Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4D (2021): 232-244
DOI:10.22144/ctu.jvn.2021.132
NGHIÊN CỨU SỰ HÀI LÒNG CỦA NGƯỜI HỌC ĐỐI VỚI HÌNH THỨC HỌC
TẬP TRỰC TUYẾN (E-LEARNING): TRƯỜNG HỢP SINH VIÊN NGÀNH KINH
TẾ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Lê Nam Hải* và Trần Yến Nhi
Khoa Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
Người chịu trách nhiệm về bài viết: Lê Nam Hải (email: lenamhai@iuh.edu.vn)
*
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 10/03/2021
Ngày nhận bài sửa: 06/05/2021
Ngày duyệt đăng: 20/08/2021
Title:
Students’ satisfaction on elearning platform: The case of
economic student in Ho Chi
Minh city
Từ khóa:
Học tập trực tuyến, mô hình hệ
thống thông tin thành công, mô
hình chấp nhận công nghệ, sự
hài lòng
Keywords:
E-learning services,
satisfaction, successful
information system, technology
adoption model
ABSTRACT
The objective of this study is to analyze the factors affecting the students'
satisfaction with e-learning services. Technology adoption model and
successful information system theory are applied to propose model and
test hypotheses. The data were collected from 267 students who studied
via e-learning platform at some universities in Ho Chi Minh City. The
results show that perceived ease of use, perceived usefulness, information
quality, system quality, instructor, support services, subjective norm, and
perceived behavior control positively affects learners' satisfaction. In
addition, implications were proposed for educational institutions to
enhance students’ satisfaction through enhancing the quality of elearning services.
TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến
sự hài lòng của người học đối với dịch vụ học tập trực tuyến (e-learning).
Nghiên cứu vận dụng mô hình chấp nhận công nghệ và lý thuyết hệ thống
thông tin thành công làm cơ sở đề xuất và kiểm định giả thuyết. Dữ liệu
phân tích được thu thập từ 267 sinh viên hiện đang theo học tại một số
trường đại học ở thành phố Hồ Chí Minh và đã từng tham gia dịch vụ học
tập trực tuyến. Kết quả cho thấy nhận thức dễ sử dụng, nhận thức sự hữu
ích, chất lượng thông tin, chất lượng hệ thống, giảng viên hướng dẫn,
dịch vụ hỗ trợ, chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi có ảnh
hưởng tích cực đến sự hài lòng của người học đối với hình thức học tập
trực tuyến. Ngoài ra, một số hàm ý quản trị được thảo luận và đề xuất
nhằm giúp cho các tổ chức giáo dục gia tăng sự hài lòng của người học
thông qua việc nâng cao chất lượng dịch vụ học tập trực tuyến.
bên cạnh hình thức học tập truyền thống, hình thức
học tập trực tuyến ra đời đã mang lại nhiều lợi ích
cho cả người dạy và người học. Học trực tuyến (elearning) là hình thức học tập thông qua một máy vi
tính, điện thoại thông minh có kết nối mạng internet.
Từ đó, người học có thể tiết kiệm được thời gian chi
phí vì hình thức học này giúp giải quyết rào cản về
1. GIỚI THIỆU
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin
cùng với sự bùng nổ của internet đã mang lại nhiều
thay đổi đáng kể trong hoạt động và quản lý ở nhiều
lĩnh vực khác nhau như: y tế, giáo dục – đào tạo,
quốc phòng – an ninh, công nghiệp, thương mại,
dịch vụ. Điển hình trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo,
232
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4D (2021): 232-244
nghĩa thực tiễn trong bối cảnh phòng, chống dịch
bệnh.
khoảng cách thời gian và địa lý. Việc giao tiếp giữa
người học và người hướng dẫn được thực hiện thông
qua các chức năng đa phương tiện khác nhau. Hình
thức học tập này ra đời cho phép giảng viên có thể
cập nhật các nội dung đào tạo thường xuyên hơn, có
thể kiểm soát được lượng kiến thức mà người học
nhận được qua các buổi học bằng hệ thống tự đánh
giá, tài liệu học tập được gửi ở các dạng tập tin khác
nhau so với hình thức giảng dạy truyền thống. Hình
thức này đang được áp dụng khá phổ biến ở nhiều
nước phát triển và đang phát triển trên thế giới như
Mỹ, Anh, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ
(Kentnor, 2015; Harasim, 2006; Innovation Center
Denmark Seoul, 2014). Đặc biệt trong bối cảnh
phòng chống dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp
SARS-CoV-2 (COVID-19), các nước trên thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng đang thực hiện các
biện pháp thắt chặt như hạn chế tiếp xúc trực tiếp
gần giữa người với người, tránh tụ tập đông người
thậm chí là thực hiện giãn cách, tạm ngừng một số
hoạt động hoặc tạm thời đóng cửa các dịch vụ không
thiết yếu,…nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh
thì hình thức hoc tập trực tuyến được xem là phương
thức hữu hiệu và cần thiết để người học có thể cập
nhật kiến thức mà không cần phải học tập tập trung
tại trường, tránh chậm hoặc trễ chương trình đào tạo
(Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2020).
Vấn đề đặt ra là, bên cạnh việc triển khai áp dụng
hình thức học tập trực tuyến thì cần có sự quan tâm
đến phản hồi, cảm nhận đánh giá và sự hài lòng của
người học đối với hình thức này với mục tiêu nâng
cao hơn nữa chất lượng dịch vụ đào tạo và khắc phục
những hạn chế còn tồn tại nếu có. Ở khía cạnh này,
một số học giả cũng đã tiến hành nghiên cứu các
nhân tố nào sẽ ảnh hưởng đến sự hài lòng của người
học đối với hình thức học trực tuyến. Điển hình như
nghiên cứu của Chiu et al. (2005), Roca et al. (2006),
Sun et al. (2008), Wu et al. (2008), Tarhini et al.
(2013), Vũ Thúy Hằng và Nguyễn Mạnh Tuân
(2013), Mohammadi (2015), Pham et al. (2019).
Các nghiên cứu này được thực hiện hầu hết là ở các
nước phát triển như Đài Loan, Hoa Kỳ, Hàn Quốc,
Trung Quốc, Tây Ban Nha,…. Các lý thuyết được
các tác giả vận dụng để giải thích trong một số
nghiên cứu đi trước bao gồm: lý thuyết về phân biệt
kỳ vọng EDT (expectancy disconfirmation theory),
mô hình chấp nhận công nghệ TAM (technology
acceptance model) và hệ thống thông tin thành công
ISS (Information systems success). Trong khi đó, tại
Việt Nam vẫn còn tương đối ít nhà nghiên cứu tập
trung vào việc áp dụng kết hợp mô hình hệ thống
thông tin thành công ISS và mô hình chấp nhận công
nghệ TAM để xem xét sự hài lòng của người học
dựa trên cảm nhận của họ từ việc trãi nghiệm hình
thức học tập trực tuyến. Vì vậy, bài nghiên cứu này
sẽ xem xét các nhân tố nào có ảnh hưởng đến sự hài
lòng, mức độ hài lòng của sinh viên khi sử dụng hình
thức học tập trực tuyến dựa trên nền tảng của hai mô
hình đã đề cập. Ngoài ra, một số đề xuất cũng được
đưa ra nhằm giúp các tổ chức giáo dục tại Việt Nam
nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng có
thể cải thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ đào tạo
của loại hình này.
Tại Việt Nam, hình thức học trực tuyến cũng đã
có sự phát triển khá mạnh mẽ, nhiều đơn vị đã tạo ra
các trang web học trực tuyến như Violet.vn,
Hocmai.vn, Topica thu hút được sự quan tâm của
nhiều người dùng. Tính đến năm 2015 tại Việt Nam
có hơn 100 đơn vị đã áp dụng và dạy học theo
phương thức giáo dục trực tuyến này. Đồng thời, mô
hình giáo dục này hiện nay được tập trung nhiều vào
giáo dục đại học thông qua hệ thống website của nhà
trường. Theo Vũ Hữu Đức (2020), trong đào tạo từ
xa học trực tuyến phát triển với hình thức là chương
trình đào tạo cấp bằng đại học, còn trong đào tạo
chính quy học trực tuyến được sử dụng là một hình
thức hỗ trợ hoặc kết hợp song song với hình thức
học truyền thống. Với khoảng 460.000 sinh viên
đang theo học tại các trường với các hình đào tạo
khác nhau, Thành phố Hồ Chí Minh cũng là một
trong những trung tâm giáo dục lớn, trong đó số
lượng trường học đào tạo chính quy đại học là 60
trường, với 46 trường công lập và 14 trường ngoài
công lập (Tổng cục Thống kê, 2018). Vì vậy, việc
quan tâm và áp dụng hình thức học trực tuyến song
song với phương thức học truyền thống tại các cơ sở
giáo dục đại học tại thành phố này là cần thiết không
chỉ thể hiện sự đổi mới trong đào tạo và còn có ý
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan tài liệu và mô hình nghiên
cứu
Mô hình chấp nhận công nghệ TAM của Davis
(1989) và mô hình hệ thống thông tin thành công IS
của DeLone and McLean (1992) được vận dụng làm
nền tảng để giải thích và biện luận mô hình nghiên
cứu. Theo đó, nhận thức dễ sử dụng và nhận thức sự
hữu ích trong mô hình TAM là hai nhân tố quan
trọng ảnh hưởng đến việc chấp nhận sử dụng hệ
thống thông tin điện tử. Hai yếu tố này cũng được
nhiều học giả sử dụng để đo lường sự hài lòng của
người học đối với hình thức học trực tuyến như Chiu
et al. (2005), Roca et al. (2006), Sun et al. (2008),
233
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4D (2021): 232-244
người dùng nhận thấy học tập trực tuyến sẽ hữu ích
trong việc đạt được kiến thức và các kỹ năng mong
muốn, họ có nhiều khả năng sẽ sử dụng hệ thống
(Cheok & Wong, 2015). Do đó, giả thuyết được đưa
ra rằng:
Wu et al. (2008), Tarhini et al. (2013), Mohammadi
(2015). Cùng với đó, mô hình hệ thống thông tin
thành công IS được DeLone and McLean phát triển
vào năm 1992 và mở rộng hiệu chỉnh vào năm 2003
đã thể hiện quan điểm khác nhau về đánh giá hệ
thống thông tin. Cụ thể, sáu yếu tố trong mô hình
của DeLone and McLean (2003) là: chất lượng hệ
thống, chất lượng thông tin, chất lượng dịch vụ, ý
định sử dụng và sử dụng hệ thống, sự hài lòng của
người sử dụng, tác động thuần. Vì vậy, khi xem xét
trong bối cảnh triển khai hình thức học tập trực
tuyến tại Việt Nam cùng với việc kế thừa một số
nghiên cứu đi trước của Roca et al. (2006), Sun et
al. (2008), Wu et al. (2008), Tarhini et al. (2013),
Pham et al. (2019), nghiên cứu này đề xuất các giả
định cơ bản rằng sự hài lòng của người học sẽ bị tác
động bởi các nhân tố là nhận thức dễ sử dụng, nhận
thức sự hữu ích, chất lượng thông tin, chất lượng hệ
thống; giảng viên hướng dẫn; dịch vụ hỗ trợ; chuẩn
chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi (Hình 1).
H2: Nhận thức sự hữu ích có ảnh hưởng tích cực
đến sự hài lòng của sinh viên khi sử dụng hình thức
học trực tuyến.
Chất lượng thông tin: là sự liên quan đến chất
lượng đầu ra của một thực thể, chất lượng thông tin
thường mang tích kịp thời, phạm vi, mức độ liên
quan và mức độ chính xác của thông tin được tạo
bởi một hệ thống thông tin (Delone & McLean,
1992). Roca et al. (2006) và Mohammadi (2015) cho
thấy chất lượng thông tin có sự tác động tích cực đến
sự hài lòng của sinh viên đối với hình thức học trực
tuyến. Thêm vào đó, Pham et al. (2019) cũng đã
từng đề cập đến chất lượng thông tin là yếu tố để
đánh giá chất lượng dịch vụ của một hệ thống có ảnh
hưởng đến sự hài lòng của người dùng thông qua
chất lượng tài liệu của khóa học, tài liệu học tập phải
có lý thuyết và thực tế, đảm bảo tính cập nhật liên
tục và liên quan đến chương trình đào tạo. Riêng
trong nghiên cứu của Vũ Thúy Hằng và Nguyễn
Mạnh Tuân (2013) thì yếu tố về thiết kế nội dung
cần phải rõ ràng, thông tin dễ lấy và dễ tiếp cận, các
hình thức hoàn thành những bài tập được giao có sự
đa dạng thể loại từ đó tạo cho sinh viên sự thích thú
khi học và cảm giác hài lòng. Chất lượng thông tin
sẽ đánh giá được lượng kiến thức mà sinh viên có
được sau mỗi khóa học có phù hợp, kịp thời, đáp
ứng đúng với mục đích của sinh viên không, do đó
có sự liên quan mật thiết và có ý nghĩa giữa chất
lượng thông tin với sự hài lòng của sinh viên (Chiu
et al., 2005; Sun et al., 2008).
Nhận thức dễ sử dụng: là “mức độ mà một cá
nhân đó tin rằng việc sử dụng một hệ thống cụ thể
nào đó sẽ không tốn quá nhiều công sức của họ”
(Davis,1989). Chiu et al. (2005), Roca et al. (2006),
Sun et al. (2008), Wu et al. (2008), Tarhini et al.
(2013) đã nghiên cứu và đề cập đến khả năng dễ sử
dụng của một hệ thống học tập trực tuyến đối với
sinh viên thông qua cách sử dụng hệ thống, cách
điều khiển các chức năng hay các thao tác trên hệ
thống có sự tác động tích cực đến sự hài lòng của
sinh viên khi sử dụng hình thức học trực tuyến. Theo
Sun et al. (2008), “nhận thức dễ sử dụng trong một
hệ thống dịch vụ học trực tuyến (e-learning) là nhận
thức của người học về sự dễ dàng cho việc sử dụng
nó”. Vì vậy, nhận thức dễ sử dụng được xem là có
ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên:
H3: Chất lượng thông tin có ảnh hưởng tích cực
đến sự hài lòng của sinh viên khi sử dụng hình thức
học trực tuyến.
H1: Nhận thức dễ sử dụng có ảnh hưởng tích cực
đến sự hài lòng của sinh viên khi sử dụng hình thức
học trực tuyến.
Chất lượng hệ thống: có sự liên quan đến việc
có “lỗi” trong hệ thống hay không, tính nhất quán
của giao diện người dùng, dễ sử dụng, tỷ lệ phản hồi
trong các hệ thống tương tác, chất lượng tài liệu,
chất lượng và khả năng duy trì (Seddon, 1997). Roca
et al. (2006) và Mohammadi (2015) chỉ ra rằng chất
lượng hệ thống có ảnh hưởng tích cực đến sự hài
lòng của người sử dụng. Pham et al. (2019) cho rằng
chất lượng hệ thống học tập trực tuyến được thể hiện
thông qua trang web học trực tuyến của các trường
đại học. Wu el al. (2008) cũng cho rằng chức năng
hệ thống là khả năng nhận thức của sinh viên về hệ
thống như việc cung cấp quyền truy cập linh hoạt
vào các chương trình đào tạo và cho phép sinh viên
Nhận thức sự hữu ích: là việc mà một cá nhân
tin rằng sử dụng một hệ thống đặc thù sẽ nâng cao
sự hiệu quả của họ (Davis, 1989). Trong một nghiên
cứu của Roca et al. (2006) đã có đề cập đến nhân tố
nhận thức sử hữu ích và kết quả đạt được qua nghiên
cứu là tính hữu dụng có tác động lớn nhất đến sự hài
lòng. Có sự giả định rằng tính hữu ích của một hệ
thống càng cao về phương tiện, trang web, chức
năng thì thái độ của người sử dụng đối với dịch vụ
càng tích cực hơn (Sun et al., 2008). Tarhini et al.
(2013) và Mohammadi (2015) cũng đã đề cập đến
tính hữu ích có sự ảnh hưởng tích cực đến ý định
hành vi sử dụng hệ thống học tập dựa trên web. Khi
234
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4D (2021): 232-244
đánh giá qua khía cạnh về dịch vụ hỗ trợ hoặc dịch
vụ hành chính và xem xét nó như một nhân tố có ảnh
hưởng tích cực đến sự hài lòng của sinh viên khi sử
dụng dịch vụ. Việc quản lý các khía cạnh của các
dịch vụ hỗ trợ này là không thể thiếu để đảm bảo sự
trung thành của sinh viên (Martínez-Argüelles &
Batalla-Busquets, 2016).
truy cập tài liệu, nội dung khóa học, bài tập về nhà,
hoàn thành bài kiểm tra một cách dễ dàng có ảnh
hưởng tích cực đến sự hài lòng của sinh viên thông
qua giá trị cảm nhận khi sử dụng dịch vụ. Theo Vũ
Thúy Hằng và Nguyễn Mạnh Tuân (2013), chất
lượng hệ thống là việc người học dễ dàng truy cập
vào từng chức năng nội dung bài giảng tại bất kì thời
điểm và địa điểm trong quá trình học tập. Ngoài ra,
sinh viên cũng có sự nhạy cảm với các công cụ công
nghệ được sử dụng ở hệ thống trong quá trình học,
sinh viên đưa ra cảm nhận về sự phù hợp của nền
tảng và thiết kế của nó, bao gồm các tính năng như
truy cập vào nội dung, sự rõ ràng trong các bản trình
bày, tốc độ tải xuống của văn bản hoặc hình ảnh đồ
họa, video (Martín-Rodríguez et al., 2015).
H6: Dịch vụ hỗ trợ có sự ảnh hưởng tích cực đến
sự hài lòng của sinh viên khi sử dụng hình thức học
trực tuyến.
Chuẩn chủ quan: là nhận thức của một người
nào đó cho rằng hầu hết những người quan trọng đối
với họ cho rằng họ nên hay không nên thực hiện một
điều gì đó (Ajzen, 1991). Roca et al. (2006) đã đưa
nhân tố chuẩn chủ quan này vào mô hình để giải
thích cho sự ảnh hưởng từ các tác nhân bên ngoài từ
người khác khi sử dụng dịch vụ học tập trực tuyến.
Thêm vào đó, Tarhini et al. (2013) cũng có đề cập
đến sự ảnh hưởng tích cực của chuẩn chủ quan đến
sự hài lòng.
H4: Chất lượng hệ thống có sự ảnh hưởng tích
cực đến sự hài lòng của sinh viên khi sử dụng hình
thức học trực tuyến.
Giảng viên hướng dẫn: giảng viên là người
giảng dạy, giao tiếp với các học viên trong lớp học,
quản lý khóa học và học viên trong lớp của mình;
biên soạn bài giảng, bài tập (Huỳnh Đệ Thủ, 2019).
Ngoài ra, họ là người định hướng, người hỗ trợ sinh
viên trong quá trình học tập qua dịch vụ (Bùi Kiên
Trung, 2016). Vì vậy, giảng viên hướng dẫn phải có
cả kiến thức lý thuyết và thực tiễn, luôn quan tâm
đến sở thích của sinh viên, và thúc đẩy sự tương tác
liên tục của sinh viên (Pham et al., 2019). Đồng thời,
giảng viên được xem là nguồn nhân lực quan trọng
nhất trong việc để cung cấp cho sinh viên một chất
lượng giáo dục hoàn toàn mới (Cheok & Wong,
2015). Nghiên cứu của Roca et al. (2006) cũng đã
có đề cập đến giảng viên hướng dẫn có sự tác động
đến sự hài lòng. Theo đó, có 3 khía cạnh để đo lường
chất lượng đội ngũ giảng viên bao gồm: chuyên môn
của giảng viên, sự tương tác của giảng viên đối với
sinh viên và sự hỗ trợ kịp thời của giảng viên có tác
động tích cực đến sự hài lòng của sinh viên.
H7: Chuẩn chủ quan có sự ảnh hưởng tích cực
đến sự hài lòng của sinh viên khi sử dụng hình thức
học trực tuyến.
Nhận thức kiểm soát hành vi: yếu tố này được
xem xét ở hai khía cạnh là sự hiệu quả của máy tính
và sự hiệu quả của internet. Đó là việc mà một cá
nhân tin rằng mình có khả năng tự sử dụng và nhận
thấy sự dễ sử dụng của máy tính và internet sẽ có tác
động tích cực đến sự hài lòng khi sử dụng hình thức
học trực tuyến (Roca et al., 2006). Sự hiệu quả của
máy tính được xác nhận là yếu tố quyết định sự chấp
nhận và sử dụng đối với hệ thống (Wu et al., 2010).
Roca et al. (2006) đã đề cập trong nghiên cứu rằng
sự hiệu quả là niềm tin của một cá nhân nghĩ rằng
bản thân có thể thực hiện một việc làm gì đó hay một
hành vi cụ thể. Nói cách khác, đó là năng lực của
bản thân là sự đánh giá bản thân về khả năng của
mình đối với một khóa học cụ thể (Isik, 2008). Wu
et al. (2010) xác định tính hiệu quả của máy tính là
sự tự tin về khả năng hoàn thành các nhiệm vụ học
tập hoặc các bài tập bằng hệ thống dịch vụ học trực
tuyến của một người.
H5: Giảng viên hướng dẫn có sự ảnh hưởng tích
cực đến sự hài lòng của sinh viên khi sử dụng hình
thức học trực tuyến.
Dịch vụ hỗ trợ: là một phần trong chất lượng
dịch vụ, chất lượng dịch vụ không tập trung hoàn
toàn vào đánh giá quá trình dạy và học mà còn có sự
đánh giá về các dịch vụ hành chính và các dịch vụ
bổ sung khác (Martínez-Argüelles & BatallaBusquets, 2016 ). Theo nghiên cứu của Pham et al.
(2019), chất lượng dịch vụ học tập trực tuyến được
H8: Nhận thức kiểm soát hành vi có sự ảnh
hưởng tích cực đến sự hài lòng của sinh viên khi sử
dụng hình thức học trực tuyến.
235
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4D (2021): 232-244
Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất
học ở thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) đã và đang
sử dụng hình thức học trực tuyến cho quá trình học
tập và nghiên cứu của mình. Bộ thang đo chính thức
gồm 47 mục hỏi được kế thừa và hiệu chỉnh từ các
nghiên cứu đi trước có liên quan thông qua phỏng
vấn sâu và lấy ý kiến chuyên gia (Bảng 1).
2.2. Thang đo
Các giả thuyết nghiên cứu được kiểm định thông
qua bộ dữ liệu sơ cấp với 267 quan sát hợp lệ được
thu thập bằng phương pháp lấy mẫu phi xác suất
theo kiểu thuận tiện. Các đối tượng được khảo sát là
sinh viên khối ngành kinh tế tại một số trường đại
Bảng 1. Xây dựng thang đo cho các nhân tố nghiên cứu trong mô hình
Mã hóa
PE1
PE2
PE3
PE4
PE5
PE6
PU1
PU2
PU3
PU4
PU5
PU6
Biến quan sát của các nhân tố
Nhận thức dễ sử dụng (Perceived Ease of Use) - PE
Học cách sử dụng dịch vụ học trực tuyến đối với tôi thật dễ dàng
Tôi dễ dàng thực hiện những gì tôi muốn làm trên hệ thống dịch vụ
học tập trực tuyến
Dịch vụ học trực tuyến giúp tôi dễ dàng trở nên thành thạo hơn khi sử
dụng
Sự tương tác của tôi đối với dịch vụ học trực tuyến thì rõ ràng và dễ
hiểu
Tôi thấy hệ thống học trực tuyến dễ sử dụng
Nguồn
Roca et al. (2006),
Wu et al. (2008)
Wu et al. (2008),
Sun et al. (2008)
Roca et al. (2006)
Tarhini et al. (2013),
Roca et al. (2006)
Tarhini et al. (2013),
Sun et al. (2008)
Trang web của khóa học trực tuyến cho phép tôi tìm kiếm thông tin dễ
Pham et al. (2019)
dàng
Nhận thức sự hữu ích (Perceived Usefulness) - PU
Sử dụng dịch vụ học trực tuyến có thể cải thiện được hiệu suất học tập Roca et al. (2006),
của tôi
Tarhini et al. (2013)
Sử dụng dịch vụ học trực tuyến sẽ nâng cao hiệu quả học tập của tôi Roca et al. (2006)
Tôi thấy dịch vụ học trực tuyến hữu ích cho việc học của tôi
Roca et al. (2006)
Sử dụng dịch vụ học trực tuyến sẽ cho phép tôi hoàn thành việc học
Tarhini et al. (2013)
tập nhanh hơn
Sử dụng dịch vụ học trực tuyến giúp tôi tiết kiệm thời gian
Mohammadi (2015)
Sử dụng dịch vụ học trực tuyến giúp tôi tiết kiệm chi phí
Mohammadi (2015)
Chất lượng thông tin (Information Quality) - IN
236
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Mã hóa
IN1
IN2
IN3
IN4
IN5
IN6
SY1
SY2
SY3
SY4
SY5
ID1
ID2
ID3
ID4
ID5
SS1
SS2
SS3
SS4
SS5
SN1
SN2
SN3
SN4
Tập 57, Số 4D (2021): 232-244
Biến quan sát của các nhân tố
Nguồn
Nhận thức dễ sử dụng (Perceived Ease of Use) - PE
Dịch vụ học trực tuyến cung cấp thông tin gây khó hiểu cho tôi
Roca et al. (2006)
Thông tin từ dịch vụ học trực tuyến luôn được cập nhật cho mục đích
Roca et al. (2006)
của tôi
Độ tin cậy của thông tin đầu ra từ dịch vụ học trực tuyến cao
Roca et al. (2006)
Dịch vụ học trực tuyến cung cấp thông tin tôi cần kịp thời
Roca et al. (2006)
Dịch vụ học trực tuyến không cung cấp đầy đủ thông tin cho mục đích
Roca et al. (2006)
của tôi
Trang web của khóa học trực tuyến cung cấp cho tôi các thông tin có
Pham et al. (2019)
giá trị
Chất lượng hệ thống (System Quality) - SY
Dịch vụ học trực tuyến cho phép tôi kiểm soát các hoạt động học tập
Wu et al. (2008)
của tôi
Hệ thống dịch vụ học trực tuyến có sự phản hồi nhanh chóng trong
Roca (2006)
thời gian cao điểm
Việc sắp xếp thông tin hiển thị trên giao diện của hệ thống học trực
Roca (2006)
tuyến rất rõ ràng
Các bước để hoàn thành việc học tập của tôi trên hệ thống học trực
Roca et al. (2006)
tuyến là không đơn giản
Tôi cảm thấy an toàn khi cung cấp các thông tin bảo mật cho trang
Pham et al. (2019)
web học trực tuyến tại trường đại học của tôi
Giảng viên hướng dẫn (Instructors dimension) - ID
Giảng viên hướng dẫn học trực tuyến của tôi có kiến thức chuyên
Pham et al. (2019)
môn
Giảng viên hướng dẫn học trực tuyến của tôi cung cấp các bài giảng
Pham et al. (2019)
hay
Giảng viên hướng dẫn học trực tuyến của tôi cung cấp một môi
Pham et al. (2019)
trường học tập khuyến khích sự tham gia tương tác
Tôi nhận được các đánh giá về bài tập hoặc bài kiểm tra cho khóa học
Sun et al. (2008)
một cách kịp thời từ giảng viên hướng dẫn học trực tuyến của tôi
Giảng viên hướng dẫn học trực tuyến của tôi có sự chuẩn bị tốt và có
Roca et al. (2006)
tổ chức phù hợp đối với các khóa học
Dịch vụ hỗ trợ (Support Service) - SS
Đối với việc học trực tuyến của tôi, trường đại học của tôi có dịch vụ
Pham et al. (2019)
hỗ trợ học trực tuyến ngay lần đầu sử dụng
Đối với việc học trực tuyến của tôi, nhân viên tại trường đại học sẽ
Pham et al. (2019)
cho tôi biết chính xác các yêu cầu của tôi sẽ được thực hiện khi nào
Đối với việc học trực tuyến của tôi, nhân viên tại trường đại học của
Pham et al. (2019)
tôi cung cấp cho tôi dịch vụ hỗ trợ nhanh chóng
Đối với việc học trực tuyến của tôi, nhân viên tại trường đại học của
Pham et al. (2019)
tôi luôn hiểu được các nhu cầu cụ thể của tôi
Đối với việc học trực tuyến của tôi, dịch vụ hỗ trợ tại trường đại học
Pham et al. (2019)
của tôi có giờ hoạt động thuận tiện
Chuẩn chủ quan (Subjective Norm) - SN
Bạn bè tôi nghĩ tôi nên sử dụng dịch vụ học trực tuyến
Roca et al. (2006),
Tarhini et al. (2013)
Tôi đã đọc các báo cáo tin tức rằng việc sử dụng dịch vụ học trực
Roca et al. (2006)
tuyến là một phương pháp học tốt
Giáo viên hướng dẫn của tôi nghĩ rằng tôi nên sử dụng dịch vụ học
Roca et al. (2006),
trực tuyến vào quá trình học của mình
Tarhini et al. (2013)
Gia đình tôi nghĩ rằng tôi nên sử dụng dịch vụ học trực tuyến
Roca et al. (2006)
Nhận thức kiểm soát hành vi (Perceived Behavior Control) - PB
237
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Mã hóa
PB1
PB2
PB3
PB4
PB5
PB6
SAT1
SAT2
SAT3
SAT4
Tập 57, Số 4D (2021): 232-244
Biến quan sát của các nhân tố
Nhận thức dễ sử dụng (Perceived Ease of Use) - PE
Tôi có thể hoàn thành các hoạt động học tập của mình bằng dịch vụ
học trực tuyến nếu tôi chỉ có hướng dẫn sử dụng dịch vụ để tham
khảo
Tôi có thể hoàn thành các hoạt động học tập của mình bằng dịch vụ
học trực tuyến nếu tôi chưa bao giờ sử dụng một dịch vụ như vậy
trước đây
Tôi có thể sử dụng dịch vụ học trực tuyến mà không cần sự giúp đỡ
của bất kỳ ai
Tôi cảm thấy tự tin khi trao đổi thông tin với người khác trong các
diễn đàn thảo luận học trực tuyến
Tôi cảm thấy tự tin khi tải xuống các tài liệu từ dịch vụ học trực trực
tuyến
Tôi cảm thấy tự tin khi đính kèm tập tin trong dịch vụ học trực tuyến
Sự hài lòng (Satisfaction) - SAT
Tôi hài lòng với hiệu suất đạt được từ dịch vụ học trực tuyến
Quyết định của tôi khi sử dụng dịch vụ học trực tuyến là một quyết
định khôn ngoan
Tôi hài lòng với trải nghiệm sử dụng dịch vu học trực tuyến
Tôi rất hài lòng với dịch vụ học tập trực tuyến
Nguồn
Roca et al. (2006)
Roca et al. (2006)
Wu et al. (2008)
Roca et al. (2006)
Roca et al. (2006), Sun
et al. (2008)
Roca et al. (2006)
Roca et al. (2006), Sun
et al. (2008)
Roca et al. (2006), Sun
et al. (2008)
Roca et al. (2006), Sun
et al. (2008)
Sun et al. (2008)
Nguồn: tổng hợp từ nghiên cứu của Roca et al.,2006; Pham et al., 2019; Sun et al., 2008; Wu et al., 2008
đồng nghiệp. Kết quả thu về nhận được nhiều phản
hồi tích cực với 100 phiếu trả lời trực tuyến và 200
phiếu trực tiếp, dữ liệu sau khi thu thập được làm
sạch thì có 267 phiếu trả lời hợp lệ và 33 phiếu trả
lời không hợp lệ. Bên cạnh đó phương pháp thu thập
thông tin thứ cấp được thực hiện thông qua các bài
viết được xuất bản, các báo cáo nghiên cứu trước
được công bố trên các trang web có uy tín từ các tổ
chức trong và ngoài nước để có được những cơ sở
lý thuyết tổng quan về hình thức học trực tuyến và
sự hài lòng của người dùng.
2.4. Phương pháp phân tích dữ liệu
2.3. Cỡ mẫu và cách thức khảo sát
Tiến hành lấy mẫu với kích thước mẫu tối thiểu
để sử dụng cho phân tích nhân tố khám phá EFA
theo Hair et al. (1998) là n = 5*47 = 235 để đảm bảo
kích thước mẫu tối thiểu với 47 biến quan sát. Theo
Green (1991), kích thước mẫu tối thiểu cho phân
tích mô hình hồi quy với 8 biến độc lập được tính là
n = 50 + 8*8 = 114. Ở sự kết hợp này, kích thước
mẫu cần thiết là 300 để đề phòng những trường hợp
phiếu trả lời không hợp lệ sẽ được loại bỏ sau khi
sàn lọc. Phương pháp lấy mẫu thuận tiện và lấy mẫu
theo kiểu phát triển mầm (quả bóng tuyết) được áp
dụng để thu thập dữ liệu sơ cấp. Các đối tượng được
khảo sát là những người đã hoặc đang tham gia khóa
học trực tuyến. Nội dung câu hỏi gạn lọc được đưa
vào bảng câu hỏi khảo sát nhằm xác định được đúng
đối tượng cần thu thập thông tin. Đối với hình thức
khảo sát trực tuyến, đường link khảo sát được gửi
qua email, zalo nhờ vào sự hỗ trợ và giới thiệu của
một số giảng viên – hiện là cố vấn học tập của sinh
viên có tham gia hình thức học tập trực tuyến, sau
đó nhờ giới thiệu người được khảo sát tiếp theo
thông qua hình thức chia sẻ. Thêm vào đó, khảo sát
trực tiếp cũng được thực hiện bằng cách in bảng câu
hỏi ra và đi đến các trường học. Cụ thể, dữ liệu được
thu thập từ các bạn sinh viên đang có các hoạt động
tự học tại thư viện hoặc tại các khu vực sảnh chờ
trong khuôn viên trường thông qua sự hỗ trợ của
Sau khi sàn lọc và có được các dữ liệu chính thức
từ các phương thức thu thập, nhóm tác giả tiến hành
thống kê mô tả để tóm tắt dữ liệu và một số thông
tin của mẫu như: giới tính, chuyên ngành đang theo
học, trường theo học, năm học. Trong tổng 267 mẫu
có 114 người là nam và 153 là nữ đang theo học tại
một số trường đại học đã và đang triển khai hình
thức học tập trực tuyến như: Đại học Kinh Tế Thành
phố Hồ Chí Minh TP.HCM (15%); Đại học Mở
TP.HCM (13,5%); Đại học Công Nghiệp TP.HCM
(19,5%); Đại học Tài Chính – Marketing (10,5%);
Đại học Công Nghệ TP.HCM (11,6%); Đại học Văn
Lang (9,4%); Đại học Công Nghiệp Thực Phẩm
TP.HCM (7,1%); Đại học Lao Động – Xã Hội Cơ
sở II (7,5%) và Đại học Tôn Đức Thắng (6%). Các
chuyên ngành mà sinh viên đang theo học ghi nhận
238
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4D (2021): 232-244
từ dữ liệu là quản trị kinh doanh, marketing, tài
chính ngân hàng, kế toán, quản trị nguồn nhân lực,
kinh doanh quốc tế, quản trị nhà hàng khách sạn và
một số chuyên ngành khác. Ngoài ra, phần lớn các
đối tượng được khảo sát là sinh viên năm hai và
năm ba.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha
Ngoài trừ các mục hỏi PU5, PU6 và IN6 có hệ
số tương quan biến tổng nhỏ hơn 0,3, kết quả phân
tích cho thấy các mục hỏi trong cùng thang đo đều
có các hệ số tương quan tổng lớn hơn 0,3 đạt được
điều kiện cần thỏa mãn và hệ số Cronbach’s Alpha
tổng đều lớn hơn 0,7 (Bảng 2). Vì vậy, có thế kết
luận rằng thang đo độc lập và phụ thuộc được sử
dụng trong nghiên cứu là phù hợp và đáng tin cậy,
các biến quan sát này đều được sử dụng trong phần
phân tích nhân tố khám phá EFA tiếp theo.
Sau đó, một số kĩ thuật phân tích được nhóm sử
dụng bao gồm: kiểm định độ tin cậy thang đo bằng
hệ số Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá
EFA, phân tích hồi quy tuyến tính để biết được các
biến độc lập có sự tương quan tuyến tính với biến
phụ thuộc hay không, sự tương quan đó tích cực hay
tiêu cực và nó có ý nghĩa thống kê trong tổng thể
hay không.
Bảng 2. Kết quả kiểm định độ tin cậy thang đo
Thang đo
Nhận thức sự hữu ích
Nhận thức dễ sử dụng
Chất lượng thông tin
Chất lượng hệ thống
Giảng viên hướng dẫn
Dịch vụ hỗ trợ
Chuẩn chủ quan
Kiểm soát nhận thức hành vi
Sự hài lòng
Số mục hỏi
5
4
5
5
5
5
4
6
4
Hệ số Cronbach’s Alpha
0,869
0,890
0,845
0,878
0,817
0,884
0,894
0,891
0,908
Nguồn: kết quả xử lý số liệu khảo sát năm 2020
8 nhân tố được rút trích có ý nghĩa tóm tắt thông tin
tốt nhất. Đồng thời, tổng phương sai trích 68,393
cho biết 8 nhân tố này giải thích được 68,393% sự
biến thiên của dữ liệu. Các nhóm nhân tố bao gồm:
Nhận thức kiểm soát hành vi (PB5, PB4, PB2, PB1,
PB6, PB3); Dịch vụ hỗ trợ (SS2, SS3, SS4, SS5,
SS1); Chất lượng hệ thống (SY3, SY2, SY4, SY1,
SY5); Chất lượng thông tin (IN3, IN2, IN4, IN1,
IN5); Nhận thức dễ sử dụng (PE2, PE3, PE1, PE4,
PE5); Chuẩn chủ quan (SN2, SN3, SN1, SN4);
Nhận thức sự hữu ích (PU2, PU3, PU1, PU4); Giảng
viên hướng dẫn (ID4, ID5, ID3, ID2, ID1).
3.2. Phân tích nhân tố khám phá EFA
Thực hiện phân tích nhân tố khám phá cho thang
đo các biến độc lập, kết quả ở lần phân tích cuối
cùng thể hiện các tham số thống kê đều đạt yêu cầu
(Bảng 3). Cụ thể, hệ số KMO = 0,892 > 0,5 chứng
tỏ phân tích có sự phù hợp và có ý nghĩa thống kê;
giá trị sig. trong kiểm định Bartlett’s < 0,05 thể hiện
các mục hỏi có tương quan với nhau; hệ số tải nhân
tố đều lớn hơn 0,5 (ngoài trừ PE6 đã được loại bỏ).
Chỉ số Eigenvalue (đại diện cho phần biến thiên
được giải thích bởi mỗi nhân tố) bằng 1,291 >1 nên
239
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4D (2021): 232-244
Bảng 3. Kết quả phân tích nhân tố biến độc lập
Chỉ tiêu
PB5
PB4
PB2
PB1
PB6
PB3
SS2
SS3
SS4
SS5
SS1
SY3
SY2
SY4
SY1
SY5
IN3
IN2
IN4
IN1
IN5
PE2
PE3
PE1
PE4
PE5
SN2
SN3
SN1
SN4
PU2
PU3
PU1
PU4
ID4
ID5
ID3
ID2
ID1
Hệ số KMO
Hệ số Sig (Bartlett’s Test of Sphericity)
Giá trị Eigenvalues
Mức độ giải thích của nhân tố (%)
Mức độ giải thích tích lũy (%)
X1
0,789
0,761
0,715
0,702
0,697
0,675
X2
X3
Nhân tố
X4
X5
X6
X7
X8
0,824
0,760
0,727
0,653
0,647
0,875
0,840
0,785
0,775
0,745
0,875
0,872
0,738
0,720
0,599
0,794
0,785
0,780
0,670
0,546
0,828
0,813
0,726
0,718
0,822
0,771
0,752
0,626
0,789
0,740
0,740
0,718
0,683
0,892
0,000
11,577 4,162 2.747 2.117 1.766 1.586 1.428 1.291
10,693
9,004 8,823 8,395 8,366 7,865 7,628 7,619
10,693
19,698 28,520 36,915 45,281 53,145 60,774 68,393
Nguồn: kết quả xử lý số liệu khảo sát năm 2020
KMO = 0,819 > 0,5 chứng tỏ phân tích nhân tố thích
hợp với dữ liệu nghiên cứu. Giá trị phương sai trích
= 78,487 và tất cả các mục hỏi đều có hệ số tải nhân
tố lớn hơn 0,5 nên đạt yêu cầu. Như vậy thang đo
“Sự hài lòng” đạt được giá trị hội tụ.
Tương tự, các mục hỏi của biến phụ thuộc sau
khi được kiểm định độ tin cậy thang đo bằng hệ số
Cronbach’s Alpha cũng được thực hiện phân tích
nhân tố với kết quả cho thấy: Kiểm định Barlett’s
với giá trị Sig. < 0,05 thể hiện các mục hỏi trong
biến quan sát có sự tương quan với nhau. Hệ số
240
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4D (2021): 232-244
Bảng 4. Kết quả phân tích nhân tố biến phụ thuộc
Tiêu chí
SAT2
SAT3
SAT1
SAT4
Hệ số KMO
Hệ số Sig (Bartlett’s Test of Sphericity)
Giá trị Eigenvalues
Mức độ giải thích (%)
Hệ số tải nhân tố
0,898
0,895
0,891
0,860
0,819
0,000
3,139
78,487%
Nguồn: kết quả xử lý số liệu khảo sát năm 2020
3.3. Phân tích hồi quy
lòng được giải thích bởi 8 nhân tố độc lập trong mô
hình nghiên cứu, 33,3% còn lại là do các tác động
Trong Bảng 5, tất cả 8 nhân tố đều có giá trị mức
của các yếu tố khác. Kiểm định F sử dụng trong phân
ý nghĩa Sig. < 0,05 nên có sự tương quan với sự hài
tích phương sai (ANOVA) của phân tích hồi quy đạt
lòng khi độ tin cậy là 95%. R2 hiệu chỉnh đạt 0,667,
giá trị Sig. < 0,05 điều này nói lên ý nghĩa mô hình
điều này nói lên có 66,7% sự thay đổi của sự hài
lý thuyết phù hợp với dữ liệu thực tế.
Bảng 5. Kết quả kiểm định mô hình của các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng
Nhân tố
Nhận thức kiểm soát hành vi
Dịch vụ hỗ trợ
Chất lượng hệ thống
Chất lượng thông tin
Nhận thức dễ sử dụng
Chuẩn chủ quan
Nhận thức sự hữu ích
Giảng viên hướng dẫn
R2
R2 hiệu chỉnh
Thống kê F (sig)
Beta
0,199
0,146
0,096
0,101
0,175
0,165
0,229
0,084
Sig.
0,000
0,004
0,012
0,010
0,000
0,001
0,000
0,034
VIF
1,963
1,965
1,158
1,206
1,890
1,797
1,985
1,236
0,677
0,667
0,000
Nguồn: kết quả xử lý số liệu khảo sát năm 2020
tuyến cung cấp thông tin và lợi ích hay hiệu quả mà
nó mang đến (Roca et al., 2006; Sun et al., 2008).
Dựa vào phương trình hồi quy cho thấy các hệ
số hồi quy đều có giá trị lớn hơn 0 nên kết luận rằng
tất cả các nhân tố độc lập được đưa vào phân tích
đều có sự tác động thuận chiều đến biến phụ thuộc.
Các nhân tố độc lập bao gồm nhận thức dễ sử dụng,
nhận thức sự hữu ích, chất lượng thông tin, chất
lượng hệ thống, giảng viên hướng dẫn, dịch vụ hỗ
trợ, chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi
đều có sự tác động tích cực và đáng kể đến biến phụ
thuộc là sự hài lòng.
Nhân tố có mức độ ảnh hưởng lớn thứ hai sau
nhận thức sự hữu ích là nhận thức kiểm soát hành
vi. Kết quả này cũng ủng hộ với các nghiên cứu
Roca et al. (2006), Sun et al. (2008), Wu et al.
(2008) khi có sự tương quan thuận đối với sự hài
lòng. Trên thực tế khi một sinh viên sử dụng dịch vụ
học trực tuyến sẽ có những sự lo lắng về việc tương
tác, thao tác với máy tính và trang web học trực
tuyến. Sự lo lắng càng cao thì sinh viên càng không
thể xử lý tốt các thông tin hay yêu cầu khi sử dụng,
nên việc sinh viên nhận thức được khả năng hành vi
của mình hay sinh viên tự tin trao đổi thông tin, thao
tác trên hệ thống sẽ tạo cho sinh viên thái độ tích cực
hơn đối với hệ thống học trực tuyến.
Dựa vào giá trị của hệ số beta (Bảng 5), nhân tố
nhận thức sự hữu ích có sự ảnh hưởng lớn nhất trong
8 nhân tố. Điều này phù hợp với nghiên cứu trước
đây cho thấy rằng nhận thức sự hữu ích có vai trò
quan trọng hơn nhận thức dễ sử dụng khi xem xét
trong bối cảnh học tập trực tuyến. Cụ thể, người
dùng quan tâm đến cách mà hệ thống học tập trực
241
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4D (2021): 232-244
cũng đã được ủng hộ trong một số nghiên cứu của
của Pham et al. (2019), Mohammadi (2015) và Roca
et al. (2006).
Kế đến, nhận thức dễ sử dụng có sự tác động
đáng kể và mạnh thứ ba đến sự hài lòng. Từ góc nhìn
thực tế liên quan đến học tập trực tuyến, việc sinh
viên dễ dàng tiếp cận, dễ sử dụng hệ thống, dễ tìm
kiếm thông tin sẽ kích thích và mang lại những cảm
xúc tích cực từ đó khuyến khích người học hào hứng
tham gia khóa học hơn. Kết quả này cũng đã kiểm
chứng trong nghiên cứu của Roca et al. (2006). Đặc
biệt, trong nghiên cứu của Tarhini et al. (2013) thể
hiện nhận thức dễ sử dụng có sự ảnh hưởng mạnh
nhất đến sự hài lòng. Việc dễ dàng sử dụng sẽ giúp
người dùng tập trung vào các thông tin hơn tạo nên
hiệu quả cao. Tuy nhiên, kết quả về mối tương quan
giữa nhân tố chuẩn chủ quan và sự hài lòng lại
không nhất quán so với nghiên cứu của Roca et al.
(2006). Theo đó, sự tác động từ gia đình, bạn bè,
người thân và người hướng dẫn thực sự có ý nghĩa
đối việc củng cố niềm tin đặc biệt là nhìn nhận được
lợi ích từ công nghệ dẫn đến việc sử dụng hình thức
học tập trực tuyến khi trong bối cảnh thực hiện
phòng, chống dịch phức tạp đã và đang diễn ra.
Và sau cùng, nhân tố giảng viên hướng dẫn được
đánh giá là có sự ảnh hưởng đối với sự hài lòng của
người học. Đối với hình thức học tập truyền thống
phần lớn sự tương tác giữa người dạy với người học
chủ yếu là giao tiếp trực tiếp, trong khi đối với hình
thức học tập trực tuyến thì sự giao tiếp này là gián
tiếp thông qua môi trường không gian “ảo” bằng
cách sử dụng các công cụ, trang thiết bị điện tử có
kết nối mạng internet. Sự tương tác này có phần hạn
chế nếu như đường truyền không ổn định hoặc gặp
những vấn đề không mong muốn khi kết nối. Vì vậy,
bên cạnh kiến thức chuyên môn tốt thì giảng viên
hướng dẫn đóng vai trò quan trọng trong việc
khuyến khích sự tham gia tương tác và sự tích cực
học tập của người học thông qua phương pháp giảng
dạy, cách thức tổ chức bài học, bài tập, bài kiểm tra
(Pham et al., 2019; Sun et al., 2008).
4. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý QUẢN TRỊ
4.1. Kết luận
Thêm vào đó, Nhân tố dịch vụ hỗ trợ cũng được
đánh giá có sự ảnh hưởng tương quan thuận đến sự
hài lòng của người học. Trong quá trình sử dụng hệ
thống học trực tuyến, nhất định người học sẽ gặp
những vấn đề mà tự bản thân họ không thể giải quyết
được điều này cần có sự hỗ trợ kịp thời từ phía nhà
trường hay người quản lý. Đáp ứng được các nhu
cầu về lựa chọn khóa học, sự bảo mật, cách khắc
phục sự cố hay các thủ tục hành chính nhanh chóng
sẽ làm tăng sự hài lòng của sinh viên về hệ thống
học trực tuyến hơn. Kết quả này một lần nữa ủng hộ
quan điểm của Pham et al. (2019). Một khi sinh viên
được hỗ trợ nhanh chóng, kịp thời trong quá trình sử
dụng sẽ tạo sự tin tưởng, sự hài lòng khi những lợi
ích của sinh viên có đều được nhà trường quan tâm.
Kết quả nghiên cứu đã làm rõ được những vấn
đề liên quan đến hình thức học trực tuyến và sự hài
lòng của người học thông qua mô hình nghiên cứu
được đề xuất và kiểm định về mối tương quan giữa
các nhân tố với sự hài lòng của người học. Theo đó,
có mối quan hệ tương quan dương giữa nhận thức
sự hữu ích; nhận thức dễ sử dụng, chất lượng thông
tin; chất lượng hệ thống; giảng viên hướng dẫn; dịch
vụ hỗ trợ; chuẩn chủ quan; kiểm soát nhận thức hành
vi với sự hài lòng. Kết quả này cũng cho thấy có sự
phù hợp với thực tế và một lần nữa ủng hộ kết quả
các nghiên cứu trước đây của Chiu et al. (2005),
Roca et al. (2006), Sun et al. (2008), Tarhini et al.
(2013), Vũ Thúy Hằng và Nguyễn Mạnh Tuân
(2013), Mohammadi (2015), Pham et al. (2019). Sau
khi kết hợp giữa lý thuyết và kết quả phân tích dữ
liệu, nhóm tác đã có những đề xuất hàm ý quản trị
nhằm giúp cho các cơ sở giáo dục đào tạo đã và đang
triển khai hình thức học tập trực tuyến có thể nâng
cao chất lượng dịch vụ, sự hài lòng của người học.
4.2. Hàm ý quản trị
Ngoài ra, chất lượng thông tin và chất lượng hệ
thống là hai nhân tố quan trọng và đáng quan tâm.
Bản thân người học không chỉ chú ý vào việc hệ
thống học tập cũng cấp những thông tin gì, những
thông tin đó có rõ ràng, dễ hiểu và phù hợp hay
không mà còn đặc biệt quan tâm đến khả năng phản
hồi nhanh chóng trong thời gian cao điểm, việc sắp
xếp thông tin hiển thị và vấn đề bảo mật thông tin.
Việc học trực tuyến dựa trên các thiết bị, phương
tiện điện tử có sự kết nối mạng thì không thể nào
thiếu đi tính năng hệ thống, hệ thống dịch vụ là nơi
để người học học tập, hoàn thành các bài tập được
giao nên chất lượng hệ thống là đều đáng quan tâm
đến. Công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, đòi
hòi từ người dùng ngày càng cao nên chất lượng hệ
thống càng được quan tâm để cải thiện phù hợp với
nhu cầu người dùng. Điều này hoàn toàn phù hợp và
Dựa trên kết quả phân tích, nội dung thảo luận
trước đó, nghiên cứu đưa ra một số đề xuất hàm ý
quản trị nhằm giúp hoàn thiện và nâng cao sự hài
lòng của sinh viên hơn đối với hình thức học trực
tuyến (e-leaning):
Các cơ sở đào tạo cần có những tài liệu và video
hướng dẫn cách thức truy cập, thao tác và cách thức
sử dụng các chức năng trong hệ thống dịch vụ trước
242
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4D (2021): 232-244
Bùi Kiên Trung. (2016). Mối quan hệ giữa chất
lượng dịch vụ đào tạo với sự hài lòng và mức độ
trung thành của sinh viên trong đào tạo từ xa ELearning (luận án tiến sĩ kinh tế). Trường Đại
học Kinh Tế Quốc Dân.
Chiu, C. M., Hsu, M. H., Sun, S. Y., Lin, T. C., &
Sun, P. C. (2005). Usability, quality, value and elearning continuance decisions. Computers &
education, 45(4), 399-416.
https://doi.org/10.1016/j.compedu.2004.06.001
Davis, F.D. (1989). Perceived usefulness, perceived
ease of use, and user acceptance of information
technology. MIS Quarterly, 13 (3), 319-340.
https://doi.org/10.2307/249008
DeLone, W. H., & McLean, E. R. (1992).
Information systems success: The quest for the
dependent variable. Information systems
research, 3(1), 60-95.
https://doi.org/10.1287/isre.3.1.60
DeLone, W. H., & McLean, E. R. (2003). The
DeLone and McLean model of information
systems success: a ten-year update. Journal of
management information systems, 19(4), 9-30.
https://doi.org/10.1080/07421222.2003.11045748
Green, S. B. (1991). How many subjects does it take
to do a regression analysis. Multivariate
behavioral research, 26(3), 499-510.
https://doi.org/10.1207/s15327906mbr2603_7
Hair, J. F., Black, W. C., Babin, B. J., Anderson, R.
E., & Tatham, R. L. (1998). Multivariate data
analysis. Prentice Hall.
Harasim, L. (2006). A History of E-learning: Shift
Happened. In Weiss, J., Nolan, J., Hunsinger,
J., Trifonas, P. (Eds.), The International
Handbook Of Virtual Learning Environments
(pp. 59-94). Spinger, Dordrecht.
Huỳnh Đệ Thủ. (2019). Hệ thống đào tạo trực tuyến ELearning tại Trường Đại Học Kinh tế - Tài chính
TP. Hồ Chí Minh: Nghiên cứu đánh giá và kiến
nghị. Phát triển và hội nhập, 46(56), 100-105.
Innovation Center Denmark Seoul. (2014). Elearning in Korea: Overview of E-learning
sector in Korea. http://kursobr.ru/images/elearning.pdf
Isik, O. (2008, November 22-25). E-learning
satisfaction factors. In Proceedings of the 39th
annual meeting of the decision sciences institute,
Baltimore, Maryland, United States.
Kentnor, H. E. (2015). Distance education and the
evolution of online learning in the United
States. Curriculum and teaching dialogue, 17(1),
21-34.
Martínez-Argüelles, M. J., & Batalla-Busquets, J. M.
(2016). Perceived service quality and student
loyalty in an online university. International
khi người dùng bắt đầu khóa học. Ngoài ra, nhà
trường cần quan tâm đến việc làm giảm đi tính phức
tạp của hệ thống khi người dùng tương tác như: cần
sắp xếp thông tin hiển thị hợp lý và dễ hiểu, giảm
bớt sự hiển thị những hình ảnh không cần thiết trong
hệ thống, đơn giản hóa thao tác nộp bài tập, tra cứu,
tìm kiếm thông tin. Các thông tin được hiển thị trên
hệ thống học trực tuyến hay các trang web cần phải
chính xác, dễ dàng truy cập và tiếp cận.
Các trường đại học cần đáp ứng kịp thời các yêu
cầu thông tin, lựa chọn các khóa học, các vấn đề về
lỗi hệ thống, đăng nhập, truy cập lớp học và các thủ
tục hành chính khác trước, trong và sau quá trình
học tập qua hình thức học trực tuyến một cách nhanh
chóng, chính xác và linh hoạt. Ngoài ra, bên cạnh tài
liệu hướng dẫn chung và lưu ý khắc phục sự cố
thường gặp thì các đơn vị đào tạo cũng cần phải duy
trì việc hỗ trợ xuyên suốt để tránh tình trạng sinh
viên gặp vấn đề khó khăn không giải quyết được.
Đảm bảo thông tin nhanh chóng và chuẩn xác
thông qua tính năng thông báo của hệ thống được
gửi qua email và SMS của người học. Xây dựng và
cập nhật thường xuyên hệ thống học liệu điện tử để
đảm bảo được tính phù hợp với bối cảnh cũng như
sự đổi mới. Đồng thời, điều này giúp người học có
thể tiếp cận mọi lúc mọi nơi tăng tính chủ động trong
quá trình giảng dạy và học tập.
Trong những buổi giảng trực tuyến, nên ghi âm
lại bài giảng để sau buổi học người học có thể nghe
lại bằng cách truy cập vào hệ thống đã cấp quyền và
phân quyền trong trường hợp người học chưa hoặc
không nắm hết thông tin do vấn đề tốc độ đường
truyền, tín hiệu âm thanh và một số các phát sinh
ngoài ý muốn từ ngoại cảnh.
4.3. Đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo
Bên cạnh những kết quả đạt được, nghiên cứu
cũng còn một số hạn chế nhất định. Quy mô mẫu tuy
đạt yêu cầu về mặt thống kê tuy nhiên đối tượng
khảo sát chỉ mới tập trung vào sinh viên ngành kinh
tế tại khu vực TP.HCM. Vì vậy, hướng nghiên cứu
kế tiếp nên có sự mở rộng về các khối ngành khác
hoặc có sự mở rộng về quy mô không gian địa lý.
Ngoài ra, kết quả phân tích ở những nghiên cứu sau
nên có sự đối sánh sự hài lòng của đối tượng người
học xét theo những đặc tính khác biệt về ngành học,
không gian địa lý hoặc giữa các trường với nhau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ajzen, I. (1991). The theory of planned
behavior. Organizational behavior and human
decision processes, 50(2), 179-211.
243
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số 4D (2021): 232-244
Review of Research in Open and Distributed
Learning, 17(4), 264-279.
Martín-Rodríguez, Ó., Fernández-Molina, J. C.,
Montero-Alonso, M. Á., & González-Gómez, F.
(2015). The main components of satisfaction
with e-learning. Technology, Pedagogy and
Education, 24(2), 267-277.
https://doi.org/10.1080/1475939X.2014.888370
Mohammadi, H. (2015). Investigating users’
perspectives on e-learning: An integration of
TAM and IS success model. Computers in
human behavior, 45, 359-374.
https://doi.org/10.1016/j.chb.2014.07.044
Pham, L., Limbu, Y. B., Bui, T. K., Nguyen, H. T.,
& Pham, H. T. (2019). Does e-learning service
quality influence e-learning student satisfaction
and loyalty? Evidence from
Vietnam. International Journal of Educational
Technology in Higher Education. 16(1), 1-26.
https://doi.org/10.1186/s41239-019-0136-3
Roca, J. C., Chiu, C. M., & Martínez, F. J. (2006).
Understanding e-learning continuance intention:
An extension of the Technology Acceptance
Model. International Journal of humancomputer studies, 64(8), 683-696.
https://doi.org/10.1016/j.ijhcs.2006.01.003
Seddon, P. B. (1997). A respecification and
extension of the DeLone and McLean model of
IS success. Information systems research, 8(3),
240-253. https://doi.org/10.1287/isre.8.3.240
Sun, P. C., Tsai, R. J., Finger, G., Chen, Y. Y., &
Yeh, D. (2008). What drives a successful eLearning? An empirical investigation of the
critical factors influencing learner
satisfaction. Computers & education, 50(4),
1183-1202.
https://doi.org/10.1016/j.compedu.2006.11.007
Tarhini, A., Hone, K. S., & Liu, X. (2013). Factors
affecting students’ acceptance of e-learning
environments in developing countries: a
structural equation modeling approach.
International Journal of Information and
Education Technology, 3(1), 54-59.
Tổng cục Thống kê. (2018). Số sinh viên các trường
đại học phân theo địa phương.
Retrieved November 20, 2020, from
https://www.gso.gov.vn/giao-duc/
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2020). Hội nghị trực tuyến
về phòng, chống covid 19 và hướng dẫn dạy học
trực tuyến. Retrieved November 20, 2020, from
https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dongcua-bo.aspx?ItemID=6576
Vũ Hữu Đức, 2020. Nghiên cứu về phương thức học
tập, đào tạo dựa trên công nghệ thông tin (Elearning) trong giáo dục đại học và đào tạo trực
tuyến mở dành cho đại chúng MOOCs (Massive
Online Open Courses): Kinh nghiệm thế giới và
ứng dụng tại Việt Nam. Đề tài NCKH cấp Quốc
gia, mã KHGD/16-20.ĐT.043.
Vũ Thúy Hằng & Nguyễn Mạnh Tuân. (2013). Tích
hợp các yếu tố ảnh hưởng đến hài lòng của người
học vào hệ thống e-Learning: một tình huống tại
Trường Đại học Kinh tế-Luật. Tạp chí Khoa học
Đại học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh, 53,
24-46.
Wu, J. H., Tennyson, R. D., & Hsia, T. L. (2010). A
study of student satisfaction in a blended elearning system environment. Computers &
Education, 55(1), 155-164.
https://doi.org/10.1016/j.compedu.2009.12.012
244