PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 20 - THÁNG 5/2018
KẾT QUẢ NGẮN HẠN ÁP DỤNG KỸ THUẬT TÁI TẠO VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ
BẰNG MÀNG NGOÀI TIM TỰ THÂN THEO PHƯƠNG PHÁP OZAKI TRONG
ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA BỆNH LÝ VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ
Ngô Thành Hưng*, Đoàn Quốc Hưng**, Nguyễn Công Hựu*, Đỗ Anh Tiến*, Nguyễn Trung Hiếu*,
Lê Tiến Dũng*, Nguyễn Trần Thủy*, Nguyễn Bằng Việt*, Phạm Thành Đạt*, Ngô Hải Linh*,
Nguyễn Đỗ Hùng*, Nguyễn Thái Long*, Phan Thảo Nguyên*, Nguyễn Bá Phong*, Lê Ngọc Thành*
TÓM TẮT
Bệnh lý van động mạch chủ (ĐMC) thường
xuyên được điều trị bằng cách thay thế van ĐMC
bằng một van tim nhân tạo. Chúng tôi đã tiến
hành tái tạo van ĐMC bằng màng ngoài tim tự
thân đã qua xử lý bằng Glutaraldehyde theo
phương pháp Ozaki cho 21 bệnh nhân từ tháng 7
năm 2017 đến tháng 3 năm 2018. Mười ba bệnh
nhân hẹp van động mạch chủ, 8 bệnh nhân hở van
động mạch chủ. Ba bệnh nhân van ĐMC có hai lá
van, 1 bệnh nhân viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn.
Chúng tôi có 13 bệnh nhân nam và 8 nữ. Tuổi
trung bình của các bệnh nhân là 58,6 ± 10,5 tuổi.
Trước tiên, cắt bỏ các lá van bị bệnh. Sau đó, đo
khoảng cách giữa các mép của lá van. Các lá van
mới được đo và cắt dựa vào bộ đo sẵn có từ màng
ngoài tim tự thân được xử lý bằng
Glutaraldehyde. Cuối cùng, Các lá van mới bằng
màng tim được khâu vòng quanh vòng van ĐMC.
Một bệnh nhân nào tử vong do chảy máu sau mổ.
01 bệnh nhân phải chuyển thay van động mạch
chủ bằng van sinh học. Siêu âm tim qua thực
quản trong mổ không có bệnh nhân hở chủ nhẹ
trở lên. Chênh áp qua van động mạch chủ đo
ngay trong mổ và sau mổ 1 đến 2 tuần tương ứng
là 19,3 ± 4,7mmHg và 18,7 ± 4,2 mmHg. Không
có bệnh nhân nào phải mổ lại.
glutaraldehyde-treated autologous pericardium.
Thirteen patients had aortic stenosis (AS), and 8
patients had aortic regurgitation (AR). Three
patients showed bicuspid aortic valves, and one
patient showed infective endocarditis. There were
13 males and 8 females. Their mean age was 58.6
± 10.5 years old. First, diseased leaflets excised.
Then, the distance between each commissure was
measured. The new leaflet was trimmed with an
original template from a glutaraldehyde-treated
autologous pericardium sample. Finally, the
annular margin of the pericardial leaflet was
running sutured to each annulus. There was one
patient died of postoperative because bleeding.
One patient was returned to conventional
bioprosthesis aortic valve replacement surgery.
Intraoperative trans-esophageal echocardiography
(TEE) showed no or mild AR. Pressure gradient
measured through aortic valve intraoperatively
and 1 to 2 weeks after surgery were 19.3 ±
4.7mmHg and 18.7 ± 4.2mmHg, respectively.No
patient required re-operation.*
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật sửa chữa bảo tồn van động mạch
chủ trong việc điều trị bệnh lý van động mạch
chủ có chỉ định can thiệp ngoại khoa từ lâu đã
được quan tâm và ưu tiên của các phẫu thuật viên
SUMMARY
Aortic valve disease is usually treated by
prosthetic valve replacement. We have performed
aortic valve plasty (AVP) for 21 patients from
July 2017 through March 2018 using
52
* Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E
** Trường ĐH Y Hà Nội
Người chịu trách nhiệm khoa học: GS.TS. Lê Ngọc Thành
Ngày nhận bài: 01/05/2018 - Ngày Cho Phép Đăng: 20/05/2018
Phản Biện Khoa học: GS.TS. Bùi Đức Phú
PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng
KẾT QUẢ NGẮN HẠN ÁP DỤNG KỸ THUẬT TÁI TẠO VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ BẰNG MÀNG NGOÀI TIM...
tim mạch trên toàn thế giới. Việc sửa chữa van
động mạch chủ cũng có lịch sử lâu đời giống như
việc sửa van nhĩ thất. Trường hợp sửa van động
mạch chủ đầu tiên theo phương pháp tách mép
van động mạch chủ được thực hiện bởi Tuffier
năm 1913 [1]. Trước khi có máy tim phổi nhân
tạo, hở van động mạch chủ cũng được điều trị bởi
phương pháp sửa van động mạch chủ thành hai lá
van[2,3]. Sau đó nhờ việc sử dụng máy tim phổi
nhân tạo,Mulder và cs[4]Hurwitt và cs[5], Cahrol
và cs[6] cũng đã báo các nhiều ký thuật sửa van
khác tuy nhiên kết quả không thật sự thành công.
Năm 1963, Ross đã báo cáo trường hợp đầu tiên
điều trị hở van động mạch chủ theo cách mở rộng
lá van bằng vật liệu sinh học [7]. Việc sử dụng
màng ngoài tim đã được sử lý bằng dung dịch
glutaraldehydebởi Yacouh và cs, Batista cs [8,9]
để mở rộng lá van động mạch chủ. Kết quả khả
quan trên thực nghiệm và lâm sàng việc sử dụng
màng ngoài tim được sử lý với glutaraldehyde
trong vài phút đã thúc đẩy Duran và cs [10] sử
dụng để sửa van động mạch chủ. Tuy nhiên với
lịch sử hơn 50 năm, việc sử van động mạch chủ
vẫn mang tính chất cá nhân. Các nghiên cứu đều
thấy rằng do cấu trúc phức tạp của gốc động
mạch chủ, thiếu phương pháp đo và kỹ thuật
thống nhất, cùng với đó sự ra đời của van tim
nhân tạo và tính chính xác của nó lên việc điều trị
bệnh lý van động mạch chủ chính vẫn là thay van.
Van nhân tạo sinh học ngày càng được sử dụng
nhiều hơn vì các biến chứng không tránh khỏi của
chống đông sau mổ thay van cơ học [11,12]. Tuy
nhiên, mặc dù đã có tiến triển về thiết kế và cấu
trúc của van nhân tạo, biểu hiện huyết động vẫn
chưa tương tự như van động mạch chủ tự nhiên.
Thêm vào đó, sự thay thế với một van nhân tạo
sinh học có thể dẫn đến sự thoái hóa được gia tốc
ở bệnh nhân trẻ tuổi vì sự xơ hóa và vôi hóa [13].
Năm 2007, Ozaki và cs đã sử dụng màng ngoài
tim tự thân được sử lý với glutaraldehyde 0,6%
để tái tạo lại cả ba lá van động mạch chủ [14]. Từ
đó, phương pháp này đã được áp dụng rộng rãi tại
Nhật Bản và các trung tâm khác tại Mỹ, Anh….
Tại Việt Nam, phương pháp điều trị chính
bệnh lý van động mạch chủ vẫn là thay van bằng
một van nhân tạo. Chưa có một báo cáo hay
nghiên cứu nào về việc tái tạo van động mạch
chủ. Do đó, nghiên cứu của chúng tôi nhằm mục
đích đánh giá kết quả của việc ứng dụng phương
pháp tái tạo ba lá van động mạch chủ bằng màng
ngoài tim tự thân của Ozaki trong điều trị bệnh lý
van động mạch chủ và tính khả thi của phương
pháp trong điều kiện Việt Nam.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm tim
mạch bệnh viện E từ tháng 7 năm 2017 đến tháng 3
năm 2018, bao gồm 21 bệnh nhân được áp dụng
phương pháp Ozaki tái tạo ba lá van động mạch chủ
bằng màng ngoài tim tự thân. Các bệnh nhân có
bệnh lý van tim khác, bệnh lý động mạch vành,
động mạch chủ bị loại trừ khỏi nghiên cứu.
Trong số 21 bệnh nhân có 12 nam và 9 nữ.
Tuổi trung bình 58,6 ± 10.5. Siêu âm tim trước
mổ chênh áp lớn nhất qua van động mạch chủ
70.5 ± 28,6 mmHg, phân suất tống máu thất trái
(EFVG) trung bình 52.6 ± 10.5. 13 bệnh nhân
được chẩn đoán hẹp khít van động mạch chủ, 8
bệnh nhân hở chủ nặng. 3 bệnh nhân van động
mạch chủ có hai lá van type 0, 1 bệnh nhân viêm
nội tâm mạc nhiễm khuẩn. Đường kính vòng van
động mạch chủ đo trong mổ 21.4 ± 2,2 mm. Kích
thước các lá van động mạch chủ tương ứng đo
theo dụng cụ Ozaki lá vành trái 26.3 ± 2,5, lá
vành phải 26,8 ± 2.9 và lá không vành 27.6 ± 2.3.
2. Phương pháp
Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu của
53
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 20 - THÁNG 5/2018
chúng tôi được mổ qua đường mở xương ức.
Bệnh nhân được đặt siêu âm tim qua thực quản
trước khi bắt đầu phẫu thuật. Đầu tiên, màng
ngoài tim của bệnh nhân sẽ được phẫu tích sạch
mỡ và tổ chức xung quanh bằng dao siêu âm, sau
đó màng ngoài tim được cắt một miếng với kích
thước 7x8 cm ( hình 2.1). Sau đó, ngâm màng
ngoài tim vào dung dịch Glutaraldehyde trong
vòng 10 phút, tiếp tục rửa sạch bằng nước muối
trong 6 phút và làm 3 lần.
Thời gian tái tạo ba lá van động mạch chủ
trong thời gian bảo vệ cơ tim, sử dụng máy tuần
hoàn ngoài cơ thể. Động mạch chủ lên được mở
ngang, vị trí tương ứng trên lỗ động mạch vành
phải 1.7cm. Các lá van bệnh lý được cắt bỏ cẩn
thận, trong trường hợp van vôi thì phải lấy hết tổ
chức vôi. Tiến hành đo kích thước từng lá van
bằng cách đo gữa hai mép van tương ứng bằng bộ
đo OZAKI ( hình 2.2). Vẽ hình các lá van mới
theo kích thước tương ứng ( hình 2.3), cắt các lá
van. Tiến hành khâu tái tạo lại các lá van bằng chỉ
prolene 4/0 kim 17, tăng cường các mép van bằng
chỉ prolene 4/0 có miếng đệm pletget. Diện áp của
ba lá van mới được kiểm tra trực tiếp bằng mắt
trước khi đóng động mạch chủ (hình 2.4). Sau khi
thả cặp động mạch chủ, tim đập trở lại, trước khi rút
ống động mạch và tĩnh mạch, van động mạch chủ
được kiểm tra qua siêu âm thực quản.
.
54
Hình 2.1: Lấy màng ngoài tim
Hình 2.2: Đo kích thước các lá van
Hình 2.3: Vẽ và cắt cá lá van mới bằng màng
ngoài tim đã xử lý bằng Glutaraldehyde
Hình 2.4: Kiểm tra diện áp của 3 lá van mới
trực tiếp trong mổ
KẾT QUẢ NGẮN HẠN ÁP DỤNG KỸ THUẬT TÁI TẠO VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ BẰNG MÀNG NGOÀI TIM...
3. KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân
Giới tính nam, n(%)
Tuổi, TB ± D, tuổi
Hẹp van động mạch chủ, n(%)
Hở van động mạch chủ, n(%)
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, n(%)
VanĐMC 2 lá van, n(%)
Chênh áp qua van ĐMC, TB ± D, mmHg
EFVG, TB ± D
13 (61,9)
58.5 ± 10.6
13 (61,9)
8 (38,1)
1 (4,8)
3 (14.4)
70.5 ± 28.6
52.6 ± 10.5
Hẹp chủ chiếm tỷ lệ lớn trong số bệnh nhân của chúng tôi 61.9%, chênh áp trung bình qua van
ĐMC 70.5mmHg.
Bảng 2. Quá trình mổ
Đường kính vòng van ĐMC, TB ± D, mm
Kích thước lá vành trái, TB ± D, mm
Kích thước lá vành phải, TB ± D, mm
Kích thước lá không vành, TB ± D, mm
Hở van động mạch chủ ≥ 2/4 sau mổ, n(%)
Chênh áp qua van ĐMC, TB ± D, mmHg
Thời gian cặp ĐMC, TB ± D, phút
Hẹp chủ
Hở chủ
Thời gian chạy máy, TB ± D, phút
Hẹp chủ
Hở chủ
Chuyển thay van, n(%)
Kỹ thuật thành công 20 bệnh nhân, 01 bệnh
nhân phải chuyển thay van sinh học. Thời gian cặp
động mạch chủ 100.2 ± 15.6 phút ở nhóm bệnh
nhân hẹp chủ, 92.3 ± 18.5 phút ở nhóm bệnh nhân
hở van chủ. Thời gian chạy máy tuần hoàn ngoài cơ
thể là 130 .5 ± 10.4 phút ở nhóm hẹp chủ và 120.6±
10.5 phút ở nhóm hở chủ. Sau mổ siêu âm tim qua
thực quản chênh áp qua van động mạch chủ là 19.3
± 4.7mmHg, tất cá các bệnh nhân hở van động
mạch chủ dưới mức độ nhẹ-vừa. Một bệnh nhân tử
vong ngày thứ 3 sau mổ do chảy máu gây chèn ép
tim cấp. Siêu âm trước khi ra viện chênh áp qua van
18.7 ± 4.2 mmHg.
21.4 ± 2.2
26.3 ± 2,5
26,8 ± 2.9
27.6 ± 2.3.
0 (0%)
19.3 ± 4.7
100.2 ± 15.6
92.3 ± 18.5
130 .5 ± 10.4
120.6± 10.5
1(4.8)
4. BÀN LUẬN
Thay van là phương pháp điều trị đã được
lựa chọn cho bệnh lý van động mạch chủ, mặc dù
có sự hạn chế rõ ràng về độ bền của van sinh học
và nhược điểm rõ ràng của thuốc chống đông
máu đối với van cơ học. Trong những trường hợp
này, tiêu chuẩn hóa và phổ biến hiện tại của kỹ
thuật sửa chữa van hai lá và ba lá đã gây ra sự
quan tâm đến việc sửa chữa van động mạch chủ.
Nguồn gốc của sửa chữa van động mạch chủ có
thể được truy trở lại thời kỳ đầu của phẫu thuật
tim[15]. Sửa chữa van động mạch chủ đã được
55
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 20 - THÁNG 5/2018
thực hiện bằng nhiều cách khác nhau nhưtách
mép van, tạo hình vòng van động mạch chủ, mở
rộng lá van, cắt bỏ lá van hình chêm…[16].
Phương pháp sửa sữa không phải luôn luôn có thể
thực hiện đối với hẹp van động mạch chủ. Lấy
vôi hoạc cắt gọt lá van đã không cho thấy kết quả
tốt. Nỗ lực thay thế lá van động mạch chủ bằng
vật liệu sinh học đã được thực hiện từ cuối những
năm 1960. Màng tim bò đã được sử dụng ở số
lượng nhỏ bệnh nhân, nhưng kết quả không thuận
lợi trong phần lớn các trường hợp. Ngược lại,
màng ngoài tim tự thân có sẵn để sửa chữa van
động mạch chủ ngay lập tức ở mọi bệnh nhân.
Sửa van động mạch chủ bằng cách mở rộng
lá van với màng ngoài tim tự thân qua xử lý bằng
glutaraldehyde đã được mô tả bởi Duran và cs
[10].Màng tim được sử dụng để tăng chiều cao
của lávan động mạch chủ và mép van dẫn đến sự
gia tăng diện áp của van. Xử lý màng tim bằng
glutaraldehyde có thể tăng thêm khả năng đỡ,
chống co rút, thoái hóa và duy trì tính linh hoạt
mô nội tại của màng ngoài tim. Halees và cs đã
báo cáo việc không phải mổ lại 47% bệnh nhân
sau 16 năm được tái tạo van động mạch chủ với
với màng ngoài tim[17]. Tranh luận của họ về việc
mở rộng cả ba lá van bằng màng ngoài tim là đáng
tin cậy hơn về mặt kỹ thuật so với thay với bằng
một lá van duy nhất. Odim et al. báo cáo rằng sửa
chữa van động mạch chủ với phần mở rộng lá
màng ngoài tim tự phát là một lựa chọn tốt cho
một van động mạch chủ bị bệnh bẩm sinh [18].
Kỹ thuật tái tạo van động mạch chủ theo
phương pháp Ozaki không tập trung vào kỹ thuật
sửa chữa với một lá duy nhất bằng ngoài tim.
Ngược lại, họ nhấn mạnh rằng van động mạch
chủ đại diện cho một tập hợp các lá van khác
nhau. Do đó, họ xem xét kích thước của các lá
van động mạch chủ được xác định độc lập bởi
khoảng cách giữa các mép van.Kết quả là, theo
phương pháp này tạo ra các lá màng ngoài tim
riêng biệt cho mỗi lá vành tương ứng. Ngoài ra,
56
mỗi lá van có thể có các kích cỡ khác nhau. Với
kỹ thuật cắt bỏ hoàn toàn tất cả ba lá van bị bệnh,
phương pháp này có thể áp dụng với tất cả các
bệnh lý của van động mạch chủ. Trong nghiên
cứu này, chúng tôi áp dụng phương pháp tái tạo
van động mạch chủ bằng màng ngoài tim của
Ozaki với bệnh lý van động mạch chủ đơn thuần.
Tuy nhiên, thực tế phương pháp này đã được áp
dụng với cả bệnh nhân có bệnh lý khác kèm theo
như bệnh van hai lá, van ba lá, giãn động mạch
chủ lên…. Kết quả trong số 21 bệnh nhân của
chúng tôi có một bệnh nhân phải thay van ĐMC
sau khi tái tạo với màng ngoài tim bằng van sinh
học, do bệnh nhân có bất thường vị trí xuất phát
lỗ vành: lỗ vành trái nằm gần vị trí tiếp giáp giữa
lá vành phải – vành trái. Sau khi ngừng máy tim
phổi tim đột ngột ngừng đập, mở lại động mạch
chủ kiểm tra mép lá vành trái tái tạo bị hút lọt vào
trong lỗ vành trái. Xử trí: khâu dựng lại mép lá
van, thả cặp động mạch chủ lần 2 tim trái co bóp
kém, siêu âm thực quản kiểm tra cánh van vẫn
che lỗ vành, chúng tôi quyết định chuyển thay
van nhân tạo sinh học. 1 bệnh nhân tử vong ngày
thứ 2 sau mổ, bệnh nhân đã được rút ống nội khí
quản, tử vong đột ngột do chảy máu, chèn ép tim
cấp. Một điều cần lưu ý trong phẫu thuật này,
diện phẫu tích gỡ và cắt màng ngoài tim rất rộng
nguy cơ chảy máu sau mổ cũng cao hơn so với
mổ thay van đơn thuần.
5. KẾT LUẬN
Tái tạo van động mạch chủ bằng màng
ngoài tim tự thân theo phương pháp Ozaki là một
phương pháp phẫu thuật an toàn, độ tin cậy cao,
dễ thực hiện và có thể áp dụng với tất cả các
nhóm bệnh nhân và bệnh lý van động mạch chủ.
Với nhiều ưu điểm mang lại như việc không phải
sử dụng thuốc chống đông, bảo tồn được sự giãn
nở tự nhiên của gốc động mạch chủ, độ bền so
với van sinh học, áp dụng được với bệnh nhân có
vòng van nhỏ nhất là trẻ em, đây thực sự là một
phương pháp tốt có thể áp dụng thường quy trong
điều kiện Việt Nam.
KẾT QUẢ NGẮN HẠN ÁP DỤNG KỸ THUẬT TÁI TẠO VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ BẰNG MÀNG NGOÀI TIM...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tuffier T: Etat actuel de la chirurgie
intrathoracique XVIl lnternatCong Med, Sec 7, Pt
2, London, United Kingdom, pp 247-249. 1913
2. Taylor WJ, Thrower WB, Black 11, et al: The
surgical
correction
of
aortic insufficiency hy cirrumclusion. .I Thorav
Cardiovasc
Surg
35:
192205,1958
3. Murphy JP: The surgical correction of
syphilitic
aortic
insufficienry.
J
Thorac Cardiovasc Surg 40:524-528, 1960
4. Mulder DG, Kattus AA, Longmire WP: The
treatment
of
acquired
aortic
stenosis by valvuloplasty. J Thorac Cardiovasc
Surg 40:731-743, 1960
5. Hurwitt ES, Hofftw PW, Hosenblatt A: Pliration
of
the
aortic
ring
in
the
correctinn of aortic insufficiency. J Thorac
Carcliovasc
Surg
39:654-662.
1960
6. Cahrol C, Cabrol A ,Guiraudon G , et al: Le
traitement
dr
I’insuffisance
aortique par I’annuloplastie aortiqne. Arch Ma1
Coeur
Vaiss
59:13051312,1966
7. Ross DN: Surgical reconstruction of the aortic
valve.
Lancet
3:571-574,
1963
8. Yacouh M, Khagani A, Dhalla N, et al:
Aortic:
valve
replacement
using
unstented dura or calf pericardium: Early and
medium
term
results,
in
Bodnar E, Yacoub M (eds): Biological and
Binprosthetic
Valves.
New
York, NY,Yorke Medical Books, 1986, pp
684-690
9. Batista RJW, Dobrianskij A, Commazzi M , et
al:
Clinical
experience
with stentless pericardial aortic monopatch for
aortic valve replacement. J Thorac Cardiovasc
Surg 93: 19-26, 1987
10. Carlos M.G et all Operative Techniques in
Cardiac &Thoracic Surgery, Vol 1, No 1
(July), 1996: pp 15-29
11. North RA, Sadler L, Stewart AW, McCowan
LM, Kerr AR, White HD. Long-term survival
and valve-related complications in young
women with cardiac valve replacements.
Circulation. 1999;99:2669-76.
12. Edmunds LH. Thrombotic and bleeding
complications of prosthetic heart valves. Ann
Thorac Surg. 1987;44:430-45
13. Khan SS, Trento A, DeRobertis M, Kass RM,
Sandhu M, Czer LS, et al. Twenty-year
comparison of tissue and mechanical valve
replacement. J Thorac Cardiovasc Surg.
2001;122:257-69
14. Ozaki S, Kawase I, Yamashita H, Uchida S,
Nozawa Y, Matsuyama T, et al. Aortic valve
reconstruction using self-developed aortic
valve plasty system in aortic valve disease.
Interact Cardiovasc Thorac Surg. 2011;12:5503
15. Lillehei CW, Gott VL, De Wall RA, Varco
RL. The surgical treatment of stenotic or
regurgitant lesions of the mitral and aortic
valves by direct vision utilizing a pump
oxygenator. J Thorac Cardiovasc Surg
1958;35: 154–191.
16. Duran CMG, Alonso J, Gaite L, Alonso C,
Cagigas JC, Marce L, Fleitas MG, Revuelta
JM. Long-term results of conservative repair of
rheumatic aortic valve insufficiency. Eur J
Cardiothorac Surg 1988;2:217–223.
17. Halees Z, Shahid M, Sanei A, Sallehuddin A,
Duran C. Up to 16 years follow-up of aortic
reconstruction with pericardium: a stentless
readily available cheap valve? Eur J
Cardiothorac Surg 2005;28:200–205.
18. Odim J, Laks H, Allada Y, Child J, Wilson S,
Gjertson D. Results of aortic valve sparing and
restoration with autologous pericardial leaflet
extension in congenital heart disease. Ann
Thorac Surg 2005;74:438– 443.
57