Academia.eduAcademia.edu
Bộ giáo dục và đào tạo Trường Đại học Kinh tế quốc dân Bộ môn quân sự Bài tập lớn Môn: Công tác quốc phòng an ninh Đề số 2 Họ và tên sinh viên: Bùi Minh Thắng Lớp: Kế toán tiên tiến 55B Hà Nội, ngày 26 tháng 8 năm 2014 Câu 1: Vị trí, tác dụng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc. Trước đây cũng như trong giai đoạn cách mạng hiện nay, phòng trào toàn dân bảo vệ ANTQ luôn giữ vị trí quan trọng không thể thiếu được đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng nói chung và sự nghiệp bảo vệ ANTQ nói riêng.           Phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ  là một bộ phận gắn bó khăng khít, chặt chẽ với các phong trào hành động cách mạng khác của Đảng, Nhà nước ở địa phương, đơn vị.           Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta tiến hành nhiều cuộc vận động quần chúng khác nhau để giải quyết những nhiệm vụ khác nhau. Trong đó có cuộc vận động toàn dân tham gia bảo vệ ANTQ. Giữa các phong trào hành động cách mạng khác của nhân dân với phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ có mối quan hệ khăng khít, tác động, hỗ trợ lẫn nhau, các phong trào hành động cách mạng khác của nhân dân giải quyết nhiệm vụ phát triển kinh tế văn hoá, xã hội là nền tảng vững chắc để phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ được phát động và duy trì thường xuyên, mạnh mẽ. Ngược lại phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ được nâng cao góp phần phòng ngừa, ngăn chặn, đâu tranh kịp thời với bọn tội phạm, giữ ổn định được tình hình an ninh trật tự, là điều kiện thuận lợi để phát triển các phong trào hành động cách mạng khác của toàn dân.           Phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ giữ vị trí chiến lược, là một trong những biện pháp công tác cơ bản của lực lượng Công an nhân dân, là nền tảng cơ bản trong sự nghiệp bảo vệ ANTQ, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.           Nhân dân lao động có khả năng to lớn, là người làm nên lịch sử, Từ trước đến nay Đảng ta luôn khẳng định: cách mạng là sự nghiệp của toàn dân, đấu tranh bảo vệ ANTQ và giữ gìn trật tự an toàn xã hội cũng là sự nghiệp của toàn dân. Mọi vấn đề an ninh trật tự xảy ra khi giải quyết đều phải dựa vào nhân dân. Quán triệt tư tưởng này của Đảng, thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định về: “Ngày hội toàn dân bảo vệ ANTQ”.           Thực tiễn cho thấy phong trào hành động cách mạng của nhân dân như phong trào “Ba không”, “Ngũ gia liên bảo”, “Thập gia liên báo” trong thời kì chống Pháp; phong trào “bảo vệ trị an”, “Bảo mật phòng gian” trong những năm chỗng Mỹ cứu nước và hiện nay phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ đã thực sự góp phục đắc lực cho sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốcViệt Nam XHCN. Phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ là một hình thức vận động nhân dân ở mức độ cao, đã trở thành ý thức tự giác cao độ của đông đảo quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước, sự tổ chức vận động hướng nghiệp của lực lượng Công an nhân dân.           Đối với công tác công an, phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ có tác dụng trực tiếp trong phòng ngừa đấu tranh đẩy lùi các tệ nạn xã hội và các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội. Phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ còn giúp lực lượng Công an có những điều kiện để triển khai sâu rộng công tác nghiệp vụ. Những tin tức tài liệu đa dạng phong phú thu được từ quần chúng nhân dân cung cấp là cơ sở để lực lượng Công an nhân dân đấu tranh, trấn áp bọn tội phạm, bảo vệ ANTQ, là động lực quan trọng để giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ là động lưc quan trọng để nâng cao ý thức tự giác của hàng chục triệu người tham gia vào công tác bảo vệ ANTQ ở từng đường phố, từng thôn, xóm, phường, xã, cơ quan, xí nghiệp tạo thành thế chủ động trong phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh trấn áp tội phạm, tạo thành thế trận an toàn về an ninh trật tự.           Phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ là hình thức cơ bản để tập hợp thu hút đông đảo quần chúng nhân dân phát huy quyền làm chủ của quần chúng nhân dân tham gia bảo vệ an ninh trật tự.           Phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ thực chất là hình thức hoạt động có tổ chức, do đông đảo quần chúng nhân dân lao động tham gia, là điều kiện cơ bản để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trên lĩnh vực bảo vệ an ninh trật tự.           Sức mạnh, khả năng sáng tạo của quần chúng nhân dân là to lớn, song sức mạnh và khả năng đó chỉ được phát huy khi quần chúng nhân dân được tổ chức thành phong trào hành động cách mạng cụ thể. Chính bằng việc phong trào được tổ chức và thông qua tổ chức phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ, quần chúng nhân dân mới có điều kiện tham gia vào công việc xây dựng, quản lý nền an ninh trật tự nhiều hơn, tốt hơn và trực tiếp hơn. Vì vậy phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ là hình thức cơ bản để tập hợp, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân, phát huy quyền làm chủ của họ trên lĩnh vực bảo vệ anh ninh - trật tự. Câu 2: Trình bày nội dung xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ “Vận động toàn dân tích cực tham gia chương trình quốc gia phòng chống tội phạm”? * Mục tiêu Chương trình. a) Tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về trật tự an toàn xã hội, giữ vững kỷ cương pháp luật, xây dựng một môi trường sống lành mạnh, nếp sống và làm việc theo pháp luật; làm giảm một cách cơ bản các loại tội phạm, phục vụ có hiệu quả công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. b) Từ năm 1998 đến năm 2000: Làm giảm tội phạm nói chung và làm giảm cơ bản các loại tội phạm nghiêm trọng nói riêng. c) Từng bước xây dựng môi trường sống lành mạnh tại các cộng đồng dân cư, trong các nhà trường và gia đình, tạo ra những chuyển biến rõ rệt về trật tự an toàn xã hội. Nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật trong cộng đồng và đẩy mạnh tính chủ động, sáng tạo của các cấp cơ sở trong công tác phòng, chống tội phạm. d) Kết hợp chặt chẽ công tác phòng ngừa và chủ động tấn công trấn áp tội phạm, trước hết ở các địa bàn trọng điểm, các đô thị. Tổ chức giáo dục có hiệu quả đối với những người phạm tội, giúp họ nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng xã hội. đ) Từng bước làm giảm các loại tội phạm có sử dụng bạo lực, đặc biệt là các tội phạm giết người, cướp tài sản, hiếp dâm, chống người thi hành công vụ, các tội phạm xâm hại trẻ em, bắt cóc và mua bán phụ nữ, trẻ em, lôi kéo trẻ em vào con đường sử dụng và nghiện hút ma túy, tội phạm người chưa thành niên và các loại tội phạm có tổ chức, có sử dụng vũ khí hoặc có tính chất côn đồ, hung hãn. Kiên quyết truy bắt bọn tội phạm còn lẩn trốn, thực hiện triệt để công tác thi hành án hình sự. e) Nâng cao hiệu lực điều hành, quản lý của Chính phủ và chính quyền các cấp trong công tác quản lý hành chính Nhà nước về trật tự xã hội và phòng, chống tội phạm. * Nội dung Chương trình: a) Phát động quần chúng nhân dân tham gia phát hiện tố giác tội phạm; cảm hóa, giáo dục người phạm tội tại cộng đồng dân cư; vận động người phạm tội ra tự thú và truy bắt bọn tội phạm có lệnh truy nã. b) Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tội phạm nhằm nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của công dân về bảo vệ an ninh, trật tự xã hội. c) Triển khai đồng bộ các biện pháp phòng ngừa tội phạm ở các cộng đồng dân cư, trong từng hộ gia đình, trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, các đơn vị lực lượng vũ trang. d) Đấu tranh chống các loại tội phạm có tổ chức, tội phạm có tính quốc tế, tội cướp, cướp giật và các hành vi côn đồ hung hãn, các tội hiếp dâm trẻ em, bắt cóc và mua bán phụ nữ, trẻ em, tội phạm người chưa thành niên, tội chống người thi hành công vụ. đ) Nâng cao chất lượng công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội và tạo điều kiện để họ tái hòa nhập vào cộng đồng xã hội. e) Xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tội phạm đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. g) Tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm, nhất là chống các tội phạm có tính quốc tế và tội phạm là người Việt Nam ở nước ngoài. Câu 3: Phương pháp xây dựng”tuyên truyền giáo dục và hướng dân quần chúng nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh – trật tự” gồm những nội dung cụ thể nào? * Phương pháp tuyên tuyền giáo dục: + Triệt để khai thác sử dụng phương tiện thông tin đại chúng và các loại hình văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, áp phích khẩu hiệu, biểu ngữ… để tuyên truyền giáo dục quần chúng nhân dân đạt hiệu quả.  + Thông qua các hình thức sinh hoạt, hội họp của các tổ chức chính trị - xã hội và thông qua hệ thống giáo dục các cấp ở địa phương để tuyên truyền giáo dục quần chúng. + Sử dụng lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên để tuyên truyền giáo dục quần chúng theo từng chuyên đề nổi lên có liên quan trong từng thời gian + Thường xuyên tiếp xúc, gặp gỡ trực tiếp quần chúng để tọa đàm, trao đổi, giải thích những vấn đề về bảo vệ an ninh trật tự, thuyết phục tranh thủ những người có uy tín trong cộng đồng dân cư để họ đồng tình với chủ chương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước từ đó mà tích cực tham gia thuyết phục, giáo dục những người lừng chừng chậm tiến trong gia đình và cộng đồng + Để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục quần chúng trước hết phải tổ chức tuyên truyền giáo dục nâng cao nhân thức cho cán bộ của các ban trong Đảng, trong chính quyền, cán bộ lãnh đạo các ngành, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, sau đó tuyên truyền giáo dục sâu rộng ra trong nhân dân, động viên mọi người cùng có trách nhiệm tuyên truyền giáo dục lẫn nhau, tạo nên sự nhất trí cao về chính trị, tư tưởng trong nhân dân.  + Kết hợp tuyên truyền giáo dục rộng rãi với tuyên truyền giáo dục cá biệt bằng lời lẽ đơn giản và thực tế sinh động. Kết hợp chặt chẽ giữa việc tuyên truyền giáo dục quần chúng thực hiện nội dung nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự với việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và với phong trào lao động sản xuất, xây dựng đời sống hàng ngày của quần chúng nhân dân ở địa phương. + Tuyên truyền giáo dục quần chúng phải bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Phải chú ý giải quyết mâu thuẫn trong đời sống xã hội, trong nội bộ nhân dân, kết hợp giải quyết hài hòa giữa lợi ích cá nhân với cộng đồng, đảm bảo thực hiện công bằng xã hội. + Kịp thời biểu dương người tốt việc tốt, khuyến khích các điển hình tiên tiến, đồng thời gây dư luận xã hội nghiêm khắc lên án những hành động tiêu cực, vi phạm pháp luật.  Các nội dung công tác cụ thể phương pháp tuyên truyền giáo dục quần chúng nhân dân trên đây có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau và trong từng nội dung của phương pháp đó cũng có ưu điểm, nhược điểm khác nhau, vì vậy phải tùy tình hình cụ thể ở từng nơi, từng lúc để vận dụng linh hoạt, có hiệu quả.  Câu 4: Trách nhiệm của học sinh sinh viên về “mỗi học sinh, sinh viên tự giác chấp hành các quy định về bảo đảm an ninh trật tự của nhà trường và của địa phương nơi cư trú” như thế nào? Công tác giữ gìn trật tự công cộng, trật tự an toàn giao thông, trật tự đô thị là trách nhiệm chung của cả cộng đồng, của mọi thành viên trong xã hội, trong đó lực lượng học sinh, sinh viên giữ vai trò hết sức quan trọng. Với trách nhiệm của mình, học sinh, sinh viên cần tập trung vào việc thực hiện tốt một số biện pháp sau đây: 1. Từng học sinh, sinh viên phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ về trật tự công cộng, sự cần thiết và vai trò của công tác tổ chức giữ gìn trật tự công cộng trong phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật, duy trì trật tự kỷ cương xã hội. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về công tác này, từng cá nhân có trách nhiệm tích cực tham gia thực hiện các quy định về đảm bảo giữ gìn trật tự công cộng. Đối với học sinh, sinh viên phải nhận thức được việc tổ chức giữ gìn TTCC là trách nhiệm chung của cộng đồng, mọi thành viên trong xã hội trong đó có sự tham gia tích cực của học sinh, sinh viên trong các trường học. Để có thể tham gia thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong việc đảm bảo trật tự công cộng, mỗi học sinh, sinh viên cần nắm và chấp hành đầy đủ các quy định pháp luật, các quy định của nhà trường, của địa phương có liên quan đến việc đảm bảo giữ gìn trật tự công cộng. Đồng thời phải nắm được những việc học sinh, sinh viên được làm, những việc không được làm, những hành vi được xác định là vi phạm pháp luật về giữ gìn trật tự công cộng để tự phòng ngừa, đấu tranh. Mặt khác, cần phải nắm được nội dung, phương pháp tiến hành tham gia vào công tác giữ gìn trật tự công cộng như: tham gia tuyên truyền vận động các thành viên khác thực hiện các quy định về đảm bảo trật tự công cộng; phát hiện các hiện tượng, vụ việc, đối tượng vi phạm trật tự công cộng cung cấp cho lực lượng Công an và các cơ quan chức năng kịp thời phát hiện, xử lý, đấu tranh; tham gia xây dựng và thực hiện các nội quy, quy ước về đảm bảo trật tự công cộng trong trường học và ở địa phương…Tham gia tuyên truyền vận động nhân dân, bạn bè, người thân nắm chấp hành các quy định pháp luật có liên quan về đảm bảo trật tự công cộng. Thực hiện các quy định về đảm bảo an toàn chung, trật tự chung, mỹ quan chung, mỹ quan chung phòng ngừa các vi phạm về trật tự công cộng. Phát hiện, đấu tranh đối với các biểu hiện và các hành vi vi phạm các quy định về giữ gìn trật tự công cộng. 2. Tự giác chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của nhà nước và các quy định về giữ gìn trật tự công cộng Đây là một trong các hoạt động quan trọng của học sinh, sinh viên trong giữ gìn trật tự công cộng. Trật tự công cộng muốn đảm bảo cần có sự tham gia giữ gìn với ý thức trách nhiệm của mỗi người dân, trong đó có học sinh, sinh viên. Vì vậy, để tham gia thực hiện tốt vấn đề này, mỗi học sinh, sinh viên tự giác chấp hành các quy định về giữ gìn trật tự công cộng bằng các việc làm cụ thể như : thực hiện đúng, đầy đủ các quy định đối với học sinh, sinh viên trong trường học; chấp hành nghiêm chỉnh các nội quy quy định của nhà trường, lớp học về giữ gìn trật tự chung, an toàn, vệ sinh, mỹ quan không vi phạm nội quy, quy định ; có ý thức tôn trọng và thực hiện các quy định khi tham gia hoạt động ở các địa bàn công cộng. 3. Tích cực tham gia tuyên truyền, vận động, hướng dẫn bạn bè, người thân chấp hành quy định về giữ gìn trật tự công cộng Vận động nhân dân, các thành viên trong xã hội là một phương pháp cơ bản trong tổ chức giữ gìn trật tự công cộng. Bởi vì quần chúng vừa là đối tượng điều chỉnh vừa là chủ thể tham gia vào công tác giữ gìn trật tự công cộng cùng với các cơ quan chức năng. Vì vậy, giữ gìn trật tự công cộng phải gắn liền với nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân, phải trở thành ý thức tự giác, tự quản của từng người dân, từng thành viên trong xã hội trong đó có cả học sinh, sinh viên, đây là cơ sở quan trọng để duy trì trật tự công cộng. Với tư cách là một trong các chủ thể tham gia giữ gìn trật tự công cộng, lực lượng học sinh, sinh viên không chỉ chấp hành đúng các quy định về giữ gìn trật tự công cộng. Đồng thời phải tham gia tuyên truyền, vận động, hướng dẫn cho bạn bè, người thân và các thành viên khác chấp hành quy định về giữ gìn trật tự công cộng. Làm cho mọi người thấy rõ và thực hiện đầy đủ những quy định của pháp luật về giữ gìn trật tự công cộng, trật tự đô thị, đấu tranh với những hành vi xâm phạm đến trật tự chung, an toàn chung của xã hội. Thông qua các hoạt động sinh hoạt học tập trong trường học, sinh hoạt đoàn đội, vi chơi, giải trí để tuyên truyền, hướng dẫn bạn bè, người thân, các học sinh, sinh viên khác nắm vững, thực hiện các nội quy, quy tắc về giữ gìn trật tự công cộng. Kết hợp vận động các thành viên khác xây dựng và thực hiện nếp sống văn minh, học sinh, sinh viên thanh lịch, gương mâũ theo các quy định của nhà trường, lớp học. Tham gia vận động xây dựng gia đình văn hóa tới từng đường phố, số nhà, các khu vực dân cư, lấy đó làm cơ sở để duy trì trật tự chung, an toàn chung... Lực lượng học sinh, sinh viên có thể thông qua lớp học, đoàn đội để xây dựng và thực hiện các hình thức, tổ chức vận động các thành viên tham gia giữ gìn trật tự công cộng, vận động các thành viên khác xây dựng thực hiện các hình thức học sinh, sinh viên tự quản tham gia giữ gìn trật tự công cộng để duy trì trật tự, an toàn chung. 4. Tích cực tham gia các cuộc vận động, các phong trào chung của nhà trường, đoàn, đội và địa phương trong công tác giữ gìn trật tự công cộng Với vai trò và trách nhiệm của học sinh, sinh viên cần tích cực tham gia các cuộc vận động do nhà trường, hội sinh viên họch sinh phát động liên quan đến công tác đảm bảo ANTT trong đó có việc đảm bảo giữ gìn trật tự công cộng. Tham gia xây dựng và thực hiện các hình thức sinh viên tự quản trong việc đảm bảo trật tự công cộng trong nhà trường và ở địa phương cũng như các hình thức khác do nhà trường, đoàn đội phát động như: phong trào sinh viên tình nguyện; phong trào mùa xanh. 5. Phát hiện cung cấp thông tin, tài liệu, vụ việc có liên quan đến trật tự chung, an toàn chung và hỗ trợ các cơ quan chức năng, lực lượng có trách nhiệm giải quyết Trong tổ chức giữ gìn trật tự công cộng, việc xử lý giải quyết kịp thời các thông tin, vụ việc phức tạp xảy ra có liên quan đến trật tự chung, an toàn chung trong các khu vực dân cư, ở những nơi công cộng, ở những địa bàn công cộng phức tạp, góp phần quan trọng đảm bảo sự ổn định về trật tự công cộng, trật tự an toàn xã hội. Để đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi đó, phải tổ chức lực lượng Cảnh sát làm nhiệm vụ thường trực chiến đấu mới có thể xử lý, giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ việc xảy ra. Trước yêu cầu của công tác đảm bảo trật tự công cộng trong tình hình mới, căn cứ vào quy định của Bộ Công an về thành lập lực lượng Cảnh sát phản ứng nhanh, trong tổ chức bộ máy của Ngành Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, phải tổ chức lực lượng Cảnh sát phản ứng nhanh và lực lượng thực hiện nhiệm vụ phản ứng nhanh, thường trực 24/24 giờ để tiếp nhận, xử lý nhanh tin ban đầu, điều động lực lượng nhanh chóng đến nơi xảy ra vụ việc tiến hành các biện pháp khẩn cấp ban đầu cần thiết nhằm ngăn chặn ngay hành vi vi phạm pháp luật, bắt giữ đối tượng phạm tội quả tang, cấp cứu người bị thương, bảo vệ hiện trường; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, tính mạng, tài sản công dân; giải tán đám đông, ổn định tình hình, lập lại trật tự; giúp đỡ nhân dân khi có yêu cầu bức thiết, đồng thời phối hợp hỗ trợ các ngành chức năng phòng ngừa, ngăn chặn, giải quyết kịp thời các tai nạn gây nguy hại lớn đến an toàn chung. Để thực hiện được những nhiệm vụ có tính cấp bách trên, tổ chức lực lượng Cảnh sát phản ứng nhanh phải đảm bảo tính cơ động chiến đấu, có thể điều động được lực lượng đến ngay nơi xảy ra vụ việc để tiến hành các biện pháp khẩn cấp ngăn chặn không để xảy ra những hậu quả xấu, gây phương hại đến sự ổn định trật tự an toàn chung. Đồng thời có thể được huy động khi cần thiết để phối hợp hỗ trợ lực lượng Cảnh sát làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự công cộng giải quyết, xử lý những tình huống phức tạp đột xuất về trật tự, an toàn công cộng để ổn định tình hình, lập lại trật tự, an toàn công cộng. Nhưng để có thể thu thập được các thông tin cần thiết và kịp thời xử lý đối với các vụ việc có liên quan đến TTCC lực lượng Cảnh sát cần có sự hỗ trợ của quần chúng, các cơ quan tổ chức, trong đó có cả của cả học sinh sinh viên. Để thực hiện vấn đề này, học sinh sinh viên cần chủ động, phát hiện và kịp thời thông báo cho cơ quan Công an, các lực lượng chuyên trách các thông tin tài liệu có liên quan. Việc cung cấp thông tin tài liệu có thể thực hiện thông qua các phương tiện thông tin, liên lạc, số máy điện thoại 113 ; các hộp thư tố giác tội phạm và các hình thức khác. Ngoài ra học sinh, sinh viên còn có trách nhiệm tham gia hỗ trợ giúp đỡ cho các lực lượng chuyên trách phát hiện xử lý, đấu tranh đối với các hành vi vi phạm TTCC. Tham gia quản lý, giáo dục các trường hợp có nguy cơ thực hiện các hành vi vi phạm TTCC. 6. Trách nhiệm của học sinh, sinh viên trong việc thực hiện một số biện pháp tham gia giải quyết các trường hợp vi phạm liên quan tới TTCC. Trường hợp phát hiện vụ việc đánh nhau gây mất trật tự công cộng, học sinh, sinh viên có trách nhiệm: Thông báo ngay cho lực lượng Công an nơi gần nhất và cơ quan có thẩm quyền đến giải quyết, hỗ trợ cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Bằng các biện pháp cụ thể tham gia can thiệp để những người tham gia đánh nhau đình chỉ ngay hành vi vi phạm. Tham gia hỗ trợ cấp cứu người bị nạn (nếu có). Tham gia phát hiện, truy bắt đối tượng trong trường hợp bỏ trốn. Đồng thời hỗ trợ các lực lượng ổn định trật tự, đảm bảo trật tự an toàn giao thông nơi xảy ra vụ việc. Trường hợp xảy ra các vụ tai nạn giao thông thì học sinh, sinh viên có trách nhiệm tiến hành các biện pháp sau: Tổ chức cấp cứu người bị nạn và đánh dấu lại vị trí của người bị nạn tại hiện trường. Thông báo ngay vụ việc cho Cảnh sát giao thông hoặc đơn vị Công an có thẩm quyền đến tiếp nhận xử lý theo quy định cuả pháp luật. Tham gia bảo vệ hiện trường, bảo vệ tài sản, phương tiện, vật chứng có liên quan đến tai nạn, ngăn chặn những thiệt hại có thể tiếp tục xảy ra. Phối hợp truy đuổi người gây tai nạn bỏ trốn. Hỗ trợ các lực lượng chuyên trách giải tán đám đông ổn định trật tự, không để ùn tắc giao thông, gây mất trật tự công cộng. Trường hợp xảy ra cháy nổ, thì học sinh, sinh viên tham gia giữ gìn trật tự công cộng tiến hành các biện pháp sau: Khẩn trương điện báo cứu hoả 114, hoặc các lực lượng có liên quan về vụ việc xảy ra. Phối hợp và hỗ trợ các lực lượng cấp cứu người bị nạn. Phối hợp hỗ trợ các lực lượng cứu chữa cháy. Cung cấp các thông tin về vụ cháy nổ xảy ra hỗ trợ cho các cơ quan chức năng xác định rõ nguyên nhân, những người vi phạm phục vụ cho việc xử lý. Trường hợp phát hiện vi phạm lấn chiếm lòng đường, vỉa hè: Tuyên truyền, nhắc nhở người vi phạm thấy rõ được vi phạm của mình, yêu cầu họ chấp hành đúng quy định về việc sử dụng lòng đường, vỉa hè, bảo đảm trật tự an toàn giao thông, trật tự đô thị. Sau khi đã nhắc nhở mà cá nhân, tổ chức vẫn tiếp tục vi phạm hoặc không chấp hành, báo cho các lực lượng và cơ quan chức năng lập biên bản vi phạm và xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Tham mưu đề xuất giúp đỡ chính quyền địa phương có biện pháp xử lý đối với các trường hợp vi phạm. Câu 5: Chủ thể và những nguyên tắc tổ chức hoạt động phòng chống tội phạm? * Chủ thể hoạt động phòng chống tội phạm. - Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp - Chính phủ và UBND các cấp - Các cơ quan quản lý kinh tế, văn hoá, giáo dục, dịch vụ, du lịch trong phạm vi tổ chức hoạt động chuyên môn. - Các tổ chức xã hội, các tổ chức quần chúng tự quản - Các cơ quan bảo vệ pháp luật: Công an, Toà án, Viện kiểm sát. - Công dân * Nguyên tắc tổ chức hoạt động phòng chống tội phạm. - Nhà nước quản lý - Kết hợp giữa chủ động phòng ngừa với chủ động liên tục tiến công - Tuân thủ pháp luật - Phối hợp và cụ thể - Dân chủ - Nhân đạo - Khoa học và tiến bộ Câu 6: Trác nhiệm của học sinh, sinh viên trong phòng chống tội phạm như thế nào? Không ngừng học tập nâng cao kiến thức, ý thức pháp luật và nội dung cơ bản nhất về phòng ngừa tội phạm. Tuyên truyền phổ biến pháp luật cho mọi người. Chấp hành nghiêm chỉnh những nội quy, quy định của nhà trường trong lĩnh vực học tập, sinh hoạt tập thể. Trực tiếp tham gia các hoạt động phòng ngừa tội phạm, tham gia các tổ chức thanh niên xung kích tiến hành tuần tra, kiểm soát bảo vệ an ninh trật tự trong khu vực trường lớp, phát hiện các hiện tượng tiêu cực nảy sinh trong trường lớp, các quan hệ nam nữ không lành mạnh, các hành vi nghi vấn nghiện ma túy, cờ bạc, chơi lô đề, các cược bóng đá… có thể dẫn tới tội phạm. Khi có vụ phạm tội xảy ra, phát hiện và thông báo cho cơ quan chức năng những thông tin có liên quan đến vụ việc phạm tội, người phạm tội. Tùy theo từng điều kiện cụ thể của mỗi người mà có thể tham gia cộng tác giúp đỡ lực lượng công an một cách công khai hay bí mật. Câu 7: Vai trò của Dân quân tự vệ (DQTV)? Nội dung xây dựng và ý nghĩa thực tiễn nghiên cứu về xây dựng lực lượng DQTV với sinh viên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay? * Khái niệm - DQTV là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác, là một bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam, sự quản lý diều hành của chính phủ và của uỷ ban nhân dân các cấp, sự chỉ đạo, chỉ huy thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của cơ quan quân sự địa phương. - Lực lượng này tổ chức ở Xã, Phường, Thị trấn được gọi là dân quân được tổ chức ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chứ kinh tế, tổ chức chính trị, tổ cức chính trị xã hội (gọi chung là cơ quan, tổ chức) gọi là tự vệ. * Vai trò của DQTV - DQTV là một lực lượng chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là lực lượng nòng cốt trong  xây dựng nền QPTD và phong trào toàn dân đánh giặc trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc đối phó với chiến lược “ Diễn biến hoà bình ”, “Bạo loạn lật đổ” và sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống chiến tranh xâm lược của các thế lực thù địch thì vai trò của DQTV càng được coi trọng. - Lực lượng DQTV là một trong những công cụ chủ yếu để bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, trực tiếp ở từng địa phương bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của nhà nước ở cơ sở. - Đánh giá vai trò DQTV, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “DQTV và Du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là lực lượng vô địch, là bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận kể thù nào dù hung bạo đến đâu hễ đụng vào lực lượng đó thì địch nào cũng phải tan rã ”. - Trong thời bình: DQTV là lực lượng đông đảo tham gia xây dựng kinh tế, phát triển ở địa phương và cả nước là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân xây dựng nền QPTD, thế trận QPTD, phối hợp với các lực lượng khác đáu tranh làm thất bại chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ, phòng chống các tệ nạn xã hội, thiên tai, địch hoạ bảo đảm an toàn cho nhân dân. - Trong thời chiến: DQTV làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, chiến đấu, tiêu hao, tiêu diệt lực lượng, phương tiện của dịch, căng kéo, kìm chân buộc địch phải sa lầy triển khai sớm, vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật, các thủ đoạn chiến đấu, tạo thế, tạo lực cho bộ đội chủ lực,bộ đội địa phương chiến đấu, tham gia phục vụ chiến đấu giữ vững thế trận chiến tranh nhân dân. * Nội dung xây dựng dân quân tự vệ + Phương châm xây dựng : Xây dựng DQTV theo hướng “vững mạnh, rộng khắp, coi trọng chất lượng là chính”. + Vững mạnh: Được thể hiện là chất lượng phải toàn diện cả về chính trị tư tưởng, tổ chức, trình độ chính trị, quân sự và chyên môn nghiệp vụ, biên chế trang bị hợp lí, thống nhất, có kỉ luật nghiêm, cơ động nhanh sẵn sàng chiến đấu tốt. Mỗi tổ chức DQTV phải luôn vững vàng. + Rộng khắp: LLDQTV được xây dựng ở hầu hết các làng, bản, xóm, ấp, xã, phường, các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội, ở đâu có tổ chức Đảng, chính quyền và có dân, đều phải tổ chức DQTV, kể cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. + Coi trọng chất lượng là chính: Chỉ lựa chọn vào đội ngũ những công dân có lí lịch rõ ràng, có hộ khẩu thường trú tại địa phương, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, chấp hành đúng các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, các quy định của địa phương, có sức khoẻ phù hợp. + Tổ chức, biên chế, trang bị của LLDQTV: Tổ chức, biên chế, vũ khí, trang bị của LLDQTV phải phù hợp với tính chất, yêu cầu nhiệm vụ QP – AN thời bình, thời chiến, dặc điểm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và điều kiện cụ thể của từng bộ, nghành, địa phương và cơ sở. + Về tổ chức: DQTV được tổ chức thành 2 lực lượng: lực lượng nòng cốt ( lực lượng chiến đấu) và lực lượng rộng rãi (lực lượng phục vụ chiến đấu) + Biên chế : Biên chế DQTV được thống nhất trong toàn quốc, số lượng cán bộ, chiến sĩ trong toàn đơn vị do Bộ quốc phòng quy định + Về vũ khí, trang bị của DQTV : Vũ khí, trang bị cho DQTV từ các nguồn do Bộ quốc phòng cấp, các địa phương tự chế tạo hoặc thu được của địch. Song từ nguồn nào, vũ khí trang bị đó cũng đều là tài sản của nhà nước giao cho DQTV quản lí. Do vậy, phải được đăng ký, quản lí, bảo quản chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích và đúng quy định của pháp luật. + Giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự đối với DQTV : Nội dung giáo dục cần tập trung không ngừng tăng cường bản chất cách mạng và ý thức giai cấp cho từng cán bộ, chiến sĩ DQTV, trên cơ sở đó thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng, nhận rõ bản chất âm mưu của kẻ thù. Giáo dục truyền thống dân tộc, tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, mục tiêu lí tưởng của Đảng,… + Huấn luyện quân sự: Huấn luyện nội dung hằng năm do Bộ quốc phòng quy định, thời gian huấn luyện theo pháp lệnh quy định. Ý nghĩa: DQTV là lực lượng chiến đấu tại chỗ ở địa phương, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tính  mạng và tài sản của nhân dân ở cơ sở, là thành phần không thể thiếu được của LLVTNDVN. Việc xây dựng LLDQTV là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Câu 8: Trong xây dựng lực lượng dự bị động viên cần nắm vững và thực hiện tốt quan điểm, quyên tắc xây dựng gì? Biện pháp xây dựng được thực hiện và ý nghĩa thực tiễn nghiên cứu về xây dựng lực lượng DBĐV đối với sinh viên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay? * Những quan điểm, nguyên tắc xây dựng lực lượng DBĐV - Xây dựng lực lượng DBĐV bảo đảm số lượng đủ, chất lượng cao, xây dựng toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm. - Xây dựng LLDBĐV phải phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị. - Xây dựng LLDBĐV đăt dưới sự lãnh đạo của Đảng các cấp ở địa phương, bộ, nghành. * Một số biện pháp xây dựng LLDBĐV - Thường xuyên giáo dục sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về vị trí, nhiệm vụ, những quan điểm của Đảng, Nhà nước đối với LLDBĐV. - Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự và các cơ quan chức năng làm tham mưu và tổ chức thực hiện. - Thường xuyên củng cố, kiện toàn, bồi dưỡng cơ quan và đội ngũ làm công tác xây dựng LLDBĐV. - Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với LLDBĐV. * Ý nghĩa: Xây dựng LLDBĐV hết sức quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đó là nhiệm  vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, của cả hệ thống chính trị. Câu 9: Dân tộc là gì? Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng HCM về dân tộc, giải quyết dân tộc như thế nào và ý nghĩa thực tiễn nghiên cứu về dân tộc với sinh viên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay? * Khái niệm dân tộc: Dân tộc là một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phỏ biến nhất. Một là: dân tộc chỉ cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong cuộc suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó- Quốc gia dân tộc. Hai là: dân tộc chỉ mọt cộng đồngngười có mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù, Xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc. Với nghĩa này, dân tộc là bộ phận của quốc gia- Quốc gia có nhiều dân tộc. * Nội dung cơ bản: “Cương lĩnh dân tộc” có 3 vấn đề sau. Thứ nhất: các dân tộc được quyền tự quyết định Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnhcủa dân tộc mình: quyền tự quyết định chế độ chính trị xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình, quyền tự do độc lập về chính trị tách ra thành mổ quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc, quyền tự nguyện liên hiệp lại các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia - dân tộc. Khi giải quyết quyền tự quyết của mỗi dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân ủng hộ phong trào đấu tranh tiến bộ phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Kiên quyết đấu tranh chống những âm mưu thủ đoạn của các thế lực đế quốc, lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để cam thiệp vào công việc nội bộ của các nước. Thứ hai: Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: Các dân tộc lớn hay nhỏ (kể cả bộ tộc và chủng tộc) không phân biệt trình độ cao thấp đèu có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau, không một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và đi áp bức bóc lột dân tộc khác. Trên phạm vi giữa các quốc gia dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẵng giữa các dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ ngiã phân biệt chủng tộc, gắn với cuộc đáu tranh xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới, chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bảnphát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tê.Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc. Trong các quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ như nhau, khắc phục chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc do lịch sư để lại. Thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc đoàn kết lại. Nó quy định mục tiêu hướng tới; quy định đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc, đồng thời nó là yếu tố sức mạnh bảo đảm cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:”Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đây là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của Lênin: nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp. Nó đảm bảo cho dân tộc có đủ sực mạnh để giành thắng lợi. Đây là cơ sở vững chắc để đoàn kết nhân dân lao động trong các dân tộc để đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy , nội dung liên hiệp công nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể. Ý nghĩa: ”Cương lĩnh dân tộc” của chủ nghĩa Mác-Lênin (của Đảng cộng sản) là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, là cơ sở lý luận của đường lối, chính sách dân tộc của Đảng cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Câu 10: “Diễn biến hòa bình” là gì? Sự hình thành và phát triển của chiến lược này ra sao? Ý nghĩa thực tiễn với sinh viên khi nghiên cứu vấn đề này trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay? DBHB là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế độ chính trị -xã hội của các nước tiến bộ, trước hết là các nước XHCN từ bên trong, chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động đứng đầu là Mỹ tiến hành …Nội dung chính: sử dụng mọi thủ đoạn kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội , đối ngoại, an ninh,… kết hợp với răn đe quân sự để ngầm phá từ bên trong, tạo ra các lực lượng chính trị đối lập núp dưới chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền; kích động các mâu thuẫn tôn giáo, dân tộc, chủng tộc; truyền bá mô hình chính trị, kinh tế, tư tưởng và lối sống của Chủ nghĩa Tư bản; khuyến khích tư nhân hóa về kinh tế và đa nguyên chính trị; triệt để khai thác và lợi dụng những khó khăn, sai sót của nhà nước hiện hành, làm trầm trọng thêm quá trình khủng hoảng kinh tế-xã hội, tạo nên sức ép ngày càng lớn, buộc lãnh đạo  nhà nước từng bước chuyển hóa , thay đổi đường lối chính trị, nhường quyền lãnh đạo cho nhà nước đối lập, làm cho thể chế chính trị tiến bộ, cách mạng bị thủ tiêu… DBHB lúc đầu chỉ là một phương thức, thủ đoạn để ngăn chặn CNXH, dần dần theo thời gian nó trở thành một bộ phận chủ yếu trong chiến lược toàn cầu của Mỹ ở các thời kì cụ thể:  (1) chiến lược “Ngăn chặn” (thời kì 1947-1988), khi hệ thống XHCN còn đang vững mạnh; (2) chiến lược “ Vượt trên ngăn chặn” (thời kì 1989-1993), khi hệ thống XHCN có sự rạn nứt, suy yếu  và sụp đổ; (3) chiến lược “Dính líu, khuếch trương” (từ 1993 đến nay), khi Liên Xô tan rã và các  nước XHCN Đông Âu sụp đổ;  và cũng từ đó, nó đã phát triển thành một chiến lược nhằm xóa bỏ CNXH với tư tưởng “chiến thắng không cần chiến tranh”. * Ý nghĩa thực tiễn nghiên cứu về vấn đề này : Chiến lược DBHB và BLLĐ không chỉ là nguy cơ mà đang trở thành thách thức to lớn; là tình huống đe dọa đến sự tồn vong của chế độ XHCN và sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước ta trong thời kì mới. Phòng, chống chiến lược DBHB, BLLĐ là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên và lâu dài trong sự nghiệp QP-AN của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân  và của cả hệ thống chính trị XHCN nước ta. Chúng ta hoàn toàn có cơ sở khoa học để tin rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống chính trị và cả nước để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, làm cho đất nước ngày càng phát triển, ổn định về chính trị - kinh tế - xã hội, thì nhất định chiến lược DBHB, BLLĐ của các thế lực thù địch sẽ bị thất bại ở Việt Nam .