TAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI SOÁ 4(140)-2010
10
HÖÔÙNG ÑEÁN MOÄT KHAÙI NIEÄM KHOA HOÏC
VEÀ XAÕ HOÄI DAÂN SÖÏ
TRAÀN HÖÕU QUANG
TÓM TẮT
Ở Việt Nam gần đây, cách hiểu về khái
niệm "xã hội dân sự" thường chịu ảnh
hưởng bởi những định nghĩa của một số tổ
chức quốc tế. Khái niệm này có lúc được
hiểu như đồng hóa với các hiệp hội và tổ
chức xã hội, có lúc được coi như một mô
hình tổ chức xã hội dân chủ, tốt đẹp, và lý
tưởng, nhưng cũng có những tác giả lại coi
đây như một "khu vực thứ ba", hoặc như
một "đối tác" của nhà nước. Bài viết này
đưa ra một quan niệm xã hội học về "xã
hội dân sự", xét như một khái niệm khoa
học có thể và cần được sử dụng trong việc
phân tích lý thuyết đối với thực tiễn xã hội
Việt Nam ngày nay.
Trước đây tại các nước xã hội chủ nghĩa,
thuật ngữ "xã hội dân sự" hầu như rất
hiếm khi được các nhà khoa học xã hội
nhắc tới. Ngay cả ở Nga, mãi cho tới cuối
thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, giới
nghiên cứu mới bắt đầu đề cập tới khái
niệm này (Xem: Narozhna, 2004).
Ở Trung Quốc, thuật ngữ "civil society"
thường được dịch là "xã hội công dân".
"Xã hội công dân đang dần có một vai trò
quan trọng trong đời sống xã hội Trung
Quốc và nó cũng là một chủ đề thu hút sự
Trần Hữu Quang. Phó Giáo sư, tiến sĩ. Trung
tâm Thông tin Viện Phát triển Bền vững vùng
Nam Bộ.
thảo luận rộng rãi trong giới học thuật của
nước này" (Xem: Phùng Thị Huệ, 2007, tr.
25). Chen Kuide, một tác giả người Trung
Quốc, định nghĩa "xã hội công dân bao
gồm cả "các xí nghiệp tư, các đại học, báo
chí, công đoàn, giáo hội, và tất cả các tổ
chức đứng độc lập với guồng máy nhà
nước"(1).
Nhưng ở Trung Quốc cũng có một quan
niệm khác về xã hội công dân so với định
nghĩa của Chen Kuide: "Xã hội công dân một bộ phận nằm ngoài nhà nước và thị
trường, có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc kết nối người dân. Với cách thức tổ
chức nhỏ gọn, linh hoạt cũng như có khả
năng huy động sáng kiến và nguồn lực của
người dân nhằm phục vụ xã hội, “xã hội
công dân” có tầm quan trọng chiến lược
trong quá trình tìm kiếm “con đường trung
dung”, hay cách thức tránh sự quá phụ
thuộc vào Nhà nước và thị trường để giải
quyết các vấn đề kinh tế-xã hội nghiêm
trọng đang tồn tại hiện nay. (d) Từ những
thay đổi quan trọng trong lĩnh vực kinh tế,
chính trị và xã hội do các biện pháp cải
cách mang lại, các tổ chức công dân ở
Trung Quốc bắt đầu phát triển nhanh trong
thập niên 80 của thế kỷ XX. Các tổ chức
công dân vốn bị kiểm soát triệt để nhằm
phục vụ mục tiêu của nhà nước trước cải
cách, đến nay đã bắt đầu có được sự tự
chủ tương đối và hoạt động tích cực nhằm
thúc đẩy các lợi ích của xã hội" (Phùng Thị
TRAÀN HÖÕU QUANG – HÖÔÙNG ÑEÁN MOÄT KHAÙI NIEÄM XAÕ HOÄI…
Huệ, 2007, tr. 25 và 29).
Do sự phát triển kinh tế mạnh mẽ trong
vòng 20 năm qua, nên nhiều nhà nghiên
cứu Trung Quốc cho rằng sự thay đổi về
cấu trúc của xã hội chính là kết quả của
những cuộc cải tổ trong lĩnh vực kinh tế (Li
Peilin, 2008, tr. 85). Rebecca Moore cho
rằng "những thay đổi gần đây trong mối
quan hệ giữa nhà nước và xã hội ở Trung
Quốc, trong đó có sự trỗi dậy của các hiệp
hội hoặc tổ chức xã hội mới (shehui tuanti)
phần lớn đều là sản phẩm của những cải
cách kinh tế vốn được khởi xướng bởi nhà
lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình bắt
đầu từ cuối thập niên 1970" (Moore,
2001)(2).
Tình hình ở Việt Nam, nhìn một cách tổng
quát, do bối cảnh lịch sử chính trị-xã hội,
cũng phần nào tương tự như tình hình ở
Trung Quốc (Xem thêm: Nguyễn Ngọc
Giao, 2009). Sau hai bài viết điểm lại một
số quan niệm cổ điển cũng như một số
quan niệm đương đại trên thế giới về khái
niệm xã hội dân sự (Xem: Trần Hữu
Quang, 2009a và 2009b), trong bài này,
chúng tôi muốn điểm lại một số quan niệm
về xã hội dân sự ở Việt Nam trong những
năm gần đây, và sau đó thử đề xướng một
quan niệm xã hội học về xã hội dân sự.
1. NHỮNG QUAN NIỆM VỀ XÃ HỘI DÂN
SỰ Ở VIỆT NAM
Ở Việt Nam, có tác giả thì cho là xã hội
dân sự đã có từ lâu, nhưng cũng có tác giả
lại cho rằng xã hội dân sự chưa từng xuất
hiện trong lịch sử. Đặng Ngọc Dinh viết
như sau: "Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận
thấy xã hội dân sự đã tồn tại ở Việt Nam từ
rất lâu. Nói nôm na, đó là các tổ chức xã
hội nằm ngoài nhà nước, nằm ngoài các
11
hoạt động của doanh nghiệp (thị trường),
nằm ngoài gia đình, để liên kết người dân
với nhau trong những hoạt động vì một
mục đích chung. Như vậy, thành phần
quan trọng của xã hội dân sự là các hội,
hiệp hội trong dân chúng, trong làng xóm,
mang tính chất liên kết cộng đồng" (Đặng
Ngọc Dinh, 2006, tr. 14).
Nhưng Nguyễn Quân thì lại cho rằng "ở
Việt Nam, xã hội công dân hầu như chưa
xuất hiện dù đã có mấy chục năm thuộc
địa 100% ở Nam Kỳ, chế độ cộng hòa phụ
thuộc Mỹ cũng như những thập niên xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc"
(Nguyễn Quân, 2006).
Xã hội dân sự đã có mặt ở Việt Nam từ khi
nào, với hình hài thế nào, các loại hội trong
làng xã cổ truyền có nằm trong khái niệm
xã hội dân sự hay không... đó là những
vấn đề thuộc về một chủ đề khác nằm
ngoài tiêu điểm của bài này. Tuy nhiên, ít
ra chúng ta có thể đồng ý với một nhận xét
chung như sau: "Kể từ khi đổi mới, nhất là
từ cuối những năm chín mươi đến nay,
cùng với sự lớn mạnh của thị trường và
những điều chỉnh của nhà nước, xã hội
dân sự bắt đầu phát triển mạnh mẽ với
nhiều tổ chức ra đời" (Lê Bạch Dương,
2008).
Nguyễn Thanh Tuấn nhận định như sau:
"Ở Việt Nam, cho đến nay, mặc dù các văn
kiện Đảng và nhà nước chưa trực tiếp nêu
khái niệm “xã hội dân sự” hay “xã hội công
dân”, song trên thực tế, ở mức độ nhất
định, Đảng và nhà nước đã bước đầu chú
ý đến việc xây dựng các thể chế và cơ sở
pháp lý của xã hội dân sự. (d) Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
12
TRAÀN HÖÕU QUANG – HÖÔÙNG ÑEÁN MOÄT KHAÙI NIEÄM XAÕ HOÄI…
nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế đã, đang
thúc đẩy sự hình thành, phát triển nhiều ý
kiến, thậm chí luồng tư tưởng khác nhau
trong xã hội về vai trò của các tổ chức dân
sự trong mối quan hệ với Đảng Cộng sản
và nhà nước pháp quyền" (Nguyễn Thanh
Tuấn, 2007). Trần Ngọc Hiên cũng đưa ra
một nhận xét tương tự: "Trên thực tế, hiện
nay đã hình thành rất nhiều các tổ chức xã
hội dân sự như các hội, các ngành kinh tế,
các lĩnh vực khoa học và công nghệ, các
lĩnh vực dịch vụ. Sự thực, một khuôn mặt
xã hội dân sự kiểu mới ở nước ta đang
hình thành, có thể coi đó là bước tiến của
nền dân chủ, khác về bản chất với xã hội
trước đổi mới. Tuy vậy, về mặt thể chế,
phạm trù xã hội dân sự chưa được xác
định trong văn bản, tức là chưa dám đặt
viên gạch thứ ba (là xã hội dân sự) tạo cơ
sở đầy đủ cho mối quan hệ thể chế kinh tế
chính trị nước ta" (Trần Ngọc Hiên, 2008).
Về yêu cầu hình thành xã hội dân sự, hầu
hết các tác giả đều nhấn mạnh tới điều này
như một yêu cầu cấp thiết đối với xã hội
Việt Nam hiện nay. Phan Xuân Sơn nói
như sau: "Chúng ta từ lâu nêu khẩu hiệu:
"Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra", "Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ"... Nhưng
nếu dân chỉ là những cá thể đơn độc thì
không thể biết, bàn, cũng chẳng thể kiểm
tra, làm chủ. Nếu người dân tập hợp lại
trong các hội đoàn của xã hội dân sự thì
chính những hội đoàn đó sẽ luôn ở thế cân
bằng với nhau, phối hợp với nhau, kiểm
soát nhau và cân bằng với cả nhà nước.
(...) Thiếu xã hội dân sự thì quyền lực nhà
nước tuột khỏi tay dân, nhà nước có nguy
cơ tha hóa. (...) Tôi nghĩ đảng cầm quyền
mạnh thì không nên chỉ lo kiểm soát xã
hội, ngược lại luôn cố gắng kéo nhân dân
vào quá trình kiểm soát quyền lực, động
viên nhân dân vào quá trình thực thi quyền
lực" (Phan Xuân Sơn, 2006).
Tôn Thất Nguyễn Thiêm viết: "Có thể nói
như nhận định của Joseph Schumpeter
(Capitalism, Socialism and Democracy,
Peter Smith Publishers, 1984) là "tính đối
trọng" giữa nhà nước và xã hội công dân
trong chế độ tư bản tương tự như sự "cân
bằng giữa mã lực của chiếc xe và sức
chận của cái phanh: xe chạy nhanh mà
không có phanh tốt thì dễ toi đời". Và
"tuyệt chiêu" của tư bản là nhà nước và xã
hội công dân hoạt động tương tác với
nhau: cái này phóng nhanh quá thì cái kia
đạp phanh và cái kia chậm quá thì cái này
lại rồ máy tăng ga". Nói cách khác, Nhà
nước và xã hội công dân vừa thúc đẩy tính
năng động của nhau vừa làm đối lực cho
"sức mạnh" của nhau!" (Tôn Thất Nguyễn
Thiêm, 2006).
Một bài viết về khái niệm xã hội dân sự
trên Tạp chí Cộng sản cũng khẳng định
rằng "dưới chủ nghĩa xã hội, kể cả trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cũng
cần phải xây dựng xã hội dân sự" (Xem
bài: "Xã hội dân sự", 2007; Xem thêm:
Trần Hữu Quang, 2005).
Có thể nói cho đến nay, hầu hết các ý kiến
về xã hội dân sự trong giới học thuật ở
Việt Nam đều nhìn nhận vai trò quan trọng
và cần thiết của thực thể này. Thế nhưng
cần hiểu thế nào là "xã hội dân sự"?
Phần lớn những bài viết xuất hiện trong
thời gian qua thường có xu hướng thiên về
lối định nghĩa coi xã hội dân sự như một
mô hình tổ chức xã hội dân chủ, tốt đẹp,
và lý tưởng. Bài vừa dẫn trên đây trong tạp
chí Cộng sản cho rằng xã hội dân sự "là xã
TRAÀN HÖÕU QUANG – HÖÔÙNG ÑEÁN MOÄT KHAÙI NIEÄM XAÕ HOÄI…
hội của những con người tự chủ, giàu tính
người, đoàn kết thúc đẩy phát triển và thực
hành quyền lợi cộng đồng, chứ không phải
những con người cá nhân vị kỷ, nô lệ cho
kinh tế thị trường, nô lệ cho nhu cầu hám
lợi của mình và của người khác" (bài "Xã
hội dân sự", 2007). Trong một bài phát
biểu, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Văn An cũng nói rằng: "Tiến đến xã hội
pháp quyền cũng là tiến đến một xã hội
công dân với đặc tính chủ quản, tự tổ chức
rất cao của nhân dân. Khi ấy nhà nước sẽ
nhỏ đi, đúng như Mác nói là "nhà nước
nửa nhà nước"" (Nguyễn Văn An, 2007).
Phan Xuân Sơn cũng cho rằng "xã hội dân
sự bản tính hướng tới chân thiện mỹ, là
minh bạch, công khai, công bằng nên khả
năng giám sát, đối trọng cao, hạn chế
được tiêu cực, tham nhũng" (những chỗ
nhấn mạnh là do chúng tôi, THQ) (Phan
Xuân Sơn, 2006).
Võ Khánh Vinh cũng có một cái nhìn mang
tính chuẩn tắc (normative) về xã hội dân
sự, coi "xã hội dân sự" là một mô hình xã
hội lý tưởng, ở trình độ cao, trong đó có
những chuẩn mực nhất định cần đạt tới,
coi xã hội dân sự là một "nguồn lực xã
hội", là "vốn xã hội" (Võ Khánh Vinh, 2008,
tr. 24-25). Nhưng điểm đáng lưu ý ở đây là
dường như ông có quan điểm duy kinh tế
khi cho rằng "kinh tế thị trường, phát triển
kinh tế thị trường tạo lập ra cơ sở nền
tảng, đặc biệt là nền tảng kinh tế cho sự ra
đời và vận hành của xã hội dân sự", và
nhất là khi nhấn mạnh rằng "việc chuyển
đổi nhanh chóng đất nước chúng ta đến
nền kinh tế thị trường văn minh, hiện đại là
tiền đề, điều kiện quan trọng nhất cho sự
hình thành, vận động và phát triển xã hội
dân sự" (những chỗ nhấn mạnh là do
13
chúng tôi, THQ) (Võ Khánh Vinh, 2008, tr.
24 và 32). Có lẽ quan điểm này cũng tìm
được sự đồng thuận nơi một số tác giả
khác, chẳng hạn Đặng Ngọc Dinh viết như
sau: (một xã hội phát triển, trong đó tôn
trọng vai trò xã hội dân sự) sẽ phát triển
"song hành với quá trình phát triển thị
trường đích thực. Khi có thị trường đích
thực thì sẽ có tư pháp độc lập, khi đó có
nhà nước pháp quyền đích thực và có
thượng tôn pháp luật" (Đặng Ngọc Dinh,
2006).
Cũng có nhiều tác giả đồng hóa xã hội dân
sự với các hiệp hội và tổ chức xã hội.
Chẳng hạn, Nguyễn Thanh Tuấn quan
niệm "xã hội dân sự là lĩnh vực thuộc đời
sống xã hội; bao gồm các tổ chức đoàn
thể, hiệp hội với quy chế dân lập, hoạt
động tự quản trên cơ sở hiến pháp và
pháp luật, để phản biện, giám sát và phối
hợp với nhà nước, nhằm đảm bảo và thực
hiện dân chủ, quyền con người, lợi ích
cộng đồngd" (Nguyễn Thanh Tuấn, 2007).
Phùng Thị Huệ và Phạm Ngọc Thạch định
nghĩa xã hội công dân là "tổng hòa các tổ
chức công dân hoặc quan hệ công dân
ngoài khu vực nhà nước và thị trường, với
thành phần cơ bản là các tổ chức công
dân, bao gồm các tổ chức phi chính phủ,
các tổ chức xã hội tự nguyện của công
dân, các tổ chức cộng đồng cư dân và các
nhóm lợi ích hoặc các phong trào được tổ
chức bởi sự tự nguyện của công dân, hay
còn gọi là "khu vực thứ ba" giữa nhà nước
và xã hội" (Phùng Thị Huệ, 2007, tr. 26).
Khi quan niệm về xã hội dân sự, Đặng
Ngọc Dinh nhấn mạnh đến tính chất "diễn
đàn" của xã hội dân sự và đưa ra một
quan niệm tam phân về hệ thống xã hội
tổng thể (bao gồm nhà nước, thị trường,
14
TRAÀN HÖÕU QUANG – HÖÔÙNG ÑEÁN MOÄT KHAÙI NIEÄM XAÕ HOÄI…
và xã hội dân sự), trong đó xã hội dân sự
là nơi phát huy các phẩm chất "đạo đức",
"tính nhân văn" và "tính cộng đồng". Ông
viết: "Có thể coi xã hội dân sự là diễn đàn,
là nơi mọi người bắt tay nhau để thúc đẩy
quyền lợi chung. Xã hội dân sự hỗ trợ
người dân thực thi luật pháp, đồng thời
phản ánh nguyện vọng người dân. Nếu
thể chế nhà nước hoạt động dựa vào luật,
thể chế thị trường hoạt động dựa vào lợi
nhuận thì xã hội dân sự vẫn tuân theo
pháp luật, tuân theo thị trường, nhưng
thúc đẩy khía cạnh đạo đức, khai thác
tính nhân văn, tính cộng đồng". Ông nói
thêm rằng "không nên cực đoan hiểu xã
hội dân sự là đối lập với chính quyền,
hoặc chính quyền có thể bao trùm hết mọi
việc của người dân cho nên không cần xã
hội dân sự. Có thể nói xã hội dân sự và
chính quyền là bổ sung cho nhau" (Đặng
Ngọc Dinh, 2006).
Tác giả Tương Lai thì hình dung xã hội
dân sự như một "đối tác" của nhà nước, và
nhấn mạnh đến khía cạnh tham gia và
"phản biện" của người dân đối với nhà
nước: "Xã hội dân sự là đối tác bình đẳng
của nhà nước chứ không phải là cái đuôi
của nhà nước, về thực chất là tạo điều
kiện để người dân thực sự tham gia vào
việc hoạch định, thực hiện chính sách và
giám sát nhà nước, thực hiện phản biện xã
hội đối với nhà nước, kể cả đối với phẩm
chất và hành vi của viên chức nhà nước"
(Tương Lai, 2005).
Cũng tương tự như Phùng Thị Huệ và
Phạm Ngọc Thạch (đã dẫn trên), Lê Bạch
Dương quan niệm xã hội dân sự như một
"khu vực thứ ba", bên cạnh nhà nước và
thị trường - cả ba cấu thành nên xã hội
tổng thể. Ông viết: "Một xã hội muốn phát
triển được phải dựa vào sự phát triển của
ba khu vực: một là khu vực nhà nước; hai
là nền kinh tế thị trường. Ngoài hai khu
vực trên, còn có một khu vực thứ ba bao
gồm các tổ chức, các nhóm, các hình thức
liên minh, liên kết xã hội, không nằm trong
cấu trúc thiết chế của nhà nước, cũng
không phải thuộc khu vực kinh tế tư nhân
chạy theo lợi nhuận. Đây là khu vực mà
trong đó những nhóm cá nhân tự nguyện
tham gia với những mục đích hướng tới
phục vụ cho các lợi ích của nhóm và của
xã hội. Đó chính là xã hội dân sự" (Lê
Bạch Dương, 2008).
Tuy nhiên đáng chú ý là có một số tác giả
khi đề cập tới khái niệm xã hội dân sự, còn
đặc biệt nhấn mạnh tới mối quan hệ chặt
chẽ với khái niệm nhà nước pháp quyền,
như Trần Ngọc Hiên, Nguyễn Trung,
Tương Lai. Trần Ngọc Hiên phân tích như
sau: "Ở đâu có kinh tế thị trường thì ở đó
phải có nhà nước pháp quyền và xã hội
dân sự. Ba bộ phận đó cấu thành hệ thống
của một thể chế kinh tế chính trị, mà sự
hoàn thiện của hệ thống thể chế hoàn toàn
chỉ dựa vào sự liên hệ tương tác với nhau
giữa ba bộ phận. Đó chính là quá trình
phát triển chế độ dân chủ. Không hình
thành hệ thống với ba bộ phận và không
có quy chế liên hệ tương tác thì thể chế
kinh tế chính trị chỉ dừng lại ở mong muốn
chủ quan, kinh tế thị trường sẽ trở nên
hoang dại. Thể chế nhà nước sẽ sa vào
quan liêu, tham nhũng nặng nề". Ông còn
nói rõ yêu cầu cần "từng bước tổ chức lại
bộ máy theo đúng tính chất nhà nước
pháp quyền của dân", bởi lẽ theo ông, "vai
trò kiểm soát của xã hội dân sự đối với nhà
nước là nhân tố rất quyết định" (Trần Ngọc
Hiên, 2008).
TRAÀN HÖÕU QUANG – HÖÔÙNG ÑEÁN MOÄT KHAÙI NIEÄM XAÕ HOÄI…
Nguyễn Trung cũng gắn liền khái niệm xã
hội dân sự với khái niệm nhà nước pháp
quyền: "Nhưng để nuôi dưỡng, tiếp tục
làm giàu và phát triển vốn xã hội đã sẵn
có, thì còn phải đồng thời phát triển nhà
nước pháp quyền và xã hội công dân
(còn gọi là xã hội dân sự), điều kiện
không thể thiếu cho việc nâng cao phẩm
chất công dân. Đối với những nước đang
phát triển tìm đường đi lên, việc phát
triển vốn xã hội trên cơ sở phát triển nhà
nước pháp quyền và xã hội công dân là
bảo đảm tốt nhất loại bớt những hiện
tượng hoang dã trên con đường hướng
tới tương lai, là cách trả giá ít nhất những
cái giá phải trả trong quá trình này, và là
cách sử dụng tối ưu nhất, tiết kiệm nhất
mọi nguồn lực có thể huy động được (...).
Có thể nói dứt khoát, tìm con đường phát
triển từ nghèo nàn lạc hậu lên hiện đại cho
một quốc gia trên cơ sở phát huy vốn xã
hội, nhà nước pháp quyền và xã hội công
dân là con đường tiệm tiến, mang nhiều
tính xã hội chủ nghĩa nhất" (Nguyễn Trung,
2006).
Quyển Từ điển xã hội học xuất bản năm
1994 cũng đã gắn khái niệm xã hội dân sự
đi đôi với khái niệm nhà nước pháp quyền.
"Xã hội công dân" là "một thành tựu to lớn
của sự phát triển lịch sử của con người", là
"xã hội trong đó các công dân là chủ thể
của xã hội và do đó của nhà nước, nhà
nước phục tùng lợi ích của công dân mà
không phải ngược lại". "Những yếu tố cấu
thành (xã hội công dân) là: sở hữu của các
công dân với tư cách cá nhân, các quyền
tự nhiên của con người và các quyền tự do
cá nhân của công dân, chế độ dân chủ về
mặt chính trị và nhà nước pháp quyền". Xã
hội công dân được xem như "đối lập với xã
15
hội toàn trị" (Nguyễn Khắc Viện, 1994, tr.
326-330).
Cũng có tác giả tuy có gắn khái niệm xã
hội dân sự với khái niệm "nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa", nhưng lại hoàn
toàn bỏ quên những mối quan hệ biện
chứng phong phú giữa nhà nước với xã
hội dân sự và chỉ nhấn mạnh tới vai trò
"điều tiết" hay "giữ vững kỷ cương pháp
luật" của nhà nước đối với xã hội. Lê Văn
Quang viết như sau: "Quan hệ giữa nhà
nước với xã hội dân sự là quan hệ giữa hệ
thống thiết chế điều tiết với khách thể của
sự điều tiết ấy; đồng thời, đó còn là quan
hệ giữa bản thân thiết chế với cơ sở xã hội
của thiết chế ấy (d). Quan hệ giữa nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với đời
sống xã hội dân sự, một mặt, được thực
hiện trực tiếp thông qua quan hệ giữa các
cơ quan chính quyền nhà nước với các
công dân; mặt khác, là quan hệ giữa nhà
nước với các định chế xã hội (d). Xét đến
cùng, quan hệ giữa nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và đời sống xã hội dân sự
thực chất là quan hệ giữ vững kỷ cương
pháp luật với phát huy cao nhất quyền dân
chủ của quần chúng nhân dân" (Lê Văn
Quang, 2004).
Nhìn chung lại, chúng tôi nhận thấy nhiều
quan niệm về xã hội dân sự ở Việt Nam
gần đây thường bị ảnh hưởng bởi các định
nghĩa của các tổ chức quốc tế đương đại
(điển hình nhất là thường giản lược hóa và
vì thế đồng hóa xã hội dân sự với các "tổ
chức xã hội dân sự" (CSO) hay các tổ
chức phi chính phủ (NGO), và từ đó vô
hình trung tầm thường hóa khái niệm này
và tước bỏ đi nội dung biện chứng phong
phú của khái niệm này xét trong mối quan
hệ với nhà nước - vốn đã từng được khai
16
TRAÀN HÖÕU QUANG – HÖÔÙNG ÑEÁN MOÄT KHAÙI NIEÄM XAÕ HOÄI…
triển nơi các tác giả cổ điển. Ngoài ra,
không ít quan niệm cũng rơi vào xu hướng
huyền thoại hóa hay công cụ hóa khái
niệm này - tương tự như những quan niệm
mà chúng tôi đã lược thuật trong bài trước
(Xem: Trần Hữu Quang, 2009b).
Như vậy, trong khuôn khổ học thuật khoa
học xã hội, vấn đề cần thiết là chúng ta
cần xác định lại thế nào là "xã hội dân sự",
xét như một khái niệm khoa học có thể
được sử dụng trong một công cuộc phân
tích lý thuyết đối với thực tiễn xã hội Việt
Nam ngày nay.
2. THỬ XÁC ĐỊNH MỘT KHÁI NIỆM XÃ
HỘI HỌC VỀ XÃ HỘI DÂN SỰ
Trong quyển Sociologie de l'Etat (Ed.
Grasset, 1979), Bertrand Badie và Pierre
Birnbaum đã đưa ra hai mô hình xã hội
dân sự tiêu biểu đối lập nhau, đó là mô
hình nhà nước cai quản xã hội dân sự (mô
hình Pháp), và mô hình xã hội dân sự tự tổ
chức, nơi mà nhà nước chỉ có mặt ở mức
độ tối thiểu (mô hình Anh-Mỹ). Theo
Lochak, tuy lược đồ này tỏ ra có triển vọng
vì nó có thể gợi lên nhiều ý tưởng mới,
nhưng rất tiếc hai tác giả trên lại không
đưa ra được một định nghĩa rạch ròi về xã
hội dân sự để khả dĩ tiếp tục đào sâu sự
phân tích (Lochak, 1986, tr. 67).
Trước khi thử cố gắng xác định một khái
niệm xã hội học về xã hội dân sự, chúng
tôi cho rằng cần giải tỏa một số quan điểm
ngộ nhận có liên quan tới khái niệm xã hội
dân sự.
Trước hết là ngộ nhận trong nhận thức về
bản chất của thị trường, cho rằng thị
trường là một lĩnh vực hoàn toàn độc lập,
nằm ngoài chính trị, chỉ tuân theo những
qui luật riêng của nó, được điều hành bởi
"bàn tay vô hình", vì thế nhà nước nhất
thiết không được can thiệp vào. Từ đó, ý
niệm về một thị trường độc lập và tự điều
tiết được trường phái tự do chuyển sang
thành ý niệm về sự độc lập và khả năng tự
điều tiết của xã hội dân sự đối với nhà
nước. Trong lịch sử, quả là sự phát triển
của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa khởi phát từ quá trình hình thành thị
trường. Thế nhưng những quyền như
quyền tự do sản xuất (laisser-faire, "để cho
làm"), quyền tự do buôn bán (laisserpasser, "để cho đi qua", cũng tương tự
như việc bãi bỏ những qui định "ngăn sông
cấm chợ" ở Việt Nam trước đây), quyền tự
do sử dụng tài sản, quyền tự do hợp đồng
(hay khế ước) hay nói chung nền mậu dịch
tự do hoàn toàn không phải là những cái
tự nhiên mà có hoặc tự động xuất hiện, mà
tất cả đều là sản phẩm của những hoạt
động của nhà nước (Lochak, 1986, tr. 49).
Karl Polanyi trong công trình nổi tiếng The
Great Transformation (1944) viết rõ như
sau: "Lịch sử kinh tế cho thấy rằng sự nổi
lên của các thị trường quốc gia hoàn toàn
không phải là kết quả của sự giải thoát
tiệm tiến và tự phát của lĩnh vực kinh tế ra
khỏi sự kiểm soát của chính quyền. Ngược
lại, thị trường là kết quả của một sự can
thiệp có ý thức và thường mang tính chất
bạo lực từ phía chính quyền vốn áp đặt tổ
chức thị trường lên xã hội nhằm vào
những mục tiêu phi kinh tế" (Polanyi, 2001,
tr. 258).
Trước đó, chính Antonio Gramsci cũng
từng nêu một nhận xét phần nào tương tự
để phê phán quan điểm của trường phái
tự do kinh tế: "Chúng ta buộc phải thừa
nhận rằng hệ thống mậu dịch tự do chính
nó cũng là một sự 'điều tiết hóa'
TRAÀN HÖÕU QUANG – HÖÔÙNG ÑEÁN MOÄT KHAÙI NIEÄM XAÕ HOÄI…
(réglementation) mang dấu ấn của nhà
nước, do các luật lệ và sự cưỡng chế đưa
ra và duy trì: đây là kết quả của một ý chí
có ý thức về các mục tiêu của mình, chứ
không phải là sự biểu hiện bột phát, tự
động của sự kiện kinh tế. Như vậy, hệ
thống mậu dịch tự do là một chương trình
chính trị (programme politique) nhằm mục
tiêu thay đổi nhân sự lãnh đạo của một
nhà nước và thay đổi chương trình kinh tế
của chính nhà nước, nghĩa là thay đổi sự
phân phối thu nhập quốc dân - nếu nó
thắng thế" (tức là nếu trường phái tự do
kinh tế lên nắm chính quyền - chú thích
của chúng tôi, THQ) (Gramsci, 1975, tr.
469).
Ngộ nhận thứ hai là ngộ nhận trong sự
phân biệt giản lược giữa công và tư, cũng
như trong sự phân biệt máy móc giữa lĩnh
vực chính trị với lĩnh vực kinh tế. Cao Huy
Thuần phân tích như sau: "Chủ nghĩa tư
bản tràn vào câu hỏi đó (thế nào là công,
thế nào là tư, đâu là biên giới giữa công và
tư) để tách biệt hoạt động kinh tế, hoạt
động thương mại ra khỏi lĩnh vực công,
lĩnh vực nhà nước, và tuyên bố: lĩnh vực
kinh tế không phải là lĩnh vực của nhà
nước, đó là lĩnh vực của tư nhân, do đó thị
trường thuộc vào xã hội dân sự. Song
song với xác quyết đó, chủ nghĩa tự do
đưa ý thức hệ vào ngay, quả quyết rằng tự
do cạnh tranh mang lại cho xã hội dân sự
khả năng tự điều tiết - với điều kiện là
không được có một can thiệp nào ngoài
can thiệp kinh tế vào những trao đổi kinh
tế. Nghĩa là nhà nước không được can
thiệp. Nói như vậy, các lý thuyết gia của
chủ nghĩa tự do mô tả đúng một thực trạng
mới, khuynh hướng mới, diễn ra trước mắt
mọi người, nhưng họ không phải chỉ mô tả,
17
họ còn nâng sự mô tả lên thành nguyên
tắc, quy luật, như thử phát xuất từ bản
chất của sự vật, của thiên nhiên, của chân
lý muôn đời. Từ đó, nhà nước là xấu, vì
cưỡng bức; xã hội dân sự là tốt, vì tự do.
(...) Đứng về mặt nhận thức khoa học,
không có gì lầm lẫn cho bằng, bởi vì không
thể vạch ra biên giới giữa nhà nước và xã
hội dân sự cũng như không thể vạch ra
biên giới giữa chính trị và phi chính trị"
(Cao Huy Thuần, 2004).
Như Hegel và Marx đã nói, trong các chế
độ phong kiến và tiền tư bản chủ nghĩa,
toàn bộ xã hội đều thuộc về nhà nước,
thuộc về lĩnh vực chính trị; sau đó, với sự
ra đời của xã hội tư bản chủ nghĩa, các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, tôn giáo...
dần dà tách ra khỏi lĩnh vực chính trị.
Nhưng, theo Danièle Lochak, nếu từ đó
mà suy ra rằng có một sự khác biệt về bản
chất giữa cái gì thuộc về chính trị và cái gì
không, thì đó là một "huyền thoại". Lochak
viết như sau: "Hẳn nhiên, không phải tất cả
mọi chuyện đều mang tính chất chính trị,
nhưng chính trị là một chiều kích cấu thành
nên các cộng đồng con người, thấm nhiễm
vào toàn bộ đời sống xã hội, kể cả đời
sống hàng ngày của chúng ta, và do đó sẽ
là hão huyền nếu có tham vọng tách nó
riêng ra khỏi những cái khác. Vì không thể
vạch ra được cái ranh giới ấy, nên việc
định nghĩa xã hội dân sự như toàn bộ các
mối quan hệ phi chính trị là một định nghĩa
sai lầm về mặt khái niệm" (Lochak, 1986,
tr. 70).
Ngộ nhận thứ ba là cho rằng xã hội dân sự
là một dạng tổ chức, một phương thức tổ
chức xã hội nhất định, hay một mô hình xã
hội nhất định. Quan niệm này đã lầm lẫn
giữa một khái niệm trừu tượng được dùng
18
TRAÀN HÖÕU QUANG – HÖÔÙNG ÑEÁN MOÄT KHAÙI NIEÄM XAÕ HOÄI…
để phân tích hiện thực xã hội, với một lý
tưởng xã hội mà người ta nỗ lực vươn tới,
và vì thế đã làm cạn kiệt nội hàm mang
tính phân tích học thuật của khái niệm xã
hội dân sự và biến nó thành một thứ ước
mơ hay thậm chí một thứ huyền thoại. Nếu
người ta biện minh rằng dù sao thì vẫn có
thể sử dụng khái niệm xã hội dân sự như
một "mô hình xã hội lý tưởng" để phê phán
hiện thực xã hội, thì e rằng đây chỉ là một
sự phê phán đặt nền tảng trên sự ước mơ
(cho dù hết sức tốt đẹp!), chứ chưa phải là
một sự phê phán thực thụ dựa trên vũ khí
của sự phân tích duy lý.
Thường đi đôi với ngộ nhận trên đây là
ngộ nhận thứ tư quan niệm về xã hội dân
sự như một định chế (institution) hay một
tác nhân xã hội (social actor), từ đó mặc
nhiên biến xã hội dân sự vốn là một khái
niệm phức hợp dung chứa nhiều quan hệ
xã hội, nhiều giai cấp, tầng lớp và nhiều
định chế xã hội khác nhau, thành một "đối
tác" (của nhà nước), một "lực lượng đối
trọng" (với nhà nước và/hoặc thị trường),
hoặc một tổ chức "trung gian" (giữa nhà
nước với cá nhân) - làm như thể "xã hội
dân sự" là một khối người đồng dạng,
đồng quan điểm, bình đẳng và phi giai cấp!
Gordon Marshall nhận xét rằng hiện nay có
nhiều định nghĩa khác nhau về xã hội dân
sự, tuy nhiên người ta thường đồng ý về
những đặc trưng chính sau đây của khái
niệm xã hội dân sự: (a) khái niệm này nói
về đời sống công cộng (public) hơn là đời
sống riêng tư (private) hay sinh hoạt gia
đình; (b) nó nằm ngoài gia đình và nhà
nước; và (c) nó tồn tại trong khuôn khổ
nhà nước pháp quyền (rule of law)
(Marshall, 1998, tr. 74). Chúng tôi muốn bổ
sung thêm một đặc trưng thứ tư: đó là việc
định nghĩa khái niệm xã hội dân sự nhất
thiết không thể tách rời khỏi mối quan hệ
với nhà nước.
Nếu đồng ý với những đặc trưng trên, thì
chúng tôi cho rằng lý thuyết của Antonio
Gramsci về xã hội dân sự cho đến nay vẫn
là một lý thuyết hữu hiệu và có nhiều triển
vọng nhất đối với việc phân tích các mối
quan hệ giữa nhà nước với xã hội trong
các hệ thống xã hội đương đại, kể cả ở
Việt Nam. Mặc dù Gramsci triển khai các ý
tưởng này khi phân tích đối tượng xã hội
tư bản chủ nghĩa, nhưng khung lý thuyết
của ông về nhà nước và xã hội dân sự vẫn
có thể được vận dụng một cách xác đáng
và phong phú để phân tích xã hội Việt Nam
ngày nay, vốn vẫn còn là một xã hội có giai
cấp.
Xuất phát từ lý thuyết của Gramsci(3),
chúng tôi cho rằng có thể phát triển một
định nghĩa tóm tắt về xã hội dân sự bao
gồm các vế như sau (định nghĩa mà chúng
tôi đề xuất sau đây không hoàn toàn giống
với định nghĩa của Gramsci):
(a) Xã hội dân sự là một khái niệm được
dùng để chỉ không gian xã hội công cộng
nằm ngoài nhà nước và ngoài lĩnh vực
riêng tư của cá nhân và gia đình, bao gồm
tổng thể các định chế độc lập tương đối
với nhà nước và các hoạt động tự nguyện
trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, giáo dục, truyền thông đại chúng, tôn
giáo, xã hội... (tức bao gồm cả thị trường,
các doanh nghiệp, và các đảng phái chính
trị).
(b) Xã hội dân sự và nhà nước cấu thành
hệ thống xã hội tổng thể của một nhà
nước/quốc gia (tức nhà nước hiểu theo
TRAÀN HÖÕU QUANG – HÖÔÙNG ÑEÁN MOÄT KHAÙI NIEÄM XAÕ HOÄI…
19
nghĩa rộng), trong đó nhà nước (hiểu theo
nghĩa hẹp) là nơi thực hiện chức năng
cưỡng chế, và xã hội dân sự là nơi thực
hiện sự thống lãnh (hegemony) hay lãnh
đạo về mặt văn hóa-tư tưởng của giai cấp
thống trị bằng cách tạo ra sự đồng thuận
(consensus) nơi các giai cấp và tầng lớp
khác trong xã hội. Vì thế, xã hội dân sự có
những mối quan hệ ít nhiều chặt chẽ và
hữu cơ với nhà nước. Nhưng đồng thời,
nó cũng có tính độc lập tương đối, bởi lẽ
nếu không tạo ra được sự đồng thuận nơi
xã hội dân sự, nhà nước sẽ không còn giữ
được sự thống lãnh tư tưởng, và vì thế tất
yếu sẽ mất đi tính hợp thức (hay tính chính
đáng, legitimacy) của mình và chỉ còn nắm
được sự cưỡng chế mà thôi.
và trung tính (neutre), không bao hàm
những giá trị hoặc những phán đoán về giá
trị. Nói cách khác, thuật ngữ này chỉ có thể
được sử dụng để khảo sát và mổ xẻ mối
quan hệ giữa nhà nước với xã hội, chứ
tuyệt nhiên không thể được dùng như một
ngọn cờ hay một khẩu hiệu hiệu triệu, bởi
lẽ, chúng tôi xin lập lại, nó chỉ là một khái
niệm phân tích chứ hoàn toàn không phải
là một mô hình xã hội lý tưởng nào đó. Mặt
khác, thiết tưởng cũng cần nhắc lại điểm
lưu ý của Gramsci khi ông nhấn mạnh rằng
sự phân biệt giữa khái niệm xã hội dân sự
với khái niệm nhà nước là một "sự phân
biệt mang tính phương pháp luận" và cần
tránh rơi vào một "sự phân biệt máy móc"
mang tính giản lược.
(c) Xã hội dân sự là nơi luôn luôn xuất hiện
những xung đột về lợi ích, và do đó là nơi
diễn ra những cuộc đấu tranh trên bình
diện kinh tế cũng như trên bình diện văn
hóa-tư tưởng giữa các nhóm và các tầng
lớp xã hội với nhau, cũng như giữa giai
cấp thống trị với các giai cấp và tầng lớp
bên dưới.
Đến đây, chúng ta cũng có thể phân biệt
giữa xã hội dân sự với xã hội công dân(3).
(d) Hình thái xã hội dân sự chỉ xuất hiện
khi ra đời hình thái kinh tế-xã hội tư bản
chủ nghĩa, trong khuôn khổ của hình thức
nhà nước hiện đại tương ứng là nhà nước
pháp quyền. Do đó, xã hội dân sự chỉ thực
sự tồn tại khi xác lập được một nhà nước
pháp quyền đúng nghĩa và lành mạnh.
Định nghĩa trên đây về xã hội dân sự, theo
chúng tôi, không phải là một định nghĩa
chính trị học hay luật học, mà là một định
nghĩa xã hội học chính trị hay triết học
chính trị. Định nghĩa này coi xã hội dân sự
như một khái niệm phân tích (concept
analytique), tức là nó mang tính trừu tượng
Định nghĩa về xã hội dân sự mà chúng tôi
đề xuất trên đây có thể được hiểu như bao
hàm cả hai nghĩa: (a) "xã hội dân sự" theo
nghĩa hẹp, hay nói đúng hơn là theo nghĩa
của Hegel, nhấn mạnh tới tính chất cộng
đồng cá nhân hay "con người"; và (b) "xã
hội công dân", nhấn mạnh tới tính chất
cộng đồng công dân của một nhà nước/
quốc gia (citizen, citoyen, hay Bürger).
Xét về mặt luật pháp, "xã hội dân sự" (theo
nghĩa hẹp) là nơi chịu sự chi phối của
những đạo luật liên quan tới lĩnh vực dân
sự, hay nói chính xác hơn là lĩnh vực tư
pháp (droit privé, đối lập với công pháp,
droit public), tức lĩnh vực quan hệ giữa các
thể nhân và pháp nhân với nhau (như Luật
Dân sự, Luật Thương mại, Luật Lao
động...). Khi nói tới khái niệm "xã hội công
dân", người ta chú trọng tới vị trí, vai trò và
mối quan hệ giữa cộng đồng con người có
20
TRAÀN HÖÕU QUANG – HÖÔÙNG ÑEÁN MOÄT KHAÙI NIEÄM XAÕ HOÄI…
tư cách công dân đối với nhà nước/quốc
gia, nhưng nội dung này vẫn nằm trong
khuôn khổ định nghĩa tổng quát về xã hội
dân sự (theo nghĩa rộng) mà chúng tôi đã
nêu trên.
Đứng trên bình diện cá nhân, có thể nói
rằng mỗi con người chúng ta đều luôn luôn
phải đảm nhiệm ba tư thế khác nhau trong
cuộc sống của mình: (a) tư thế thành viên
của một gia đình (tư thế này thuộc lĩnh vực
đời sống riêng tư); (b) tư thế một người lao
động (tìm kế sinh nhai), một khách hàng
(khi đi chợ chẳng hạn) hay thành viên của
một tổ chức, hiệp hội, đoàn thể (đây là lĩnh
vực đời sống công cộng); và (c) tư thế
công dân (thuộc về một nhà nước/quốc
gia, và xét trong mối quan hệ với nhà
nước/quốc gia). Ngay như một công chức
nhà nước chẳng hạn, sau giờ làm việc ở
công sở, cá nhân anh ta/chị ta vẫn phải
đảm nhiệm hàng ngày cả ba tư thế này:
vẫn phải đi chợ, đi đón con, và cũng không
hề được miễn trừ nghĩa vụ công dân của
chính mình đối với nhà nước. Cả hai tư thế
b và c đều diễn ra trong lòng xã hội dân
sự.
THAY LỜI KẾT
Khi phân tích về mối quan hệ giữa kinh tế
thị trường với nhà nước pháp quyền và xã
hội dân sự ở Việt Nam, Trần Ngọc Hiên
nhận xét rằng đường lối chuyển sang kinh
tế thị trường vào năm 1986 đã "đặt viên
gạch đầu tiên" cho mối quan hệ này, sau
đó là "viên gạch thứ hai" với việc xác định
ý tưởng về nhà nước pháp quyền vào năm
2001 (qua văn kiện Đại hội IX của Đảng),
nhưng cho đến nay vẫn "chưa dám đặt
viên gạch thứ ba (là xã hội dân sự)" để
"tạo cơ sở đầy đủ cho mối quan hệ thể chế
kinh tế chính trị nước ta" (Trần Ngọc Hiên,
2008).
Trong khuôn khổ lý thuyết về mối quan hệ
giữa nhà nước và xã hội dân sự, chúng tôi
cho rằng, ngay từ năm 1986, công cuộc
"đổi mới" thực chất đã là một bước ngoặt
đánh dấu một tiến trình hoàn toàn mới
trong mối quan hệ giữa nhà nước với xã
hội dân sự - tuy mới chỉ là những thay đổi
chủ yếu giới hạn trong lĩnh vực kinh tế. Lúc
ấy, các định chế và các hoạt động kinh tế
được dần dà trao trả lại cho lĩnh vực dân
sự (thừa nhận quyền tự do kinh doanh, bãi
bỏ những biện pháp ngăn sông cấm chợ,
cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà
nước...). Tuy nhiên, kể từ đó tới nay, nhiều
định chế văn hóa và xã hội khác vẫn còn
chủ yếu nằm trong sự quản lý và vận hành
trực tiếp của nhà nước, tức là vẫn chưa
được dân sự hóa, chưa được trao trả cho
lĩnh vực dân sự, mặc dù cũng đã có những
chủ trương như chủ trương mang tên "xã
hội hóa" chẳng hạn.
Cần lưu ý ngay rằng khái niệm "dân sự
hóa" mà chúng tôi đề cập ở đây hoàn toàn
không tương ứng với khái niệm "tư nhân
hóa" (mặc dù nội hàm của khái niệm "dân
sự hóa" có thể bao hàm những biện pháp
tư nhân hóa, nghĩa là để cho tư nhân được
quyền tham gia hoạt động, đầu tư...). Nêu
vấn đề "dân sự hóa" ở đây có nghĩa là đặt
lại vấn đề về cấu trúc và về nội dung hoạt
động của các định chế xã hội (hiểu theo
nghĩa xã hội học, social institution) (Xem
thêm: Trần Hữu Quang, 2005; Cao Huy
Thuần, 2001): nhà nước hay chính quyền
ngày nay không phải và không thể là chủ
thể của mọi hoạt động xã hội, mà trái lại,
trong định chế nhà trường chẳng hạn,
chính thầy giáo mới là chủ thể của công
TRAÀN HÖÕU QUANG – HÖÔÙNG ÑEÁN MOÄT KHAÙI NIEÄM XAÕ HOÄI…
việc giảng dạy(5), hay trong định chế bệnh
viện, chính bác sĩ mới là chủ thể của công
việc chữa trị cho bệnh nhân.
Nhưng nói như vậy không có nghĩa là nhà
nước hoàn toàn không can dự gì tới
những lĩnh vực như giáo dục và y tế;
ngược lại, nhà nước (trong thời hiện đại)
luôn luôn phải đảm đương trách nhiệm
của mình đối với quyền được học tập và
được chăm sóc sức khỏe của nhân dân,
thông qua việc dành tỷ lệ thích đáng ngân
sách quốc gia cũng như cung ứng những
điều kiện cần thiết khác như chính sách,
luật lệ, đất đai... cho những lĩnh vực này.
Tuy vậy, nhà nước lại không phải và
không thể là người đứng ra trực tiếp dạy
học hay chữa bệnh cho người dân, mà
chính nhà trường và bệnh viện mới là
những định chế đảm đương những công
việc này. Trường công hay bệnh viện
công, tuy là những đơn vị của nhà nước,
nhưng không phải vì thế mà có thể coi
chúng như là những đơn vị nằm trong bộ
máy hành chính nhà nước. Nhà trường
hay bệnh viện không phải là những tổ
chức thuộc về định chế chính trị giống
như chính phủ, ủy ban nhân dân, các bộ,
các sở, tòa án... mà là thuộc về định chế
giáo dục và định chế y tế.
Chính vì không phân biệt rạch ròi giữa
chức năng cai trị (hay cai quản, hay nói
theo ngôn từ chính thống hiện nay là chức
năng "quản lý nhà nước" của các bộ, các
sở) với các chức năng chuyên môn nghề
nghiệp vốn thuộc về các định chế xã hội và
văn hóa (tức thuộc về lĩnh vực xã hội dân
sự) mà lâu nay vẫn còn tồn tại dai dẳng
hiện tượng "nhà nước hóa" hay "hành
chính hóa" nơi hầu hết các tổ chức văn
hóa, giáo dục, xã hội, kể cả các đoàn thể
21
và hiệp hội. Đặc trưng của tình hình này
cũng gần giống y hệt như tình hình các
doanh nghiệp quốc doanh và tập thể thời
bao cấp, đến khi "đổi mới" mới đặt ra yêu
cầu tách chức năng quản lý nhà nước ra
khỏi chức năng sản xuất-kinh doanh nơi
các bộ và các sở, hay yêu cầu phân biệt
rạch ròi giữa cơ quan chủ quản với các
đơn vị trực tiếp sản xuất-kinh doanh.
Cuối cùng, liên quan tới thực tiễn xã hội
Việt Nam ngày nay, chúng tôi muốn nói tới
hai hệ luận trong số nhiều hệ luận có thể
diễn dịch từ định nghĩa mà chúng tôi đề
xuất trên đây về khái niệm xã hội dân sự.
(a) Nếu đạt được sự đồng thuận cao, thì
các hoạt động của xã hội dân sự sẽ thúc
đẩy mạnh mẽ việc huy động các năng lực,
các sáng kiến và các khả năng khởi xướng
hết sức đa dạng của các tầng lớp xã hội
vào quá trình phát triển đất nước, và từ đó
sẽ mặc nhiên tăng cường cho sức mạnh
và tính hợp thức của chính nhà nước,
cũng như củng cố cho sự đoàn kết quốc
gia. Nhưng điều cần nhấn mạnh là sự
đồng thuận này chỉ có thể đạt được nếu
xác lập được sự "thống lãnh" (hegemony)
hay sự "lãnh đạo" về mặt văn hóa-tư
tưởng đối với xã hội dân sự, bằng cách
chủ động thiết lập những điều kiện pháp lý
và mở ra những điều kiện thực tế thuận lợi
cho các định chế của xã hội dân sự cũng
như các loại hoạt động tự nguyện đa dạng
được tự do hoạt động. Nguy cơ của tình
trạng đánh mất sự "thống lãnh" này là chỉ
còn lại sự "cưỡng chế" thuần túy của bộ
máy nhà nước đối với xã hội. Sự phát triển
lành mạnh và sôi động của đời sống xã hội
dân sự chính là thước đo của tính hợp
thức hay tính chính đáng (legitimacy) của
nhà nước.
22
TRAÀN HÖÕU QUANG – HÖÔÙNG ÑEÁN MOÄT KHAÙI NIEÄM XAÕ HOÄI…
(b) Vì xã hội dân sự là một khái niệm trừu
tượng và phức hợp, chứ không phải là một
định chế hay một tổ chức có hình hài cụ
thể theo một mô hình nhất định nào đó, và
vì khái niệm này gắn liền hữu cơ với khái
niệm nhà nước pháp quyền, nên nếu thực
sự muốn phát triển một xã hội dân sự lành
mạnh, điều tiên quyết và mấu chốt là làm
sao xây dựng cho được một nhà nước
pháp quyền. Bởi lẽ, suy cho cùng, chỉ có
trong khuôn khổ hình thức nhà nước pháp
quyền theo đúng nghĩa của từ này thì mới
có xã hội dân sự.
CHÚ THÍCH
(1)
Theo Ma Shu Yun, bài viết trong China
Quarterly, số 137, 1994 (Dẫn lại theo: Quý Đỗ,
2006).
(2)
Khi bàn luận về việc làm sao xây dựng lại vốn
xã hội ở Nga nói riêng và ở các nước Đông Âu
nói chung sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội theo
kiểu cũ sụp đổ, Robert Putnam từng cho rằng
phải mất hàng thế kỷ, nhưng cũng có một số tác
giả khác cho rằng chỉ cần vài chục năm (Xem:
Lene Hjollund, 2001).
(3)
Lý thuyết của Gramsci về xã hội dân sự cũng
đã được một số tác giả đương đại ít nhiều vận
dụng trong các công trình nghiên cứu của mình,
chẳng hạn như P. Ramasamy, "Civil Society in
Malaysia: An Arena of Contestations?", in Lee
Hock Guan (Ed.), Civil Society in Southeast Asia,
Singapore, Institute for Southeast Asian Studies,
2004; Muthiah Alagappa (Ed.), Civil Society and
Political Change in Asia: Expanding and Contracting
Democratic Space, Palo Alto, Stanford University
Press, 2004; Ingrid Landau, "Law and Civil
Society in Cambodia and Vietnam: A Gramscian
Perspective", Journal of Contemporary Asia, Vol.
38, No. 2, May 2008.
(4)
Theo chúng tôi, thuật ngữ "xã hội dân sự"
tương ứng với Civil Society (trong tiếng Anh),
Société Civile (Pháp) và Zivilgesellschaft (Đức);
còn "xã hội công dân" thì tương ứng với Civic
Society (tiếng Anh), Société Civique hay Société
des Citoyens (Pháp) và Bürgergesellschaft (Đức).
(5)
Xem thêm: Trần Hữu Quang. Hai căn bệnh
trong giáo dục. Tuổi trẻ, 24/2/2008, tr. 7.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cao Huy Thuần. 2001. Định chế: cái "đã" và
cái "đang". Tạp chí Thời đại. Số 5.
2. Cao Huy Thuần. 2004. Xã hội dân sự? Tạp
chí Thời đại mới. Số 3, www.tapchithoidai.
org/ThoiDai3/200403_CHThuan.htm.
3. Đặng Ngọc Dinh. 2006. Đừng sợ xã hội dân
sự! Tuổi trẻ cuối tuần, 21/5/2006.
4. Gramsci Antonio. 1975. Gramsci dans le
texte (François Ricci, Jean Bramant, Dir.),
traduction de J. Bramant, G. Moget, A. Monjo,
F. Ricci, Paris, Ed. Sociales.
5. Hjollund Lene, Martin Paldam, Gert
Tinggaard Svendsen. 2001. Social capital in
Russia and Denmark: A Comparative Study",
www.gov.si/zmar/conference/2001/pdf-konf/17paldam.pdf.
6. Lê Bạch Dương. 2008. Xã hội dân sự khỏe,
nhà nước khỏe. Pháp luật TPHCM, 23/4/2008.
7. Lê Văn Quang. 2004. Quan hệ giữa nhà
nước xã hội chủ nghĩa và đời sống xã hội dân
sự. Tạp chí Triết học, tháng 3/2004.
8. LI Peilin, Guo Yuhua, Liu Shiding. 2008. La
Sociologie Chinoise Face à la Transition
Sociale. In: Laurence Roulleau-Berger, Guo
Yuhua, Li Peilin, Liu Shiding (Dir.), La Nouvelle
Sociologie Chinoise. Paris, CNRS Editions.
9. Lochak Danièle. 1986. La Société Civile: du
Concept au Gadget. In: Jacques Chevalier et
al., La société civile. Paris, Presses Universitaires
de France.
10. Marshall Gordon (Ed.). 1998. A Dictionary
of Sociology, Oxford, New York, Oxford University
Press.
11. Moore Rebecca R. 2001. China's Fledgling
Civil Society: A Force for Democratization?",
World Policy Journal, Vol. 18, No 1.
TRAÀN HÖÕU QUANG – HÖÔÙNG ÑEÁN MOÄT KHAÙI NIEÄM XAÕ HOÄI…
12. Narozhna Tanya. 2004. Civil Society in the
Post-Communist Context: Linking Theoretical
Concept
and
Social
Transformation.
Demokratizatsiya, Spring 2004.
13. Nguyễn Khắc Viện (Chủ biên). 1994. Từ
điển xã hội học. Hà Nội: Nxb. Thế giới.
14. Nguyễn Ngọc Giao. 2009. Xã hội dân sự,
Trung Quốc và Việt Nam. Tạp chí Thời đại mới.
Số 15.
www.tapchithoidai.org/ThoiDai15/200915_Ngu
yenNgoc Giao.htm.
15. Nguyễn Quân. 2006. Vốn xã hội - Nguồn
lực hay cản trở?. Tạp chí Tia sáng, 8/5/2006.
16. Nguyễn Thanh Tuấn. 2007. Xã hội dân sự:
từ kinh điển Mác-Lênin đến thực tiễn Việt Nam
hiện nay. Tạp chí Cộng sản, số 12 (132).
17. Nguyễn Trần Bạt. 2007. Bàn về xã hội dân
sự. 15/8/2007, www.triethoc.com. vn/Desktop.
aspx/ChungTa-SuyNgam/Luat-Phap/Ban_ve_
xa_hoi_dan_su.
18. Nguyễn Trung. 2006. Bàn về vốn xã hội.
Tạp chí Tia sáng, 22/4/2006.
19. Nguyễn Văn An. 2007. Xã hội dân sự
trong mắt chuyên gia. Pháp luật TPHCM,
31/12/2007.
20. Phan Xuân Sơn (Nghĩa Nhân phỏng vấn).
2006. Xã hội dân sự yếu thì nhà nước yếu.
Pháp luật TPHCM, 21/6/2006.
21. Phùng Thị Huệ, Phạm Ngọc Thạch. 2007.
Xã hội công dân Trung Quốc: cơ sở hình thành
và môi trường chính sách. Tạp chí Triết học, số
7 (194).
22.
Polanyi
Karl.
2001.
The
Great
Transformation. The Political and Economic
Origins of Our Time (1944), Boston, Beacon
Press.
23. Quý Đỗ. 2006. Thế nào là "xã hội công
dân" ?, Tạp chí Tia sáng, 8/5/2006.
24. Roulleau-Berger Laurence, Guo Yuhua, Li
Peilin, Liu Shiding (Dir.). 2008. La nouvelle
sociologie chinoise, Paris, CNRS Editions.
25. Tôn Thất Nguyễn Thiêm. 2006. Vốn xã hội
23
nhìn từ tương quan giữa ba giác độ: Nhà nước,
thị trường, xã hội dân chính. Tạp chí Tia sáng,
12/7/2006.
26. Trần Hữu Quang. 2005. Phát triển các định
chế xã hội: Một trong những tiền đề xã hội của
quá trình phát triển ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Tạp chí Khoa học Xã hội. Số 11 (87).
27. Trần Hữu Quang. 2009a. Một số quan niệm
cổ điển về xã hội dân sự. Tạp chí Khoa học Xã
hội, số 07 (131).
28. Trần Hữu Quang, 2009b. Một số quan niệm
đương đại về xã hội dân sự. Tạp chí Khoa học
Xã hội, số 12 (136), 2009.
29. Trần Ngọc Hiên. 2008. Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa với nhà nước
pháp quyền và xã hội dân sự nước ta. Tạp chí
Cộng sản, số 10 (154).
30. Tương Lai. 2005. Nhà nước pháp quyền và
xã hội dân sự. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp,
11/2005.
31. Võ Khánh Vinh. 2008. Một số vấn đề lý
luận về xã hội dân sự. Tạp chí Khoa học Xã
hội, số 04 (116).
32. Xã hội dân sự. 2007. Tạp chí Cộng sản. Số
12 (132).