PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2
Tạp chí
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM
CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG
CỦA HỘI PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM
(TRONG TỔNG HỘI Y DƯỢC HỌC VIỆT NAM)
Tòa soạn:
Văn phòng Trung ương Hội Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực Việt Nam
Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E
số 87-89, Trần Cung, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
ĐT: 84.4.37480360
Fax: 84.4.37480361
Email: actsvn@vnn.vn Website: http://www.phauthuattim.org.vn
PGS.TS. Lê Ngọc Thành
Tổng Biên tập:
Phó Tổng Biên tập:
PGS.TS. Nguyễn Hữu Ước
PGS.TS. Đỗ Kim Quế
Thư ký Tòa soạn:
TS. Nguyễn Hoàng Định
TS. Đặng Hanh Sơn
Ths. Nguyễn Minh Trí
Ths. Đoàn Đức Hoằng
Ths. Trần Thúc Khang
Ths. Ngô Vi Hải
Ths. Nguyễn Lý Thịnh Trường
Ths. Phạm Hữu Lư
Ths. Nguyễn Công Hựu
Ban Biên tập:
GS.TS. Bùi Đức Phú
GS. Đặng Hanh Đệ
GS.TS. Nguyễn Thanh Liêm
GS.TS. Phạm Vinh Quang
PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng
PGS.TS. Phạm Thọ Tuấn Anh
PGS.TS. Ngô Văn Hoàng Linh
PGS.TS. Nguyễn Hoài Nam
PGS.TS. Trần Quyết Tiến
TS. Phan Kim Phương
TS. Nguyễn Văn Phan
TS. Đoàn Quốc Hưng
TS. Dương Đức Hùng
TS. Nguyễn Sinh Hiền
TS. Lê Quang Thứu
TS. Trần Hoài Ân
TS. Nguyễn Lương Tấn
Ban Trị sự:
Ths. Nguyễn Đỗ Hùng
KS. Đào Văn Minh
Giấy phép xuất bản số: 07/GP-BTTTT Cấp ngày 04 tháng 01 năm 2012.1
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
2
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
LỜI GIỚI THIỆU
T
ạp chí Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực Việt Nam xuất bản số đầu tiên được nồng nhiệt đón
nhận và đánh giá cao của các đồng nghiệp trong nước. Thừa thắng xông lên, Ban biên tập đã xuất
bản số 02 chào mừng Hội nghị Phẫu thuật Tim mạch Lồng ngực Việt Nam lần thứ 4 sẽ diễn ra tại
Hà Nội từ 22-24/11/2012, điều này khẳng định sự kế tục và nỗ lực không ngừng của toàn thể các nhà khoa
học chuyên ngành phẫu thuật tim mạch và lồng ngực nhằm tiếp cận và góp phần phát triển nền y học trong
nước ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Chúng tôi rất tâm đắc và hãnh diện trước sự chuyển biến về nhận thức chuyển giao quyền nhiều hơn
cho các đồng nghiệp trẻ, để có thể tự tin, mạnh mẽ, sáng tạo, chấp nhận thử thách, làm chủ các loại phẫu
thuật tim phức tạp, đang được hình thành tại cácTrung tâm phẫu thuật tim trong nước .
Trong lịch sử chuyên ngành phẫu thuật Tim mạch Lồng ngực, các bước đột phá phát minh hầu như
được thực hiện từ các bác sĩ trẻ, những người làm cho những điều không thể thành có thể và rồi mọi việc
xảy ra như Lillehei , Shumway, Kirklin, Starr, Cooley, Carpentier, và nhiều người khác. Gần đây hơn,
Phẫu thuật viên trẻ Joel Cooper và Bruce Reitz đã cấy ghép phổi thành công, với sự hỗ trợ của các đồng
nghiệp và với sự chỉ đạo, trao quyền từ các lãnh đạo của họ. Chúng ta có quyền mong chờ các đồng
nghiệp trẻ Việt Nam sẽ làm nên nhiều kỳ tích như các thệ hệ vàng trong chuyên ngành tim mạch lồng ngực
đã để lại một di sản quý báu trong kỹ nghệ chăm sóc sức khỏe nhân loại. Chuyên ngành của chúng ta
không cho phép nghỉ ngơi trên vòng nguyệt quế và chỉ thừa hưởng di sản mà các thế hệ đi trước để lại.
Các đồng nghiệp trẻ thân mến: Tương lai trong tay bạn và bạn phải nắm bắt nó. Nhanh chóng nắm
vững kỹ thuật lâm sàng và chuyên nghiệp nhất có thể. Không phải tất cả mọi người chúng ta có trí tưởng
tượng và tài năng để tạo ra các giả thuyết mới, tiến bộ kỹ thuật mới. Và, trên thực tế, những người đã có
năng khiếu cho sự đổi mới, lại thiếu các kỹ năng lâm sàng hoặc phẫu thuật để thực hiện tất cả những gì
có từ những ý tưởng mới hoặc kỹ thuật của họ. Hầu hết chúng ta đóng góp cho sự đổi mới trong lĩnh vực
này bằng cách cải thiện và nâng cao kỹ thuật hoặc thiết bị mới.
Khi theo đuổi nghề nghiệp Phẫu thuật tim mạch lồng ngực, sự nghiệp vô cùng khó khăn nhưng hạnh
phúc, chúng tôi đã nhận được lời khuyên “Đừng chọn nghề nghiệp phẫu thuật tim, trừ khi đó là điều duy
nhất trong cuộc sống, nó sẽ làm cho bạn hạnh phúc”. Phẫu thuật tim mạch lồng ngực không phải dành
cho những kẻ yếu tim. Phẫu thuật tim mạch lồng ngực là một sự nghiệp ưu tú, với những người tiền phong
uyên bác và một truyền thống đổi mới và chăm sóc bệnh nhân tuyệt vời.
Dựa trên nền tảng tri thức của những người đã đi trước và nền văn hóa xuất sắc trong chuyên ngành,
chúng ta, bác sĩ phẫu thuật phẫu thuật tim mạch lồng ngực hôm nay và các lãnh đạo chuyên ngành này
ở các cấp độ, cần phải duy trì truyền thống đó và phát triễn tính đặc thù văn hóa - thành công - xuất sắc
của chuyên ngành .
Chấp nhận thay đổi và thúc đẩy đổi mới là tư tưởng chủ đạo của Hội Phẫu thuật Tim mạch Lồng ngực
Việt Nam và Tạp chí chuyên ngành của nó.
Chủ tịch Hội
GS. TS Bùi Đức Phú
3
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
KẾT QUẢ SỚM SAU SỬA VAN BA LÁ DO HỞ VAN BA LÁ THỨ PHÁT
MỨC ĐỘ TRUNG BÌNH Ở BỆNH NHÂN PHẪU THUẬT BỆNH VAN HAI LÁ HẬU THẤP
Trần Thúc Khang, Bùi Đức Phú
Người phản biện: GS, TS. Đặng Hanh Đệ
Tóm tắt
Mục đích: Nghiên cứu nhằm so sánh kết quả sớm
sau phẫu thuật sửa van ba lá hoặc không sửa van ba lá
do hở van ba lá thứ phát mức độ trung bình ở bệnh nhân
được phẫu thuật bệnh van hai lá hậu thấp. Phương
pháp: Chúng tôi nghiên cứu 48 bệnh nhân được phẫu
thuật bệnh van hai lá hậu thấp có kèm hở van ba lá thứ
phát (1.5/4 – 2.5/4) từ tháng 3/2011 đến 3/2012, trong
đó các bệnh nhân được chia làm hai nhóm: nhóm I: 22
bệnh nhân được thay van hai lá kèm sửa vòng van ba lá
bằng dải Teflon (45.8%), nhóm II: 26 bệnh nhân được
thay van hai lá, không sửa van ba lá (54.2%). Kết quả:
Cải thiện mức độ hở van ba lá sau mổ ở hai nhóm khác
biệt có ý nghĩa sau thời gian theo dõi trung bình 6 tháng:
nhóm I sau mổ có 21 trường hợp hở ba lá ≤ ¼ (95.4%),
nhóm II: hở van ba lá ≤ ¼ chiếm 30.8%, 1 trường hợp
(3.8%) tiến triển nặng hơn (từ 2/4 lên 2.5/4) và hở van
ba lá không cải thiện (ở các mức độ) là 46.1%. Không
có sự khác biệt về tỷ lệ biến chứng giữa hai nhóm.
Không có tử vong bệnh viện. Kết luận: Hở van ba lá
thứ phát mức độ trung bình không tự thoái lui sau phẫu
thuật thay van hai lá hậu thấp.
Từ khoá: van ba lá, hở van ba lá thứ phát, sửa van
ba lá, phẫu thuật van hai lá
EARLY OUTCOMES OF TRICUSPID
VALVE REPAIR FOR FUNCTIONAL MODERATE TRICUSPID REGURGITATION IN PATIENTS UNDERGOING POST-RHEUMATIC
MITRAL VALVE SURGERY
Background: The purpose of the study was to compare the early results of tricuspid valve repair versus
non-repair for moderate functional tricuspid regurgitation in patients undergoing post-rheumatic mitral valve
surgery. Methods: From march 2011 to march 2012, 48
patients having post-rheumatic mitral valve disease associated with moderate functional tricuspid regurgitation (1.5/4 to 2.5/4) underwent operation. The entire
population was divided into two groups, group I: 22 patients having mitral valve replacement associated with
tricuspid valve repair with Teflon band, and group II:
26 patients undergoing only mitral valve replacement.
Results: There was a significant difference in tricuspid
4
regurgitation improvement between two groups at 6
month follow – up. Post-operatively, there were 21
cases having no tricuspid regurgitation (grade ≤ ¼ in
group I (95.4%), while in group II there were only
30.8% of cases with no tricuspid regurgitation, 1 case
being worse (3.8%) and 46.1% of patients with unimproved tricuspid regurgitation. There were no differences in morbidity between two groups, and no hospital
mortality. Conclusions: Moderate functional tricuspid
regurgitation does not regress spontaneously after postrheumatic mitral valve replacement.
Keywords: tricuspid valve, tricuspid repair, functional tricuspid regurgitation, mitral valve surgery
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hở van ba lá thường đi kèm theo các bệnh lý van
tim bên trái. Hở van hay gặp là thứ phát (do giãn vòng
van) và thường phối hợp với tăng áp lực động mạch
phổi và giãn thất phải. Hở van ba lá có thể góp phần làm
gia tăng tỷ lệ biến chứng và tử vong, có ảnh hưởng xấu
lên tỷ lệ sống về lâu dài, mặc dù đã phẫu thuật sửa chữa
các van tim bên trái. Hở van ba lá ở bệnh nhân bị van
hai lá thường không biến mất hoặc cải thiện hoàn toàn
sau khi phẫu thuật van hai lá, mặc dù huyết động của
thất phải đã được cải thiện, thậm chí nó còn tồn tại kéo
dài hoặc nặng hơn [1],[5]. Trong thực hành lâm sàng,
các trường hợp hở van ba lá mức độ nặng thường được
can thiệp ngay trong lúc phẫu thuật van hai lá. Tuy
nhiên chỉ định phẫu thuật van ba lá vẫn còn bàn cãi ở
nhóm bệnh nhân có hở van ba lá không nặng [2],[6]. Do
vậy, mục tiêu nghiên cứu nhằm so sánh kết quả của
nhóm bệnh nhân được phẫu thuật sửa van ba lá do hở
van ba lá thứ phát mức độ trung bình với nhóm bệnh
nhân không can thiệp lên van ba lá khi phẫu thuật đồng
thời bệnh van hai lá hậu thấp
II. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu gồm 48 bệnh nhân người lớn có hở van ba
lá thứ phát mức độ trung bình được phẫu thuật thay van
hai lá do bệnh van hậu thấp có kèm theo sửa van ba lá
hoặc không sửa van ba lá từ 3.2011 đến 3.2012 tại Khoa
ngoại Lồng ngực Tim mạch, bệnh viện Trung Ương Huế
Bệnh viện Trung ương Huế.
KẾT QUẢ SỚM SAU SỬA VAN BA LÁ DO HỞ VAN BA LÁ THỨ PHÁT... BỆNH VAN HAI LÁ HẬU THẤP
Tiêu chuẩn chọn bệnh:
- Bệnh nhân ≥ 18 tuổi, có chỉ định phẫu thuật và
được phẫu thuật thay van hai lá do bệnh lý van hai lá
hậu thấp
- Có hở van ba lá thứ phát mức độ trung bìnhnhẹ và trung bình (1.5/4 - 2.5/4) dựa vào đánh giá của
siêu âm tim trước phẫu thuật
Phương pháp tiến hành:
- Các bệnh nhân được chia thành hai nhóm:
o Nhóm I: 22 bệnh nhân được phẫu thuật thay
van hai lá và sửa vòng van ba lá bằng dải Teflon tăng
cường vòng van lá trước và lá sau
o Nhóm II: 26 bệnh nhân được phẫu thuật thay
van hai lá, không can thiệp lên van ba lá
- Ghi nhân các đặc điểm của bệnh nhân ở hai
nhóm trước, trong và sau mổ. Đánh giá tình trạng cải
thiện chức năng tim, sự cải thiện độ hở van ba lá sau
phẫu thuật
III. KẾT QUẢ
3.1. Một số đặc điểm bệnh nhân trước phẫu thuật
Bảng 3.1. Các đặc điểm bệnh nhân trước mổ
Đặc điểm
Nhóm I (n = 22)
Nhóm II (n = 26)
p
42.1 ± 8.1(21 – 55)
43.2 ± 8.5 (23 – 51)
0.301
14 (63.1%)
17 (65.4%)
0.307
≤ 40%
2 (9.1%)
1 (3.8%)
0.307
40 – 50%
7 (31.8%)
6 (23.1%)
0.276
≥ 50%
13 (59.1%)
19 (73.1%)
0.109
2 (9.1%)
6 (23.1%)
0.092
2/4
17 (77.3%)
19 (73.1%)
0.378
2.5/4
17 (77.3%)
1 (3.8%)
0.113
Nhịp tim (rung nhĩ)
8 (36.4%)
1 (3.8%)
0.421
47.4 ± 12.3 (30 – 75)
1 (3.8%)
0.856
Tuổi
Giới tính (nữ)
Phân suất tống máu (FE%)
Mức độ hở ba lá
1.5/4
Áp lực ĐMP tâm thu (mmHg)
3.2. Một số đặc điểm phẫu thuật
Bảng 3.2. Các đặc điểm phẫu thuật
Đặc điểm
Nhóm I (n = 22)
Nhóm II (n = 26)
Thay van hai lá cơ học
22 (100%)
26 (100%)
Sửa van ba lá bằng dải Teflon
22 (100%)
0
Lấy huyết khối tiểu nhĩ trái
4 (18.2%)
3 (11.5%)
Đóng tiểu nhĩ trái
1 (4.5%)
2 (7.7%)
65 ± 12 phút
61 ± 18 phút
40.3 ± 2.8 phút
46.1 ± 4.6 phút
Thời gian tuần hoàn ngoài cơ thể
Thời gian cặp động mạch chủ
5
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
3.3. Một số đặc điểm sau phẫu thuật
Bảng 3.3. Các đặc điểm sau phẫu thuật
Đặc điểm
Thời gian thở máy trung bình (giờ)
Suy thận cấp
Mổ lại do chảy máu
Đóng xương ức muộn
Tràn dịch màng ngoài tim -> dẫn lưu
Tử vong bệnh viện
Nhóm I (n = 22)
Nhóm II (n = 26)
19.6 ± 7.5 (11 – 36)
33.4 ± 41.8 (10 – 144)
0
1 (3.8%)
1 (4.5%)
2 (7.6%) (*)
0
1 (3.8%)
1 (4.5%)
1 (3.8%)
0
0
(*) 1 bệnh nhân trong nhóm này để hở xương ức trong lần mổ lại
3.4. Tiến triển của hở van ba lá trước và sau phẫu thuật ở hai nhóm
Sơ đồ 3.1. Sự thay đổi độ hở van ba lá trước và sau mổ ở hai nhóm
IV. BÀN LUẬN
Điều trị hở van ba lá chức năng do các bệnh lý van
tim bên trái vẫn còn là một vấn đề quan trọng trong
phẫu thuật tim, bởi vì còn có một số điều không chắc
chắn liên quan đến chẩn đoán, chỉ định phẫu thuật, các
phương pháp phẫu thuật thích hợp, và kết quả muộn
của phẫu thuật [4]. Theo y văn, người ta cho rằng hở
6
van ba lá nghiêm trọng nếu không can thiệp đồng thời
vào thời điểm can thiệp bệnh van tim bên trái sẽ là một
yếu tố nguy cơ đối với tỷ lệ sống về lâu dài, do vậy
phần lớn người ta đồng ý rằng nên sữa chữa van ba lá
đồng thời với phẫu thuật bệnh van hai lá khi hở van ba
lá mức độ nặng nhằm mang lại tiên lượng tốt hơn [6].
Tuy nhiên hở van ba lá thứ phát mức độ không nặng, thì
KẾT QUẢ SỚM SAU SỬA VAN BA LÁ DO HỞ VAN BA LÁ THỨ PHÁT... BỆNH VAN HAI LÁ HẬU THẤP
nhiều tác giả vẫn còn cho rằng nó sẽ thoái lui sau khi
sửa chữa các tổn thương van tim bên trái. Theo Shiran
A. et al. [5], ở những bệnh nhân được nong thành công
van hai lá (do hẹp van hai lá) mà có hở van ba lá (van
ba lá không can thiệp), thì người ta nhận thấy rằng hở
van ba lá không cải thiện ở 49 – 80% các bệnh nhân có
hở van ba lá mức độ trung bình hay nặng. Matsuyama
K. và CS [3] thực hiện nghiên cứu ở 174 bệnh nhân trải
qua phẫu thuật van hai lá (55% bệnh nhân hậu thấp)
mà không sửa van ba lá (trong đó có 26% có hở van ba
lá độ 2/4 và 74% có hở van ba lá độ ¼ hoặc ít hơn).
Qua theo dõi trung bình 8.2 năm, các tác giả nhận thấy
hở van ba lá tăng độ nặng (độ ¾ hoặc hơn) xảy ra trong
16% các trường hợp. Nghiên cứu của Song H. và CS
[7]: nghiên cứu 92 bệnh nhân hẹp hai lá nặng kèm hở
van ba lá nặng. Trong đó nhóm 1 gồm 48 bệnh nhân
nong van hai lá bằng bóng và nhóm 2 gồm 44 bệnh
nhân được phẫu thuật van hia lá kèm sửa ba lá. Qua
theo dõi trung bình 57 tháng, tác giả nhận thấy hở van
ba lá giảm còn nhẹ hoặc thoái lui hẳn trong 98% ở
nhóm 2 (có phẫu thuật sửa ba lá) và chỉ 46% ở nhóm 1
(không có sửa van ba lá).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mặc dù các thông
số bệnh nhân trước mổ giữa hai nhóm không có sự khác
biệt (bảng 3.1), nhưng kết quả theo dõi ngắn hạn cho ta
thấy hở van ba lá mức độ không nặng không hoàn toàn
thoái lui sau khi phẫu thuật thay van hai lá, và tỷ lệ thoái
lui của hở van ba lá ở hai nhóm có sự khác biệt rõ rệt (sơ
đồ 3.1). Trong nghiên cứu này không có trường hợp nào
tử vong, thời gian phẫu thuật và tỷ lệ biến chứng giữa
hai nhóm cũng không có sự khác biệt, thời gian phẫu
thuật giữa hai nhóm cũng không khác biệt có ý nghĩa
(bảng 3.2 và 3.3). Do vậy thực hiện sửa van ba lá trong
những trường hợp như vậy không làm gia tăng biến
chứng. Ngược lại, theo nhiều tác giả, thì hở van ba lá do
giãn vòng van trong bệnh van hai lá nếu không sửa
chữa thường làm gia tăng đáng kể tỷ lệ biến chứng và
tử vong về lâu dài [3].
Về kỹ thuật sửa chữa van ba lá, chúng tôi sử dụng
kỹ thuật tăng cường vòng van ba lá ở phía lá trước và
sau bằng dải Teflon, có kiểm tra kết quả trong mổ bằng
siêu âm qua thực quản (nhóm I). Kết quả bước đầu sau
phẫu thuật cho thấy tỷ lệ không còn hở van ba lá (hở ≤
¼) ở nhóm I đạt 95.5%, khác biệt có ý nghĩa so với
nhóm II (không có sửa van ba lá): 30.8% trường hợp
không hở van ba lá (≤ ¼), 46.1%trường hợp hở van ba
lá không cải thiện (ở các mức độ). Và theo Kuwaki K.,
et al [2], thì để ngăn ngừa hở van ba lá xuất hiện muộn
thì điều quan trọng là không nên để hở van ba lá ≥ 2/4
sau phẫu thuật bệnh van hai lá. Mặc dù kết quả này cần
phải được theo dõi trong thời gian dài hơn để đánh giá
tỷ lệ hở van ba lá muộn sau phẫu thuật, nhưng kết quả
này ủng hộ cho chỉ định can thiệp sửa van ba lá dù hở
van ở mức độ không nặng đồng thời với phẫu thuật van
hai lá.
V. KẾT LUẬN
Hở van ba lá thứ phát mức độ trung bình thường
không cải thiện đáng kể sau phẫu thuật thay van hai lá
hậu thấp. Nghiên cứu cho thấy sửa van ba lá do hở van
ba lá thứ phát mức độ không nặng vào thời điểm phẫu
thuật van hai lá hậu thấp mang lại kết quả tốt
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anyanwu A.C., Chikwe J., Adams D.H., Tricuspid Valve Repair for Treatment and prevention of
Secondary Tricuspid Regurgitation in Patients Undergoing Mitral Valve Surgery. Current Cardiology Reports
2008, 10:110–117
2. Kuwaki K., Morishita K., Tsukamoto M.,
Abe T. Tricuspid valve surgery for functional tricuspid
valve regurgitation associated with left-sided valvular
disease. Eur J Cardiothorac Surg 2001;20:577-582
3. Matsuyama K., Matsumoto M., Sugita T.,
et al. Predictors of Residual Tricuspid Regurgitation
After Mitral Valve Surgery. Ann Thorac Surg 2003;75:
1826 – 8
4. Nishimura R.A., Carabello B.A., Faxon D.P.,
et al. 2008 Focused Update Incorporated Into the
ACC/AHA 2006 Guidelines for the Management of Patients With Valvular Heart Disease. Journal of the American College of Cardiology, Vol. 52, No.13,2008:
e1–142
5. Park C.K., Park P.W., Sung K., et al. Early
and Midterm Outcomes for Tricuspid Valve Surgery
After Left-Sided Valve Surgery. Ann Thorac Surg
2009;88:1216-1223
6. Shiran A., Sagie A. Tricuspid Regurgitation in
Mitral Valve Disease - Incidence, Prognostic Implications, Mechanism, and Management. Journal of the
American College of Cardiology. Vol.53, No.5, 2009:
401–8
7. Song H., Kim M.J., Chung C.H., Choo S.J.,
Song M.G., Song J.M., Kang D.H., Lee J.W., Song
J.K., (2009). Factors associated with development of
late significant tricuspid regurgitation after successful
left-sided valve surgery. Heart; (95): 931 – 936
7
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NỘI SOI TRUNG THẤT CHẨN ĐOÁN KHỐI U TIÊN PHÁT, CÁC
BỆNH LÝ ÁC TÍNH TRONG TRUNG THẤT VÀ GIAI ĐOẠN UNG THƯ PHỔI
Trần Trọng Kiểm
Nguyễn Đức Thắng
Người phản biện: GS, TS. Bùi Đức Phú
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nội soi trung thất là một phương
pháp được sử dụng để chẩn đoán giai đoạn của ung
thư phổi, các khối u tiên phát và các bệnh lý ác tính
trong trung thất. Năm 1959, Carlens là người đầu tiên
mô tả kỹ thuật này. Ngày nay, nội soi trung thất
đã trở thành một phương pháp chẩn đoán can thiệp có
hiệu quả. Tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào đánh
giá hiệu quả của phương pháp này trong chẩn đoán.
Mục tiêu: Xác định hiệu quả của nội soi trung
thất trong xác định bản chất mô học của u trung thất
và giai đoạn của ung thư phổi
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt
ngang, gồm 34 bệnh nhân xác định có khối u hoặc
hạch trung thất trên hình ảnh cắt lớp vi tính, được nội
soi trung thất, chẩn đoán mô học tế bào tại bệnh viện
Trung ương quân đội 108 trong 2 năm (2010-2011)
Kết quả: Nghiên cứu gồm 34 trường hợp, tuổi từ
18 đến 77, tuổi trung bình 51,26. Thời gian mổ trung
bình là 32,6 phút. Tai biến, biến chứng có 01 (2,94%)
trường hợp - chảy máu mạch nhỏ, không có tử vong.
Tỉ lệ ác tính trên tổng mẫu là 10/34 (29,41), với độ
nhạy là 90,09%, độ đặc hiệu là 100%. Có 7/13 trường
hợp ung thư phổi kết hợp di căn hạch trung thất
(tương ứng với N2,N3), có 6/13 trường hợp ung thư
phổi nhưng chưa có di căn hạch trung thất (tương ứng
với N0, N1). 1 trường hợp hạch lympho ác tính NonHodgkin. Tỉ lệ hạch lành tính không kèm u phổi là
11/12 (91,6%)
Kết luận: Nội soi trung thất là một phương pháp
chẩn đoán hiệu quả và an toàn, có thể sử dụng thường
quy trong chẩn đoán khối u trung thất và giai đoạn của
ung thư phổi.
OUTCOME
OF
THE
DIAGNOSTIC
MEDIASTINOSCOPY OF BEGIN TUMOR,
MEDIASTINAL MALIGNANT DESEASES AND
STAGING OF LUNG CANCER ABSTRACT
Author: Tran Trong Kiem, Nguyen Duc Thang
Background: Mediastinoscopy is a procedure
used for the diagnosis of mediastinal disease and the
staging of lung cancer. It was introduced by Carlens
8
Since in 1959. Presently, mediastinoscopy has become
invasive diagnostic methods very useful. In Vietnam,
there is not any research assessment of result of
mediastinoscopy in the diagnosis.
Objective: It was the aim of this study to evaluate
the results of cervical mediastinoscopy in diagnosing
the histological type of mediastinal tumors and
staging of lung cancer.
Method: Cross sectional study. 34 patients were
confirmed mediastinal tumors or nodes on CT scanner
and given a histological diagnose by mediastinoscopy
that were performed in 108 Military Centre Hospital
in two years (2010-2011)
Results: Group of 34 patients, age from 18 to 77,
has average age 51,26. Average of operating time is
32,6 minus. Accident and complication of
mediastinoscopy is 01 case that was blooding, no
mortality. Maglinant rate of total samples is 10/34
(29,41%), sensitivity of 90% and specificity of 100%.
Maglinant mediastinal node are in 7/13 cases of lung
cancer (equal N2,N3) and not in 06/13 cases of lung
cancer (equal No,N1), more 01 case diagnosed NonHodgkin. Mediastinal benign node without lung caner
accounted of 11/12 (91,6%).
Conclusions: Mediastinoscopy is a highly effective
and
safe
procedure.
We
believe
that
mediastinoscopy should
currently
be
used
routinely in diagnosing the mediastinal tumors and
staging of lung cancer.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Nội soi trung thất là phương pháp được sử dụng
chẩn đoán mô bệnh của trung thất và đánh giá giai
đoạn của ung thư phổi. Trên thế giới, kể từ khi giới
thiệu bởi Carlens năm 1959, nội soi trung thất đã
trở thành phương pháp chẩn đoán can thiệp có hiệu
quả. Nội soi trung thất có độ nhạy lớn hơn 90% và độ
đặc hiệu 100% trong đánh giá giai đoạn trước phẫu
thuật ung thư phổi. Tương tự như vậy, nội soi trung
thất đã được chứng minh có hiệu quả trong chẩn đoán
bệnh u trung thất tốt hơn cả chẩn đoán giai đoạn ung
* Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NỘI SOI TRUNG THẤT CHẨN ĐOÁN KHỐI U… VÀ GIAI ĐOẠN UNG THƯ PHỔI
thư phổi, với hơn 90% trường hợp [13]. Tuy nhiên,
nội soi trung thất vẫn tiếp tục là một chủ đề của cuộc
tranh luận giữa các bác sĩ phẫu thuật lồng ngực. Vì có
nhiều quan điểm xem nội soi trung thất là quá xâm lấn
trong chẩn đoán giai đoạn xếp loại ung thư phổi và có
thật sự cần thiết nội soi trung thất khi nghi ngờ ung
thư phổi đa di căn hạch trung thất trên lâm sàng mà đã
có thể đánh giá giai đoạn bằng các phương pháp chẩn
đoán ít xâm lấn khác.
Nội soi trung thất cho kết quả mô học dương tính
với 33% hạch di căn trung thất trong ung thư phế quản
hoặc di căn xa từ các cơ quan khác. Mặc dù còn nhiều
tranh cãi khi ung thư phế quản di căn hạch trung thất.
Tuy nhiên kết quả trên 90% hạch khảo sát bằng nội
soi trung thất cho kết quả âm tính với tế bào ung thư,
kết quả này đồng nghĩa với ung thư phổi chưa di căn,
ủng hộ khả năng phẫu thuật trong điều trị ung thư phế
quản và phổi[8].
Tại Việt Nam nội soi sinh thiết chẩn đoán bản chất
khối u trong lồng ngực được quan tâm nhiều hơn
trong khoảng 10 năm trở lại đây, nhưng vẫn chưa có
nghiên cứu nào đánh giá hiệu quả của phương pháp
trong chẩn đoán. Tại bệnh viện Trung ương quân đội
108, chúng tôi đã tiến hành nội soi trung thất chẩn
đoán bản chất khối u trung thất và giai đoạn ung thư
phổi trong khoảng 3 năm gần đây.
Mục tiêu
Đánh giá hiệu quả của phương pháp nội soi trung
thất trong chẩn đoán các khối u tiên phát, các bệnh lý
ác tính trong trung thất và giai đoạn ung thư phổi.
II. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng
Bệnh nhân có hạch hoặc khối bất thường trong
trung thất xác định trên hình ảnh cắt lớp vi tính
nhưng chưa rõ bản chất và bệnh nhân u phổi có
hạch trung thất.
Chỉ định
- Xác định mô bệnh học các khối u trung thất
tiên phát (như bệnh Sarcoiodsis)
- Chẩn đoán giai đoạn ung thư phổi và hạch
bệnh lý (bao gồm cả Hodgkin)
- Chẩn đoán xác định bệnh, các khối u chưa rõ
bản chất (đặc biệt có ý nghĩa với bệnh liên
quan đến phổi như lao)
Chống chỉ định
- Đã phẫu thuật tim hoặc mở xương ức, mở khí
quản trước đó
- Đã phẫu thuật can thiệp vào trung thất
- Đang dùng thuốc chống đông
- Có bệnh lí mạch máu lớn trong lồng ngực
(phình bóc tách động mạch chủ, tăng áp động
mạch phổi, hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ
trên …)
- Bệnh nhân không ngửa được cổ
Dụng cụ
- Dụng cụ nội soi hình chữ U có phần tay
cầm và ống kim loại giống như trocar khuyết
½ kích thước ống, đường kính ống 13mm
- Camera 0 độ đường kính 5mm
- Kìm lấy bệnh phẩm
- Ống hút
2.2. Phương pháp tiến hành
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang được
tiến hành tại khoa Phẫu thuật lồng ngực bệnh viện
Trung ương quân đội 108 trong 2 năm 2010 và 2011
Phương pháp tiến hành:
Sau khi lựa chọn bệnh nhân vào nhóm nghiên cứu,
bệnh nhân phải có các xét nghiệm máu thường quy.
Ngoài ra phải làm
9 Xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh: Chụp cắt lớp
vi tính lồng ngực (có tiêm thuốc cản quang)
9 Xét nghiệm đánh giá chức năng tim mạch:
điện tim, siêu âm tim
9 Các xét nghiệm thường qui chuẩn bị cho phẫu
thuật
Tất cả các bệnh nhân đã được khám và làm xét
nghiệm sàng lọc lâm sàng chẩn đoán xác định có khối
bất thường trong trung thất. Khối nghi ngờ là hạch
trong trung thất thường có đường kính ≥1cm
Phẫu thuật:
- Tư thế bệnh nhân nằm ngửa, cổ ngửa tối đa
- Rạch da ngay trên cán xương ức khoảng 2cm,
dài khoảng 3-4cm
- Sử dụng trocar nội soi đặt vào trung thất, quan
sát trên màn hình camera với optic đường
kính 5mm. Tiến hành khảo sát, vị trí dựa trên
kết quả hình ảnh CLVT và nhìn trực tiếp.
- Lấy bệnh phẩm làm giải phẫu bệnh, có thể kết
hợp làm các marker hóa mô miễn dịch để xác
định nguồn gốc khối u.
Xử lí số liệu: Xử lí số liệu theo phần mềm xử lí
thống kê y học.
III. Kết quả nghiên cứu
-
Nhóm nghiên cứu bao gồm 34 bệnh nhân có
20 nam và 14 nữ, tỉ lệ Nam/Nữ là 10:7. Tuổi
trung bình là 51,26 nhỏ nhất 18 tuổi và lớn
nhất 77 tuổi.
9
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
-
Thời gian phẫu thuật tối thiểu 20 phút và thời
gian tối đa 55 phút, thời gian mổ trung bình
32,6 với SD ±9,81
Bảng 1: Tai biến, biến chứng trong và sau thủ thuật
Tai biến, biến chứng
Chảy máu diện mổ
Tổn thương tĩnh mạch vô danh
Nhiễm khuẩn
Tổn thương thần kinh quặt ngược
Tràn khí khoang màng phổi
Tràn khí dưới da
Thủng thực quản, khí quản
hoặc mạch máu lớn
Không tai biến
Tổng
Số
lượng
1
0
0
0
0
0
0
Tỉ lệ
%
2,94
0
0
0
0
0
0
33
34
97,06
100
Kích thước mẫu bệnh phẩm tối thiểu là 2x2x2mm
lớn nhất là 05x10x10mm. Số lượng mẫu lấy được tối
thiểu là 2 mẫu và nhiều là 7 mẫu bệnh phẩm cho một
lần, trung bình là 3,64 mẫu trong một lần nội soi với
SD ±1,23
Bảng 2: Phân loại tỉ lệ ung thư trên các mẫu bệnh
phẩm thu được
Phân loại
Ác tính
Lành tính
Khó xác định
Tổng
Số lượng
10
23
01
34
Tỉ lệ %
29,41
67,64
2,94
100
Với kết quả thu được chúng tôi tính ra độ nhạy là
90,09% và độ đặc hiệu 100%.
Bảng 3: Phân loại kết quả theo giải phẫu bệnh
Phân loại giải phẫu
bệnh vi thể
Ung thư phổi không
tế bào nhỏ di căn
trung thất
Ung thư phổi tế bào
nhỏ di căn hạch trung
thất
Ung thư biểu mô
tuyến vú di căn hạch
trung thất
10
Đại thể
Tỉ lệ
Tổng
%
Khối u Hạch
5
5
14,70
2
2
5,82
1
1
2,94
Hạch phát triển lành
tính
Hạch lympho ác tính
non Hodgkin
U hạch thần kinh
U tế bào Swhann
Lao hạch trung thất
Sarcoidosis hạch
trung thất
U liên kết xơ mỡ
trung thất
U tuyến giáp lạc chỗ
trung thất
U tuyến ức lành tính
U tuyến ức ác tính
Tổng
7
7
20,58
1
1
2,94
1
4
1
1
4
2,94
2,94
11,76
3
3
8,82
1
1
2,94
1
1
2,94
6
1
9
6
1
34
17,64
2,94
100
1
25
- Nhóm nghiên cứu có 9 bệnh nhân lấy mẫu mô
khối u và 25 trường hợp lấy mẫu mô hạch trung thất
đều được nhuộm HD để chẩn đoán mô học. Một
trường hợp có hạch trung thất khó đánh giá tiêu bản,
chúng tôi phải phối hợp hóa mô miễn dịch kết hợp,
xác định là u lympho ác tính Non – Hodgkin.
Bảng 4: Hạch trung thất trong ung thư phổi
Cùng bên
với u phổi
Khác bên
với u phổi
Hạch trung thất không
có tổn thương phổi
U phổi
kết hợp
Hạch
trung
thất ác
tính
6
Hạch
trung
thất lành
tính
4
1
2
1
11
Tổng
13
12
Có 13 trường hợp ung thư phổi có hạch trung thất.
Có 7 trường hợp xác định ung thư phổi kết hợp di căn
hạch trung thất (tương ứng với N2,N3), có 6 trường
hợp có ung thư phổi nhưng chưa có di căn hạch trung
thất (tương ứng với N0, N1). Tỉ lệ hạch lành tính /tổng
hạch không kèm nhu mô phổi và phế quản là 11/12
(91,6%).
IV. Bàn luận:
Khảo sát trung thất là một bước quan trọng cần
làm trong chẩn đoán, điều trị các bệnh lí phổi và trung
thất. NSTT hoặc nội soi lồng ngực sinh thiết khối u
trong trung thất được lựa chọn là những phương pháp
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NỘI SOI TRUNG THẤT CHẨN ĐOÁN KHỐI U… VÀ GIAI ĐOẠN UNG THƯ PHỔI
tốt để đánh giá khối u hoặc hệ thống hạch trong trung
thất mà không phải mở ngực[6].
- Nhóm nghiên cứu chúng tôi bao gồm 34 bệnh
nhân tỉ lệ Nam/Nữ là 10:7. Có tuổi trung bình là 51,26
nhỏ nhất 18 tuổi và lớn nhất 77 tuổi. Cho thấy khả
năng thực hiện rộng rãi trên bệnh nhân cần phải khảo
sát bản chất u hoặc hạch trong trung thất. Theo tác giả
Zane T.Hammound et al [13] thì khả năng thực hiện
nội soi trung thất đạt trên 90% các trường hợp có u
trung thất.
- Trong mẫu nghiên cứu chúng tôi thực hiện thủ
thuật này với thời gian phẫu thuật tối thiểu là 20 phút
và thời gian tối đa là 55 phút, thời gian mổ trung bình
là 32,6 với SD ± 9,81(không bao gồm thời gian chuẩn
bị và gây mê). Kết quả này cho thấy giảm đáng kể
thời gian thực hiện thủ thuật so với tác giả [6] thời
gian trung bình của thủ thuật là 70 phút, với cùng mục
đích lấy mẫu u hoặc hạch trung thất làm mô học tế
bào, ở đây chúng tôi không so sánh vì hai phương
pháp tiến hành khác nhau. Tuy nhiên các thủ thuật
xâm lấn này yêu cầu phải có sự hỗ trợ của gây mê và
đảm bảo như một cuộc phẫu thuật.
- Theo kết quả của bảng 01, tỉ lệ tai biến và biến
chứng của chúng tôi khá thấp 01trường hợp, bệnh
nhân chảy máu mao mạch nhỏ diện mổ, phải đặt
spongel và dẫn lưu trung thất sau 3 ngày theo dõi thì
rút dẫn lưu an toàn(2,94%). Trong thống kê của tác
giả Zane T. Hammoud et al [13] trên 2137 trường
hợp có 4 trường hợp tử vong sau mổ, chỉ có 1 trường
hợp (0,05%) được xem như tai biến tử vong trong
phẫu thuật và 12 trường hợp (0,6%) có biến chứng.
Bao gồm một số biến chứng: rối loạn nhịp tim, chảy
máu quá mức, thủng thực quản, rách động mạch
phổi, tràn khí màng phổi, hạ huyết áp, thoát dịch tĩnh
mạch. Không có tử vong hay biến chứng ở bệnh
nhân nội soi trung thất cho kết quả lành tính. Với sự
an toàn và hiệu quả của nội soi trung thất, kinh
nghiệm của tác giả Zane T. Hammoud et a [13] cho
thấy rằng nội soi trung thất nên được sử dụng thường
xuyên trong chẩn đoán và xác định giai đoạn của u
trong lồng ngực.
- Trong khi làm thủ thuật chúng tôi chọn những
mẫu có đặc điểm đại thể điển hình và vị trí xác định là
của khối tổn thương cần phải lấy, với kích thước mẫu
tối thiểu 2x2x2mm đảm bảo thực hiện cố định tiêu
bản và khi cần có thể thực hiện từ 6-10 marker hóa
mô miễn dịch chẩn đoán type tế bào. Ngoài kích
thước chúng tôi cố gắng lấy nhiều mẫu khác nhau với
số lượng trung bình là 3,64 mẫu với SD ±1,23 trong
một lần nội soi trung thất, mục đích đảm bảo tối đa độ
đặc hiệu, không bỏ sót tổn thương, đánh giá mức độ di
căn của hạch trung thất cùng bên hoặc khác bên trong
ung thư phổi. Nếu nghiên cứu với số lượng cao và
sâu hơn chúng tôi sẽ thực hiện khảo sát hạch trung trất
của ung thư phổi đánh số theo sơ đồ hạch trung thất
của tác giả Moutain CF et al[9]
- Kết quả bảng 2 cho thấy tỉ lệ số mẫu ác tính/tổng
số mẫu là 10/34 (29,41%) với độ nhạy là 90,09% và
độ đặc hiệu là 100%. Tác giả Martin D et al[8] nghiên
cứu 105 trường hợp nội soi trung thất cho kết quả
dương tính với tế bào ác tính 26%. Tác giả Paterson
G.A et al[11] nghiên cứu hình ảnh cắt lớp vi tính, hình
ảnh cộng hưởng từ, Xquang thường qui và nội soi
trung thất là những phương thức được so sánh triển
vọng để đánh giá tình trạng hạch trung thất trong 84
bệnh nhân ung thư biểu mô phế quản. Chụp cắt lớp vi
tính được thực hiện với độ nhạy 71,0%, độ đặc hiệu
87,7% và độ chính xác tổng thể của 82,1%. Hình ảnh
chụp cộng hưởng từ đã không cung cấp bất kỳ lợi thế
hơn so với chụp cắt lớp vi tính trong việc đánh giá
tình trạng hạch trung thất. Độ chính xác của chụp cắt
lớp vi tính không phụ thuộc vào loại tế bào của khối u
nguyên phát. Mặc dù chụp xquang thường qui có độ
nhạy là 80,7%, độ chính xác tổng thể là 57,1% là khá
thấp không thể chấp nhận được. Với độ nhạy 87,1%,
độ đặc hiệu 100%, giá trị tiên đoán dương tính 100%
và giá trị tiên đoán âm tính 93,0%, độ chính xác
95,2% nội soi trung thất vượt qua các phương pháp
khảo sát trung thất khác. Tác giả Paterson G.A et al
[11] tiếp tục đề nghị nội soi trung thất là phương pháp
khảo sát giai đoạn chính xác nhất trong việc theo dõi
tiến triển của bệnh nhân ung thư phổi.
- Tác giả Brion J.P et al[1] nghiên cứu 153 bệnh
nhân ung thư phế quản được đánh giá tiến triển bằng
cắt lớp vi tính và nội soi trung thất. Trên cắt lớp vi
tính các hạch lớn hơn 5 mm được xem là có khả năng
di căn. Hạch di căn trên hình ảnh cắt lớp vi tính được
đối chiếu với sau phẫu thuật. Trong việc phát hiện các
hạch di căn thì chụp cắt lớp vi tính có độ nhạy (89%)
cao hơn nội soi trung thất (67%). Cắt lớp vi tính có
giá trị tiên đoán kém (47%) trong chẩn đoán hạch ung
thư, tuy nhiên, độ chuyên biệt tron chẩn đoán hạch
lành tính khá cao (89%).Trong nhóm nghiên cứu có
100 vị trí hạch thì có 72% các hạch liên quan tới u có
đường kính lớn hơn 1 cm. Ung thư tế bào vảy và ung
thư tuyến có tỷ lệ độ nhạy cao nhất trên hình ảnh cắt
lớp vi tính. Tỷ lệ rất thấp sự xuất hiện di căn trong các
hạch đường kính dưới 5 mm, cho phép có thể bỏ nội
soi trung thất khi trên cắt lớp vi tính không có dấu
hiệu di căn trung thất.
11
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
- Bảng 3 cho kết quả nhóm nghiên cứu có 9
trường hợp mẫu mô u và 25 trường hợp mẫu hạch
trung thất. Một trường hợp có hạch trung thất khó
đánh giá tiêu bản, chúng tôi phải phối hợp hóa mô
miễn dịch kết hợp, xác định là u lympho ác tính Non –
Hodgkin. Kết quả thu được cho thấy khả năng chẩn
đoán chính xác type tế bào của khối u hoặc hạch trong
trung thất bằng phương pháp này.
-Trong nghiên cứu của tác giả Zane T. Hammoud
et al [13] với số lượng tổng cộng 392 bệnh nhân thực
hiện nội soi trung thất để đánh giá hệ bạch huyết trung
thất mà không kèm theo bất kỳ tổn thương nhu mô
hoặc phế quản. Nội soi trung thất có khả năng thực
hiện chẩn đoán 93,6% ở những bệnh nhân có u trung
thất, cho thấy hiệu quả và khả năng áp dụng của nội
soi trung thất theo chỉ định. Trong số những bệnh
nhân này, một phần lớn 206/392 (52,55%) đã được
kiểm tra xác định lành tính. Điều này là phù hợp với
dữ liệu được tìm thấy trong các báo cáo khác, so với
kết quả chúng tôi thu được có sự khác biệt, khi khảo
sát hạch trung thất không kèm tổn thương nhu mô
phổi và phế quản có 11/12 (91,66%) trường hợp lành
tính. Với số liệu nghiên cứu còn hạn chế chưa thể
đánh giá khách quan so với các tác giả nước ngoài,
nhưng cũng cho thấy hiệu quả và giá trị của thủ thuật
này trong việc xác định bản chất hạch trong trung thất
mà không kèm tổn thương phổi.
- Kết quả bảng 4 cho thấy có 7/13 (53,85%)
trường hợp ung thư phổi di căn hạch trung thất (tương
ứng giai đoạn N2, N3) và 6/13 (46,15%) trường hợp
xác định ung thư phổi chưa có di căn hạch trung thất
(tương ứng giai đoạn N0,N1) [9]. Trong một nghiên
cứu 235 trường hợp, tác giả P De Leyn et al [10] đánh
giá hiệu quả nội soi trung thất trên những bệnh nhân
ung thư phổi không có dấu hiệu phát triển hạch trong
trung thất, cho kết quả dương tính trong 42 (20%)
trường hợp. Kết quả này của chúng tôi chưa phù hợp
với tác giả, tuy nhiên số lượng chẩn đoán dương tính
với độ chính xác cao cho phép phẫu thuật viên có
phương án điều trị tương ứng với giai đoạn phù hợp.
Số lượng bệnh nhân chẩn đoán hạch trung thất âm tính
vẫn cần phải theo dõi thêm và so sánh bản đồ hạch
trung thất trong mổ.
- Theo tác giả Henk Kramer et al [2] thì PET có
độ chính xác cao nhất trong đánh giá giai đoạn di căn
hạch trung thất nhưng không thường được sử dụng vì
nhiều lí do. Chụp cắt lớp vi tính và MRI là phương
pháp không can thiệp có dương tính giả cao. Bên cạnh
đó các biện pháp xâm lấn như sinh thiết xuyên thành
12
ngực, sinh thiết xuyên thành phế quản qua nội soi phế
quản, sinh thiết qua siêu âm nội soi, nội soi trung thất
là những biện pháp cho kết quả mô học chính xác, ít
biến chứng và chi phí ít. Tuy nhiên tác giá vẫn công
nhận nội soi trung thất là tiêu chẩn vàng trong đánh
giá hạch trung thất của ung thư phổi không tế bào nhỏ.
Kết luận:
- Với chỉ định rộng rãi, khả năng thực hiện thủ
thuật an toàn, giá trị đạt được của phương pháp có độ
chính xác cao trong nghiên cứu chúng tôi cũng như
kinh nghiệm tác giả khác trên thế giới.
- Chúng tôi kiến nghị phương pháp nội soi trung
thất được thực hiện phổ biến đa trung tâm, áp dụng
nội soi trung thất trong chẩn đoán các khối u tiên
phát, các bệnh ác tính trong trung thất và giai đoạn
ung thư phổi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brion JP, Depauw L, Kuhn G, de Fracquen
P, Friberg J, Rocmans, Struyven J(1985). Role of
computed tomography and mediastinoscopy in
preoperative staging of lung carcinoma. J
Comput Assist Tomogr. May-Jun; 9(3):480-4.
2. Henk Kramer, MD and Harry J.M. Groen, MD, PhD
(2003). Current Concepts in the Mediastinal Lymph
Node Staging of Nonsmall Cell Lung Cancer. Annal
of Surgery. August; 238(2): 180–188.
3. Hideki Kimura, MD, PhD, Naomichi Iwai, MD,
PhD, Soichiro Ando, MD, PhD, Kimitaka
Kakizawa, MD, PhD, Naoyoshi Yamamoto,
MD, Hidehisa Hoshino, MD, Takashi Anayama,
MD, PhD (2003). A prospective study of
indications for mediastinoscopy in lung cancer
with CT findings, tumor size, and tumor
markers. Ann Thorac Surg;Vol 75: p1734-1739
4. Joseph B. Shrager, MD..The Society of Thoracic
Surgeons (2010). Supplement: 2nd International
Bi-Annual minimally invasive thoracic surgery
summit. Ann Thorac Surg;89:S2084-S2089.
5. Lacquet L.K, Mertens A, Kleef J.V, and Jongerius
C. (1975). Mediastinoscopy and bronchial
carcinoma:
experiences
with
600
mediastinoscopies. Thorax. Vol.30, p141-145
6. Lê Nguyễn Quyền, Nguyễn Hoài Nam (2009).
Nghiên cứu vai trò nội soi lồng ngực sinh thiết
các khối u trung thất. Y học tp Hồ Chí Minh.
Vol.13 – No.1, p9-13
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NỘI SOI TRUNG THẤT CHẨN ĐOÁN KHỐI U… VÀ GIAI ĐOẠN UNG THƯ PHỔI
7. Luke W.P., Pearson F.G., Todd T.R., Patterson
G.A. and Cooper J.D. (1986). Prospective
evaluation of mediastinoscopy for assessment of
carcinoma of the lung. The Journal of Thoracic
and Cardiovascular Surgery, by The American
Association for Thoracic Surgery and The
Western Thoracic Surgical Association. Vol.91,
p53-56
8. Martin D. McCurdy, Peter A. Philip, M.D., Alan
T. Marty, M.D., Alfonso M. Miyamoto, M.D.
(1974). Mediastinoscopy: procedure of choice for
diagnosis and determination of operability.
Cardiovascular diseases, Bulentin of the Texas
heart institute. Vol.1, No.3, 1974, p242-250.
9. Mountain C.F, Dresler C.M (1997). Regional
lymph node classification for lung cancer
staging. Chest 1997; : 1718–1723.
10. P De Leyn, J Vansteenkiste, P Cuypers,G
Deneffe, D Van Raemdonck,W Coosemans, J
Verschakelen,T Lerut (1997). Role of cervical
mediastinoscopy in staging of non-small cell
lung cancer without enlarged mediastinal lymph
nodes on CT scan. European Journal of CardioThoracic Surgery. Volume 12, Issue 5, November
1997, p706–712
11. Patterson G.A, Ginsberg R.J, Poon P.Y, Cooper
J.D, Goldberg M., Jones D., Pearson F.G, Todd
T.R, Waters P. and Bull S (1987). A prospective
evaluation of magnetic resonance imaging,
computed tomography, and mediastinoscopy in
the preoperative assessment of mediastinal node
status in bronchogenic carcinoma. The Journal
of Thoracic and Cardiovascular Surgery, by The
American Association for Thoracic Surgery and
The Western Thoracic Surgical Association; Vol
94; p679-684
12. Van Schil.PE, Van Hee. RH and Schoofs.
EL (1989). The value of mediastinoscopy in
preoperative
staging
of
bronchogenic
carcinoma.The Journal of Thoracic and
Cardiovascular Surgery, by The American
Association for Thoracic Surgery and The Western
Thoracic Surgical Association. Vol 97, p240-244.
13. Zane T. Hammoud, M.D, Richard C. Anderson,
M.D, Bryan F. Meyers, M.D, Tracey J. Guthrie,
R.N, BSN, Charles L. Roper, M.D,Joel D.
Cooper, M.D, G. Alexander Patterson, M.D
(1999). The current role of mediastinoscopy in
the evaluation of thoracic disease. J Thorac
Cardiovasc Surg;118: p894-899.
13
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
PHẪU THUẬT SỬA VÒNG VAN BA LÁ TRONG THAY VAN HAI LÁ
TỔN THƯƠNG DO THẤP
(Tricuspid annuloplasty in the rheumatic mitralvalve replacement)
Hoàng Anh Tuấn, Hoàng Quốc Toàn
Người phản biện: GS.TS. Bùi Đức Phú
Astract.
OBJECTIVE: Uncorrected secondary tricuspid
regurgitation has serious long-term morbidity and
mortality. We reviewed our experience with the
bypass by PTFE band to bridge the righ fibrous
posterior
annular
trigone
and
tricuspid
bicuspidization for treatment of functional tricuspid
regurgitation.
METHODS: From 12- 2010 to 12- 2011, 40
patients (mean age, 47,73 ± 4,17 years) underwent
combined mitral valve replacement and tricuspid
valve repair for rheumatic disease, the tricuspid
annuloplasty for secondary tricuspid regurgitation
with our method. Preoperatively,40 (100%) patients
had moderate or severe tricuspid regurgitation. Pre
and postoperative, NYHA and 2D transthoracic
tricuspid
echocardiograms were assessed for
regurgitation. Follow-up time was 8±2 months.
RESULTS: At 8 months postoperatively, tricuspid
regurgitation in patients treated by our method of
annuloplasty was zero to mild in 30(75%), moderate
in 9(22,5%), severe in 1(2,5%) of patients.No risk
factors of our technic.
CONCLUSIONS: Our bypass- annuloplasty were
effective at eliminating tricuspid regurgitation at 8
monhts postoperatively. this annuloplasty is a simple,
inexpensive option for addressing functional tricuspid
regurgitation. All patients with moderate-to-severe
functional tricuspid regurgitation should undergo
tricuspid annuloplasty regardless the technique .
Keywords. NYHA: New York Heart Association;
PTFE:Polytetrafluorethylene.
Đăt vấn đề. Hở van 3 lá thường gặp trong bệnh lý
van 2 lá do thấp, việc có sửa van 3 lá khi mổ thay van
2 lá khi đầu đã có những quan điểm khác nhau.Tuy
nhiên,hở van 3 lá thứ phát sau mổ làm tăng tỉ lệ bệnh
nhân suy tim và tử vong đã có nhiều nghiên cứu đề
cập tới.vì vậy, cho tới nay việc sửa hở van 3 lá trong
phẫu thuật van tim bên trái được hầu hết các phẫu
thuật viên thống nhất nên làm.Đã có nhiều phương
pháp mổ sửa van 3 lá như: De vega, Kay, vòng
14
van(Carpentier,Edwards.). Thành công ứng dụng các
phương pháp tạo hình vòng van 3 lá ở mỗi một trung
tâm có khác nhau(15,16,17,18,20,21).
Chúng tôi tiến hành sửa van 3 lá sau thay van 2 lá
bằng phương pháp sử dụng giải PTFE bắc cầu giữa
hai trụ, được tạo bởi khung sợi phải và vòng van lá
sau(được khâu lại} để giữ vòng van 3 lá không bị giãn
sau mổ, bước đầu đạt được kết quả khả quan.
Mục đích của bài báo này nhằm: đánh giá bước
đầu kết quả phương pháp tạo hình vòng van ba lá của
chúng tôi.
1. Đối tượng và Phương Pháp.
1.1. Đối tượng. Tất cả bệnhnh nhân trong nghiên
cứu được chẩn đoán và điều trị phẫu thuật tại khoa
phẫu thuật tim mạch,viện tim mạch Bệnh viện Trung
ương Quân đội 108. Từ 12- 2010 tới 12-2011.
1.1.1. Đối tượng khảo sát trực tiếp. Bệnh nhân
được chẩn đoán bệnh van 2 lá do thấp có hở van 3 lá
và được phẫu thuật thay van 2 lá và sửa van 3 lá theo
kỹ thuật của chúng tôi(tạo hình vòng van 3 lá bắc cầu
bằng giải PTFE).Được theo dõi liên tục sau mổ.
1.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ.Các Bệnh nhân hở van 3
lá do Nguyên nhân hoặc bệnh lý van tim khác hoặc
van 3 lá không được phẫu thuật tạo hình vòng van 3 lá
theo phương pháp của chúng tôi (De vega, Kay, Vòng
van…)
1.2. Phương pháp Nghiên cứu
1.2.1. Thiết kế nghiên cứu. mô tả, cắt ngang
1.2.2. Nội dung nghiên cứu.
- Lâm sàng. Phân độ khó thở khi gắng sức theo
NYHA( New York Heart Association)
- Cận lâm sàng. Sử dụng các thông số liên quan
tới nghiên cứu trên siêu âm 2D(Vivid 7), điện tim,
- Phương pháp mổ tạo hình van 3 lá bắc cầu bằng
giải mạch nhân tạo PTFE(Polytetrafluorethylene):
● Tạo trụ Vòng van lá sau:khép vòng van lá sau
bằng 2 mũi chỉ Ethibond 2.0 có đệm PTFE.
* Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.
PHẪU THUẬT SỬA VÒNG VAN BA LÁ TRONG THAY VAN HAI LÁ TỔN THƯƠNG DO THẤP
Đặt một giải PTFE kích thước đo bằng vòng van
lá Trước ≥3cm .
● Khâu cố định 2 đầu giải PTFE.Một đầu vào bó
sợi trung tâm (bó sợi phải) tại mép trước vòng van 3
lá,một đầu vào trụ vòng van sau đã khép. Khâu ép,
giữ giải PTFE bằng 3 mũi chỉ.(Ethibond 2.0).
●
1.2.3. Thời gian theo dõi trung bình 8±2 tháng sau
mổ tại khoa
1.2.4. Phương pháp xử lý số liệu theo phần mền
SPSS 13.0 for windowns.Kết quả lập bảng, tính tỉ lệ
%, sử dụng giá trị trung bình và độ tin cậy.
2. Kết qủa nghiên cứu và bàn luận
2.1. Đặc điểm bệnh nhân trước phẫu thuật.
Đặc điểm bệnh nhân
Thông số của nhóm bệnh nhân
Tuổi
47,73 ± 4,17 (20 – 72)
Giới (nam/nữ)
17 (42,5%) / 23 (57,5%)
Tiền sử thấp tim
32 (80%)
NYHA(I/II/III/IV)
0 (0%) / 24 (60%) / 16(40%) / 0 (0%)
EF trước mổ
55,21 ± 7,12 ( 45% - 76 %)
Nhịp tim (rung nhĩ/xoang)
19 (47,5%)/ 21 (52,5%)
Bệnh lý kèm theo:
. Bệnh van hai lá(hep,hở)
11 (27,5%)
. Bệnh hep van hai lá
29 (72,5%)
ĐK thất phải (mm):
28,52 ± 4,24 ( 24 – 38)
ĐK van ba lá (mm):
46,5 ± 7,6 (35 – 71)
ALĐMPTT:
51±11 (43 – 95 mmHg)
. ALĐMP < 45mmHg
3 ( 7,5%)
. 45mmHg ≤ ALĐMP ≤ 65mmHg
24 ( 60%)
. ALĐMP > 65mmHg
13 (32,5 %)
Nhận xét:Các bệnh nhân trong nhóm có độ tuổi trên 20, tỷ lệ nữ nhiều hơn nam (57,5% - 42,5%), đa số có
tiền sử thấp tim (80%).Đa số có NYHA trước mổ II/III, EF tương đối tốt, rung nhĩ chiếm tỷ lệ Xấp xỉ 50% .Tất
cả các bệnh nhân trước mổ đều giãn vòng van ba lá và tăng áp ĐMPTT, giãn TP. (đa số tăng từ vừa tới nặng).
Phù hợp cơ chế hở van ba lá thứ phát.
EF:ejection fraction, ĐK:đường kính, ALĐMPTT:áp lực động mạch phổi tâm thu
2.2.Đánh giá tình trạng van ba lá trong phẫu thuật:
Đặc điểm bệnh nhân
ĐK van ba lá (mm)
Thông số
4 5,3,± 9,2 ( 36 – 73)
Tuần hoàn ngoài cơ thể
. Thời gian chạy máy (phút)
84,22 ± 23,46
. Thời gian cặp ĐMC (phút)
38,24 ± 7,34
15
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
Nhận xét: ĐK van 3 lá đánh giá trong phẫu thuật tương đương với đánh giá trên siêu âm trước mổ, cho thấy
việc đánh giá ĐK van 3 lá bằng siêu âm có độ tin cậy tốt.P>0,05(ĐK đo trực tiếp trong mổ).Thì sửa van 3 lá
được tiến hành trong thì tim đập nên chỉ kéo dài thời gian chạy máy, còn thời gian cặp ĐMC không ảnh hưởng.
ĐK: đường kính,ĐMC: động mạch chủ
2.3. Đánh giá kết quả sau mổ:
2.3.1. Mức độ hở van ba lá sau mổ
Siêu âm 2D
Trước mổ
Sau mổ 1 tuần
Sau mổ 8 tháng
0
34 (85%)
30 (75%)
33(82,5%)
6 (15%)
9 (22,5%)
0
1 (2,5%)
Không hở,hở nhẹ van ba lá
Hở vừa van ba lá
Hở nặng van ba lá
7(7,5%)
Nhận xét: Trước mổ các bệnh nhân đầu có hở vừa tới nặng van ba lá, ngay sau mổ chủ yếu chỉ còn hở nhẹ
(85%), không có bệnh nhân hở van ba lá nặng. Sau 8 tháng có một bệnh nhân xuất hiện hở nặng van ba lá, siêu
âm ĐK van ba lá không giãn song vận động vách liên thất giảm (suy tim NYHAIII).
2.3.2. Đánh giá kết quả lâm sàng sau mổ dựa trên chỉ số NYHA.
Sau mổ 1 tuần
Sau mổ 8 tháng
NYHA I
27 (67,5%)
33(82,5%)
NYHA II
13(32,5%)
6 (15%)
NYHA III
0
1(2,5%)
NYHA IV
0
0
Sau mổ hầu hết bệnh nhân NYHA I và II
2.3.3. Đánh giá các chỉ số sau mổ trên siêu âm.
Siêu âm 2D
ĐK thất phải (mm)
ALĐMPTT (mmhHg)
. ALĐMP < 45mmHg
Sau mổ 1 tuần
Sau mổ 8 tháng
28,25 ± 5,12
24,36 ± 4,28
37±7
35±5
27 (67,5%)
31 (77,5%)
. 45mmHg ≤ ALĐMP ≤ 65mmHg
10 (25%)
9 (22,5%)
. ALĐMP ≥ 65mmHg
3 (7,5%)
0
27,2 ± 2,58
28,6 ± 3,38
KT vòng van ba lá (mm)
Kích thước vòng van 3 lá ít thay đổi sau mổ 8 Tháng p>0,05,ALĐMP giảm rõ ngay sau mổ
16
PHẪU THUẬT SỬA VÒNG VAN BA LÁ TRONG THAY VAN HAI LÁ TỔN THƯƠNG DO THẤP
2.3.4. So sánh các chỉ số siêu âm trước và sau mổ 8 tháng:
Trước mổ
ĐK thất phải mm
Sau mổ (8 tháng)
P
28,52 ± 4,24
24,36 ± 4,28
<0,05
46,5 ± 7,6
28,6 ± 3,38
<0,05
ALĐMPTT < 45mmHg
3 (7,5%)
31 (77,5%)
45mmHg ≤ ALĐMPTT≤ 65mmHg
24 (60%)
9 (22,5%)
13 (32,5%)
0
KT vòng van 3 lá mm
ALĐMPTT:
ALĐMPTT ≥ 65mmHg
Nhận xét: Sau 8 tháng, ĐK thất phải và vòng van ba lá đều được thu nhỏ có ý nghĩa thông kê
(P<0,05).Trước mổ ALĐMPTT đa số là tăng vừa và nặng. Sau 8 tháng hầu hết chỉ tăng nhẹ tới vừa, không có
bệnh nhân nào tăng nặng.
3. Bàn luận.
3.1. Có nên sửa van 3 lá sau thay van 2 lá không?
Hở van 3 lá chức năng hay thứ phát thường phối
hợp với thương tổn van 2 lá do thấp.Và không có
thương tổ thực thể của van.Trong một vài thập kỷ, tổn
thương 3 lá chức năng được coi là nguyên nhân gây
hở.Vào đầu 1950, các phương pháp lâm sàng được mô
tả, phân biệt hở van 3 lá do chức năng và thực thể (1).
Sự phân biệt này rõ hơn vào thập kỷ 60, với sự xuất
hiện phẫu thuật thay van 2 lá.Vai trò của phẫu thuật
viên trong kiểm soát bệnh van tim càng rõ.Vào thời kỳ
này, họ coi hở 3 lá chức năng và không cần phẫu
thuật vì cho rằng, nó có thể cải thiện sau thay van 2
lá.1967 Braunwald và cs (2) đã yêu cầu bảo tồn van 3
lá hở.Cho tới 1974 Carpentier (3) đã báo cáo kết quả
tuyệt vời của sửa van 3 lá và rút ra kết luận: “cần sửa
van 3 lá hở một cách hệ thống sau phẫu thuật van 2
lá. Sau này vào thập niên 80, những bệnh nhân phẫu
thuật van 2 lá quay lại với hở nặng van 3 lá được quan
sát thấy và khi mổ lại có tỉ lệ tử vong cao, King RM
và cs (4). điều này dấy lên những câu hỏi có,hay
không sửa van 3 lá trong phẫu thuật van tim.
Carpentier và cs cho rằng không xử lý van 3 lá sẽ để
lại kết quả tồi sau phẫu thuật van tim (3).
Phân tích nguyên nhân cho sửa hở van 3 lá thứ
phát cùng lúc phẫu thuật van 2 lá: Hở van 3 lá thường
xuất hiện vài tháng ở năm sau mổ van 2 lá. Mặc dù
sửa chữa bệnh lý van tim trái có thể giảm hở nặng 3
lá, một tỉ lệ thực tế bệnh nhân sẽ bị hở trung bình tới
nặng 3 lá.Một nghiên cứu, 43% bệnh nhân bị hở nặng
van 3 lá sau thay van 2 lá theo dõi 11 năm, Porter và
cs (5). Kinh nghiệm nong van 2 lá qua da là một ý
tưởng mới để theo dõi quá trình tự nhiên của hở 3 lá
sau sửa rối loạn chức năng của van tim trái.Sagie là
một trong những người đầu tiên nghiên cứu quá trình
tự nhiên hở 3 lá sau nong van 2 lá và quan sát một tỉ
lệ tử vong cao ở nhưng bệnh nhân hở van 3 lá nặng,
đã được nong van sau 4 năm còn sống 69% (6).Theo
dõi biến chứng của 20 bệnh nhân có hở 3 lá nặng do
hậu quả huyết động hẹp van 2 lá họ thấy hở van 3 lá
tăng lên ở 4 bệnh nhân sau nong van(8).Mới đây
nghiên cứu của Song (7) đã so sánh nong van 2 lá với
sửa 3 lá ở 92 bệnh nhân bị Hẹp 2 lá bị hở nặng 3 lá.
Sau 1 năm hở 3 lá trung bình 54% ở bệnh nhân nong
van,so với chỉ 2% sửa hoặc thay van 3 lá ở bệnh nhân
sửa van 2 lá.Không có giải pháp cho hở 3 lá sau phẫu
thuật van tim trái, cũng đã được nhiều y văn nói
tới.Khoảng 35% tới 70% bệnh nhân có hở nặng khi
phẫu thuật van 2 lá, còn tồn tại hở trung bình tới nặng
sau mổ.Huỳnh Quang Trí Và cs nghiên cứu trên 106
bệnh nhân mổ van 2 lá do thấp có hở van 3 lá trước
mổ không được sửa có tới 65 bệnh nhân (61,3%) hở
van 3 lá nặng sau mổ (23).Chúng tôi cũng đã nhận
thấy khá nhiều Bn hở van 3 lá nặng sau mổ thay van
tim ở trung tâm của chúng tôi từ 2000 tới 2009, thời
gian này van 3 lá không được quan tâm vì cho rằng hở
chức năng.
17
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
Tóm lại, dù cho một vài bệnh nhân hở van 3 lá
nặng được giải quyết sau khi phẫu thuật van 2 lá.
Điều này không có nghĩa sẽ không còn hở van 3 lá
sau mổ van 2 lá,mặc dù nhiều nghiên cứu cho thấy
áp lực ĐMP đều giảm rõ sau mổ.Vì vậy,chiến thuật
dự phòng tránh hở 3 lá muộn được đặt ra (3) Tuy
nhiên, ở nước ta phẫu thuật sửa van 3 lá trong mổ
thay van 2 lá cũng chưa thực sự được quan tâm
đúng mực.
3.2.Yếu tố nào là điều kiên tiên quyết của hở van 3
lá trong bệnh lý van 2 lá do thấp?
H1
H2
Cơ chế giãn vòng van 3 lá
(Ton-Nu và CS.circulation 2006;114:143-149)
Vào đầu 1994,Sagie và cộng sự(9) phân tích 109
bệnh nhân trên siêu âm chỉ rarằng:tăng áp lực động
mạch phổi (Đmp),giãn thất phải không phải là điều
kiện tiên quyết gây hở 3 lá.. Giả thuyết này thuyết
phục khi chúng ta quan sát trên lâm sàng ở những
bệnh nhân hở van động mạch chủ mặc dù thất trái
giãn lớn (≤ 70mm) xong hở van 2 lá ít khi có.Và sau
mổ van 2 lá, tuy áp lực Đmp giảm rõ, nhưng hở van 3
lá thứ phát vẫn tồn tại và tiến triển nặng lên. Đặc điểm
chung nhất là giãn vòng van.Các nghiên cứu siêu âm
mới đây xác định giá trị của sự khám phá này,chỉ ra
sự mất bình thường của hình thể và chức năng van 3
lá trên những bệnh nhân hở chức năng (10,11). Giãn
vòng van 3 lá được công nhận như là đặc điểm hằng
định, đặc trưng của hở 3 lá (3,9). Mới đây,những sự
bất thường khác của vòng van đã được phát hiện trên
siêu âm 3 chiều qua các nghiên cứu độc lập của
Fukuda (12), Sukmawan(13) và Ton-Nu (11) chỉ ra
rằng:vòng van 3 lá không phải hình yên ngựa như ở
người bình thường. Ở van 3 lá hở thứ phát, vòng van
bị giãn,dẹt và tròn, Fukuda và cs (12). Thêm vào
đó,sự biến đổi co thắt không đối xứng của vòng van 3
lá có vai trò làm suy chức năng vòng van 3 lá, và các
18
tác giả cho rằng nó là yếu tố sinh bệnh chính gây hở
van 3 lá (H1,H2).
Vì vậy, cho tới nay phần lớn các phẫu thuật viên
đều đồng tình với quan điểm sửa van 3 lá sau thay,
sửa van 2 lá với 3 mục tiêu:
● Loại bỏ tăng gánh thất ( sửa,thay van 2 lá,phục
hồi tối đa chức năng co bóp thất)
● Hạ Áp lực đông mạch phổi:sửa hoăc thay van
bên trái thường đủ để giảm áp lực động mạch
phổi.Trong trường hợp tồn tại cao áp Đmp, cần dùng
thuốc như sildnafil và bosentan(14) để hạ áp lực đông
mạch phổi không ảnh hướng tới co bóp thất phải.
● Sửa vòng van 3 lá giãn và rối loạn chức năng
vận động. bao gồm tạo hình vòng van để bảo tồn kích
thước và hình thái. (1970s Carpentier(3) coi vòng van
giãn là chỉ định sửa)
3.3. Lưa chọn phương pháp phẫu thuật
Phân tích trên cho thấy thuật ngữ hở van 3 lá thứ
phát là hợp lý hơn cả và nguyên nhân chính của hở
van 3 lá thứ phát ở bệnh van 2 lá do thấp, không tính
đến tổn thương thực thể van 3 lá,là giãn vòng van
(Type I Carpantier). Cho tới nay, có nhiều phương
pháp tạo hình vòng van 3 lá có thể kể ra một số
phương pháp đang được các phẫu thuật viên ứng dụng
như (H3): De vega (17), Kay (19),Vòng van nhân
tạo… Carpentier-Edwards (3,15,16,18,20) cố định
vòng van bằng vòng cứng nhân tạo ở thì tâm thu(vòng
cứng hoặc nửa vòng cứng hoặc với giải nhân tạo mềm
cho phép vòng van co giãn). Mặc dù, Hở van 3 lá
được tạo hình bằng các phương pháp khác nhau xong
không thể loại bỏ chắc chắn được hở van 3 lá, chỉ có
thể giữ cho van 3 lá sau mổ không tiến triển nặng hơn
mà thôi (15). Tuy nhiên, những nghiên cứu mới đây
cho thấy tạo hình bằng vòng tốt hơn thu nhỏ vòng
van(16,18,20).Và mỗi phương pháp đều có nhược
điểm riêng. Phương pháp De vega mặc dù bảo tồn
chức năng co bóp vòng van song có 2 nhược điểm:
một là: vòng van thu nhỏ vẫn không có chỗ bám vững
chắc như chính giải phẫu vòng van ban đầu,đăc biệt
vùng lá trước và lá sau. Hai là: việc co rút vòng van
cũng làm lá van trước và sau gấp nếp biến dạng theo,
ảnh hưởng tới diện khép đóng kín của van. Phương
pháp Kay hai lá hoá van 3 lá bằng nhiều mũi chỉ khép
vòng van lá sau cũng có kết quả tốt.Tuy nhiên, phần
vòng van trước vẫn chênh vênh không có điểm tựa
nên tiếp tục giãn sau mổ (20). Về vòng van nhân
tạo,tuy các nghiên cứu cho thấy kết quả khả quan
PHẪU THUẬT SỬA VÒNG VAN BA LÁ TRONG THAY VAN HAI LÁ TỔN THƯƠNG DO THẤP
(16,18,20), nhưng theo chúng tôi, chắc chắn hoạt động
co bóp của vòng van tự nhiên sẽ bị đóng khung, hạn
chế có lẽ vì thế mà các tác giả nghĩ tới cải tiến các loại
vòng van (Cứng, nửa cứng hoặc giải mạch nhân tạo)
và vòng van có thể bị bung ra.
Theo. Deloche A (22 ),Vòng van 3 lá khi giãn chủ
yếu ở vòng van lá trước và sau. Vòng van lá trước
giãn 40%, vòng van lá sau giãn 80% và vòng van lá
vách giãn chỉ 10% so với kích thước ban đầu, do dựa
vào vách liên thất và bó sợi phải. Với cách phân tích
như vậy,chúng tôi suy nghĩ làm sao để giảm thiểu tối
đa sự giãn của vòng van lá trước sau tạo hình vòng
van mà vẫn tôn trọng hoạt động co giãn của vòng van
từ 2011 tới nay, chúng tôi đưa ra phương pháp tạo trụ,
bắc cầu như sau: (H4)
- Bước 1 (tạo trụ 1). khâu khép vòng van lá sau
bằng 2 mũi chỉ Ethibond 2.0 có đệm PTFE để tao trụ
tương tự Phương pháp Kay.
- Bước 2(tạo trụ 2). Khâu một mũi chỉ Ethibond
2.0 có đệm PTFE vào bó sợi phải ở mép trước vòng
van 3 lá.
- Bước 3 (bắc cầu). Dùng một đoạn PTFE (kích
thước đo bằng vòng van van lá vách) bắc cầu nối
giữa 2 trụ trên,các mũi chỉ giữa 2 trụ chỉ buộc để
ép, giữ giải PTFE, không có tác dụng thu nhỏ vòng
van lá trước.
Phương pháp này thực hiên được 3 mục tiêu:
- Giảm kích thước vòng van mà không làm thay
đổi hình thái lá van trước (nhược điểm Phương pháp
De vega)
- Cố định kích thước vòng van trước vào kích
thước giải PTFE (nhược điểm Phương Pháp Kay)
- Đảm bảo được việc co, giãn vòng van theo chu
kỳ hoạt động cơ tim
- Các phương pháp tạo hình vòng van 3 lá:
H3
Phương pháp De Vega(C) và Kay(D) và Phương
pháp Carpentier-Edwards(B)
(nguồn:Surgical Management of Functional)
H4
Phương pháp mổ bắc cầu bằng PTFE
Qua phân tích ở (3.1). Chúng tôi thống nhất với
quan điểm sửa van 3 lá dự phòng khi mổ thay hoặc
sửa van 2 lá (3).Chỉ định sửa vòng van 3 lá khi có
giãn vòng van kể cả không có hở trên siêu âm 2
chiều.Câu hỏi đặt ra là: thế nào là vòng van giãn? cho
tới nay,chúng tôi chưa thấy tài liệu nào nói về kích
thước vòng van 3 lá bình thường ở người Việt Nam.
Đối với người Châu Âu, theo Patrizio lancellotti
(European Asociation of Echography) kích thước
vòng van 3 lá bình thường là 28±5mm và vòng van
được coi là giãn là >3,5cm. Trong nghiên cứu, Kích
thước vòng van trung bình là 46,5±7,6, ở 40 bệnh
nhân đều có hở vừa tới nặng trên siêu âm. Và thực tế,
Kích thước giải PTFE thường ≥3cm là vừa để sửa bắc
cầu vòng van 3 lá cho kết quả tốt vì vậy chúng tôi sử
dụng mốc ≥3,5cm để chỉ định sửa vòng van 3 lá. Các
kết quả theo dõi sau mổ của chúng tôi bước đầu cho
thấy phương pháp tạo hình vòng van 3 lá trên có hiệu
quả.Sau mổ, theo dõi hở van 3 lá qua siêu âm 2D
trung bình 8 tháng cho kết quả là: không hở, hở nhẹ
30(75%). Hở vừa 9(22,5%). Hở nặng 1(2,5%) trường
hợp hở nặng quan sát thấy vách liên thất hoạt động co
giãn hạn chế. Trước mổ, toàn bộ bệnh nhân được chẩn
đoán hở vừa tới nặng (bảng 2.3.1). Đường kính thất
phải giảm có khác biệt sau mổ P<0,05 và đặc biệt
kích thước vòng van 3 lá ít thay đổi sau mổ khi được
thu nhỏ và néo giữ bởi giải PTFE với kích thước trung
bình 28,6 ± 3,389 (p>0,05). Môt số chỉ tiêu có cải
thiện rõ sau mổ như tăng áp ĐMP (bảng 2.3.3) hay độ
suy tim (NYHA, bảng 2.3.2)… còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, kể cả phẫu thuật Maze chống rung nhĩ
loạn nhịp chúng tôi sẽ phân tích kỹ ở các nghiên cứu
tiếp theo.Việc sử dụng siêu âm 2D đánh giá kích
thước vòng van 3 lá trước mổ được chúng tôi so sánh
với cách đo trực tiếp trong mổ không thấy khác biệt
19
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
mấy.Theo Fukuda (12),Sukmawan (13) và Ton-Nu
(11) nên sử dụng siêu âm thực quản và 3 chiều để
đánh giá hở van 3 lá.Trong mổ, chúng tôi sử dụng siêu
âm thực quản (Vivid 7 ) theo dõi Phẫu thuật hở van 3
lá sau thay van 2 lá bước đầu có nhận xét là:nhĩ phải
giãn, thường kèm giãn vòng van 3 lá.Vách liên thất
giảm vận động, hạn chế di động của lá van 3 lá, hai
đặc điểm này giúp chúng tôi bước đầu định hướng
được quyết định sửa vòng van 3 lá và dự đoán kết quả
sửa van.Đặc biệt nếu trước và sau mổ, quan sát vận
động vách liên thất trên siêu âm thực quản, khi huyết
động ổn định, thấy biên độ dao động giữa 2 thì tâm
thu và tâm trương tốt, kết quả sửa sẽ tốt.
H5
H6
H7
H5
H6
Siêu âm TEE trước mổ 3 lá(H5), Bắc cầu PTFE
(H6,H7), Siêu âm TEE van 3 lá sau mổ (H8,H9)
TEE:Transoesophageal Echocardiogram (Vivid 7)
3. Kết luận.
Sửa van 3 lá hở trong phẫu thuật thay van 2 lá nên
làm kết hợp và thường quy cho vòng van 3 lá giãn
≥3,5cm. Phương pháp sửa van của chúng tôi bước đầu
khả quan. Tuy nhiên, hở van 3 lá trong bệnh lý van 2
lá do thấp rất phức tạp và kết quả phụ thuộc vào nhiều
yếu tố đăc biệt là chức năng tim được duy trì, cải thiện
20
hay không sau mổ theo thời gian. Vì vậy, chúng tôi
tiếp tục ứng dụng phương pháp này và nghiên cứu kết
quả dài hạn của nó.
Hạn chế của nghiên cứu.
- Số bệnh nhân chưa nhiều, đa số bệnh nhân trước
mổ có chức năng tim tốt EF 55,21 ± 7,12 (45% 76 %)
và thời gian theo dõi chưa được xa, nên một số chỉ
tiêu chi tiêu liên quan tới giả thiết cơ chế hở van 3 lá
chưa được phân tích kỹ như:
● Thế nào là kích thước vòng van 3 lá bị giãn trên
tim người việt nam?
● Chức năng tim EF trước mổ có liên quan gì giữa
giãn thất phải và vận động co, giãn của vách liên thất
(đo kích thước trước và sau mổ)?
● Biến chứng của cầu nối bằng giải PTFE có gây
xơ hoá vòng van làm hạn chế chức năng co bóp của
vòng van hay không, có bị bung theo thời gian không?
Referents
1. Messer AL, Hurst JW, Rappaport MB, Sprague
HB: A study of the venous pulse in tricuspid valve
disease. Circulation1950, 1:388–393
2. Braunwald NS, Ross J, Jr, Morrow AG:
Conservative management of tricuspid regurgitation
in patients undergoing mitral valve replacement.
Circulation 1967, 35(4 Suppl):I63–I69.,
3. Carpentier A. Cardiac valve surgery—the
“French correction.” JThorac Cardiovasc Surg 1983;
86(3):323 – 337.
4.King RM, Schaff HV, Danielson GK, et al.:
Surgery for tricuspid regurgitation late after mitral valve
replacement.Circulation 1984, 70(3 Pt 2): I193–I197.
5.Porter A, Shapira Y, Wurzel M, et al.: Tricuspid
regurgitation late after mitral valve replacement:
clinical and echocardiographic evaluation. J Heart
Valve Dis 1999, 8:57–62.
6. Sagie A, Schwammenthal E, Newell JB, et al.:
Significant tricuspid regurgitation is a marker for
adverse outcome in patients undergoing percutaneous
balloon mitral valvuloplasty.
J Am Coll Cardiol 1994, 24:696–702.
7. Song H, Kang DH, Kim JH, et al.: Percutaneous
mitral valvuloplasty versus surgical treatment in
mitral stenosis with severe tricuspid regurgitation.
Circulation 2007,116(11 Suppl): I246–I250.
PHẪU THUẬT SỬA VÒNG VAN BA LÁ TRONG THAY VAN HAI LÁ TỔN THƯƠNG DO THẤP
8. Sagie A, Schwammenthal E, Palacios IF, et al.:
Significant tricuspid regurgitation does not resolve
after percutaneous balloon mitral valvotomy. J
Thorac Cardiovasc Surg 1994,108:727–735.
9. Sagie A, Schwammenthal E, Padial LR, et al.:
Determinants of functional tricuspid regurgitation in
incomplete tricuspid valve closure: Doppler color
flow study of 109 patients. J
Am Coll Cardiol 1994, 24:446–453.
10. Fukuda S, Gillinov AM, Song JM, et al.:
Echocardiographic insights into atrial and ventricular
mechanisms of functional tricuspid regurgitation. Am
Heart J 2006,152:1208–1214.
11. Ton-Nu TT, Levine RA, Handschumacher MD,
et al.: Geometric determinants of functional tricuspid
insights
from
3-dimensional
regurgitation:
echocardiography. Circulation 2006, 114:143–149.
14. Tei C, Pilgrim JP, Shah PM, et al.
12. Fukuda S, Saracino G, Matsumura Y, et al.:
Three-dimensional geometry of the tricuspid annulus
in healthy subjects and in patients with functional
tricuspid regurgitation: a real-time, 3-dimensional
echocardiographic study. Circulation 2006, 114(1
Suppl 1):I492–I498.
13. Sukmawan R, Watanabe N, Ogasawara Y, et
al.: Geometricchanges of tricuspid valve tenting in
tricuspid regurgitationsecondary to pulmonary
hypertension quantified by novelsystem with
transthoracic
real-time
3-dimensional
echocardiography.J Am Soc Echocardiogr 2007.
14. Mogollon MV, Lage E, Cabezon S, et al.:
Combination therapy with sildenafil and bosentan
reverts severe pulmonaryhypertension and allows
heart transplantation: case report. Transplant Proc
2006, 38:2522–2523.
15. McCarthy PM, Bhudia SK, Rajeswaran J,
et al.: Tricuspid valve repair: durability and risk
factors for failure. J Thorac Cardiovasc Surg
2004, 127:674–685.
16. Carpentier A, Deloche A, Dauptain J, et al.: A
new reconstructive operation for correction of mitral
and tricuspid insufficiency. J Thorac Cardiovasc Surg
1971, 61:1–13.
17. De Vega NG, De Rabago G, Castillon L, et
al.: A new tricuspid repair. Short-term clinical results
in 23 cases. J Cardiovasc Surg (Torino) 1973, Spec
No:384–386.
18. Tang GH, David TE, Singh SK, et al.:
Tricuspid valve repairwith an annuloplasty ring
results in improved long-term
19. Jerome Harold Kay, MD Surgical Treatment
of Tricuspid Regurgitation (Ann Thorac Surg
1992;53:1132-3) 23.
20. Farzan Filsoufi,M.D., Sacha P. Salzberg,
M.D., Vivian Abascal, M.D., AND David H.
AdamsM.D.Surgical Management of Functional
Tricuspid Regurgitation with a New Remodeling
Annuloplasty Ring..
21. A Propensity Analysis.Robert J. Moraca, MD,
Marc R. Moon, MD, Michael K. Pasque, MD, and
Ralph J. Damiano, Jr, MD.Outcomes of Tricuspid
Valve Repair and Replacement(Ann Thorac Surg
2009;87:83–9)
22. Deloche A., Guerinon J, Fabiani JN, et al.,
Anatomical
study
of
rheumatic
tricuspid
valvulopathies. Applications to the criticalstudy of
various methods of annuloplasty (French). ArchMal
Coeur Vaiss 1974; 67(5):497 – 505)
23. Tiến triển của hở van 3 lá nặng sau phẫu
thuật van 2 lá ở người bệnh van tim hậu thấp
ThS. Hồ Huỳnh Quang Trí,PGS. TS. Phạm
Nguyễn
Vinh,Viện Tim TP.HCM.
Báo
Cardiologie.vn.năm 2010.
21
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
HỘI CHỨNG SHONE - MỘT HỘI CHỨNG TIM BẨM SINH HIẾM GẶP
Nguyễn Công Hựu, Đỗ Anh Tiến, Trần Đắc Đại, Đặng Thị Ngọc Sen,
Nguyễn Trung Hiếu, Lê Tiến Dũng, Nguyễn Thái Long,
Nguyễn Bằng Việt, Nguyễn Bá Phong, Lê Ngọc Thành
Người phản biện: PGS, TS. Đặng Ngọc Hùng
TÓM TẮT
Mục tiêu: Thông báo 3 trường hợp chẩn đoán hội
chứng Shone được phẫu thuật tại trung tâm tim mạch
bệnh viện E. Đối tượng và phương pháp nghiên
cứu: Hồi cứu 3 bệnh nhi hội chứng Shone được phẫu
thuật trong thời gian từ 2/2010 - 7/2011.Trong số đó
có 2 nam, 1 nữ với độ tuổi trung bình 6,5±1,2 (5-7
tuổi). Cân nặng trung bình14,5±0,5 kg (14-15kg).
Các bệnh nhân có 2 - 3 thương tổn ở tim trái. Kết
quả: không có tử vong trong thời gian nằm viện. 1
bệnh nhân tai biến blốc nhĩ thất cấp 3 phải đặt máy tạo
nhịp. Khám kiểm tra với thời gian theo dõi trung bình
10,3 ±1,5 tháng (8-12 tháng): bệnh nhân blốc nhĩ thất
tử vong sau ra viện khoảng 1 tháng không rõ nguyên
nhân. 2 trường hợp còn lại ổn định chưa có chỉ đinh
mổ lại. Kết luận: Bệnh hiếm gặp, nhiều thương tổn
phối hợp do đó cần khám kỹ tránh bỏ sót chẩn đoán.
Lâm sàng thường gặp dạng không đầy đủ.Kết quả
điều trị còn nhiều hạn chế.
SUMMARY
Background. Shone syndrome (multilevel left
heart obstructions with mitral valve involvement) is
rare. The outcome of children with this disease is
generally poor. This study reviews the results in 3
patients operated in our center. Material and
method.A total of 3 patients with Shone syndrome
underwent operated between 2/2010-7/2011. Male:
2, female: 1. Mean age: 6,5±1,2 ( range 5-7 years)
Mean weight: 14,5±0,5 kg (range 14-15kg).All
patients had mitral valve lesion: 2 with supravalvular
mitral ring, 1 with parachute mitral valve. Surgical
procedure: Resection of supramitral ring, mitral
valve repair, resection of subaortic stenosis, aortic
valve repair. Results: There were no periopeative
death. 1 patient required implantation of a permanent
pacemaker for postoperative complete heart block
Mean follow up was 10,3 ±1,5 month (range 812months ). One late death in patient with block
AV. Conclusion: The Shone’s complex is a rare
entity, which occurs most frequently in its
incomplete form, highlights the importance of a
22
carefully examination because of lesions often coexist and can be missed in the absence of a
comprehensive examination.. The outcome of
children with Shone’s abnomaly is generally poor.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng Shone lần đầu được Shone và đồng
nghiệp mô tả vào năm 1963(4). Đây là bệnh tim bẩm
sinh hiếm gặp, thương tổn hẹp ở nhiều vị trí của tim
trái. Hội chứng Shone đầy đủ bao gồm bao gồm 4
thương tổn: van hai lá hình dù, vòng xơ trên vòng van
hai lá, hẹp dưới van động mạch chủ và hẹp eo động
mạch chủ. Thực tế lâm sàng thường gặp dạng không
đầy đủ với mức độ thương tổn khác nhau. Điều trị
phẫu thuật hội chứng này còn nhiều khó khăn, hạn chế
về kết quả sớm cũng như lâu dài. Chúng tôi hồi cứu 3
trường hợp bệnh nhi hội chứng Shone đã dược phẫu
thuật tại trung tâm tim mạch.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Hồi cứu 3 trường hợp bệnh nhi hội chứng Shone
được phẫu thuật tại trung tâm tim mạch trong thời
gian từ 2/2010 - 6/2011. Thu thập các thông tin về đặc
điểm lâm sàng , cận lâm sàng, kết quả phẫu thuật sớm
ngay sau mổ và khi xuất viện. Bệnh nhân được gọi
khám lại đánh giá sự thay đổi các triệu chứng lâm
sàng và các thông số trên siêu âm tim.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm chung
Tuổi trung bình
(năm)
6,5±1,2
Cân nặng
(kg)
Giới
Nam
Nữ
2
1
14,5±0,5
Bảng 1: Đặc điểm chung
Tuổi nhỏ nhất: 5t, cao nhất: 7t. Cân nặng: thấp
nhất 14kg, cao nhất 18kg
* Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E.
HỘI CHỨNG SHONE – MỘT HỘI CHỨNG TIM BẨM SINH HIẾM GẶP
Bệnh nhân được phát hiện và phẫu thuật muộn, cả
3 bệnh nhi đều có tình trạng suy dinh dưỡng
2. Đặc điểm lâm sàng trước mổ:
Đặc điểm lâm sàng
Viêm phế quản
NYHAIII
Thổi tâm thu
n
3
1
3
Bảng 2: Đặc điểm lâm sàng
Cả 3 trường hợp đều được phát hiện bệnh vì viêm
phế quản
3. Thương tổn đánh giá trên siêu âm tim:
Thương tổn
Vòng xơ trên vòng van hai lá
Van hai lá hình dù
Hẹp dưới van ĐMC
Hẹp eo ĐMC mức độ nhẹ
Hẹp van ĐMC
Hẹp van hai lá
n
2
1
2
3
2
1
Bảng 3: Thương tổn trên siêu âm tim
Không có bệnh nhân nào có đầy đủ cả 4 thương
tổn điển hình. Có 1 bệnh nhân hẹp hở HL phối hợp,
hẹp nặng ĐRTT. Bệnh nhân này tăng áp lực ĐMP
nặng (ALĐMP tâm thu 75mmHg),vào viện trong tình
trạng suy tim NYHA III.
4. Phương pháp phẫu thuật:
Phẫu thuật
n
Cắt vòng xơ trên vòng van hai lá
2
Mở rộng đường ra thất trái
1
Sửa van ĐMC
1
Bảng 4: Can thiệp phẫu thuật
5. Kết quả phẫu thuật:
Siêu âm tim kiểm tra chênh áp qua van
Chênh
áp(mmHg)
Trước Ra
mổ
viện
Phẫu thuật
Cắt vòng xơ trên vòng
van + sửa van hai lá
20
14
Bảng 5: Siêu âm tim kiểm tra sau mổ
Khám lại
(10,3 ±1,5
tháng)
10
2 trường hợp được cắt vòng xơ trên vòng van hai
lá và sửa van cho kết quả tốt khi ra viện cũng như
khám lại sau khoảng 10 tháng. Hiện 2 bệnh nhân này
lâm sàng ổn định, chưa có chỉ đinh mổ lại
1 bệnh nhân hẹp nặng ĐRTT, hẹp hở hai lá, tăng
áp lực ĐMP nặng phải khoét mở rộng ĐRTT. Bệnh
nhân bị blốc nhĩ thất cấp 3 ngay sau mổ phải đặt máy
tạo nhịp.. Sau khi đặt máy tạo nhịp lâm sàng ổn
định.Bệnh nhân đột tử tại nhà không rõ nguyên nhân
khoảng 1 tháng sau ra viện.
BÀN LUẬN
Hội chứng Shone hiếm gặp do đó dễ bỏ sót chẩn
đoán nếu không nghĩ tới. Trong nghiên cứu của
N.Zucker và cộng sự về chẩn đoán trước sinh trong
thời gian 10 năm (1993 - 2003) gặp 4 trường hợp trên
tổng số 180 thai nhi mắc tim bẩm sinh.Cũng trong
nghiên cứu này ông đưa ra con số có ít hơn 50 bệnh
nhân hội chứng Shone được thông báo trong y văn
(5). Năm 2008 Sunil P. Malhotra và cộng sự thông
báo về kết quả phẫu thuật cho 43 trường hợp trong 20
năm (1987 - 2007) (6).
Giải thích về cơ chế bệnh sinh, N.Zucker cho rằng
nguyên nhân từ sự phát triển bất thường của phần nhận
tim trái: hẹp van hai lá trong thời kỳ bào thai là nguyên
nhân ảnh hưởng đến sự phát triển của buồng tim trái ,
dẫn đến tắc hẹp ở phần thoát tim trái với các mức độ
khác nhau thậm chí hẹp eo ĐMC. Chính Shone và cộng
sự cũng nhấn mạnh rằng hẹp van hai lá giường như là
vấn đề nghiêm trọng nhất liên quan đến các bất thường
khác của bệnh lý này (5). Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra
rằng mức độ hẹp hai lá liên quan đến tỷ lệ chết của
phẫu thuật cũng như kết quả lâu dài (5,6)
Lâm sàng thường gặp dạng không điển hình,
không đầy đủ (có 2 hoặc 3 thương tổn). Trong thông
báo đầu tiên của Shone năm 1963 chỉ có 2 bệnh nhân
có cả 4 thương tổn (trong số 8 bệnh nhân). Thương
tổn hay gặp nhất là vòng xơ trên vòng van hai lá:
khoảng 90%, hẹp eo ĐMC phối hợp với các bất
thường về van hai lá: 20-59%(2). 3 bệnh nhân của
chúng tôi đều gặp dạng không đầy đủ, tuy nhiên cả 3
đều có bất thường ở van hai lá: 1 bệnh nhân van HL
hình dù, chỉ có 1 cột cơ chung cho dây chằng lá trước
và lá sau van hai lá. 2 bệnh nhân có thương tổn vòng
xơ trên van hai lá.
23
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
Vì bệnh hiếm gặp, lại phối hợp thương tổn ở
nhiều vị trí nên lâm sàng hay bỏ sót. Bogdan A.
Popescu và cộng sự (2) thông báo 1 trường hợp bệnh
nhân 19 tuổi vào viện vì suy tim,bội nhiễm phổi. Qua
thăm khám lâm sàng và siêu âm tim phát hiện đây là
trường hợp hội chứng Shone với hẹp van hai lá và
vòng xơ trên vòng van hai lá, tăng áp lực ĐMP nặng.
Bệnh nhân tử vong sau vài ngày vào viện trong bệnh
cảnh nhiễm trùng. Bệnh nhân này có tiền sử hẹp eo
ĐMC được nong bằng bóng cách đó 6 năm nhưng
không được phát hiện hội chứng Shone. Cả 3 bệnh
nhân của chúng tôi đều không được chẩn đoán hội
chứng Shone trước đó. Vì vậy trong thực hành âm
sàng khi phát hiện bệnh nhi có biểu hiện thương tổn
hẹp tại bất kỳ vị trí nào đó của hệ thống tim trái cần
nghĩ tới dạng bệnh lý này để thăm dò kỹ tránh bỏ sót
thương tổn.
Bệnh nhân mắc hội chứng Shone có tiên lượng
không khả quan. Nếu không được theo dõi điều trị tỷ
lệ tử vong tron g 5 năm đầu rất cao.Theo K.C. Sekhar
và cộng sự: khoảng 60% có thể điều trị nội nếu được
theo dõi sát , 40% cần can thiệp phẫu thuật (3). Việc
điều trị phẫu thuật cũng thay đổi tùy theo dạng và mức
độ nặng nhẹ của thương tổn: cắt bỏ vòng xơ, sửa van,
khoét mở rộng đường ra thất trái, sửa hẹp eo ĐMC,
thay van… A. R. Hosseinpour Combined thông báo
thực hiện phẫu thuật Switch cho 2 bệnh nhân có tăng
áp lực ĐMP nặng. Các nghiên cứu cho thấy thường
phải phối hợp nhiều phẫu thuật, nhiều lần qua từng
giai đoạn (1,4,6). Trong trường hợp không sửa chữa
được sẽ phải ghép tim.
Kết quả phẫu thuật sớm cũng như kết quả xa còn
hạn chế. BA.Popescu cho thấy tử vong phẫu thuật 2427% (2). Nghiên cứu gần đây của J.W. Brown và cộng
sự cho kết quả khả quan hơn: không có bệnh nhân nào
tử vong trong lần phẫu thuật đầu tiên; kết quả xa với
thời gian theo dõi trung bình 4,7 năm: tử vong 11% (3
bệnh nhân trên tổng số 27 bệnh nhân trong thời gian 15
năm từ 1978 - 2003) (4). S.P. Malhotra với 43 bệnh
nhân trong nghiên cứu công bố năm 2008: tỷ lệ sống
sau 5 năm là 88% với các bệnh nhân được phẫu thuật
sửa chữa, 61,3% ở nhóm bệnh nhân ghép tim(6). Kết
quả của chúng tôi 1 bệnh nhân tử vong sau 1,5 tháng.
Bệnh nhân này hẹp nặng ĐRTT, hẹp hở van hai lá, tăng
áp lực động mạch phổi nặng, sau mổ bị blốc nhĩ thất
24
hoàn toàn phải đặt máy tạo nhịp. Bệnh nhân tử vong
đột ngột tại nhà nên không rõ được nguyên nhân. Theo
Shone và các tác giả mức độ hẹp van hai lá với áp lực
ĐMP tăng cao, thương tổn nặng van hai lá phải thay
van là những yếu tố tiên lượng nặng (2,4).
KẾT LUẬN
Hội chứng Shone hiếm gặp, lâm sàng thường gặp
dạng không điển hình,đây đủ. Trong thực hành lâm
sàng khi gặp thương tổn hẹp ở bất kỳ vị trí nào của hệ
thống tim trái cần nghĩ tới có dạng bệnh lý này để
thăm dò kỹ tránh bỏ sót chẩn đoán
Phẫu thuật thay đổi tùy theo dạng và mức độ
thương tổn. Thường phải phối hợp nhiều phẫu thuật,
phẫu thuật nhiều lần
Kết quả phẫu thuật còn hạn chế. Thương tổn phức
tạp tại van hai lá với áp lực ĐMP tăng cao là một
trong những yếu tố tiên lượng nặng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.R. Hosseinpour. Combined atrial arterial switch
operation (double switch) for hearts with Shone
syndrome and pulmonary hypertension. J Thorac
Cardiovasc Surg 2006;131:471-3
2. BA. Popescu, R. Jurcut et al. Shone’s syndrome
diagnosed with echocardiography and confirmed
at
pathology.
European
Journal
of
Echocardiography (2008) 9, 865–867
3. K. C. Sekhar1, S. Mastan et al. ANAESTHETIC
MANAGEMENT OF A CASE OFSHONE’S
SYNDROME. Indian J. Anaesth. 2004; 48 (3) :
212-214
4. J W. Brown, M. Ruzmetov. Operative Results and
Outcomes in Children With Shone’s Anomaly.
Ann Thorac Surg 2005;79:1358-1365
5. N. ZUCKER, A. LEVITAS and E. ZALZSTEIN.
Prenatal diagnosis of Shone’s syndrome: parental
counseling and clinical outcome. Ultrasound
Obstet Gynecol 2004; 24: 629–632
6. Sunil P. Malhotra, F.L.Gayet. Outcomes of
Reparative and Transplantation Strategies for
Multilevel Left Heart Obstructions With Mitral
Stenosis. Ann Thorac Surg 2008;86:1305-1310
SO SÁNH KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NGỰC LÕM BẨM SINH… TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
SO SÁNH KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NGỰC LÕM BẨM SINH
GIỮA MỔ MỞ KINH ĐIỂN VÀ PHẪU THUẬT NUSS TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
Nguyễn Hữu Ước, Ngô Gia Khánh*
Nguyễn Văn Trường**
Người phản biện: PGS, TS. Đặng Ngọc Hùng
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Mổ mở kinh điển điều trị ngực lõm
bẩm sinh được áp dụng từ hàng chục năm nay với kết
quả tương đối hạn chế. Phẫu thuật theo phương pháp
Nuss khắc phục được nhiều hạn chếđó, nhất là khi kết
hợp nội soi lồng ngực. Bệnh viện Việt Đức đã áp dụng
phẫu thuật Nuss kết hợp nội soi từ 2010. Việc so sánh
kết quả phẫu thuật theo 2 phương pháp là cần thiết để
khẳng định ưu thế của phẫu thuật Nuss điều trị ngực
lõm bẩm sinh hiện nay. Phương pháp: Mô tả hồi cứu
trên 30 bệnh nhân được mổ mở kinh điển (Nhóm 1,
giai đoạn 2000 – 2010) và 53 bệnh nhân phẫu thuật
Nuss (Nhóm 2, giai đoạn 2010 – 2011), về đặc điểm
trước – trong mổ và kết quả sau mổ. Kết quả: Không
có sự khác biệt về tuổi trung bình (14,5 và 16,0 tuổi)
và giới tính (Nam 83,3% và 88,8%) giữa 2 nhóm.
Thời gian mổ trung bình của nhóm 1 (117 ± 34 phút)
dài hơn nhiều của nhóm 2 (69 ± 24 phút). Thời gian
nằm viện của nhóm 1 (7,6 ± 4,3 ngày) cũng dài hơn
nhóm 2 (5,2 ± 1,2 ngày). Kết quả tốt ngay sau mổ là
63,4% ở nhóm 1 và 92,5% ở nhóm 2. Kết quả trung
hạn: chỉ có 13,6% hết lõm ở nhóm 1, so với nhóm 2 là
56,6%; và 18,1% bệnh nhân hài lòng ở nhóm 1 so với
94,3% ở nhóm 2. Kết luận: Phương pháp Nuss kết
hợp nội soi lồng ngực là lựa chọn tốt trong điều
trịbệnh ngực lõm bẩm sinh, với ưu thế toàn diện so
với mổ mở kinh điển cả về thẩm mỹ, thời gian phẫu
thuật, thời gian nằm viện, kết quả cải thiện tình trạng
lõm ngực.
Từ khóa: lõm ngực bẩm sinh, phương pháp Nuss,
Việt Đức.
Abstract
Background:
For
treating
the“pectus
excavatum”, classical surgery (large invasive
surgery) performed in tens of years with limited
results. Nuss procedure made good this limits,
especially associating with thoracic endoscopic
surgery (mini-invasive surgery). Since 2010, Viet Duc
hospital has been applying Nuss procedure –
endoscopically. Comparing the classical with Nuss
techniques is necessary to stand out the advantages of
Nuss procedure in “pectus excavatum” treatment
nowadays. Method: Retrospective description in 30
patients with classical technique (1st group, from 2000
to 2010) and 53 patients with Nuss procedure (2nd
group, from 2010 to 2011), about the operation and
post-operation results. Results: No significative
difference between two groups in age (14.5 and 16.0)
and sex (83.3% and 88.8% of man). Operative time in
1st group (117± 34 minutes) is longer than in 2nd
group (69 ± 24 minutes). Hospitalization days is
longer in 1st group (7.6 ± 4.3 days ) than 2nd group
(5.2 ± 1.2 days). Early good result is 63.4% in 1st
group and 92.5% in 2nd group. Long term result:
“Non pectus excavatum” is only 63.4% in 1st group,
but 56.6% in 2nd group; incidence of patient’ very
happiness is only 18.1% in 1st group, but 94.3% in 2nd
group. Conclusion: Nuss procedure associated
Thoracoscopy is a good choice to treat “pectus
excavatum”, with the great advantages in
aestheticism, operative time, hospital stay, and form
of thoracic cave.
Keywords : pectus excavatum, Nuss procedure,
Viet Duc hospital.
1. Đặt vấn đề:
Bệnh ngực lõm chiếm tỷ lệ cao nhất (90%) trong
số các dị dạng bẩm sinh của thành ngực. Dị tật ngực
lõm chiếm khoảng 1/400 đến 1/300 trẻ mới sinh [1],
[2], [4], [5]. Phẫu thuật điều trị dị tật ngực lõm được
đề xuất từ đầu thế kỷ 20, vớicác phương phápkinh
điển (Bruner, Judet, Ravitch cải tiến…) đã phổ biến
trên thế giới và ở Việt Nam, nhưng các nghiên cứu
đều chỉ ra cònnhiều nhược điểm và kết quả hạn chế như đường mở rộng, nhiều biến chứng, sẹo to và xấu,
tỷ lệ hết lõm hoàn toàn không cao, lõm tái phát nhiều,
trên 50% bệnh nhân không hài lòng [2], [4].Năm
1997, Donald Nuss đề xuất phương pháp can thiệp tối
thiểu điều trị bệnh ngực lõm bẩm sinh – Phương pháp
Nuss [4], cho phép khắc phục nhiều hạn chế của mổ
kinh điển, và nhanh chóng phổ biến ra nhiều trung
* Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
** Đại học Y Hà Nội
25
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
[4], [5], [6]. Theo xu hướng chung, từ tháng
6 năm 2010, bệnh viện Việt Đức đã áp dụngphẫu thuật
Nuss + nội soi lồng ngực mang lại kết quả rất khả
quan [3]. Việc so sánh kết quả điều trị với các phẫu
thuật kinh điển tại bệnh viện trong thời gian từ 2000
tới 2010 [2]sẽ làm nổi bật các ưu thế của phương
pháp Nuss, qua đó khẳng định vị trí của phẫu thuật
Nuss + nội soi lồng ngực trong điều trị bệnh ngực lõm
bẩm sinh hiện nay. Mục tiêu chính của nghiên
cứu:Đối chiếu kết quả phẫu thuật điều trị bệnh ngực
lõm bẩm sinh giữa các phương pháp kinh điển và
phương pháp Nuss + nội soi lồng ngực tại bệnh viện
Việt Đức.
2. Đối tượng và phương pháp
- Đối tượng: Gồm 30 bệnh nhân ngực lõm bẩm
sinh(NLBS) được điều trị bằng các phẫu thuật kinh
điển từ 2000 đến 2010 (Nhóm 1); và 53 bệnh nhân
3. Kết quả
NLBS được phẫu thuật theo phương pháp Nuss kết
hợp nội soi lồng ngực từ 6/2010 đến 11/2011 (Nhóm
2), tại Bệnh viện Việt Đức.
- Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang
hồi cứu.
- Các tham số nghiên cứu chính:
+ Trước mổ: tuổi, giới, chỉ số ngực thấp (LVI),
phân thể lõm theoPark H.J.[5].
+ Trong mổ: thời gian phẫu thuật, dẫn lưu (màng
phổi hay vùng mổ), biến chứng (chảy máu, tổn thương
tim-phổi). Kỹ thuật mổ ở nhóm 1 – Theo các phương
pháp kinh điển gồm: Judet, Bruner, Ravitch cải tiến,
Kéo liên tục [2]. Kỹ thuật mổ ở nhóm 2 – Theo
phương pháp Nuss + nội soi lồng ngực hỗ trợ [1].
+ Kết quả sớm và kết quả trung hạn về: thẩm mỹ,
biến chứng, mức độ hết lõm và sự hài lòng của bệnh
nhân và gia đình.
Bảng 1: Đối chiếu tuổi trung bìn h, giớ i, LVI của 2 nhóm
Biến số
Tuổi trung bình
Nam
Nữ
LVI
Nhóm 1 (n=30)
Nhóm 2 (n=53)
16,0 ± 3,0 (5 – 26)
88,7%
11,3%
0,32 ± 0,06 (0,26 – 0,5)
14,5 ± 3,9 (4 – 21)
83,3%
16,7%
0,35 ± 0,05 (0,28 – 0,48)
p
> 0,05
Bảng 2: Đối chiếu phân thể lõm ngực theo Park của 2 nhóm
Nhóm 1 (n=30)
Thể lõm
Nhóm 2 (n=53)
n
%
n
%
IA (Đồng tâm khu trú)
16
53,3
33
62,3
IB (Đồng tâm dạng phẳng)
3
10,0
10
18,9
IIA (Lệch tâm khu trú)
7
23,4
5
9,4
IIB (Lệch tâm dạng phẳng)
3
10,0
4
7,5
IIC (Lệch tâm tạo kênh dài)
0
0
1
1,9
III (Hỗn hợp có lồi và lõm)
1
3,3
0
0
p
> 0,05
Bảng 3: Đối chiếu kết quả trong mổ của 2 nhóm
26
Biến số
Nhóm 1 (n=30)
Nhóm 2 (n=53)
Thời gian mổ (phút)
117 ± 34 (60 – 180)
69 ± 24 (30 – 150)*
Dẫn lưu
30 (100%)
0
p
<0,05
SO SÁNH KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NGỰC LÕM BẨM SINH… TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
Biến chứng
0
0
*Có 3 ca đã mổ cũ theo phương pháp kinh điển, thời gian mổ dài do gỡ dính sau xương ức.
Bảng 4: Đối chiếu kết quả sớm sau mổ của 2 nhóm
Biến số
Nhóm 1 (n=30)
Nhóm 2 (n=53)
Lượng máu + dịch qua dẫn lưu (ml)
610 ± 365
(100 – 1660)
0
Đặt dẫn lưu màng phổi do dịch hay khí
2 (6,7%)
1 (1,9%)
Mổ lại do chảy máu
1 (3,3%)
0
Nhiễm trùng vết mổ
9 (30%)
3 (5,7%)
Ngực hết lõm hay có cải thiện
30 (100%)
53 (100%)
Xếp loại kết quả tốt
19 (63,4%)
49 (92,5%)
Ngày nằm viện
7,6 ± 4,3 (4 – 20)
5,2 ± 1,2 (4 – 8)
Tử vong
0
0
Bảng 5: Đối chiếu kết quả khám kiểm tra sau mổ của 2 nhóm
Biến số
Nhóm 1 (n=22)
Nhóm 2 (n=53)
p
Chỉ số ngực thấp
(LVI)
0,29 ± 0,02
(0,26 – 0,36)
0,26 ± 0,02
(0,24 – 0,3)
> 0,05
Sẹo mổ liền tốt
11 (50%)
49 (92,5%)
Ngực hết lõm
3 (13,6%)
30 (56,6%)
Ngực đỡ lõm
16 (72,8%)
23 (43,4%)
Ngực lõm lại như cũ
3 (13,6%)
0
Biến chứng liên quan thanh đỡ
5/8 ca (62,5%)*
2 (3,7%)
< 0,05
Bệnh nhân hài lòng với kết quả
4 (18,1%)
50 (94,3%)
< 0,05
< 0,05
> 0,05
* Chỉ có phương pháp Bruner và Ravitch cải tiến mới dùng thanh đỡ.
3. Bàn luận
Tuy thời điểm làm nghiên cứu ở 2 nhóm không
giống nhau, song đầu vào của đối tượng nghiên cứu
khá tương đồng nhau (Bảng 1 và 2), và các kỹ thuật
mổ đều được làm ở cùng 1 bệnh viện. Điều đó cho
phép so sánh các kết quả nghiên cứu giữa 2 nhóm với
độ tin cậy nhất định về khoa học. Về mặt tuổi và giới
tính, kết quả ở cả 2 nhóm nghiên cứu đều có tỷ lệ nam
giới gấp khoảng hơn 4 lần nữ giới, với độ tuổi trung
bình từ 14 – 16 tuổi,có phần cao hơn một số nghiên
cứu khác [4], [5], [6]. Chỉ số ngực thấp (LVI) là 1
tiêu chí cần tham khảo để đưa ra chỉ định phẫu thuật,
dựa trên phim X quang ngực thẳng và nghiêng 90o,
chỉ số này ở người bình thường là 0,25 [2]. Kết quả
nghiên cứu ở Bảng 5 cho thấy sau mổ theo phương
pháp Nuss, LVI trở lại gần bình thường hơn là các kỹ
thuật mổ kinh điển. Nghiên cứu không tính tới chỉ số
Haller trên CT ngực, vì trong nhóm 1 rất ít bệnh nhân
được chụp CT ngực trước mổ. Phân loại thể lõm ngực
theo Park Hyung Joo (Hàn Quốc - 2004) hiện nay
được sử dụng rất phổ biến trên thế giới trong phẫu
thuật theo phương pháp Nuss, tuy nhiên nghiên cứu
vẫn sử dụng phân loại này cho nhóm 1 nhằm xác định
tính tương đồng của đối tượng nghiên cứu ở đầu vào.
Kết quả ở Bảng 2 cho thấy thể loại lõm ngực được
phân bố tương đối đều nhau, và cũng xấp xỉ với các
27
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
Kết quả ở Bảng 3 và 4 cho thấy, tuy các phương
pháp phẫu thuật ở cả 2 nhóm đều an toàn (không biến
chứng và tử vong) và mang lại kết quả sớm sau mổ
tương đối tốt về mặt hình thể lồng ngực (100% ngực
hết lõm hay có cải thiện so với trước mổ); song
phương pháp Nuss + nội soi lồng ngực đã thể hiện ưu
thế hơn hẳn các phẫu thuật kinh điển về nhiều mặt,
như thời gian mổ ngắn hơn, không cần đặt dẫn lưu
vùng mổ, hầu như không có nguy cơ chảy máu sau mổ
(vì trường mổ được kiểm soát rất tốt bằng nội soi lồng
ngực), và ít biến chứng sau mổ hơn – đặc biệt là các
vấn đề và biến chứng liên quan đến dẫn lưu (chăm sóc
và rút dẫn lưu) và nhiễm trùng vết mổ. Chính các yếu
tố đó đã góp phần quan trọng giúp xếp loại kết quả tốt
sau mổ ở nhóm 2 (92,4%) cao hơn hẳn ở nhóm 1
(63,4%), và thời gian nằm viện ở nhóm 1 (7,6 ngày)
dài hơn rõ so với nhóm 2 (5,2 ngày). Một điểm nữa là
ngay sau mổ bệnh nhân ở nhóm 2 thường rất hài lòng,
vì vết mổ nhỏ - nằm ở chỗ kín đáo (2 bên sườn), ít đau
và chăm sóc đơn giản hơn. Kết quả phẫu thuật điều trị
NLBS theo phương pháp Nuss của chúng tôi cũng
tương đồng với nhiều trung tâm lớn khác trên thế giới
[3], [4], [5], [6].
Đánh giá kết quả khám kiểm tra sau mổ, một điểm
cơ bản chúng tôi nhận thấy là ở nhóm 1 là đa số bệnh
nhân không hài lòng về những điểm sau: ngực lại có
xu hướng lõm trở lại, sẹo mổ xấu ở vùng nhậy cảm
(ngay giữa ngực), và nhiều biến chứng liên quan thanh
đỡ - phải rút sớm và ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt.
Kết quả ở Bảng 5 đã thể hiện rõ những điều này, với
tỷ lệ sẹo liền tốt và ngực hết lõm ở nhóm 2 cao hơn
hẳn nhóm 1, và nhất là có tới 94,3% bệnh nhân hài
lòng với kết quả phẫu thuật Nuss, trong khi tỷ lệ đó
chỉ là 18,1% ở nhóm mổ với các kỹ thuật kinh điển –
đây là 1 yếu tố quan trọng cần tính đến vì một trong
những chỉ định mổ hàng đầu của NLBS là giải quyết
tính thẩm mỹ. Các báo cáo nước ngoài, tuy tỷ lệ có
khác nhau, song đều thống nhất về các hạn chế của
các kỹ thuật mổ kinh điển, nên hiện nay hầu như
không còn sử dụng nữa [5], [6]. Tuy nhiên, cũng cần
lưu ý là chi phí phẫu thuật theo kỹ thuật Nuss khá cao
so với mổ theo phương pháp kinh điển (gấp khoảng 45 lần) – trong đó đắt nhất là chi phí mua thanh đỡ;
28
điều này phần nào cũng là rào cản trong việc phổ biến
rộng rãi kỹ thuật Nuss.Trong tương lai, cần có sự giúp
sức của Bảo hiểm y tế để giải quyết khó khăn này.
4. Kết luận
Phẫu thuật theo phương pháp Nuss kết hợp nội soi
lồng ngực là lựa chọn tốt trong điều trị bệnh NLBS,
với ưu thế toàn diện so với mổ mở kinh điển cả về
thẩm mỹ, thời gian phẫu thuật, thời gian nằm viện, kết
quả cải thiện tình trạng lõm ngực, và sự hài lòng của
người bệnh. Nên tiếp tục nghiên cứu, phát triển và phổ
biến rộng rãi kỹ thuật này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Gia Khánh (2011), Đánh giá kết quả phẫu
thuật Nuss kết hợp nội soi lồng ngực điều trị bệnh
ngực lõm bẩm sinh tại bệnh viện Việt Đức,Luận
văn tốt nghiệp Nội trú bệnh viện, Trường Đại học
Y Hà Nội.
2. Nguyễn Văn Trường (2010), Nghiên cứu đánh
giá kết quả phẫu thuật dị dạng ngực lõm bẩm sinh
tại bệnh viện Việt Đức,Luận văn Thạc sỹ, Trường
Đại học Y Hà Nội.
3. Nguyễn Hữu Uớc, Ngô Gia Khánh (2012),Đánh
giá kết quả phẫu thuật Nuss kết hợp nội soi lồng
ngực điều trị bệnh ngực lõm bẩm sinh tại bệnh
viện Việt Đức,Ngoại khoa, Tập 61, số 1-2-3, tr.
241-249.
4. Donald Nuss (2005), Recent experiences with
minimally invasive Pectus Excavatum repair
“Nuss procedure”,Thorac Cardiovasc Surg, 53,
pp. 338 – 344
5. Hyung Joo Park, Seock Yeol Lee, Cheol Sae
Lee, Wook Youm et al. (2004), The Nuss
procedure for pectus excavatum: evolution of
techniques and early results on 322 patients,Ann
Thorac Surg, 77, pp. 289-295.
6. Qiang Shu, Zhuo Shi, Wei Ze Xu & Jian Hua
Li (2011), Experience in minimally invasive Nuss
operation for 406 children with pectus
excavatum,World J Pediatr., 7(3), pp. 257 - 261.
NGHIÊN CỨU MỐI LIÊN QUAN GIỮA ĐƯỜNG MÁU HẬU PHẪU VÀ MỨC ĐỘ NẶNG… MỔ TIM HỞ
NGHIÊN CỨU MỐI LIÊN QUAN GIỮA ĐƯỜNG MÁU HẬU PHẪU
VÀ MỨC ĐỘ NẶNG Ở BỆNH NHÂN MỔ TIM HỞ
Lê Minh Khôi, Nguyễn Hoàng Định*
Người phản biện: PGS, TS. Đặng Ngọc Hùng
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tăng đường máu thường gặp ở bệnh
nhân được phẫu thuật tim hở có hỗ trợ tuần ngoài cơ
thể. Tăng đường máu có thể làm tăng tỉ lệ tử vong và
bệnh tật ở bệnh nhân phẫu thuật tim. Mục tiêu nghiên
cứu: Khảo sát mối liên quan giữa đường huyết và
mức độ nặng trong giai đoạn hậu phẫu ở bệnh nhân
phẫu thuật tim hở. Đối tượng và phương pháp: Tất
cả những bệnh nhân không đái tháo đường được phẫu
thuật tim hở có hỗ trợ tuần hoàn ngoài cơ thể đươc
đưa vào nghiên cứu. Đường máu định lượng trước
mổ, ngay sau mổ và vào lúc 6 giờ sáng các ngày tiếp
theo cho đến khi bệnh nhân rời hồi sức. Kết quả:
Bệnh nhân có đường máu > 140mg/dl ngay sau mổ
hoặc vào ngày thứ nhất có thời gian thở máy, thời
gian nằm hồi sức kéo dài và số lượng thuốc vận mạch
nhiều hơn có ý nghĩa thống kê. Kết luận: Tăng đường
máu sau phẫu thuật tim hở có liên quan với mức độ
nặng của bệnh.
Từ khóa: tăng đường máu, phẫu thuật tim
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng đường máu (ĐM) thường gặp trong những
bệnh nhân hồi sức và có liên quan đến tỉ lệ tử vong
và bệnh tật tăng cao ở cả bệnh nhân (BN) đái tháo
đường lẫn không đái tháo đường, BN chấn thương,
đột quỵ, tổn thương thiếu ôxy não, nhồi máu cơ tim
cấp, sau phẫu thuật tim và bệnh nặng do các nguyên
nhân khác. Tăng đường máu có thể ảnh hưởng đến
dự hậu của BN thông qua các tác động ức chế chức
năng miễn dịch và tăng nguy cơ nhiễm trùng, phá
hủy chức năng tế bào nội mô, tổn thương ti thể tế
bào gan và làm nặng thêm tình trạng thiếu máu tổ
chức do nhiễm toan và phản ứng viêm [1]. Nguyên
nhân gây tăng đường máu trong bệnh cấp tính có
thể do nhiều cơ chế khác nhau. Thay đổi trong
chuyển hóa glucose bao gồm đề kháng insulin là
một tình trạng thường gặp. Các cơ chế phản xạ như
tăng tiết các catecholamine và tăng nồng độ cortisol
và glucagon cũng dẫn đến tăng đường máu [2].
Trước đây, tăng đường máu trong bệnh nặng được
xem là đáp ứng có lợi vì nhờ đó não, cơ hệ vận
động, tim và các cơ quan khác được tăng cường
cung cấp năng lượng vào thời điểm nhu cầu chuyển
hóa của cơ thể tăng cao. Tuy nhiên, những nghiên
cứu gần đây đã chứng tỏ tăng đường máu trong
bệnh nặng có thể làm tăng tỉ lệ tử vong cũng như
bệnh tật. Điều này đặc biệt rõ trong lĩnh vực tim
mạch và phẫu thuật tim. Ví dụ, một nghiên cứu đã
kết luận rằng tỉ lệ tử vong tăng 3,9 lần ở nhóm bệnh
nhân nhồi máu cơ tim cấp không mắc đái tháo
đường nhưng có nồng độ đường máu từ 109,8 đến
144 mg/dL [3]. Trong phẫu thuật tim, tỉ lệ tử vong
có tương quan với nồng độ đường máu và tỉ lệ tử
vong thấp nhất ở nhóm có đường máu < 150 mg/dl.
Tăng đường máu ngay trong lúc mổ cũng là một
yếu tố nguy cơ độc lập ảnh hưởng đến tử vong,
bệnh tật ở BN được phẫu thuật tim và tăng hao tốn
nguồn lực y tế [4]. Năm 2001 Van den Berghe và
cộng sự công bố một nghiên cứu quan trọng về vai
trò của điều trị insulin trong tăng đường máu ở bệnh
nhân hồi sức ngoại khoa. Công trình này khởi động
cho một loạt các nghiên cứu về tác động của insulin
trong các quần thể BN hồi sức khác nhau và kết quả
đôi khi mâu thuẫn nhau [5]. Ở nước ta, vấn đề tăng
đường máu ở bệnh nhân nặng nằm hồi sức nói
chung và bệnh nhân hồi sức sau mổ tim hở chưa
được quan tâm nghiên cứu đúng mức do đó không
thể xác định được tăng đường máu có ảnh hưởng và
mức độ ảnh hưởng như thế nào đối với BN hậu
phẫu mổ tim hở [6,7] Do đó, chúng tôi thực hiện
nghiên cứu “Nghiên cứu mối liên quan giữa
đường máu hậu phẫu và mức độ nặng ở bệnh
nhân mổ tim hở” nhằm bước đầu khảo sát mối liên
quan giữa ĐM và mức độ nặng trong giai đoạn hậu
phẫu ở bệnh nhân mổ tim hở.
* Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
29
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Tất cả những BN mắc bệnh tim được phẫu thuật
tim hở có hỗ trợ tuần hoàn ngoài cơ thể tại Khoa Phẫu
thuật Tim Mạch, Bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ
Chí Minh.
Tiêu chuẩn loại trừ
- BN được chẩn đoán đái tháo đường trước mổ.
- BN được phẫu thuật tim nhưng không có hỗ trợ
tuần hoàn ngoài cơ thể.
Phương pháp nghiên cứu
Đây là nghiên cứu tiến cứu, quan sát, mô tả cắt
ngang theo thời gian.
Tất cả BN nghiên cứu được định lượng đường
máu vào thời điểm trước mổ, ngay sau mổ, 6 giờ sáng
vào các ngày tiếp theo cho đến khi bệnh nhân rời
phòng hồi sức. Xét nghiệm đường máu được thực hiện
tại Khoa Xét nghiệm, Bệnh viện Đại học Y Dược TP
Hồ Chí Minh.
Phân tích thống kê được thực hiện trên phần mềm
thống kê STATA 10.0. Chúng tôi thực hiện unpaired t
test cho các nhóm so sánh, tìm tương quan tuyến tính
giữa giá trị ĐM và các chỉ số phản ánh mức độ nặng
của bệnh. Kết quả mô tả được trình bày dưới dạng
trung bình ± độ lệch chuẩn. Giá trị p < 0,05 được xem
là có ý nghĩa thống kê.
III. KẾT QUẢ
Dân số nghiên cứu
Trong thời gian nghiên cứu 5 tháng, từ tháng 1
đến tháng 6 năm 2011 chúng tôi thu nhận được 109
bệnh nhân. Tuổi trung bình 18,8 ± 17,3 tuổi (nhỏ nhất
2 tuổi, cao nhất 64 tuổi). Có 64 trẻ từ 2 đến 15 tuổi
chiếm 58,7%. Tỉ lệ nam/nữ: 1/1,3 (47/62). Chỉ số khối
cơ thể (BMI) trung bình 16,3 ± 3,5 kg/m2 (thấp nhất
10,8 và cao nhất là 31,9 kg/m2). Các bệnh tim bẩm
sinh có luồng thông trái phải chiếm 54%; các bệnh tim
bẩm sinh có tím kèm hẹp đường thoát thất phải chiếm
11%; các bệnh van tim chiếm 24% và các bệnh khác
chiếm 11%. Thời gian hồi sức trung bình 56,7 ± 56,8
giờ, thời gian thở máy 14,5 ± 21,5 giờ, thời gian sử
dụng thuốc vận mạch 43,7 ± 31,5 giờ và không có
bệnh nhân nào tử vong.
Liên quan giữa đường máu và thời gian thở máy,
thời gian vận mạch, số lượng thuốc vận mạch sử dụng
và thời gian hồi sức được trình bày lần lượt trong các
Bảng 1, Bảng 2 và Bảng 3.
Bảng 1. Liên quan giữa ĐM và thời gian thở máy
ĐM sau mổ (mg/dl)
>140
≤ 140
p
Thời gian thở máy (giờ)
21,4 ± 33,5 (n=40)
10,3 ± 7,1 (n=66)
0,0052
ĐM sau mổ (mg/dl)
>180
≤ 180
Thời gian thở máy (giờ)
24,5 ± 38,5 (n=25)
11,4 ± 11,9 (n=81)
ĐM ngày 1 (mg/dl)
>140
≤ 140
Thời gian thở máy (giờ)
21,3 ± 32,8 (n=42)
10,2 ± 6,6 (n=62)
ĐM ngày 1 (mg/dl)
>180
≤ 180
Thời gian thở máy (giờ)
28,1 ± 29,9 (n=11)
13,1 ± 20,5 (n=93)
0,0046
0,0057
0,016
Bảng 2. Liên quan giữa ĐM và sử dụng vận mạch
30
ĐM sau mổ
> 140
≤ 140
p
Số loại vận mạch
1,1 ± 1,1(n=42)
0,6 ± 0,7 (n=67)
0,0045
Thời gian vận mạch (giờ)
51,7 ± 42,3 (n=21)
39,3 ± 22,8 (n=31)
0,1776
ĐM ngày 1
> 140
≤ 140
Số loại vận mạch
1,0 ± 0,9 (n=47)
0,6 ± 0,8 (n=62)
0,0159
Thời gian vận mạch (giờ)
49,7 ± 41,1 (n=26)
38,8 ± 19,5 (n=26)
0,2275
NGHIÊN CỨU MỐI LIÊN QUAN GIỮA ĐƯỜNG MÁU HẬU PHẪU VÀ MỨC ĐỘ NẶNG… MỔ TIM HỞ
Bảng 3. Liên quan giữa ĐM và thời gian hồi sức
ĐM sau mổ (mg/dl)
>140
≤ 140
p
Thời gian hồi sức (giờ)
77,8 ± 82,2 (n=38)
44,8 ± 29,3 (n=61)
0,0025
ĐM sau mổ (mg/dl)
>180
≤ 180
Thời gian hồi sức (giờ)
80,5 ± 90,7 (n=23)
50,44 ± 41,6
ĐM ngày 1 (mg/dl)
>140
≤ 140
Thời gian hồi sức (giờ)
76,0 ± 74,7 (n=42)
43,8 ± 36,1 (n=57)
ĐM ngày 1 (mg/dl)
>180
≤ 180
Thời gian hồi sức (giờ)
88,0 ± 68,1 (n=12)
53,6 ± 55,6 (n=86)
0,0139
0,0027
0,0026
Ngoài ra chúng tôi cũng phân tích tương quan giữa ĐM sau mổ và ngày 1 với thời gian thở máy, thời gian
hồi sức, số lượng thuốc vận mạch và thời gian vận mạch. Tất cả đều cho thấy có mối tương quan thuận tuy
nhiên mức độ tương quan khá lỏng lẻo với r < 0,3.
IV. BÀN LUẬN
Dân số nghiên cứu
Trong nghiên cứu của chúng tôi, lứa tuổi bệnh
nhân thay đổi trong giới hạn rộng vì khoa Phẫu thuật
Tim Mạch, Bệnh viện Đại Học Y Dược TP HCM có
thể phẫu thuật cả ở trẻ em lẫn người lớn. BMI của
bệnh nhân thấp (16,3 ± 3,5 kg/m2) chứng tỏ phần lớn
bệnh nhân có biểu hiện tình trạng suy dinh dưỡng do
ảnh hưởng của bệnh tim.
Liên quan giữa đường máu và thời gian thở máy
Ngay sau mổ, giá trị ĐM trên 140mg/dl có liên
quan với thời gian thở máy kéo dài hơn một cách có
ý nghĩa thống kê so với nhóm BN có đường máu
thấp hơn mức này. Tương tự, giá trị ĐM >
180mg/dl cũng có khả năng phân biệt nhóm BN thở
máy kéo dài. Bảng 1 cũng cho thấy nhóm BN có
đường máu > 140mg/dl vào ngày hậu phẫu thứ nhất
cũng có thời gian thở máy kéo dài một cách có ý
nghĩa thống kê so với nhóm còn lại.
Liên quan giữa đường máu và thời gian
hồi sức
Tương tự như đối với thời gian thở máy thì
những BN có ĐM > 140mg/dl ngay sau mổ hoặc
vào ngày 1 sau mổ cũng có thời gian hồi sức kéo
dài hơn (lần lượt là 33 giờ và 32 giờ) một cách có ý
nghĩa thống kê so với nhóm BN có đường máu thấp
hơn giá trị này. Những BN có ĐM 180mg/dl ngay
sau mổ và vào ngày hậu phẫu thứ nhất cũng có thời
gian hồi sức kéo dài hơn (lần lượt là 30 giờ và 34,4
giờ) một cách có ý nghĩa thống kê so với những BN
có đường máu thấp hơn mức này. Điều đáng chú ý
là những BN có ĐM > 180mg/dl vào ngày hậu phẫu
thứ nhất sẽ có thời gian hồi sức kéo dài nhất.
Liên quan giữa đường máu và sử dụng thuốc
vận mạch
Mức ĐM > 140mg/dl vào thời điểm ngay sau
mổ và vào ngày thứ nhất cũng thuốc nhóm BN có
số loại thuốc vận mạch được sử dụng nhiều hơn so
với nhóm còn lại. Tuy nhiên mức ĐM 140 mg/dl ở
hai thời điểm trên chưa tiên đoán được thời gian
vận mạch kéo dài.
Funary cho rằng bản thân đái tháo đường không
phải là một yếu tố nguy cơ mà chính tăng ĐM sau mổ
trong ba ngày đầu là yếu tố làm tăng nhiễm trùng,
tăng thời gian hồi sức và tăng tỉ lệ tử vong ở BN bắc
cầu mạch vành [8]. Ghafoori cũng cho thấy tăng ĐM
là yếu tố nguy cơ gây viêm trung thất sau mổ tim ở trẻ
em [9] tuy nhiên số lượng nghiên cứu của chúng tôi
còn ít nên chưa có điều kiện phân tích tác động của
mức ĐH lên tỉ lệ viêm trung thất. Các khuyến cáo
hiện nay khuyên nên giữ mức đường huyết trong
khoảng 140 đến 180mg/dl. Cùng với nghiên cứu hiện
tại, chúng tôi cũng đã có những nghiên cứu bước đầu
về tỉ lệ tăng ĐM cũng như hiệu quả và tính an toàn
của insulin tĩnh mạch trong kiểm soát ĐM. Những kết
quả của nghiên cứu bước đầu này rất khả quan chứng
minh được hiệu quả và tính an toàn của liệu pháp
insulin trong kiểm soát đường huyết hậu phẫu [6,7].
31
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
V. KẾT LUẬN
Đây chỉ là nghiên cứu bước đầu, quy mô nhỏ, đơn
trung tâm do đó không thể tránh khỏi những khiếm
khuyết. Tuy nhiên, với những số liệu thu nhận được
chúng tôi mạnh dạn đi đến kết luận rằng tăng ĐM ở
BN phẫu thuật tim hở có liên quan với thời gian thở
máy và thời gian hồi sức kéo dài cũng như số lượng
thuốc vận mạch sử dụng nhiều hơn. Những BN có
ĐM > 140mg/dl ngay sau mổ và vào ngày thứ nhất sẽ
có thời gian thở máy và hồi sức kéo dài hơn một cách
có ý nghĩa thống kê so với nhóm còn lại. Đặc biệt,
những BN có ĐM > 180mg/dl vào ngày thứ nhất sau
mổ có thời gian hồi sức kéo dài nhất. Tuy nhiên, cần
có những nghiên cứu quy mô hơn ở nhiều trung tâm
và ở các đối tượng BN hồi sức do các nguyên nhân
khác để có thể đưa ra khuyến cáo có sức thuyết phục
về ảnh hưởng của của tăng đường máu cũng như vai
trò của kiểm soát ĐM trong hồi sức.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Treggiari MM, Karir V, Yanez ND et al (2008).
Intensive insulin therapy and mortality in critically
ill
patients.
Critical
Care,
12:R29
(doi:10.1186/cc6807).
2. Chinsky K (2004). The evolving paradigm of
hyperglycemia and critical illness. Chest, 126:
674-676.
3. Capes S, Hunt D, Malmberg K et al (2000).
Stress hyperglycemia and increased risk of death
after myocardial infarction in patients with and
without diabetes: a systematic overview. Lancet,
355: 773-778.
4. Gandhi GY, Nuttall GA, Abel MD et al (2005).
Intraoperative Hyperglycemia and Perioperative
Outcomes in Cardiac Surgery Patients. Mayo Clin
Proc, 80(7):862-866.
5. Finfer S, Delaney A (2008). Tight Glycemic Control
in Critically Ill Adults. JAMA, 300: 963-965.
6. Lê Minh Khôi (2012). Nghiên cứu hiệu quả và tính
an toàn của insulin tĩnh mạch trong điều trị tăng
đường huyết sau phẫu thuật tim. Y học Thành phố
Hồ Chí Minh, Phụ bản của tập 16, số 1: 337-342.
32
7. Nguyễn Thị Băng Sương, Nguyễn Hoàng Định, Lê
Minh Khôi (2012). Nghiên cứu tình trạng tăng
glucose máu trong giai đoạn hậu phẫu ở bệnh nhân
mổ tim hở có hỗ trợ tuần hoàn ngoài cơ thể. Y học
Thành phố Hồ Chí Minh, Phụ bản của tập 16, số 1:
206-211.
8. Furnary AP, Wu Y (2006). Clinical effects of
hyperglycemia in the cardiac surgery population:
the Portland Diabetic Project. Endocr Pract,
3: 22-26.
9. Ghafoori AF, Twite MD, Friesen RH (2008).
Postoperative hyperglycemia is associated with
mediastinitis following pediatric cardiac surgery.
Paediatr Anaesth, 18: 1202-1207.
STUDY ON THE RELATION BETWEEN
POST-OPERATIVE SERUM GLUCOSE LEVELS
AND SEVERITY IN PATIENTS UNDERGOING
OPEN HEART SURGERY
ABSTRACT
Introduction: Hyperglycemia is frequently
encounted in patients undergoing cardiac surgery
with cardiopulmonary bypass support. Post-operative
hyperglycemia is associated with an increased
mortality and morbidity in these patients. Objectives:
To investigate the relationship between post-operative
blood glucose levels and severity in patients
undergoing open heart surgery. Patients and
Methods: All patients undergoing cardiac surgery
with cardiopulmonary bypass were recruited. Blood
glucose levels were determined before, right after
surgery and at 6am every day until discharge from the
intensive care unit. Results: Patients who had blood
glucose above 140mg/dL right after surgery or in the
first post-op day had significantly longer duration of
ventilation and intensive care unit stay al well as
increased number of vasoactive drugs used.
Conclusions: Hyperglycemia was associated with
increased severity in patients undergoing cardiac
surgery with cardiopulmonary bypass support.
Keywords: hyperglycemia, cardiac surgery
NGHIÊN CỨU ÁP DỤNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ TUẦN HOÀN CƠ HỌC TRONG ĐIỀU TRỊ…
PHẪU THUẬT SỬA CHỮA BỆNH EBSTEIN
QUA 6 NĂM TẠI BỆNH VIỆN TIM HÀ NỘI
Nguyễn Sinh Hiền*
Người phản biện: GS, TS. Bùi Đức Phú
TÓM TẮT
Mục đích: Phân tích những đặc điểm kỹ thuật và
kết quả sửa chữa bệnh Ebstein theo phương pháp
Carpentier cải tiến nhằm đưa thất phải và van ba lá về
giải phẫu và chức năng gần như bình thường.
Phương pháp: Từ tháng 8/ 2005 tới 12 /2010
tại Bệnh viện Tim Hà Nội, nhóm nghiên cứu đã tiến
hành phẫu thuật sửa chữa cho 52 bệnh nhân Ebstein
theo phương pháp Carpentier cải tiến. Kĩ thuật sửa
bao gồm: Cắt rời lá sau, lá vách và một phần lá
trước để tăng di động mô van; Khâu hẹp buồng nhĩ
hoá thất phải theo chiều dọc; Khâu thu hẹp vòng
van ba lá; Nâng vị trí bám của van ba lá về mức
bình thường; Đặt vòng van cho bệnh nhân lớn tuổi
(>15 tuổi ); Ngoài ra, đóng thông liên thất, thông
liên nhĩ,lỗ bầu dục và sửa van hai lá… khi có tổn
thương phối hợp.
Kết quả: 52 bệnh nhân với tuổi trung bình phẫu
thuật là 19,68 ± 11,57 (từ 3 đến 49 tuổi). So sánh
trước và sau mổ, mức độ hở van ba lá giảm rõ từ
3,72 ± 0,48 và 1,56 ± 0,48, (p < 0,01 ) và có sự cải
thiện rõ rệt về mặt cơ năng với NYHA trước mổ là
2,53 ± 0,53 sau mổ là 1,14 ± 0,35 (p < 0,01). Không
có bệnh nhân mổ lại. Một bệnh nhân tử vong do mất
máu cấp do nhiễm trùng. Thời gian theo dõi trung
bình 42,42 ± 16.14 tháng (17 - 81 tháng).
Kết luận: Trên cơ sở phương pháp của
Carpentier, kết quả sửa chữa ở 52 bệnh nhân Ebstein
của chúng tôi là rất đáng khích lệ.
Summary
RESULTS OF SURGICAL REPAIR OF
EBSTEIN’S ANOMALY AT HANOI HEART
HOSPITAL
Objectives: We sough to analyze the technical
feature and results of surgical repair of Ebstein’s
Anomaly with modified Carpentier’s technique in
recovering function and anatomy of right ventricle
and tricuspid valve to nearly normal state.
Methods: From August 2005 to December 2010,
at Hanoi Heart Hospital we performed 52 surgical
repairs of Ebstein’s Anomaly with modified
Carpentier’s technique: Detachment of the posterior
and septal leaflet and the adjacent part of the anterior
leaflet to achieve extensive mobilization of the leaflet
tissue; Vertical plication of the atrialized chamber and
right atrium to reconstruct the right ventricle and
reduce the size of the dilated right atrium;
Repositioning of the anterior and posterior leaflets at
the tricuspid annulus to cover the entire orifice area
with leaflet tissue at a normal level; Reinforcement of
the tricuspid annulus with a prosthetic ring in cases
with a very large orifice (Patients over 15 years);
Closure of VSD, ASD, and mitral repair … for the
associated cardiac anomalies.
Results: 52 patients with a mean age of 20 years
(range 3 to 49 years) underwent repair. Comparative
pre and postoperative data showed reduction tricuspid
regurgitation grade from từ 3,72± 0,48 to 1,56± 0,48
(p < 0,01 ) and improvement in the functional class of
heart failure (NYHA) from 2,53 ± 0,53 to 1,14± 0,35
(p < 0,01). No patients required reoperation. One early
death (1,9%) occurred and was caused by sevre
bleeding. The average follow- up is 42,42 months
(range 17 to 81 months).
Conclusion:
Whith
modified
Carpentier
technique, our results of surgical repaire of Ebstein’s
Anomaly in these 52 patients are satisfactory.
MỞ ĐẦU
Bệnh Ebstein hay bất thường Ebstein (Ebstein’s
Anomaly) là bệnh tim bẩm sinh hiếm gặp (khoảng
0,5% tổng số bệnh tim bẩm sinh), đặc trưng bởi tổn
thương của van ba lá và thất phải: lá van ba lá bám
thấp về phía mỏm tim tạo nên buồng nhĩ hoá thất
phải; mô van và tổ chức dưới van biến dạng, van ba
lá thường hở nặng, buồng thất chức năng bị thu hẹp,
buồng nhĩ hoá và nhĩ phải giãn lớn [hình 1]. Nếu
không được điều trị đúng người bệnh có thể gặp các
biến chứng: loạn nhịp, suy tim và tử vong [9,16].
* Bệnh viện Tim Hà Nội.
33
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
Hình 1: Buồng nhĩ hoá thất phải (mũi tên) nằm
giữa chỗ nối nhĩ-thất và vị trí bám thấp của lá vách và
lá sau.
Surgery for congenital heart defects. W.B. Sauders
company 2ed 1994
Khi có chỉ định phẫu thuật, tuỳ theo thể bệnh và
giai đoạn tiến triển mà áp dụng một trong các phương
pháp sau: phẫu thuật sửa chữa, thay van ba lá, phẫu
thuật tạm thời, ghép tim…Phương pháp sửa van là lựa
chọn đầu tiên ở hầu hết các trung tâm phẫu thuật tim
bẩm sinh vì nó giữ lại van cho bệnh nhân. Tuy nhiên,
do sự đa dạng về tổn thương giải phẫu và những khó
khăn trong kĩ thuật sửa chữa loại bệnh lí này nên đã
có rất nhiều phương pháp ra đời. Tại bệnh viện Tim
Hà Nội, qua sáu năm đã có 52 bệnh nhân Ebstein
được phẫu thuật sửa chữa theo phương pháp
Carpentier cải tiến.
Mục đích bài viết này là nêu ra một số kinh
nghiệm trong phẫu thuật bệnh Ebstein qua phân tích
những đặc điểm kỹ thuật và kết quả tại Bệnh viện Tim
Hà Nội.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU:
Đối tượng:
Từ tháng 8/ 2005 tới tháng 12/ 2010, có 52 bệnh
nhân Ebstein được phẫu thuật sửa chữa toàn bộ. Hai
bệnh nhân phẫu thuật tạm thời nối tĩnh mạch chủ trên
với động mạch phổi, một bệnh nhân thay van ba lá
không tính vào mẫu nghiên cứu.
Phương pháp:
Đây là phương pháp nghiên cứu mô tả, hồi cứu.
Các thông số được lấy từ bệnh án với các triệu chứng
lâm sàng: mức độ tím, tình trạng suy tim theo NYHA;
làm điện tim phát hiện các rối loạn về nhịp; chụp Xquang đánh giá chỉ số tim ngực; siêu âm qua thành
ngực xác định tổn thương giải phẫu của van ba lá và
thất phải , chức năng tim, các tổn thương phối hợp…
34
Việc phân chia type trong bệnh Ebstein phụ thuộc
vào mức độ tổn thương trong mổ và dựa trên cách
chia của Carpentier
Phương pháp sửa chữa dựa trên những nguyên tắc
của Carpentier nhưng có một số thay đổi:
Đường mở ngực giữa xương ức. Tuần hoàn ngoài cơ
thể thực hiện qua động mạch chủ và các tĩnh mạch chủ.
Khi tim ngừng đập, một đường mở nhĩ phải song song với
rãnh nhĩ thất cho phép bộc lộ toàn bộ buồng tim phải. Van
ba lá sẽ được đánh giá về mức độ thiểu sản, hệ thống dây
chằng và cột cơ , khả năng di động vv...
+ Dùng kéo cắt một đường cách vòng van 2 mm
để tách toàn bộ chỗ bám lá sau và một phần lá trước ra
khỏi vòng van( hình 2).
+ Khâu thu hẹp buồng nhĩ hoá thất phải theo chiều
dọc bằng chỉ Prolene 5-0, không xuyên thành. Đường
khâu từ dưới, bắt đầu ở chỗ thấp nhất của buồng nhĩ hoá,
đi dần lên trên, tới phần vòng van của lá sau và kéo dài
tới tận thành nhĩ phải. Đường khâu vừa làm hẹp buồng
nhĩ hoá, vừa làm nhỏ vòng van ba lá và nhĩ phải.
+ Khâu lại chỗ bám của lá van ba lá về vị trí bình
thường, nghĩa là vào chỗ nối nhĩ-thất. Khi qua vị trí
gần đường đi của bó His, mũi kim phải đi rất nông và
thấp dưới vị trí bám bình thường của lá vách khoảng 5
mm. Đường khâu chiếm toàn bộ chu vi van ba lá, đây
là điềm cải tiến so với kỹ thuật của Carpentier.
+ Chuyển vị cột cơ nếu cần thiết.
+ Để tránh hẹp van, xác định kích thước vòng van
ba lá theo lý thuyết dựa trên diện tích da (BSA: body
surface area) của bệnh nhân.
+ Thử độ kín của van bằng bơm nước muối sinh lí
vào buồng tim với quả bóng nước( hình 3).
+ Bệnh nhân lớn tuổi nếu còn hở trung tâm cần
đặt vòng van ba lá nhân tạo, trường hợp bệnh nhân
nhỏ hơn cần dùng dải màng tim qua xử lý
Gluteraldehyde làm hẹp và cố định vòng van.
+ Những tổn thương phối hợp được sửa chữa:
đóng thông liên thất, thông liên nhĩ, lỗ bầu dục, sửa
van hai lá, hẹp đường ra thất phải…
Sau mổ, bệnh nhân được khám lâm sàng, xét
nghiêm, siêu âm tim, điện tim và X- quang để so sánh
với trước mổ. Các biến chứng và điều trị được ghi nhận.
Sau khi ra viện, bệnh nhân được tái khám vào tháng thứ
nhất, thứ ba, thứ sáu và mỗi năm sau đó. Tất cả các dữ
kiện được thu nhập theo một mẫu bệnh án chung.
Các phân tích thống kê được thực hiện bởi phần
mềm SPSS 17.0. p < 0,05 được coi là có ý nghĩa
thống kê.
NGHIÊN CỨU ÁP DỤNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ TUẦN HOÀN CƠ HỌC TRONG ĐIỀU TRỊ…
Kỹ thuật sửa chữa:
Hình 2: Cắt rời mô lá van sau và một phần lá van
trước khỏi vòng van
Hình 3: Bơm kiểm tra sau tạo hình, van ba lá kín
KẾT QUẢ
52 bệnh nhân gồm 18 nam ( 34,6%), 34 nữ ( 65,4%). Tuổi trung bình phẫu thuật là 19,68 ± 11,57 (từ 3 tới
49). Các đặc điểm của bệnh nhân được thống kê trong bảng 1 và 2
Bảng 1. Một số đặc điểm của bệnh nhân
Các đặc điểm
Đặc điểm lâm sàng
Tím
Ngất
Hội chứng gắng sức
Phân loại theo Carpentier
A
B
C
D
Tổn thương phối hợp cần sửa chữa
Lỗ bầu dục
Thông liên nhĩ
Thông liên thất
Còn ống động mạch
Hẹp phổi
Kênh nhĩ thất bán phần
Hở van hai lá
Đặc điểm kỹ thuật
Vòng van
Tạo mô van bằng màng tim
Dây chằng nhân tạo
Chuyển vị cột cơ
Phối hợp cầu nối TMC-ĐMP
N (tỷ lệ %)
19 (36,54%)
3 (5,77%)
50 (96,15%)
6 (11,54%)
20 (38,46%)
24 (46,15%)
2 (3,85%)
23 (44,23%)
11 (21,15%)
4 (7,69%)
4 (7,69%)
3 (5,77%)
2 (3,84%)
4 (7,69%)
18 (34,61%)
3 (5,77%)
9 (17.31%)
6 (11,54)
3 (5,77)
35
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
Bảng 2. Một số thông số trước và sau phẫu thuật
Các thông số
Trước phẫu thuật
Sau phẫu thuật 1 tháng
2 (3,84%)
25 (48,08 %)
25 (48,08%)
0 (0%)
27 (51,92%)
25 (48,08%)
0 (0%)
0 (0%)
Điện tim Rung nhĩ
Block nhánh phải
W.P.W
Rối loạn nhịp thất
Block nhĩ thất 3
3 (5,77%)
23 (44,23%)
1 (1,92%)
2 (3,85%)
0 (0%)
1 (1,92%)
19 (36,53%)
0 (0%)
0 (0%)
0 (0%)
Hở ba lá 0- 1/4
2/4
3/4
4/4
0 (0%)
2 (3,85%)
16 (30,77%)
34 (65,38%)
30 (57,70%)
21 (40,38%)
1 (1,92%)
0 (0%)
NYHA
I
II
III
IV
Chú thích: NYHA: phân độ suy tim theo Hội Tim New York; W.P.W: hội chứng Wolf-Parkinson-White.
Trung bình NYHA trước và sau phẫu thuật là
2,53 ± 0,53 và 1,15 ± 0,35, p < 0,01.
Độ hở van ba lá trước và sau phẫu thuật là 3,72 ±
0,48 và 1,56 ± 0,48, p< 0,01.
Thời gian thở máy trung bình là 9,43 ± 9,17 giờ
(1- 39 giờ). Thời gian điều trị sau phẫu thuật trung
bình là 8,18 ± 4,56 ngày (6-17 ngày).
Biến chứng, tử vong:
2 bệnh nhân (3,85%) tràn dịch màng phổi, điều trị
ổn định bằng chọc hút màng phổi nhiều lần trong thời
gian nằm viện.(bệnh nhân có gan to, suy gan trước
mổ). 3 trường hợp (5,77%) có hội chứng cung lượng
tim thấp (các bệnh nhân này có suy tim nặng trước
mổ, trong đó 2 bệnh nhân type D), 1 trong số này phải
mổ lại để làm thêm cầu nối tĩnh mạch chủ trên - động
mạch phổi phải vào ngày thứ hai sau mổ lần một. Một
bệnh nhân bloc nhĩ thất 3, trở về nhịp xoang 24 giờ
sau phẫu thuật. Một bệnh nhân (1,92%) tử vong tại
viện vào ngày thứ 17 sau phẫu thuật do mất máu cấp
bởi bục chỗ khâu vị trí đặt canul động mạch chủ do
nhiễm khuẩn.
Theo dõi xa:
Có 40 bệnh nhân (77%) còn thông tin cho tới thời
điểm hiện tại. Thời gian theo dõi trung bình là 42,42 ±
16.14 tháng (17- 81 tháng). Kết quả khám lâm sàng,
siêu âm và điện tim được thể hiện ở bảng 3.
36
Bảng 3. Kết quả xa
Các thông số
n (tỷ lệ %)
35 (87,5%)
NYHA I
5 (12,5%)
II
0 ( 0%)
III
0 ( 0%)
IV
1 (2,5%)
Điện tim Rung nhĩ
0 ( 0%)
W.P.W
0 ( 0%)
Rối loạn nhịp thất
0 ( 0%)
BAV 3
24 ( 60%)
IT 0- 1/4
13 ( 32%)
2/4
3 ( 7,5%)
3/4
0 ( 0%)
4/4
Cho tới thời điểm hiện tại, cả 40 bệnh nhân này
đều không phải quay lại viện điều trị, mổ lại hay tử
vong ngoại viện.
BÀN LUẬN:
Về chỉ định mổ:
Đa số các tác giả đều thống nhất quan điểm khi
bệnh Ebstein chưa có triệu chứng lâm sàng thì không
nên mổ. Chỉ định mổ được áp dụng cho những trường
hợp sau: khi bệnh nhân tím nhiều, có suy tim ứ huyết
hoặc rối loạn nhịp nặng. Trong mẫu nghiên cứu, 19
bệnh nhân (36,54%) có tím vừa đến nặng, bão hoà
Oxy máu động mạch < 90%, các bệnh nhân còn lại
NGHIÊN CỨU ÁP DỤNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ TUẦN HOÀN CƠ HỌC TRONG ĐIỀU TRỊ…
chỉ định vì có rối loạn nhịp nặng (3 bệnh nhân ngất,
riêng 1 bệnh nhân đã phải đặt máy tạo nhịp) hoặc có
hội chứng gắng sức (96,15%). Một số bệnh nhân (type
A) chỉ định phẫu thuật là vì có các tổn thương phối
hợp với bệnh lý Ebstein (bảng 1). Hai trường hợp type
D vẫn được chỉ định sửa triệt để (+cầu nối tĩnh mạch
chủ trên - động mạch phổi) vì bệnh nhân là trẻ nhỏ
không thể thay van ba lá, mặt khác, với hy vọng sửa
tương dối kín van ba lá sẽ tạo điều kiện cho thất phải
được “tập thể dục” để phục hồi một phần chức năng
co bóp.
Về tổn thương giải phẫu bệnh và kỹ thuật sửa:
Có thể thấy rằng, tổn thương giải phẫu trong bệnh
Ebstein rất đa dạng, mỗi bệnh nhân lại có những đặc
điểm khác nhau đòi hỏi sự linh hoạt về kỹ thuật sửa
chữa cho phù hợp.
Trong mẫu nghiên cứu, type B, C và D chiếm tới
88% các trường hợp (bảng 1). Mô van có lỗ thủng, các
dây chằng thường ngắn đi ra từ một cột cơ phì đại,
duy nhất, tới bám vào bờ lá van trước tạo nên hình
cánh buồm. Trong trường hợp type C, thường có
những bè cơ đi từ thành tự do của phễu thất phải tới
dính vào mặt dưới lá trước gây hạn chế di động rất
nhiều. Nhiều trường hợp hoàn toàn không có lá vách,
thay vào đó là ít tổ chức màng xơ dính sát mỏm tim.
Đặc biệt, trong một số trường hợp, không có mô
van thực sự mà chỉ có một lớp màng chia thất phải
thành hai “cái túi”, hoàn toàn không có dây chằng, cột
cơ. Với bệnh nhân lớn cần thay van ba lá, nhưng với
trường hợp trẻ em, khi buồng thất phải còn nhỏ hoặc
thiểu sản buồng thất phải thì cần dùng dây chằng nhân
tạo và màng tim để tạo hình van ba lá.
Tất cả các kỹ thuật sửa chữa đều có hai điểm
chung: loại trừ buồng nhĩ hoá bằng cách khâu loại trừ
và sửa van ba lá cho kín.
Để làm mất buồng nhĩ hoá, Hunter, Lillehei,
Hardy khâu gấp nếp buồng nhĩ hoá theo bề ngang
Cách khâu này không có tác dụng làm tăng thể tích
buồng thất phải chức năng, nguy cơ làm xoắn vặn một
số nhánh động mạch vành và đặc biêt có tỉ lệ bloc nhĩ
thất cao. Kĩ thuật này chỉ áp dụng cho những trường
hợp mô lá van trước còn tốt (dưới 50% các trường
hợp). [2,4,5,7,8].
Qingyu Wu lại cắt bỏ buồng nhĩ hoá thất phải ở
100% bệnh nhân, sau đó tạo hình van ba lá về hình
dạng như bình thường [19]. Theo thống kê của tác giả,
kết quả sửa là khá tốt. Tuy nhiên, một câu hỏi được
đặt ra là có cần phải cắt bỏ buồng nhĩ hoá không khi
có những phương pháp đơn giản hơn nhiều nhưng vẫn
cho kết quả tương tự.
Ngược lại, Ullmann không thu hẹp buồng nhĩ hoá
vì cho rằng bản thân buồng nhĩ hoá sẽ phục hồi chức
năng sau khi sửa kín van ban lá. Tác giả cắt chỗ bám
của lá vách và lá sau bám thấp rồi khâu về vị trí bình
thường theo kiểu “thất hoá” buồng nhĩ hoá [ 18].
Phương pháp này đòi hỏi tỷ lệ chuyển vị cột cơ khá
lớn, 56.5% trên tổng số 23 bệnh nhân.
Phương pháp Carpentier Khâu thu hẹp buồng nhĩ
hóa theo chiều dọc, khâu lại mô van lá trước và lá sau
van ba lá về vị trí vòng van bình thường (van ba lá trở
thành van 1 hoặc hai lá). Đây là kỹ thuật an toàn và
khá hiệu quả. Nó vừa cho phép thu hẹp buồng nhĩ hoá
thất phải, vừa tăng thể tích buồng thất chức năng,
đồng thời thu hẹp vòng van ba lá làm tăng khả năng
kín van, bởi trên thực tế, vòng van ba lá luôn giãn
rộng trong bệnh lý Ebstein. Những trường hợp di
động lá trước giảm vẫn có thể sửa chữa được. Nguy
cơ xoắn vặn hay tổn thương động mạch vành cũng
như đường dẫn truyền trong tim rất thấp, tỷ lệ sửa
chữa được rất cao, 98% các trường hợp [5,6].
Tuy nhiên, phương pháp của Carpentier do không
khâu lại lá vách nên trong nhiều trường hợp diện áp
của các lá van không tốt, nhất là khi mô van thiếu. Để
khắc phục tình trạng trên, tại Bệnh viện Tim Hà Nội,
nhóm nghiên cứu đã có những thay đổi linh hoạt: tận
dụng tối đa lá vách; mô van ba lá được khâu trên
toàn bộ chu vi vòng van để tăng độ áp giữa các lá
van. Sau này khi tham khảo tài liệu, chúng tôi được
biết Da Silva JP đã mô tả trước đó và gọi là tái tạo
hình nón (Cone Reconstruction) cho van ba lá.
[22,23,24].
Việc sửa van cho kín là quan trọng hơn cả nên nếu
buồng nhĩ hoá nhỏ, chúng tôi không khâu thu hẹp ,
nhất là ở trẻ nhỏ. Trong những trường hợp thiếu mô
van nặng chúng tôi sử dụng màng tim tạo hình lá van
(5,77%), Kỹ thuật này cũng được Carpentier,
Chauvaud, Qingyu Wu và nhiều tác giả khác nhắc tới
[5,19]. Dây chằng nhân tạo (chỉ Gore Tex) được dùng
trong những trường hợp thiếu dây chằng (17,31%).
Những trường hợp người lớn sau sửa van còn hở trung
tâm, chúng tôi dùng vòng van nhân tạo hoặc dải Gore
Tex để thu hẹp vòng van (34,61%)., ở trẻ nhỏ thì thay
thế bằng dải màng tim.
Việc chuyển vị cột cơ cũng được các tác giả đề
cập nhằm làm tăng độ áp của các lá van. Tỷ lệ chuyển
vị cột cơ trong nghiên cứu này là 11,54% (bảng 1).
Đây là kỹ thuật không phức tạp nhưng cũng không
nên lạm dụng vì chưa đánh giá được khả năng nuôi
dưỡng và độ bền của cột cơ được chuyền vị. Chúng
tôi chỉ áp dụng hạn chế cho bệnh nhân người lớn, cột
cơ đã khá to và sau khi đặt vòng van còn hở nhiều.
37
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
3 trường hợp (5,77%) kết hợp làm cầu nối tĩnh
mạch chủ trên- động mạch phổi với sửa chữa triệt để
bệnh Ebstein. Trong đó 2 trường hợp là type D được
làm ngay sau sửa chữa, một trường hợp type C làm
vào ngày thứ hai sau mổ do có hội chứng cung lượng
tim thấp, điều trị trợ tim mạch không có hiệu quả.
Carpentier, Chauvaud cũng cho rằng việc kết hợp giữa
sửa triệt để với cầu nối tĩnh mạch chủ trên-động mạch
phổi đã làm giảm tỷ lệ tử vong những trường hợp
bệnh có tổn thương giải phẫu nặng [5,6,7].
Về kết quả của phẫu thuật:
Sau phẫu thuật, các bệnh nhân có cải thiện rõ rệt
về mặt cơ năng với NYHA trước và sau mổ lần lượt là
2,53 ± 0,53 và 1,15 ± 0,35 , p < 0,01.
Siêu âm cho thấy chức năng tim tốt. Độ hở van ba
lá giảm đáng kể so với trước mổ (3,72 ± 0,48 và
1,56 ± 0,48, p< 0,01). Một bệnh nhân còn hở van
2,5-3/4 nhưng cơ năng có sự cải thiện rõ rệt, bệnh
nhân hết tím, hết gan to sau phẫu thuật.
Kết quả công bố của các trung tâm phẫu thuật tim
trên thế giới không giống nhau và thường rất ít khi
van ba lá được sửa kín một cách hoàn hảo
[1,3,5,9,10,11,14,15,16, 17]. Các tác giả cũng có nhận
xét tương tự khi thấy van ba lá dù chưa hoàn toàn kín
nhưng cơ năng bệnh nhân được cải thiện rõ. Có thể
việc thu hẹp buồng nhĩ hoá thất phải đã giúp giảm
chèn ép lên thất trái, lên phổi giúp cải thiện hoạt động
của tim và hô hấp. Mặt khác, những bệnh nhân tím
nặng trước mổ do luồng thông phải - trái cũng được
cải thiện rất nhiều sau khi đóng lại các luồng thông.
Các bệnh nhân cũng có sự cải thiện về những rối
loạn nhịp. Hai bệnh nhân có loạn nhịp thất, một bệnh
nhân rung nhĩ, một có hội chứng W.P.W đều trở về
nhịp xoang sau mổ. Riêng những bệnh nhân có bloc
nhánh phải là hầu như không thay đổi ( bảng 2).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có một trường
hợp tử vong (1,92%) do nhiễm trùng gây thủng chỗ
đặt canule động mạch chủ vào ngày thứ 17 sau mổ. So
sánh với một số tác giả như Danielson, tỷ lệ tử vong
sớm của sửa van là 6,5%, tử vong muộn là 7,6% với
thời gian theo dõi trung bình là 7,1 năm. Trong nghiên
cứu của Ullmann với 23 bệnh nhân, tử vong sớm
4,4% , mổ lại sớm 12,2% do hở van nặng sau mổ [18].
Trong một công bố của Carpentier và Chauvaud, với
98 bệnh nhân Ebstein được phẫu thuật sửa chữa, tỉ lệ
tử vong sớm là 9%, tỉ lệ mổ lại 8%. Như vậy, kết quả
sửa chữa bệnh Ebstein tại Bệnh viên Tim Hà Nội là
khả quan.
38
Về kết quả xa sau mổ, với 40 bệnh nhân còn thông
tin ở thời điểm hiện tại, không có bệnh nhân mổ lại
hay tử vong ngoại viện, các kết quả được thể hiện
trong bảng 3. Riêng tỷ lệ hở van ba lá 3/4 tăng lên,
gặp ở 1 trường hợp ngay sau mổ đã có hở van 3/4, hai
trường hợp còn lại xảy ra trên bệnh nhân có dùng
màng tim và dây chằng nhân tạo để tạo hình van ba lá.
Có thể qua thời gian, màng tim bị thoái hóa đã làm
tăng độ hở của van.
KẾT LUẬN:
Qua sáu năm, 52 bệnh nhân Ebstein đã được phẫu
thuật sửa chữa tại Bệnh viện Tim Hà Nội, chúng tôi
xin đưa ra một số nhận định sau: chỉ tiến hành phẫu
thuật sửa chữa khi bệnh đã gây trở ngại đến cuộc sống
hàng ngày của bệnh nhân; kỹ thuật cần linh hoạt tùy
theo tổn thương giải phẫu cụ thể nhưng đều dựa trên
phương pháp của Carpentier có cải tiến một số điểm,
đó cũng chính là kỹ thuật tái tạo hình nón theo Da
Silva. Thực tế cho thấy phương pháp này mang lại
hiệu quả tốt và hiện tại là lựa chọn hàng đầu của các
phẫu thuật viên. Khi chức năng co bóp của thất phải
không tốt cần phối hợp cầu nối tĩnh mạch chủ trênđộng mạch phổi để giảm tải cho tim. Phẫu thuật sửa
chữa nên là lựa chọn trước tiên (so với thay van ba lá
hoặc làm cầu nối tĩnh mạch chủ-động mạch phổi đơn
thuần) vì việc đưa cấu trúc tim về bình thường sẽ tạo
điều kiện để thiết lập bền vững. những hoạt động sinh
lý bình thường của tim.
Tài liệu tham khảo:
1. Carpentier.A et al. A new reconstructive operation
for Ebstein’s anomaly of the tricuspid valve. J
Thorac Cardiovasc Surg 1988;96: 92-101
2. Carpentier.A . Malformations of the tricuspid
valve and Ebstein’s anomaly. Surgery for
congenital heart defects . W.B. Sauders company
2ed 1994: 615-622
3. Castaneda, Jonas, Mayer. Ebstein’s Anomaly.
Cardiac Sugery of the Neonate and Infant. W. B.
Sauders company 1994: 273-280
4. Chen JM et al. Early and medium-term results
for repair of Ebstein anomaly. The journal of
Thoracic and Cardiovascular Surgey. 127,
4: 990-1000.
NGHIÊN CỨU ÁP DỤNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ TUẦN HOÀN CƠ HỌC TRONG ĐIỀU TRỊ…
5.
6.
7.
Chauvaud S et Carpentier A. Maladie d’Ebstein
chirurgie conservatrice de la valve trcuspide et du
ventricule droit selon les techniques actuelles.
Encycl Med Chir (Elsevier, Paris ), Techniques
chirugicales. Thorax, 42-841, 1999, 8p.
Chauvaud S, Berrebi A , Carpentier A.
Ebstein’s anomaly: repair based on functional
analysis. Euro Journal of Cardio-thoracic Surg
23 (2003) 525-31
Chauvaud S , Brancaccio G and Carpentier A.
Cardiac Arrythmia in patients Undergoing
Surgical Repair ò Ebstein’s Anomaly
8.
Dearani JA , Danielson GK. Ebstein’s anomaly
of the Tricuspid valve. Pediatric Cardiac
Surgery . Mosby 2003: 524-536.
9.
Dupuis C. Maladie d’Ebstein, anomalie d’Uhl,
Insuffisance tricuspide congenitale et anomalies
voisines. Cardiologie pediatrique . Flammarion
1991: 389-398.
10.
Kirklin, Barratt-Boyes. Ebstein Anomaly .
Cardiac Surgery 3ed . Churchill Livingstone
2003: 1177-1199
11.
Knott-Craig. Christopher J et al. Neonatal
Repair of Ebstein’s Anomaly: Indications
Surgical Technique, and Medium-Term Followup. Ann Thorac Surg 2000; 69:1505-10.
12.
Hancock Friesen. Camille L et al. Posterior
Annular Plication: Tricuspid Valve Repair in
Ebstein’s Anomaly. Ann Thorac Surg 2004; 77:
2167-71.
13.
Mohan Reddy.V et al. Repair of Congenital
Tricuspid Valve Abnormalities With Artificial
Chordae Tendineae. Ann Thorac Surg 1998;
66: 172-6
14.
Marianeschi. SM et al. Alternative Approach to
Repair of Ebstein’s Malformation: Intracardiac
Repair With Ventricular Unloading. Ann Thorac
Surg 1998; 66:1546-50.
15.
Sarris GE , Giannopoulos NM et al. Results of
surgery for Ebstein’s Anomaly: A multicenter
stady from the European Congenital Heart
Surgeons Association. J Thorac Cardiovasc
Surg 2006; 132: 50-57
16.
Susan G. Maclellan- Tobert , Robert T.
Feldt. Ebstein Anomaly of the tricuspid valve.
Pediatric cardiovascular medecine. Churchill
Livingstone 2000: 461-468.
17.
Tanaka Masashi et al. Tricuspid Valve Supraannular Implantation in Adult Patients With
Ebstein’s Anomaly. Ann Thorac Surg
2001;71:582-6
18.
Ullmann. MV et al. Ventricularization of the
Atrialized Chamber: A Concept of Ebstein’s
Anomaly Repair. Ann Thorac Surg
2004;78:918-25.
19.
Wu Qingyu et al. A New Procedure for
Ebstein’s Anomaly. Ann Thorac Surg 2004;
77:470-6.
20.
Nguyễn Sinh Hiền, Nguyễn Văn Mão và cộng
sự. Kết quả bước đầu của phẫu thuật sửa chữa
bệnh Ebstein tại Bệnh Viện Tim Hà Nội. Tạp
chí Tim mạch học Việt Nam 2005; 42: 21- 29.
21.
Nguyễn Sinh Hiền, Nguyễn Văn Mão và cộng
sự. Kết quả ứng dụng phương pháp
Carpentier trong phẫu thuật sửa chữa bệnh
Ebstein tại Bệnh Viện Tim Hà Nội. Tạp chí Y
học Việt nam 11-2006; 328:26-34.
22.
Silva JP, Baumgratz JF, Fonseca L, Afiune
JY, Franchi SM, Lopes LM, et al. Anomalia
de Ebstein: resultados com a reconstrução
cônica da valva tricúspide. Arq Bras Cardiol.
2004;82(3):212-6.
23.
Silva JP, Baumgratz JF, da Fonseca L,
Franchi SM, Lopes LM, Tavares GM, et al.
The cone reconstruction of the tricuspid valve
in Ebstein's anomaly. The operation: early
and midterm results. J Thorac Cardiovasc
Surg. 2007;133(1):215-23.
24.
Dearani J, Bacha E, da Silva JP. Cone
reconstruction of the tricuspid valve for Ebstein's
anomaly: anatomic repair. Oper Tech Thorac
Cardiovasc Surg. 2008;13(1):109-25.
39
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
NGHIÊN CỨU ÁP DỤNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ TUẦN HOÀN CƠ HỌC
TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN SUY TIM GIAI ĐOẠN CUỐI
TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG HUẾ
Đoàn Đức Hoằng, Trương Tuấn Anh, Lê Nhật Anh, Bùi Đức Phú
Nguyễn Thị Bạch Yến, Phạm Văn Huệ, Đặng Thế Uyên,
Phan Tái Nhân, Đỗ Đình Sơn, Đặng Quốc Kha *
Người phản biện: PGS, TS. Đặng Ngọc Hùng
Mở đầu
Trong thập kỷ vừa qua, các kỹ thuật hỗ trợ tuần hoàn cơ học đã được phát triển hoàn chỉnh, mở ra cơ hội cứu
sống các bệnh nhân suy tim giai đoạn cuối. Từ giữa thập niên 90, kỹ thuật hỗ trợ tâm thất để làm cầu nối được xem
là một trong những phương pháp đơn giản mà hiệu quả nhất trong điều trị các bệnh nhân suy tim giai đoạn cuối
chờ ghép tim. Thành công nổi bật được ghi nhận qua đánh giá hiệu quả của hỗ trợ cơ học trong điều trị suy tim
sung huyết (REMATCH) vào năm 1998 [7]. Sau đó, kỹ thuật này liên tục được cải tiến và hoàn chỉnh trong những
năm tiếp theo và đóng vai trò hỗ trợ quan trọng trong phát triển phẫu thuật tim. Mục đích cấy các thiết bị hỗ trợ
tuần hoàn cơ học nhằm 1) Hỗ trợ điều trị tạm thời chờ hồi phục chức năng tim phổi bị tổn thương trước đó; 2) Làm
cầu nối bảo đảm an toàn và hiệu quả đối với bệnh nhân trong thời gian chờ ghép tim, ghép phổi hoặc chờ ghép
khối tim phổi; hoặc 3) Điều trị hỗ trợ vĩnh viễn cho các đối tượng không thể tiến hành ghép tạng được.
Trong những năm gần đây, Trung tâm Tim mạch Huế thực hiện thành công hàng ngàn ca phẫu thuật tim hở
mỗi năm với các đối tượng bệnh lý van tim, bệnh mạch vành, bệnh tim bẩm sinh phức tạp. Một số các trường
hợp nặng đã được cứu sống nhờ áp dụng thành công hỗ trợ cơ học chức năng tuần hoàn tạm thời để chờ hồi
phục cơ tim sau các sữa chữa tổn thương bệnh lý. Ngoài ra, phát triển kỹ thuật hỗ trợ tuần hoàn cơ học mở ra cơ
hội trong điều trị cho các đối tượng suy tim giai đoạn cuối đang chiếm một tỷ lệ đáng kể trong cộng đồng, cũng
như góp phần triển khai thành công trong phẫu thuật ghép tim vừa qua tại Bệnh viện Trung ương Huế.
STUDY OF APPLICATION OF MECHANICAL CIRCULATORY SUPPORT IN
TREATMENT OF PATIENTS WITH END-STAGE HEART FAILURE
Doan Duc Hoang*, Truong Tuan Anh*, Le Nhat Anh*, Bui Duc Phu*,
Nguyen Thi Bach Yen*, Pham Van Hue*, Dang The Uyen*,
Phan Tai Nhan*, Do Dinh Son*, Dang Quoc Kha*.
Background
Over the last decade mechanical circulatory asistance therapy has matured, becoming an increasingly viable
therapy for a wider spectrum of patients with end-stage heart failure. In the mid-90’s the evolution of ventricular
assist devices (VAD) therapy as a Bridge to transplantation was viewed by many as the greatest single advance
in the management of end-stage heart failure with heart transplantation as the definitive therapy. The remarked
success of mechanical circulatory support has been reported in the Randomized Evaluation of Mechanical
Assistance in the Treatment of Congestive Heart Failure (REMATCH) [7] trial in 1998. Target populations for
mechanical circulatory support can be define 1) temporay circulatory assistance therapy for waiting cardiopulmonary function recovery; 2) bridge to cardiac transplantation; or 3) permanent use in non-transplant
candidates.
In Hue Cardiovascular Center, thousands of open heart operation cases have been successfully done
annually for valvular heart disease, coronary artery disease, congenital heart disease. A few of cases must need a
temporary circulatory assistance in order to await the cardiac function recovery after complex anatomical
surgical repairs. Successful implementation of mechanical circulatory support gives a chance of survival for patients
with end-stage heart failure in community, as well as contributes to performe the first successful heart transplant
in Hue central hospital.
*
Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện Trung ương Huế.
40
NGHIÊN CỨU ÁP DỤNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ TUẦN HOÀN CƠ HỌC TRONG ĐIỀU TRỊ…
I. Đặt vấn đề
Bệnh lý tim, phổi giai đoạn cuối hiện đang là một
gánh nặng ngày càng lớn làm gia tăng tỷ lệ mắc bệnh
và tỉ lệ tử vong trong cộng đồng. Trong khi các liệu
pháp điều trị nội khoa chỉ đạt hiệu quả đối với các đối
tượng suy giảm chức năng tim, phổi mức độ nhẹ hoặc
mức độ vừa phải; thì phẫu thuật ghép tim hoặc các
liệu pháp điều trị hỗ trợ cơ học vẫn chưa đáp ứng nhu
cầu cho các bệnh nhân suy tim, phổi mức độ nặng hơn
trên toàn thế giới. Hiện nay, có 5 loại thiết bị hỗ trợ
tâm thất ngoài thiết bị bơm bóng đối xung trong lòng
động mạch chủ (IABP). Tất cả các thiết bị hỗ trợ tâm
thất (VAD) có chung một đặc điểm là đều xảy ra
những sự cố liên quan đến thiết bị, tần suất xảy ra các
sự cố khác nhau tùy loại VAD. Các biến chứng
thường gặp nhất bao gồm chảy máu, nhiễm trùng,
thuyên tắc do huyết khối hoặc thuyên tắc do khí, và
biến chứng do hỏng thiết bị. Các thiết bị hỗ trợ ngoài
cơ thể bao gồm Abiomed BVS 500 và Thoratec, và cả
2 loại này đều có khả năng hỗ trợ cả 2 tâm thất
(BiVAD). Các thiết bị được cấy ghép bên trong cơ thể
bao gồm 3 loại: Novacor N1000PC (World Heart
Corp), HeartMate Pneumatic (Thoratec Corp), và
Vented Electric LVADs (Thoratec Corp). Các thế hệ
sau của loại thiết bị này bao gồm các loại bơm lưu
lượng quanh một trục với dòng chảy không mạch đập;
các loại thết bị hỗ trợ thất trái được cấy ghép bên
trong cơ thể (Arrow LionHeart, WorldHeart Heart
Saver, HeartMate, HeartWare) nhưng nguồn năng
lượng bên ngoài cơ thể được truyền qua da (còn goi là
tim nhân tạo bán phần); và loại tim nhân tạo toàn phần
(CardioWest, ABIOCOR) [7].
Tại Việt Nam, một số nghiên cứu chăm sóc và điều
trị bệnh nhân suy tim giai đoạn cuối chờ ghép tim tại
một số trung tâm lớn cho thấy tỉ lệ tử vong của đối
tượng này là rất lớn cho dù vần điều trị tích cực. Tại
Bệnh viện trung ương Huế tiến hành trong thời gian 2
năm từ 09/2009 đến 09/2011 trên 40 bệnh nhân với
chẩn đoán chủ yếu là bệnh cơ tim giãn 86,87 %, bệnh
tim bẩm sinh 06, 67 %, bệnh van tim 06,67%. Các bệnh
nhân chủ yếu bị suy tim ở giai đoạn NYHA III 53,33%
và NYHA IV 26,67%. Phân suất tống máu trung bình
rất thấp và đều dưới 30%. Phân độ tình trạng cấp cứu
các bệnh nhân chờ ghép tim phải nằm điều trị cấp cứu
33,33%. Các bệnh nhân này có tỷ lệ tử vong hàng năm
lên đến 30 – 40% [2]. Một số các nghiên cứu tương tự
tại các trung tâm tim mạch có thực hiện ghép tạng lớn
khác như Học viện Quân y, Bệnh viện Việt Đức cũng
cho thấy kết quả tương tự. Tỉ lệ tử vong của các bệnh
nhân chờ ghép tim hằng năm lên đến 40% mặc dù tiến
hành liệu pháp điều trị nội khoa tích cực (tỉ lệ này ở các
trung tâm lớn trên thế giới cũng trên 20% [5]; còn tỉ lệ
tử vong ở các bệnh nhân suy tim NYHA-IV nếu không
được thực hiện kỹ thuật hỗ trợ tuần hoàn cơ học lên đến
60 – 94% [6]). Ứng dụng thành công đầu tiên kỹ thuật
hỗ trợ tuần hoàn cơ học ECMO tại Việt Nam vào tháng
03 năm 2009 cho bệnh nhi sau phẫu thuật sữa chữa triệt
để chuyển vị đại động mạch tại Bệnh viện Trung ương
Huế. Ngoài ra, kỹ thuật bơm bóng đối xung trong lòng
động mạch chủ cũng đã được phát triển và tỏ ra hỗ trợ
đặc biệt hiệu quả cho các bệnh nhân suy giảm chức
năng vành nặng, nhồi máu cơ tim cấp không đáp ứng
với các phương thức điều trị thường qui trước đây.
Nhằm nâng cao chất lượng điều trị và làm tăng
khả năng sống còn cho các bệnh nhân suy tim giai
đoạn cuối vốn có tỉ lệ tử vong còn rất cao, không còn
đáp ứng với phương thức điều trị trước đây, chúng tôi
triển khai nghiên cứu bước đầu áp dụng 2 kỹ thuật hỗ
trợ tuần hoàn cơ học bơm bóng đối xung trong động
mạch chủ (IABP) và oxy hóa qua màng ngoài cơ thể
(ECMO), cũng như làm nền tảng bước đầu để phát
triển hoàn chỉnh hơn công nghệ tim phổi nhân tạo
trong nước.
II. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu trên 20 bệnh nhân suy giảm
chức năng tim và/hoặc phổi cấp tính hoặc mạn tính và
không đáp ứng với phương thức điều trị thường qui từ
03/2010 – 03/2012 tại Bệnh viện Trung ương Huế.
Các bệnh nhân này được chọn lựa để hỗ trợ tuần hoàn
cơ học theo các tiêu chuẩn sau:
1. Tiêu chuẩn để hỗ trợ ECMO: chỉ định ECMO
phải dựa vào những tiêu chuẩn [1] nhằm đánh giá
người bệnh đã thất bại với các phương thức điều trị
thường qui ngay ở thời điểm sớm nhất mới đem lại
hiệu quả cao. Các chỉ định bao gồm:
- Chỉ số oxy hóa OI>40 (đo khí máu ít nhất 2 lần);
OI=(MAP x FiO2 x100)/PaO2
- PaO2<40mmHg trong 4 giờ liền khi thở máy với
FiO2=100%
- Toan chuyển hóa khó điều trị
- Choáng khó điều trị
- Suy giảm chức năng tim và/hoặc phổi tiến triển,
khó điều trị
- Không thể cai tuần hoàn ngoài cơ thể trong phẫu
thuật tim
- Bệnh nhân suy tim giai đoạn cuối chờ ghép
- Nhiễm trùng nặng khó điều trị
41
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
2. Tiêu chuẩn để hỗ trợ IABP [3]: chia làm 4
nhóm bệnh nhân chính
-
-
-
•
Nhóm được chỉ định IABP dự phòng vì có
nguy cơ hội chứng vành cấp
Nhóm bệnh nhân giảm lưu lượng tim từ trước
phẫu thuật gây hội chứng vành cấp và/hoặc
giảm lưu lượng tim
Nhóm được chỉ định IABP ngay trong mổ do
hội chứng vành cấp và/hoặc giảm lưu lượng
tim do phẫu thuật gây ra
Nhóm được chỉ định IABP sau mổ do hội
chứng vành cấp và/hoặc giảm lưu lượng tim
trong giai đoạn hồi sức
III. Kết quả nghiên cứu
1. Đặc điểm chung (bảng 1)
Đặc điểm
Nhóm tuổi
N
%
Trẻ em
15
75
Người lớn
5
25
Cấp cứu
19
95
Dự phòng
1
5
Nhận xét: đa số các trường hợp tiến hành trong
bối cảnh cấp cứu, thường gặp nhất sau các các cuộc
phẫu thuật tim bẩm sinh phức tạp ở trẻ em
2. Yếu tố nguy cơ (biểu đồ 1)
Hội chứng vành cấp chẩn đoán dựa vào các
nhóm bệnh liên quan đến tình trạng thiếu máu
cơ tim gồm đau thắt ngực không ổn định; nhồi
máu cơ tim cấp không có ST chênh lên; và
nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên [4]
•
Hội chứng giảm lưu lượng tim dựa vào các
biểu hiện lâm sàng lú lẫn, hôn mê, tử chi lạnh
và các dấu hiệu tưới máu ngoại vi kém, huyết
áp tâm thu <90mmHg, thiểu niệu hoặc vô
niệu, cung lượng tim <3,0 lít/phút [10]
3. Tiêu chuẩn loại trừ
- Xuất huyết nội sọ ồ ạt, nặng nề
- Các khuyết tật không thể sửa chữa được
- Tổn thương thần kinh nặng, không hồi phục
- Bệnh lý đông máu không thể kiểm soát được
- Các hội chứng bệnh lý với tiên lượng xấu
4. Đánh giá bệnh nhân trước thực hiện kỹ thuật
Các xét nghiệm cần làm khẩn cấp trước khi tiến
hành ECMO: x-quang tim phổi, pH máu và khí máu
động mạch. Ngoài ra, nếu được cần khám xét thêm:
- Khám thực thể với thăm khám cơ quan thần kinh
cẩn thận
- Xét nghiệm huyết học với công thức máu, số
lượng tiểu cầu
- Xét nghiệm chức năng đông máu: tỉ
prothrombin, aPTT, fibrinogen
- Xét nghiệm sinh hóa: điện giải đồ, Ca, BUN,
Creatinine
- Siêu âm Doppler xuyên sọ
- Siêu âm tim và Doppler các mạch máu lớn
- Nếu bệnh nhân là người khuyết tật cần có thăm
khám về di truyền học
42
Nhận xét: tại trung tâm tim mạch Huế áp dụng hỗ
trợ cơ học chủ yếu sau phẫu thuật tim, chưa triển khai
nhiều ở bệnh nhân suy tim mạn để làm cầu nối chờ
ghép tim
3. Phân bố theo chẩn đoán (biểu đồ 2)
4. Phân bố theo chỉ định (bảng 2)
Các chỉ định
Giảm lưu lượng do đợt nặng lên của
suy tim mạn tính
Sốc tim sau nhồi máu cơ tim cấp
Hội chứng vành cấp do phẫu thuật
Dự phòng hội chứng vành cấp
Loạn nhịp tim không kiểm soát được
Suy tuần hoàn sau phẫu thuật tim
n
2
%
10
1
1
1
3
12
5
5
5
15
60
NGHIÊN CỨU ÁP DỤNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ TUẦN HOÀN CƠ HỌC TRONG ĐIỀU TRỊ…
5. Phân bố kỹ thuật hỗ trợ và kết quả đặc hiệu của mỗi loại hỗ trợ cơ học (bảng 3)
Loại thiết bị
Chỉ định
Kiểu hỗ trợ
Thời gian hỗ trợ
Vị trí đặt cannula
Kháng đông
Điều kiện người bệnh
Giá thành
ECMO
Đặc điểm
%
N/A
75
V-A, V-V
75
114 ± 16 h
Trung tâm
35
Ngoại vi
65
ACT = 160 – 180”
Thở máy, an thần ± dãn cơ
+++++
IABP
Đặc điểm
%
Hc vành cấp
20
Hỗ trợ vành
25
148 ± 26 h
Catheter bóng động mạch đùi
ACT = 60 – 80”
Mức độ nhẹ hơn
++
Nhận xét: Tỉ lệ sử dụng kỹ thuật ECMO nhiều với hiệu quả cao, đặc biệt đối với trẻ em. Kỹ thuật ECMO phức
tạp, tốn kém và nguy cơ nhiều hơn gấp nhiều lần so với IABP đòi hỏi điều kiện người bệnh nghiêm ngặt hơn.
6. Tỉ lệ sống còn (bảng 4)
Kỹ thuật hỗ trợ
ECMO
IABP
ECMO + IABP
Tổng
Sống sau kỹ thuật
n
%
9/15
60
¾
75
0/1
0
Tổng
12/20
66%
Sống sau > 3 tháng
n
%
8/15
53,33
3/4
75
0/1
0
11/20
55%
Nhận xét: tỉ lệ sống còn tuy không cao nhưng rất hiệu quả trên những bệnh nhân đứng trước nguy cơ. Có sự
khác biệt giữa tỉ lệ thành công kỹ thuật (sống sau kỹ thuật) với tỉ lệ sống còn của người bệnh.
7. Tỉ lệ biến chứng (bảng 5)
Biến chứng lâm sàng
Co giật não
Co giật não muộn và kéo dài
Lo lắng, bất an (Tremor)
Chết não
Nhiễm trùng huyết (cấy máu dương tính)
Suy thận cấp
Xuất huyết não
Chảy máu ngoại khoa
Ngừng tim và phải hồi sức tim phổi
Loạn nhịp
Tràn khí màng phổi phải dẫn lưu
Biến chứng cơ học
Thay thiết bị VTTH do quá thời hạn sử dụng
Hỏng thiết bị vật tư tiêu hao
Do kỹ thuật thiết lập thiết bị hỗ trợ
11 sống còn
1
1
2
1
0
ECMO
0
0
3
9 tử vong
1
1
1
2
2 (1)
2 (1)
2
1
IABP
0
0
0
Nhận xét: Một số biến chứng không xử trí được là nguyên nhân dẫn đến tử vong (01 nhiễm trùng huyết, 01
chày máu vỡ thất, 01 sau hồi sức ngừng tuần hoàn thời gian dài). Biến chứng cơ học hầu như không đáng kể.
43
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
IV. Bàn luận
Kỹ thuật hỗ trợ tuần hoàn ECMO và IABP thường
được tiến hành trong bối cảnh bệnh cấp cứu và rất
nặng (chiếm 95% trong nghiên cứu) nhưng vẫn phải
đảm bảo qui trình (ở phòng hồi sức hoặc phòng mổ đủ
tiêu chuẩn và đảm bảo vô khuẩn ngoại khoa). Chỉ 1
trường hợp (5%) chỉ định hỗ trợ dự phòng với tiên
lượng trước mổ quá nặng. Tỷ lệ này còn quá thấp so
với một số kết quả khác như trong một nghiên cứu của
nhóm tác giả thuốc CHU Rennes (18%) [3]. Một phần
do chưa thật sự tuân thủ chỉ định kỹ thuật, đặc biệt
còn cân nhắc trong điều kiện kính tế còn hạn hẹp để
thực hiện một kỹ thuật mới có giá thành khá lớn.
Chúng tôi dựa vào yếu tố nguy cơ để tiên lượng
bệnh cũng như tiên lượng thực hiện hỗ trợ tuần hoàn
cơ học cho người bệnh. 50% các trường hợp thực hiện
những cuộc phẫu thuật phức tạp là nguy cơ tổn thương
chức năng tim rất lớn cần được hỗ trợ huyết động
trong thời gian chờ phục hồi chức năng tim. Tiếp đến,
suy thận là một nguy cơ chiếm 25% các trường hợp.
Suy thận chức năng sau phẫu thuật tim thường do
giảm lưu lượng tuần hoàn. Nếu tiến hành hỗ trợ cơ
học đúng thời điểm thường có tiên lượng tốt và giảm
chi phí điều trị rất đáng kể. Hai yếu tố nguy cơ mà
chúng ta chưa thật sự đáp ứng được đó là nguy cơ thở
máy dài ngày (15%) và hỗ trợ trên bệnh nhân suy tim
mạn tính (10%) chủ yếu do điều kiện kinh tế còn hạn
chế (giá thành thực thiện ECMO cao hơn IABP gấp
nhiều lần). Cần phải chỉ định hỗ trợ oxy hóa qua màng
ngoài cơ thể ECMO đặc biệt trên bệnh nhân có thời
gian thở máy dài ngày thường có bối cảnh phụ thuộc
huyết động và nhiễm trùng phổi đa kháng. Những
trường hợp này đặc biệt hiệu quả với tỉ lệ thành công
>80% [8] và do đó góp phần cải thiện chất lượng điều
trị và giảm chi phí điều trị. Tỷ lệ hỗ trợ tâm thất
(VAD) trong một số nghiên cứu chiếm đa số (50 –
70%) trong tất cả các loại hỗ trợ cơ học [7]. Nghiên
cứu của chúng tôi chỉ triển khai trong bối cảnh đợt suy
tim cấp sau phẫu thuật tim cho những bệnh nhân suy
tim mạn. Hơn nữa, kỹ thuật của chúng tôi mới bước
đầu triển khai (ECMO) còn quá đơn giản, chưa thật sự
hiểu quả vì còn quá nhiều tác dụng phụ nguy hiểm so
với những loại thiết bị hỗ trợ tâm thất khác như
Abiomed, Thoratec (hỗ trợ mạch đập), hoặc Novacor,
44
HeartMate, HeartWare (hỗ trợ dòng liên tục thế hệ III)
là những thiết biệt được chỉ định với mục đích hỗ trợ
chờ hồi phục sau mổ tim hoặc mục đích cầu nối chờ
ghép hay mục đích tim nhân tạo vĩnh viễn.
Phân bố về chỉ định hỗ trợ tuần hoàn cơ học
trong nghiên cứu phần lớn là sau những trường hợp
phẫu thuật tim mà chủ yếu là thực hiện kỹ thuật
ECMO sau phẫu thuật tim bẩm sinh phức tạp ở trẻ
nhỏ (bảng 1). Kết quả này rất phù hợp với nguyên lý
ứng dụng của kỹ thuật ECMO [9]. Ứng dụng kỹ
thuật ECMO trong mục đích hỗ trợ tuần hoàn, đặc
biệt trong hỗ trợ hô hấp để cấp cứu cho các bệnh
nhân suy giảm chức năng tim và/hoặc phổi đã trơ với
các phương thức điều trị hồi sức thường qui thu được
kết quả rất có ý nghĩa (bảng 4). Tuy nhiên kết quả về
các thông số đặc hiệu cho từng loại kỹ thuật hỗ trợ
cơ học (bảng 3) cho thấy kỹ thuật IABP đơn giản
hơn nhưng vẫn rất hữu hiệu trong mục đích hỗ trợ
tưới máu vành so với kỹ thuật ECMO phức tạp hơn
rất nhiều mà nguy cơ tai biến do kỹ thuật cũng rất
lớn. Vấn đề chúng ta cần nắm vững để chọn lựa loại
thiết bị phù hợp, cập nhật tốt các chức năng đặc hiệu
và nhất là phải chỉ định vào đúng thời điểm hỗ trợ
mới thu được hiêu quả cao.
Hiệu quả thực hiện kỹ thuật hỗ trợ tuần hoàn cơ
học phụ thuộc rất nhiều vào tiêu chí chọn bệnh và sự
sẵn sàng cũng như tính chuyên nghiệp kíp thực hiện,
đặc biệt trong mục đích hạn chế các biến chứng luôn
tiềm ẩn khi tiến hành trên những bệnh nhân nặng nề
có tiên lượng tỉ vong đến hơn 80%. Kết quả sống còn
(bảng 4) chứng tỏ hiệu quả có tính quyết định của kỹ
thuật đối với những bệnh nhân hầu như đã hết hy
vọng với những phương thức điều trị trước đây. Nếu
tổ chức hợp lý, đây là phương tiện giúp hỗ trợ các
bệnh nhân trụy tuần hoàn và tạo ra cơ hội cứu sống
người bệnh.
V. Kết luận
Triển khai thành công kỹ thuật hỗ trợ tuần hoàn
cơ học mở ra cơ hội cứu sống cho các bệnh nhân với
bệnh lý tim mạch nặng nề và phức tạp hơn mà trước
đây các phương pháp điều trị nội và ngoại khoa cổ
điển không cứu chữa được. Sự phát triển của kỹ thuật
này có tác động hỗ trợ trở lại để phát triển phẫu thuật
NGHIÊN CỨU ÁP DỤNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ TUẦN HOÀN CƠ HỌC TRONG ĐIỀU TRỊ…
tim vì mở rộng hơn cho các chỉ định điều trị các bệnh
lý tim mạch mà trước đây chúng ta cho là quá khả
năng cứu chữa vì thiếu phương tiện hồi sức hỗ trợ cho
các bệnh nhân chịu dựng cuộc phẫu thuật nặng nề.
Nghiên cứu này còn là nền tảng để tạo đà phát
triển hơn nữa những kỹ thuật hỗ trợ tuần hoàn cơ học
với những thiết bị thuộc thế hệ mới hơn, có tính năng
chuyên dụng hơn, hiệu quả hơn, góp phần phát triển
hoàn thiện kỹ thuật công nghệ tim phổi nhân tạo trong
nước nhằm mở rộng hơn nữa khả năng cứu chữa
người bệnh, nhất là cho đối tượng bệnh tim phổi giai
đoạn cuối vốn đã trơ với phương thức điều trị cũ và
làm cầu nối cứu cánh tạm thời để thực hiện ghép tim
hoặc thay tim nhân tao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.
Bartlett RH, Roloff DW, Custer JR, Younger JG, Hirschl RB: Extracorporeal Life Support: The University
of Michigan Experience. JAMA 283(7):904-8, 2010.
2.
Bùi Đức Phú và Cộng sự, “Nghiên cứu triển khai ghép tim trên người lấy từ người cho chết não”, Báo cáo
kết quả đề tài nghiên cứu khoa hoc cấp nhà nước 03 - 2011.
3.
Chistian F., Awad SS, Kolla S, Annich G, Reickert CA, Schreiner RJ, Hirschl RB, Bartlett, RH: Contre
pulsion par ballon intra-aortique. J Crit Care 13:26-36, 2009.
4.
Christian W. Hamm, Stephan Agewanll, Jeroen Bax, Eric Boersma, Kurt Huber. ESC guidelines for the
management of acute coronary syndromes (ACS) in patients presenting without persistent ST-segment
elecation of the European Society of Cardiology (ESC). The European Society of Cardiology 2011
5.
Cohn JN et al: Effect of vasodilator therapy on mortality in chronic congestive heart failure. Results of a
Veterans Administration Cooperative Study. N Engl J Med 2009; 314:1547
6.
D. K. C. Cooper, and al., The Present Status of Xenotransplantation and Its Potential Role in the Treatment
of End-Stage Cardiac and Pulmonary Diseases, © 2011 The Journal of Heart and Lung Transplantation.
7.
Lynne Warner Stevenson, MD, FACC, Robert Kormos, MD,. Mechanical Cardiac Support 2000: Current
Applications and Future Trial Design. Conference report 2011.
8.
Shanley CJ, Hirschl RB, Schumacher RE, Overbeck MC, Delosh TN, Chapman RA, Coran AG, Barteltt
RH: Extracorporeal Life Support for Respiratory Failure: 20 Year Experience. Ann Surg 220:269-282,
2010.
9.
Swaniker F, Srinivas K, Moler F, Custer J, Grams R, Bartlett R, Hirschl RB: Extracorporeal life support
(ECLS) outcome for 128 pediatric patients with respiratory failure. J Ped Surg 35:197-202, 2011.
10. Wenneth Dickstein, Panos E. Vardas, Jean-Claude Daubert, John McMuray. An update of the 2008 of ESC
guidelines on device therapy in heart failure. The European Society of Cardiology 2011.
45
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CẮT TUYẾN ỨC ĐIỀU TRỊ BỆNH NHƯỢC CƠ
BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC
Lê Việt Anh, Mai Văn Viện
Người phản biện: GS, TS. Đặng Hanh Đệ
TÓM TẮT
Mục tiêu: xác định các yếu tố có liên quan đến kết quả cắt tuyến ức điều trị bệnh nhược cơ bằng phẫu thuật
nội soi lồng ngực
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 61 bệnh nhân nhược cơ được
phẫu thuật nội soi lồng ngực (PTNSLN) cắt tuyến ức từ tháng 9 - 2008 đến tháng 1 - 2011.
Kết quả: nữ chiếm 62,3%, nam: 37,7%. Tuổi trung bình là 35. Theo dõi sau mổ được 52/61=85,2%. 86,9%
BN dưới 50 tuổi, 13,1% tuổi >50. Kết quả tốt (khỏi và cải thiện) là 86,5%. Kết quả tốt ở tuổi dưới 50 là 86,7% so
với 85,7% tuổi trên 50, ở nữ là 93,8% cao hơn so với nam là 75%, 94,1% ở nhóm tăng sản so với 85,2% ở nhóm u
và 75% ở các nhóm tổn thương khác. Kết quả tốt ở giai đoạn sớm (< 1 năm) là 86,5%, sau 1 năm là 90%
Kết luận: Tuổi, giới, tổn thương mô bệnh học và thời gian theo dõi sau mổ có thể được sử dụng để tiên
lượng kết quả của phẫu thuật nội soi lồng ngực cắt tuyến ức điều trị bệnh nhược cơ
* Từ khóa: Bệnh nhược cơ; Cắt tuyến ức; Phẫu thuật nội soi lồng ngực cắt tuyến ức.
REMARK OF RESULTS OF THORACOSCOPIC THYMECTOMY
FOR MYASTHENIA GRAVIS
SUMMARY
Objectives: To survery some factors influencing results of thoracoscopic thymectomy for myasthenia gravis
Methods: Cross-sectional descriptive study of thoracoscopic thymectomy was carried out on 61 patients with
myasthenia gravis, from 9 - 2008 to 1 - 2011.
Result: females: 62,3%, male: 37,7%. Mean age was 35. Folow up: 52/62=85,2%. 86,9% age <50, 13,1%
age >50. Good results (recover and remission): 86,5%.
For females: age <50: 86,7%, age >50: 85,7%. Females: 93,8%, male: 75%. 94,1% of hyperplasia, 85,2%
of thymoma and 75% of other. <1 years: 86,5%, >1 years: 90%. (Early operative results show an equivalent
effectiveness to the method of transternal thymectomy).
Conclusions: age, sex, histopathology of thymus and folow-up time influencing results of thoracoscopic
thymectomy for myasthenia gravis
* Key words: Myasthenia gravis; Thoracoscopic thymectomy.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Mối liên quan giữa tuyến ức và bệnh nhược cơ đã
được biết đến từ năm 1901, nhưng đến năm 1936 thì
Blalock và cộng sự mới khẳng định đựợc vai trò của
của phẫu thuật cắt tuyến ức trong điều trị bệnh nhược
cơ. Tuy nhiên vào thời kỳ đó vấn đề tự miễn dịch
trong bệnh nhược cơ còn chưa được tìm hiểu một cách
đầy đủ và tỷ lệ tử vong còn rất cao. Với sự ra đời của
máy hô hấp nhân tạo trong hồi sức, cùng với những
tiến bộ trong lĩnh vực sinh lý bệnh và miễn dịch học,
phẫu thuật cắt bỏ tuyến ức được áp dụng ngày càng
nhiều và đóng vai trò quan trọng trong điều trị ngoại
khoa bệnh nhược cơ [4], [5], [8].
Kết quả phẫu thuật cắt bỏ tuyến ức điều trị bệnh
nhược cơ đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước
quan tâm nghiên cứu [8]. Dù còn nhiều bàn cãi nhưng
* Bệnh viện 103- Học viện Quân y.
46
tất cả đều cho thấy sự hiệu quả cao của phẫu thuật cắt
bỏ tuyến ức điều trị bệnh nhược cơ [1], [3], [4], [7].
Gần đây phẫu thuật nội soi lồng ngực hoặc phẫu
thuật lồng ngực có video trợ giúp đã được quan tâm
nghiên cứu [1], [3], [7].. Mặc dù còn mới, nhưng
phương pháp này đã bộc lộ nhiều ưu điểm . Tuy vậy
để đánh giá giá trị của phương pháp này cũng còn
nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm:”xác định các yếu
tố có liên quan với kết quả của phẫu thuật nội soi lồng
ngực cắt tuyến ức điều trị bệnh nhược cơ”
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
+ Đối tượng: Gồm 61 bệnh nhân không phân biệt
tuổi, giới, giai đoạn bệnh, chẩn đoán là nhược cơ và được
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CẮT TUYẾN ỨC ĐIỀU TRỊ BỆNH NHƯỢC CƠ BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI…
cắt tuyến ức, u tuyến ức bằng phẫu thuật nội soi lồng
ngực tại Khoa phẫu thuật lồng ngực - Bệnh viện 103 trong
thời gian từ 9/2008 đến 1/2011.
+ Phương pháp nghiên cứu:
- Tiêu chuẩn chẩn đoán nhược cơ: yếu cơ thay đổi
trong ngày, xuất hiện khi gắng sức, giảm khi nghỉ
ngơi và dùng thuốc kháng men Cholinesterase. Test
Prostigmin dương tính [11], [14], [17]. Test Jolly
dương tính.
- Phân loại tình trạng nhược cơ (Osserman 1979)
[trích từ 11].
- Chỉ định phẫu thuật: Nhược cơ giai đoạn I, IIA,
IIB có hoặc không có u, nhược cơ tái phát sau mổ
đường giữa xương ức và phối hợp với phẫu thuật qua
đường cổ khi u ở cao.
- Quy trình phẫu thuật: tất cả các bệnh nhân được
phẫu thuật bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực theo một
quy trình thống nhất và đã được thông qua bệnh viện.
Phạm vi can thiệp là lấy triệt để tổ chức tuyến ức,
u tuyến ức và tổ chức mỡ trung thất trước.
Tất cả các bệnh phẩm được gửi đến xét nghiệm tại
Bộ môn - Khoa giải phẫu bệnh Bệnh viện 103.
- Đánh giá kết quả: tại các thời điểm: 1 tháng, 3-6
tháng, 1 năm, >1 năm
- Phân loại kết quả sau phẫu thuật thành các mức
độ: khỏi bệnh, cải thiện và không có kết quả. [8].
Cụ thể:
Khỏi bệnh: bệnh nhân khỏi hoàn toàn, không phải
dùng thuốc, sinh hoạt bình thờng, lao động được một
cách hợp lý.
Cải thiện: bệnh nhân còn phải dùng thuốc nhưng
liều nhẹ có tính chất bổ sung cắt quãng khi mệt, sinh
hoạt gần như bình thường, chỉ lao động tự phục vụ
nhẹ nhàng hoặc các biểu hiện lâm sàng giảm hạ cấp
xuống được một, hai giai đoạn.
Không có kết quả: bao gồm những trường hợp tái
phát, vẫn như cũ, nặng lên hoặc tử vong (sau khi ra
viện) .
Để thuận lợi cho việc nghiên cứu, đánh giá mối
liên quan giữa kết quả phẫu thuật với các yếu tố
chúng tôi phân kết quả điều trị ngoại khoa thành hai
nhóm [16].
- Nhóm I - Tốt (gồm các trường hợp khỏi và cải
thiện bệnh).
- Nhóm II - Không tốt (bệnh không thay đổi, nặng
lên, tử vong).
III. KẾT QUẢ
3.1. Kết quả chung: 61 bệnh nhân nhược cơ được
cắt tuyến ức, u tuyến ức bằng phẫu thuật nội soi lồng
ngực, trong đó:
- Nữ chiếm 62,3%, nam 37,7%. 86,9% bệnh nhân
dưới 50 tuổi, 13,1% tuổi >50. Tuổi trung bình là 35
(12-69).
- 4 bệnh nhân nhược cơ nhóm I, nhược cơ nhóm
IIA: 50 và nhược cơ nhóm IIB: 7.
- Tổn thương giải phẫu bệnh: u : 29 (47,5%), tăng
sản: 18 (29,5%) và các dạng tổn thương khác:
14 (23%)
- Tai biến: 03 trường hợp tổn thương mạch máu,
biến chứng suy hô hấp là 9,8%, không có tử vong
trong mổ, có một trường hợp tử vong sau mổ trong
thời gian nằm viện do biến chứng của đái tháo đường,
thời gian mổ trung bình là 70 phút, thời gian năm tại
khoa hồi sức tích cực trong vòng 24 giờ là 86,9%,
trong đó có 14,8% không qua hồi sức.
3.2. Kết quả phẫu thuật: theo dõi sau mổ được 52/61 bệnh nhân = 85,2%, kết quả tốt: 86,5%
3.2.1. Nhóm tuổi và kết quả phẫu thuật
Bảng 1. Liên quan giữa tuổi và kết quả phẫu thuật
Nhóm tuổi
≤ 20
>20- 50
> 50
Số bệnh nhân
Tỷ lệ %
Tốt
9
90,0
Không tốt
1
10,0
Tốt
30
85,7
Không tốt
5
14,3
Tốt
6
85,7
Không tốt
1
14,3
p
< 0,05
Nhận xét: Kết quả phẫu thuật tốt là 45/52 = 86,5% và kết quả phẫu thuật tốt ở nhóm ≤ 20 tuổi là 90% cao
hơn so với nhóm 20-50 và > 50 tuổi. Sự khác nhau này có ý nghĩa thống kê, p < 0,05.
47
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
3.2.2. Giới và kết quả phẫu thuật
Bảng 2. Liên quan giữa giới và kết quả phẫu thuật
Giới tính
Số bệnh nhân
Tỷ lệ %
p
Tốt
15
75,0
Nam
Không tốt
5
25,0
< 0,05
Tốt
30
93,8
Nữ
Không tốt
2
6,2
Nhận xét: Tỷ lệ tốt (khỏi và cải thiện) ở nhóm bệnh nhân nữ cao hơn ở nam giới (93,8% so với 75%).
Sự khác nhau này là có ý nghĩa thống kê, p<0,05.
3.2.3. Tình trạng nhược cơ và kết quả phẫu thuật
Bảng 3. Liên quan giữa tình trạng nhược cơ và kết quả phẫu thuật
Tình trạng nhược cơ
Số bệnh nhân
Tỷ lệ %
p
Tốt
1
100
Nhóm I
Không tốt
0
0
Tốt
39
88,6
Nhóm IIA
> 0,05
Không tốt
5
11,4
Tốt
5
71,4
Nhóm IIB
Không tốt
2
28,6
Nhận xét: Kết quả tốt (khỏi và cải thiện) khác nhau không có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm nhược cơ
trên lâm sàng (p > 0,05).
3.2.4. Mô bệnh học và kết quả phẫu thuật
Bảng 4. Liên quan giữa mô bệnh học và kết quả phẫu thuật
Chẩn đoán GPB
Số bệnh nhân
Tốt
23
U
Không tốt
4
Tốt
16
Tăng sản
Không tốt
1
Tốt
6
Tổn thương khác
Không tốt
2
Tỷ lệ %
85,2
14,8
94,1
5,9
75,0
25,0
p
< 0,05
Nhận xét: Kết quả tốt (khỏi và cải thiện) khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm mô bệnh học của
tuyến ức sau mổ, p < 0,05.
3.2.5. Thời gian theo dõi sau mổ và kết quả phẫu thuật
Bảng 5. Liên quan giữa thời gian theo dõi và kết quả phẫu thuật
Thời gian theo dõi
Số bệnh nhân
Tỷ lệ %
Tốt
47
77,0
1 Tháng
Không tốt
14
23,0
Tốt
50
84,7
3-6 Tháng
Không tốt
9
15,3
Tốt
45
86,5
< 1 Năm
Không tốt
7
13,5
Tốt
36
90,0
> 1 Năm
Không tốt
4
10,0
p
< 0,05
Nhận xét: Kết quả tốt (khỏi và cải thiện) tăng dần theo thời gian theo dõi. Đặc biệt là sau 6 tháng kết
quả tốt tăng dần lên một cách có ý nghĩa.
48
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CẮT TUYẾN ỨC ĐIỀU TRỊ BỆNH NHƯỢC CƠ BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI…
IV. BÀN LUẬN
Tỉ lệ toàn bộ các bệnh nhân có kết quả tốt sau
mổ (khỏi và cải thiện bệnh) là 86,5% trong nghiên
cứu này cũng phù hợp với kết quả của một số công
trình nghiên cứu theo phương pháp mổ mở khác. Như
Mai Văn Viện (2010) [8]: 88,6%, Masaoka (1996)
[16]: 89% ...
Đã có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài
nước khẳng định tuổi là một yếu tố có liên quan đến kết
quả phẫu thuật [8], [16]. Tuổi càng trẻ thì kết quả phẫu
thuật càng tốt. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi qua
bảng 1 cho thấy: kết quả tốt của nhóm bênh nhân ≤ 20
tuổi cao hơn hai nhóm trên 20 tuổi. Bước đầu chúng tôi
nhận thấy rằng yếu tố về phân bố tuổi có thể sử dụng để
định hướng tiên lượng kết quả phẫu thuật tuyến ức. Và
thực tế lâm sàng chúng tôi vẫn nhận thấy đối với bệnh
nhân trẻ tuổi thì mọi vấn đề của phẫu thuật dề dàng và
thuận lợi hơn, kết quả tốt hơn. Các nghiên cứu của các
tác giả khác như: Durelli (1991), Frist (1994) [12],
Masaoka (1996) [16], Mai Văn Viện [8]... cũng cho
những nhận xét tương tự: tình trạng đáp ứng đối với điều
trị và sự hồi phục của bệnh sau các liệu pháp điều trị ở
người trẻ tuổi tốt hơn so với những người lớn tuổi.
Tương đương với kết quả theo phương pháp mổ mở: tốt
ở nhóm > 45 tuổi là 91,7% so với nhóm < 45 tuổi là
70,2% [8]. Mặc dù các tác giả có sự phân chia nhóm tuổi
khác nhau.
Giới tính cũng là một yếu tố được nhắc đến rất
nhiều, và có liên quan đến kết quả phẫu thuật . Các
bệnh nhân nhược cơ là nữ giới thường có đáp ứng tốt
hơn với phẫu thuật [8], [9], [10]. Chúng tôi nhận thấy:
tỷ lệ tốt (khỏi và cải thiện) ở nhóm bệnh nhân nữ cao
hơn ở nam giới (93,8% so với 75%). Điều này cũng
phù hợp với nghiên cứu của các tác giả khác như :
Hatton (1989) với 52 bệnh nhân có 72% bệnh nhân
nhược cơ là nữ giới có đáp ứng tốt, trong khi đó ở
nam chỉ có 47% [13]. Tương tự như vậy là các nghiên
cứu của Frist (1994) [12] trên 46 bệnh nhân với
p=0,0309 [34], của Masaoka qua theo dõi 390 bệnh
nhân nhược cơ được phẫu thuật từ 1962-1994, hay
theo nghiên cứu của Mai Văn Viện (2010) [8]: tốt ở
nhóm bệnh nhân nữ là 93,0%, trong khi đó ở nhóm
bệnh nhân nam là 80,2% [8]. Như vậy thì kết quả của
phẫu thuật nội soi lồng ngực cắt tuyến ức là tương
đương với kết quả theo phương pháp mổ mở.
Khi tìm hiểu sự liên quan giữa tình trạng nhược
cơ và kết quả phẫu thuật chúng tôi nhận thấy rằng:
kết quả tốt ở nhóm I là cao nhất (100%), sau đó là
nhóm IIA (88,6%) và nhóm IIB (71,4%). Tuy
nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05). Như vậy là kết quả phẫu thuật không có
liên quan với tình trạng nhược cơ trên lâm sàng.
Kết quả này cũng phù hợp với nhận định của các
tác giả khác như Mai Văn Viện (2010) [8], Nguyễn
Công Minh [3] và Mack M.J (1996) [15].
Giải phẫu bệnh tuyến ức cũng là yếu tố được
nhiều tác giả quan tâm, với nhiều nhận xét khác nhau,
thậm chí là ngược nhau [3], [5], [13]. Nhìn chung,
chúng tôi nhận thấy kết quả điều trị ngoại khoa có liên
quan đến tổn thương mô bệnh học tuyến ức, với kết
quả tốt cao nhất ở nhóm tăng sản: 94,1%, nhóm u
tuyến ức là 85,2% và các dạng tổn thương khác là
75%. Kết quả này là tương đương với kết quả theo
phương pháp mổ mở với tỉ lệ tốt ở nhóm u là 82,3%
và nhóm tăng sản là 91,7% [8].
Mặc dù số lượng nghiên cứu chưa nhiều và thời
gian theo dõi chưa lâu. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu
ban đầu của chúng tôi cho thấy: kết quả tốt tăng dần
theo thời gian theo dõi (1 tháng: 77%, 3-6 tháng:
84,7%, 1 năm: 86,5%, và >1 năm: 90%). Đặc biệt là
sau 6 tháng kết quả tốt tăng dần lên một cách có ý
nghĩa và cao nhất là ở thời điểm sau 1 năm (90%). Kết
quả này phù hợp với nghiên cứu của nhiều tác giả
khác [8], [11].
V. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu ở 61 cắt tuyến ức điều trị bệnh
nhược cơ bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực cho thấy:
+ PTNSLN cắt tuyến ức có thể tiến hành trên các
bệnh nhân nhược cơ từ nhóm I đến nhóm IIB; có hoặc
không có u tuyến ức; tuổi từ 12 - 69; ở cả 2 giới nam
và nữ.
+ Kết quả tốt khá cao: 86,5%, an toàn, ít biến chứng.
+ Tuổi, giới, loại tổn thương giải phẫu bệnh và
thời gian theo dõi sau mổ là các yếu tố tiên lượng và
có liên quan với kết quả phẫu thuật
+ Kết quả cắt tuyến ức điều trị bệnh nhược cơ
bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực là tương đương với
phương pháp phẫu thuật mở kinh điển
49
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Lê Việt Anh (2011), “Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi lồng ngực cắt tuyến ức điều trị bệnh nhược
cơ”, Luận văn thạc sỹ y hoc. Học Viện Quân Y
2.
Nguyễn Công Minh (2008), “Phẫu thuật nội soi cắt tuyến hung trong điều trị bệnh nhược cơ”. Bệnh học
và điều trị học ngoại khoa - NXB Y học, TP Hồ Chí Minh, tr 91-120.
3.
Nguyễn Công Minh (2011), Những tiến bộ mới trong điều trị bệnh nhược cơ. Nhà xuất bản y học.
4.
Phạm Vinh Quang, Mai Văn Viện (2010), Phẫu thuật cắt tuyến ức điều trị bệnh nhược cơ. Nhà xuất bản
Y học.
5.
Mai Văn Viện, Phạm Vinh Quang, Nguyễn Vượng (2008), “Liên quan giữa đặc điểm mô bệnh học u
tuyến ức và kết quả điều trị ngoại khoa bệnh nhược cơ”, Báo cáo khoa học, Hội thảo hàng năm phòng
chống ung thư thành phố Hồ Chí Minh lần thứ 11, 12/2008 ,Y học thành phố Hồ Chí Minh , Chuyên đề
Ung bướu học, số 4/2008, tr 522-525.
6.
Mai Văn Viện (2010), “Ứng dụng phẫu thuật nội soi lồng ngực cắt bỏ u tuyến ức điều trị bệnh nhược cơ”, Tạp
chí Y học TP HCM, số 4.2010, tr 536-544.
7.
Mai Văn Viện (2010), “Phẫu thuật nội soi lồng ngực cắt tuyến ức điều trị bệnh nhược cơ”, Tạp chí ngoại khoa số
4-5-6.2010, tr 385-392.
8.
Mai Văn Viện (2010), “Đánh giá kết quả cắt tuyến ức điều trị bệnh nhược cơ”, Tạp chí Y học Việt Nam.
Số 2.2010, tr 140-146.
9.
Blossom GB, Ernstoff RM, Howells GA, Bendich PJ (1993), “Thymectomy for Myasthenia Gravis”,
Arch Surg, 128, pp. 855- 862.
10. Budde MJ, Morris DC, Gal AA, Mansour KA, Miller JI (2001), “Predictor of outcome in Thymectomy
for Myasthenia Gravis”, Ann Thorac Surg ,72, pp. 197-202.
11. Drachman DB, Mcintosh KR, Silva S, Kuncl RW, Kahn C (1988), "Strategies for the Treament of
Myasthenia Gravis", Ann NY Acad. Sci, 540, pp. 176-183.
12. Frist W.H, Doehring C.B, Merrill W.H, Stewart J.R, et al (1994), “Thymectomy for the Myasthenia
Gravis Patient: Factors Influencing Outcome”, Ann Thorac Surg, 57, pp. 334-33 8.
13. Hatton P.D, Diehl J.T, Daly B.D.T, Rheinlander H.F, Johnson H, Schrader J.B, Bloom M, Cleveland
R.J, (1989), “Transsternal Radical Thymectomy for Myasthenia Gravis: A 15- Year review” , Ann Thorac
Surg, 47 (6), pp. 839.
14. Kyriakos Anastasiadis, Chandi Ratnatunga (2007), The Thymus Gland Diagnosis and Surgical
Management, Springer-Verlag Berlin Heidelberg, pp. 70-74.
15. Mack M.J, Landreneau R.J, Yim A.P, Hazelrigg S.R, Scruggs G.R. (1996), “Results of video-assisted
thymectomy in patients with myasthenia gravis”, J Thorac Cardiovasc Surgery, 112 (5), pp. 1352-1360.
16. Masaoka A, Yamakawa Y, Niwa H, Fukai I, (1996), “Extended Thymectomy for Myasthenia Gravis
Patients: A 20-Year Review”, Ann Thorac Surg, 62, pp. 853- 859.
17. Goulon C-Goëau, Gajdos P., Goulon M. (1992), "Myasthénie et syndromes myasthéniques", EncyclMéd- Chir (Paris- France), Neurol, 17-172-B-10, 13p.
50
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CẮT TUYẾN ỨC ĐIỀU TRỊ BỆNH NHƯỢC CƠ BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI…
PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC ĐIỀU TRỊ KHỐI U TRUNG THẤT
Huỳnh Quang Khánh*, Vũ Hữu Vĩnh*
Phạm Minh Ánh**
Nguyễn Hoài Nam***
Người phản biện: PGS, TS. Lê Ngọc Thành
MỞ ĐẦU
U trung thất là một khái niệm rất bao quát về các
bệnh ở trung thất, bao gồm tất cả các khối u lành tính
bẩm sinh và mắc phải, các khối u tiên phát và thứ
phát. Trong đó 60% là các u tuyến ức, u thần kinh và
các nang lành tính. 30% là u tế bào lympho, u quái
trung thất, bệnh u hạt(7,9). Trong các phương pháp điều
trị thì cho đến ngày hôm nay phẫu thuật vẫn là
phương pháp điều trị cơ bản và hiệu quả.
Phẫu thuật lồng ngực qua nội soi đã được cả thầy
thuốc và bệnh nhân nhanh chóng chấp nhận hơn một
thập niên qua. Do nó mang lại nhiều lợi ích như giảm
đau sau mổ, sẹo mổ thẫm mỹ, thời gian nằm viện
ngắn, nhanh chóng trả người bệnh trở lại làm việc.
Nhờ những cải tiến về hình ảnh và các dụng cụ phẫu
thuật nội soi ngày càng tốt hơn nên đã tạo ra khả năng
có thể cho phép thực hiện được nhiều loại phẫu thuật
khác nhau trong lồng ngực qua nội soi. Đặc biệt là
phẫu thuật nội soi để điều trị các khối u trung thất.
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN PHẪU THUẬT NỘI
SOI LỒNG NGỰC
Năm 1910, Hans Christian Jacobaeus là người đầu
tiên thực hiện nội soi lồng ngực bằng ống soi cứng tại
bệnh viện Serafimerlasarettet ở Stockholm (Thụy
Điển). Năm 1911, ông đã báo cáo kinh nghiệm của
mình trong nội soi ổ bụng và nội soi lồng ngực.
Tuy nhiên, do những biến chứng nguy hiểm của
nội soi lồng ngực ở thời điểm đó, nên những nhà
phẫu thuật lồng ngực khuyên chỉ nên thực hiện nội soi
lồng ngực bởi những Bác sỹ phẫu thuật.
Cuối thập niên 80, các phương tiện nội soi ổ bụng
bắt đầu phát triển trên cơ sở điều trị các bệnh phụ
khoa. Năm 1989, phẫu thuật nội soi cắt túi mật lần
đầu tiên thực hiện thành công. Từ đó, phẫu thuật nội
soi ổ bụng phát triển mạnh mẽ và lan rộng khắp thế
giới. Điều này đã thúc đẩy các phẫu thuật viên ứng
dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị bệnh lý lồng
ngực thành công.
Năm 1990, thuật ngữ phẫu thuật nội soi lồng ngực
với sự hỗ trợ của hệ thống video (Video-Assisted
thoraic surgery hay VATS) ra đời để phân biệt với
những kỹ thuật nội soi nhìn trực tiếp trước đây. Ngoài
ra từ phẫu thuật nội soi (Thoracoscopic surgery) cũng
nhấn mạnh về khả năng thao tác của phẫu thuật viên
trong việc thực hiện các phẫu thuật trong lồng ngực.
Lúc đầu các phẫu thuật viên lồng ngực áp dụng nội soi
lồng ngực trong chẩn đoán và điều trị một số bệnh
đơn giản và về sau đã triển khai cho một số bệnh phức
tạp hơn như: cắt phổi không điển hình trong nốt đơn
độc phổi, cắt kén khí qua nội soi, cắt thuỳ phổi bằng
phẫu thuật nội soi có hỗ trợ, cắt các u trung thất…
cũng đã được thực hiện thành công…
Hiện nay, phẫu thuật nội soi lồng ngực đã và đang
có những bước phát triển vượt bậc nhờ:
- Sự cải thiện của hệ thống thấu kính nội soi kết
hợp với sự phát triển của hệ thống định hình lập thể và
máy quay camera cực nhỏ vào những năm đầu của
thập niên 1980, cho phép phẫu thuật viên quan sát
toàn cảnh một nửa lồng ngực thay vì xem qua một thị
trường hẹp như trước đây.
- Sự tiến bộ của gây mê hồi sức với hô hấp chọn
lọc một bên phổi tạo điều kiện cho việc thao tác kính
soi và dụng cụ phẫu thuật được dễ dàng hơn.
- Nhiều dụng cụ phẫu thuật chuyên dùng cho phẫu
thuật nội soi lồng ngực được sáng chế, tạo điều kiện
cho phẫu thuật viên có thể thực hiện được nhiều loại
phẫu thuật.
- Phẫu thuật nội soi sử dụng robot là bước tiến
vượt bậc trong thế kỹ mới.
PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC
TRONG ĐIỀU TRỊ U TRUNG THẤT
Nguyên lý và kỹ thuật nội soi lồng ngực [20,29,31]
Khi thao tác trong khoang ổ bụng đòi hỏi có
bơm khí (CO2) để tạo khoảng trống. Nhưng trong
lồng ngực nhờ những cấu trúc khung xương cứng
tạo ra khoảng trống khi phổi xẹp. Thông khí một
bên phổi bên đối diện thực hiện được nhờ ống nội
khí quản hai nòng cho phép phổi xẹp, áp lực âm
trong khoang màng phổi sẽ mất đi ngay khi rạch
vào khoang liên sườn.
* Khoa ngoại Lồng Ngực BV Chợ Rẫy.
** Khoa Ngoại mạch máu BV Chợ Rẫy.
*** Đại học y dược TP Hồ Chí Minh.
51
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
Trong hầu hết các phẫu thuật, bệnh nhân được đặt
tư thế nằm nghiêng và lồng ngực được chuẩn bị như
trường hợp mở ngực. Theo dõi độ bão hòa Oxy trong
máu qua Monitoring. Vị trí khởi đầu rạch da để đặt
camera khoảng 1cm ở trên khoang liên sườn V, hơi
lệch ra sau xuống dưới giúp chúng ta định hướng các
cấu trúc trong khoang lồng ngực. Trong trường hợp có
dày dính màng phổi phải cẩn thận tách bằng ngón tay
trước khi đưa trocart vào.
Tùy thuộc vào loại phẫu thuật có thể chọn thêm
vị trí để rạch thêm 1, 2 hay 3 lỗ để đưa dụng cụ vào
thao tác.
Phẫu thuật nội soi hoàn toàn (Thoracoscopic
surgery): chỉ thực hiện phẫu thuật qua các trocart thao
tác như trocart 10mm, 5mm, 3mm… không mở ngực
nhỏ. Sử dụng các dụng cụ nội soi để bóc tách, cắt u,
lấy u ra ngoài… phương pháp này giúp cho bệnh nhân
không để lại sẹo mổ lớn, ít đau, nhanh chóng hồi
phục… thường áp dụng cho các u có kích thước nhỏ,
u nang…
Phẫu thuật nội soi có hỗ trơ ( VATS): Đối với
những trường hợp qua nội soi đánh giá không thể
thực hiện phẫu thuật với nội soi lồng ngực đơn
thuần. Có thể kết hợp mở ngực nhỏ hỗ trợ để thao tác
bằng dụng cụ phẫu thuật thông thường dưới màn
hình của nội soi. Kích thước đường mổ từ 3 đến 6
cm, thông thường là 5cm. Tuỳ vị trí u mà có thể lựa
chọn mở ngực nhỏ trước, bên hay sau cho thuận tiện
thao tác. Qua những động tác xoay trở lựa chiều
thích hợp chúng tôi có thể lấy khối u có kích thước
khá lớn qua một dụng cụ banh ngực loại nhỏ có bề
ngang 4 cm.
Một số nguyên tắc trong phẫu thuật nội soi:
- Những trocart phụ nên được đặt dưới hướng
nhìn của ống kính soi.
- Các trocart nên đặt cách tổn thương một khoảng
để có khoảng trống thao tác.
- Tránh đặt các dụng cụ quá gần nhau làm cản trở
thao tác lẫn nhau.
- Tránh hình ảnh đối xứng gương do đặt các dụng
cụ và ống kính soi cùng một góc 1800, nghĩa là nguồn
sáng và dụng cụ tiếp cận cùng một hướng.
- Thao tác các dụng cụ và camera nên theo thứ tự
hơn là cùng một lúc. Các dụng cụ chỉ được thao tác
khi nhìn thấy trực tiếp.
52
Chỉ định phẫu thuật nội soi diều trị u trung
thất:
Chỉ định phẫu thuật nội soi phụ thuộc các yếu
tố sau:
- Vị trí u: trung thất trước, giữa, sau
- Kích thước u
- Lọai u: u nang, u đặc, u hổn hợp
- Giải phẫu bệnh u
- Mức độ chèn ép, xâm lấn của u với cấu trúc
xung quanh
Trong phẫu thuật nội soi, kích thước u liên quan
đến: khỏang trống thao tác, khả năng cầm nắm, u cản
trở tầm nhìn của camera và cách lấy u ra khỏi lồng
ngực. Đối với các u nang hay u hỗn hợp lớn, có thể
chọc hút bớt dịch trong u để làm giảm kích thước u.
Hiện nay đã có máy “bào mô” giúp làm nhỏ bệnh
phẩm và lấy bệnh phẩm ra khỏi thành ngực dễ dàng.
Đối với các u đặc có kích thước lớn, sử dụng VATS
với các dụng cụ trong mổ mở sẽ giúp tiếp cận và cắt u
dễ dàng hơn.
U trung thất liên quan mật thiết với các cấu trúc
quan trọng trong trung thất như tim, mạch máu
lớn… nên mức độ xâm lấn, chèn ép của u với các
cấu trúc xung quanh rất quan trọng. Đối với các u
trung thất có xâm lấn hay chèn ép các máu lớn hay
tim thì việc cắt trọn u là không khả thi. Ngày nay
với sự phát triển của các dụng cụ cắt đốt, cầm máu,
khâu cột tự động… đặc biệt là robot thì việc bóc
tách khối u trở nên dễ dàng hơn.
ĐIỀU TRỊ KHỐI U TRUNG THẤT BẰNG
PHẪU THUẬT
Phẫu thuật nội soi hoàn toàn (Thoracoscopic
surgery):
Kỹ thuật mổ: Phẫu thuật u trung thất sau, trung
thất giữa: Bệnh nhân nằm nghiêng, gây mê với ống
nội khí quản hai nòng, thông khí một bên phổi.
- Xẹp bên phổi cần phẫu thuật.
- Đặt trocart 10mm cho camera ở liên sườn V
đường nách giữa quan sát khoang lồng ngực, 1 trocart
5mm ở liên sườn IV đường nách trước cho dụng cụ
phẫu thuật, một trocart 5mm nữa ở liên sườn VI
đường nách sau để đưa thêm dụng cụ để bóc tách gỡ
dính hay đè ép phổi. Tùy theo vị trí của u mà có thể
thay đổi vị trí các lổ vào để dễ tiếp cận và cắt u.
- Nhận diện u trung thất.
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CẮT TUYẾN ỨC ĐIỀU TRỊ BỆNH NHƯỢC CƠ BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI…
- Bóc tách, cắt trọn u: trước tiên, màng phổi thành
xung quanh u 1-2 cm được kẹp bằng grasper và mở ra
bằng que đốt hoặc kéo nội soi. Bóc tách u xung quanh
chu vi cho đến khi chỉ còn bó mạch vào nuôi u. Kẹp 2
đầu bó mạch bằng clip nội soi và cắt đốt bó mạch giữa
2 clip. Sau đó bóc tách mặt sau u, giải phóng u hoàn
toàn khỏi thành ngực sau.
- Lấy u qua lỗ trocart: cho u vào bao bệnh phẩm
để lấy ra khỏi thành ngực qua lỗ trocar, có thể mở
rộng thêm vết mổ để lấy u.
- Kiểm tra, kiểm soát chảy máu và bóp bóng cho
phổi nở.
- Đặt ống dẫn lưu màng phổi qua lỗ đặt camera
Phẫu thuật cắt u tuyến hung, các u trung thất
trước trên:
- Tư thế: bệnh nhân nằm ngửa có độn gối dưới
vai bên phẫu thuật hoặc bệnh nhân nằm ngửa hơi
nghiêng 300 tay giơ lên trên phía đầu.
- Đường vào: chọn đuờng vào tùy theo u tuyến
hung nằm nhiều về bên nào để dễ mổ lấy trọn u.
Trong trường hợp phì đại tuyến hung hay u tuyến
hung nằm ở giữa thì thường chọn bên phải, trường
hợp u lệch bên trái thì thường chọn đường vào bên
trái. Đặt 3 trocart gồm 1 trocart 10mm cho camera ở
khoảng liên sườn IV đường nách giữa hay sau, 1
trocart 5 hay 10mm ở khoảng liên sườn V đường nách
trước, 1 trocart 5mm ở khoảng liên sườn III đường
nách trước hay giữa.
- Kỹ thuật mổ: đốt bóc tách màng phổi trung thất
dọc phía sau xương ức, bóc tách lấy toàn bộ mỡ vùng
trước màng tim và toàn bộ tuyến hung. Mạch máu
nuôi tuyến được kẹp hay đốt cần máu. Chú ý cực trên
của tuyến hung rất gần với tĩnh mạch vô danh, rất dễ
bị tổn thương. Sau mổ có thể đặt dẫn lưu màng phổi
hoặc bóp bóng đuổi khí không cần dẫn lưu màng phổi.
Toàn bộ tổ chức tuyến hung và mô mỡ trước tim được
gửi giải phẫu bệnh.
Phẫu thuật nội soi có hỗ trợ (VATS)
Đối với những trường hợp qua nội soi đánh giá
không thể thực hiện phẫu thuật với nội soi lồng ngực
đơn thuần. có thể kết hợp mở ngực nhỏ hỗ trợ để thao
tác bằng dụng cụ phẫu thuật thông thường dưới màn
hình của nội soi. Kích thước đường mổ từ 3 đến 6 cm,
thông thường là 4-5cm. Tuỳ vị trí u mà có thể lựa
chọn mở ngực nhỏ trước, bên hay sau cho thuận tiện
thao tác. Qua những động tác xoay trở lựa chiều thích
hợp chúng ta có thể lấy khối u có kích thước khá lớn
qua chổ mở ngực nhỏ.
Mở ngực đường bên hay chẻ dọc xương ức:
Đối với các trường hợp phẫu thuật có biến chứng
mà không xử trí được qua nội soi như chảy máu lớn,
tổn thương khí phế quản, thực quản,... hay u xâm lấn
dính vào các cơ quan quan trọng xung quanh như tim,
mạch máu lớn, khí quản, thực quản…
KẾT LUẬN:
Phẫu thuật các u trung thất là phẫu thuật khó, bỡi
sự liên quan mật thiết của u với các cấu trúc quan
trọng trong trung thất như : tim, mạch máu lớn, khí
phế quản… do vậy việc ứng dụng phẫu thuật nội soi
lồng ngực trong điều trị các khối u trung thất là những
tiến bộ vượt bậc trong phẫu thụât lồng ngực nói chung
cũng như trong phẫu thuật nội soi nói riêng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Nguyễn Mậu Anh, Nguyễn Tấn Cường, Minoru Akyyama:”Tài liệu hướng dẫn phẫu thuật nội soi”, Bệnh
Viện Chợ Rẫy, 1999. 6-13.
2.
Trần Ngọc Ẩn: “Bệnh nhược cơ”, Bài giảng bệnh học nội khoa, tập II, NXB Y học , ĐHY Hà Nội, 1998:
321-329.
3.
Đồng Lưu Ba, Hùynh Quang Khánh: “Phẫu thuật nội soi tại khoa ngoại lồng ngực mạch máu bệnh viện
Chợ Rẫy” Y học Việt Nam, số 2/2008: 427-431.
4.
Trần Bình Giang, Tôn Thất Bách: “Biến chứng của phẫu thuật nội soi”. Phẫu thuật nội soi ổ bụng. Nhà
xuất bản y học Hà Nội 2003: 387-406.
5.
Trần Bình Giang, Tôn Thất Bách: “Phẫu thuật nội soi lồng ngực”. Phẫu thuật nội soi ổ bụng. Nhà xuất bản
y học Hà Nội 2003: 373-386.
53
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
6.
Nguyễn Thế Hiệp, Nguyễn Công Minh và Cs: “Phẫu thuật lồng ngực qua nội soi”, Công trình thực hiện tại
Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định, 1999-2000. 1-9.
7.
Nguyễn Đoàn Hồng: “bệnh nhược cơ”, Điều trị học ngoại khoa. ĐHYD TP. HCM
8.
Ngô Quốc Hưng: “Điều trị ngoại khoa u trung thất”. Luận văn tốt nghiệp cao học ngoại lồng ngực 2004.
9.
Nguyễn Công Minh: “U tuyến hung và điều trị ngoại khoa bệnh nhược cơ”, giáo trình hướng dẫn lý thuyết
và lâm sàng đại học và sau đại học. ĐHYD TP. HCM: 1-17.
10. Nguyễn Công Minh, Đồng Lưu Ba, Nguyễn Đức Khuê “Điều Trị Ngoại Khoa Bệnh Nhược Cơ Và Các
Yếu Tố Tiên Lượng Nặng Sau Mổ” - Y học TP Hồ Chí Minh – Tập 7 – Phụ bản số 1 – 2003: 36-45.
11. Huỳnh Quang Khánh, Nguyễn Công Minh, Nguyễn Tấn Cường và cs: “Một số kinh nghiệm bước đầu
trong phẫu thuật nội soi lồng ngực tại khoa ngoại lồng ngực – tim mạch bệnh viện chợ rẫy”, Y học TP. Hồ
Chí Minh, tập 6, phụ bản số 3-2002. 260-264.
12. Huỳnh Quang Khánh: “Ứng dụng nội soi cắt hạch giao cảm ngực điều trị tắc động mạch ngoại biên mạn
tính chi trên”. Luận văn tốt nghiệp bác sĩ nội trú. 2003.
13. Huỳnh Quang Khánh, Nguyễn Công Minh, Hoàng Văn Thiệp và cs: “ Các biến chứng sớm trong phẫu
thuật nội soi lồng ngực”. Hội nghị nội soi và phẫu thuật nội soi. ĐHYD TP. HCM 2004: 418-425.
14. Hùynh Quang Khánh, Nguyễn Công Minh: “vai trò phẫu thuật nội soi lồng ngực trong điều trị u trung thất
nguyên phát” Y học Việt Nam, số 2/2008. 432-442.
15. Nguyễn Sĩ Khánh, Lê Ngọc Thành: “Kết quả điều trị u trung thất bằng phẫu thuật nội soi tại bệnh viện Việt
Đức” Y học Việt Nam số 2/2008. 413-420
16. Văn Tần, Hòang Danh Tấn, Trần Công Quyền: “Phẫu thuật bướu trung thất qua nội soi lồng ngực” Y học
TP Hồ Chí Minh, phụ bản số 4/2008.
17. Alfred Jaretzki Iii, Kenneth M. Steinglass, Joshua R. Sonett: ”Thymectomy in the management of
myasthenia gravis”. Seminars in Neurology, Vol 24, Number 1, 2004.
18. Anthony P.C. Yim; Hui-Ping Liu: “Complications and failures of video-assisted thoracic surgery:
experience from two centers in asia”. Ann Thorac Surg 1996; 61: 538-541.
19. A. Tonker, O Eroglu: “Comparison of early postoperative results of thymectomy: Partial sternotomy vs.
Videothoracoscopy”, Thorac Cardiov Surg 2005: 110-113.
20. Daniel P. Raymond, Thomas M. Daniel: “Mediastinal anatomy and mediastinoscopy”. Sabiston and
spencer surgery of the chest. 7th edition. 2005. Vol I: 657-666.
54
THƯƠNG TỔN TIM TRONG VIÊM NỘI TÂM MẠC NHIỄM KHUẨN VÀ THÁI ĐỘ ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA
THƯƠNG TỔN TIM TRONG VIÊM NỘI TÂM MẠC NHIỄM KHUẨN
VÀ THÁI ĐỘ ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA
Nguyễn Hữu Ước, Phạm Tiến Quân và Cộng sự
Người phản biện: GS, TS. Bùi Đức Phú
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn gây ra
nhiều biến chứng nặng nề, đòi hỏi phải can thiệp ngoại
khoa sớm, nhưng kết quả còn rất hạn chế. Tuy thái độ
điều trị phụ thuộc vào nhiều yếu tố, song việc tìm hiểu
các quan điểm khác nhau là cần thiết để nâng cao hiệu
quả điều trị. Phương pháp: Báo cáo tổng quan dựa
vào y văn và mô tả hồi cứu trên một số bệnh nhân viêm
nội tâm mạc nhiễm khuẩn tại bệnh viện Việt Đức từ 1
/2009 đến 9 /2010. Kết quả: Viêm nội tâm mạc nhiễm
khuẩn chiếm khoảng 3-5 ca / 100.000 người / năm; và
1% / năm sau mổ thay van tim. Tỷ lệ tử vong vẫn rất
cao (20 – 25%). Có nhiều chủng vi khuẩn khác nhau,
hàng đầu là cầu khuẩn gram(+) (thế giới) và liên cầu
(Việt Nam), tỷ lệ cấy máu (-) cao (20 – 60%). Tổn
thương giải phẫu tại tim rất đa dạng. Điều trị ngoại
khoa sau khi kiểm soát được nhiễm khuẩn có kết quả
tốt hơn nhiều (thành công 60 – 80%) so với phẫu thuật
cấp cứu (thất bại > 70%). Cần điều trị kháng sinh đủ
liều sau mổ (6 – 8 tuần). Kết luận: Viêm nội tâm mạc
nhiễm khuẩn vẫn đặt ra rất nhiều thách thức cho điều
trị ngoại khoa, nhất là các thương tổn cần phải mổ
sớm. Bên cạnh phác đồ điều trị chung, cần cân nhắc
từng trường hợp. Nên cố gắng kiểm soát được nhiễm
khuẩn trước mổ.
Từ khóa: Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, nhiễm
trùng sau mổ tim hở, Việt Đức.
Abstract
Background: Infective endocarditis caused many
severe complications that need to be early operated,
but its result is very limited. Although many factors
influence on attitude of surgical treatment,
understanding divers opinions is necessary to improve
the treatment effect. Method: General review from
medical literature and retrospective descriptive
research based on endocarditis patients treated at
Viet Duc hospital from 1 /2009 to 9 /2010. Results:
Infective endocarditis takes about 3-5 cases per
100.000 people per year; and 1% per year after
valvular replacement. Mortality is still high (20-25%).
There are many types of bacteria, most frequence is
coccus gram(+) (world), and treptococcus (Vietnam),
with high negative result of culture (20 – 60%).
Cardiac anatomical lesions is very divers. Surgical
treatment after controlled infection has better (success
60-80%) than urgent operation (fail > 70%). Must
treatment antibiotic with good dose (continuously in
6-8 weeks). Conclusion: Infective endocarditis is
always a difficult challenge with cardiac surgery,
especially with critical lesions. Next to general
guideline, need to calculate for each case. Should try
to control infection before intervention.
Keywords: Infective endocarditis, infection after
opend heart surgery, Viet Duc hospital.
Đặt vấn đề
Trong hơn 10 năm gần đây, chuyên ngành Nội –
Ngoại tim mạch đã có những tiến bộ vượt bậc ở Việt
Nam, song viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn
(VNTMNK) vẫn luôn là một thách thức lớn, đặc biệt
đối với phẫu thuật, đặt ra rất nhiều khó khăn từ điều
trị trước mổ tới phẫu thuật và săn sóc – theo dõi sau
mổ. Tuy có khá nhiều hướng dẫn, phác đồ điều trị trên
thế giới, song việc áp dụng lại phụ thuộc vào điều
kiện của mỗi bệnh viện, vùng, khu vực và quốc gia.
Để đảm bảo tính trọng tâm và khách quan của vấn đề,
chúng tôi chỉ tập trung trao đổỉ trong bài viết này về
một số khía cạnh Ngoại khoa của VNTMNK, và chia
thành 2 mục lớn là: cập nhật thái độ chung trong điều
trị ngoại khoa; kinh nghiệm của bệnh viện Việt Đức
trong xử trí VNTMNK. Mục đích chính nhằm nâng
cao nhận thức và chia sẻ kinh nghiệm trong việc giải
quyết một vấn đề nan giải của thực tiễn.
Phương pháp nghiên cứu
Gồm 2 phương pháp chính là: (1) Báo cáo tổng
quan dựa trên các tài liệu trong và ngoài nước; (2) Mô
tả hồi cứu một số bệnh nhân VNTMNK được điều trị
tại bệnh viện Việt Đức từ tháng 1 năm 2009 tới tháng
9 năm 2010.
* Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức.
55
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
Kết quả và Bàn luận
1. Báo cáo tổng quan về điều trị ngoại khoa
VNTMNK:
1.1. Nghiên cứu nước ngoài: [4], [5], [6], [7], [8]
• Về mặt định nghĩa, viêm nội tâm mạc là nhiễm
trùng màng trong tim, bao gồm cả những van tim. Tỷ lệ
mắc VNTMNK khoảng 3-5 ca/100.000 người/năm.
Tuổi càng cao thì tỷ lệ mắc càng tăng, cụ thể với người
< 50 tuổi - thì tỷ lệ mắc là 3,6 ca/100.000 người/năm;
còn với người > 65 tuổi - là 15 ca /100.000 người/năm.
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong kỹ thuật chẩn đoán và
chiến lược điều trị, nhưng tỷ lệ tử vong chung do
VNTMNK vẫn rất cao, tới 20-25%.
• Đặc điểm về chủng vi khuẩn: chủ yếu bao gồm
các cầu khuẩn gram (+), các vi khuẩn gram (-), nấm
và một số vi sinh vật khác
- Các cầu khuẩn gram (+): Liên cầu viridians là
nguyên nhân gây VNTMNK mắc phải ở cộng đồng
phổ biến nhất. Mặc dù đáp ứng khá tốt với điều trị nội
khoa, nhưng vẫn là nguyên gây chủ yếu gây tổn
thương tim - đòi hỏi phải điều trị ngoại khoa. Liên cầu
tan huyết bêta gồm các cầu khuẩn đường ruột và liên
cầu bovis, thường gây VNTMNK ở những người có
tuổi, đặc biệt là nam giới. Tụ cầu là căn nguyên của
30-40% VNTMNK, trong đó 89-90% do tụ cầu vàng
gây ngưng kết máu. VNTMNK do tụ cầu thường là
cấp tính (còn gọi là “ác tính”) do hay gây tổn thương
những van tim ở bên trái, sự di chuyển của nhiễm
trùng đi nhiều nơi trong cơ thể, gây nhiều biến chứng
như đột quị, tắc mạch hệ thống, nhiễm trùng kéo dài,
áp xe trong tim, suy tim ứ huyết…
- Các vi khuẩn nhóm HACEK gram(-): Bao gồm
Haemophilus,
Actinobacillus,
Cardiobacterium,
Eikenella, Kingella. VNTMNK do những vi khuẩn
trên thường có thời gian ủ bệnh kéo dài, tỷ lệ cấy máu
dương tính thấp, thường gây ra những mảnh sùi lớn và
dễ bong vỡ đưa đến những biến chứng tắc mạch hệ
thống, suy tim… - đòi hỏi phải can thiệp phẫu thuật
sớm.
- Nấm: VNTMNK do nấm thường được phân
thành 3 nhóm - gồm nhóm bệnh nhân nghiên ma túy;
nhóm bệnh nhân sau phẫu thuật tim mạch; và nhóm
bệnh nhân suy giảm miễn dịch, đặc biệt là sau ghép
tạng. Candida albicans là nguyên nhân gây bệnh hay
gặp nhất.
- Các vi khuẩn khác: VNTMNK do Coxiella
burnetii (nguyên nhân của sốt Q). Hay gây tổn thương
van động mạch chủ. Thường tiến triển như bệnh tim
mạn tính, với tiến sử bệnh có sốt giống như nhiễm
Influenza, xảy ra trước đó 6-12 tháng.
56
• Đặc điểm thương tổn trong tim: VNTMNK
thường gây ra những tổn thương trong tim như:
+ Tổn thương dạng sùi ở bề mặt nội tâm mạc, van
tim. Các cục sùi có thể rất di động và bong ra, trôi vào
hệ tuần hoàn động mạch, gây tai biến mạch não hoặc
tắc cấp tính mạch chi, mạch tạng.
+ Áp xe ở trong cơ tim, ở vòng van. Thương tổn
này rất khó xử trí trong phẫu thuật, và hay tái phát gây
biến chứng sau mổ (bong van nhân tạo sau thay van,
bục đường khâu động mạch chủ …).
+ Phình thành tim, vách liên thất. Bản chất tương
tự áp xe trong cơ tim.
+ Đường rò giữa hai buồng tim. Là hậu quả của áp
xe, viêm vách tim gây thủng và tạo lỗ thông giữa các
buồng tim.
+ Thủng lá van: thương tổn sùi trên lá van có thể
tiến triển thành thủng lá van.
+ Đứt dây chằng, rách bờ lá van gây sa và hở
van tim.
• Chiến lược điều trị đối với bệnh nhân có van
tim tự nhiên: Để đạt được kết quả tốt nhất trong điều
trị VNTMNK, đòi hỏi phải chẩn đoán nhanh, phân
loại yếu tố nguy cơ sớm, điều trị kháng sinh thích hợp,
theo dõi sát để phát hiện sớm các biến chứng và xử trí
kịp thời. Phải luôn có sự phối hợp chặt chẽ giữa các
nhà nội tim mạch, chuyên gia về nhiễm trùng và phẫu
thuật viên tim mạch.
- Điều trị nội khoa: Sử dụng kháng sinh đúng sẽ
giúp cải thiện tỷ lệ sống sót tới 70-80% và làm giảm
các biến chứng. Có 3 nguyên tắc điều trị kháng sinh
trong VNTMNK: Thời gian điều trị kháng sinh kéo dài
từ 4-6 tuần và cấy lại máu sau khi bắt đầu dùng mỗi 2448 giờ cho tới khi xác định được vi khuẩn; Sử dụng
kháng sinh đường tĩnh mạch và duy trì đủ nồng độ
thuốc; Nên sự kết hợp kháng sinh, thường là nhóm
beta-lactam với aminoglycoside, và theo dõi sát chức
năng thận. Sử dụng thuốc chống đông hay không và
dùng loại gì (đường uống, tĩnh mạch) vẫn còn nhiều
bàn cãi; đối với VNTMNK ở người mang van tim tự
nhiên thì không cần thiết; còn ở bệnh nhân mang van
nhân tạo, có ý kiến đề xuất ngừng thuốc đường uống để
thay thế bằng heparin đường tĩnh mạch, ý kiến khác lại
khuyên ngừng thuốc đường uống nếu VNTMNK do tụ
cầu hoặc mới bị đột quị, sau 2 tuần điều trị kháng sinh
có thể dùng trở lại; Aspirin không nên sử dụng do làm
tăng nguy cơ biến chứng chảy máu.
THƯƠNG TỔN TIM TRONG VIÊM NỘI TÂM MẠC NHIỄM KHUẨN VÀ THÁI ĐỘ ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA
- Điều trị ngoại khoa: Tùy từng tình huống, chỉ
định can thiệp ngoại khoa trong VNTMNK có thể
được đề xuất ở pha cấp tính (pha nóng hay hoạt động)
hoặc sau khi đã điều trị tiệt căn nhiễm trùng.
Chỉ định phẫu thuật trong pha hoạt động thường
đối với các trường hợp: khả năng khó điều trị hết
nhiễm trùng bằng kháng sinh; có biến chứng nặng
(như hở van tim nặng và cấp tính) hoặc nhiều khả
năng xảy ra biến chứng nặng (như bong cục sùi).
Chỉ định phẫu thuật sau khi đã cơ bản điều trị tiệt
căn nhiễm trùng:
+ Khuyến cáo can thiệp phẫu thuật mức độ I: Suy
tim nặng do biến chứng; Hở van động mạch chủ hoặc
van 2 lá nặng gây tăng áp lực thất trái hoặc nhĩ trái;
VNTMNK do nấm; Chủng vi khuẩn kháng thuốc cao
- cấy máu vẫn dương tính dù đã điều trị khác sinh
thích hợp > 1 tuần; Biến chứng thủng van, đường rò
lớn, áp xe quanh van lớn.
+ Khuyến cáo can thiệp phẫu thuật mức độ IIa:
Biến chứng tắc mạch tái phát với những mảnh sùi tồn
tại dai dẳng mặc dù điều trị kháng sinh thích hợp.
+ Khuyến cáo can thiệp phẫu thuật mức độ IIb:
Mảnh sùi lớn (>10mm), đã có hoặc chưa có có biến
chứng tắc mạch.
- Kết quả: Tỷ lệ tử vong tại bệnh viện của
VNTMNK ở người có van tự nhiên là khoảng 18%, và
trong 6 tháng là 27%. Những yếu tố: tuổi, nữ, đái tháo
đường, điểm APACHE II, bạch cầu tăng cao, nồng độ
creatinine máu cao >2mg/dl, albumin máu thấp sẽ liên
qua đến kết quả kém trong điều trị VNTMNK.
• Đặc điểm VNTMNK sau mổ tim: VNTMNK ở
bệnh nhân có van nhân tạo chiếm khoảng 1% / năm
sau thay van, được chia làm 2 giai đoạn là sớm và
muộn. Loại sớm là xảy ra trước 60 ngày sau mổ,
chiếm khoảng 30% VNTMNK ở bệnh nhân có van
nhân tạo. Nguyên nhân gây bệnh chủ yếu là tụ cầu
vàng, trực khuẩn gram (-), tụ cầu không gây ngưng
kết máu và nấm. Trong đó, tụ cầu không ngưng kết
máu chiếm tỷ lệ cao nhất (52%). Nhưng một nghiên
cứu gần đây thấy rằng: tụ cầu vàng là nguyên nhân
hàng đầu chiếm 23%, tiếp theo là tụ cầu không ngưng
kết máu 16%, cầu khuẩn đường ruột 13% và liên cầu
12%. Viêm nội tâm mạc thường xảy ra nhiều hơn ở
bệnh nhân có van cơ học, do van sinh học có bản chất
giống như van tự nhiên - ít nguy cơ hơn.
• Điều trị VNTMNK ở bệnh nhân có van tim
nhân tạo: Nhìn chung điều trị bảo tồn là rất khó khăn,
và nên sớm hội chẩn ngoại khoa.
- Điều trị nội khoa: Do nguyên nhân gây bệnh
chủ yếu là chủng tụ cầu và liên cầu, nên khi có nghi
ngờ bị VNTMNK sau thay van tim thì sớm chỉ định
những kháng sinh tương thích (theo kinh nghiệm)
như: vancomycin, rifampin, gentamicin, và nên phối
hợp thuốc, dùng đường tĩnh mạch, thời gian liên tục
trong là 6 tuần. Kiểu dùng kháng sinh theo kinh
nghiệm xẽ được điều chỉnh theo kết quả cấy máu và
kháng sinh đồ. Trong quá trình điều trị, theo dõi và
đánh giá lâm sàng nghi ngờ có biến chứng liên quan
đến van thì siêu âm qua thực quản là phương tiện chẩn
đoán rất hữu ích và có độ nhạy cao.
- Điều trị ngoại khoa: Chỉ định phẫu thuật trong
VNTMNK ở bệnh nhân có van nhân tạo nên được
đặt ra khi có các biến chứng liên quan có nguy cơ tử
vong cao, bao gồm: Suy tim nặng, Kẹt van, Suy giảm
chức năng van tăng lên (hẹp hoặc hở), Hở rộng hoặc
áp xe quanh vòng van, Nhiễm khuẩn dai dẳng - biến
chứng tắc mạch tái phát mặc dù đã điều trị kháng
sinh thích hợp.
- Kết quả: Tỷ lệ tử vong tại bệnh viện của
VNTMNK giai đoạn sớm là 50-60%. Gần đây, thì tỷ
lệ này giảm xuống còn 23%, có thể do được chẩn
đoán sớm và những tiến bộ trong điều trị và phối hợp
giữa nội – ngoại khoa. Các khuyến cáo đều khuyên
nên điều trị ngoại khoa sớm khi có chỉ định, giúp lảm
giảm đáng kể tỷ lệ tử vong do với điều trị nội khoa
đơn thuần. Tuy tỷ lệ tử vong của VNTMNK giai đoạn
sớm cao hơn giai đoạn muộn tới 60%, nhưng kết quả
lâu dài của 2 giai đoạn là như nhau.
1.2. Tài liệu trong nước: [1], [2], [3]
Ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu thống kê
về tỷ lệ VNTMNK, theo Đặng Văn Chung (1976) thì
VNTMNK chiếm 4,3% tổng số bệnh tim (1976). Hiện
nay, dù đã có nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và điều
trị, song tỷ lệ tử vong vẫn còn khá cao.
• Đặc điểm về chủng vi khuẩn: Có thể chia
thành 4 nhóm: liên cầu (loại trừ nhóm D), liên cầu
nhóm D (chủ yếu là cầu khuẩn đường ruột), tụ cầu và
các loại khác [đặc biệt là phế cầu, vi khuẩn gram(-)
âm] và nấm. Trong thời kỳ kháng chiến, liên cầu
chiếm tới 90%, hiện nay giảm dần xuống khoảng
57
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
60%, với liên cầu nhóm D chỉ chiếm 10%. Trong khi
đó, có xu hướng ngày càng tăng tỷ lệ tụ cầu (khoảng
25%) và những vi khuẩn khác như gram(-), phế cầu,
nấm… VNTMNK ở bệnh nhân tiêm chích ma túy
hay gây tổn thương van tim bên phải, chủ yếu do tụ
cầu vàng và nấm. VNTMNK ở bệnh nhân có van
nhân tạo thường xảy ra trong 6 tháng đầu sau thay
van tim, hay gặp tụ cầu vàng, vi khuẩn gram(-) và
nấm. VNTMNK do nấm chủ yếu là chủng Candida
và Aspergillus, hay gặp ở bệnh nhân có van nhân tạo,
có thiết bị cơ học cấy trong tim, hoặc bị suy giảm
miễn dịch …
• Đặc điểm thương tổn trong tim: Tổn thương về
đại thể chủ yếu là những nốt sùi và tổn thương phá
hủy các van. Nốt sùi có thể to từ vài milimet đến 1
centimet (nếu do nấm, các nốt này thường to hơn),
rất dễ vỡ thành từng mảnh trôi đi gây tắc mạch ở xa,
cũng có thể tiêu tan hoàn toàn trong vài tuần và để
lại một lỗ thủng trên van, hoặc rách các bờ tự do của
lá van. Cơ tim bị viêm mô kẽ tiến tới xơ hóa với
những vùng nhồi máu cơ tim nhỏ; nếu thể cấp tính,
độc lực vi khuẩn mạnh, có thể tạo những áp xe nhỏ
trên cơ tim, thương tổn mạch vành. Đặc điểm
VNTMNK sau mổ tim cũng tương tự như trong các
nghiên cứu nước ngoài.
• Thái độ điều trị ngoại khoa: Mục đích điều trị
ngoại khoa về cơ bản cũng là lấy bỏ những mảnh sùi
hoặc hoại tử mà không thể điều trị nội khoa được,
sửa lại van hoặc thay van tim … Nhìn chung, chỉ
định mổ rõ ràng được đặt ra khi: Suy tim tiến triển
không khống chế được do tổn thương van; Van nhân
tạo không ổn định (hở hoặc hẹp); Không khống chế
được nhiễm khuẩn; Biến chứng tắc mạch tái phát.
Chỉ định mổ tương đối (do chưa nặng hay quá nặng)
khi: Tổn thương lan rộng quanh van (rò, ápxe); Tổn
thương van tự nhiên sau khi đã điều trị tối ưu không
hiệu quả; VNTMNK - cấy máu âm tính nhưng sốt
dai dẳng; Mảnh sùi to (>10mm) với nguy cơ tắc
mạch cao.
2. Kinh nghiệm điều trị VNTMNK tại bệnh
viện Việt Đức
• Các hình thái và tần suất gặp VNTMNK:
Có 2 ca biến chứng bong mảnh sùi – chiếm 8%
trong tổng số mổ cấp cứu tắc động mạch chi cấp tính
(số còn lại do huyết khối/bệnh van tim).
58
Có 13 ca thương tổn trong tim, 10/13 ca là nam
giới (76,9%). Có 7 ca điều trị nội và không mổ: do
VNTMNK tiến triển + toàn trạng rất nặng (5 ca), do
tắc mạch não + bệnh da liễu nặng do nấm (1 ca), bệnh
nhân xin không mổ (1 ca). Xét theo số phẫu thuật do
biến chứng của VNTMNK trên tổng số phẫu thuật thì
có 4 ca/1369 ca mổ tim hở (3‰), và 3 ca/515 ca mổ
thay van tim (8‰). Có 6/13 ca là VNTMNK sau mổ
tim hở (kể cả mới mổ và mổ cũ), với 5 ca sau mổ thay
van và 1 ca sau mổ vá thông liên thất.
Có 6/13 ca được mổ tim hở điều trị biến chứng
VNTMNK, trong đó 2 ca ở giai đoạn VNTMNK đang
tiến triển (< 1 tháng), 2 ca sau khi điều trị nội khoa
tạm ổn định (2-4 tháng), và 2 ca sau khi đã được điều
trị hoàn toàn ổn định (> 1 năm). Trong số các ca mổ
thì có 3 ca VNTMNK/sau thay van tim, 2 ca/bệnh van
tim do thấp, và 1 ca bệnh van tim do VNTMNK.
• Đặc điểm về chủng vi khuẩn: Việc định loại vi
khuẩn dựa vào kết quả cấy máu hoặc cấy bệnh phẩm
trong mổ. Kết quả có 5 ca dương tính/11 ca được cấy
(45,5%). Các chủng vi khuẩn gồm: Streptococcus
Mitis, Achromobacter xylosoxidans, nấm Candida
Tropicalis, Staphylococcus epidermidis, Liên cầu
Alpha.
• Đặc điểm thương tổn trong mổ: Trong tắc mạch
cấp tính, các mảnh sùi thường nhỏ và tắc xa ở phía
ngoại vi (ví dụ mạch khoeo, cẳng chân). Mảnh sùi và
đứt dây chằng là thương tổn thấy ở trong tim / bệnh
nhân mổ lần đầu. Đối với bệnh nhân sau thay van là
thương tổn mảnh sùi và bong van.
• Kỹ thuật mổ: Đối với tắc mạch cấp tính là lấy
dị vật bằng ống thông Fogarty + dùng chống đông liều
cao (150 – 200 đv/kg/24 giờ) và dài ngày (5-7 ngày).
Đối với thương tổn trong tim: Thay van tim sinh
học/VNTMNK ở bệnh nhân bị bệnh van tim do thấp
(2 ca), Tạo hình van tim/biến chứng van do
VNTMNK (1 ca), Thay lại van tim/bệnh nhân thay
van cũ (2 ca), và Phẫu thuật Bental/bệnh nhân thay
van cũ (1 ca).
• Chiến lược điều trị kháng sinh trước và sau mổ
của chúng tôi tuân thủ theo các khuyến cáo của thế
giới, tuy nhiên có bổ sung thêm 1 số kháng sinh phù
hợp với các chủng vi khuẩn có tần suất gặp cao ở
bệnh viện Việt Đức (như vi khuẩn gram (-), trực
khuẩn mủ xanh).
THƯƠNG TỔN TIM TRONG VIÊM NỘI TÂM MẠC NHIỄM KHUẨN VÀ THÁI ĐỘ ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA
• Kết quả sau mổ: Đối với tắc mạch cấp tính,
không có ca nào phải cắt cụt chi. Với 6 ca mổ tim hở,
thì kết quả sớm có 4 ca ổn định và xuất viện, còn 2
ca chuyển nội khoa tiếp tục điều trị kháng sinh. Theo
dõi lâu dài thấy 2 ca tái phát nhiễm trùng và tử
vong/thay lại van tim do VNTMNK. Các trường hợp
VNTMNK đã được điều trị nội khoa ổn định ở bệnh
nhân chưa phẫu thuật lần nào thường cho kết quả tốt
hơn hẳn sau mổ so với các bệnh nhân mổ thay van
tim cũ.
KẾT LUẬN
VNTMNK vẫn là một vấn đề phức tạp đối với
ngành tim mạch, và là một thách thức lớn đối với
ngoại khoa, đặc biệt ở Việt Nam – chủ yếu vì chi phí
điều trị rất lớn không tương xứng với kết quả lâu dài
còn hạn chế. VNTMNK sau thay van tim vẫn chiếm
tỷ lệ khá cao. Điều trị kháng sinh hợp lý có ý nghĩa
lớn đến kết quả tổng thể. Tại Việt Nam, cần 1 nghiên
cứu đa trung tâm để thống nhất thái độ điều trị Nội Ngoại khoa phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.
Đặng Hanh Sơn và Cs (2008), Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn trên van nhân tạo, Y học Việt Nam, tháng
11, số 2, tr:65-69.
2.
Nguyễn Thị Trúc (2003), “Viêm màng trong tim” - Bách khoa thư bệnh học, Nhà xuất bản Y học,
tr:454-460.
3.
Nguyễn Lân Việt (2007), “Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn” - Thực hành bệnh tim mạch, Nhà xuất bản Y
học, tr:359-373.
4.
Andrew Wang and Christopher H. Cabell (2009), “Infective endocarditis” - Valvular heart disease,
Humana Press, page:475-494.
5.
David Hunter, John Pepper (2010), “Infective endocarditis” - Cardiovascular critical care, Blackwell
Publishing Ltd, page:368-388.
6.
Micheal H, Crawford (2009), “Infective endocarditis” - Current diagnosis and treatment Cardiology, 3rd
Edition, Mc Graw-Hill, chapter 12.
7.
Ravindran A. Padmanabhan, Steven M. Gordon (2007), “Infective endocarditis” - Cleveland Clinic
Cardiology Board Review, Lippincott Williams and Winkins, page:294-305.
8.
Sotiris C. Stamou, Gosta Petterson, A. Marc Gillinov (2008), “Surgical Treatment of Mitral Valve
Endocarditis” - Cardiac surgery in the adult, The Mc Graw-Hill, chapter 4, page:1094-1103.
59
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
TẠP CHÍ PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM
SỐ 02 - THÁNG 08/2012
--------o0o-------LỜI GIỚI THIỆU
GS Bùi Đức Phú
1
KẾT QUẢ SỚM SAU SỬA VAN BA LÁ DO HỞ VAN BA LÁ THỨ PHÁT MỨC ĐỘ
TRUNG BÌNH Ở BỆNH NHÂN PHẪU THUẬT BỆNH VAN HAI LÁ HẬU THẤP
Trần Thúc Khang và CS
2
3
4
TS. Trần Trọng Kiểm và CS
8
TS. Hoàng Quốc Toàn
14
PHẪU THUẬT SỬA VAN 3 LÁ SAU THAY VAN 2 LÁ
HỘI CHỨNG SHONE – MỘT HỘI CHỨNG TIM BẨM SINH HIẾM GẶP
46
PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC ĐIỀU TRỊ KHỐI U TRUNG THẤT
Huỳnh Quang Khánh và CS
11
40
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CẮT TUYẾN ỨC ĐIỀU TRỊ BỆNH NHƯỢC CƠ BẰNG PHẪU
THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC
ThS Lê Việt Anh và CS
10
33
NGHIÊN CỨU ÁP DỤNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ TUẦN HOÀN CƠ HỌC TRONG ĐIỀU
TRỊ BỆNH NHÂN SUY TIM GIAI ĐOẠN CUỐI TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG HUẾ
Đoàn Đức Hoằng và CS
9
29
PHẪU THUẬT SỬA CHỮA BỆNH EBSTEIN QUA 6 NĂM TẠI BỆNH VIỆN TIM
HÀ NỘI
Bs Nguyễn Sinh Hiền
8
25
NGHIÊN CỨU MỐI LIÊN QUAN GIỮA ĐƯỜNG MÁU HẬU PHẪU VÀ MỨC ĐỘ
NẶNG Ở BỆNH NHÂN MỔ TIM HỞ
Lê Minh Khôi và CS
7
22
SO SÁNH KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NGỰC LÕM BẨM SINH GIỮA MỔ MỞ KINH
ĐIỂN VÀ PHẪU THUẬT NUSS TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
Nguyễn Hữu Ước và CS
6
4
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NỘI SOI TRUNG THẤT CHẨN ĐOÁN KHỐI U TIÊN PHÁT,
CÁC BỆNH LÝ ÁC TÍNH TRONG TRUNG THẤT VÀ GIAI ĐOẠN UNG THƯ PHỔI
Nguyễn Công Hựu và CS
5
3
51
THƯƠNG TỔN TIM TRONG VIÊM NỘI TÂM MẠC NHIỄM KHUẨN
VÀ THÁI ĐỘ ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA
Nguyễn Hữu Ước và CS
60
55