Vấn đề cạnh tranh công chúng giữa báo điện tử và báo in
(Bài đăng trên tạp chí Xã Hội Học, Số 4/2008)
Nguyễn Thu Giang
I. Dẫn nhập
Những năm qua, các phương tiện truyền thông đại chúng đang góp phần làm thay
đổi nhanh chóng hầu như mọi lĩnh vực trong đời sống văn hoá xã hội trên toàn thế giới
nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Cách đây nhiều thế kỷ, loại hình truyền thông cổ điển nhất là báo in ra đời, mở ra
khả năng tiếp cập thông tin cho quảng đại quần chúng - điều trước kia bị bó hẹp bởi
quyền lực nhà thờ. Sau sự thống trị của báo in trong một thời gian khá dài, sự xuất hiện
của phát thanh đã thúc đẩy những nghiên cứu truyền thông đại chúng mang tính hệ thống
đầu tiên, đặc biệt là về quá trình và hiệu quả truyền thông. Nửa sau thế kỷ XX, sự xuất
hiện của ti vi lại đặt ra nhiều câu hỏi cho những nhà nghiên cứu truyền thông về vị trí, tác
động và sức mạnh của nó.
Tương tự như vậy, sự xuất hiện của internet không chỉ là một thách thức đối với
loại hình truyền thông cũ, mà còn là một thách thức không nhỏ cho những người nghiên
cứu truyền thông. Những câu hỏi khá bi quan được đặt ra, chẳng hạn như liệu một ngày
nào đó, internet có khiến báo in “tuyệt chủng”? Liệu sức tác động của internet với công
chúng có mạnh mẽ như sức tác động to lớn của ti vi? Liệu vào thời hậu 11/9, tính dân
chủ, đa chiều của internet có đủ khả năng giúp nó thoát khỏi sự nhào nặn của những nhà
cầm quyền nhiều tham vọng?
Trong khi đó, sự xuất hiện của mạng internet trong đời sống truyền thông đại
chúng Việt Nam có thể coi là một bước tiến giúp Việt Nam rút ngắn khoảng cách với thế
giới. Trong xu hướng vừa hội nhập với truyền thông thế giới, vừa giữ khoảng cách trước
những ảnh hưởng tiêu cực từ nó, việc nghiên cứu về các phương tiện truyền thông đại
chúng ở Việt Nam nói chung và mạng internet nói riêng là một yêu cầu cấp thiết.
1
Hiện nay, trong nhiều hướng nghiên cứu truyền thông đại chúng, nghiên cứu công
chúng là một hướng truyền thống và có vai trò nên tảng để phát triển nghiên cứu theo các
hướng sâu hơn. Việc phân tích mối quan hệ giữa công chúng thủ đô Hà Nội với hành vi
đọc báo in và báo điện tử là một nỗ lực tìm kiến những số liệu và sự diễn giải có chiều
sâu hơn về sự phát triển và tác động của mạng internet đối với đời sống văn hóa-xã hội
nói chung và với các loại hình truyền thông cũ nói riêng. Các phân tích dưới dây được
trích ra từ đề tài thạc sĩ khoa học “Công chúng Hà Nội với việc đọc báo in và báo điện
tử” do học viên Nguyễn Thu Giang thực hiện trong năm 2007 tại Khoa Báo chí và
Truyền thông, ĐHKHXH&NV Hà Nội.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã:
- Điều tra bằng bảng hỏi với 450 cư dân nội thành trên 15 tuổi thuộc 4 quận là
Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Ba Đình, Thanh Xuân. Mẫu điều tra được lấy điển hình theo
giới tính và độ tuổi tại 18 địa điểm khác nhau thuộc 4 quận trên trong thời gian từ
23/6/2007 đến ngày 10/7/2007 bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp.
- Phỏng vấn sâu 10 trường hợp dân cư
- Phỏng vấn sâu một trường hợp thư ký tòa soạn báo điện tử.
Mục đích của nghiên cứu là đo lường cách thức và mức độ đọc báo in và báo điện
tử của các nhóm công chúng, từ đó, chỉ ra và lý giải mối tương quan giữa hành vi đọc báo
in và báo điện tử của công chúng Hà Nội: sự tương đồng, sự khác biệt, sự cạnh tranh.
Trên cơ sở này, nghiên cứu đưa ra những kiến nghị, đề xuất để góp phần tăng cường tính
hiệu quả truyền thông của báo in và báo điện tử.
II. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
a) Trên thế giới
Dưới góc độ nghiên cứu truyền thông, nhiều nghiên cứu quy mô lớn, nhỏ khác
nhau đã được tiến hành trên thế giới nhằm tìm hiểu những vấn đề mà mạng internet đặt
ra.
Một trong những cơ quan nghiên cứu tiến hành nhiều nghiên cứu lịch đại nhất về
mạng internet nói chung và tin tức trên internet nói riêng là Viện nghiên cứu báo chí và
con người PEW của Mỹ. Một nghiên cứu lớn của PEW có tên “Dự án nghiên cứu internet
2
và cuộc sống người Mỹ” (PEW Internet & American Life Project) chủ yếu sử dụng
phương pháp điều tra bằng bảng hỏi trên phạm vi toàn nước Mỹ đã liên tục đưa ra những
báo cáo về công chúng internet ở Mỹ cũng như khả năng tiếp cận, sử dụng và mức độ hài
lòng của họ đối với tin tức trên mạng internet. Nghiên cứu mới nhất (năm 2006) của
PEW chỉ ra nhiều đặc điểm của truyền thông internet, trong đó có những điểm sau:
- Lượng người sử dụng mạng internet liên tục tăng với tốc độ đáng ngạc nhiên.
- 40% số người có đường truyền băng thông rộng coi tin tức trên mạng internet là
nguồn tin quan trọng.
- Mức độ sử dụng mạng internet tỉ lệ nghịch với độ tuổi của công chúng Mỹ.
- Công chúng sẵn lòng đăng ký đọc tin những không sẵn lòng trả tiền. 1
Trả lời câu hỏi liệu mạng internet có liên quan tới việc sụt giảm lượng công chúng
của báo in, truyền hình và phát thanh hay không, đáng chú ý có nghiên cứu của nhóm tác
giả Guide H. Stempel III, Thomas Hargrove và Joseph P. Bernt dựa trên một cuộc điều
tra bảng hỏi trên phạm vi toàn nước Mỹ vào cuối năm 1999. Điều thú vị là trong khi kết
quả nghiên cứu tiếp tục cho thấy sự giảm sút lượng độc giả của những truyền hình, phát
thanh và báo in thì nó cũng đồng thời cho thấy mạng internet không phải là nguyên nhân
dẫn tới tình trạng này. Những người có xu hướng sử dụng mạng internet để đọc tin tức
cũng chính là những người thường xuyên đọc báo in và nghe radio. 2 Một nghiên cứu của
Viện nghiên cứu PEW năm 1999 trên phạm vi toàn nước Mỹ cũng đưa ra những kết luận
khá trùng khớp với nghiên cứu này. 3
Trong khi đó, một nghiên cứu do nhóm học giả người Hà Lan gồm Klaus
Schoenbach, Ester de Waal và Edmund Lauf tiến hành bằng phương pháp điều tra bảng
hỏi với 1000 người Hà Lan (công bố kết quả năm 2005) cho thấy báo in có khả năng mở
rộng diện quan tâm của người đọc đối với những vấn đề xã hội, do đặc thù của báo in là
cung cấp thông tin trong một chỉnh thể trọn vẹn (một tờ báo). Trái lại, số lần truy cập báo
điện tử phản ánh việc tìm kiếm tin tức nóng (alarm medium), trong khi, thời lượng sử
1
Viện nghiên cứu PEW, Báo cáo dự án PEW Internter & American life project. http://www.pewinternet.org/
Guide H. Stempel III, Thomas Hargrove, Joseph P. Bernt, Relation of growth of use of the internet to changes in
media use from 1995 to 1999, Journalism and Mass Communication Quarterly, Số Mùa xuân 2000, trang 71.
3
Viện nghiên cứu PEW, Báo cáo dự án công chúng internet Mỹ năm 1999. http://www.pewinternet.org/
2
3
dụng báo điện tử lại làm tăng thêm độ sâu của thông tin tìm kiếm chứ không làm mở rộng
diện quan tâm của người đọc đối với những vấn đề xã hội. 4
Việc điểm qua một vài nghiên cứu được công bố trên các tạp chí nghiên cứu
truyền thông lớn trên thế giới cho thấy trong khoảng thời gian 10 năm gần đây, đã có
không ít nghiên cứu liên quan việc cạnh tranh độc giả giữa báo điện tử vào báo in. Những
nghiên cứu rất có giá trị ở chỗ nó giúp phác ra xu hướng phát triển chung của thế giới,
cũng như định hướng nghiên cứu cho nghiên cứu của chúng tôi.
b) Ở Việt Nam
Về công chúng Internet, Viện Văn hoá - Thông tin đã cho công bố công trình của
tác giả Bùi Hoài Sơn về “Ảnh hưởng của internet đối với thanh niên Hà Nội” sử dụng
phương pháp điều tra bảng hỏi. Đây là công trình nghiên cứu có giá trị tham khảo tốt đối
với nghiên cứu này, vì lẽ nó tiếp cận cùng một địa bàn nghiên cứu (Hà Nội), cùng liên
quan tới một loại hình truyền thông là mạng internet. Tuy nhiên, tác giả không trình bày
kỹ lưỡng về quá trình chọn mẫu cho nghiên cứu, nên người đọc khó đánh giá được mức
độ tin cậy của số liệu.5
Cũng hướng tới đối tượng là công chúng của mạng internet còn có luận văn thạc
sĩ của tác giả Phan Thị Diễm về “Tác động của việc sử dụng internet đến mạng lưới quan
hệ xã hội của học sinh, sinh viên”, nghiên cứu trường hợp tỉnh An Giang vào năm 2007.
Ngoài ra, còn nhiều nghiên cứu khác về mạng internet nhưng chủ yếu nghiêng về
góc độ báo chí học hoặc kỹ năng nghề nghiệp.
III. Tóm tắt kết quả nghiên cứu
Trên cơ sở những câu hỏi nghiên cứu cùng với những kết quả khảo sát thu được,
chúng tôi đưa ra một vài kết luận về sự cạnh tranh độc giả giữa báo in và báo điện tử,
đồng thời đưa ra một số kiến nghị góp phần tăng cường chất lượng truyền thông của các
phương tiện này.
4
Klaus Schoenbach, Ester de Waal and Edmund Lauf, Online and Print Newspapers Their Impact on the Extent of the
Perceived Public Agenda, European Journal of Communication, Số 20(2), trang 245–258.
5
Bùi Hoài Sơn, Ảnh hưởng của Internet đối với thanh niên Hà Nội, NXB KHXH, Hà Nội, 2006.
4
Do đây là một nghiên cứu mang tính trường hợp, chỉ khảo sát với quy mô vừa trên
một địa bàn rộng và phức tạp nên những kết luận dưới đây vừa mang tính thực chứng,
vừa có mục đích gợi mở cho những nghiên cứu, thảo luận tiếp theo.
III.1. Báo điện tử phát triển mạnh nhưng không cạnh tranh loại trừ với báo in
III.1.1. So sánh tần suất đọc báo điện tử và báo in
Tần suất theo dõi các phương tiện truyền thông đại chúng là chỉ số rất có ý nghĩa
trong việc nghiên cứu hoạt động giao tiếp đại chúng. Ở mỗi khu vực, mỗi trình độ phát
triển của xã hội thì mức độ theo dõi phương tiện truyền thông đại chúng của cư dân lại có
những đặc trưng riêng. Vì thế, tần suất theo dõi các phương tiện truyền thông đại chúng
không chỉ phản ánh sự lựa chọn của công chúng với mỗi loại phương tiện mà còn phản
ánh trình độ phát triển của mỗi xã hội.
Kết quả so sánh câu trả lời cho câu hỏi “Ông bà có thường xuyên đọc báo in/báo
điện tử không?” như sau:
Bảng 1: Mức độ đọc báo in và báo điện tử của mẫu điều tra cư dân nội thành Hà Nội từ 15 tuổi
trở lên. (%)
Báo điện tử
Tần suất đọc
Báo in
Trên toàn
mẫu
Trên số
người có
vào mạng
Gần như hàng ngày
51.6
28.3
46.8
Mỗi tuần vài lần
26.9
16.7
27.9
Mỗi tháng vài lần
10.0
8.4
14.1
Hầu như không đọc6
11.6
6.4
11.2
Chưa từng vào mạng
/
40.2
/
100.0
450
100.0
450
100.0
272
Tổng
Bảng 1 cho thấy có khoảng cách không nhỏ giữa tần số đọc báo in và báo điện tử
đối với công chúng thủ đô. Báo in vẫn được ưa chuộng hơn với tỉ lệ đọc thường xuyên rất
6
Đối với trường hợp báo điện tử thì nhóm “hầu như không đọc” chỉ nhóm những người có sử dụng mạng
nhưng không đọc báo điện tử.
5
cao. Hơn 1/2 cư dân Hà Nội đọc báo in hàng ngày và hơn 1/4 theo đọc báo in vài lần mỗi
tuần. Chỉ có 11% số người được hỏi không theo dõi báo in.
Trong khi đó, chỉ khoảng 1/4 cư dân Hà Nội đọc báo điện tử hàng ngày. So với báo
in thì tỉ lệ này còn thấp (mới bằng một nửa), nhưng vẫn là những con số rất khả quan nếu
tính tới chuyện có tới 40% số người chưa từng vào mạng internet - tức là cũng không thể
nào tiếp cận được báo điện tử.
Nếu chỉ tính trên những người có sử dụng mạng internet thì việc đọc báo điện tử đã
thực sự là một thói quen. Có đến 47% số người có sử dụng internet đọc báo điện tử hàng
ngày và 28% đọc báo điện tử hàng tuần. Như vậy, có tới 3/4 số người có sử dụng mạng
coi báo điện tử là một phương tiện thu nhận tin tức thường xuyên. Ngoài ra, tần suất đọc
báo điện tử và báo in ở nhóm người này xấp xỉ nhau, cho thấy thói quen đọc báo điện tử
nhanh chóng bắt kịp thói quen đọc báo in vốn đã hình thành từ lâu.
Đây là những con số rất đáng mừng đối với những người làm báo điện tử vì nó
phần nào cho thấy những nỗ lực thu hút độc giả của các toà soạn điện tử. Đồng thời,
những người làm báo in vẫn có thể lạc quan bởi kết quả điều tra không ủng hộ giả thuyết
về việc báo điện tử làm sụt giảm tỉ lệ đọc báo in. Loại hình báo chí lâu đời nhất này vẫn
được người dân Hà Nội ưa chuộng với mức độ theo dõi không thay đổi đáng kể so với
trước.
III.1.2. Hành vi đọc báo điện tử không ảnh hưởng nhiều đến hành vi đọc báo in
Kết quả so sánh tần suất đọc hai loại hình truyền thông cho thấy báo điện tử tồn tại
với tư cách là một “lựa chọn thêm” cho công chúng hơn là một đối thủ cạnh tranh của
báo in. Mặc dù việc cạnh tranh giữa hai loại hình là tất yếu, nhưng xu hướng cùng tồn tại
và bổ sung lẫn nhau rất mạnh mẽ.
Báo in, loại hình truyền thông lâu đời nhất tiếp tục được ưa thích ngay ở những
người thường xuyên đọc báo mạng. Bằng chứng là số người chỉ đọc báo điện tử mà
không đọc báo in rất thấp, trong khi tỉ lệ đọc cả hai loại báo khá cao (trong nhóm sử
dụng internet, có tới 78% số người đã theo dõi báo điện tử những vẫn tiếp tục đọc báo
in). Kết quả phân tổ cho thấy có sự phân hoá về nhóm bạn đọc từng loại báo, và báo điện
6
tử cũng đã chiếm được một lượng độc giả riêng nhất định. Tuy nhiên, tỉ lệ này không cao
đến mức được coi là một mối đe doạ cho báo in (chỉ chiếm 6% toàn mẫu).
Bảng 2. Các nhóm độc giả báo in và báo điện tử của mẫu điều tra cư dân nội thành Hà Nội trên
15 tuổi.
Số lượng
(người)
Tỉ lệ
(%)
Chỉ đọc báo in mà không đọc báo điện tử 7
185
41.1
Chỉ đọc báo điện tử mà không đọc báo in
26
5.8
213
47.3
26
5.8
450
100.0
Đọc cả báo in lẫn báo điện tử
Không đọc cả hai loại
Tổng
Như vậy, cuộc điều tra của chúng tôi về hành vi đọc báo in và báo mạng của cư
dân nội thành Hà Nội cũng cho kết quả khá tương đồng với các xu hướng trên thế giới.
Rõ ràng, lo ngại về nguy cơ cạnh tranh theo kiểu phương tiện mới “tiêu diệt” phương tiện
cũ là ít có căn cứ. Do vậy, vấn đề đặt ra với cả hai loại hình báo điện tử và báo in không
phải là cạnh tranh mà là cùng tồn tại và tìm ra những chiến lược để đáp ứng nhu cầu liên
tục thay đổi bạn đọc. Không chỉ có báo in mà chính các tờ báo điện tử cũng chỉ là một
trong rất nhiều lựa chọn cho độc giả ngày nay, và chính các tờ báo điện tử cũng đứng
trước nguy cơ thất bại nếu không có cách níu chân các người đọc.
III. 3. Báo in và báo điện tử tồn có những ưu thế riêng
Kết quả điều tra về nhận định của công chúng khi so sánh báo điện tử và báo in
một lần nữa cho thấy xu hướng cạnh tranh loại trừ khó có thể tồn tại giữa hai loại hình
báo chí này. Đối với công chúng, mỗi loại hình có những ưu thế riêng, được trình bày
trong bảng sau:
Bảng 3. Kết quả so sánh báo in và báo điện tử của mẫu điều tra cư dân nội thành Hà Nội trên 15
tuổi (chỉ tính trên những người có đọc cả báo in lẫn báo điện tử).
7
Nhóm chỉ đọc báo in mà không đọc báo điện tử tuy chiếm hơn 40% toàn mẫu nhưng cần tính tới việc
trong số đó có tới gần 80% chưa từng sử dụng mạng, tức là hoàn toàn không có cơ hội tiếp xúc với báo
điện tử.
7
Báo điện tử
So với báo in
Đặc điểm về nội dung
Độ cập nhật của tin tức
Hơn nhiều
Tính giật gân của tin tức
Hơn một chút
Tính hấp dẫn của tin tức
Hơn một chút
Chiều sâu của tin tức
Kém nhiều
Độ tin cậy của tin tức
Kém nhiều
Đặc điểm về tính năng
Độ phong phú của tin tức
Hơn nhiều
Tính năng thảo luận
Hơn nhiều
Tính năng lưu trữ
Kém một chút
Khỏi mất tiền mua báo
Hơn một chút
Tính thuận tiện khi tìm đọc tin tức
Hơn nhiều
Khó đọc vì phải vào mạng
Hơn nhiều
Ghi chú: Mức độ “nhiều” được dùng khi khoảng cách giữa lựa chọn “đồng ý” và “không đồng
ý” khi so sánh hai phương tiện lớn hơn 20%, và “một chút” được dùng khi khoảng cách này nhỏ
hơn 20%.
Như vậy, theo nhận định của công chúng, báo in có ưu thế về chất lượng nội dung
(chiều sâu và độ tin cậy), trong khi báo điện tử lại nổi trội về tính năng và độ nóng.
Kết quả phỏng vấn sâu ghi lại cuộc đối thoại giữa một nam kỹ sư thuỷ lợi 30 tuổi
(thường xuyên đọc cả báo in lẫn báo điện tử) với điều tra viên:
- “Tại sao anh đọc cả báo điện tử lẫn báo in dù tin tức hai bên thường trùng nhau?
- À! Cái thứ nhất là báo điện tử cập nhật nhanh hơn này, và được nhiều trang hơn,
24/24 giờ đều có tin cả. Còn báo giấy thực ra mình chỉ mua được một tờ nào đấy
thôi đúng không? Một tờ nào đấy mà mình thích, thế thôi!
- Thế ưu điểm của báo in thì sao ạ?
- Xem (báo in) một thời điểm nào đó khi được phát hành nên thông tin cô đọng
hơn. Đọc báo in mình được suy ngẫm. Về hình thức thì báo điện tử chắc chắn là
8
hơn rồi đúng không? Mạng miếc nó phải hơn chứ, nhưng báo in thực ra là tin tức
nó sâu sắc hơn. Trên báo điện tử chỉ là một mẩu tin. Nó chỉ cập nhật thông tin thôi
chứ không đề cập vấn đề một cách sâu sắc!
Như vậy, báo in tiếp tục tồn tại cùng với sự ra đời của phát thanh, truyền hình và
báo điện tử bởi lẽ nó có chiều sâu và đáng tin cậy. Trong khi đó, báo điện tử lại nổi trội
hơn hẳn báo in ở nhiều phương diện khác, trong đó, độ thuận tiện, tính hấp dẫn và độ
nóng của thông tin được xếp hạng cao hơn hẳn báo in. Tuy nhiên, báo in vẫn có đầy đủ
khả năng tồn tại vì một sản phẩm chỉ cần đáp ứng tốt một đoạn nhu cầu của công chúng
là nó đã có lý do để tồn tại trên thị trường.
III.4. Báo in và báo điện tử có nhiều khác biệt về giới độc giả
Nhiều số liệu từ cuộc điều tra của chúng tôi cho thấy hai loại hình truyền thông này
có sự phân hóa về công chúng khá rõ rệt.
Trước hết, hành vi đọc báo điện tử có sự liên hệ chặt chẽ với biến tuổi tác và trình
độ học vấn hơn hẳn hành vi đọc báo in. Ở hành vi đọc báo in có mối tương quan tỉ lệ
thuận nhưng không rõ nét. Người lớn tuổi đọc báo in nhiều hơn, nhưng người trẻ tuổi
cũng không từ bỏ hẳn báo in mà chỉ đọc với tần suất thấp hơn (nhóm tuổi dưới 35 tuy có
tỉ lệ đọc báo in hàng ngày thấp hơn, nhưng lại có tỉ lệ đọc báo in hàng tuần cao hơn hẳn).
Trong khi đó, mức độ ảnh hưởng của tuổi tác đến hành vi đọc báo điện tử rõ rệt
hơn nhiều, thể hiện qua mối tương quan tỉ lệ nghịch một cách chặt chẽ giữa tuổi tác với
cả tỉ lệ đọc lẫn tần suất đọc. Nhóm trẻ tuổi từ 15 - 34 rất thường xuyên đọc báo điện tử
với tuần suất đọc đậm đặc hơn hẳn.
Bảng 4. Tần suất đọc báo điện tử theo nhóm tuổi của mẫu điều tra cư dân nội thành Hà
Nội từ 15 tuổi trở lên (tính trên toàn mẫu)
Tần suất đọc
báo điện tử
Nhóm tuổi
Gần như
hàng ngày
(%)
Mỗi tuần
vài lần
(%)
Mỗi tháng
vài lần
(%)
Hầu như
không
(%)
Chưa từng
vào mạng
(%)
Tổng
(%)
Từ 15-24 tuổi
44.6
22.8
23.9
6.5
2.2
100.0
Từ 25-34 tuổi
46.4
22.7
6.2
7.2
17.5
100.0
Từ 35-44 tuổi
25.3
20.5
6.0
6.0
42.2
100.0
Từ 45-54 tuổi
13.9
10.1
3.8
6.3
65.8
100.0
9
Từ 55-64 tuổi
Trên 65 tuổi
Tổng
13.2
11.3
.0
5.7
69.8
100.0
4.4
2.2
4.4
6.7
82.2
100.0
28.3
16.7
8.5
6.5
40.1
100.0
Trình độ học vấn cũng liên quan chặt chẽ tới hành vi đọc báo điện tử. Mức độ và
tần suất đọc báo điện tử tăng đều đặn tương ứng với độ tăng mỗi cấp học, đặc biệt cao
hơn hẳn ở những người có trình độ đại học và sau đại học. Trong khi đó, ở báo in, biến
trình độ học không có ảnh hưởng rõ rệt đối với tỉ lệ và tần suất đọc.
Điều này cho thấy sự khác biệt khá rõ giữa báo in vào báo điện tử dưới góc độ trình
độ tiếp nhận cũng như lịch sử phát triển. Báo in đã trở nên quen thuộc với cư dân đô thị
sau cả một thế kỷ tồn tại, vì thế, ai cũng có thể tìm được một tờ báo in phù hợp với trình
độ của mình. Trong khi đó, báo điện tử chỉ vừa mới xuất hiện, lại cần tới những kỹ năng
cơ bản trong việc sử dụng máy tính và mạng internet, vì thế, nó trước tiên phổ biến đối
với nhóm có trình độ học vấn cao. Trong tương lai, khi máy tính và mạng internet trở nên
phổ cập hơn, chắc chắn việc đọc báo điện tử sẽ trở nên gần gũi hơn với những người có
trình độ học vấn thấp.
B 1Bảng 2.5. Tần suất đọc báo điện tử theo trình độ học vấn của mẫu điều tra cư dân nội thành Hà
Nội từ 15 tuổi trở lên (%)
Tần suất đọc
Gần như
báo điện tử
hàng
ngày
Trình độ học vấn
Mỗi
tuần vài
lần
Mỗi
tháng vài
lần
Hầu
như
không
Chưa
từng vào
mạng
Tổng
Tiểu học - Trung
học cơ sở
1.9
0.0
5.8
9.6
82.7
100.0
10
Trung học phổ
thông - trung cấp
14.2
10.3
10.3
5.8
59.4
100.0
155
42.5
24.8
8.4
5.6
18.7
100.0
214
50.0
23.1
3.8
11.5
28.4
16.8
8.5
6.5
Đại học - Cao đẳng
Sau đại học
11.5
Tổng
39.8
100.0
26
100.0
447
10
Ngoài ra, chúng ta cũng thấy sự khác biệt rất rõ rệt, nếu không nói là trái ngược
giữa chân dung những người chỉ đọc báo in và những người chỉ đọc báo điện tử. Tổng
hợp kết quả điều tra cho thấy đặc trưng riêng của từng nhóm như trình bày ở Bảng 5.
Bảng 5. So sánh đặc điểm nhóm công chúng chỉ đọc báo in (41%) và nhóm chỉ đọc báo
điện tử (6%)
Chân dung nhóm chỉ đọc báo Chân dung nhóm chỉ đọc báo điện
in
tử
Không dùng internet
Ưa chuộng internet
Nhóm trên 35 tuổi chiếm ưu thế
Nhóm dưới 35 tuổi chiếm ưu thế
Nữ giới chiếm số đông
Nam giới chiếm số đông
Ưa đọc thông tin về an ninh.
Ưa đọc mảng tin tức thời sự
Những sự khác biệt nêu trên cho phép chúng ta nghĩ tới sự tồn tại của một nhóm
công chúng khá đặc thù, sớm tiếp cận mạng internet và báo điện tử. Đó chính là nhóm
công chúng chỉ đọc báo điện tử (hoàn toàn bỏ ngừng đọc báo in). Trong khi đó, những
phác thảo về nhóm chỉ đọc báo in lại cho thấy phần nào chân dung những người chậm
tiếp nhận công nghệ mới, và sẽ chỉ chấp nhận sử dụng mạng internet vào giai đoạn muộn
của quá trình khuếch tán.
Tóm lại, sự khác biệt về công chúng của hai loại hình báo in và báo điện tử một lần
nữa cho thấy xu hướng cùng tồn tại và bổ sung cho nhau của hai loại hình truyền thông
này. Ngoài ra, chúng ta có thể dự đoán rằng tốc độ khuếch tán của thói quen đọc báo điện
tử ở Hà Nội đang ở chưa qua đỉnh điểm (với tỉ lệ theo dõi báo điện tử hàng ngày và hàng
tuần mới đạt khoảng 40%) và sẽ còn tăng nhanh trong những năm tới.
IV. Các kiến nghị nhằm tăng cường chất lượng các tờ báo in và báo điện tử
IV. Một vài kiến nghị đối với báo in
11
Trên cơ sở những kết quả điều tra đã trình bày ở trên, chúng tôi có một số đề xuất
đối với mỗi loại hình báo in và báo điện tử. Đối với báo in, chúng tôi có những đề xuất
như sau :
- Các tờ báo in cần xem lại tính thân thiện của sản phẩm báo chí khi đến tay công
chúng. Kết quả nghiên cứu cho thấy ngoài chiều sâu và độ tin cậy được đánh giá cao, báo
in thua kém hẳn báo điện tử ở sự thuận tiện, độ hấp dẫn. Điều này có nghĩa là báo in vẫn
bị coi nhưng một sản phẩm khá bảo thủ, có khoảng cách và chậm thay đổi.
- Thứ hai, những nỗ lực làm thân thiện tờ báo cũng là nỗ lực hiệu quả nhất để thu
hút độc giả trẻ. Trong khi mức độ đọc báo điện tử tỉ lệ nghịch với tuổi tác thì báo in lại
có xu hướng ngược lại. Có nghĩa là, người càng cao tuổi càng ưa chuộng báo in hơn.
Không có gì khẳng định rằng những độc giả trẻ của hôm nay, một khi đã ưa thích báo
điện tử và mạng internet sẽ quay trở lại với báo in như các bậc phụ huynh của họ. Vì thế,
nỗ lực giành lại bạn đọc trẻ tuổi của báo in là hết sức cần thiết để đảm bảo nguồn bạn đọc
ổn định và bền vững cho báo trong tương lai.
- Thứ ba, dù thay đổi thế nào thì báo in cũng cần cân nhắc xem sự thay đổi sẽ phải
trả giá về chiều sâu và độ tin cậy của thông tin tên báo ra sao vì đây là gần như là hai ưu
thế duy nhất của báo in mà công chúng vẫn đánh giá rất cao.
3.7. Các kiến nghị nhằm tăng cường chất lượng các tờ báo điện tử
Đối với báo điện tử, tất cả mới trong giai đoạn bắt đầu. Cơ hội lựa chọn báo điện tử
của công chúng Việt Nam vẫn còn rất ít ỏi vì chúng ta chỉ có 3 tờ báo điện tử thực sự có
đội ngũ phóng viên độc lập cùng với một số tờ khác là phiên bản điện tử của báo in. Trên
cơ sở các kết quả nghiên cứu, chúng tôi có một số kiến nghị đối để nâng cao chất lượng
loại hình báo điện tử:
- Để đảm bảo độ nóng của tờ báo, các tờ báo điện tử có thể không đáp ứng nhu cầu
của độc giả về chiều sâu của thông tin. Tuy nhiên, các tờ báo điện tử cần cải thiện độ tin
cậy của tin tức vì nhìn chung, công chúng đánh giá báo in có độ tin cậy cao hơn hẳn báo
điện tử.
- Chính các tờ báo điện tử phải cảnh giác với những tờ báo in vì phiên bản điện tử
của các tờ báo in có uy tín rất dễ trở thành đối thủ cạnh tranh với các tờ báo điện tử độc
12
lập. Trong trường hợp ở nước ta xuất hiện các tập đoàn báo chí thì tương lai các phiên
bản điện tử sẽ rất lạc quan nhờ được rót kinh phí và nhân lực.
- Các tờ báo điện tử cần khai thác tối đa các ưu thế về tính năng được công chúng
đánh giá cao. Đó là ưu thế thuận tiện, tìm kiếm thông tin dễ dàng, tính năng thảo luận,
phản hồi, tương tác và đa phương tiện. Những ưu thế này là đặc trưng mà không một loại
hình báo chí nào khác có được nhưng hiện chưa được các tờ báo điện tử ở Việt Nam tận
dụng vì nhiều tờ báo điện tử vẫn mang nặng tư duy của báo in.
Các kiến nghị trên đây được nêu ra với hy vọng đưa lại những chủ đề thảo luận có
ích. Do báo điện tử có một lượng công chúng là người Việt Nam ở nước ngoài khá đông
đảo không nằm trong phạm vi nghiên cứu cứu này nên các kiến nghị nêu trên chỉ có tính
chất gợi mở và chỉ xuất phát từ kết quả nghiên cứu công chúng khu vực nội thành Hà
Nội.
13