005. Bảo hiểm xã hội phải đến với người lao động. Báo điện tử Thời báo Kinh tế Việt Nam 13/6/2005. (Trả lời phỏng vấn). 91. Nguyễn Thị Oanh. 1978. Công tác xã hội ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Bài không xuất bản. 92. Nguyễn Văn Nam và Trần Thọ Đạt. 2006. Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân. 93. Nguyễn Văn Thanh. 1998. Nhìn nhận lại vai trò của các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài ở Việt Nam. Tạp Chí Cộng Sản. Số 7 (9-1998). 94. Nguyễn Văn Thường và Nguyễn Kế Tuấn (Chủ biên). 2006. Kinh tế Việt Nam năm 2005 Trước ngưỡng cửa của Tổ chức Thương mại Thế giới. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân. 95. Nguyễn Văn Xuân. 2000. Phong trào Duy Tân. Đà Nẵng: Nhà xuất bản Đà Nẵng. 96. Nguyễn Viết Vượng. 1994. Các đoàn thể nhân dân trong kinh tế thị trường. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 97. Nguyễn Việt Cường, Marrit Van den Berg, Robert Lensink. 2009. Tác động của di dân đến phúc lợi, nghèo đói và bất bình đẳng ở cấp độ hộ gia đình: Những bằng chứng mới ở Việt Nam. Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Liên hợp quốc. 2009. Hội thảo khoa học “Di dân, phát triển và giảm nghèo”. Hà Nội: 5-6/10/2009. 98. Nguyễn Xuân Sanh. 2004. Nước Đức thế kỷ thứ XIX. Những thành tựu khoa học và kỹ thuật. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 99. Nhà xuất bản Trẻ. 2006. Thời cơ Vàng của chúng ta: Tuyển tập những bài viết và ý kiến về vận hội mới của đất nước đã đăng trên báo điện tử VietNamNet. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ. 100. Nhà xuất bản Tri thức. 2006. Tranh luận và đồng thuận: Tuyển chọn các bài viết góp ý kiến cho Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng X. Hà Nội: Nhà xuất bản Tri thức. 101. Nolan, Peter. 2005. Trung Quốc trước ngã ba đường. Dịch: Trần Thị Thái Hà. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 102. Ohno, Kenichi (Chủ biên). 2006. Hoạch định chính sách công nghiệp ở Thái Lan, Malaysia và Nhật Bản. Bài học kinh nghiệm cho các nhà hoạch định chính sách Việt Nam. Diễn đàn Phát triển Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao động Xã hội. 103. Ohno, Kenichi và Nguyễn Văn Thường (Chủ biên). 2005. Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam. Diễn đàn Phát triển Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Lý luận Chính trị. 104. Ohno, Kenichi và Nguyễn Văn Thường (Chủ biên). 2005. Môi trường cà chính sách kinh doanh của Hà Nội. Diễn đàn Phát triển Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao động Xã hội. 116 105. Palier, Bruno và Louis-Charles Viossat. 2003. Chính sách xã hội và quá trình toàn cầu hóa. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 106. Passeron, Jean-Claud. Lý luận xã hội học. Hà Nội: Nhà xuất bản Thế Giới. 107. Phạm Đỗ Nhật Tân. 2007. Công bằng xã hội trong chính sách bảo hiểm xã hội. Tạp chí Xã hội học. Hà Nội. Số 1(97)/2007. 108. Phạm Xanh. 2001. Ngoảnh nhìn Thế kỷ 20. Diễn đàn Doanh nghiệp. Số Xuân Canh Thìn. 109. Phan Đại Doãn. 1995. Nhà nước và xã hội - từ thực tế nông thôn hiện nay. Trong: Tạp chí xã hội học. Số 3.1995. Hà Nội. 110. Phan Ngọc. 1998. Bản sắc văn hoá Việt Nam. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội. 111. Phan Xuân Sơn. 2003. Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 112. Phùng Thị Huệ. 2004. Những vấn đề xã hội bức xúc trong nông thôn Trung Quốc thời kỳ cải cách mở cửa: Thực trạng và giải pháp. Báo cáo Đề tài cấp Bộ. Hà Nội: Viện Nghiên cứu Trung Quốc. 113. Pressman, Steven. 2003. 50 Nhà kinh tế tiêu biểu. Hà Nội: Nhà xuất bản lao động. Nguyên bản: Pressman, Steven. 1999. Fifty Major Economists. London: Routledge. 114. Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam. 11/2007. Một số bài phát biểu của Samir Amin. Hà Nội. 115. Soto, Hernando de. 2003. Bí ẩn của vốn. Vì sao chủ nghĩa tư bản thành công ở phương Tây và thất bại ở mọi nơi khác. Hà Nội: Chương trình KX.02/2001-2005. 116. Sztompka, Piotr. 2003. Xã hội học và đời sống hàng ngày của những con người bình thường. Trong: Tạp chí xã hội học. Số 1(81)/2003. Hà Nội. 117. Thang Văn Phúc (Chủ biên). 2002. Vai trò của các Hội trong Đổi Mới và phát triển đất nước. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 118. Thanh Thảo. Lợi thế nhân công giá rẻ. Báo Thanh Niên 3/9/2007. 119. Thông tấn xã Việt Nam. Tạp chí Chính sách đối ngoại Mỹ và một số dự báo. Trong: Tài liệu Tham khảo Đặc biệt. Số 227-TTX. Ngày 1/10/2005. 120. Tiêu Phong. 2004. Hai chủ nghĩa một trăm năm. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 121. Tô Duy Hợp. 2004. Một vài khía cạnh xã hội của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở một tỉnh miền Trung: Trường hợp tỉnh Quảng Ngãi. Báo cáo chuyên đề Đề tài KX.02.10. Hà Nội: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. 122. Tô Duy Hợp và Nguyễn Thị Minh Phương. 2007. An sinh xã hội ở khu vực nông thôn Nghiên cứu trường hợp một xã ngoại thành Hà Nội. Tạp chí Xã hội học. Hà Nội. Số 1(97)/2007. 123. Tô Huy Rứa và Hoàng Chí Bảo (Chủ biên). 2006. Quá trình Đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 124. Tổng cục thống kê/Dự án VIE/97/P14. 2001. Kết quả dự báo dân số cho cả nước, các vùng địa lý-kinh tế và 61 tỉnh/thành phố. Việt Nam, 1999-2024. Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê. 125. Tổng cục Thống kê và UNFPA. 2006. Điều tra di cư Việt Nam năm 2004: Chất lượng cuộc sống của người di cư ở Việt Nam. Hà Nội. 126. Trần Đình Thiên. 2005. Tiềm năng cho tăng trưởng. VietnamNet, 1/9/2005. 127. Trần Hữu Quang. 2004. Những vấn đề xã hội của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa: Trường hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Báo cáo chuyên đề Đề tài KX.02.10. Hà Nội: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. 128. Trần Hữu Quang. 2007. Đồng tiền và xã hội Việt Nam ngày nay. Thời Đại Mới. Tạp chí Nghiên cứu & Thảo luận. Số 10 (Tháng 3/2007). 117 129. Trần Hữu Quang. 2009. Hệ thống phúc lợi ở Thành phố Hồ Chí Minh với mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội. Thành phố Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh. 130. Trần Minh Vỹ (Sưu tầm tuyển chọn). 2002. Một số quy định pháp luật về quản lý, tổ chức, hoạt động của các hội, đoàn thể xã hội. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao động. 131. Trần Ngọc Thêm. 1997. Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh. 132. Trần Quốc Vượng (Chủ biên). 1998. Cơ sở văn hoá Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục. 133. Trần Từ. 1996. Góp phần nghiên cứu văn hoá và tộc người. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội. 134. Trần Văn Thọ. 1997. Công nghiệp hoá Việt Nam trong Thời đại châu Á-Thái Bình Dương. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh. 135. Trần Văn Thọ. 2003. Chiến lược công nghiệp hóa nông thôn Việt Nam: Phương pháp luận và thực tiễn miền Trung. Thời Đại. Tạp chí Nghiên cứu & Thảo luận. Số 8/2003: 60-81. 136. Trịnh Duy Luân (Chủ biên). 2002. Phát triển xã hội ở Việt Nam. Một tổng quan xã hội học năm 2000. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 137. Trung tâm mác-xít Pháp. 1975. Bàn về các xã hội tiền tư bản. Những đoạn tuyển chọn của Mác, Ăng-ghen, Lê Nin. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 138. Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường Đại học Quốc gia Hà Nội. 2002. Phát triển bền vững miền núi Việt Nam: 10 năm nhìn lại và những vấn đề đặt ra. Hà Nội. 139. Trường Đại học Công đoàn Việt Nam. 2002. Kỷ yếu Hội thảo khoa học. Giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hà Nội: Công ty in Công đoàn. 140. Tương Lai. 1995. Khảo sát xã hội học về phân tầng xã hội - cơ sở lý luận và phương pháp luận. Trong: Tạp chí xã hội học. Số 3.1995. Hà Nội. 141. Vasavakul, Thaveeporn. 2006. Đổi mới hệ thống chính trị: Kinh nghiệm Việt Nam trên quan điểm so sánh (1986-2002). Hội thảo bàn tròn cấp cao lần thứ tư Dự án Hỗ trợ Tổng kết 20 năm Đổi Mới ở Việt Nam. Khách sạn Melia 15-16/6/2006. 142. Viện Khoa học Lao động và Xã hội. 2009. Tình hình thực hiện chính sách an sinh xã hội giai đoạn 2001-2010. Trong: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Cơ quan Hợp tác Kỹ thuật Đức (GTZ). 2009. Hội thảo khởi động "Xây dựng chiến lược an sinh xã hội Giai đoạn 2011-2020. Ninh Thuận ngày 4-5/8/2009. 143. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. 2007. Báo cáo cập nhật nghèo 2006. Nghèo và giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn 1993-2004. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 144. Viện Xã hội học. 1993. Tạp chí Xã hội học. Số 1.1993. Chuyên đề về công tác xã hội. Hà Nội: Viện Xã hội học. 145. Viện Xã hội học. 2009. Tác động của di dân trong nước đến hộ gia đình ở lại quê hương. Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Liên hợp quốc. 2009. Hội thảo khoa học “Di dân, phát triển và giảm nghèo”. Hà Nội: 5-6/10/2009. 146. VnExpress. 50 phụ nữ giàu nhất trên TTCK 2007. VnExpress 25/1/2008. 147. Vũ Mạnh Lợi. 1999. Sinh thái học xã hội-lịch sử và những vấn đề đương đại. Trong: Tạp chí xã hội học. Số 1.1999. Hà Nội. 148. Vũ Quang Việt. 2002. Toàn cầu hóa, giao lưu tri thức và bản sắc dân tộc. Thời Đại. Tạp chí Nghiên cứu & Thảo luận. Số 7/2002: 23-48. 149. Vũ Tuấn Huy. 2005. Biến đổi gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam. Báo cáo chuyên đề Đề tài KX.02.10. Hà Nội: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. 118 150. Vương Trí Nhàn. 2006. Một cách nhìn mới về văn hóa Việt Nam thông qua việc so sánh với văn hóa Nhật Bản. Nhân đọc `Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hóa` của Vĩnh Sính. Thời Đại Mới. Tạp chí Nghiên cứu & Thảo luận. Số 8 (Tháng 7/2006). 151. Vương Trí Nhàn. 2007. Vương Trí Nhàn: Dân tộc Việt là khối tự phát khổng lồ. VietnamNet 20/10/2007. 152. Walder, Andrew G. Một vài suy nghĩ về Việt Nam và nền học thuật thế giới. Tạp chí Văn hóa Dân gian. Số 4(112)/2007. Hà Nội: Viện Nghiên cứu Văn hóa. Trang 48-56. 153. Wells-Dang, Andrew. 2006. Những động lực của sự thay đổi xã hội ở Việt Nam. Hội thảo bàn tròn cấp cao lần thứ tư Dự án Hỗ trợ Tổng kết 20 năm Đổi Mới ở Việt Nam. Khách sạn Melia 15-16/6/2006. 154. Wischermann, Joerg, Bùi Thế Cường, Nguyễn Quang Vinh. 2002. Quan hệ giữa các tổ chức xã hội và cơ quan Nhà nước ở Việt Nam - Những kết quả chọn lọc của một cuộc khảo sát thực nghiệm ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Tiếng nước ngoài 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. 13. Asian Development Bank. 1997. Emerging Asia: Changes and Challenges. Manila: ADB. Bach Tan Sinh. 2001. Civil Society and NGOs in Vietnam: Some Initial Thoughts on Developments and Obstacles. Ha Noi. Bailey,Gordon and Noga Gayle. 2003. Social Theory. Essensial Readings. Ontario: Oxford University Press. Bell, Daniel. 1973. The Comming of Post-Industrial Society. New York: Basic Books. Bell, Daniel. 2000. The End of Ideology. On the Exhaustion of Political Ideas in the Fifties. Cambridge and London: Harvard University Press. Bilton, Tony et al. 2002. Introductory Sociology. 1981, 1987, 1996, 2002 ed. Hampshire and New York: Palgrave Macmillan. Bloom, David E. and Jeffrey G. Williamson. 1997. Demographic Transitions and Economic Miracles in Emerging Asia. Working Paper 6268. Cambridge, M.A. NBER. http://www.nber.org/papers/w6268. Cũng in trong: World Bank Economic Review. 1998. No. 12. 419-456. Bloom, David E., David Canning, and Jaypee Sevilla. 2001a. The Effect of Health on Economic Growth: Theory and Evidence. Working Paper 8587.Cambridge, MA. NBER Working Paper Series. http://www.nber.org/papers/w8587. Bloom, David E., David Canning, and Jaypee Sevilla. 2001b. Economic Growth and the Demographic Transition. Working Paper 8685. Cambridge, MA. NBER Working Paper Series. http://www.nber.org/papers/w8685. Bloom, David E., David Canning, A.K. nandakumar, Jaypee Sevilla, Kinga Huzarski, David Levy, and Manjiri Bhawalkar. 2001c. Demographic Transition and Economic Opportunity: The Case of Jordan. Bethesda, Maryland: The Partners for Health Reformplus Project, Abt Associates Inc. Order No. TE011. Bloom, David E., David Canning, and Jaypee Sevilla. 2003. The Demographic Dividend. A New Perspective on the Economic Consequence of Population Change. Santa Monica: Rand. Bottomore, Tom B. 1963. Sociology: A Guide to Problems and Literature. Englewood Cliffs: Prentice-Hall. Central Census Steering Committee. 2000. Population and Housing Census Viet Nam 1999. Sample Results. Ha Noi: The Gioi Publishers. 119 14. Cheal, David. 2005. Dimensions of Sociological Theory. Hampshire and New York: Palgrave Macmillan. 15. Churton, Mel. 2000. Theory and Method.Macmillan Press. 16. Collins, Randall. 1992. Sociological Insight. An Introduction to Non-Obvious Sociology. 1982, 1992 ed. New York/Oxford: Oxford University Press. 17. Collins, Randall. 1994. Four Sociological Traditions. New York/Oxford: Oxford University Press. 18. COSA. 1998. Policies for Spontaneous Migration. Conference Proceedings. Ho Chi Minh City, July 1998. 19. COSA. 2002. People-elected Delegates with Policy to Eliminate All Forms of Violence Against Women. National Workshop Proceedings of the the National Assembly's Committee for Social Affairs. Ha Noi, 1-2 Feb 2002. 20. COSA. 2003. Some Critical Problems in Employment and Vocational Training. Report No. 482TT/UBXH to the National Assembly’s Standing Committee. Ha Noi, 20 Oct 2003. 21. Crotty, Michael. 1998. The Foundations of Social Research. Meaning and perspective in the research process. London: SAGE Publications. 22. Cuff, E. C., W.W.Sharrock, and D.W.Francis. 2003. Perspectives in Sociology. Vol. 1st: 1979, 3rd: 1990, 1992, 1993, 1994, 4th: 1998, 2003. London: Routledge. 23. Dahrendorf, Ralf. 1959. Class and Class Conflict in Industrial Society. Stanford: Stanford University Press. 24. Dang Nguyen Anh. 1998. The Role of Social Networks in the Process of Migration. In: Population Council (ed.) Proceedings. International Seminar on Internal Migration: Implications for Migration Policy in Viet Nam. Population Council Ha Noi. 25. Dang Nguyen Anh. 1999. Market Reforms and Internal Labour Migration. Asian and Pacific Migration Journal. 8(3): 381-409. 26. Dang Nguyen Anh, C. Tacoli and H. X. Thanh. 2002. Migration in Vietnam: A review of information on current trends and patterns, and their policy implications. Research Paper. RMMRU and DFID: Dahka. 27. Dang Nguyen Anh. 2004. Stay on the Farm, Weave in the Village, Leave the Home. Ha Noi: The Gioi Publisher. 28. Do, V. H. 2000 “Situation of spontaneous migration and suggested solutions for the upcoming time”, Paper presented at the National Conference on Population Policy, Reproductive Health and Development in Viet Nam, Committee for Social Affair of the National Assembly: Ha Noi. 29. Doan, M. D. and Trinh K. T. 1996. “Survey of Spontaneous Migration to a Rural and an Urban Area in Viet Nam”, Asian Population Studies Series No. 142, ESCAP, United Nations, New York. 30. Douglass, M. et al. 2002. The Urban Transition in Viet Nam University of Hawai’i at Manoa, Honolulu, Hawai’i, USA, and United Nations Centre for Human Settlements, Fukuoka, Japan. 31. Engardio, Pete. 2002. The Chance of a Lifetime: Poor Nations Get a "Demographic Dividend". Business Week Online: International Asian Cover Story. http://icpd.eastwestcenter.org/news_mar_02.asp. 32. Esping-Anderson, Gosta. 1990. The Three Worlds of Welfare Capitalism. Princeton/New Jersey: Princeton University Press. 33. Friedrichs, Juergen, M.Reiner Lepsius, and Karl Ulrich Mayer, "Die Diagnosefaehigkeit der Soziologie," Koelner Zeitschrift fuer Soziologie und Sozialpsychologie Sonderheft 38/1998 (1998). 120 34. General Statistics Office and UNDP. 2001. Census Monograph on Internal Migration and Urbanization in Viet Nam. Ha Noi: Statistical Publishing House. 35. Giddens, Anthony. 1998. Sociology. Third Edition. Polity Press. 36. Gouldner, A. W. 1971. The Comming Crisis of Western Sociology. London: Heinemann. 37. Gordon, Scott. 2001. The History and Philosophy of Social Science. 1991, 1993, 1995, 1997, 2000, 2001 ed. London: Routledge. 38. Guest, P. M. 1998. The Dynamics of Internal Migration in Viet Nam. UNDP Discussion Paper I. UNDP: Ha Noi. 39. Hamilton, Roger. 2000. A Demographic Opportunity. Latin America is Entering an Unusual Era When Proportionately More Workers Will Provide for Fewer Children and Retirees. IDBAmérica. March-April 2000. 40. Harrison, David. 1997. The Sociology of Medernization and Development. London and New York: Routledge. 41. Homans, George C. 1964. Bringing Men Back In. American Sociological Review. Volume 29. No. 5. December, 1964. Trang 809-818. 42. IER. 1996. Survey on Spontaneous Migration to Ho Chi Minh City. Institute of Economic Research: Ho Chi Minh City. 43. Institute of Sociology. 1998. Migration and Health Survey Viet Nam 1997, Survey Report. Institute of Sociology and Population Studies and Training Centre: Ha Noi. 44. Kidd, Warren. 2002. Culture and Identity. New York: Palgrave Macmillan. 45. Kuhn, Thomas S. 1970. The Structure of Scientific Revolutions. Chicago: University of Chicago Press. 46. Kuroda, Toshio. 1991. Structural Change of Age Composition in the Future and Its SocioEconomic Implications. Trong: ESCAP/ JOICFP. 1991. Population Ageing in Asia. New York: United Nations. Trang 89-95. 47. Le Bach Duong, Khuat Thu Hong, Bach Tan Sinh, and Nguyen Thanh Tung. Civil Society in Vietnam. Center for Social Development Studies. 48. Le, M. T. and Nguyen D. V. 1999. “Remittances and the distribution of income” pp. 167181 in Haughton, Dominique, et al (eds.) Health and Wealth in Viet Nam - An Analysis of Households Living Standard. Institute of Southeast Asian Studies, Singapore. 49. Letourmy, Alain. 2002. The Support to Mutual Health Insurance Societies: an Experience Report. 50. Levin, William C. 1994. Sociological Ideas. Concepts and Applications. 4th ed. Belmont, California: Wadsworth Publishing Company. 51. Lie, John. 1991. Sociology. Readings and Study Guide. New York & London: W.W. Norton & Company, Inc. 52. Macionis, John J. 1980. Sociology. Englewood Cliffs: Prentice-Hall. 53. Marshall, Gordon. 1998. Oxford Dictionary of Sociology. Second Edition. New York: Oxford University Press. 54. Mason, Andrew and Sang-Hyop Lee. 2004. The Demographic Dividend and Poverty Reduction. 55. Mills, C. W. 1956. The Power Elite. New York. 56. Mills, C. W. 1970. The Sociological Imagination. Harmondsworth: Penguin. 57. MRSC. 2002. Migrant Women Working in Garment Factories in Ho Chi Minh City, Viet Nam: Mobility and Vulnerability. Ho Chi Minh City: MRSC. 58. Navaneetham, K. 2002. Age Structural Transition and Economic Growth: Evidence from South and Southeast Asia. Working Paper of CDS (Centre for Development Studies). WP 337. http://www.cds.edu. 121 59. Ohno, Kenichi. 2006. The Economic Development of Japan. The Path Traveled by Japan as a Developing Country. GRIPS Development Forum. 60. Ohno, Kenichi and Takahiro Fujimoto (Editor). 2006. Industrialization of Developing Countries: Analyses by Japanese Economists. Tokyo: GRIPS. 61. Parker, Noel and Stuart Sim (editors). 1997. The A-Z Guide to Modern Social and Political Theorists. Hemel Hempstead Hertfordshire: Prentice Hall/Harvester Wheatsheaf. 62. Sachs, Wolfgang. 1992. The Development Dictionary. London and New Jersey: Zed Books Ltd. 63. Schmidt, Manfred G. 1988. Sozialpolitik. Historische Entwicklung und Internationale Vergleich. Opladen: Leske und Budrich. 64. Stark, Rodney. 2001. Sociology. Wadsworth Publishing Company. 65. Turner, Jonathan H. 1998. The Structure of Sociological Theory. Sixth Edition. Wadsworth Publishing Company. 66. Turner, Jonathan H., Leonard Beegley, and Charles H.Powers. 2002. The Emergence of Sociological Theory. 5th ed. Belmont: Wadsworth Thomson Learning. 67. United Nations. 2003. World Population Prospects. The 2002 Revision. New York: United Nations. 68. Wallace, Ruth A. and Alson Wolf. 1998. Contemporary Sociological Theory. Expanding the Classical Tradition. Fifth edition. Upper Saddle River (New Jersey): Prentice-Hall, Inc. 69. Watson, Tony J. 2001. Sociology, Work and Industry. London and New York: Routledge. 70. Wilensky, Harold L. & Charles N. Lebeaux. 1965. Industrial Society and Social Welfare. The Free Press. New York. 71. World Bank. 1999. Viet Nam: Attacking Poverty. Viet Nam Development Report 2000. World Bank: Ha Noi. 72. World Bank. 2009. 2008 Social Development Report. Getting Migration to Work Effectively for Viet Nam. World Bank: Ha Noi. 73. Webster, Andrew. 1992. Introduction to the Sociology of Development. Second Edition. London and Hong Kong: Macmillan. 74. Wongboonsin, Kua. 2004. The demographic dividend and M-curve labour-force participation in Thailand. Applied Population and Policy 1(2), 115-122. 75. Wongboonsin, Kua, Philip Guest, and Vipan Prachuabmoh. 2004. Demographic Change and the Demographic Dividend in Thailand. Paper at the International Conference on the Demographic Window and Healthy Aging: Socioeconomic Challenges and Opportunities. Beijing, May 10-11, 2004. Tài liệu điện tử (Lấy từ Internet. Có thể nguồn gốc không được bảo đảm hoặc chắc chắn) 1. Bá Dương. Người Trung Quốc xấu xí. Người dịch: Nguyễn Hồi Thủ. 18/2/2005. 2. Dalton, Russell J., Pham Minh Hac, Pham Thanh Nghi, Nhu-Ngoc T. Ong. Social Relations and Social Capital in Vietnam: The 2001 World Values Survey. http://www.democ.uci.edu/democ/papers/vietnam02.pdf. 3. Dapice, David. Lịch sử hay chính sách: Tại sao các tỉnh phía Bắc không tăng trưởng nhanh hơn? http://www.undp.org.vn/undp/docs/2004/nprov/nprovv.pdf 4. Glewwe, Paul, Michele Gragnolati, Hassan Zaman. Who Gained from Vietnams Boom in the 1990’s? An Analysis of Poverty and Inequality Trends. Development Research Group. The World Bank. 122 5. Regan, Patrick M. On the Prospects for Social Revolution in the Industrialized Democracies in the West. Department of Political Science. Binghamton University. pregan@binghamton.edu. 6. Quý Đỗ. Vốn xã hội tích lũy lâu đời. Trong: Bộ Khoa học và Công nghệ. Tạp chí Tia sáng-tiasang.com.vn. 5/7/2006. 7. Schneider, Friedrich and Alexander F. Wagner. 2001. Institutions of Conflict Management and Economic Growth in the European Union. Kyklos. 54(4). pp. 509532. 8. Trần Văn Đoàn. Nho giáo và Kitô giáo. Phản tỉnh về mối tương khắc giữa hai ý hệ. 9/3/2005. 9. Walle, Dominique van de, and Dileni Gunewardena. Sources of Ethnic Inequality in Viet Nam. The World Bank’s Rural Development and Poverty and Human Resources (under RPO681-39) Team in Development Research Group. 123