TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
DOI: 10.35382/18594816.1.37.2020.377
KHÁI LUẬN VỀ VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG∗
Nguyễn Ngọc Thơ1
INTRODUCTION TO SCHOOL CULTURE
Nguyen Ngoc Tho1
Tóm tắt – Đổi mới giáo dục đã và đang là
một trong những vận động chủ lực trong xã
hội Việt Nam đương đại, được đưa vào Nghị
quyết Trung ương và được toàn dân hưởng
ứng. Đổi mới giáo dục đã sớm xúc tiến ở các
nước Âu-Mĩ, thu hút hàng trăm nhà nghiên
cứu chuyên nghiệp với nhiều công trình hữu
ích về cả lí luận lẫn thực tiễn. Kinh nghiệm
cho thấy, cải cách, đổi mới giáo dục học
đường bắt đầu từ việc xây dựng nền tảng
lí luận văn hóa học đường hợp lí, tiến bộ,
làm kim chỉ nam cho toàn bộ quá trình thiết
kế, vận hành cuộc vận động đổi mới giáo dục
ấy. Bài viết này vận dụng phương pháp phân
tích – tổng hợp trên cơ sở so sánh – đối chiếu
thành quả nghiên cứu, xây dựng văn hóa học
đường Âu-Mĩ làm nền tảng cho việc xây dựng
nội hàm khái niệm văn hóa học đường ở Việt
Nam hiện nay. Nghiên cứu cho thấy, văn hóa
học đường chia sẻ phần lớn nét tương đồng
giữa các nền văn hóa, vốn là những đặc điểm
do tính chất ngành nghề (ngành giáo dục) tạo
nên; song cái quan trọng cốt lõi lại là yếu tố
nội sinh của từng nền văn hóa: đó là quan
điểm, mục tiêu, chủ trương, chính sách, cung
cách quản lí và tính chất của nền giáo dục
truyền thống.
Từ khóa: đổi mới, giáo dục Việt Nam,
kinh nghiệm thế giới, văn hóa học đường.
Abstract – Educational innovation has
been and is presently one of the key components in contemporary Vietnamese society,
which is included in the Central Party Resolution and has received positive feedback
from the community. Educational innovation
has long been established and continuously
promoted in European and American countries, attracting hundreds of professional researchers who have published many useful works in both theoretical and practical
fields. The educational outcomes of these
countries shows that, education reforms and
adaptation to change require the building
of a reasonable, progressive and theoretical basis for school culture, making it a
guideline for the whole process of designing
and operating that campaign of educational
innovation. This paper applies the method
of document analysis under the comparative
perspective to investigate the theoretical and
practical experience of the United States of
America and European countries in building
school culture for the sake of renovating
school culture in Viet Nam today. The study
shows that school culture shares most of
the similarities among cultures, which are
characteristics created by the nature of the
field of education itself; however, the intrinsic
factors such as the viewpoint, goals, guidelines, policies, management practices and
the nature of traditional education in each
country play an even more important role in
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Ngày nhận bài: 15/3/2020; Ngày nhận kết quả bình duyệt:
26/3/2020; Ngày chấp nhận đăng: 8/5/2020
Email: ngoctho@hcmussh.edu.vn
1
University of Social Sciences and Humanities, Vietnam
National University Ho Chi Minh City
Received date: 15th March 2020; Revised date: 26th
March 2020; Accepted date: 8th May 2020
*Nghiên cứu được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh trong khuôn khổ Đề tài mã số A2018-18b-01
1
46
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
ra thế giới. Tại mỗi nơi đến, lí luận VHHĐ
lại khoác lên thêm màu sắc địa phương (do
yếu tố văn hóa địa phương, điều kiện chính
trị và lịch sử – xã hội quy định), làm cho
tổng thể VHHĐ của thế giới vừa thống nhất
vừa đa dạng.
Việt Nam sớm có nền giáo dục Nho học
theo định chế khoa cử cổ điển. Tuy nền giáo
dục Nho học đã có những đóng góp to lớn
trong đào tạo nhân tài và chấn hưng văn hóa
nước nhà nhưng, trên đại thể, nó bộc lộ nhiều
điểm bất cập do truyền thống ấy chú trọng
đào tạo người làm quan hơn là đào tạo những
bộ óc có tư duy sáng tạo. Nhiệm vụ chính của
giáo dục không phải là truyền bá rộng khắp
tri thức sẵn có, mà phải gánh vác nhiệm vụ
đào tạo những bộ óc biết tư duy. Sau hơn một
thế kỉ mở rộng giao lưu và hòa nhập văn hóa
với thế giới, giáo dục Việt Nam đang trong
giai đoạn thúc đẩy đổi mới nhằm đáp ứng tốt
hơn nữa nhu cầu hiện đại hóa đất nước. Việc
tìm hiểu, phân tích kinh nghiệm thế giới để
xây dựng nền VHHĐ Việt Nam phù hợp là
hết sức cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
Trong tiếng Anh, VHHĐ được gọi chung
là school culture, thế nhưng trong tiếng Việt
tồn tại hai khái niệm: VHHĐ và văn hóa nhà
trường. Xét về nghĩa rộng, cả hai khái niệm
này đều có thể hiểu là có cùng ý nghĩa, song
xét về bản chất hai khái niệm vẫn có điểm
khác biệt. Khái niệm VHHĐ có phổ nghĩa
rộng hơn và bao trùm cả khái niệm văn hóa
nhà trường. VHHĐ lấy hoạt động học đường
(dạy – học) và các mối quan hệ tương tác
giữa các nhóm khách thể làm trọng tâm (cả
bên cung cấp và bên thụ hưởng hoạt động
học đường); trong khi khái niệm văn hóa nhà
trường lấy đơn vị, tổ chức (ở đây khái niệm
nhà trường là một tổ chức) làm đơn nguyên
xem xét, đánh giá văn hóa. Nói cách khác,
khái niệm văn hóa nhà trường được hiểu theo
trục tổ chức và quản lí (bên cung cấp hoạt
động học đường) hơn là hoạt động dạy và
học trong học đường. Trong khuôn khổ bài
viết này, chúng tôi thống nhất dùng khái niệm
VHHĐ, tiếng Anh gọi là school culture, tiếng
Trung Quốc gọi là hiệu viên văn hóa.
the whole process.
Keywords: reform, school culture, Viet
Nam’s education, world experience.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo dục là trụ cột xây dựng và vun đắp
nền tảng tri thức – tư tưởng của từng quốc
gia, dân tộc. Ở Việt Nam, Nghị quyết Trung
ương số 29-NQ/TW (04/11/2013) đã nhấn
mạnh nhu cầu ‘đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế’; theo đó, cả guồng máy
xã hội đang vận động thay đổi phương thức
triển khai giáo dục theo hướng hiện đại hóa
nhằm phát huy vai trò chủ động của người
học cũng như tư duy sáng tạo – khai phóng
của từng cá nhân. Việc nghiên cứu, xây dựng
mô hình học đường hiện đại, phù hợp là một
quá trình lâu dài. Đây là nhiệm vụ tổ hợp
của nhiều nhóm chuyên gia và nhà quản lí ở
cả ba lĩnh vực: giáo dục, văn hóa và quản lí
giáo dục. Để có một nền giáo dục tiên tiến,
các chuyên gia phải tính đến tất cả các bình
diện (khâu, đoạn) của giáo dục học đường,
từ xây dựng khái niệm, nội hàm, cấu trúc,
chức năng, mô thức tổ chức và quản lí, chuẩn
đầu ra và mô hình đào tạo, đánh giá. Trong
khuôn khổ bài viết này, chúng tôi trực tiếp
thảo luận đến một vấn đề mang tính lí luận
có tầm quan trọng quyết định đến hầu hết
các yếu tố còn lại nói trên, đó là văn hóa
học đường (VHHĐ).
VHHĐ là một tiểu văn hóa, một bộ phận
của tổng thể văn hóa quốc gia; song khi xét
theo lĩnh vực ngành nghề, VHHĐ của các
quốc gia lại chia sẻ nhiều điểm tương đồng
mang tính cốt lõi do tính chất đặc thù xuyên
biên giới của lĩnh vực giáo dục quy định nên.
Trên thực tế, VHHĐ hiện đại được khơi mào
ở Anh từ đầu thế kỉ XX, lan truyền đến Bắc
Mĩ, được giới nghiên cứu Mĩ phát triển đến
cực thịnh vào cuối thế kỉ XX – đầu thế kỉ
XXI. Tính tương đồng của mục tiêu giáo dục
đã tạo nền tảng chia sẻ chung của VHHĐ ÂuMĩ, để từ đó, các mô thức VHHĐ lan rộng
47
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
màn hình hoặc lăng kính phản chiếu thế giới,
vừa có thể cung cấp thông tin, dữ kiện thực
tế có chiều sâu, vừa góp phần ‘hình thành
khuôn khổ cho học đường’ [2, tr.165]. Những
nhà làm giáo dục bình thường ở cơ sở đều
nằm lòng quan điểm của Deal and Kennedy:
VHHĐ đơn thuần là ‘cách thức chúng ta tiến
hành làm mọi thứ xung quanh đây’ [3, p.85].
Diễn giải dài hơn, VHHĐ được hiểu cụ thể
là những mạng lưới phức tạp của những câu
chuyện, truyền thống và nghi thức vừa chớm
nở khi giáo viên, học sinh, phụ huynh và
quản trị viên làm việc với nhau, cùng nhau
đón nhận các thành tựu và đối phó với những
khủng hoảng.
Có thể nói, xuất phát điểm ban đầu của
phong trào nghiên cứu VHHĐ chính là cuộc
đại khủng hoảng kinh tế thế giới cuối thập
niên 1920 – đầu thập niên 1930. Trước đó,
VHHĐ ở Mĩ bắt đầu manh nha từ cuối thế kỉ
XVII – đầu thế kỉ XIX, bắt nguồn từ những
cuộc nổi dậy, xô xát của sinh viên Mĩ trong
một số trường đại học, do một số sinh viên
giàu có và hiểu đời hơn lãnh đạo. Họ cố tình
chống lại những sự áp đặt khắc nghiệt của
lãnh đạo trường và các giáo sư, nhà quản
lí trong trường [4, p.4, 11]. Song phải đến
thập niên 1930, VHHĐ mới đạt đến cao trào.
Theo Tyler [5, p.3-4], lúc bấy giờ xã hội Mĩ
bất ổn. Công ăn việc làm rất hạn chế, sinh
viên trong các trường đại học chưa muốn ra
trường. Điều này làm phát sinh nhu cầu quan
tâm, tìm hiểu và nghiên cứu đời sống văn
hóa sinh viên trong hệ thống các trường đại
học. Nhờ vậy, VHHĐ được xác định là một
dạng thức tiểu văn hóa (subculture) đặc thù
của tổng thể xã hội. Thời ấy, tiêu biểu nhất
phải kể công trình Boys in White của Becker
[6] và Student culture in Vassar của Bushnell
[7]. Theo Becher [8], [9], việc nghiên cứu
văn hóa gắn với tầng lớp sinh viên trong các
trường đại học ở Mĩ đã rất thành công, thấu
đáo và mang tính hệ thống (xem thêm [10,
p.12]. Theo Peters & Waterman [11], việc
nghiên cứu VHHĐ ở Mĩ chịu sự chi phối
bởi trào lưu nghiên cứu văn hóa tổ chức,
trong đó, thập niên 1960, việc nghiên cứu
II. NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG
VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG Ở MĨ
VHHĐ là một vấn đề không mới, tuy rằng
lịch sử nghiên cứu vấn đề chỉ bắt đầu từ thập
niên ba mươi của thế kỉ XX ở châu Âu và
Mĩ. Trước khi xác định VHHĐ, người Mĩ đã
xác định thế nào là văn hóa Mĩ. Nhóm tác
giả Ebert & Maxwell [1, p.20, 40-1] nhận
định ‘cái gì cũng là văn hóa Mĩ’ (‘erverything
American’) bởi nền văn hóa này hầu như thể
hiện đầy đủ sắc màu hội tụ của thế giới, gọi
chung là thuật ngữ “culture X”. Trên đại thể,
văn hóa Mĩ là một melting pot, một đĩa xàlách (the salad bowl) và là một màn sương
(the fog). Hình ảnh the melting pot chỉ ra sự
gắn kết tổng thể xã hội, trong khi đĩa xà-lách
nhấn mạnh sự khác biệt, còn hình ảnh màn
sương thể hiện sự bất lực của chúng ta khi
mô tả những gì về cơ bản ngay trước mắt [1,
tr.39]. Dựa trên bối cảnh ấy, hai tác giả định
nghĩa văn hóa Mĩ như sau:
‘Văn hóa Mĩ là một dòng văn hóa trẻ, di
động, là sự kết hợp của các quốc tịch và dân
tộc, theo truyền thống, họ bị tách biệt bởi
chủng tộc, tình trạng kinh tế xã hội và sự
khác biệt về văn hóa, duy trì sự tự do được
quy định trong hiến pháp Mĩ, cùng tồn tại
với sự khoan dung cao đối với sự đa dạng,
vận hành một hệ thống các doanh nghiệp tự
do có thị trường ảnh hưởng sâu rộng đến nền
kinh tế thế giới, phấn đấu trở thành một nhà
lãnh đạo thế giới và người bảo vệ thế giới với
ý định chủ yếu là vị tha và được đặc trưng
bởi sự khác biệt trong khu vực và một nền
văn hóa phổ biến luôn thay đổi’2 [1, tr.44].
Từ rất sớm, người Mĩ đã quan tâm đến văn
hóa trong giáo dục. Họ coi văn hóa như một
2
Nguyên văn: ‘The Ametican culture is a young, mobile
republic that is a composite of nationalities and ethnicities
that traditionally reamin identifiably separated by race, socioeconomic status, and cultural differences, who maintain
the freedom set forth in the US constitution, coexisting with
a high tolerance for diversity, operating a system of free
enterprises whose market is far-reaching effects on the world
economy, striving to be a world leader and protector of the
world with predominantly altruistic intentions, and who are
characterized by regional differences and an ever-changing
popular culture.’
48
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
chủ yếu diễn giải theo hướng văn hóa tổ
chức (organizational culture), đến thập niên
1970, các nghiên cứu nhìn nhận theo hướng
văn hóa doanh nghiệp (hướng nghiên cứu thứ
nhất) (xem thêm [12, p.282]).
Hướng nghiên cứu thứ hai gồm các công
trình khảo sát, phân tích các hoạt động trong
khuôn viên trường đại học có từ thập niên
1950 ở Mĩ. Tác giả tiêu biểu phải kể đến
là Burton Clark [13] với công trình Văn
hóa chuyên khoa (Faculty cultures), trong đó,
điểm nhấn chính là tác giả đã coi các trường
đại học như những thực thể văn hóa thực
thụ. Tiếp theo sau là hai tác giả Riesman
& Jenck [14, p.104], mà theo họ, trường đại
học không chỉ là một tổ chức thông thường,
chúng là một thực thể tiểu văn hóa (subculture) với hệ thống các tập tục cũng như
những mục tiêu riêng của nó. Các tác giả này
còn đề xuất rằng giới nghiên cứu cần triển
khai điền dã lâu dài để tìm hiểu cặn kẽ hơn
các nhóm đối tượng chính (sinh viên, giảng
viên, nhà quản lí...) cấu thành VHHĐ (xem
thêm [14, p.105], [10, p.13]). Cũng vào năm
1963, cuốn Nghiên cứu văn hóa học đường:
niềm mong mỏi của các bang phía tây đối
với giáo dục đại học (The study of campus
cultures: Western interstate commission for
higher education) do Lunsford làm chủ biên
cũng đặc tả bức tranh sinh động về đời sống
sinh viên trong khuôn viên trường đại học
ở Mĩ giữa lúc Chiến tranh Lạnh leo thang
gây xáo trộn đời sống xã hội. Thêm vào đó,
Yamamoto et al. với cuốn Sinh viên đại học
và văn hóa sinh viên (The college student and
his culture) [15] cũng được chú ý bởi tính cụ
thể và quan sát sâu của các tác giả. Thập
niên 1970 và những năm đầu 1980, nghiên
cứu cho thấy các trường học xây dựng không
khí và đạo đức học đường hướng đến việc
học tập của sinh viên đều là những đơn vị
hiệu quả [16]. Rutter et al. [17] chỉ ra rằng
đạo đức học đường là yếu tố đóng góp quan
trọng cốt lõi đối với thành quả học tập của
sinh viên. Họ còn phát hiện ra rằng những
chuẩn mực, giá trị và truyền thống ẩn thị của
trường học đóng góp rất lớn cho các thành
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
tựu mà sinh viên đạt được (dẫn lại trong [18,
p.5]).
Sau Riesman & Jenck, công trình The Distinctive college: reed, Antioch and Swarthmore của Clark [19] cũng được đánh giá
cao, trong đó tác giả dùng thuật ngữ ‘sự
phiêu lưu trong tổ chức’ (organization saga)
để nhấn mạnh rằng VHHĐ phải được đưa
vào hệ thống học thuật như những chuyên
ngành khác, có thể xếp vào nhóm văn hóa
tổ chức. Cho đến thập niên 1980, hàng loạt
các tác giả khác tiến hành nghiên cứu VHHĐ
từ hai góc nhìn chính là xã hội học văn hóa
và nhân học văn hóa, họ chú trọng nhiều ở
khâu khảo sát, đánh giá nhiệm vụ, tầm nhìn,
quá trình xã hội hoá, phong cách lãnh đạo
và giao tiếp trong nhà trường đại học ở Mĩ
và một số quốc gia Tây Âu (xem thêm [8],
[12], [20], [21]).
Xu hướng nghiên cứu VHHĐ ở cấp độ
chuyên ngành (disciplinary cultures) xuất
hiện vào cuối thập niên 1980 với công trình
nổi tiếng Các bộ lạc và lãnh địa học thuật
(Academic tribes and territories) của Tony
Becher [8]. Becher [9] không những chỉ ra
điểm khác biệt giữa các chuyên ngành mà
còn kiến tạo khả năng tìm hiểu ‘các thế giới
thu nhỏ’ của thế giới học thuật. Theo sau
đó, chúng ta phải kể đến cuốn Hai dòng
văn hóa và cuộc cách mạng khoa học (The
two cultures and the scientific revolution) của
C.P. Snow [22]. Tác giả Collini [23] tiếp nhận
quan điểm của Snow trong công trình thảo
luận chuyên sâu hơn về hai dòng văn hóa
ấy. Thực ra nền tảng của hướng nghiên cứu
cấp chuyên ngành ít nhiều đã xuất hiện từ
hai thập niên 1960 – 1970 khi Kuhn [24]
công bố cuốn Cấu trúc cuộc cách mạng khoa
học (The structure of scientific revolutions)
để giới thiệu tính năng động của sự phát triển
khoa học dựa trên các quá trình xã hội nhiều
hơn tính năng động là sản phẩm của sự phát
triển khách quan của tri thức [25].
Có thể nói, cuối thế kỉ XX – đầu thế kỉ
XXI là cao trào nghiên cứu VHHĐ dựa trên
nền tảng góc nhìn và phương pháp nghiên
cứu của các tác giả nói trên. Tính riêng trên
49
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
tạp chí Higher Education từ năm 2000 đến
nay đã có hơn 150 bài trên tổng số trên
dưới 500 bài viết công bố có liên quan đến
VHHĐ, các tác giả tiêu biểu có Adeyemi
(2001, 2004), Bigg (2001), Bleiklie (2002),
Cum (2002), Allen (2003), Bartell (2003),
Amaral và Magalhaes (2004), Clilf và Woodward (2004), Akerlind (2005), Anderson và
Day (2005), Chan (2005)... Các công trình
chuyên khảo cũng nở rộ với nhiều tác giả mới
như Kuh & Whitt (1988), Thomas (1990),
Pounder (1998), Trowler (1998), Bleiklie,
Hostaker và Vabo (2000), Peterson & Deal
(2002), Harman (2008), Paivio (2008), Fullan (2014), Gruenert & Whitaker (2015,
2017)... Như vậy, VHHĐ đã và đang là một
vấn đề học thuật quan trọng trong giáo dục
đại học, việc nghiên cứu xây dựng VHHĐ
ở Mĩ đã thực sự trở thành một nhiệm vụ
trọng tâm của các trường đại học bên cạnh
hai sứ mệnh chính là nghiên cứu và đào tạo.
VHHĐ được hiểu là ‘chiếc chìa khóa’ dẫn
tới thành công của nhà trường trong việc
thực hiện sứ mệnh giáo dục của mình cũng
như thành công của sinh viên trong quá trình
học tập, lập thân – lập nghiệp (xem thêm
[18, p.Preface xii]). VHHĐ chịu sự chi phối
của môi trường xã hội, nó luôn vận động và
biến đổi theo thời gian; chính vì thế ngay khi
một trường đại học đã xây dựng thành công
VHHĐ cũng phải không ngừng nghiên cứu
để bổ sung, hoàn thiện và cập nhật theo trào
lưu của thời đại.
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
có nền giáo dục tiêu biểu trong khu vực là
Anh, Pháp và Đức.
- Nước Anh
Nước Anh là quốc gia có lịch sử nghiên
cứu tư tưởng học đường và VHHĐ khá “dày
dặn” so với phần còn lại của châu Âu. Một
phần thành quả ấy có nguồn gốc từ bản thân
nền giáo dục Anh với nhiều trường đại học
đứng hàng đầu thế giới (Đại học Cambridge,
Đại học Oxford) luôn tạo ra động năng và
nhu cầu lớn cho giáo dục và văn hóa giáo
dục, một phần nữa là nước Anh sở hữu nhiều
trung tâm nghiên cứu lớn và các nhà xuất bản
lớn về khoa học nói chung, trong đó có khoa
học về giáo dục nói riêng. Yếu tố thứ ba phải
kể đến là độ phổ biến của ngôn ngữ Anh trên
tầm thế giới đã góp phần làm “cầu nối” mang
các bộ óc lớn của thế giới về với nước Anh
cùng làm nên một nền giáo dục và VHHĐ
Anh vững chắc.
Theo nghiên cứu của John Prosser [26],
trong ba thập kỉ cuối thế kỉ XX, các nhà
nghiên cứu giáo dục và khoa học xã hội Anh
đã tập trung nghiên cứu các khía cạnh nổi
bật của giáo dục và VHHĐ nước này gồm:
• Những xu hướng chính trong lí luận và
thực hành giáo dục;
• Trường ý nghĩa của khái niệm VHHĐ;
• Những khuynh hướng chính trong
phương pháp nghiên cứu học đường và
VHHĐ;
• Các xu thế chính trị và ảnh hưởng của
chúng đến chính sách giáo dục (tham khảo
[26, p.2]).
Thuở ban đầu, VHHĐ được các tác giả
đề cập đến ở từng khía cạnh cụ thể. Chẳng
hạn, Lewin et al. [16], Connel [27], Argyris
[28], Halpin & Croft [29] tập trung nhiều vào
thuật ngữ ‘không khí/môi trường tổ chức (organisational climate)’. Đến những thập niên
1960 – 1970, giới học thuật Anh đã cộng
tác với các đồng nghiệp Mĩ và Canada để
triển khai nhiều công trình nghiên cứu lớn
về vấn đề này. Tiêu biểu là Halpin & Crofts
với công trình The Organisational Climate
of Schools (Môi trường tổ chức trường học)
[29], Coleman et al. với công trình Equality
III. NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG
VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG Ở CHÂU ÂU
Châu Âu được xem như một trong hai
chiếc nôi của giáo dục hiện đại, nơi các
phong trào cải tổ tổ chức học đường và
VHHĐ diễn ra sớm từ khoảng giữa hai cuộc
Đại thế chiến. Tuy nhiên, với tính chất đặc
thù của bối cảnh xã hội và chính trị, VHHĐ
ở châu Âu dường như có sự khựng lại vào
cuối thế kỉ XX trong khi phong trào ấy dâng
cao mạnh mẽ ở Mĩ. Trong khuôn khổ bài viết
này, chúng tôi khảo sát cụ thể ở ba quốc gia
50
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
of Educational Opportunity (Bình đẳng về cơ
hội giáo dục) [30], Plowden với Children and
Their Primary Schools (Trẻ em và mái trường
tiểu học của chúng) [31], Berstein với Toward
a theory of educational transmission (Hướng
tới một lí thuyết truyền tải giáo dục) [32] và
Averch với How effective is schooling? (Hiệu
quả học đường như thế nào?) [33]. . . Các
nghiên cứu đã nêu bật ý nghĩa quan trọng của
nền tảng xã hội đối với học đường và kết quả
học tập của người học, trong đó Bernstein
đã nhấn mạnh rằng giáo dục học đường chưa
thể giúp khắc phục tình trạng bất bình đẳng
xã hội. Trong kết quả nghiên cứu của mình,
Brookover et al. [34], Edmonds [35] cũng
có nhận định tương tự (xem thêm [26, p.2,
5]). Có thể nói, xu hướng chính trị có ảnh
hưởng nhất định đến chính sách giáo dục tại
Anh trong hai thập niên 1960 – 1970. Webb
and Vulliamy [36] khẳng định: ‘VHHĐ nằm
trong tầm kiểm soát của những người quản lí
trường; các nhà lãnh đạo chính trị’, lúc này
tư tưởng khai phóng trong giáo dục chỉ mới
manh nha trên bàn giấy [tr.456].
Bước sang thập niên 1970, các nhà nghiên
cứu Anh đã bắt đầu nghiên cứu học đường
một cách tổng thể hơn, họ đi vào các bình
diện cụ thể của nó. Lúc này, việc hợp tác
giữa hai bờ Đại Tây Dương càng thắt chặt
hơn với dự án xây dựng trên cơ sở Bảng
hỏi miêu tả môi trường tổ chức (trong học
đường) do Halpin và Crofts xây dựng năm
1963 [29], Finlayson et al. [37] phát triển
thành Chỉ số môi trường học đường (School
Climate Index) áp dụng để tìm hiểu bản chất
xã hội nhận thức, tình cảm của thầy và trò
trong các trường mới thành lập (xem thêm
[26, p.2-3]).
Với công trình Mười lăm ngàn giờ: trường
trung học và hiệu quả giáo dục đối với trẻ em
(Fifteen Thousand Hours: Secondary Schools
and Their Effects on Children), Rutter et al.
[17] bắt đầu sử dụng thuật ngữ ‘đạo đức’
(ethos) để diễn tả nội dung VHHĐ trong
nghiên cứu. Theo đó, các bình diện như ‘giáo
dục khả năng hỗn hợp’, ‘đánh giá chương
trình giảng dạy’, ‘chăm sóc mục vụ’, ‘phong
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
cách giảng dạy’. . . đã được phân tích khá
toàn diện, làm nổi bật diện mạo VHHĐ. Theo
đánh giá của Prosser [26, p.5], dường như
thuật ngữ “climate” được các nhà nghiên cứu
về hiệu quả học đường dùng nhiều hơn, trong
khi thuật ngữ “văn hóa” (culture) được các
nhà nghiên cứu về tiến bộ học đường yêu
thích, các thuật ngữ “đạo đức” (ethos), “bầu
không khí” (atmostphere) và “nhịp điệu”
(tone) được dùng để mô tả phẩm chất của
trường học. Ở hai bên bờ Đại Tây Dương,
người Mĩ thích dùng thuật ngữ “không khí
học đường” (school climate) trong khi người
Scotland thì thích dùng “đạo đức học đường”
(school ethos). Trong thập niên 1970 này,
giới nghiên cứu nước Anh chia thành hai
trường phái định tính và định lượng [38]. Các
nghiên cứu về hiệu quả học đường lúc bấy
giờ đa phần dựa trên nghiên cứu định lượng
và phương pháp thống kê, chẳng hạn công
trình của Rutter et al. [17] nói trên.
Thập niên 1980 bắt đầu nở rộ xu hướng
nghiên cứu VHHĐ thể hiện qua các khái
niệm đạo đức học đường, môi trường học
đường, văn hóa, không khí học đường và
nhịp điệu học đường. Một số tác giả quen
dùng thuật ngữ “không khí/môi trường học
đường” thay vì “đạo đức học đường” (school
climate), trong khi Smith and Tomlinson [39]
dùng khái niệm ‘đạo đức học đường’ (school
ethos), trong đó, các tác giả đều nhấn mạnh
tới các đặc tính học đường như ‘có trật tự’,
‘an toàn’ hoặc ‘tích cực’ (xem [26, p.3]). Nổi
bật hơn, Fullan (1982) đã nhấn mạnh rằng
VHHĐ đặc biệt quan trọng vì nó xác định
hệ thống giá trị hướng dẫn3 của nhà trường
trong việc chuyển đổi tiến bộ và tăng cường
khả năng đáp ứng mục tiêu giáo dục.
Đến giữa thập niên 1980, xu hướng nghiên
cứu định lượng bị hoài nghi. Findlayson phản
đối Anderson, cho rằng nghiên cứu thống kê
đo không khí học đường ‘giống như những
người mù xem voi và báo cáo một cách thận
trọng các mụn cóc, thân cây, đầu gối và đuôi,
3
Deal and Kennedy (1983) cho rằng: một hệ thống giá trị
định hướng (giá trị và niềm tin) vốn không phải là chuẩn
mực trong trường học [40, p.15].
51
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
mỗi người trong số họ tự tin khẳng định rằng
họ đã phát hiện ra sự thật bản chất của voi’
(xem [41, p.43]). Năm 1985, tác giả Striven
cho rằng các nghiên cứu nên sử dụng ‘các kĩ
năng của nhà dân tộc học trong việc khám
phá bản chất khó nắm bắt của không khí học
đường bởi những người tham gia trong môi
trường học đường có sự lựa chọn và tự do
của họ, nghiên cứu cách này sẽ tìm ra những
kết quả ngoài ý muốn, tính đa biến, những
mâu thuẫn và xung đột cảm xúc. . . , tất cả
đều đóng góp vào không khí học đường và
do đó cần phải xem xét nghiên cứu định tính’
(dẫn trong [26, p.7]).
Trong giai đoạn này (thập niên 1980 –
1990), nhiều đạo luật giáo dục và đặc biệt là
luật ERA ban hành năm 1988 đã mở đường
cho một sự thay đổi lớn trong một số giá trị
cốt lõi của trường học ở Anh. Tại cuộc bầu
cử năm 1979, chính phủ của bà Thatcher đã
cố gắng phá vỡ thế chi phối nghiêm ngặt của
chính quyền địa phương đối với giáo dục, tiến
tới xây dựng một loạt quy định mới trong
Luật Giáo dục. Chính sách của chính phủ về
các trường học địa phương (LMS) đã trao
quyền cho các trường quyền kiểm soát ngân
sách của mình. Quyền tự chủ này đã giúp
tạo dựng niềm cảm hứng lớn để nhà trường
có thể xây dựng phong cách văn hóa cho
riêng mình. Trong khoa học, nhiều tác giả
chú trọng đánh giá tác động của pháp luật đối
với VHHĐ và chỉ ra những điểm bất cập để
giới quản lí tháo gỡ nhằm thực hiện triệt để
tư tưởng khai phóng trong xây dựng VHHĐ.
Giai đoạn sau năm 2000 cho đến nay,
nghiên cứu VHHĐ ở Anh gần như hòa chung
với dòng chảy VHHĐ ở Mĩ do sự giao lưu
văn hóa – tư tưởng và giao lưu học thuật
Anh – Mĩ ngày càng sâu rộng; các công trình
nghiên cứu VHHĐ được xuất bản đồng thời
ở cả London và các thành phố nước Mĩ cũng
góp phần thắt chặt mối quan hệ này. Duy
điểm khác biệt lớn nhất trong VHHĐ ở Anh
so với Mĩ chính là tính lịch sử của nền giáo
dục Anh, kèm theo nó là một phần dư vị của
tính tôn ti – đẳng cấp xã hội; trong khi ở
Mĩ, đó là tính đa dạng văn hóa. Nói cách
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
khác, tính tương đồng trong tư tưởng, quan
niệm và cấu trúc VHHĐ ở Anh và Mĩ khi đi
vào bối cảnh của từng nước đã ‘cụ thể hóa’
thành hai ‘phiên bản’ chứa đựng một số khác
biệt. Cụ thể, ở Anh, chính phủ yêu cầu trong
chương trình giảng dạy quốc gia phải chú
ý yếu tố lịch sử Anh, địa lí Anh và văn học
Anh giai đoạn ‘cổ điển’ [42, p.20]. Thậm chí,
Hillgate Group [43, p.4] từng cho rằng ‘các
giá trị truyền thống của xã hội phương Tây’
ẩn chứa nền văn hóa Anh trong đó cần được
gìn giữ, quyết ‘không được hi sinh’ dưới tác
động của tư duy khai phóng và tính đa dạng
văn hóa trong môi trường học đường.
Cho đến hiện nay, khi thuật ngữ văn hóa
được diễn giải kĩ hơn cũng là lúc giới nghiên
cứu đi tìm định nghĩa VHHĐ sát hơn. Nhìn
chung, VHHĐ ở Anh phụ thuộc vào các yếu
tố sau:
• VHHĐ nằm trong khuôn khổ văn hóa xã
hội, văn hóa quốc gia, chịu sự chi phối bởi
chính trị – văn hóa, xã hội, kể cả thị trường
lao động (xem thêm [44]).
• Trường học, bệnh viện là những thiết chế
đặc thù không thể mang ứng dụng toàn bộ
hệ giá trị văn hóa phổ thông ngoài xã hội
được, bởi ‘bản chất văn hóa của chúng khó
có thể chia sẻ cho người ngoài nhóm’ (xem
thêm [45, p.52]).
• Các thành viên trong một trường có sự tự
do lựa chọn kiến tạo ‘sắc màu’ VHHĐ độc
đáo riêng của trường mình dựa trên khung
VHHĐ chung.
• VHHĐ thể hiện ra thành hai tiểu hệ
thống: cách hiểu bên trong và cách hiểu bên
ngoài. Người bên trong góp phần xây dựng
phong cách VHHĐ độc đáo của trường mình
song bên ngoài xã hội ‘nhận thức’ và ‘đánh
giá’ VHHĐ của đơn vị thông qua nhiều kênh
khác nhau: tiếp xúc con người; đọc bản tin,
đọc website, xem các tiết mục biểu diễn
(tham khảo [26, p.9]).
Có thể nói, người Anh đã thay đổi sâu
sắc văn hóa tổ chức để thúc đẩy xây dựng
VHHĐ. Họ thay đổi cung cách lãnh đạo,
quản lí theo hướng trao quyền tự chủ tối đa
cho nhà trường và xây dựng văn hóa chuyên
52
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
Engels năm 1885 từng nhấn mạnh rằng,
Pháp, hơn bất kì nơi nào khác, là vùng đất
diễn ra các cuộc đấu tranh giai cấp lịch sử, và
do đó, các hình thức chính trị thay đổi đã tác
động mạnh mẽ đến đời sống xã hội, khi giai
cấp tư sản cộng hòa chiến thắng, họ đã thiết
kế một hệ thống giáo dục nhằm phản ánh các
lí tưởng văn hóa, xã hội và chính trị của nước
Pháp. Hệ thống này mang tính khép kín, khớp
nối chặt chẽ và tập trung cao độ nhất ở cấp
đại học. Hệ thống trải qua nhiều thăng trầm
của lịch sử song về cơ bản vẫn giữ nguyên
cái lõi khép kín của nó [57, p.330]. Sau Thế
chiến thứ Hai, nước Pháp bước vào thời kì tự
thân phát triển mà không còn hệ thống thuộc
địa nữa, xã hội Pháp diễn ra quá trình tái cơ
cấu lớn, các nhà hoạch định chính sách công
quan tâm nhiều hơn đến việc tìm cách thay
đổi hệ thống vĩ mô chung của toàn xã hội
hơn là từng bình diện xã hội (như giáo dục
chẳng hạn). Cho đến thời Chiến tranh Lạnh,
hệ thống giáo dục Pháp còn mang dấu ấn giai
cấp khá rõ. Về bản chất, giáo dục Pháp khá
do dự trong việc tiến sâu vào thế giới hiện
đại (xem [57, p.345]).
Theo Robinson et al. [58, p.387-403], nước
Pháp duy trì chương trình quốc gia chung
đến bậc tú tài, đồng thời, nước Pháp có cơ
chế kiểm tra – giám sát chặt chẽ từng khâu
đoạn với yêu cầu về chất lượng người học
khá nghiêm ngặt. Ở Pháp, bậc đại học vẫn
bị đóng khung cao hơn ở Anh. Trong khi đó,
nếu Anh không quy định chương trình quốc
gia, cũng không có cơ chế kiểm tra – giám
sát quá ngặt nghèo, nhà trường khá chủ động
trong việc triển khai hoạt động giáo dục thì
dường như giáo dục Pháp không chịu áp lực
lớn của tính đa dạng ấy. Nghiên cứu cho thấy,
với độ giám sát chặt chẽ như vậy, học sinh,
sinh viên Pháp cảm thấy ‘tự tin hơn’ và ‘có
hành vi ứng xử tốt hơn trong lớp học’. Tương
tự như vậy, nghiên cứu cũng cho thấy ở Pháp
người học có động lực, nguồn cảm hứng học
tập, thái độ lạc quan, khả năng đối mặt với
thử thách có phần nhỉnh hơn ở Anh. So với
ngành giáo dục Pháp, rõ ràng tính đa dạng
văn hóa vừa là động lực và cũng là áp lực
môn trong đội ngũ nhân lực (người quản lí,
giáo viên, nhân viên hành chính), coi đó là
hai điểm mấu chốt của lí thuyết giáo dục
đương đại. Những thay đổi ở góc nhìn ‘văn
hóa tổ chức’ ở Anh đã tạo những điều kiện
tối cần thiết cho môi trường học đường, tạo
dựng ‘chất keo xã hội’ để gắn kết các bộ
phận lại với nhau [46], [47] và là một sản
phẩm kinh nghiệm của các nhóm xã hội [48].
Schein [48] đặc biệt chú ý tới vai trò của tính
đồng nhất và ổn định trong đơn vị nhà trường,
cái có thể giúp xác định tính chất mạnh yếu
của VHHĐ, theo đó, (a) các tổ chức có thể
chứa các tiểu văn hóa khác nhau dựa trên
các nhóm khác nhau, thay vì một văn hóa tổ
chức duy nhất, (b) văn hóa nhóm có thể là
lực lượng của sự mất đoàn kết của tổ chức,
thậm chí là phản đối nhà quản lí, và (c) tạo
dựng nền văn hóa tổ chức là công việc khó
khăn và lâu dài, giới quản lí học đường cần
phải kiên trì (xem thêm Waller [49], Jackson
[50], Hargreaves [51], Rudduck et al. [52]).
Nias et al. [53] đồng thuận với quan điểm của
Schein [54] cho rằng các nhà lãnh đạo đóng
vai trò chủ đạo trong việc ‘tạo ra và quản lí
VHHĐ’, đồng thời, tác giả cũng nhấn mạnh
thêm rằng giáo viên đầu ngành cũng có vai
trò tương tự.
Đương nhiên, giới nghiên cứu Anh khẳng
định VHHĐ cũng bị ảnh hưởng bởi bối cảnh
bên ngoài của trường học như nhà doanh
nghiệp, các thiết chế chính trị – văn hóa – xã
hội. Trong đó, công đoàn giáo dục cũng có
thể có tác động đến VHHĐ (xem thêm [55]).
Theo Stoll and Fink [56], hiện tại nước
Anh đang hướng đến xây dựng hoàn chỉnh
nền VHHĐ với các chuẩn mực như sau: mục
tiêu chung được chia sẻ, trách nhiệm hướng
tới thành công, trường đại học là ngôi nhà
chung của chúng ta, cải tiến liên tục để luôn
trở nên tốt hơn, học tập suốt đời vì chính
mình và vì mọi người, thái độ chấp nhận rủi
ro, sự hỗ trợ hết mình những ai cần giúp đỡ,
sự tôn trọng lẫn nhau, tính cởi mở và tôn
trọng sự khác biệt, tư duy biết hoài niệm và
có óc hài hước.
- Nước Pháp
53
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
đối với quá trình xây dựng VHHĐ ở nước
Anh. Thêm vào đó, giáo dục Pháp thiên về
tính học thuật và tính quản lí nhà nước, trong
khi đó, nó vẫn còn duy trì khoảng cách khá
xa với thị trường lao động (xem [59, p.143],
[60, p.110]).
Nghiên cứu nói trên phần nào đó thể hiện
mức độ ‘hài lòng’, chính xác hơn là ‘bằng
lòng’ của người học ở Pháp đối với chương
trình đã định dạng sẵn. Nói khác hơn, học
sinh – sinh viên Pháp có vẻ ‘thụ động hơn’
và ‘ít đòi hỏi’ hơn ở nhà trường. Học sinh
Pháp được cho là có niềm tin lớn hơn vào
bản thân, họ có tinh thần chịu trách nhiệm
cao hơn trong giải quyết vấn đề.
Một nghiên cứu nữa của Sara Miller Llana
[61] cho thấy, nhà trường ở Pháp rất coi trọng
giáo dục nghệ thuật cho sinh viên, coi đó
như là một thứ ‘chuẩn mực’ quan trọng, đánh
dấu họ là người trí thức. Llana, dẫn lời của
Bruno Pequignot – một nhà xã hội học về
nghệ thuật tại Đại học Sorbonne Nouvelle ở
Paris, cho rằng: ‘Nếu bạn muốn leo lên các
nấc thang của các công ti ở Pháp, bạn nên
biết đến Voltaire, Victor Hugo hoặc Simone
de Beauvoir’, ‘Nếu [ứng cử viên] không bao
giờ đọc sách, hoặc đến rạp chiếu phim, không
biết âm nhạc hay bất cứ kĩ năng gì ngoài
chuyên môn của họ, họ sẽ không có cơ hội
được tuyển dụng’ [61]. Trong một nghiên cứu
năm 2015 của Bộ Văn hóa và Truyền thông
Pháp, 53% số người được hỏi than phiền về
việc không tiếp cận được với nghệ thuật và
văn hóa một cách đầy đủ ở cấp đại học [61].
Con số này cho thấy tiếp cận văn hóa là một
‘nhu cầu’ tự thân của người học; và do vậy,
nhà trường ở Pháp ngoài chức năng đào tạo
chuyên môn phải còn là một ‘viện nghệ thuật’
hay một ‘nhà văn hóa’ thực thụ. VHHĐ ở
Pháp xây dựng và phát triển trên tinh thần
ấy. Theo đó, ở Pháp, văn hóa là nền tảng, và
‘nếu có một số quốc gia, nơi bản sắc được
liên kết với thương mại, hoặc sự chinh phục
của phương Tây như ở Mĩ, thì ở Pháp, đó là
trường học và văn hóa’ [61]. Nhà trường ở
Pháp đã giúp thế hệ trẻ thấm nhuần văn hóa
của họ. Sự liên kết chặt chẽ giữa học đường
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
và các thiết chế văn hóa – nghệ thuật rộng
rãi ngoài xã hội là một nguồn lực quan trọng
giúp các trường học ở Pháp hoàn thành sứ
mệnh của mình, bởi kiến thức về nghệ thuật
và văn hóa là chìa khóa để thành công trên
thị trường lao động nước Pháp.
- Nước Đức
Đức cũng là một quốc gia có lịch sử ngành
giáo dục lâu đời và cũng là quốc gia bước
vào xu hướng xây dựng các đại học nghiên
cứu khá sớm. Năm 1810, Đại học Humboldt
ở Berlin quyết tâm xây dựng thành đại học
nghiên cứu (research university), mở đầu cho
kỉ nguyên nở rộ của các đại học Đức. Ở giai
đoạn cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, các
trường đại học Đức từng giữ vị trí đỉnh cao
của thế giới; thế nhưng đến cuối thế kỉ XX lại
rơi vào tình trạng ‘bị lãng quên’ [62, p.145],
trong khi Mĩ, Anh và Australia nổi lên thành
các trung tâm giáo dục đại học hàng đầu của
thế giới [60, p.1].
Vào thập niên 1960 – 1970, Đức nổi lên
phong trào nhóm đại học (Gruppenuniverstat) [60, p.9] với định hướng thúc đẩy quyền
tham gia quyết định giáo dục đại học của
sinh viên và nhân viên nhằm giảm bớt quyền
năng tối thượng của các giáo sư, song mục
tiêu cuối cùng không đạt được. Các giáo sư ở
đại học Đức vẫn toàn quyền và do vậy, không
khí học đường ở Đức vẫn mang nặng tính tôn
ti một chiều. Giai đoạn sau 1990, Tây Đức và
Đông Đức tái thống nhất, nền giáo dục Đức
coi nhiệm vụ hòa hợp quốc gia quan trọng
hơn các mục tiêu khác, chính vì thế, nước này
chưa vội thực hiện cải cách giáo dục. Mãi khi
người Đức nhìn thấy nền giáo dục Anh, và
gần hơn là Hà Lan, phát triển vượt bậc (xem
[60, p.10]), người Đức mới thật sự quan tâm
đến nó vào cuối thập niên 1990 và họ đã trở
thành ‘kẻ đi sau’. Chính sự phát triển xã hội
tổng thể của nước Đức lúc bấy giờ mới thực
sự là động lực cải cách chính và với gần 30
năm trở lại đây, giáo dục đại học Đức nỗ lực
đổi mới để tiến bộ trong phối cảnh giao lưu
xuyên quốc gia ngày càng sâu rộng.
Nước Đức ban hành Luật Giáo dục sửa đổi
năm 1998. Luật Giáo dục (1998) mở đường
54
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
cho phát triển giáo dục đại học, đầu tiên là
coi trọng việc dạy học theo các định hướng
phù hợp với thế giới đương đại (gọi là the
Bologna Process), trong đó, trọng tâm là thay
đổi, nâng cao cấu trúc đào tạo trình độ tiến sĩ
(vốn bị đánh giá trước đó là không khác với
đào tạo trình độ thạc sĩ). Tuy nhiên, nước
Đức chưa thu hút được nhiều nhân tài như
ở Anh hay Mĩ, quá trình ấy của giáo dục
đại học Đức chưa thật sự hiệu quả. Gần đây
nhất, khi Ủy ban châu Âu triển khai thực
hiện chương trình Horizon 2020, giáo dục
đại học Đức càng chuyển mình mạnh mẽ hơn
trong cộng đồng các trường đại học tiên tiến
ở châu Âu.
Thứ hai là cải cách trong lĩnh vực nghiên
cứu. Từ năm 2000, chính phủ Đức quyết tâm
xây dựng một số trường đại học ‘tinh hoa’
(elite) thông qua chương trình Excellence
Initiative (bắt đầu từ năm 2006) dành cho
các trường trọng điểm về nghiên cứu. Quá
trình này ắt hẳn đòi hỏi nhiều thập kỉ phấn
đấu. Hiện tại, theo đánh giá của các tổ chức
xếp hạng đại học Times Higher Education
2016, Academic Ranking of World Universities 2017 hay Shanghai Jiaotong Ranking
2017, các trường đại học của Đức vẫn vắng
bóng trong top đầu [60, p.18].
Thứ ba là cải cách trong khâu tài chính,
các trường được quyền tự chủ nhiều hơn, mở
đường cho quyền tự quyết trong xây dựng
và phát triển giáo dục đại học, trong đó có
xây dựng VHHĐ. Cũng giống như các lĩnh
vực trước, nước Đức vẫn đang ở giữa chặng
đường.
Thứ tư là cải cách trong cấu trúc nhân sự,
trọng tâm là chuyển cấu trúc lương giáo sư
từ chế độ C (bốn thang lương cố định, có từ
thập niên 1970) sang chế độ W (có ba thang
lương, chỉ quy định mức lương cơ bản, thu
nhập thực tế phụ thuộc vào đóng góp cá nhân
của từng giáo sư). So với Mĩ hay Anh, lực
lượng giáo sư cao cấp và giáo sư bậc trung
có số lượng còn hạn chế, trong khi bộ phận
hỗ trợ (assistant staff) chiếm đến 86%. Nước
Đức đặt mục tiêu trong thời gian ngắn sắp
tới sẽ phát triển thành công nhóm hỗ trợ này
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
nhằm bổ sung cho hai nhóm giáo sư có chất
lượng cao hơn. Cải cách này được đánh giá
là bước đầu mang lại hiệu quả khi nó kích
thích tất cả nguồn nhân lực giáo dục tự thân
kiến tạo các giá trị mới đóng góp vào thành
quả chung.
Hình 1: Tỉ lệ các giáo sư cao cấp, giáo sư
bậc trung và nhân viên hỗ trợ ở châu Âu và
Mĩ [60, p.62]
Thứ năm là cải cách trong cấu trúc quản lí.
Mô thức cũ duy trì sự song hành giữa quản
lí nhà nước và quyền tự tổ chức của các tổ
chức đại học, trong khi đó, mô hình mới trao
quyền lớn hơn cho việc tự thân tổ chức và
vận hành các trường đại học. Nhà nước chỉ
quy định khung chung về tổ chức và quản lí
chứ không quy định quá cụ thể như trước đó
[60, p.25-7].
Với năm chiến lược trên đây, nước Đức
đang dần chuyển đổi dần từ cơ chế nặng
tính tôn ti sang mô hình ‘hợp tác ba bên’
(triangle cooperation) giữa quản lí nhà nước,
chất lượng học thuật và thị trường lao động
(xem [59, p.136], [60, p.109]). Trong mô
hình này, nhà nước chỉ xác định mục tiêu
trọng tâm (goals), để các trường tự hình thành
con đường đạt các mục tiêu ấy.
Các phân tích trên đây cho thấy hai đặc
điểm quan trọng của VHHĐ ở Đức. Thứ nhất,
mô thức truyền thống mang nặng tính tôn ti
một chiều do ba yếu tố cùng chi phối: mục
tiêu quản lí nhà nước, yêu cầu chất lượng
giáo dục và quyền hạn tối cao của các giáo
sư. Thứ hai, nước Đức đang trong quá trình
55
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
chuyển đổi cấu trúc giáo dục đại học theo
hướng ‘dân chủ’ hơn, kéo gần với mục tiêu
đáp ứng nhu cầu thị trường lao động hơn.
Do đó, không khí và VHHĐ ngày càng định
hình rõ nét hơn theo hướng khai phóng. Tuy
nhiên, so với Anh hay Mĩ, nước Đức sẽ cần
đến nhiều thời gian hơn để có thể xây dựng
thành công mô hình VHHĐ khai phóng, đa
văn hóa.
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
(dẫn trong [65]). Franz Boas [66] định nghĩa
‘Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần,
thể chất và những hoạt động định hình nên
hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm
người vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân
trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên
của họ, với những nhóm người khác, với
những thành viên trong nhóm và của chính
các thành viên này với nhau’ [66, p.149].
Đứng từ góc độ diễn giải văn hóa, Clifford
Geertz đánh giá văn hóa là ‘một hệ thống các
khái niệm nối tiếp được biểu diễn thông qua
các hình thức biểu tượng bằng các phương
tiện mà người ta dùng để liên lạc, ghi nhớ và
phát triển kiến thức về thái độ đối với cuộc
sống’ [63, p.89]. Ở một góc độ khác, ông nói
ngắn gọn thành: ‘văn hóa về là một mạng
lưới các ý nghĩa bao trùm lấy chúng ta4 ”.
Cùng đứng ở góc nhìn biểu tượng, hai nhà
nghiên cứu A.L. Kroeber và Kluckhohn cho
rằng: ‘Văn hóa là những mô hình hành động
hiển thị và ám thị được truyền đạt dựa trên
những biểu trưng, là những yếu tố đặc trưng
của từng nhóm người. . . Hệ thống văn hóa
vừa là kết quả hành vi vừa trở thành nguyên
nhân tạo điều kiện cho hành vi tiếp theo’ [67,
p.357]. Trần Ngọc Thêm trong Tìm về bản
sắc văn hóa Việt Nam, đứng trên quan điểm
giá trị, cũng từng định nghĩa rằng: ‘văn hóa
là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo và tích
lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong
sự tương tác giữa con người với môi trường
tự nhiên và xã hội’ [65, tr.27]. Có thể thấy,
mỗi nhà văn hóa đều lựa chọn một tiêu điểm
(góc nhìn) riêng để định nghĩa văn hóa, song
giữa họ có những điểm chung nhất định, đó
là tính giá trị, tính ‘con người’, tính tương tác
liên cá thể, tính lịch sử và tính cập nhật, tính
thẩm mĩ, động năng thúc đẩy hướng thiện...
Dựa vào nền tảng này, chúng tôi nhận thức
khái niệm và cấu trúc nội hàm của VHHĐ
chứa đựng đầy đủ các yếu tố đó.
IV. KHÁI NIỆM VĂN HÓA
HỌC ĐƯỜNG TRÊN THẾ GIỚI
VÀ XÂY DỰNG KHÁI NIỆM VĂN HÓA
HỌC ĐƯỜNG Ở VIỆT NAM
A. Khái luận và định nghĩa văn hóa học
đường trên thế giới
VHHĐ là một khái niệm vừa rộng vừa hẹp.
VHHĐ là một tiểu văn hóa trong tổng thể
hệ thống văn hóa, mà theo Geertz, văn hóa
không phải là một phần của khoa học thực
nghiệm để tìm kiếm quy luật của đối tượng
mà phải là một phạm trù diễn giải để tìm
kiếm ý nghĩa của chúng [63, p.5]. Trên thực
tế, các tác giả phương Tây đánh giá VHHĐ
mang tính liên ngành, nó có liên quan đến
văn hóa dân tộc, văn hóa giáo dục, văn hóa
tổ chức.
VHHĐ trước tiên là một bình diện của
văn hóa, nó chứa đựng đầy đủ nội hàm,
đặc điểm của khái niệm văn hóa. Văn hóa
vốn là một khái niệm rộng, được UNESCO,
nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam và thế giới
định nghĩa dưới nhiều góc độ khác nhau.
UNESCO (1994) khái luận ‘Văn hóa là tổng
thể sống động các hoạt động và sáng tạo
trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế
kỉ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên
một hệ thống các giá trị, các truyền thống
và thị hiếu – những yếu tố xác định đặc tính
riêng của mỗi dân tộc’ [64]. E.B. Tylor dưới
góc nhìn tiến hóa văn hóa nhận định, văn hóa
là ‘một tổng thể phức hợp bao gồm tri thức,
tín ngưỡng, nghệ thuật, luân lí, luật pháp,
phong tục và tất thẩy những năng lực khác và
những tập quán khác mà con người tiếp nhận
được với tư cách là thành viên của xã hội’
4
56
‘the web of significance in which we are all suspended’.
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
vận hành, thái độ, suy nghĩ và chuẩn mực của
các thiết chế, hiểu biết chúng là gì, tại sao
xuất hiện và chúng ảnh hưởng đến sự vận
hành như thế nào [18, p.3], [70]. Edgar H.
Schein [54, p.18] chú trọng tính trải nghiệm
chung của văn hóa khi cho rằng văn hóa là
‘một mô thức của những giả thuyết cơ bản
được phát minh, phát hiện và phát triển bởi
một nhóm người khi họ học cách ứng phó với
các vấn đề. . . , mô thức ấy đã phát huy giá trị
tốt trong suốt quá trình sống của cộng đồng
ấy, do vậy, nó được dùng để giáo dục, điều
chỉnh hướng đi đúng cho các thành viên mới,
khiến họ nhận thức, suy nghĩ và cảm nhận
đúng với các vấn đề ấy’.
Theo Jon Prosser, VHHĐ là khái niệm có
nguồn gốc từ nhân chủng học và xã hội học ở
Anh, VHHĐ nghiên cứu các xu hướng trong
lí thuyết và thực hành giáo dục; ý nghĩa khác
nhau được quy cho “VHHĐ”; sự khác biệt và
thay đổi trong phương pháp nghiên cứu; xu
hướng chính trị và ảnh hưởng của chúng đối
với chính sách giáo dục là những vấn đề được
ưu tiên xem xét, đánh giá giai đoạn đầu [26,
p.13]. Một nền VHHĐ tốt sẽ ảnh hưởng tích
cực đến động lực học tập và thành tích học
tập của sinh viên cũng như hiệu quả giảng
dạy và nghiên cứu của giảng viên (xem [71],
[72]).
Theo Peterson and Deal, VHHĐ là ‘mô
hình sâu sắc của các giá trị, tín ngưỡng và
truyền thống đã hình thành trong suốt lịch
sử của trường’ [73, p.7], là những mạng lưới
phức tạp của những câu chuyện, truyền thống
và nghi thức vừa chớm nở khi giáo viên, học
sinh, phụ huynh và quản trị viên làm việc
cùng nhau và giải quyết những khủng hoảng
và thành tựu [18, p.8]. Bàn tiếp về VHHĐ,
Peterson and Deal cho rằng: ‘(. . . ) thuật ngữ
văn hóa biểu thị một phức hợp các yếu tố giá
trị, truyền thống, ngôn ngữ, và mục đích tốt
hơn bất cứ khái niệm nào. Văn hóa tồn tại
trong chiều sâu các yếu tố của nhà trường:
các quy tắc và quy định không bắt buộc,
sự kết hợp các nghi thức và truyền thống,
mảng các biểu tượng và hiện vật, biệt ngữ và
những cách diễn đạt mà nhân viên và sinh
VHHĐ là một bộ phận của văn hóa dân
tộc, nó kế thừa và phát huy giá trị nhân văn,
truyền thống văn hóa dân tộc. Các nghiên
cứu trường hợp ở Âu-Mĩ trên đây, đặc biệt là
tại Pháp, cho thấy VHHĐ rất được các nhà
quản lí đất nước quan tâm xây dựng mục tiêu
và định hướng tư tưởng sao cho yếu tố sắc
thái quốc gia được thể hiện ở mức độ tối đa
nhất có thể.
VHHĐ với tư cách là một tiểu văn hóa
chuyên biệt trong ngành giáo dục, nó thẩm
thấu, chuyển tải những giá trị và đặc điểm
riêng của lĩnh vực này. Về mặt chiết tự,
VHHĐ bao gồm hai phạm trù chính là văn
hóa và học đường. Đây là hai từ Hán – Việt
có nguồn gốc từ tiếng Hán. Khái niệm văn
hóa được các tác giả đương đại hiểu và vận
dụng theo cách định nghĩa của UNESCO và
các nhà nhân học phương Tây, trong khi học
đường để chỉ nhà trường hay cơ sở giáo dục.
Đầu tiên, chúng ta hãy tìm hiểu các tác giả
nước ngoài hiểu như thế nào về khái niệm
VHHĐ.
Khái niệm VHHĐ được Willard Waller
nêu ra lần đầu vào năm 1932, theo đó, mỗi
trường học đều có văn hóa riêng, với một
bộ nghi thức và cách thức dân gian cùng
những mối quan hệ, những cung cách ứng xử,
những quy ước, những quan điểm phi lí tính
và những phổ chuẩn mực đạo đức phức tạp
[49, p.96]. Từ điển Webster’s New Collegiate
Dictionary định nghĩa VHHĐ là ‘mô thức
hợp nhất của thái độ con người bao gồm
suy nghĩ, lời nói, hành động, các vật mẫu,
đồng thời nó phụ thuộc vào năng lực học tập
và chuyển hóa kiến thức cho các thế hệ tiếp
nối sau’ [68, p.4]. Bower [69] xác nhận văn
hóa chỉ là ‘cách chúng ta làm mọi điều xung
quanh đây’5 , trong khi Deal & Kennedy [68]
chú trọng sự tương tác liên cá thể, cho văn
hóa là hệ thống niềm tin và giá trị cùng được
cộng đồng đồng thuận và chia sẻ. Trên cơ sở
đó, Deal & Peterson xác định trong văn hóa
tổ chức học đường, văn hóa giúp nắm bắt
được những mô thức đa dạng về phương thức
5
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
‘the way we do things around here’
57
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
viên sử dụng’ [74, p.9]. Cũng theo hai tác
giả này, VHHĐ cung cấp cách thức chính xác
và trực quan sinh động để nhà quản lí hiểu,
nắm bắt những quy luật bất thành văn, truyền
thống, chuẩn mực và sự kì vọng của đơn vị,
những thứ đã thấm vào từng khía cạnh của
học đường như cách con người hành động,
cách ăn mặc, điều được nói và điều cấm kị,
khả năng thành viên có chủ động tìm kiếm
sự giúp đỡ mỗi khi gặp khó khăn hay không,
cách người giáo viên nghĩ về công việc của
họ và nghĩ về sinh viên [18, p.2-3]. Theo
đó, VHHĐ ‘chú trọng nhiều hơn đến cảm
giác và giai điệu hiện tại của nhà trường, nó
nhấn mạnh nội dung cảm xúc của các mối
quan hệ và tinh thần trong đơn vị’ [75, p.9].
VHHĐ ‘hàm chứa những ý nghĩa xã hội ổn
định và ngấm ngầm, nó giúp hình thành nên
niềm tin và thái độ theo thời gian. VHHĐ
có sức bền cao, có ảnh hưởng quan trọng tới
các hoạt động con người, nó đúc khuôn cách
con người suy nghĩ, hành động và cảm nhận’
[18, p.7, 9].
VHHĐ có mối quan hệ đan xen với văn
hóa tổ chức. Theo đó, VHHĐ còn được định
nghĩa từ góc nhìn tổ chức. Edgar H. Schein
cho rằng VHHĐ là một ‘mô hình của các giả
định cơ bản, được tập thể nhà trường tìm tòi,
phát hiện hoặc phát triển khi họ học cách đối
phó với các vấn đề (. . .), họ đã nỗ lực tốt
để phát huy giá trị của mô hình các giả định
ấy, đồng thời truyền đạt nó đến các thành
viên mới như là mô thức chính xác nhất để
nhận thức, suy nghĩ và cảm nhận các vấn đề
có liên quan’ [54, p.9]. Ở mức độ cụ thể,
Schein [54] xác định VHHĐ là những mạng
lưới phức tạp của những truyền thống và lễ
nghi được các thế hệ giảng viên, sinh viên,
phụ huynh và nhà quản lí cùng xây dựng theo
thời gian thông qua quá trình sống, làm việc,
đối mặt và vượt qua các thử thách (dẫn lại
trong [73, p.9]). Những nghiên cứu gần đây
về biến đổi môi trường giáo dục đã xác định
VHHĐ có ý nghĩa quan trọng đối với sự tiến
bộ của việc dạy và học [76]. Rossman et al.
[77, p.5] xác định VHHĐ hàm ý cách thức
mọi hiện tượng đang diễn ra, nó giúp diễn
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
giải các sự kiện, thái độ, ngôn từ, hành vi và
tạo nghĩa cho chúng. Đồng thời, VHHĐ cũng
quy định cách thức con người nên theo cũng
như mô thức thái độ chuẩn mực phù hợp với
từng tình huống cụ thể. Wilson trước đó trong
khái niệm về văn hóa cũng nhấn mạnh ‘văn
hóa chính là kiến thức được chia sẻ và trao
truyền về những thứ được biểu trưng hóa và
phải được biểu trưng hóa trong hành động và
vật mẫu tạo tác’ [78, p.90]. Ở các trường có
xây dựng VHHĐ chuyên nghiệp, chính các
chuẩn mực, giá trị và niềm tin giúp củng cố
sứ mệnh giáo dục mạnh mẽ. Nói cách khác,
VHHĐ là yếu tố quyết định sự tiến bộ của hệ
thống học đường [18, p.5]. Newmann et al.
[79] nhấn mạnh rằng nhà trường chỉ thay đổi
cấu trúc lí tính là chưa đủ, nó còn đòi hỏi phải
xây dựng được VHHĐ. Nghiên cứu của các
tác giả này trong suốt năm năm cho thấy việc
xây dựng được VHHĐ sẽ thúc đẩy việc học
tập của sinh viên, sự cam kết của nhà trường,
giảng viên và sinh viên vào kết quả tốt nhất,
sự ủng hộ của xã hội dành cho sự sáng tạo,
sự đối thoại và việc tìm kiếm ý tưởng mới.
Cán bộ, giảng viên luôn quan tâm, san sẻ và
giúp đỡ lẫn nhau, giữa giảng viên và sinh
viên tồn tại mối quan hệ khắng khít, tất cả
đều dựa trên sự tôn trọng, sự tín nhiệm và các
mối quan hệ chia sẻ sức mạnh lẫn nhau [79,
p.289]. Cũng cần chú ý thêm rằng không có
một công thức VHHĐ chung cho tất cả các
trường bởi lẽ các đơn vị không hề có chung
bối cảnh giống nhau từ sinh viên, giảng viên,
nhân viên, vị trí địa lí và cộng đồng xã hội,
song dù vậy, vẫn có thể tìm ra giữa chúng
một vài thành phần chia sẻ chung được xếp
vào cùng một nhóm VHHĐ [80, p.48].
Ngoài ra, một số tác giả khác tiếp cận
VHHĐ từ một khía cạnh chuyên sâu cụ
thể như hành vi cộng đồng, tinh thần tập
thể. Theo Bryk et al. [81], tinh thần cộng
đồng (sense of community) chứa đựng trong
VHHĐ là yếu tố nuôi dưỡng sự thành công
vượt bậc của học đường, trong đó giáo viên
hăng hái và hài lòng với công việc, hăng say
với nghề nghiệp. McLaughlin (1995) khẳng
định, VHHĐ tạo dựng sự gắn kết, đam mê,
58
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
sự cam kết và những tương tác mở rộng trong
giáo viên. Nhờ vậy, các trường có thể dễ dàng
nâng cao hiệu quả (dẫn lại trong [18, p.6]).
Còn theo Hofstede & Hofstede [82, p.4], văn
hóa luôn là một hiện tượng tập thể, bởi ít nhất
nó được chia sẻ rộng rãi giữa tất cả thành viên
đã và đang sống trong cùng một môi trường
xã hội, nơi văn hóa được tiếp nhận. Văn hóa
chính là lập trình tập thể của tinh thần giúp
phân biệt thành viên của một nhóm, một loại
hình của nhóm người này so với nhóm khác,
loại hình nhóm khác. Các tác giả này nhấn
mạnh văn hóa phải ‘được tiếp nhận qua học
tập’ chứ không phải ‘yếu tố bẩm sinh’, bởi nó
bắt nguồn từ môi trường xã hội chứ không
phải do di truyền sinh học mà thành. Hai
tác giả phân tích, so sánh giữa ba phạm trù
‘bản năng con người’, ‘văn hóa’ và ‘cá tính’,
theo đó ‘văn hóa’ gắn liền với nhóm (cộng
đồng) trong khi ‘bản năng con người’ mang
tính phổ quát toàn nhân loại, còn yếu tố ‘cá
tính’ gắn với cá nhân. Trong ba yếu tố ấy,
‘văn hóa’ được kiến tạo qua học hỏi, yếu tố
‘bản năng’ chuyển hóa qua di truyền trong
khi yếu tố ‘cá tính’ chịu sự chi phối bởi cả
phương thức di truyền và qua học hỏi (xem
[82, p.4]). Theo cách phân tích này, VHHĐ
với tư cách là một tiểu văn hóa hoàn toàn có
thể được xây dựng và thay đổi theo tính chủ
động của nhóm (cộng đồng). Như một quy
luật tất yếu, con người học tập các bài học
cũ để củng cố gắn kết con người, tạo ra các
ý nghĩa và mục tiêu cho cuộc sống thường
nhật (xem thêm [68, p.5]). Nhiều nghiên cứu
cho rằng ‘sự xuất sắc’ của một đơn vị (nhà
trường, doanh nghiệp) nằm ở cách các nhóm
thành viên học hỏi được để tư duy, cảm nhận
và hành động (xem thêm [82, p.35]).
Tóm lại, văn hóa từng được hiểu là ‘mô
thức’, ‘tập hợp những đặc trưng’ hay ‘bộ các
giá trị’ thể hiện qua hành vi tương tác và
ứng xử trong môi trường học đường, giữa
các nhóm đối tượng với nhau (nhà quản lí,
giảng viên, sinh viên) và với nhà trường với
tư cách là một thiết chế văn hóa. Chúng ta
cần chú ý rằng VHHĐ bao hàm cả những
thành tố hiển thị và ẩn thị. Theo Wren [83],
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
nhiều khía cạnh của VHHĐ là hiển thị (Ví
dụ: chương trình giảng dạy, quy tắc ứng xử)
song cũng tồn tại nhiều yếu tổ ẩn thị chỉ
có thể nắm bắt được qua giao tiếp mà thôi
(Ví dụ: chuẩn mực hành vi, thói quen, giá
trị và truyền thống nhà trường). Những yếu
tố ẩn thị ít rõ ràng hơn và đòi hỏi phải giao
tiếp có chủ ý và làm rõ. VHHĐ về cơ bản
là khác biệt với không khí/môi trường học
đường (school climate). Theo Hellriegel &
Slocum [84] và William G. Tierney [85, p.221], không khí học đường biểu thị những biểu
hiện cụ thể của các chiều kích của nhà trường
tại từng thời điểm xác định của những hoạt
động học đường cùng với các quan điểm về
nhận thức, thái độ và hành vi ẩn chứa trong
các hoạt động ấy. Do đó, khái niệm không khí
học đường chủ yếu là để thảo luận các vấn đề
nhận thức và thái độ học đường ở thời điểm
hiện tại hơn là tìm hiểu cặn kẽ về ý nghĩa,
niềm tin và giá trị được nhà trường gìn giữ
và phát huy như một cấu trúc bền chặt trong
một khoảng thời gian dài nhất định.
Ở Đông Á, VHHĐ bắt đầu được quan tâm
từ đầu thế kỉ XXI này. Khu vực Đông Á có
khá nhiều tác giả thuộc các chuyên ngành văn
hóa, quản lí và giáo dục đi tìm khái niệm và
cấu trúc nội hàm của khái niệm này. Tiếng
Hán đương đại không gọi là VHHĐ, thay vào
đó là thuật ngữ ‘hiệu viên văn hóa
’ (xem [86]). Thuật ngữ “hiệu viên” tương
đương với khái niệm “campus” trong tiếng
Anh, gần với khái niệm “học đường” trong
tiếng Việt. Ở khía cạnh nhất định, VHHĐ gần
với ‘hiệu viên văn hóa’. Xem xét cụ thể hơn,
khái niệm “hiệu viên” tiếp tục được phân
ra “hiệu” và “viên”. “hiệu” chỉ trường học,
song được hiểu rộng hơn là học đường và
hoạt động lõi của nó là dạy và học. “Viên”,
tức khuôn viên, được hiểu rộng hơn là không
gian học đường, môi trường học đường. Có
thể thấy, ở tầng nghĩa rộng nhất, người Trung
Quốc hiểu và dùng khái niệm ‘hiệu viên văn
hóa’ thay thế cho thuật ngữ “school culture”
của phương Tây. Và vì vậy, nó gần với khái
化
59
校园文
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
niệm VHHĐ ở Việt Nam6 .
Bàn về khái niệm hiệu viên văn hóa, tác
giả Hầu Trường Lâm định nghĩa ngắn gọn
rằng: đó là sự tổng hòa văn hóa tinh thần và
văn hóa vật chất kiến tạo trong khuôn viên
trường học [87, tr.112]. Tác giả Y Tú Hiệp
cụ thể hơn cho rằng ‘hiệu viên văn hóa’ là hệ
thống giá trị, chuẩn mực quy định hành vi,
lí tưởng chung ổn định, được toàn thể thầy
trò và nhân viên trong nhà trường tiếp nhận
và thực thi. ‘Hiệu viên văn hóa’ bao gồm
môi trường, diện mạo khuôn viên trường học,
cách thức và hiệu quả các hoạt động dạy và
học, cung cách quản lí, tất cả tương tác làm
nổi bật sắc thái riêng của nhà trường (xem
thêm [88, tr.57]). Tương tự, Cát Ái Dân cũng
khái lược ‘hiệu viên văn hóa’ là hệ thống các
giá trị, phương thức hành vi, tập quán ngôn
ngữ, hệ thống thiết chế, biểu tượng tri thức,
phong cách kiến trúc... của nhà trường, được
kiến tạo và thừa nhận trong hoạt động thực
tiễn dạy và học, trong hoạt động nghiên cứu
khoa học, trong công tác phục vụ xã hội cũng
như trong các hoạt động giải trí ngoài giờ
học của nhà trường. ‘Hiệu viên văn hóa’ lấy
phương thức tư duy, khuynh hướng giá trị, tố
chất tâm lí, quan niệm tư tưởng đặc biệt chỉ
có ở sinh viên làm hạt nhân, dựa vào phương
thức hành vi, phương thức cuộc sống, quan
hệ giao tế của trường học làm môi trường
tinh thần (xem [89, tr. 57], dẫn trong [86]).
Phan Đạo Lan phân chia khái niệm này
thành hai nhóm dựa vào mức độ nông-sâu
của các trường ý nghĩa, theo đó ‘hiệu viên
văn hóa’ được hiểu là (a) toàn bộ môi trường
ứng xử trong nhà trường, lấy khuôn viên
trường học làm không gian văn hóa, lấy văn
hóa xã hội làm bối cảnh, lấy các đối tượng
cấp quản lí, nhân viên và toàn bộ thầy trò
làm chủ thể, lấy sinh hoạt trong khuôn viên
trường, quan hệ giao tiếp, diện mạo tinh thần,
khuynh hướng giá trị làm nội dung chính, lấy
hoạt động văn hóa ngoại khóa làm hình thái
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
cơ bản; (b) là một bình diện của văn hóa tinh
thần, trong đó nền tảng cốt lõi chính là tinh
thần, không khí ứng xử chung của các bên
tham gia vào hoạt động của trường (lấy sinh
viên làm chủ thể chính) [90, tr.59] (dẫn trong
[86]). Giống như một số tác giả Mĩ, nhóm Sử
Khiết, Kí Luân Văn và Chu Tiên Kỳ [91] xếp
‘hiệu viên văn hóa’ vào ‘văn hóa dân tộc’, coi
đó là một tiểu văn hóa ‘văn hóa quốc gia /
dân tộc’, là kết quả của tác động văn hóa dân
tộc vào nhà trường, được nhà trường tự thân
tiến hành chuyển hóa bên trong, lấy văn hóa
dân tộc làm cơ sở, lấy giá trị quan của trường
làm hạt nhân, chứa đựng nội dung phong phú
như truyền thống trường học, tác phong lãnh
đạo, phong cách giảng viên, phong cách sinh
viên, tố chất nhân viên, môi trường khuôn
viên trường.
B. Đặc điểm giáo dục Việt Nam truyền thống
Từng mệnh danh là “văn hiến chi bang”,
Việt Nam xưa và nay luôn tự hào với truyền
thống hiếu học. Giáo dục Nho giáo hình
thành ở Việt Nam từ đầu Công nguyên cùng
với chính sách cai trị nhà Hán, đặc biệt dưới
sự đóng góp của một số quan cai trị người
Hán như Tích Quang, Nhâm Diên, Sỹ Nhiếp,
nền giáo dục Nho học bắt đầu khỏi sắc.
Người Việt Nam rất coi trọng giáo dục lối
sống xã hội, lấy hệ thống giáo dục Nho học
làm thước đo của sự hài hòa các mối quan hệ
chủ đạo. Trong các thành phần dân cư cơ bản
xưa, sĩ luôn đứng đầu danh sách, sau đến mới
là nông, công và thương. ‘Nhất sĩ nhì nông,
hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ’, kẻ sĩ
từng được hiểu là những mẫu hình của xã hội,
ở họ người ta tìm thấy đầy đủ các đức tính
cần có của một công dân gương mẫu: trunghiếu-lễ-nghĩa-trí-tín. Truyền thống ấy đã đi
cùng lịch sử dân tộc hơn 2000 năm qua, góp
phần hun đúc nên bản sắc văn hoá Việt Nam.
Song hành cùng chính sách "giáo hóa thiên
hạ" bằng thi thư lễ nhạc là chế độ đào tạo
nhân tài và chế độ khoa cử. Chính ở tính
năng đào tạo người quân tử, Nho giáo hướng
đến một nền giáo dục chính thống, đào tạo
6
Hiệu trong văn hóa Trung Hoa, ngoài khái niệm hiệu
viên văn hóa, không có khái niệm nào khác để chỉ văn hóa
học đường. Khái niệm tương cận với nó là văn hóa giáo
dục, song ý nghĩa hoàn toàn khác.
60
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
và hành vi giáo dục. Điều này phần nào trói
buộc sức sáng tạo tư duy của người học. Thứ
hai, giáo dục xưa tuyệt đối hóa vai trò của
người thầy trong mô thức truyền bá – tiếp
nhận kiến thức một chiều hơn là chú trọng
tính tương tác giữa thầy và trò hay chú trọng
giáo dục tư duy, giáo dục kĩ năng cho người
học. Lâu dần theo thời gian, người học đánh
mất tính chủ động và óc tư duy trong quá
trình học, kéo theo những hệ quả tiêu cực khi
vào đời. Thêm vào đó, chế độ khoa cử thuần
túy xưa đa phần đào tạo những người học
kinh điển chỉ để làm quan, người học không
thật sự cần thiết suy luận nhiều về nghĩa lí,
triết học hàm chứa bên trong kinh sách. Hệ
quả của xu hướng này hiện vẫn còn thể hiện
khá rõ nét ở khuynh hướng đào tạo hiện nay
là nhiều thầy hơn thợ, biết nói nhưng ít biết
làm, là xu hướng biết rập khuôn nhưng ít biết
suy luận, sáng tạo. Bên cạnh đó là xu hướng
trọng bằng cấp hơn thực lực mà hệ quả của
nó có thể vượt qua mọi chiều kích của không
gian và thời gian [96, tr.19-29]. Rõ ràng đây
là một điểm bất lợi lớn lao đối với quá trình
đổi mới giáo dục Việt Nam hiện nay.
Tuy vậy, quá trình sớm tiếp xúc với giáo
dục Pháp và Tây phương từ cuối thế kỉ XIX
và phát triển mạnh mẽ vào đầu thế kỉ XX
phần nào đó đã tạo đà và lực đẩy quan trọng
cho quá trình đổi mới giáo dục. Mặc dù
truyền thống giáo dục Nho giáo cũ kĩ, ít đổi
mới, song đó lại là một nền giáo dục không
rập khuôn Nho giáo Trung Hoa mà ngược
lại nó luôn chú trọng yếu tố bản địa (lí luận
Nho giáo đã cắt ghép, ‘bản địa hóa’; lối giáo
dục chú trọng thực tiễn xã hội ở Việt Nam)
[97, p.6], (xem thêm [98]). Đặc điểm này mở
đường cho việc xây dựng một nền VHHĐ
hiện đại chứa đựng tinh thần và bản sắc nước
nhà. Nếu biết "gạn lọc khơi trong" và vận
dụng đúng quy cách, những điểm tích cực
của truyền thống giáo dục nước nhà sẽ giúp
tạo nên biên độ rộng cho mô hình VHHĐ
mới, trong khi đó, nền tảng lí luận và kinh
nghiệm của các nước có nền giáo dục tiến
bộ trên thế giới có thể giúp khắc phục các
nhược điểm từ truyền thống, trực tiếp định
và cung cấp nhân sĩ, thân sĩ góp phần tham
gia quản lí nhà nước và chấn hưng giáo dục
nước nhà. Chế độ khoa cử manh nha vào thời
Lý, chính thức hình thành vào thời Trần và
phát triển mạnh mẽ vào thời Lê (thế kỉ XV)
trước khi thoái trào vào các thế kỉ tiếp theo.
Nền giáo dục ấy chính thức kết thúc vào năm
1918 trước làn sóng ảnh hưởng mạnh mẽ của
giáo dục kiểu phương Tây.
Nền giáo dục truyền thống đã hun đúc nên
ở người Việt Nam nhiều giá trị tích cực, tiêu
biểu có tinh thần hiếu học, truyền thống tôn
sư trọng đạo, tinh thần đề cao chân-thiện-mĩ
và tính thượng tôn nhân văn. Tất cả các đức
tính cao quý ấy một lần nữa được trui rèn
qua quá trình mở cõi về phương Nam (từ thế
kỉ XVII về sau) và qua các phong trào chống
Pháp, chống Mĩ (từ nửa sau thế kỉ XIX đến
năm 1975), đây vẫn đang là dòng chảy chính
của giáo dục Việt Nam đương đại. Tuy nhiên,
dưới tác động của các trào lưu trẻ mới nổi
(trào lưu văn hóa đại chúng) thông qua mạng
xã hội, một số khía cạnh của các giá trị ấy
đang bị xói mòn nếu như chúng ta không chú
tâm gọt giũa và cải tiến chúng.
Ở một phương diện khác, nền giáo dục
truyền thống nước ta tồn tại nhiều nhược
điểm cần phải thay đổi. Trong số các quốc
gia có nền giáo dục truyền thống Nho giáo
ở Đông Á, Việt Nam thời tiền hiện đại có
nền giáo dục ít được đổi mới nhất, nặng nề
tính chất khoa cử nhất, chú trọng hình thức
truyền bá tri thức hơn là mục tiêu đào tạo tư
duy phát triển (tham khảo [92]-[95]). Người
Việt Nam có thói quen tiếp nhận Nho giáo,
thực thi chế độ đào tạo và tuyển dụng nhân
tài theo khuynh hướng thực tế, đáp ứng nhu
cầu chủ chốt là đào tạo nhân lực quản lí nhà
nước. Đó là kiểu đào tạo Nho học từ chương
(Nho học khoa cử). Nho sĩ Việt Nam xưa học
Tứ thư – Ngũ kinh là để làm quan, chỉ một
vài danh nho mới thực sự chuyên tâm nghiên
cứu, bổ khuyết cho học thuyết Nho gia hoặc
biến tấu và vận dụng cho phù hợp với thực
tiễn (tiêu biểu có Lê Quý Đôn, 1726-1784).
Hệ quả là giáo dục Việt Nam truyền thống
mang nặng tính giáo điều trong nhận thức
61
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
hướng nền giáo dục khai phóng và đa văn
hóa cho tương lai.
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
dân và quá trình thành nhân cách’, trong đó,
VHHĐ Việt Nam phải hun đúc cho được hệ
thống giá trị, niềm tin, hoài bão và lí tưởng
cao đẹp. Trần Quốc Thành [104, tr.16] phân
chia VHHĐ thành phần nổi (định hướng phát
triển của nhà trường, mục tiêu phát triển, các
giá trị mà nhà trường theo đuổi, khung cảnh
(cơ sở vật chất) của nhà trường) và phần chìm
(trạng thái tâm lí của các cá nhân, bầu không
khí tâm lí của nhà trường, thương hiệu của
nhà trường, sự thừa nhận các giá trị của nhà
trường). Tương tự, Lê Hiển Dương [105] xác
định hai yếu tố căn bản của VHHĐ gồm yếu
tố văn hóa mang giá trị hữu hình (vị trí địa lí,
kiến trúc, cơ sở hạ tầng, công nghệ, phòng
thí nghiệm, kí túc xá sinh viên, tác phẩm
nghệ thuật, biểu tượng, trang phục); yếu tố
văn hóa mang giá trị định hướng trách nhiệm
(chiến lược, mục tiêu, triết lí đào tạo); và yếu
tố văn hóa giá trị hạt nhân cốt lõi (các giá
trị được thừa nhận và phổ biến, ổn định và
gần như không thay đổi trong quá trình phát
triển của nhà trường). Nguyễn Minh [106]
và Đặng Văn Minh [107] khẳng định VHHĐ
bao trùm các giá trị cơ bản, chuẩn mực đạo
đức, mẫu hành vi của các thành viên (lãnh
đạo, giáo viên học sinh, cán bộ nhân viên),
trang phục, ngôn ngữ giao tiếp, khung cảnh
nhà trường, tình cảm, sự tôn trọng của các
thành viên với nhau (xem thêm [100, tr.17]).
Gần đây hơn, Phạm Văn Khanh [108] cho
rằng ‘VHHĐ là những giá trị, những kinh
nghiệm lịch sử của xã hội loài người đã tích
lũy trong quá trình xây dựng hệ thống giáo
dục và quá trình hình thành nhân cách’ [tr.5152]. Còn theo Phạm Ngọc Trung, VHHĐ
được xem là ‘một môi trường hoạt động đặc
biệt của con người, mang tính xã hội và
lịch sử. Tùy theo triết lí giáo dục của từng
thời đại hoặc của từng quốc gia mà người ta
có thể xây dựng những cấu trúc khác nhau’
[109, tr.25] (dẫn trong [110, tr.100]). Theo
Vũ Dũng [111], khái luận VHHĐ là ‘hành
vi ứng xử của các chủ thể tham gia hoạt
động đào tạo trong nhà trường, là lối sống
văn minh trong trường học’ [tr.33-9], VHHĐ
biểu hiện cụ thể ở các khía cạnh: ứng xử của
C. Xây dựng khái niệm văn hóa học đường
ở Việt Nam hiện nay
Trào lưu xây dựng khái niệm VHHĐ hiện
đại ở Việt Nam thực sự nở rộ trong hơn một
thập kỉ gần đây. Tác giả Phạm Minh Hạc từng
đưa ra định nghĩa: ‘VHHĐ là hệ các chuẩn
mực, giá trị giúp cán bộ quản lí nhà trường,
thầy cô giáo, các vị phụ huynh và các em học
sinh, sinh viên có các cách thức suy nghĩ, tình
cảm, hành động tốt đẹp’ [99]. Trước đó, tác
giả này từng cho rằng học đường là nơi biến
vốn học vấn thành vốn văn hóa, biến tri thức
và kĩ năng sống thành các giá trị nhân cách;
đồng thời, tác giả xác định ba khía cạnh quan
trọng các trường học ở Việt Nam cần chú ý
khi xây dựng VHHĐ gồm: (a) chú ý đến điều
kiện học tập, cơ sở vật chất của nhà trường;
(b) xây dựng môi trường giáo dục trong nhà
trường với sáu phẩm chất: kỉ cương, trung
thực, khách quan, công bằng, tình thương,
khuyến khích sáng tạo và hiệu quả; và (c)
xây dựng văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp
trong nhà trường với các chuẩn mực: ứng xử
văn minh, thân thiện, biết tôn trọng, quan
tâm đến người khác [99]. Các tác giả Hoàng
Quốc Đạt [100], Nguyễn Lộc, Nguyễn Việt
Hồng [101] cũng đồng tình với quan điểm
này.
Năm 2009, hội thảo khoa học Văn hóa học
đường: lý luận và thực tiễn được tổ chức ở Hà
Nội đã quy tụ khá nhiều tham luận, trong đó
một số tác giả đã mổ xẻ khái niệm VHHĐ.
Tác giả Hồ Bá Thâm [102] cho rằng VHHĐ
là tổ hợp của văn hóa dạy, văn hóa học và
văn hóa quản lí – phục vụ. Theo tác giả này,
VHHĐ phải là một dạng văn hóa mở, nó
mang tính kích thích sự sáng tạo của người
dạy và người học, vừa mang tính dân tộc
vừa mang hơi thở thời đại. Tác giả Thái Duy
Tuyên [103, tr.17-32] nhấn mạnh VHHĐ là
‘những giá trị, những kinh nghiệm lịch sử
của xã hội loài người được tích lũy trong
quá trình xây dựng hệ thống giáo dục quốc
62
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
người thầy với người học, ứng xử của người
học đối với người thầy, ứng xử giữa người
lãnh đạo nhà trường và giáo viên và ứng xử
giữa các đồng nghiệp với nhau (xem thêm
[100, tr.16]). Trong luận án Quản lý xây dựng
văn hóa nhà trường trung học cơ sở thành
phố Hồ Chí Minh, Hoàng Quốc Đạt [100, tr.
26] định nghĩa: ‘văn hóa nhà trường là các
giá trị vật chất và các giá trị tinh thần của
nhà trường được các thế hệ xây dựng, tích
lũy lại qua thời gian và có thể truyền lại cho
các thế hệ sau’.
Trong Giáo trình Văn hóa tổ chức vận
dụng vào phân tích văn hóa nhà trường,
Nguyễn Vũ Bích Hiền và cộng sự [112, tr.39]
tổng hợp các khái niệm của các tác giả
phương Tây và cho rằng: văn hóa nhà trường
‘là một tập hợp các chuẩn mực, các giá trị,
niềm tin và hành vi ứng xử’, ‘là những nét đặc
trưng riêng biệt tạo nên sự khác biệt của nhà
trường với các tổ chức khác và sự khác biệt
giữa trường này với trường khác’, ‘là những
giá trị tốt đẹp được hình thành bởi một tập thể
và được mỗi cá nhân trong nhà trường chấp
nhận’, đồng thời khẳng định rằng VHHĐ tốt
sẽ giúp định hướng các nhà trường đến mục
tiêu chuẩn chất lượng cao trong giáo dục.
Trần Ngọc Thêm [65] dùng bốn đặc trưng
cơ bản của văn hóa (tính hệ thống, tính giá
trị, tính nhân sinh và tính lịch sử) đế đánh giá,
phê phán các cách hiểu trên đây là ‘có những
chỗ bất ổn’. Chẳng hạn cách hiểu VHHĐ như
‘các nghi thức, cách thức dân gian, bộ luật
đạo đức; các giá trị, truyền thống, ngôn ngữ,
mục đích của Willard Waller [49], hay các
quy định không bắt buộc, các nghi thức và
truyền thống, các biểu tượng và hiện vật, biệt
ngữ và các cách diễn đạt đặc thù của Peterson
and Deal [74]; các hiện vật và chuẩn mực
hành vi; các thuật ngữ, các ẩn dụ, các nghi
thức của Jon Prosser [26] đều quá cụ thể,
thiếu tính khái quát nên vừa thừa vừa thiếu.
Trong khi đó, các cặp ‘chuẩn mực’ và ‘giá
trị’ của Phạm Minh Hạc [99], ‘giá trị’ và
‘kinh nghiệm’ của Phạm Văn Khanh [108]
là những khái niệm bao hàm nhau hoặc giao
nhau nên chúng không thể đặt cạnh nhau’.
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
Tác giả Trần Ngọc Thêm cho rằng để hiểu
đúng khái niệm VHHĐ, chúng ta cần phải
đưa nó về vị trí bộ phận của văn hóa, phải
hiểu là hệ thống các giá trị do các nhóm đối
tượng là con người tham gia vào các hoạt
động học đường kiến tạo và tích lũy qua các
quá trình học thuật cụ thể trong không gian
học đường. VHHĐ mang chức năng cụ thể
hóa triết lí giáo dục vốn chịu sự chi phối
của văn hóa, chính trị và kinh tế. Đồng thời,
cũng theo tác giả này, chúng ta không nên
đồng nhất hoàn toàn giữa VHHĐ và văn hóa
tổ chức (xem [113, tr.30-31]).
Dựa vào các phân tích so sánh giữa kinh
nghiệm phương Tây và truyền thống giáo dục
Việt Nam cũng như tham khảo các định nghĩa
của các tác giả nói trên, chúng tôi đề xuất
cách hiểu VHHĐ là hệ thống các giá trị
chuẩn mực được kiến tạo và không ngừng
hoàn thiện qua các quá trình tương tác, ứng
xử giữa nhà quản lí giáo dục, cán bộ giảng
viên, sinh viên và cộng đồng với nhau trong
hoạt động dạy và học và trong ứng xử với thế
giới bên ngoài nhằm xây dựng môi trường
học đường nhân văn lành mạnh, tạo tiền đề
phát huy hiệu quả truyền thống dạy và học
đặc thù của các đơn vị giáo dục hướng tới
đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực có đầy đủ
tài – trí – đức và có tư duy sáng tạo đa văn
hóa cho xã hội. Bên dưới bề mặt các hoạt
động dạy và học, nghiên cứu khoa học và
gắn kết chuyển giao khoa học ra ngoài xã
hội chính là các “dòng sông cảm xúc”, các
cung cách ứng xử theo chuẩn mực dân gian
cũng như các giá trị quy định nên diện mạo
và nội dung các công việc thường nhật cùng
góp phần hình thành nên diện mạo VHHĐ.
Các kinh nghiệm tại Mĩ, Anh, Pháp và Đức
trên đây cho thấy, VHHĐ Việt Nam không
thể rời ra trục chính của dòng chảy VHHĐ
thế giới. Đó là nền tảng lí luận xác định mục
tiêu cao nhất của giáo dục học đường là đào
tạo những bộ óc có tư duy khai phóng, sáng
tạo và có trách nhiệm. Bên cạnh phát huy
truyền thống lịch sử giáo dục, giáo dục Việt
Nam cần nắm bắt quy tắc và nhu cầu thị
trường (mô hình Mĩ), đặt mục tiêu đào tạo
63
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
Việt Nam đang trên đà phát triển mọi mặt
đời sống kinh tế – xã hội, nhu cầu phát triển
này càng đòi hỏi nhiều hơn ở quá trình nghiên
cứu – xây dựng hoạt động học đường tiến bộ,
hiệu quả. Việc nghiên cứu, xây dựng VHHĐ
ở Việt Nam hiện nay phải được xây dựng dựa
trên nền tảng tích hợp của hai yếu tố cốt lõi:
kinh nghiệm thế giới và tính đặc thù văn hóa
– xã hội Việt Nam. Kết quả khảo sát trên đây
cho thấy, thế giới không thiếu kinh nghiệm
nghiên cứu và ứng dụng các mô thức VHHĐ;
cái còn lại mang tính chủ quan hơn chính là
yếu tố nội sinh. Việc kết hợp nhuần nhuyễn
hai nguồn tri thức này chắc chắn sẽ cần đến
phương pháp luận và những phương pháp tích
hợp hợp lí, hiệu quả. Đây sẽ là những chủ đề
nghiên cứu tiếp theo trong tương lai. Trên hết,
việc xác định mục tiêu giáo dục cao nhất ở
nước ta hiện nay là hết sức cần thiết, bởi nó
quyết định thành bại của VHHĐ quốc gia.
song hành giữa tri thức, kĩ năng, thái độ và
hành vi, có chú trọng trau dồi năng lực tư
duy văn hóa (mô hình Pháp), tư duy đa văn
hóa (mô hình Anh, Mĩ). Trong so sánh tương
quan với các nước Âu-Mĩ, có lẽ truyền thống
nhân văn, coi trọng tinh thần tập thể và tính
tương tác xã hội chính là nét đặc sắc của
VHHĐ Việt Nam. Với nền VHHĐ hiện đại
được xây dựng hiệu quả, truyền thống nhân
văn, truyền thống tôn sư trọng đạo và vai trò
tập thể ở người học vẫn tiếp tục phát huy
bên cạnh những giá trị mới như khả năng
biết tư duy, tinh thần sáng tạo – khai phóng,
tinh thần trách nhiệm và tư duy đa văn hóa.
Kinh nghiệm tại Anh, Pháp và Đức còn chỉ ra
thêm rằng VHHĐ cũng phải mang màu sắc
quốc gia, bởi trên hết giáo dục có mục tiêu
phục vụ sự nghiệp quốc gia. Các yếu tố chi
phối hình thành màu sắc quốc gia bao gồm
truyền thống văn hóa, truyền thống giáo dục,
đường lối chính trị, mục tiêu giáo dục. Có
lẽ con đường vận động đổi mới giáo dục ở
Đức trong phân tích trên đây gợi ý nhiều nhất
cho mô hình phát triển giáo dục và VHHĐ
Việt Nam ở hiện tại và tương lai. Với Nghị
quyết Trung ương số 29-NQ/TW đã công bố,
ngành giáo dục Việt Nam hoàn toàn có cơ sở
lí luận và thực tiễn để xây dựng nền VHHĐ
tiến bộ, vừa phù hợp với dòng chảy chung
của thế giới vừa mang màu sắc Việt Nam.
V.
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ebert, Edward S. Maxwell, Darlene M. Culture X
goes to school: public education and the American
culture. Rowman & Littlefiled; 2015.
[2] Hargreaves D.H. The Mosaic of Learning: Schools
and Teachers for the Next Century. London: Demos;
1994.
[3] Deal T.E., Kennedy A. Corporate cultures: the rites
and rituals of corporate life. New York: AddisonWesley; 1982.
KẾT LUẬN
[4] Horowitz Helen Lefkowitz. Campus life – undergraduate cultures from the end of the eighteenth
century to the present. New York: Alfred A. Knopf;
1987.
VHHĐ là một trong những mắt xích quan
trọng của việc xây dựng nền học đường tiến
bộ và VHHĐ đã được các quốc gia Âu-Mĩ
quan tâm từ rất sớm. Chính nhờ vậy, các bình
diện của VHHĐ đã được các nhà nghiên cứu
phân tích, mổ xẻ thấu đáo. Trên cơ sở ấy,
các quốc gia, các thể chế giáo dục trên thế
giới đã và đang thừa hưởng những thành quả
ấy trong việc xây dựng mô hình VHHĐ phù
hợp cho riêng mình. Nếu như các nền giáo
dục châu Âu chú trọng tính bản sắc trong
giáo dục thì nước Mĩ bám chặt lấy quy tắc
thị trường lao động làm kim chỉ nam cho sự
nghiệp này.
[5] Tyler R.W. The study of campus cultures. In
Lunsford. T.F., editor. The study of campus cultures:
Western interstate commission for higher education.
Boulder, Colorado; 1963.
[6] Becker. H.S., Geer B., Hughes E.C., Strauss A.L.
Boys in white: Student culture in medical school.
Chicago: University of Chicago Press; 1961.
[7] Bushnell John H. Student Culture at Vassar. In
Nevitt Sanford & Joseph Adelson, editors. The
American college: A psychological and social interpretation of the higher learning,. John Wiley &
Sons Inc. 1962.
[8] Becher T. Academic tribes and territories: Intellectual enquiry and the cultures of disciplines. Milton
Keynes: SRHE & Open University Press; 1989.
64
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
[26] Prosser J. The evolution of school culture research.
In J. Prosser, editor. School culture. London: Paul
Chapman, 1999: 1-29.
[27] Connell R.W. Masculinities. Cambridge: Polity
Press; 1955.
[28] Argyris C. Personality and Organization: the Conflict between System and the Individual. New York:
Harper; 1957/1958.
[29] Halpin A.W. and Croft, D.B. The organisational
climate of schools. Chicago: University of Chicago;
1963.
[30] Coleman J.S, Cambell E, Hobson C, McPartland
J, Mood A, Weinfeld F, York R. Equality of Educational Opportunity. Washington: National Cen-tre
for Educational Statistics; 1966.
[31] Plowden Committee. Children and their primary
schools. London: HMSO; 1967.
[32] Berstein Basil. Towards a theory of educational
transmissions (Class, codes and control). Routledge;
1970/2003.
[33] Averch H. How effective is schooling?. Santa Monica: Rcah Corporation; 1971.
[34] Brookover W. B., Schweitzer J. H., Schneider J.
M., Beady C. H., Flood P. K., Wisenbaker J.
M. Elementary School Social Climate and School
Achievement. American Educational Research Journal. 1978;15(2):301-318.
[35] Edmonds R.R. Some schools work and more can.
Social Policy. 1979;9:28-32.
[36] Webb R., Vulliamy G. Impact of ERA on primary
school management. British Educational Research
Journal.1996;22(4):441-458.
[37] Finlayson D. S., Banks O., Loughran J.L. School
Climate Index: teacher perception questionnaires.
Slough: National Foundation for Educational Research; 1972.
[38] Dey I. Qualitative Data Analysis. London: Routledge; 1993.
[39] Smith D., Tomlinson S. The school effect: a study of
multi-racial comprehensives. London: Policy Studies
Institute; 1989.
[40] Deal T.E., Kennedy A. Culture and school performance. Educational Leadership. 1983;40(5):140141.
[41] Perrow C. Zoo story or life in the organisational
sandpit. In Perspectives on organisations, DT 352
Units 15 and 16, Milton Keynes: Open University
Press; 1974.
[42] Power Sally, Whitty Geoff. Market forces and school
cultures. In Jon Prosser, editor. School culture.
SAGE Publications; 1999.
[43] Hillgate Group. The Reform of British Education.
London: Claridge Press; 1987.
[44] Whitty G., Power S., Halpin D. Devolution and
choice in education: the school, the state and
the market. British journal of educational studies.
1999;47(1):99-101.
[9] Becher T. The cultural view. In: B.R. Clark editor.
Perspectives on higher education: eight disciplinary
and comparative views. University of California
Press, Berkeley, Los Angeles. London; 1987.
[10] Valimaa Jussi. Cultural studies in higher education
research. In Lunsford. T.F editor. Cultural persectives on higher education. Springer; 2008.
[11] Peters, Thomas J. Waterman, Robert H. In search of
excellence: lessons from America’s best run companies. New York: Harper & Row; 1982.
[12] Hofstede Geert, Hofstede Geart Jan. Cultures and
civilizations: software of the mind. McGraw-Hill;
2005.
[13] Clark, B.R.. Faculty cultures. In Terry F. Lunsford,
editor. The study of campus cultures. Boulder, Colorado: Western Interstate Commission for Higher
Education; 1963.
[14] Riesman D., Jencks C. The viability of the American
college. In N. Sanford, editor. The American college.
A psychological and social interpretation of the
higher learning. New York: Wiley; 1963.
[15] Yamamoto Kaoru. The college student and his culture. Houghton Mifflin Company; 1968.
[16] Levine D.U., Lezotte L.W. Unusually effective
schools: a review and analysis of research and
practice. Madison: National Center for Effective
Schools Research and Development; 1990.
[17] Rutter M. Maughan, B. Mortimore, P. Ouston, J.
Fifteen thousand hours: secondary schools and their
effects on children. London: Open Books; 1979.
[18] Deal T.E., Peterson K.D. Shaping school culture:
the heart of leadership. San Francisco: Jossey-Bass
Publishers; 1999.
[19] Clark B.R. The distinctive college: Reed, Antioch
and Swarthmore. Chicago: Aldine; 1970.
[20] Cai Yuzhuo. Quantitative assessment of organisational cultures in post-merger universities. In
Jussi Valimaa and OiliHelena Ylijoki, editors. Cultural perspectives on higher education. Dordrecht:
Springer Netherlands; 2008.
[21] Tierney William G. Trust and organizational culture
in higher education. In J.Valimaa & O.-H. Ylijoki,
editors. Cultural persectives on higher education.
Springer. 2008.
[22] Snow C.P. The two cultures: a second look. In
S Collini, editor. C.P. Snow: The two cultures.
Cambridge: Cambridge University Press; 1993. First
printing 1964.
[23] Collini S. Introduction. In C.P. Snow, the two
cultures. Cambridge: Cambridge University Press;
1993.
[24] Kuhn T.S. The structure of scientific revolutions. The
2nd edition, enlarged. Chicago: The University of
Chicago Press; 1970.
[25] Toulmin S. Cosmopolis. The hidden agenda of
modernity. Chicago: The University of Chicago
Press; 1992.
65
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
[45] Anthony P. Managing culture. Buckingham: Open
University Press; 1994.
[46] Seihl C. After the founder: an opportunity to manage
culture. In Frost P., Moore L., Louis M., Lundberg
C., Martin J., editors. Organisational culture. Beverly
Hills: Sage; 1985.
[47] Martin J. Can organisational culture be managed?.
In Frost P., Moore L., Louis M., Lundberg C.,
Martin J. editors. Organisational Culture. Beverly
Hills: Sage; 1985.
[48] Schein E.H. Organizational culture and leadership.
The 2nd edition. London: Jossey-Bass; 1997.
[49] Waller Willard. The sociology of teaching. New
York: Wiley; 1932.
[50] Jackson P. Life in Classrooms. New York: Holt
Rinehart; 1968.
[51] Hargreaves D.H. The Mosaic of Learning: Schools
and Teachers for the Next Century. London: Demos;
1994.
[52] Rudduck J., Chaplain R., Wallace G. School improvement: what can pupils tell us?. London: David
Fulton; 1996.
[53] Nias J., Southworth, G., Yeomans R. Staff relationships in the primary school: A study of organisational cultures. London: Cassell; 1989.
[54] Schein Edgar H. Organizational culture and leadership. San Francisco: Jossey-Bass. 1985.
[55] Fink D. The Attrition of Change. Unpublished doctoral thesis, Milton Keynes: Open University. 1997.
[56] Stoll L, and Fink D. Changing our schools: linking
school effectiveness and school improvement. Buckingham: Open University Press; 1996.
[57] Zolberg Aristide R. & Zolberg, Vera L. The regimentation of bourgeois culture: public secondary
schools in modern France. Comparative education
review. 1971; 15(3): 330-345.
[58] Robinson W. Peter, Tayler Carol A., Piolat Michel.
School attainment, self-esteem and identity: France
and England. European Journal of Social Psychology. 1990;20(5):387-403.
[59] Clark B.R. The higher education system: academic
organization in cross-national perspective. Berkeley:
University of California Press; 1983.
[60] Huther & Krucken. Higher education in Germany—recent developments in an international perspective. Cham: Springer International Publishing:
Imprint: Springer; 2018.
[61] Llana Sara Miller. A very French reason for going to
the opera: to get a better job. The Christian Science
Monitor. Boston, Mass; 2016.
[62] Keck O. The national system for technical innovation
in Germany. In R.R. Nelson, editor. National innovation systems: a comparative analysis. Wiesbaden:
VS Verlag; 1993.
[63] Geertz Clifford. The interpretation of cultures. New
York: Basic Books; 1973.
[64] Vũ Đăng Minh, Nguyễn Thế. Tìm hiểu khái niệm
[65]
[66]
[67]
[68]
[69]
[70]
[71]
[72]
[73]
[74]
[75]
[76]
[77]
[78]
[79]
[80]
[81]
[82]
66
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
về văn hóa và một số khái niệm liên quan. Kỹ năng
nghiệp vụ công tác văn hóa-xã hội ở xã, phường,
thị trấn. Hà Nội: Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia;
2016.
Trần Ngọc Thêm. Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam.
Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà Xuất bản Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh; 2001.
Boas Franz. Primitive Minds. The Macmillan Company; 1911.
Kroeber A.L., Kluckhohn C. Culture. A critical review of concept and definitions. New York: Vintage
Books, A Division of Random House; 1952.
Deal T.E., Kennedy A. Corporate cultures: the rites
and rituals of corporate life. New York: AddisonWesley; 1982.
Bower M. Will to manage. New York: McGraw-Hill;
1966.
Deal T.E., Peterson K.D. Shaping school culture.
Third edition. San Francisco, California: JosseyBass; 2016.
Renchler R. Student motivation, school culture and
academic achievement: What school leaders can do.
Trend & Issues. Eugene, OR: ERIC Clearinghouse
on Educational Management; 1992.
Stolp Stephen. Leadership for School Culture. ERIC
Clearinghouse on Educational Management Eugene
OR; 1994.
Deal Terrence E, Peterson, K.D. The principal’s role
in shaping school culture. Washington, D.C.: U.S.
Department of Education, Office of Educational
Research and improvement; 1990.
Peterson Kent D., Deal, Terrence E. The shaping
school culture fieldbook. San Francisco: JosseyBass; 2002.
Peterson K.D., Deal, T.E. Shaping School Culture:
Pitfalls, Paradoxes and Promises. John Wiley &
Sons; 2010.
Fullan M. Leadership for the 21st century: breaking
the bonds of dependency. Educational Leadership.
1998; (April): 6-10.
Rossman, G.B., Corbett H.D., Firestone W.A.,
Change and effectiveness in schools. Albany: State
university of New York Press; 1988.
Wilson E.K. Sociology: rules, roles, and relationships. Homewood, Illinois: Dorsey. 1971.
Newmann F.M., Associates. Authentic instruction:
restructuring schools for intellectual quality. San
Francisco: Jossey-Bass; 1996.
Gruenert Steve, Whitaker Todd. School culture
rewired: how to define, assess and transform it.
Alexandria, Virginia: ASCD; 2015.
Bryk A., Lee V.E., Holland P.B. Catholic school
and the common good. Cambridge, Massachusetts:
Harvard University Press; 1993.
Hofstede Geert, Hofstede, Geart Jan. Cultures and
civilizations: software of the mind. McGraw-Hill;
2005.
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
[97] Wolters Oliver W. Two essays on Đại-Việt in the
fourteenth century. Council on Southeast Asia Studies & Yale Center for International and Area Studies;
1988.
[83] Wren D. School culture: Exploring the hidden curriculum. Adolescence. 1999; 34(135):593-6.
[84] Hellriegel, Don, Slocum, John. Organizational
climate: Measures, research and contingencies.
Academy of Management Journal. 1974; 17(2):25580.
[98] Nguyen Ngoc Tho. Confucianism and humane education in contemporary Vietnam. International Communication on Chinese Culture. 2016;3(4):645-671.
[85] Tierney William G. Organizational culture in higher
education: defining the essentials. The journal of
higher education. 1988;59(1):2-21.
[99] Phạm Minh Hạc. Giáo dục giá trị xây dựng văn hóa
học đường. Trong Kỉ yếu Hội thảo khoa học Văn
hóa học đường: lý luận và thực tiễn. Hà Nội: Hội
Khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam; 2009.
[86] Trần Phú Huệ Quang. Vấn đề quan tâm “văn hóa
hiệu viên” bậc đại học ở Trung Quốc. Trong Kỉ yếu
Hội thảo Xây dựng Văn hóa học đường Việt Nam
(bậc đại học) thời kỳ phát triển và hội nhập. Thành
phố Hồ Chí Minh: Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh; tháng 4/2018.
[100] Hoàng Quốc Đạt. Quản lý xây dựng văn hóa nhà
trường trung học cơ sở Thành phố Hồ Chí Minh
[Luận án Tiến sĩ Quản lí giáo dục]. Hà Nội: Học
viện Khoa học Xã hội; 2018.
[101] Nguyễn Lộc, Nguyễn Việt Hồng. Văn hóa tổ chức ở
trường đại học. Trong Kỉ yếu Hội thảo Xây dựng Văn
hóa học đường Việt Nam (bậc đại học) thời kỳ phát
triển và hội nhập. Thành phố Hồ Chí Minh: Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; tháng 4/2018.
侯長林. Lượt luận văn hóa hiệu
校園文化略論. Nhà Xuất bản Giáo dục Quý
貴州教育出版社; 1991.
Y Tú Hiệp 衣秀俠. Hoạt động văn hóa hiệu viên
lành mạnh là con đường hữu hiệu nâng cao tố chất
công nhân viên giáo dục cao đẳng 健康的校園文
化活動是提高教職工素質的有效途徑》北京大學
教育評論. Bình luận giáo dục Đại học Bắc Kinh –
Chuyên san Quản lí giáo dục cao đẳng 高等教育管
理專刊; 2005.
Cát Ái Dân 吉愛民. Bước đầu tìm hiểu xây dựng và
đặc trưng văn hóa hiệu viên đại học 大學校園文化
的特徵解讀與構建初探. Giáo dục cao đẳng Trung
Quốc 中國高等教育; 2010.
Phan Đạo Lan 潘道蘭. Xây dựng văn hóa hiệu viên,
tăng cường thực lực văn hóa trường học 建設校園
文化,增強高校文化軟實力. Trong Giáo dục cao
đẳng Trung Quốc 中國高等教育; 2009.
Sử Khiết, Kí Luân Văn, Chu Tiên Kỳ 史潔、冀倫
文、朱先奇. Nội hàm và kết cấu của văn hóa hiệu
viên 校園文化的內涵及其結構. Nghiên cứu giáo
dục cao đẳng Trung Quốc 中國高教研究; 2005 (5).
[87] Hầu Trường Lâm
viên
Châu
[88]
[89]
[90]
[91]
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
[102] Hồ Bá Thâm. Bàn về xây dựng văn hoá học đường.
Trong Kỉ yếu Hội thảo khoa học Văn hóa học đường:
lý luận và thực tiễn. Hà Nội: Hội Khoa học Tâm lý
– Giáo dục Việt Nam; 2009.
[103] Thái Duy Tuyên. Tìm hiểu tư tưởng văn hóa học
đường của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Kỉ yếu
Hội thảo khoa học Văn hóa học đường: lý luận và
thực tiễn. Hà Nội: Hội Khoa học Tâm lý – Giáo dục
Việt Nam; 2009.
[104] Trần Quốc Thành. Các biểu hiện của văn hóa học
đường ở trường phổ thông. Trong Kỉ yếu Hội thảo
khoa học Văn hóa học đường: lý luận và thực tiễn.
Hà Nội: Hội Khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam;
2009.
[105] Lê Hiển Dương. Định hướng xây dựng và phát triển
văn hóa trường đại học trong thời kỳ hội nhập. Trong
Kỉ yếu Hội thảo khoa học Văn hóa học đường: lý
luận và thực tiễn. Hà Nội: Hội Khoa học Tâm lý –
Giáo dục Việt Nam; 2009.
[92] McHale Frederick Shawn. Print and Power: Confucianism, communism and Buddhism in the making
of modern Vietnam. Honolulu: University of Hawaii
Press; 2004.
[106] Nguyễn Minh. Bàn về văn hóa học đường Việt Nam
hiện đại. Trong Kỉ yếu Hội thảo khoa học Văn hóa
học đường: lý luận và thực tiễn. Hà Nội: Hội Khoa
học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam; 2009.
[93] O’Harrow Stephen. Nguyen Trai’s “Binh Ngo Dai
Cao” of 1428: The development of a Vietnamese
national identity. Journal of Southeast Asian Studies.
1979; 10(1): 159-74.
[107] Đặng Văn Minh. Văn hóa và văn hóa học đường.
Trong Kỉ yếu Hội thảo khoa học Văn hóa học đường:
lý luận và thực tiễn. Hà Nội: Hội Khoa học Tâm lý
– Giáo dục Việt Nam; 2009.
[94] Phan Đại Doãn (chủ biên). Một số vấn đề về Nho
giáo Việt Nam. Hà Nội: Nhà Xuất bản Chính trị
Quốc gia. 1998.
[108] Phạm Văn Khanh. Văn hóa học đường: bản chất, nội
dung, mô hình và biện pháp xây dựng. Tạp chí Khoa
học Trường Đại học Đồng Tháp. 2015(16):51-56.
[95] Woodside Alexander. Classical primordialism and
the historial agendas of Vietnamese Confucianism.
In Benjamin A. Elman, John B. Duncan, Herman
Ooms, eidtors. Rethinking Confucianism: past and
present in China, Japan, Korea, and Vietnam. Los
Angeles: UCLA Asian Pacific Monograph Series;
2002.
[109] Phạm Ngọc Trung. Văn hóa học đường, cấu trúc và
quan hệ. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật. 2010;(315).
[110] Huỳnh Quốc Thắng. Chức năng văn hóa đại học
tiếp cận từ góc nhìn văn hóa học. Trong Kỉ yếu Hội
thảo Xây dựng Văn hóa học đường Việt Nam (bậc
đại học) thời kì phát triển và hội nhập. Thành phố
Hồ Chí Minh: Trường Đại học Khoa học Xã hội
[96] Nguyễn Ngọc Thơ. Giáo dục nhân văn ở Việt Nam
xưa và nay. Tạp chí Văn hóa học. 2014;2(12):19-29.
67
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh. tháng 4/2018.
[111] Vũ Dũng. Văn hóa học đường – Nhìn từ khía cạnh
lý luận và thực tiễn. Trong Kỉ yếu Hội thảo khoa
học Văn hóa học đường: lý luận và thực tiễn. Hà
Nội: Hội Khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam;
2009: 33-39.
[112] Nguyễn Vũ Bích Hiền (chủ biên), Nguyễn Thị Minh
Nguyệt, Nguyễn Xuân Thanh. Giáo trình Văn hoá
tổ chức vận dụng vào phân tích văn hóa nhà trường.
Hà Nội: Nhà Xuất bản Đại học Sư phạm; 2017.
[113] Trần Ngọc Thêm. Hệ giá trị Việt Nam từ truyền
thống đến hiện tại và hướng tới tương lai. TP. Hồ
Chí Minh: Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ; 2015.
68
VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT