Academia.eduAcademia.edu
TÍNH CỘNG ĐỒNG LÀNG XÃ NHƯ MỘT GIÁ TRỊ VIỆT NAM VÀ NHỮNG HỆ QUẢ CỦA NÓ (trường hợp làng xã Nam Bộ) PGS.TS. Phan An Viện KHXH vùng Nam Bộ Làng Nam Bộ, khởi nguồn từ sự tập hợp của những người có chung nhau ý chí, nguyện vọng tìm đất mưu sinh. Vì vậy, quan hệ giữa các thành viên của làng buổi đầu là sự cộng cư, là sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người đi khai phá trên những điểm tụ cư giữa cái mênh mông của đất đai hoang hóa. Làng Việt Nam Bộ còn là nơi gắn kết của những con người mang trong mình cái nghĩa khí lớn lao là đi mở cõi đất phương Nam. 1. Một vùng đất mới được khai mở ở phương Nam Năm 1698 được xem là một cột mốc đánh dấu việc xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn ở vùng đất Nam Bộ Việt Nam với sự kiện chúa Nguyễn cử Thống soái Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lý, sắp xếp một cơ cấu hành chính quản lí đất phương Nam “lấy đất Đồng Nai đặt làm Phủ Gia Định” [Trịnh Hoài Đức 1972]. Thời điểm này, đã hiện diện hơn 40.000 hộ lưu dân người Việt định cư ở vùng đất Nam Bộ (ước khoảng hơn 200.000 người). Những di dân người Việt từ Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, trước đó đã vào đất Nam Bộ khai hoang lập ấp, tức lập nên các làng xã một cách tự phát. Cũng từ những thập kỉ cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII, công cuộc di dân khẩn hoang lập ấp đã được các chúa Nguyễn và các vua đầu triều Nguyễn tiếp tục đẩy mạnh. “Chiêu mộ những dân có vật lực ở xứ Quảng Nam, các phủ Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn cho dời tới đây để ở, phát chặt mở mang hết thảy thành bằng phẳng, đất nước màu mỡ, cho dân tự chiếm, trồng cây và làm nhà cửa… ” [Lê Quý Đôn 2007]. Khẩn hoang, lập ấp đó là phương thức chủ yếu mở mang bờ cõi đất phương Nam của những thế hệ người Việt ban đầu đến định cư ở vùng đất phương Nam. Lập ấp có thể hiểu là những điểm tụ cư của cư dân người Việt trong thuở ban đầu ở Nam Bộ, và về sau, với những quy chế hành chính, ấp đồng nghĩa với các làng, đôi khi là thôn. Trong các sách, tài liệu, khái niệm thôn, ấp, làng (và cả xóm nữa) chưa được minh định. Đôi khi là những tổ chức hành chính phi quan phương, có khi lại là những tụ điểm dân cư. Vào khoảng đầu thế kỉ XVIII, theo Trịnh Hoài Đức trong sách Gia Định thành thông chí, toàn vùng Gia Định (tức Nam Bộ) có hơn 200 làng. Khái niệm làng được một số bản dịch, vốn dịch từ chữ “thôn” bằng Hán văn trong nguyên bản. Làng dưới thời nhà Nguyễn ở Nam Bộ được phân chia thành ba hạng. Làng có hơn 1000 hộ dân gọi là “Đại thôn”, và còn gọi là “xã”. Làng có khoảng 500 hộ dân trở lên gọi là “thôn”, làng nhỏ hơn dưới 500 hộ dân gọi là “tiểu thôn”, còn trên dưới 100 hộ có nơi gọi là “ấp”, hoặc “lân”. Những địa vực hành chánh để giới hạn làng, thôn, ấp, xã… ở Nam Bộ qua các thời kì lịch sử đã có nhiều thay đổi, và cũng không ít sự lầm lẫn trong dân gian cũng như trong quản lí nhà nước. Cho đến năm 1959, trong một cuộc nghiên cứu của J.B. Hendry về cộng đồng thôn xã ở Việt Nam, đơn vị hành chánh “xã Khánh Hậu” của chính quyền Sài Gòn được tác giả xem như “ Làng Khánh Hậu” (village). Theo đó, trong bản dịch của Nguyễn Văn Thuần, “làng” Khánh Hậu bao gồm 5 khu vực cư trú được gọi là ấp: Ấp Câu, Ấp Nhơn Hậu, Ấp Thủ Tựu, Ấp Mới và Ấp Dinh. Dẫn liệu này cho thấy khái niệm về làng, xã ở Nam Bộ trong lịch sử cần có sự tìm hiểu thêm. 2. Nhận diện về một làng Việt ở Nam Bộ Làng là một điểm tụ cư, hoặc một thiết chế tổ chức xã hội truyền thống của người Việt - cư dân văn minh canh tác lúa nước. Ở miền Bắc Việt Nam, làng vốn là một dạng của công xã láng giềng, hoặc công xã nông nghiệp . Về sau, dưới thời phong kiến được định chế hóa theo những quy chế của nhà nước phong kiến Việt Nam, mối quan hệ giữa các thành viên trong làng, chủ yếu dựa trên quan hệ láng giềng và quan hệ huyết thống. Làng là tập hợp những người cùng cư trú trên một địa vực nhất định, và trong làng còn có nhiều dòng họ, được tính theo phụ hệ. Trong thời kì phong kiến, làng được xem như một đơn vị hành chính cấp cơ sở [Bùi Xuân Đính 1998: 11]. Theo Nguyễn Hồng Phong thì “Làng Việt Nam là một thiết chế xã hội văn hóa độc đáo và đặc sắc”, và là “liên hiệp tự nguyện của những nông dân tự do trong công cuộc khai phá chinh phục những vùng đất hoang rậm, đầm lầy hoặc lấn biển thành những vùng trồng trọt” [Nguyễn Hồng Phong 1998: 98, 102]. Làng Việt Nam Bộ là sản phẩm tái cấu trúc tổ chức xã hội truyền thống của cộng đồng cư dân Việt di cư từ phía Bắc Việt Nam vào cư trú và sinh sống ở Nam Bộ. Trong quá trình di cư và định cư ở Nam Bộ, người Việt đã mang theo trong hành trang của mình nhiều thứ của văn hóa Việt, trong đó có văn hóa tổ chức cuộc sống, tổ chức cư trú theo làng. Đến vùng đất mới Nam Bộ, người Việt đã tập hợp nhau lại, cùng cư trú, cùng khai hoang mở đất, mở cõi. Một trong những việc quan trọng của những di dân này là thiết lập một cộng đồng cư trú nơi vùng đất mới. Công việc khai hoang vỡ đất ở phương Nam không thể không bắt đầu từ cộng đồng và sức mạnh của cộng đồng. Làng là sự tập hợp của cộng đồng di dân, mô hình làng là sự chọn lựa tối ưu cho buổi đầu của những di dân Việt trên mảnh đất Nam Bộ. Sự tái cấu trúc mô hình cộng đồng làng ở Nam Bộ của di dân người Việt, vừa là sự thừa hưởng những kinh nghiệm, những văn hóa tổ chức truyền thống, và cũng là sự sáng tạo của họ khi tính chuyện tồn tại lâu dài ở vùng đất mới. Vì vậy, làng của người Việt Nam Bộ vừa có cái chung với làng Việt ở phía Bắc, vừa có nét đặc thù của Nam Bộ. Những đặc thù này là kết quả của sự thích ứng của người Việt đất phương Nam, cùng với sự giao lưu văn hóa giữa các tộc người cộng cư. Nếu ở phía Bắc làng Việt có cội nguồn từ các công xã cổ đại, công xã nông nghiệp (thuật ngữ của K.Marx), trong đó, yếu tố dòng họ đóng vai trò quan trọng, thì làng Việt Nam Bộ là sự tập hợp những di dân, sự “liên hiệp tự nguyện của những nông dân tự do… ” [Nguyễn Hồng Phong 1998]. Những di dân Việt đến vùng đất Nam Bộ, đa phần là những nông dân, thợ thủ công nghèo khó. Họ là nạn nhân của tình trạng nghèo đói, là những cuộc tranh chấp quyền lực của các thế lực phong kiến ở phương Bắc đương thời. Họ tìm đến vùng đất Nam Bộ để mưu sinh, để thay đổi hiện trạng cuộc sống. Trong số những di dân Việt ấy, cũng có một số người trốn tránh sự truy nã của chính quyền vì phạm tội, những nho sĩ, trí thức bất đắc chí, và cả những tội đồ của Nhà nước phong kiến bắt lưu đày, những quan lại, binh sĩ phải đi đồn trú nơi biên viễn... Không ít những lưu dân Việt vào đến đất phương Nam phải thay tên đổi họ, dấu biệt tông tích vì nhiều lí do khác nhau. Những con người đó đã gặp nhau ở đất Nam Bộ, gom tụ lại lập làng, lập ấp, dựa vào nhau chống chọi với thiên nhiên và các thế lực xã hội nhằm khai mở đất đai, tìm cách tồn tại. Làng Nam Bộ, khởi nguồn từ sự tập hợp của những người có chung nhau ý chí, nguyện vọng tìm đất mưu sinh. Vì vậy, quan hệ giữa các thành viên của làng buổi đầu là sự cộng cư, là sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người đi khai phá trên những điểm tụ cư giữa cái mênh mông của đất đai hoang hóa. Làng Việt Nam Bộ còn là nơi gắn kết của những con người mang trong mình cái nghĩa khí lớn lao là đi mở cõi đất phương Nam. Những con người đó cháy bỏng khát vọng tự do và tôn trọng lẫn nhau, những cung cách ứng xử giữa các thành viên trong làng trong thực tế đã minh chứng cho điều đó: họ xem nhau là “tứ hải giai huynh đệ, họ gọi nhau theo thứ tự anh Hai, chị Ba, anh Tư, chị Năm,... mà không kèm theo chức tước, địa vị. Sự tôn kính duy nhất là sự tôn kính dành cho người có tuổi! Mối quan hệ giữa các thành viên trong các làng ở phía Bắc có sự phân biệt và phân tầng rõ rệt, những ưu đãi, biệt đãi được quy phạm. Chẳng hạn như sự phân biệt giữa những thành viên được coi là chính thức của làng với những người ngụ cư, giữa những người giàu và người nghèo, giữa những chức vị (quan viên) và thường dân. Trong làng ở Bắc Bộ còn có những tầng lớp và các nhóm xã hội khác nhau, những dòng họ lớn, nhỏ, các giáp, các hội, phường, phe… Những lệ làng, hương ước ghi chép tỉ mỉ và rõ ràng về quyền lợi và nghĩa vụ của các thành phần người trong làng, tạo nên một tôn ti trật tự chặt chẽ. Việc bị trục xuất ra khỏi làng là một hình phạt nặng nề nhất đối với một thành viên trong làng. Mối quan hệ giữa các thành viên trong làng Nam Bộ tương đối đơn giản hơn, trước hết là mối quan hệ huyết thống không còn chiếm địa vị trọng yếu . Đôi khi mối quan hệ này, ở một số làng, được xác lập sau khi lập làng, khi những thành viên trong làng ổn định và xúc tiến việc hôn nhân, để kiến tạo dòng họ. Trong làng Nam Bộ, không có sự phân chia hội, phường, ngõ, ngách… Đặc biệt là những người “chính cư” và “ngụ cư”, không có sự phân biệt quá đáng và thân phận cách biệt. Sự gia nhập vào cộng đồng làng của một người (đôi khi là một nhóm người) từ nơi khác đến, được những người sống lâu ở làng vui vẻ chấp nhận. Sự rời bỏ làng để đi đến một nơi khác của một thành viên (hoặc gia đình) cũng không phải là sự kiện gì nghiêm trọng của làng, đôi khi còn được mọi người chia sẻ, giúp đỡ. Không gian cư trú của làng Nam Bộ tương đối rộng và khá thoáng mở. Không như các làng Bắc Bộ, mức độ mật tập của các gia đình, dòng họ chen chúc nhau, chung quanh làng có lũy tre dày bao bọc, ra vào có một cổng làng. Làng ở Nam Bộ trải dài hàng cây số dọc theo kênh rạch, đường giao thông, nhà này cách nhà kia bởi những khu vườn, dòng kênh. Mồ mả ông bà tổ tiên thường được chôn cất ngay trong vườn gần nhà. Hầu như rất hiếm làng có lũy tre vây bọc, vào làng có nhiều lối ngang ngõ tắt. Chính cái không gian thoáng mở đó, đã làm cho tính độc lập của các thành viên và gia đình trong làng được bảo đảm, tránh sự can thiệp, dòm ngó của láng giềng và sự kiểm soát của cộng đồng làng một cách chặt chẽ. Như vậy, làng ở Nam Bộ, ngoài những nét chung với làng ở phía Bắc, còn là một tái cấu trúc làng của di dân người Việt trên đất Nam Bộ, có những nét riêng về lịch sử hình thành, về cấu trúc, quan hệ giữa các thành viên… Những nét riêng và chung đó đã ảnh hưởng đến tính cộng đồng của làng Nam Bộ trong quá khứ cũng như trong hiện tại. 3. Tính cộng đồng của làng xã ở Nam Bộ Làng nói chung trong cả nước và riêng ở Nam Bộ là một tập hợp người, gắn kết bởi nhiều yếu tố, mà trong đó yếu tố cộng cư là quan hệ chủ yếu. Hoạt động kinh tế chủ yếu của làng là canh tác nông nghiệp trồng lúa nước. Số làng nghề thủ công ở Nam Bộ không nhiều, các sản phẩm tiêu dùng được mua từ nơi khác đến, từ các thành phố, thị trấn. Đáng lưu ý, ở Nam Bộ, hoạt động kinh tế hàng hóa phát triển khá sớm, sự tham dự của người nông dân Nam Bộ vào hoạt động kinh tế hàng hóa có một vai trò quan trọng. Nông sản, trong đó có lúa gạo, đã trở thành một loại hàng hóa chính của khu vực cho việc tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Trước đây và hiện nay, lúa gạo của Nam Bộ không chỉ cung ứng cho thị trường trong nước mà còn xuất khẩu vào loại các quốc gia hàng đầu ở Đông Nam Á. Làng ở Nam Bộ hầu như rất ít có ruộng đất công, khác với các làng Bắc Bộ phổ biến chế độ công điền công thổ [Trần Thị Thu Lương 1994]. Ngay từ buổi đầu lập làng, công việc khai hoang đất đai là việc của mỗi cá nhân, gia đình trong làng. Chế độ sở hữu tư nhân đất ruộng chiếm ưu thế trong các làng Nam Bộ, và điều đó cũng góp phần hình thành những quan hệ xã hội trong làng. Các thành viên trong làng tương đối độc lập với việc quyết định công việc canh tác của mình, cũng như việc sử dụng đất đai, việc mua bán, sang nhượng, kế thừa đất đai. Việc canh tác ruộng đất chủ yếu dựa trên sức lực cá nhân và gia đình, thêm vào đó là tập quán đổi công, vần công khi cần thiết vào mùa vụ. Một thực tế khác là cơ chế quản lí của làng Nam Bộ. Cũng ngay từ sớm, hầu hết các làng lệ thuộc vào cơ chế quản lí chính thức của Nhà nước phong kiến, hoặc sau này là chế độ cai trị của thực dân Pháp (Nam Bộ đã có một thời kì do chính quyền thực dân cai trị trực tiếp). Cho đến nay, chưa có một ghi chép thành văn nào về lệ làng của làng người Việt ở Nam Bộ. Tính tự trị của làng Nam Bộ khá mờ nhạt, thiết chế quản lí phi quan phương ở các làng không đóng vai trò quyết định trong quan hệ giữa các thành viên làng. Những tổ chức Hội hương Hội đình ở các làng Nam Bộ, chủ yếu lo việc tín ngưỡng ở đình làng vào lễ Kỳ Yên hàng năm đáo lệ. Những đặc hữu trên đây của làng Việt Nam Bộ đã tạo cho tính cộng đồng của làng xã Nam Bộ những nét riêng so với các vùng miền. Biểu hiện của tính cộng đồng làng Việt có thể nhận biết trên nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế, đời sống xã hội, văn hóa. Công cuộc khai khẩn vùng đất Nam Bộ của người nông dân Việt là một thử thách lớn trong buổi ban đầu. Sự hợp tác của cộng đồng làng trong việc cải tạo đất đai hoang hóa, cỏ lau ngút ngàn là nguyên nhân hết sức quan trọng tạo nên sức mạnh chống lại những thách đố của thiên nhiên. Cây phảng là một dụng cụ phát cỏ hoang hữu hiệu và sáng tạo của người nông dân Nam Bộ. Nọc cấy cũng là một sự sáng tạo khác của người nông dân Nam Bộ trên vùng đất mới. Khẩn ruộng, phát cỏ, cấy, gặt... đòi hỏi sự hợp đồng của cư dân làng xã, và từ đó hình thành tập tục vần, đổi công mà người Nam Bộ vẫn gọi là “vạn” như vạn cấy, vạn cày, vạn cuốc. Rất tiếc, cho đến nay, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về tri thức dân gian, hoặc tri thức bản địa của người nông dân Nam Bộ. Rõ ràng là từ những tri thức dân gian đó sẽ cho thấy tính cộng đồng làng xã của người nông dân trên vùng đất này, cho thấy sự hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm của họ trong sản xuất, và có lẽ, cũng từ đó sẽ góp phần lí giải tính năng động, sáng tạo của người Nam Bộ trong sản xuất, kinh doanh. Tính cộng đồng làng xã của người Việt ở Nam Bộ được thể hiện khá rõ nét trong đời sống xã hội và sinh hoạt văn hóa. Đình làng ở Nam Bộ có một vị trí quan trọng trong đời sống cộng đồng. Một khi việc xin lập làng được Nhà nước chấp thuận thì đầu tiên, dân làng phải góp sức xây cho được đình làng. Cũng có nơi, nếu kinh phí khó khăn thì xây nhà vuông. Đó là nơi thờ cúng vị thần bảo hộ cho làng gọi là Thành Hoàng bổn cảnh. Vị Thành hoàng này thường phải có sắc phong của nhà nước phong kiến. Trong sắc ghi rõ tên Thành hoàng, đẳng thứ, và năm phong tặng của nhà vua, có dấu ấn của nhà vua. Tuy nhiên, phần nhiều các vị thành hoàng ở Nam Bộ ít có tên hiệu, mà được gọi chung là “Bổn cảnh Thành hoàng”. Một số ít địa phương Thành Hoàng là những người có công, là nhân vật nổi tiếng như Phan Thanh Giản, Nguyễn Trung Trực, Trương Định… Đình ở Nam Bộ không chỉ thờ riêng vị Thành Hoàng, mà còn phối tự nhiều thần thánh, nhân vật khác như Tiền hiền, Hậu hiền là những người có công khai mở và phát triển làng. Đình còn thờ chiến sĩ trận vong, thần nông, thần núi (sơn thần), hình một con hổ, bạch mã,… các nữ thần như Bà chúa xứ, Ngũ hành nương nương… Trong năm, có một số nghi lễ liên quan đến ngôi đình, như Thượng điền, Hạ điền, Nguyên Đán… lễ Kỳ Yên (cầu an) là lễ hội lớn nhất. Việc tổ chức và thực hiện lễ hội Kỳ Yên có thể xem là một biểu hiện rõ nét nhất về tính cộng đồng của làng xã Nam Bộ. Mỗi làng có ngày Kỳ Yên khác nhau nhưng thường là vào dịp mùa xuân sau tết Nguyên Đán. Dân làng sẽ bầu chọn ra một số người vào Ban tổ chức Hội đình, đóng góp công sức, tiền của phân chia nhau công việc, trách nhiệm. Có những việc phải chuẩn bị nhiều tháng trước như việc nuôi một con heo đen tuyền (có địa phương heo cúng màu trắng) để hiến sinh cho Thành Hoàng. Những cá nhân, gia đình được làng giao việc như nuôi heo, làm mâm xôi, rước kiệu, rước sắc… xem đó như là một vinh dự và họ tự bỏ công, bỏ của ra thực hiện một cách chu đáo. Ba ngày lễ Kỳ Yên là những ngày hội lễ vui vẻ, náo nhiệt nhất của làng trong năm. Mọi người đều cố gắng tham gia, đóng góp cho làng, dọn dẹp làng sạch sẽ, trang hoàng nhà cửa, đình làng đẹp đẽ. Những bữa ăn cộng cảm của các gia đình nơi đình làng làm mọi người có dịp xích lại gần nhau, chia sẻ với nhau. Cùng với những nghi lễ cúng bái Thành Hoàng là những cuộc vui hội hè của dân làng - nhất là những buổi hát tuồng, cải lương vào ban đêm. Đình làng ở Nam Bộ còn là nơi sinh hoạt cộng đồng của dân làng, là nơi làm việc của chính quyền địa phương, vì vậy, đình làng ở Nam Bộ còn được gọi là “nhà việc”, “nhà làng”. Những buổi họp bàn công việc chung trong làng, nhất là bàn chuyện lễ hội làng được diễn ra ở đình làng với sự tham dự của dân làng. Thực tế là cánh đàn ông trên 18 tuổi - tuổi được coi là đinh tráng - trong những cuộc họp dưới sự chủ trì của các vị Hương chức, mọi người có quyền bình đẳng và tự do bày tỏ ý kiến về việc chung của làng, những sự bất đồng được thu xếp và hòa giải, lợi ích cộng đồng làng được coi trọng. Đình làng là nơi làm việc của bộ máy hương chức làng, và là nơi tiếp khách chung của làng. Bộ máy quản lí của làng ở Nam Bộ, như ở trên đã đề cập, nhìn chung giống với làng ở Bắc Bộ. Đó là sự đan xen giữa tính quan phương và phi quan phương nhưng ở Nam Bộ tính phi quan phương chiếm ưu thế. Cách hành xử của bộ máy quản lí làng xã ở Nam Bộ, chủ yếu căn cứ vào các quy định của chính quyền bên trên, hoặc trung ương, đặc biệt là ở Nam Bộ, đó là quy chế của thể chế trực trị đất Nam Kỳ thuộc Pháp. Ngày 27/8/1904, toàn quyền Đông Dương đã ban hành nghị định về quản lí cấp xã thôn ở Nam Kỳ. Với nghị định này, chính quyền thuộc địa Pháp đã can thiệp trực tiếp vào chế độ tự trị tự quản của làng xã Nam Bộ trong buổi ban đầu. Bộ máy quản lí phi quan phương của làng Nam Bộ dần được chính thức hóa với sự công nhận của chính quyền thành “Hội đồng hương chính” hay “Ban Hội tề”. Đình làng đã trở thành trụ sở của Ban Hội tề, tiếp tục kế thừa chức năng của nhà việc (nhà vuông) trước đây. Những người dân làng đến đình không chỉ khi có chuyện liên quan đến chính quyền, mà đình còn là nơi cộng đồng làng gặp gỡ, trao đổi với nhau tâm tư, nguyện vọng, những ý nguyện của cá nhân, gia đình, dòng họ. Ở đình, dân làng củng cố hơn niềm tin của họ vào cộng đồng và niềm tự hào về làng xã của mình. Tính cộng đồng làng xã ở Nam Bộ còn thể hiện khá rõ nét trong các phong tục, tập quán, cách cư xử của các thành viên trong làng. Đám cưới, đám tang của các gia đình trong làng không chỉ là việc riêng của mỗi gia đình hoặc dòng họ. Nếu trong làng có đám cưới, đám tang, các thành viên trong làng có sự chia sẻ, đóng góp tùy theo khả năng và nhiệt thành. Với đám cưới, đó là dịp vui mang tính hội hè của làng, trai tráng tham gia dựng rạp cưới, trang hoàng nhà cửa cho hai họ. Đàn bà đến nhà cô dâu chú rể góp công nấu nướng, cỗ bàn đón dâu đãi khách. Đây cũng là dịp các bà các cô biểu diễn tài nghệ chế biến các món ẩm thực. Rước dâu, đón rể, ngoài người thân hai họ, có sự tham dự của toàn thể dân làng nên hết sức náo nhiệt, vui vẻ. Đám tang của gia đình cũng là nỗi buồn đau chung của cả làng, dân làng đến chia buồn, phúng viếng và góp phần vào công việc tang lễ. Những ngày giỗ, tết của các gia đình trong làng Nam Bộ đều có sự tham dự đông đảo của dân làng. Đám giỗ, ngoài những người trong họ tộc, gia chủ còn mời các gia đình láng giềng, những người cao niên, uy tín trong làng tham dự. Thường những dịp này có những bữa ăn cộng cảm, quây quanh mâm rượu do gia chủ thết đãi. Trong bữa nhậu đó, mọi người thăm hỏi, chia sẻ nhau với sự ân tình và quý mến. Nói về nhậu ở các làng xã Nam Bộ, đây là một nét văn hóa cộng đồng đặc biệt. Ngoài những lúc hữu sự, giỗ chạp, tết nhất… đàn ông (và cả đàn bà nữa) trong hàng xóm, láng giềng thường lại ngồi lại với nhau khi nông nhàn, rảnh rỗi gầy độ nhậu. Mồi nhậu thường đơn sơ, đôi khi chỉ quả ổi, quả bần, những người tham dự gặp gỡ nhau, chuyện trò vui vẻ, gắn bó nhau hơn… Những cuộc nhậu đó, đôi khi còn gắn với các hoạt động đờn ca tài tử, những bài ca vọng cổ do những người nông dân làng xóm tự biên tự diễn. 4. Một vài nhận xét về tính cộng đồng làng xã ở Nam Bộ Sự tái cấu trúc của làng xã ở Nam Bộ, đồng thời là sự tái cấu trúc của tính cộng đồng làng xã, được di dân người Việt mang theo từ phía Bắc trong quá trình định cư ở vùng đất mới. Tính cộng đồng làng xã của người Việt nói chung có thể xem như là một trong những hằng số văn hóa Việt. Ở Nam Bộ, tính cộng đồng làng xã, về cơ bản, vẫn giữ được truyền thống như ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, đó là sự gắn kết của những con người cộng cư trên một vùng đất nhất định vì mục đích sinh tồn và phát triển. Làng ở Nam Bộ vẫn là sản phẩm định cư của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước và văn hóa làng được thể hiện chủ yếu qua tính cộng đồng. Do những đặc điểm của làng xã Nam Bộ, từ môi trường tự nhiên cho đến tính cố kết, quan hệ giữa các thành viên, mối liên hệ giữa làng xã với cơ chế quản lí của nhà nước hiện hữu, tính cộng đồng của làng xã Nam Bộ cũng có những nét riêng. Đó là sự uyển chuyển linh hoạt trong tính cộng đồng, không mang nặng sự cục bộ, hoặc quá khích khi thực thi tính cộng đồng. Quan hệ láng giềng, cộng cư của các thành viên làng xã có phần trội hơn quan hệ dòng tộc trong sinh hoạt cộng đồng làng xã Nam Bộ so với các làng xã phía Bắc. Người nông dân Nam Bộ, vì một lí do nào đó li khai cộng đồng làng xã, không nhiều ray rứt, hoặc phân vân trong chọn lựa. Có lẽ, tổ tiên họ đã một lần li khai quê cha đất tổ, làng xóm ở phương Bắc để vào Nam Bộ tìm đất mưu sinh, thêm một lần ly khai nữa cũng không có gì là ghê gớm lắm! Tính cộng đồng làng xã ở Nam Bộ được cân bằng bởi tính tự do cá nhân, hơn là tính tự trị của làng xã như ở làng xã phía Bắc. Mối quan hệ giữa các thành viên trong làng xã ở Nam Bộ tương đối bình đẳng. Như ở phần trên bài viết đã nêu, cư dân trong làng xã Nam Bộ không có sự phân chia lớp lang, bè, phe quá tỉ mỉ, cẩn trọng. Tuổi tác là một phân biệt quan trọng trong đối xử, kính trọng hơn cả sự giàu có và chức vị, tính nhân nghĩa của cá nhân cũng được đánh giá cao trong làng xã. Người Nam Bộ đề cao những người xả thân vì cộng đồng, vì đất nước, “Kiến nghĩa bất vi vô dũng giã”, “Thấy việc bất bình chẳng tha”… Sự kết hợp giữa cộng đồng và cá nhân, tính cộng đồng và tính tự chủ của mỗi người, không có sự mâu thuẫn, mà đã tạo nên một phong cách của văn hóa Nam Bộ, là sự cân bằng của văn hóa ứng xử của các thành viên làng xã Nam Bộ. Ở một góc độ nào đó, cũng có thể nhận xét rằng tính cộng đồng làng xã ở Nam Bộ vừa có sự chặt chẽ, nhưng mặt khác cũng có sự lỏng lẻo nhất định. Tính cộng đồng làng xã ở Nam Bộ là một nhu cầu của cư dân Việt ở Nam Bộ. Tính cộng đồng đó là chất keo chủ yếu gắn kết các thành viên trong làng xã, để đảm bảo, duy trì sự phát triển bền vững của làng xã Nam Bộ trong lịch sử. Quan hệ tương tác giữa tính cộng đồng và tính cá nhân đã tạo nên một phong cách riêng của người Nam Bộ. Theo tôi, đây là một sự vượt trội của văn hóa Nam Bộ, là sự thích ứng của người Nam Bộ trong công cuộc khai mở đất nước hướng về phía Nam. “Trời sinh cây cứng lá dai Gió lay mặc gió chiều ai không chiều” Có lẽ đó cũng là một thành công trong công cuộc Nam tiến của dân tộc ta. Tính cộng đồng của làng xã Nam Bộ cũng còn cần được có cái nhìn biện chứng, từ truyền thống đến hiện đại. Những chuyển đổi trong hơn ba thế kỉ qua và trong bối cảnh hôm nay, tính cộng đồng làng xã Nam Bộ đã có sự chuyển đổi, mở rộng hơn vượt qua làng xã, vượt qua những quan hệ bên trong của các thành viên làng xã. Làng xã Nam Bộ ở nhiều địa phương không chỉ đơn thuần là cư dân người Việt, mà còn có sự cộng cư của các tộc người khác như Khmer, Hoa… Làng xã ở Nam Bộ không hoàn toàn khép kín, mà mối quan hệ giữa các làng xã được gắn kết chặt chẽ hơn bởi hoạt động kinh tế hàng hóa, bởi cùng chia sẻ những tai họa nô dịch của thực dân đế quốc. Tính cộng đồng của làng xã Nam Bộ được mở rộng hơn bên ngoài làng xã, là sự cộng đồng của vùng miền, của cộng đồng đa tộc người. Trong bối cảnh hôm nay, khi hiện đại hóa, công nghiệp hóa và tham dự toàn cầu hóa, tính cộng đồng làng xã ở Nam Bộ vẫn bảo lưu những giá trị truyền thống (đặc biệt là những hoạt động từ thiện), nó vừa khắc phục tính cá nhân, vừa tạo cơ hội cho sự phát triển và tự do cá nhân. *** Làng ở Nam Bộ được thành lập khá muộn so với một số vùng miền trong cả nước. Những di dân người Việt từ phía Bắc vào định cư, tìm đất mưu sinh ở Nam Bộ đã lập nên làng xóm (ấp) như một nhu cầu hàng đầu cho sự tồn tại và ổn định. Sự tái cấu trúc làng xã của di dân người Việt cũng đồng thời là sự tái cấu trúc tính cộng đồng làng xã trên đất Nam Bộ. Tính cộng đồng làng xã của người Việt ở Nam Bộ với những nét riêng, là một cấu thành hệ giá trị văn hóa Việt Nam, là một cố gắng trong công cuộc chinh phục, mở rộng bờ cõi về phương Nam của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tìm hiểu tính cộng đồng làng xã ở Nam Bộ sẽ góp thêm cái nhìn đa dạng về tính cộng đồng làng xã Việt Nam. Tài liệu tham khảo và trích dẫn 1.      Bùi Xuân Đính 1998: Hương ước và quản lí làng xã. – H.: NXB KHXH. 2.      Hendry James B. 1959: Cuộc nghiên cứu một cộng đồng thôn xã Việt Nam (Bản dịch của Nguyễn Văn Thuần). - Phái đoàn cố vấn Đại học đường Tiểu bang Michigan tại Việt Nam. 3.      Lê Quý Đôn 2007: Phủ biên Tạp lục. – H.: NXB Văn hóa Thông tin. 4.      Mác-Anghen 1975: Bàn về các xã hội tiền tư bản. – H.: NXB KHXH. 5.      Nguyễn Hồng Phong 1998: Văn hóa chính trị Việt Nam, truyền thống và hiện đại. – H.: NXB Văn hóa Thông tin. 6.      Nguyễn Hữu Hiếu 2010: Diễn trình văn hóa đồng bằng sông Cửu Long. – H.: NXB Thời Đại. 7.      Phan An 2013: Người Việt Nam Bộ. – H.: NXB Từ điển Bách khoa. 8.      Sơn Nam 1985: Đồng bằng sông Cửu Long. Nét sinh hoạt xưa. – NXB TP. Hồ Chí Minh. 9.      Trần Ngọc Thêm (cb) 2013: Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ. – TP. Hồ Chí Minh: NXB Văn hóa - Văn nghệ. 10. Trần Thị Thu Lương 1994: Chế độ sở hữu và canh tác ruộng đất ở Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XIX. - NXB TP. Hồ Chí Minh. 11. Trần Văn Giàu (cb) 1987: Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh. - NXB TP. Hồ Chí Minh. 12. Trịnh Hoài Đức 1972: Gia Định Thành thông chí (Bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo). – SG : NXB Quốc vụ khanh. Nguồn: Bài viết tham gia hội thảo “Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Kỷ yếu hội thảo in thành sách “Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện tại”