Academia.eduAcademia.edu
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH -----o0o----- Trần Thị Kim Nghi VHNN831136 VĂN HOÁ MẶT TRĂNG TRONG THƠ ĐƯỜNG TRUNG QUỐC (LÝ BẠCH) Chuyên ngành: VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS. ĐINH PHAN CẨM VÂN Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 3 năm 2021 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 2 1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 2 2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................................... 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 4 4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 4 NỘI DUNG .......................................................................................................................... 5 Chương 1: VĂN HOÁ MẶT TRĂNG TRONG QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC ............................................................................................................... 5 1.1. “Mặt trăng” trong nhận thức thẩm mỹ ........................................................... 5 1.2. “Mặt trăng” trong tư duy hình tượng hoá....................................................... 5 1.3. “Mặt trăng” dưới hệ thống các biểu tượng .................................................... 7 Chương 2: VĂN HOÁ MẶT TRĂNG TRONG TƯ DUY DÂN GIAN VÀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC ................................................................................................... 13 2.1. Bắt nguồn từ truyền thuyết dân gian về Hằng Nga – Hậu Nghệ ............... 13 2.2. Bắt nguồn từ tư tưởng triết học về Âm – Dương ........................................ 15 Chương 3: VĂN HOÁ MẶT TRĂNG TRONG THƠ ĐƯỜNG LÝ BẠCH............ 17 3.1. Đôi nét về văn hoá “Mặt trăng” trong thơ Đường Trung Quốc ................... 17 3.2. Bàn về văn hoá “Mặt trăng” trong thơ Đường Lý Bạch .............................. 24 KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 31 TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................. 32 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thơ ca từ muôn đời nay vẫn là thể loại tuyệt vời được các nghệ sĩ ưa chuộng. Với gần ba thế kỉ tồn tại và phát triển, thơ ca thời Đường đã có những di sản vô cùng giá trị. Các nhà nghiên cứu văn học đã học công nhận rằng đây chính là thời đại hoàng kim của thơ ca Trung Quốc. Như cách mà Đào Thái Sơn nói: “Trong bậc thang tiến hóa của nền văn minh thế giới đã để lại nhiều dấu ấn khó phai. Trên bình diện văn hóa tinh thần, Đường thi của một thời rực rỡ, biểu tượng hết sức huy hoàng của nhân loại đã đạt đến đỉnh điểm của sự thăng hoa, rất nhiều bài thơ cho đến nay vẫn còn làm say mê, xúc động lòng người. Có thể nói một điều là trong văn chương nói chung và thơ ca nói riêng có lẽ thể loại thơ Đường là có sức sống mãnh liệt nhất”. Trong văn hóa Trung Quốc lẫn Việt Nam, từ ngàn đời nay, mặt trăng chưa bao giờ là một vật thể bình thường, nó hiện diện trong tâm tưởng, suy nghĩ của con người cùng với rất nhiều thế giới huyền thoại, chứa đựng những thông tin về văn hóa nguyên thủy sâu sắc, nó cũng là sự kết tinh truyền thống, bản sắc độc đáo của hai dân tộc từ lâu đời. Con người ở xã hội nguyên thủy từng thờ cúng mặt trăng để cầu xin được che chở. Về sau, con người lại xem mặt trăng là biểu trưng cho tình cảm với nhiều cung bậc khác nhau. Tình cảm này đã được thể hiện rất nhiều vào trong văn học cả ở Trung Quốc lẫn Việt Nam. Bàn về văn hóa “Mặt trăng” Trung Quốc có cội nguồn lịch sử sâu sắc và vững chắc của nó, tục sùng bái tự nhiên từ thời cổ xưa là hình thức biểu hiện sớm nhất của lịch sử văn hóa mặt trăng. Trong văn hóa Trung Quốc, mặt trăng luôn luôn là một tinh thể huyền bí, được người ta quan tâm chú ý nhiều. Khi phát triển tới nhà Đường, đã dần dần hình thành dòng văn hóa mặt trăng. Thời đó, bất cứ là nhà vua hay là người dân, người ta đều có những tình cảm sùng bái và ưa thích đối với mặt trăng. Nhà vua có tổ chức tế tự mặt trăng, rất nhiều huyền thoại mặt trăng được lưu truyền trong dân gian một cách rộng rãi. Dần dần hình thành ra bầu không khí nồng đượm về văn hóa mặt trăng. 2 Lý luận của triết học Đạo gia sau thời kỳ Xuân Thu là cội nguồi triết học sâu sắc nhất của văn hóa Trung Quốc, về sau là thời kì sung mãn của thơ Đường lại phó thác cho văn hóa mặt trăng một nội hàm tư duy mới mẻ, dựa trên những cơ sở đó, văn hóa mặt trăng của Trung Quốc mới dần dần được hình thành và mang những nội hàm đậm đà bản sắc dân tộc. Ví vậy, tôi chọn đề tài “Văn hoá mặt trăng trong thơ Đường Trung Quốc” nhằm đóng góp một vài ý tưởng trong việc tìm hiểu thơ ca của thời đại hoàng kim này dưới góc độc văn hoá, quan niệm khu vực Trung Hoa. 2. Lịch sử vấn đề Thơ Đường là một mảng văn học có tầm quan trọng rất lớn đối với văn học Trung Quốc nói riêng và văn học phương Đông nói chung. Vì vậy đã có không ít các công trình nghiên cứu về thơ Đường: Ở khía cạnh thi pháp học, chúng ta có các công trình được đánh giá cao về mặt học thuật như: “Về thi pháp thơ Đường” của Nguyễn Khắc Phi và Trần Đình Sử, “Thi pháp thơ Đường” của Nguyễn Thị Bích Hải,… Ở khía cạnh ngôn ngữ, chúng ta có các công trình như “Ngôn ngữ thơ Trung Hoa” của Francois Cheng (Nguyễn Khắc Phi dịch), “Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đường” của Cao Hữu Công và Mai Tổ Lân (Trần Đình Sử dịch),… Còn có các công trình nghiên cứu riêng về từng tác giả như: “Thơ Đỗ Phủ” của Trần Xuân Đề, “Đỗ Phủ - nhà thơ của dân đen” của Phan Ngọc ; “Lý Bạch tứ tuyệt” của Phạm Hải Anh,… Hay công trình nghiên cứu về thể lọai như cuốn “Một số đặc trưng về thể loại thơ tứ tuyệt đời Đường” của Nguyễn Sĩ Đại… “Trăng” trong thơ Đường được khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến. Trong đó, có thể kể đến bài viết “Hình ảnh trăng trong thơ thiền Lý – Trần và thơ Đường Trung Quốc” được đăng trên Tạp chí Khoa học của Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Bài viết này đã tìm hiểu hình ảnh trăng trong sự đối sánh giữa thơ thiền Lý – Trần và thơ Đường để tìm ra mối dây liên hệ giữa các nền văn học. Bên cạnh đó còn là một số lượng rất lớn các bài viết về thơ Đường trên các tạp chí nghiên cứu văn học, các luận văn, luận án,… 3 Nhưng nghiên cứu thơ Đường với hướng nghiên cứu văn hoá mặt trăng thì vẫn còn ít công trình chuyên sâu về nó. Như vậy, nhìn chung, nghiên cứu văn hoá mặt trăng trong thơ đường là một hướng suy nghĩ, nghiên cứu mới mẻ hơn so với việc nhìn mặt trăng như là một biểu tượng nghệ thuật đơn thuần. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận này là các các bài thơ có hình ảnh “Trăng” trong thơ Lý Bạch và soi chiếu chúng dưới văn hoá mặt trăng được hình thành lâu đời trong cảm thức Trung Hoa. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Trong tiểu luận này, chúng tôi sẽ khảo sát 321 bài thơ Đường được trích từ nguồn tài liệu sau: Hành Đường thoái sĩ (tuyển chọn), Trần Uyển Tuấn (bổ chú). (2008). 300 bài thơ Đường (Ngô Văn Phú dịch). Hà Nội: NXB Văn học (313 bài). 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại Đây là phương pháp cơ bản giúp tôi có thể phát hiện ra những hình ảnh trăng trong hàng trăm bài thơ. Phương pháp này còn giúp chúng tôi có cái nhìn hệ thống và có thể phân loại các hình ảnh theo những tiêu chí cụ thể. 4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu trong tiểu luận này bài. Nó giúp tôi làm rõ những biểu hiện, đặc điểm, ý nghĩa,… của văn hoá trăng trong thơ Đường, đồng thời đánh giá, nhận xét vai trò cách nhìn này đối với thơ Đường. 4.3. Phương pháp liên hệ, so sánh Phương pháp này giúp tôi có cái nhìn rộng hơn về văn hoá mặt trăng cụ thể hơn qua thơ Lý Bạch, thấy được những ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa đối với thơ ca giai đoạn này. 4 NỘI DUNG Chương 1: VĂN HOÁ MẶT TRĂNG TRONG QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC 1.1. “Mặt trăng” trong nhận thức thẩm mỹ Trong bài nghiên cứu: “Tìm tòi mỹ học của văn hóa mặt trăng Trung Quốc”, tác giả Trịnh Tiểu Cửu đã đưa ra 4 nội hàm mỹ học của văn hóa mặt trăng Trung Quốc như sau: Thứ nhất: màu sắc đẹp của mặt trăng, những lĩnh hội truyền thống về màu sắc mặt trăng thiên về “ngân luân”,“ngọc câu”; Thứ hai: hình dáng đẹp của mặt trăng, trăng vẹn tròn và trăng lưỡi liềm đều chứa đựng cái đẹp; Thứ ba: cái đẹp được chứa đựng ở trong quan hệ hài hòa giữa mặt trăng và những cảnh vật xung quanh, cái đẹp của mặt trăng được thể hiện ra qua những liên hệ, so sánh, tôn thêm với một số cảnh vật, hiện tượng và môi trường; Thứ tư: cái đẹp của mặt trăng sẽ không tồn tại nếu bị tách riêng ra với màu sắc, hình dáng và mối quan hệ của nó, cũng sẽ không được tồn tại nếu nó rời khỏi hoạt động tư duy của con người, những mỹ cảm hình ảnh trăng mang lại cho người ta là một loại “niềm vui dịu hiền”. Từ xưa đến nay, “Mặt trăng” trong nhận thức thẩm mỹ của người phương Đông luôn được xem là một người bạn thủy chung của con người. Nó không chỉ trao tặng ánh sáng cho con người trong đêm khuya, mang đến sự ấm áp và niềm an ủi cho những thân phận thê lương bất hạnh, mà còn cổ vũ cho kẻ lữ hành cô đơn, quan tâm sẻ chia cùng người thất ý. Chính vì vậy, mặt trăng gợi cho người ta những liên tưởng vô tận, dần dần hình thành ra văn hóa mặt trăng phương Đông phong phú và giàu sức hấp dẫn. 1.2. “Mặt trăng” trong tư duy hình tượng hoá Trong quá trình khám phá thế giới khách quan, trước hết là các hiện tượng tự nhiên như mặt trời, mặt trăng và các thiên thể, người xưa đã nhận thức được đặc tính của chúng, từ đó 5 liên hệ với cuộc sống, hình thành nên các khái niệm, học thuyết. Trước thời đại Xuân thu – Chiến quốc (770 đến –221), cuốn “Chu dịch” (周易) mà tư tưởng trung tâm là học thuyết âm dương của Trung Quốc đã ra đời, làm cơ sở khoa học quan trọng để giải thích về sự vận hành của vũ trụ, quy luật của tự nhiên, quy luật của sự sống. Cuốn sách có đoạn viết: “Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng” (太极生两仪,两仪生四象). “Tứ tượng” không những được dùng để chỉ bốn phương đông, tây, nam, bắc, mà còn chỉ nhật, nguyệt, tinh, thần, bao gồm thái dương, thiếu dương, thái âm, thiếu âm. Mặt trời và mặt trăng đều thuộc tứ tượng, vừa thần bí, vừa gần gũi với đời sống của con người. Trong bất kỳ ngôn ngữ của dân tộc nào trên thế giới đều có những từ ngữ chuyên dùng để chỉ mặt trời, mặt trăng và các truyền thuyết có liên quan. Việt Nam cũng có những truyện cổ tích và thần thoại tương tự, như Nữ thần mặt trăng, Sự tích mặt trăng... Các truyện cổ tích và thần thoại đó đều chứng tỏ sự sùng bái và trí tưởng tượng phong phú của loài người với mặt trăng. Trăng là tượng âm, về đêm. Trăng mỗi tháng chỉ có một lần tròn vào độ rằm. Trước và sau đó, càng gần với đầu và cuối tháng trăng càng khuyết. Trong tiếng Hán, từ chỉ tên gọi thông thường: 月 nguyệt; ngọc luân (bánh xe ngọc), 玉盘 ngọc bàn (mâm ngọc), 玉镜 ngọc kính (gương ngọc) chỉ trăng tròn; 银钩 ngân câu (câu liêm bạc), 玉钩 ngọc câu (câu liêm ngọc), 金钩 kim câu (câu liêm vàng), 银镰 ngân liêm (lưỡi liềm bạc),... chỉ trăng khuyết. Tuy nhiên, mặt trăng khác mặt trời ở chỗ: mặt trời lúc nào cũng tròn đầy, nhưng trăng thì tới rằm mới tròn, người Trung Quốc đã liên tưởng đến bánh xe (轮 luân), mâm/đĩa (盘 bàn), gương soi (镜kính). Vì vậy mà hình thành nên những cái tên như 金盘 kim bàn, 银 盘 ngân bàn, 玉盘 ngọc bàn, 金镜 kim kính, 银镜 ngân kính, 玉镜 ngọc kính, 冰镜 băng kính, 冰轮 băng luân,... để chỉ trăng rằm tròn và sáng. Nhìn hình dạng trăng khuyết, người ta liên tưởng đến cánh cung, câu liêm, lưỡi liềm... Từ đó hình thành những cái tên như 玉 6 弓 ngọc cung, 弓月 cung nguyệt, 明弓 minh cung, 银钩 ngân câu, 玉钩 ngọc câu, 金钩 kim câu, 银镰 ngân liêm... dùng để chỉ trăng khuyết. Đó là cách đặt tên phổ biến cho mặt trăng trong ngôn ngữ văn hoá Trung Hoa. Từ việc phân tích đặc điểm tên gọi nói chung và ý nghĩa ẩn dụ của tên gọi mặt trăng, có thể thấy tính đa dạng và tính hình tượng của lớp từ này khi người Trung Quốc xưa luôn gắn với các thực thể cụ thể. Mặt khác, có thể khẳng định thêm sức tưởng tượng phong phú cũng như đặc điểm tri nhận của người xưa về các thực thể tự nhiên, góp phần bước đầu hình thành nên nền văn hoá “Mặt trăng” từ sơ khai đến đối tượng trữ tình trong thơ Đường thời kì sau. 1.3. “Mặt trăng” dưới hệ thống các biểu tượng Biểu tượng cho sự bất diệt và trường tồn “Mặt trăng”, một cách ẩn dụ, nó có nghĩa là mọi thứ đang ở thời kỳ thịnh vượng, giống như mặt trời và mặt trăng đi qua bầu trời mỗi ngày. Nó ám chỉ đến sự vĩnh cửu và vĩ đại của cuộc sống, giống như mặt trăng treo lơ lửng trên bầu trời, nó ám chỉ rằng mặt trăng giống nhau bất kể ở thời cổ đại hay thời hiện đại, dù các triều đại đã thay đổi theo lịch sử phát triển của loài người. Mặt trăng vĩnh viễn bất biến, đó là điều kỳ diệu trong thời gian và không gian, thường khơi dậy trí tưởng tượng của con người. Sự vĩnh hằng của trăng gợi cho con người ta sự ngắn ngủi của cuộc đời. Ví dụ như sau, Tào Tháo đã viết trong bài thơ: “Hạo hạo như nguyệt, Hà thời khả chuyết?” (Trăng sáng vằng vặc Thời nào mới hết?) Đoản ca hành kỳ 2 – Tào Tháo Lý Bạch cũng xem mặt trăng như một sự trường tồn và bất diệt, đã xuất hiện từ cổ chí kim đến tận hiện tại, ví như người ngày nay có thể không thấy được ánh trăng xưa, nhưng trăng ngày nay đã chứng kiến con người từ xưa đến nay liền mạch như dòng nước chảy: 7 “Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt, Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân. Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ, Cộng khan minh nguyệt giai như thử”. (Người ngày nay không thấy bóng trăng xưa. Trăng nay thì đã từng soi người xưa. Người xưa nay tựa như dòng nước chảy, Cùng ngắm vầng trăng sáng như vậy đó) Bả tửu vấn nguyệt – Lý Bạch Nhiều thế hệ đã đến và đi qua, từ năm này qua năm khác, các mặt trăng trông giống nhau, cũ và mới nhưng sự tương phản rõ ràng giữa mặt trăng bên ngoài và giới hạn của cuộc sống được thể hiện rõ trong bài thơ. Đó là giới hạn của đời người trước sự bất biến vĩnh cữu của mặt trăng. Đối với một cá nhân, cuộc sống của chúng ta là giới hạn, và cuối cùng của cuộc sống là cái chết. Đây là một sự thật không thể tránh khỏi, nó đến sớm hay muộn và theo cách này hay cách khác. Không thể đi ra ngoài giới hạn của cuộc sống và đạt được sự vĩnh cửu của cuộc sống. Nhưng con người luôn mong cải biến những điều không thể thành có thể, khao khát cuộc đời mình vĩnh hằng như vầng trăng. Họ thậm chí còn ước mơ rằng một khi cuộc đời của họ đã qua đi, họ vẫn có thể sở hữu một cuộc sống mới trong tương lai. Điều này diễn ra giống như mặt trăng “chết” vào cuối mỗi tháng và mọc lại vào đầu tháng sau, như một dấu hiệu của sự tái sinh. Đứng trước sự vĩnh cửu, dù cuộc sống cá nhân có tiếp tục như thế nào, nó cũng chỉ là phù du. Trong khoa học tự nhiên hiện đại, không thể thoát khỏi quy luật vạn vật sinh ra rồi sẽ chết, không có gì là bất tử và trường tồn. Và trong thần thoại và thế giới tôn giáo, sự bất tử của mặt trăng ám chỉ “Thần mặt trăng” sẽ trường sinh bất tử, cụ thể là mặt trăng mang ý nghĩa của thần linh và trở thành biểu tượng của sự bất tử. Biểu tượng cho khung cảnh an yên và thanh bình 8 Vẻ đẹp của mặt trăng nằm ở sự phong phú về màu sắc và hình dạng, trong sự kết hợp khác nhau giữa màu sắc và hình thức, cũng nằm ở sự kết hợp với môi trường xung quanh. Tất cả các yếu tố trên và sự kết hợp của chúng tạo thành một hình thức có ý nghĩa chạm đến tâm hồn nhạy cảm của một người và khơi dậy các cảm xúc thẩm mỹ khác nhau. Hình ảnh trăng trong hay khuyết, từ lưỡi liềm như lông mày đến trăng tròn như gương tạo thành nội dung không thể thiếu của vẻ đẹp hình thể mặt trăng. Thành ngữ Trung Hoa có câu: “春花秋月” nghĩa là “Xuân hoa thu nguyệt” (xem theo mùa là hoa xuân và trăng thu), lý do trăng vào mùa thu là cảnh đẹp nhất quanh năm có mối quan hệ với không khí trong lành, khí hậu theo mùa mát mẻ, đây là thời điểm tốt nhất để ngắm trăng. Vẻ đẹp của vầng trăng sáng càng hiện rõ trong cảnh vật dưới nền núi non sông nước, ánh trăng soi bóng trên mặt nước là cảnh quan đi vào thơ ca của bao nền văn hoá và thi ca con người. Diderot - một triết gia người Pháp, tin rằng "vẻ đẹp luôn nằm trong các mối quan hệ" (Diderot tiến trình thẩm mỹ.1984. Dịch bởi Zhang Guanyao. Bắc Kinh: Văn học nhân dân. Ông xem việc mọi người nắm bắt được bản chất của vẻ đẹp nên vượt qua những yếu tố riêng lẻ, những thứ riêng lẻ và tập trung vào mối quan hệ bên trong. Giá trị thẩm mỹ của sự vật thay đổi theo mối quan hệ giữa các sự vật. "Vẻ đẹp luôn luôn xuất hiện, phát triển và sau đó thay đổi để suy tàn và biến mất theo mối quan hệ". Vẻ đẹp của mặt trăng không chỉ nằm ở màu sắc mà còn ở hình thức và mối quan hệ. Mặt trăng tồn tại trong mối quan hệ với môi trường xung quanh, và vẻ đẹp của nó được tạo nên bởi sự tương phản của mặt trời, bầu trời đêm, sông hồ, đồng bằng trên núi cao, cây cối và hoa lá,... Bản thân hình ảnh vầng trăng kết hợp với một số sự vật cụ thể lại với nhau tạo thành một số lượng lớn hình thái ý nghĩa toàn diện mới, làm cho nét thẩm mỹ của vầng trăng thêm tròn đầy và chuyển động. Mặt trăng trên bầu trời đêm được thiết lập trên nền đêm đen, mờ ảo, huyền bí và đáng sợ. Đó là mặt trăng tròn giúp loại bỏ sự u ám và kinh hoàng trong tâm trí con người. Ánh trăng như những ngón tay thon dài từ mặt trăng mang đến cho con người ánh sáng ấm áp và xoa dịu tâm hồn con người. 9 Biểu tượng cho sự đầy đủ và thành công viên mãn Trong văn hoá Trung Hoa“花好月圆” (Hoa hảo nguyệt viên) trong tiếng Trung Quốc có nghĩa là đầy đủ và trọn vẹn bằng cách sử dụng hình ảnh những bông hoa đang nở rộ và mặt trăng tròn ẩn dụ cho sự đầy đủ, viên mãn. Ngoài ra, còn có câu “月中 折桂” (Nguyệt trung chiết quế) dùng để chỉ việc bẻ cành nguyệt quế trên mặt trăng, một cách ẩn dụ, có nghĩa là đã vượt qua kỳ thi. Hai cụm từ thể hiện sự khao khát và theo đuổi thành công của mọi người. Trong xã hội nông nghiệp truyền thống của Trung Quốc, mọi người thờ thần đất và nữ thần mặt trăng để cầu mong sự bảo vệ của họ trong mỗi mùa thu hoạch được mùa màng thuận lợi, ngày nay thì cầu mong cho mọi sự sung túc đủ đầy, thành công như ý nguyện. Vào thời nhà Chu, một phong tục quan trọng là cúng tế và cảm tạ mặt trăng vào ngày 15 tháng 8 âm lịch. Người dân thời đó tin rằng một hiện tượng trên trời phù hợp với một số loại hiện tượng trên trái đất, chẳng hạn như khởi hành, đoàn tụ và cơ hội sống. Trong văn hoá của Trung Quốc, tìm kiếm một kết thúc đầy, khao khát được đầy đủ hoặc trọn vẹn có nghĩa là một dấu hiệu tốt lành của sự dồi dào, hài hòa và may mắn. Mặt trăng vào ngày này có thể đáp ứng tâm lý mong đợi của con người. Trăng trung thu, một mặt, là sự hòa quyện của gộp và chia ly, thống nhất và nhớ nhà, trọn vẹn và khiếm khuyết; Một mặt, trăng tròn đã làm dấy lên những mong đợi chung về sự đoàn tụ và hòa thuận, ổn định cuộc sống và hòa thuận doanh nghiệp, đoàn tụ gia đình và hòa bình thế giới. Trăng tròn đã trở thành trăng tròn lý tưởng của con người. Tết Trung thu cổ truyền là ngày đoàn tụ gia đình. “Nguyệt viên hoa hảo” là biểu tượng của hạnh phúc, hòa bình và đoàn tụ. Vương Xương Linh, một nhà thơ đã viết: ‘海上生明月, 天涯共此时’ (Hải thượng sinh minh nguyệt 10 Thiên nhai cộng thử thì) Biểu tượng cho sự thuần khiết và trong sáng Mặt trăng là biểu tượng của sự trong sạch, trong sáng và thuần khiết như chính hình ảnh hiện hữu của nó. Trung Hoa có các cụm từ miêu tả về sự thuần khuiết của trăng như: “光 风霁月”(Quang phong tế nguyệt), “冰壶秋月”(Băng hồ thu nguyệt), “月白风清” (Nguyêt bạch phúng thanh), “月光如水” (Nguyệt quang như thuỷ), “秋月寒江” (Thu nguyệt hàn giang), “光风霁 月” (Quang phúng tế nguyệt) mô tả một viễn cảnh yên tĩnh sau khi một cơn bão đến , nó có thể được mở rộng để mô tả một người có tâm hồn và trái tim rộng mở. Mặt trăng khơi dậy cảm giác đa dạng về màu sắc của con người. Đôi khi trăng toả sáng và thỉnh thoảng lại mờ ảo. Khi nó xuất hiện lần đầu tiên trên bầu trời, nó có màu vàng đỏ, và từ từ nó trở thành màu vàng nhạt khi tăng độ sáng và cho đến khi mặt trăng tròn sáng lấp lánh ánh bạc. Mặt trăng trông giống như một khối bạc, nói chung là mặt trăng có màu bạc, giống như trong bài hát dân gian do Wang Luobin sáng tác “在 那 银色 的 月光 下” (Tại ná ngân sắc đích nguyệt quang hạ) có thể hiểu là “tại đó dưới ánh trăng bạc toả xuống”, để lại ấn tượng về ánh trăng sáng và sự cao quý của mặt trăng. Ngoài ra, màu ngọc bích của mặt trăng được hình dung trong các bài thơ như “古 朗月 行” (Cổ lãng nguyệt hành) của Lí Bạch: “Tiểu thì bất thức nguyệt, Hô tác bạch ngọc bàn”. (Thuở nhỏ không biết trăng, Gọi là mâm ngọc sáng.) Cổ lãng nguyệt hành – Lý Bạch Mặt trăng còn có những tên gọi khác là “bánh xe ngọc bích” và “móc ngọc bích” nhằm thể hiện sự thuần khiết và cao quý của nó. Bởi vì màu sắc của ngọc bích nói chung, mặt trăng mang ý nghĩa của ánh sáng và tâm hồn rộng mở, tính cách tốt và bầu không khí xã hội hòa bình. 11 Biểu tượng cho tình yêu và vẻ đẹp của người phụ nữ Thiên nhiên luôn vận hành và thay đổi, vầng trăng sáng trong suốt như một cô gái xinh đẹp luôn tác động đến cảm xúc và suy nghĩ của con người. Trong văn hóa Trung Quốc, những điều về phụ nữ được đặt tên là trăng. Ví dụ, hoàng hậu được gọi là “yuefei” (月 妃 ), hay “yuefang” (月 房) dùng để chỉ phòng cho các thành viên nữ trong một gia đình. Ngoài ra, 月 里 嫦娥 (Nguyệt lý thường nga) và 花容月貌 (Hoa dung nguyệt mạo) được dùng để miêu tả những quý cô yêu kiều, xinh đẹp và quyến rũ. Thần tình yêu ở Trung Quốc cổ đại, người mai mối được gọi là 月下老人 (Nguyệt hạ lão nhân), và những người yêu nhau luôn chọn những nơi dưới ánh trăng để hẹn hò và hứa hẹn. Ở Trung Quốc cổ đại, khi nam nữ trong tình yêu họ luôn thề thốt tình yêu của mình dưới ánh trăng hoặc thờ mặt trăng để cầu cho tình yêu của họ. Ngoài ra, trong giai điệu cổ điển của văn hoá Trung Hoa 月亮 代表 我 的 心 (“Nguyệt lượng đại biểu ngã đích tâm” có thể hiểu là “Mặt trăng đại diện cho trái tim tôi”), chính vì thế trăng tượng trưng cho tình yêu sâu sắc và lòng chung thủy. Ví như ở Việt Nam cũng có “Ông tơ bà nguyệt” mượn theo tích “Nguyệt lão” hoặc là “ông già ngồi dưới trăng”. “Ông Tơ bà Nguyệt” là nhân vật nổi tiếng thời cổ đại của Trung Hoa, là thần nắm giữ việc mai mối hôn nhân trong thần thoại Trung Quốc, là “bà mối” trong thiên hạ, chủ trì nhân duyên của cả nam và nữ. Miêu tả về hình tượng “Ông Tơ bà Nguyệt”, trong “phù sinh lục ký ” có ghi: “Nhất thủ vãn hồng ti, nhất thủ huề trượng huyền hôn nhân bộ, đồng nhan hạc phát.” (Tạm dịch: Ông già tóc bạc trắng, da hồng hào một tay cầm sợi chỉ đỏ, một tay cầm cuốn sổ ghi chép hôn nhân). Câu chuyện về “ông Tơ bà Nguyệt” xuất hiện sớm nhất là ở vào triều đại nhà Đường, sau đó được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian. Dân chúng thời ấy cho rằng, “ông Tơ bà Nguyệt” nắm giữ nhân duyên của nam nữ bởi vì tại khắp nơi người ta đều dựng tượng “ông Tơ bà Nguyệt” để cầu phúc, nói lên thái độ tin tưởng rằng duyên đã định từ kiếp trước trong tình yêu và hôn nhân của người triều nhà Đường. 12 Chương 2: VĂN HOÁ MẶT TRĂNG TRONG TƯ DUY DÂN GIAN VÀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC 2.1. Bắt nguồn từ truyền thuyết dân gian về Hằng Nga – Hậu Nghệ Ở Trung Quốc có rất nhiều dị bản về câu chuyện này, tuy nhiên dựa theo tài liệu có trong truyền thuyết Trung Quốc khá phổ biến ở thời Tây Hán (206 TCN – 24 SCN) có thể kể như sau: “Hậu Nghệ là một người bất tử, trong khi đó Hằng Nga là một tiên nữ xinh đẹp sống ở Thiên Đình và phục vụ cho Tây Vương Mẫu. Cả hai người là vợ chồng. Sắc đẹp của Hằng Nga và sự bất tử của Hậu Nghệ đã làm cho một số vị thần tiên khác ghanh ghét, và họ đã vu oan một tội lỗi phạm thiên đình cho Hậu Nghệ trước mặt Vua Nghiêu. Từ đó, Hằng Nga và Hậu Nghệ bị đuổi khỏi hoàng cung và phải sống cuộc đời thường dân. Từ đó, cuộc sống làm lụng, săn bắn đã làm cho chàng Hậu Nghệ trở thành một xạ thủ có tiếng trong dân gian. Bấy giờ, có mười mặt trời cùng lúc tồn tại, cứ một mặt trời thì chiếu một ngày, và cứ thay phiên như vậy trong vòng một ngày. Tuy nhiên, tai họa ập đến, một ngày kia cả mười mặt trời cùng xuất hiện trong một ngày và đã thiêu cháy hầu hết sinh linh trên mặt đất. Trước hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” trên, Vua Nghiêu đã sai Hậu Nghệ bắn rơi chín mặt trời chỉ để một cái lại mà thôi. Chàng Hậu Nghệ đã hoàn thành sứ mạng xuất sắc. Để đáp lại, Vua Nghiêu đã cho chàng một viên thuốc trường sinh bất lão và dặn rằng “Tạm thời không được uống cái này vào, hay bắt đầu cầu nguyện và ăn chay trong một năm sau đó mới được uống”. Hậu Nghệ làm theo, chàng đem viên thuốc về nhà và giấu nó ở cái rui trên nóc nhà và tự khổ luyện tinh thần. Được khoảng nửa năm, Vua Nghiêu mời chàng đến kinh thành. Hằng Nga ở nhà thì bỗng lưu ý đến một vật sáng lóng lánh trên mái nhà và phát hiện ra viên linh dược, sau đó, biết là linh dược, nàng đã uống ngay viên thuốc cũng đúng lúc Hậu Nghệ vừa về đến và ngay tức khắc chàng đã biết chuyện gì đã xảy ra. Nhưng tất cả đã quá muộn, Hằng Nga bắt đầu bay về trời. 13 Với chiếc nỏ trong tay, Hậu Nghệ đuổi theo Hằng Nga. Nhưng đi được đến nửa đường thì thần Gió đã cản chàng lại mặc cho nàng tiên nữ xinh đẹp kia bay đến mặt trăng. Khi vừa đến nơi Hằng Nga bỗng không thở được và viên thuốc bỗng văng ra. Kể từ đó, Hằng Nga mãi ở trên mặt trăng không thể nào trở lại. Trong khi đó, ở dương thế, sự mong nhớ và nỗi hối hận ngày đêm cồn cào Hậu Nghệ. Cuối cùng, chàng xây một lâu đài trong mặt trời và đặt tên là “Dương”, trong khi đó thì Hằng Nga cũng xây một lâu đài tương tự đặt tên là “Âm”. Cứ mỗi năm một lần, vào ngày rằm tháng tám, hai người được đoàn viên trong niềm hân hoan hạnh phúc. Chính vì thế mà mặt trăng luôn thật tròn và thật sáng vào ngày này như đê nói đến niềm vui, sự hân hoan khi được gặp mặt của con người”. Ở khía cạnh lịch sử, Tết Trung Thu được cho là thời điểm kỷ niệm của quân Minh chống lại quân Nguyên vào đầu thế kỷ XIV. Vào thời đó, quân Minh đang nổi dậy chống lại triều đình nhà Nguyên chính vì vậy, việc tụ tập tại những nơi công cộng bị cấm. Thế nên nghĩa quân không thể liên lạc được. Một vị tướng của quân Minh thời đó nhận thấy rằng người Mông Cổ không ăn Bánh Trung Thu, chính vì thế ông ta đã mở một tiệm bán bánh và trong mỗi cái bánh là một miếng giấy nhỏ viết rằng: “Giết tất cả bọn Mông Cổ vào ngày 15 tháng 8”. Đêm trung thu năm đó, quân Minh đã tiêu diệt được quân Nguyên và giành chính quyền. Và sau đó là việc thành lập triều đại Nhà Minh( 1368 – 1644), dưới sự thống lĩnh của hoàng đế Chu Nguyên Chương. Kể từ đó, Bánh Trung Thu không chỉ có giá trị ở khía cạnh văn hóa mà nó còn chứa đựng trong nó lòng tự hào dân tộc của người Trung Quốc. Chính vì những lý do đó, Tết Trung Thu trở nên một phần không thể thiếu của nền văn hóa Trung Quốc đến nỗi ngày nay rất nhiều người Trung Quốc đặt tên cho con gái họ là Nguyệt với ước mong con gái họ sẽ xinh đẹp, trong sáng và đầy đặn như mặt trăng vậy. Tục lệ ăn bánh hình mặt trăng trong dịp Tết Trung thu đã có từ thời Bắc Tống ở Trung Quốc, cách đây trên 1.000 năm. Trong đêm 15 tháng 8 Âm lịch hằng năm, khi trăng rằm tỏa sáng, lễ tế thần mặt trăng bắt đầu. Trên bàn thờ có hoa quả, có bánh hình mặt trăng còn gọi là bánh "đoàn viên", bởi lẽ, trong dịp này, cả gia đình có dịp đoàn tụ để cùng ăn 14 bánh và cùng thưởng thức ánh trăng thu trong trẻo và bầu không khí ấm áp của đêm rằm đến với mọi nhà. Hằng Nga (chữ Hán: 姮娥), cũng gọi Thường Nga, Việt Nam tục gọi Chị Hằng, là một nữ thần mặt trăng, có thể xem là một trong những nữ thần nổi tiếng nhất trong các truyện thần thoại của Trung Quốc. Trong nghệ thuật Đông Á, Hằng Nga thường xuyên là đề tài của nhiều tác phẩm hội hoạ, ca kịch cổ tích trong truyền thuyết Trung Hoa. Phần lớn truyền thuyết đều hình dung nàng có một dung mạo xinh đẹp phi phàm và đều gắn liền với tình duyên cùng hậu Nghệ, về sau truyền thuyết này được gọi là Hằng Nga bôn nguyệt (姮娥奔月). Trong văn hóa Việt Nam, Chị Hằng thường được trẻ em Việt Nam nhắc đến như một người bạn của chú Cuội, dựa theo cổ tích Cây đa và Chú Cuội rất nổi tiếng, gắng liền với Tết trung thu, nên hình tượng Chị Hằng và Chú Cuội đa phần rất được yêu mến bởi trẻ em. Chính nét văn hoá bắt nguồn từ mạch văn hoá dân gian này đã tạo nên một mạch chảy xuyên suốt của văn hoá mặt trăng, tạo nguồn cảm hứng cho thi ca, trăng không đơn thuần là một biểu tượng nghệ thuật mà thi nhân mượn đó để bộc bạch nỗi niềm, trăng đã trở thành một nét văn hoá lâu đời phản ánh tư duy ban sơ của con người trong việc lý giải các hiện tượng tự nhiên. 2.2. Bắt nguồn từ tư tưởng triết học về Âm – Dương Triết học Âm – Dương có thiên hướng suy tư về nguyênn lý vận hành đầu tiên và phổ biến về vạn vật, đó là sự tương tác của hai thế lực đối lập nhau Âm – Dương. Khái niệm Âm – Dương thể hiện ở những khía cạnh cơ bản sau: Thứ nhất, khái niệm Âm – Dương dùng để mô tả trạng thái đối lập nhau: Động là Dương, Tĩnh là Âm. Thứ hai, khái niệm Âm – Dương dùng để mô tả cấu trúc của sự vật, hiện tượng: Khí chất Âm, Dương Ví dụ Dương: mặt trời (nóng), sáng, cao, giai cấp thống trị, giống đực, nam, chồng,…; Âm: mặt trăng (lạnh), tối, thấp, giai cấp bị trị, giống cái, nữ, vợ,… 15 Học thuyết Âm – Dương thể hiện quan điểm duy vật thô sơ, chất phác, tư tưởng biện chứng tự phát và có ý nghĩa rất lớn với xã hội thời kỳ sơ khai. Tư tưởng này đã gắn cho hình ảnh trăng từ nguồn gốc ban sơ đến tận đương đại một tính Âm rõ nét. Trăng mang tính Âm và luôn là hình ảnh của giới nữ, mềm mải, uyển chuyển và trở thành một nét văn hoá hài hoà của người phương Đông. Đi vào thơ Đường không khó bắt gặp thi nhân tìm đến trăng, chính cái tính Âm lạnh lẽo của trời tối, cái nét dịu dàng ẩn tàng của hình ảnh Hằng Nga, cái cảm quan ấy là cảm quan chung, song nó hình thành một biểu tượng, chủ đề trong thi ca. Trải qua thời kì lịch sử hình thành từ những ngày đầu của văn học, hình ảnh trăng có thể xem tồn tại trước thế giới con người, song người đời nào cũng có thể soi thấy mặt trăng, chính điều đó đã làm nên một nét văn hoá rất đậm chất Á Đông nói chung và Trung Hoa nói riêng, về một hàm ý ẩn tàng mà mặt trăng được hun đút qua chiều dài phát triển của nhân loại. 16 Chương 3: VĂN HOÁ MẶT TRĂNG TRONG THƠ ĐƯỜNG LÝ BẠCH 3.1. Đôi nét về văn hoá “Mặt trăng” trong thơ Đường Trung Quốc Từ xưa đến nay, trăng luôn được xem là một người bạn thủy chung của con người. Nó không chỉ trao tặng ánh sáng cho con người trong đêm, mang đến sự ấm áp và niềm an ủi cho những thân phận bất hạnh mà còn cổ vũ cho kẻ lữ hành cô đơn, quan tâm sẻ chia cùng người thất ý. Chính vì vậy, trăng gợi cho người ta những liên tưởng vô tận, dần dần hình thành văn hóa mặt trăng phương Đông phong phú và giàu sức hấp dẫn. Theo “Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới” [tr.936, 937], trăng có thể có những ý nghĩa biểu tượng sau: (1) Vì trăng không có ánh sáng mà phản chiếu ánh sáng từ mặt trời nên mang tính phụ thuộc, biểu tượng cho bản nguyên nữ. (2) Ánh sáng của trăng rọi sáng cả mênh mông tăm tối nhưng lại không gay gắt, nóng bỏng như mặt trời nên trăng biểu tượng cho sự trong sáng, vô nhiễm, mát lành, dịu ngọt. (3) Trăng là âm, so với mặt trời là dương cho nên bản chất của nó là lạnh. Vì vậy mà trăng cũng biểu tượng cho sự cô đơn, lạnh lẽo, chia ly, nhung nhớ,... (4) Trăng tròn biểu tượng cho sự đầy đủ, viên mãn, đoàn viên, trùng phùng. Trăng khuyết biểu tượng cho sự khuyết thiếu, hao mòn, tàn tạ,... (5) Trăng biến thiên theo chu kỳ: khi tròn, khi khuyết; khi sáng, khi mờ; khi trong, khi đục;... Vì vậy mà trăng còn là biểu tượng cho thời gian trôi đi. Có thể thống kê các tác phẩm có trăng là biểu tượng như sau: Biểu tượng (1) (2) (3) (4) (5) Số lượng bài 1 3 15 3 3 Tổng cộng 25 3.1.1. Mặt trăng biểu trưng cho bản nguyên nữ trong văn hoá Trung Quốc Trong bài “Tạp thi”, Thẩm Thuyên Kỳ đã sử dụng “mặt trăng” để biểu tượng cho người chinh phụ ngày đêm ngóng chồng: 17 “Văn đạo Hoàng Long thú, Tần niên bất giải binh. Khả liên khuê lý nguyệt, Trường tại Hán gia doanh.” (Nghe nói đồn lính thú ở đất Hoàng Long, Năm này sang năm khác không được xa rời việc quân. Đáng thương cho vầng trăng ở khuê phòng Theo hoài đến tận trại quân nhà Hán.) Tạp thi – Thẩm Thuyên Kỳ Người chồng vì bận việc quân nên năm này sang năm khác không thể về nhà. Vì quá nhớ thương chồng nên người chinh phụ đã gửi tất cả tâm tình vào ánh trăng kia, vì nàng biết rằng, dù xa cách nghìn trùng, nàng và chồng vẫn cùng chung bầu trời, vẫn nhìn thấy cùng một mặt trăng. Mặt trăng ở đây đã biểu tượng cho người chinh phụ và tất cả tình cảm nhớ nhung, khát khao được đoàn tụ của nàng. Dù nàng không thể tới quân trại, chồng nàng không thể về nhà, nhưng qua ánh trăng kia, nàng biết chắc rằng chồng nàng sẽ cảm nhận được hơi ấm, tình yêu và sự nhớ nhung da diết của nàng. Trăng biểu tượng cho sự trong sáng, vô nhiễm, thuần khiết Sự trong sáng, vô nhiễm, mát lành, dịu ngọt của trăng thường được xuất hiện trong các bài thơ mang cảm hứng ẩn dật hoặc cảm hứng thiền, thể hiện những triết lí sâu sắc về cuộc sống. Chẳng hạn như bài “Túc Vương Xương Linh ẩn cư” của Thường Kiến: “Thanh khê thâm bất trắc, Ẩn xứ duy cô vân. Tùng tế lộ vi nguyệt, Thanh quang do vị quân. Mao đình túc hoa ảnh, Dược viện tư đài văn. Dư diệc Tạ Thì khứ, Tây sơn loan hạc quần.” 18 (Suối trong sâu thăm thẳm, Nơi ở ẩn chỉ có đám mây lẻ loi. Trăng lấp ló trong lùm thông, Ánh sáng trong mát dành cho người (ẩn cư). Nếp đình tranh lúc nào cũng có bóng hoa, Vết rêu lan dài bên viện thuốc. Ta nay cũng từ giã việc đời, Về làm bạn với bầy loan, hạc ở non Tây.) Túc Vương Xương Linh ẩn cư – Thường Kiến Ở đây, “mặt trăng” biểu tượng cho ánh sáng trong trẻo, vô nhiễm của đất trời, của lối sống ẩn cư an bần lạc đạo. Con người từ bỏ việc đời để tìm đến lối sống ẩn dật cùng với “thanh khê”, “cô vân”, “hoa ảnh”, “loan”, “hạc”,… Đây là lối sống lánh đục về trong đáng trân trọng. Và ánh trăng như góp phần thanh lọc tâm hồn của con người, đưa con người đến thế giới thần tiên chốn nhân gian. Sự tịnh thịnh của tam giáo Nho, Phật, Đạo có ảnh hưởng rất lớn đối với khuynh hướng sáng tác của thi nhân và đem lại hứng vị dị biệt cho tác phẩm. Và hình ảnh trăng thường xuất hiện trong thơ Đường như một biểu tượng của triết học Thiền tông. Nói đến thiền trong thơ Đường, ta không thể không nhắc đến Vương Duy – nhà thơ được người đời gọi là “Thi Phật”. Trong thơ ông, ẩn sâu trong những cảnh sơn thủy điền viên là những tư tưởng thiền sâu sắc. Đó có thể là “tùy duyên hạnh”, “vô cầu sở hạnh”: “Độc toạ u hoàng lý, (Một mình trong khóm trúc Đàn cầm phục trường khiếu. Gảy đàn rồi hát ca Thâm lâm nhân bất tri, Rừng sâu nào ai biết Minh nguyệt lai tương chiếu.” Trăng sáng soi lòng nhau.) Trúc lý quán – Vương Duy 3.1.2. Trăng biểu tượng cho sự cô đơn, lạnh lẽo, chia ly, nhung nhớ Trong bài “Túc Đồng Lư giang ký Quảng Lăng cựu du”, Mạnh Hạo Nhiên đã mượn “ mặt trăng” để biểu tượng cho sự cô đơn của mình: 19 Sơn minh thính viên sầu, Thương giang cấp dạ lưu. Phong minh lưỡng ngạn diệp, Nguyệt chiếu nhất cô chu. Kiến Đức phi ngô thổ, Duy Dương ức cựu du. Hoàn tương lưỡng hàng lệ, Dao ký hải tây đầu. (Núi âm u nghe vượn kêu buồn, Sông lạnh đêm chảy gấp về xuôi. Gió khua hai bên bờ lá, Trăng dõi một con thuyền lẻ loi. Kiến Đức không phải đất của ta Lòng càng thêm nhớ bạn cũ ở Duy Dương Xin đem hai hàng nước mắt Xa gửi đến đầu biển phía tây.) Túc Đồng Lư giang ký Quảng Lăng cựu du – Mạnh Hạo Nhiên Giữa núi rừng âm u, hoang vắng chỉ có tiếng vượn kêu, sông chảy, gió khua,… thì ánh trăng dường như chỉ soi bóng của một con thuyền. Ánh sáng của trăng làm nổi bật lên sự cô quạnh của chiếc thuyền, cũng như sự cô đơn của con người khi phải xa bạn bè, xa quê hương, một mình phiêu dạt nơi đất khách quê người. Còn đối với Đỗ Phủ, trăng luôn là người bạn đồng hành, tâm tình cùng kẻ lữ hành cô độc. Nhưng dù trên chặng đường nào, chẳng có ánh trăng nào sáng hơn, đẹp hơn ánh trăng quê của ông: “Thú cổ đoạn nhân hành, Thu biên nhất nhạn thanh. Lộ tòng kim dạ bạch, 20 Nguyệt thị cố hương minh. Hữu đệ giai phân tán, Vô gia vấn tử sinh. Ký thư trường bất đạt, Huống nãi vị hưu binh”. (Trống trận dồn mau cản bước người, Vào thu biên ải nhạn than trời. Tha phương đêm phủ màn sương trắng, Cố quận trăng soi ánh tỏ ngời. Em đấy, thân thương mà cách biệt, Nhà đâu, sống chết biết nơi nào ? Gửi thư thăm hỏi hoài không đến, Binh lửa lan tràn rực khắp nơi.) Nguyệt dạ ức xá đệ - Đỗ Phủ Ở nơi biên cương xa xôi, lạnh lẽo, lòng thi nhân vẫn một mực thủy chung về ánh trăng quê. Giữa màn sương giá rét, giữa đêm lạnh biên thùy, ánh trăng quê vẫn soi sáng tâm hồn người chinh chiến. Trăng gợi lên trong lòng người nỗi hoài niệm về nơi chôn nhau cắt rốn, về những người thân thương, về mảnh tình quê bồn chồn, day dứt mãi. Không biết chiến tranh khi nào chấm dứt, không biết sống chết ra sao, nơi đây chỉ còn nhà thơ với nỗi niềm hoài cố, mang trong lòng gánh nặng quê hương. Trăng còn xuất hiện trong sự hoài niệm trong cảnh chia ly, tiễn biệt. Chẳng hạn như bài “Tặc bình hậu tống nhân bắc quy” của Tư Không Thự: Thế loạn đồng nam khứ, “Thời thanh độc bắc hoàn. Tha hương sinh bạch phát, Cựu quốc kiến thanh san. Hiểu nguyệt qua tàn luỹ, Phồn tinh túc cố quan. 21 Hàn cầm dữ suy thảo, Xứ xứ bạn sầu nhan.” (Đời loạn lạc cùng đi về nam Khi thanh bình một mình về đất bắc Tha hương tóc bạc đã mọc đầy Nước non cũ lại được thấy núi xanh Trăng sớm mai soi trên luỹ cũ, Sao dày ngủ lại ải quan ngày xưa. Chim xứ lạnh và đám cỏ rạc Nơi nơi đều là bạn cùng với gương mặt u sầu) Tặc bình hậu tống nhân bắc quy – Tư Không Thự Khi xưa đời loạn lạc thì đồng hành với nhau, giờ thanh bình lại phải chia cách đôi đường. Quanh đi quẩn lại “tóc bạc đã mọc đầy”, giờ tuy đã được thấy núi xanh nhưng người bạn đồng hành ngày nào thì phải xa cách. “Trăng vẫn soi trên luỹ cũ” tượng trưng cho sự nhớ nhung, tiếc nuối về những kỉ niệm ngày xưa với người bạn sắp phải chia xa. Bây giờ mọi vật đều là bạn, nhưng không sao sánh được với người bạn đồng hành năm nào. 3.1.3. Trăng biểu tượng cho sự đầy đủ, viên mãn, đoàn viên, trùng phùng Trong bài “Giang hương cố nhân ngẫu tập khách xá”, Đái Thúc Luân đã dùng “Mặt trăng” để biểu tượng cho sự trùng phùng với người bạn cũ: “Thiên thu nguyệt hựu mãn, Thành khiết dạ thiên trùng. Hoàn tác Giang Nam hội, Phiên nghi mộng lý phùng”. (Trăng trời thu lại đầy Nơi thành khuyết, đêm nghìn trùng Cùng là một hội ở đất Giang Nam gặp nhau Còn ngờ rằng như ở trong mộng) Giang hương cố nhân ngẫu tập khách xá – Đái Thúc Luân 22 Trương Cửu Linh đã mượn hình ảnh “trăng đầy” để biểu tượng cho ý niệm đoàn viên của người phụ nữ: “Tự quân chi xuất hĩ, Bất phục lý tàn ky. Tư quân như mãn nguyệt, Dạ dạ giảm quang huy.” (Từ buổi chàng ra đi Thiếp không buồn sửa cái khung cửi bị hỏng Thiếp nhớ chàng như vầng trăng tròn đầy kia Cứ đêm đêm lại giảm dần ánh sáng) Tự quân chi xuất hĩ – Trương Cửu Linh Ví nỗi nhớ như vầng trăng tròn đầy, người phụ nữ bộc lộ khao khát được trùng phùng, đoàn viên với chồng của mình. Nhưng chồng càng đi càng lâu, nàng càng chờ lại càng mòn mỏi, càng tàn tạ, cũng như ánh trăng ngày một giảm dần độ sáng. Độ mờ của trăng tỉ lệ thuận với sự mòn mỏi, héo úa, tàn tạ của người phụ nữ. 3.1.4. Trăng biểu tượng cho thời gian trôi đi Trăng còn được các nhà thơ dùng làm biểu tượng cho sự chảy trôi của thời gian. Trong bài “Đồng tòng đệ Nam Trai ngoạn nguyệt ức Sơn Âm Thôi thiếu phủ”, Vương Xương Linh viết: “Cao ngoạ Nam Trai thời, Khai duy nguyệt sơ thổ. Thanh huy đạm thủy mộc, Diễn dạng tại song hộ. Nhiễm nhiễm kỷ doanh hư, Trừng trừng biến kim cổ.” (Này lúc nằm khểnh ở Nam Trai, Vén màn thấy trăng vừa mới nhô lên. Ánh sáng trong trẻo chan hòa cây cối và mặt nước, 23 Lung linh xao động ngoài song cửa. Êm đềm trải bao phen tròn khuyết, Soi sáng vằng vặc suốt xưa nay.) Đồng tòng đệ Nam Trai ngoạn nguyệt ức Sơn Âm Thôi thiếu phủ - Vương Xương Linh Ở đây, trăng như một nhân vật theo sát tiến trình lịch sử, bao lần tròn khuyết là bấy nhiêu lần thu nhận vào mình những dấu ấn của thời gian. Sự biến động của trăng thường ít ai để ý được, đến khi tập trung vào nó thì mới chợt nhận ra: hoá ra thời gian đã trôi qua rất nhanh, sự trôi nhanh đó gắn với chu kỳ tròn khuyết của mặt trăng mà hiếm khi nào ta để ý tới. Trong các tác phẩm khác, các tác giả cũng có cách suy nghĩ tương tự: “Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ” (Trăng thu trong, gió thu mát thờ ơ trôi qua) (Bạch Cư Dị, Tỳ bà hành) “Nguyệt tà lâu thượng ngũ canh chung” (Trăng xế trên lầu, canh năm đã hết) (Lý Thương Ẩn, Vô đề) 3.2. Bàn về văn hoá “Mặt trăng” trong thơ Đường Lý Bạch Lý Bạch (701-762 SCN) là một nhà thơ lớn vào triều đại nhà Đường. Ông được xem là “Thi Tiên” trong lịch sử văn học Trung Hoa. Từ lúc còn nhỏ, ông đã đam mê đọc sách. Mới 10 tuổi, ông đã thông thuộc rất nhiều kinh thi, kinh thư Nho học. Trong văn học sử Trung Hoa, thời thịnh Đường (Lý Long Cơ 618-907), có hai Nhà thơ nổi tiếng và được mọi người nể trọng, đó là Lý Bạch (李白) và Đỗ Phủ (杜甫). Lý Bạch được tôn là Thi Tiên,( hay Trích Tiên) còn Đỗ - Phủ (nhỏ hơn ông 11 tuổi) là Thi Thánh. Ông sáng tác về mọi đề tài. Thơ của Lý Bạch nhẹ nhàng, phóng khoáng, tự nhiên, không va chạm đến thế sự, lại có sắc thái chủ nghĩa lãng mạn. Lý Bạch cả đời tu Đạo, năm 15 tuổi bắt đầu tìm Tiên cầu Đạo, do đó tư tưởng Đạo gia có ảnh hưởng rất lớn đối với ông. Đạo 24 gia đề cao chữ “Chân”, Lý Bạch thuần chân tự nhiên, tính cách siêu phàm thoát tục cũng biểu hiện trong thơ của ông. Trăng là ý thơ thường thấy nhất trong thơ Lý Bạch. Ông trực tiếp hoặc gián tiếp viết về trăng trong khoảng 300 bài. Trăng từ xưa đến nay luôn là biểu tượng của sự thánh khiết, lý tưởng, tinh thần và tiên giới. Thi Tiên càng khéo dùng trăng gợi mở người đời mơ ước cao thượng, quét sạch ô uế thế tục, cuối cùng trở về với cõi tiên, “phản bổn quy chân” (từ bỏ sự u mê, trở về với chân chính). Trăng dưới ngòi bút của ông đa dạng sắc thái: có “Minh nguyệt xuất thiên sơn. Thương mang vân hải gian” (Trăng nhô khỏi núi trời, mênh mang giữa biển mây), có “Túy khởi bộ khê nguyệt khê. Điểu hoàn nhân diệc hi” (Say bước trên trăng suối, chim vẳng chẳng bóng người), cũng có “Sơn minh nguyệt lộ bạch. Dạ tĩnh tùng phong yết” (Núi sáng sương trăng trắng, đêm tĩnh gió tùng lặng) và lại có “Thu sơn lục mộng trung. Kim tịch vị thùy minh” (Núi thu xanh giấc mộng, đêm nay sáng vì ai). Cũng như các thi nhân bao đời, Lý Bạch cũng trải qua nhiểu thăng trầm và không ít lần ông mượn hình ảnh trăng để bộc bạch nỗi niềm. Có thể kể đến một số bài như sau: “Hoa gian nhất hồ tửu, Tương kỳ mạc Vân Hán.” Độc chước vô tương thân. Trong đám hoa với một bình rượu Cử bôi yêu minh nguyệt, Uống một mình không có ai làm bạn Đối ảnh thành tam nhân. Nâng ly mời với trăng sáng Nguyệt ký bất giải ẩm, Cùng với bóng nữa là thành ba người Ảnh đồ tùy ngã thân. Trăng đã không biết uống rượu Tạm bạn nguyệt tương ảnh, Bóng chỉ biết đi theo mình Hành lạc tu cập xuân. Tạm làm bạn với trăng và bóng Ngã ca nguyệt bồi hồi, Hưởng niềm vui cho kịp với ngày xuân Ngã vũ ảnh linh loạn. Ta hát trăng có vẻ bồi hồi không muốn đi Tỉnh thì đồng giao hoan, Ta múa bóng có vẻ quay cuồng mê loạn Tuý hậu các phân tán. Lúc tỉnh cùng nhau vui đùa Vĩnh kết vô tình du, Sau khi say thì phân tán mỗi một nơi 25 Vĩnh viễn kết chặt mối giao du vô tình Cùng nhau ước hẹn lên trên Thiên hà gặp lại Nguyệt hạ độc chước – Lý Bạch Lý Bạch viết ra cảnh tượng kỳ lạ độc đáo, lấy bóng trăng làm bạn, uống say mà ca hát. Nhà thơ lấy trăng sáng, thậm chí lấy cả bóng ảnh của mình mà làm bạn trò chuyện, cùng nhau uống rượu, hát ca, nhảy múa. Mặc dù trăng không biết uống, bóng chỉ theo thân, vẫn chẳng ngại lấy trăng trên cao và bóng hình làm tri kỷ. Bài thơ “Nguyệt hạ độc chước” của Lý Bạch, ta lại thấy “Thi tiên” Lý Bạch đang cô đơn đến chừng nào, giữa một mùa xuân tươi đẹp mà ông lang thang uống rượu giải sầu giữa một không gian chỉ có hoa và ánh trăng, không có ai bầu bạn. Lý Bạch cô đơn kết bạn với trăng và chiếc bóng của mình để tìm sự an ủi tạm thời. Hình ảnh đó có vẻ hoang đường nhưng lại rất phóng khoáng, chỉ có “Thi tiên”, “Tửu tiên” mới làm được như vậy. Cầm ly rượu mời trăng và bóng thưởng thức, cùng ca, cùng nhảy. Dáng người nghiêng ngả, chiếc bóng xiêu vẹo, lẵng nhẵng bám theo dưới ánh trăng khi tỏ khi mờ. Lý Bạch như đang thoát lên tiên để quên đi mọi nỗi niềm buồn thương cô quả. Bài thơ này cho thấy Lý Bạch xem hình ảnh trăng như văn hoá Trung Hoa bắt nguồn từ triết học Âm – Dương, Với ông, trăng trăng cũng là âm, so với mặt trời là dương cho nên bản chất của nó là lạnh. Vì vậy mà trăng là một nét văn hoá cho sự cô đơn, lạnh lẽo, chia ly, nhung nhớ của con người hoà mình với thiên nhiên, hoà mình với hơi men của rượu, điều này giống với Hồ Xuân Hương của văn học trung đại Việt Nam phần nào: “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” Tự tình 2 – Hồ Xuân Hương Từ đó, thấy được việc thưởng rượu dưới trăng là một nỗi cô đơn, lạnh lẽo trong tâm khảm của thi nhân, dần dần nó hình thành một nét văn hoá ngắm trăng – uống rượu và trở thành một thú vui tao nhã của con người thất thời, một thú vui hưởng lạc giải sầu. Ngoài ra, Lý Bạch còn mang hình ảnh trăng không chỉ thế, đó còn là nỗi nhớ quê u uất của thi nhân ở nơi đất khách quê người: 26 “Sàng tiền minh nguyệt quang, Nghi thị địa thượng sương. Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương.” Dịch nghĩa: Nỗi nhớ trong đêm vắng Đầu tường trăng sáng soi, Ngỡ là sương trên mặt đất. Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Cúi đầu nhớ cố hương. Tĩnh dạ tứ - Lý Bạch “Tĩnh dạ tứ” là một bài thơ nhuốm đầy u hoài. Thuở nhỏ, Lý Bạch thường lên đỉnh núi Nga Mi ở quê nhà ngắm trăng. Từ năm 25 tuổi, ông lên đường ngao du sơn thủy, rời xa quê nhà cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay chưa từng một lần trở lại. Vì vậy, cứ mỗi lần ngắm mảnh trăng trong treo trên bầu trời, Lý Bạch lại nhớ quê hương da diết. “Tĩnh dạ tứ” ngập tràn một màu hoài niệm, ngập tràn ánh trăng. Trăng soi tỏ khắp cả bài thơ, trên trời, dưới đất đến đầu giường, trăng soi cả vào lòng thi nhân, chiếu lên nỗi niềm tha hương của người khách tang hải nhớ quê mà chẳng thể trở về. Ngoài ra, văn hoá trăng trong thơ Lý Bạch cũng mang tính nữ, bóng dáng của Hằng Nga: “Cửu nhật long sơn ẩm Hoàng hoa tiếu trục thần Tuý khán phong lạc mạo Vũ ái nguyệt lưu nhân” Dịch thơ: Trùng Cửu rượu Long Sơn Hoa cười giễu tội thần 27 Say nhìn gió bay mũ Mê múa trăng giữ chân Cửu nhật Long Sơn ẩm- Lý Bạch Bài thơ này Lý Bạch viết vào năm Bảo Ứng thứ nhất (năm 762). Nhà thơ lúc đó đã 61 tuổi, ở Đương Đồ. “Gió thổi rơi mũ” là một điển tích rất đẹp trong văn chương cổ. Thời Đông Tấn, đại tướng quân Hoàn Ôn vào tết Trùng Dương dẫn quan lại dưới trướng đến Long Sơn, leo núi, uống rượu, thưởng thức hoa cúc, ăn bánh cửu hoàng, viên tham quân Mạnh Gia cũng trong đó. Trong bữa tiệc, một cơn gió núi thổi tới, làm rơi cả mũ trên đầu Mạnh Gia xuống mà ông ta hoàn toàn không biết, vẫn cứ phong độ trang nhã. Hoàn Ôn hứng thú lệnh cho Tôn Thịnh làm bài văn trêu Mạnh Gia. Ai ngờ Mạnh Gia không cần suy nghĩ, lập tức đối đáp, mở miệng thành văn, tất cả mọi người không ai không khâm phục tài năng mẫn tiệp, khí chất phi phàm của ông. Đời sau dùng “Lạc mạo Long Sơn” (Rơi mũ Long Sơn) để miêu tả phong độ thong dong, nhàn nhã. Tết Trùng Dương ngày 9 tháng 9, Lý Bạch uống rượu ở núi Long Sơn (phía tây bắc Giang Lăng, Hồ Bắc), hoa cúc nở rộ khắp nơi, bất kể nhà thơ đi đến đâu, cũng thấy những đóa cúc vàng nở bung như mỉm cười đón mình. Lúc say ngắm di tích “gió rơi mũ” năm xưa, nhớ lại cổ nhân phóng khoáng, uống rượu dưới trăng, ngắm nhìn nàng tiên trên cung trăng ca múa uyển chuyển. Qua đó, ta thấy được trăng bao đời là ẩn tàng cho tính nữ, cho tích truyện Hằng Nga xưa mà thi nhân luôn xem đó là nguồn cảm hứng bộc bạch. Cuối cùng, bài thơ kết thúc bằng “nguyệt lưu nhân” (trăng lưu giữ người), đã để lại một bức tranh vô cùng sinh động. Nhà thơ và tiên nữ cùng say múa nhạc khúc thần tiên. Nhà thơ chìm đắm trong cảnh thoát tục quên trần thế, trăng thanh gió mát này, mà tiên nữ trên cung trăng cũng bằng điệu múa tiên uyển chuyển biểu đạt ý lưu luyến chẳng rời. Lại cũng có lúc ông đối ẩm, ngồi nói chuyện với trăng như hàn huyên với một người tri kỷ, như đánh thức nỗi sầu của người lữ khách đường xa vạn dặm, lưu lạc cõi hồng trần mà hướng về cảnh tiên. 28 “Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì, Ngã kim đình bôi nhất vấn chi! Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc, Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ. Kiểu như phi kính lâm đan khuyết, Lục yên diệt tận thanh huy phát Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai, Ninh tri hiểu hướng vân gian một. Bạch thố đảo dược thu phục xuân, Thường nga cô thê dữ thuỳ lân. Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt, Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân. Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ, Cộng khan minh nguyệt giai như thử. Duy nguyện đương ca đối tửu thì, Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý.” Bả tửu vấn nguyệt – Lý Bạch Đời người ngắn ngủi, nhưng trăng sáng trường tồn, tự cổ chí kim, người, vật dễ mất, mà Thần Tiên như Thỏ Ngọc, Hằng Nga trên cung trăng vẫn còn y nguyên. Điều này cho thấy những văn hoá sơ khai về mặt trăng, những hình ảnh truyền thuyết gán chi mặt trăng đều đi vào thơ ca Lý Bạch và bộc lộ sự cô đơn, lạnh lẽo mà mặt trăng mang lại. Đó cũng là tâm sự chung của một thi nhân sống sau Lý Bạch vài trăm năm, Tô Thức. Có lần, Tô Thức hướng lên bầu trời ánh nguyệt soi tỏ mà rằng: Vầng trăng sáng có tự khi nào Nâng chén rượu lên hỏi trời cao Chẳng biết cung điện trên chốn ấy Đêm nay đã là đêm năm nao? 29 Có lẽ trong kiếp nhân sinh nhỏ nhoi, hữu hạn, vầng trăng kia chính là sợi dây liên lạc cuối cùng còn lại của con người với mái nhà cũ, quê hương cũ. Con người sống trong bể khổ, trầm luân nghìn vạn năm, chỉ có thể đôi lần ngước lên trời cao mà hỏi lòng mình như vậy thôi. Cung điện trên chốn ấy đã là năm nao? Cố hương của người ta có lẽ không phải dưới trần gian này, mà là tít xa xăm kia, trên những vì sao, những áng mây xa xôi vạn dặm ấy. Tóm lại, Lý Bạch tuy có rất nhiều bạn văn thơ, nhưng cuộc sống lang thang tha hương khiến ông luôn cảm thấy cô đơn, lẻ loi, luôn nhớ tới quê hương và những người thân xa cách. Nỗi buồn xa xứ luôn ám ảnh và xuất hiện trong thơ ca của Lý Bạch. Những bài thơ ông ngẫu hứng sáng tác trong cô đơn không chỉ đạt tới đỉnh cao của thơ Đường để rồi qua hàng nghìn năm vẫn được lưu truyền, ngợi ca cho đến tận ngày nay. Thơ Lý Bạch viết nhiều về trăng, mặt trăng trong thơ Lý Bạch luôn gợi một nỗi buồn man mác, khiến những người xa xứ đọc thơ ông không giấu được sự đồng cảm khôn nguôi, và chính vì thế thơ Lý Bạch và mặt trăng trong thơ Lý Bạch luôn sống mãi với thời gian như một cảm thức về nét văn hoá mà người Trung Hoa đã xây dựng từ những ngày nguyên sơ. 30 KẾT LUẬN Trần Trọng Kim từng viết: “Nói về thơ Hán văn thì có thơ Đường là hơn cả, tình tứ tao nhã, ý nghĩa sâu xa, có thể nuôi được cái khí hạo nhiên của người ta, tức là di dưỡng được cái tinh thần cao thượng và chân chính. Những bài thơ Đường tựa như những đồ chơi làm bằng ngọc ngà, trạm trổ rất tinh xảo, trau dồi bóng bẩy, càng ngắm càng thấy đẹp, chơi bao lâu cũng không thấy chán… thật là lợi cho tính tình biết bao” [Đường thi; tr.125]. Sở dĩ thơ Đường có được những lời ngợi ca đó là do sự điêu luyện trong nghệ thuật diễn đạt. Có thể nói, nội dung có thể khác nhau nhưng về nghệ thuật diễn đạt thì các nhà thơ Đường đều đạt được thành tựu rực rỡ. Và trong đó, việc xây dựng hình ảnh “Mặt trăng” mang tính chất như một biểu tượng nghệ thuật chứa đựng những hàm ý sâu xa và hơn hết qua đó góp phần hình thành nên một nền văn hoá “mặt trăng” trong các sáng tác thi ca cũng như tâm thức của thi nhân về quan niệm “mặt trăng” đi từ nền tảng dân gian đến thế giới nghệ thuật đậm màu sắc văn hoá cho thơ Đường và con người Trung Hoa. Qua việc bàn về văn hoá “Mặt trăng” trong thơ Lý Bạch, ta thấy được cảm quan của ông về trăng giống với đặc điểm theo tư duy nguyên thuỷ của người Trung Quốc và triết lý Âm – Dương. Trăng với ông cũng là nỗi niềm cô đơn, lạc lõng, lạnh lẽo nơi đất khách, cũng mang tính nữ và những giai thoại về Hằng Nga – Thỏ Ngọc về thuật trường sinh đậm màu sắc Đạo giáo. Trong giới hạn khả năng và đề tài tiểu luận, tôi chỉ tập trung làm rõ vài nét văn hoá mặt trăng qua thơ Lý Bạch trong đối sánh với quan niệm mặt trăng của người Trung Hoa. Hy vọng sẽ là một đóng góp nhỏ trong cái nhìn mới về mặt trăng, không đơn thuần là biểu tượng nghệ thuật mà có thể nâng tầm lên thành một nét văn hoá đã tồn tại từ dân gian nguyên sơ đến tận đương đại qua chiều dài lịch sử phát triển của văn học. 31 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Xianghua Sun, The Cultural Implication of the Chinese Lexicon Containing ‘Moon’. Theory and Practice in Language Studies, 2016. http://www.academypublication.com/ojs/index.php/tpls/article/view/tpls061223042308. Truy cập 02/03/2021. [2] Hành Đường thoái sĩ (tuyển chọn), Trần Uyển Tuấn (bổ chú), 300 bài thơ Đường (Ngô Văn Phú dịch). Hà Nội: NXB Văn học, 2008. [3] Jean Chevalier – Alain Gheerbrant, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (Phạm Vĩnh Cư & tgk dịch). NXB Đà Nẵng, 2016. [4] Quản Hồng Vĩ, Hình ảnh trăng trong thơ thiền Lý – Trần và thơ Đường Trung Quốc. Tạp chí Khoa học. Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, 2013. [5] Nguyễn Ngọc Khá, Lịch sử triết học trước Mác. NXB Đại học Sư phạm: TP.HCM, 2017. [6] I. S. Lisevich, Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc (Trần Đình Sử dịch). Hà Nội: NXB Giáo dục, 2000. [7] Đạn Trần, Ý nghĩa sâu sắc sau câu chuyện “Hằng Nga bôn nguyệt”. Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật. https://etviet.com/van-hoa-va-nghe-thuat/y-nghia-sau-sac-sau-cau-chuyenhang-nga-bon-nguyet.html. Truy cập 19/03/2021. . . 32