Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển T12 (2012). Số 4. Tr 52 - 61
PHÂN BỐ VÀ QUÁ TRÌNH VẬN CHUYỂN CỦA TRỨNG CÁ VÀ CÁ BỘT CỦA
LOÀI CÁ CƠM SỌC XANH (Encrasicholina punctifer) Ở VÙNG NƯỚC TRỒI
NAM TRUNG BỘ, VIỆT NAM
VÕ VĂN QUANG, TRẦN VĂN CHUNG
Viện Hải dương học Nha Trang
Tóm tắt: Phân bố trứng cá và cá bột của loài cá cơm sọc xanh cho thấy sự khác nhau
giữa các tháng 7/2003, 4/2004, 7/2004 và 3/2005 ở vùng nước trồi phía Nam Việt Nam.
Quá trình nước trồi đã tác động đến sinh sản của cá cơm sọc xanh, biểu hiện là mật độ
trứng cao trong thời kỳ nước trồi hoạt động (tháng 6 - 8). Trứng cá của cá cơm sọc xanh
phong phú trong tất cả các tháng thu mẫu nhưng cao nhất vào tháng 7 năm 2003 và 2004.
Mật độ cao của trứng cá nằm ở các trạm ven bờ (trạm 41, 42, 51, 52, 62, và 63). Quá trình
nước trồi đã kích thích đến loài cá cơm sọc xanh đẻ, điển hình mật độ trứng vào tháng 7 8 cao hơn tháng 3 - 4. Sự phân bố của cá bột không đồng nhất với vùng phân bố trứng cá,
chứng tỏ có sự tác động của dòng chảy qua quá trình khuếch tán, vận chuyển và đưa cá
bột đến khu vực ven bờ (các đảo và vịnh) nơi ương dưỡng thuận lợi cho cá con trong quá
trình bổ sung cho quần thể cá cơm sọc xanh.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiều đàn cá biển được cho là có quan hệ với suốt giai đoạn ấu thể phù du của chúng, đó
là những cá thể cá bột và cá con phân tán từ bãi đẻ đến các bãi ương dưỡng [3]. Dấu hiệu của
quá trình này được Hjor [1] ghi nhận bằng những thay đổi độ phong phú các đàn cá liên quan
rất lớn từ tỉ lệ sống của nhóm cá mới được sinh ra trong năm mà trước khi chúng bổ sung cho
quần đàn và bắt đầu được khai thác. Ông cũng đề xuất rằng (1) Sự vận chuyển đến bãi ương
dưỡng từ bãi đẻ và (2) phần lớn cá bột bị chết do thiếu thức ăn khi chúng bắt đầu bắt mồi là
những nguyên nhân tiềm tàng cho sự khác nhau mức độ phong phú các đàn cá trong các năm.
Cơ chế sự vận chuyến, sự lưu giữ nguồn giống và mùa vụ sinh sản đã được ứng dụng và trở
nên quan trọng đối với nghiên cứu cá biển, nó được đề cập trong nhiều tài liệu. Cơ sở lý
thuyết của quá trình vận chuyển ấu thể cá là sự thay đổi phân bố địa lý của cá bột liên quan tới
các bãi đẻ và có hay không sự tác động các yếu tố môi trường lên số lượng sống sót đến khi
thành thục [15].
Hệ thống nước trồi đóng góp chính trong sản lượng nghề cá của thế giới, chiếm 25,1%
tổng sản lượng cá khai thác ở biển trong giai đoạn 1985 - 1991 [14]. Quá trình nước trồi kích
thích các đàn cá cơm sinh sản thông qua các đặc trưng hải dương, sinh học và môi trường, sự
khác nhau về đặc trưng môi trường và năng suất sinh học giữa các khối nước ở các độ sâu
khác nhau; nhất là năng suất sinh học sơ cấp và các yếu tố môi trường sống thuận lợi ở lớp
nước bề mặt. Tuy nhiên mối quan hệ này không phải là một đường thẳng, cường độ nước trồi
ở mức trung bình là thích hợp cho sự sinh sản cá bố mẹ và ương dưỡng cá bột [3]. Các quá
trình môi trường và sinh học vùng nước trồi có vai trò quan trọng đến sự sống sót và bổ sung
ở giai đoạn đầu của cá vào quần thể.
52
Vùng nước trồi nằm ngoài khơi khu vực Nam Trung bộ đã được ghi nhận vào mùa gió
Tây Nam và đã được nhiều tác giả nghiên cứu về phạm vi, đặc điểm của nó, với dòng
chảy tầng mặt về hướng Đông - Đông Bắc bao trùm hết thềm lục địa, tác động trên toàn
bộ mặt biển. Tốc độ trung bình của dòng chảy tăng dần theo hướng từ bờ ra khơi cho đến
một dải giá trị cực đại là luồng chảy mạnh [6, 7, 20].
Cá cơm sọc xanh là loài cá nhỏ sống ven bờ có sản lượng khai thác khá lớn, là một
trong những loài cá biển có giá trị kinh tế, chúng được chế biến thành nước mắm, phơi
khô hoặc ăn tươi. Loài cá cơm sọc xanh có sản lượng khá lớn ở các địa phương gần vùng
nước trồi Nha Trang, Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết [12].
Kết quả bài báo phân tích sự phân bố trứng cá và cá bột về mặt không gian, thời gian
và mô phỏng về sự vận chuyển cá bột của chúng dưới tác động quá trình thủy động lực
làm phong phú thêm về ý nghĩa nước trồi đối với nguồn lợi thủy sản nói chung và cá nói
riêng, cũng như quá trình bổ sung quần đàn cá của loài cá cơm sọc xanh trong hệ sinh thái
này ở vùng biển Nam Trung bộ.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Hình 1. Sơ đồ các vị trí trạm thu mẫu các chuyến khảo sát theo tháng
53
Tiến hành thu mẫu trên vùng biển Nam Trung bộ, từ Phú Yên đến Bình Thuận, trong 4
chuyến thuộc chương trình hợp tác Việt Nam - Đức; vào tháng 7/2003 , 4/2004, 7/2004 và
3/2005. Khu vực lựa chọn phân tích nằm trong khung màu vàng (hình 1)
Thu thập mẫu bằng lưới tầng mặt: có dạng hình chóp tứ giác, dùng vớt mẫu ở tầng mặt.
Miệng lưới hình chữ nhật: có chiều dài 90cm, rộng 56cm, diện tích miệng lưới 0,5m2.
Chiều dài toàn bộ là 269cm. Dùng vải lưới số 22 (1cm chiều dài có 21 - 22 lỗ, 1cm2 có
460 lỗ mắt lưới), kích thước mỗi mắt lưới là 330m. Lưới được kéo trên tầng mặt với vận
tốc 2 - 4 km/giờ. Mỗi mẻ lưới thu mẫu đều có gắn lưu tốc kế trên miệng lưới để tính thể
tích nước qua lưới.
Phân loại trứng cá và cá bột cá cơm sọc xanh dựa trên tài liệu [4, 9, 10, 13, 21].
Mô phỏng vận chuyển của trứng cá loài cá cơm sọc xanh dựa trên mô hình dòng chảy
tầng mặt theo mô hình 3 chiều bằng phương pháp phần tử hữu hạn. Một mạng lưới tam
giác được thiết lập với mức độ phù hợp với đặc điểm địa hình khu vực (hình 2). Dòng
chảy tầng mặt tổng hợp vào thời kỳ gió mùa Tây Nam (được tính trung bình theo tháng từ
năm 1996 - 2008) (hình 3), các phương pháp tính [2]. Mô hình giả định rằng trứng được
cá mẹ đẻ tại bãi đẻ, dưới tác động dòng chảy, sẽ được vận chuyển và khuếch tán theo dạng
hạt, giả thuyết được đưa ra là các phần tử trong mô hình thay thế cho trứng cá và số phân
tử được thả là 5.000 tương đương 5.000 trứng tại một vị trí. Thời gian ấp trứng từ khi đẻ
đến khi nở được tính xấp xỉ 30 giờ, cá bột ở giai đoạn noãn hoàng sau khi nở là 13 giờ, cá
bột chưa hình thành vây đuôi sau khi hấp thu hết noãn hoàng là 96 giờ [18]. Các thông số
sinh học như mức chết của trứng, tác động sinh học nội tại của trứng và phát triển cá bột ở
giai đoạn chưa hình thành vây đuôi không ảnh hưởng đến quá trình vận chuyển.
Hình 2. Mạng lưới tam giác thiết lập cho mô hình vận chuyển trứng cá
ở vùng nước trồi Nam Trung bộ
54
Hình 3. Dòng chảy tầng mặt trong mùa gió Tây Nam sử dụng cho mô hình vận chuyển
trứng cá ở vùng nước trồi Nam Trung bộ
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Phân bố trứng cá và cá bột.
Vào tháng 7/2003, trứng cá xuất hiện tại các vị trí ven bờ như trạm 41 và 51, cá bột
ngoài khu vực tập trung ở ven bờ giống như trứng cá chúng còn xuất hiện mật độ khá cao
ở khu vực ngoài khơi là trạm 13. Các khu vực khác đều có mật độ rất thấp (hình 4). Trong
tháng 4/2004, trứng cá tập trung dọc theo các trạm ven bờ như 41, 51 và 62, nhưng cá bột
xuất hiện ở các trạm ngoài khơi là trạm 55 và 66 (hình 4). Vào tháng 7/2004, trứng cá
cũng có xu hướng phân bố vùng ven bờ giống như vào tháng 7/2003 ở khu vực cá trạm:
41, 42, 62 và 63. Cá bột phân bố trong khu vực như trứng cá ở tầng mặt, nhưng ở lưới
thẳng đứng cho thấy cá bột lại xuất hiện từ 10 - 30 con/100m3 ở các trạm ngoài khơi 55,
56 và 65 (hình 5). Vào tháng 3/2005, trứng cá cũng có xu hướng phân bố dọc theo ven bờ
(các trạm 21, 31, 41, 51 và 62), cá bột có mật độ rất thấp, xuất hiện ven bờ và ở các trạm
42 và 52 xa bờ hơn trong lưới thẳng đứng (hình 5).
55
Hình 4. Phân bố trứng cá và cá bột cá cơm sọc xanh vào tháng 7/2003 và 4/2004
(điểm là trứng cá và đường đẳng là cá bột)
Hình 5. Phân bố trứng cá và cá bột cá cơm sọc xanh vào tháng 7/2004 và 3/2005
(điểm là trứng cá và đường đẳng là cá bột)
2. Vận chuyển của trứng cá
Kết quả thực nghiệm mô hình vận chuyển trứng cá và cá bột ở giai đoạn đầu của cá bột
sau 144 giờ (6 ngày). Khu vực thả nằm ở khu vực thu được nhiều trứng vào tháng 7 năm
2003 và 2004. Sau 6 giờ các phần tử nằm ở vị trí thả ban đầu, do chưa có lực phân tán của
nước và gia tốc dòng chảy. Sau 48 giờ dưới tác động của dòng chảy chúng được đưa lên
hướng Bắc ven theo vùng bờ, đến 84 giờ các phần tử phân tán ra xung quanh trong quá
trình di chuyển, một số phần tử được đưa vào vùng ven bờ phía Bắc Ninh Thuận, Cam
Ranh, vịnh Nha Trang và cửa vịnh Vân Phong. Các phần tử còn lại được đưa ra vùng khơi
(hình 6 - 11).
56
Hình 6. Kết quả mô phỏng vận chuyển
trứng cá cá cơm sọc xanh
vào mùa gió Tây Nam ở vùng nước trồi
Nam Trung bộ sau 6 giờ
Hình 7. Kết quả mô phỏng vận chuyển
trứng cá cá cơm sọc xanh vào mùa gió Tây
Nam ở vùng nước trồi Nam Trung bộ sau
24 giờ, phần tử bắt đầu di chuyển
Hình 8. Kết quả mô phỏng vận chuyển
Hình 9. Kết quả mô phỏng vận chuyển
trứng cá cá cơm sọc xanh vào mùa gió Tây trứng cá cá cơm sọc xanh vào mùa gió Tây
Nam ở vùng nước trồi Nam Trung bộ sau Nam ở vùng nước trồi Nam Trung bộ sau
96 giờ, màu đỏ là phần tử phát tán
48 giờ, màu đỏ là phần tử phát tán
57
Hình 10. Kết quả mô phỏng vận chuyển
trứng cá cá cơm sọc xanh
vào mùa gió Tây Nam ở vùng nước trồi Nam
Trung bộ sau 144 giờ, màu đỏ là phần tử thả
ban đầu và màu đen là phần tử được đưa vào
vùng ven bờ
Hình 11. Kết quả mô phỏng vận chuyển
trứng cá cá cơm sọc xanh
vào mùa gió Tây Nam ở vùng nước trồi
Nam Trung bộ sau 240 giờ, màu đỏ là
phần tử được thả và màu đen là phần tử
được đưa vào vùng ven bờ
3. Thảo luận
Dựa vào kết quả thu được các tháng ở thời kỳ chuyển mùa (tháng 3, 4) và gió mùa Tây
Nam chính (tháng 7) cho thấy rằng mật độ trứng cá và cá bột khá cao trong mùa gió Tây
Nam chính (tháng 7); thời kỳ có nước trồi hoạt động, ở các tháng này vận tốc và cường độ
gió cũng có thể khác nhau từng năm, do đó hoạt động nước trồi cũng khác nhau. Quá trình
nước trồi vùng biển này còn chịu tác động của khối nước từ sông Mê Kông [19]. Ngược
lại vào các tháng 4/2004 mật độ trứng cá và cá bột có xu hướng thấp hơn tháng 7/2004,
vào tháng 3/2005 có mật độ thấp nhấp. Tuy nhiên vào tháng 07/2003 mật độ trứng cá lại
tương đối thấp (hình 12), theo kết quả phân tích, thì năm 2003 là năm có hiện tượng El
Niño yếu với nhiệt độ nước tầng mặt vùng Biển Đông khá cao đã ảnh hưởng đến cường độ
nước trồi [5, 6]. Loài cá cơm sọc xanh sinh sản quanh năm, có hai đỉnh chính là tháng 3 5 và tháng 9 - 11 [8]. Mật độ trứng cá loài cá cơm sọc xanh trong vịnh Nha Trang cũng
thấy mùa đẻ từ tháng 3 - 5 và tháng 9 - 11; tương ứng với các tháng các mật độ trứng cá
cao [16]. Từ kết quả cho thấy rằng khu vực nước trồi có mật độ trứng cá và cá bột của loài
cá cơm sọc xanh khá cao, từ đó có thể nhận định nước trồi với các điều kiện môi trường và
sinh học thuận lợi đã kích thích cá đẻ trứng vào thời kỳ nước hoạt động mạnh. Kết quả
này là cơ sở để đánh giá vai trò và ý nghĩa nước trồi đối với sự sinh sản của cá, nó cũng
phù hợp với nhận định về quá trình nước trồi đã kích thích thêm một đỉnh sinh sản nữa đối
với cá [11]. Sự tác động của nước trồi đến mức độ đẻ trứng, bãi đẻ của cá bố mẹ và phân
58
bố của trứng cá và cá bột có thể xê dịch về mặt không gian; tuy nhiên xu hướng chung cho
thấy bãi đẻ của loài cá cơm sọc xanh tập trung dải ven bờ, trong khi đó cá bột tập trung ở
các khu vực rìa của tâm nước trồi. Sự phân bố tập trung của trứng cá hay bãi đẻ của cá bố
mẹ ở ven bờ là phù hợp với kết quả phân tích về phân bố trứng cá loài cá cơm sọc xanh từ
Khánh Hoà đến Bà Rịa-Vũng Tàu [18].
120
Trứng cá
Mật độ (n/100m3)
100
Cá bột
80
60
40
20
0
7/2003
4/2004
7/2004
3/2005
Tháng
Hình 12. So sánh mật độ trứng cá và cá bột cá cơm sọc xanh ở các chuyến khảo sát
Sự vận chuyển và phân tán có ý nghĩa nhất định trong việc đưa cá bột đến các khu vực
ương dưỡng có điều kiện sống thích hợp cho phát triển con non. Kết quả mô hình vận
chuyển trứng cá và cá bột cho thấy chúng được dòng nước đưa vào vùng ven bờ, nơi có
các rạn, đảo, vũng vịnh, là những nơi ương dưỡng thuận lợi cho cá con. Sự xuất hiện cá
bột với mật độ cao ở vùng ngoài khơi vào tháng 7/2003 có khả năng do dòng chảy đưa
trứng cá từ bờ ra khơi. Mô hình vận chuyển trứng cá và cá bột cá cơm sọc xanh bước đầu
chỉ mô phỏng thời kỳ gió mùa Tây Nam (tháng 7 - 8) vào năm 2003 - 2004, cho kết quả
tương đồng với kết quả về hoạt động mùa gió Tây Nam yếu [6].
IV. NHẬN XÉT
Trứng cá tập trung ở các trạm khu vực ven bờ Ninh Thuận - Khánh Hòa, mật độ trứng
cá và cá bột loài cá cơm sọc xanh khá cao vào tháng 7. Từ đó cho thấy bãi đẻ loài cá này
là vùng ven bờ.
Cá bột tập trung phân bố ven bờ như trứng cá, nó còn xuất hiện với mật độ cao ở vùng
ngoài khơi. Hiệu ứng của quá trình nước trồi khu vực Nam Trung bộ có thể đã tạo các
điều kiện thuận lợi cho sự sinh sản của loài cá cơm sọc xanh trong vùng biển này.
Mô hình mô phỏng sự vận chuyển trứng cá cho thấy chúng được đưa đến vùng ven bờ
phía bắc Ninh Thuận, Cam Ranh, vịnh Nha Trang và cửa vịnh Vân Phong.
59
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bailey, K. M. and E. D. Houde, 1989. Predation on eggs and larvae of marine fishes
and the recruitment problems. Advances in Marine Biology, Vol. 25: 1-83.
2. Bùi Hồng Long và Trần Văn Chung, 2009. Tính toán dòng chảy trong khu vực nước
trồi Nam Trung bộ bằng mô hình dòng chảy ba chiều (3-D) phi tuyến. Tạp chí Khoa
học và Công nghệ Biển, Tập 9, Số 2, tr. 1-25.
3. Cowan, J. H. Jr. and R. F. Shaw, 2002. Recruitment. Chapter 4. in “Fishery Science:
The Unique Contributions of Early Life Stages” edited by L. A. Fuiman and R. G.
Werner, Blackwell Science: 88-111.
4. Delsman, H.C., 1931. Fish eggs and larvae from the Java sea. 17. The genus
Stolephorus, Treubia, 13 (3): 217-243.
5. Dippner J. W., Vinh N. K., H. Hein, T. Ohde . N. Loick, 2007. Monsoon-induced
upwelling off the Vietnamese coast, Ocean Dynamics 57: 46-62.
6. Dippner, J.W., Nguyen N.L., Doan-Nhu H., Subramaniam A., 2011. A model for
the prediction of harmful algae Blooms in the Vietnamese upwelling area. Harmful
Algae, Article in Press, Corrected Proof . DOI:10.1016/j.hal.2011.04.012.
7. Lã Văn Bài và Võ Văn Lành, 1997. Đặc điểm phân bố và cấu trúc nhiệt muối vùng
nước trồi mạnh. Tuyển tập Nghiên cứu vùng nước trồi Nam Trung bộ, tr. 39-46.
8. Lê Trọng Phấn và Nguyễn Văn Lục, 1991. Đặc điểm sinh học giống cá cơm
Stolephorus ở vùng biển ven bờ Việt Nam. Tuyển tập Nghiên cứu Biển. Nxb. Khoa
học và Kỹ thuật. Tập III, tr. 51-58.
9. Leis, J. M. & B. M. Carson-Ewart, 2000. The Larvae of Indo - Facific Coastal Fishes.
Fauna Malesiana Handbook 2, Netherlands: 82-87.
10. Nguyễn Hữu Phụng, 1978. Trứng cá cơm (Anchoviella) ở ven biển Quảng Ninh - Hải
Phòng. Tuyển tập Nghiên cứu Biển. Nxb. Khoa học và Kỹ thuật. Tập I, Phần I, tr. 175-189.
11. Nguyễn Hữu Phụng,1997. Trứng cá và cá bột vùng nước trồi mạnh Nam Trung bộ.
Tuyển tập Các công trình nghiên cứu vùng nước trồi Nam Trung bộ. Nxb. Khoa học và
Kỹ thuật, tr. 156-165.
12. Nguyễn Văn Lục, 1997. Một vài đặc trưng sinh học cá biển vùng nước trồi mạnh
Nam Trung bộ. Tuyển tập Các công trình nghiên cứu vùng nước trồi Nam Trung bộ.
Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, tr. 192-203.
13. Ozawa, T. and H. Tsukahara, 1986. On the occurrence of the Engraulid fish,
Stolephorus buccaneeri Strasburg, in the oceanic region of the Equatorial western
Pacific. In “Studies on the oceanic ichthyoplankton in the western north pacific”
edited by T. Ozawa. Kyushu University press: 8-28.
14. Pauly, D. and V. Christensen, 1995. Primary production required to sustain global
fisheries. Nature (374): 255-257.
15. Smith, P. E., 1981. Fisheries on coastal pelagic schooling fish. In “Marine fish larvae:
Marine fish larvae: morphology, ecology, and relation to fisheries” Edited by R.
Lasker, Washing sea grant program:1-31.
60
16. Võ Văn Quang và Trần Thị Lê Vân, 2005. Biến động mật độ trứng cá của loài cá
cơm sọc xanh Stolephorus zollingeri (Bleeker, 1849) ở vùng biển vịnh Nha TrangKhánh Hòa. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển. Phụ trương số 4(5), tr. 129-138.
17. Võ Văn Quang và Trần Thị Lê Vân, 2008. Phân bố trứng cá loài cá cơm sọc xanh
(Encrasicholina punctifer) ở vùng biển Khánh Hòa đến Bà Rịa-Vũng Tàu. Hội nghị
khoa học "Biển Đông - 2007", Viện Hải dương học Nha Trang. Nxb. Khoa học và Kỹ
thuật, tr. 425-432.
18. Võ Văn Quang và Trần Thị Lê Vân, 2010. Đặc trưng hình thái và ảnh hưởng nhiệt
độ lên phát triển phôi của trứng loài cá cơm sọc xanh (Ecrasicholina punctifer). Tuyển
tập Nghiên cứu Biển. Nxb. Khoa học và Kỹ thuật. Tập XVII , tr. 99-107.
19. Voss, M.,D. Bombar, N. Loick, and J. W. Dippner, 2006. Riverine influence on
nitrogen fixation in the upwelling region off Vietnam, South China Sea. Geophysical
Research Letters, Vol. 33, L07604: 1-4.
20. Wyrtki, K., 1961. Physical Oceanography of the Southeast Asian Waters. NAGA
Report, Vol. 2, La Jolla, California, 195pp.
21. Young, S. S., Chiu T.S. and Shen S. C.,1995. Taxomony, description and distribution
of larval anchovy (Engraulidae) occurred in the waters around Taiwan.. Acta
Zoologica Taiwanica 6 (1): 33-60.
MODELLING DISTRIBUTION AND TRANSPORT PROCESSES OF RED
ANCHOVY FISH EGGS AND LARVAE (Encrasicholina punctifer) IN THE
UPWELLING WATERS OF SOUTH CENTRAL VIET NAM
VO VAN QUANG, TRAN VAN CHUNG
Summary: Distribution of fish eggs and larvae of red anchovy is variable in July 2003,
April 2004, July 2004 and March 2005 in the upwelling waters of Vietnam. The upwelling
process marked to the responses of adult who released the eggs in the strong upwelling
period (June - August). The density of fish eggs of red anchovy are most abundant in the
southwestern monsoon (July 2003 & 2004). Although the difference between the climatic
means during all seasons, a clear tendency exists with high density of fish eggs in
spawning ground of inshore waters (stations: 41, 42, 51, 52, 62, and 63). The distribution
of larvae is different in comparison with eggs that demonstrate the influence of circulation
of the mass waters through diffusion, transport and retention of larvae into the coastal
zone such as bays and islands where are successfully for recruitment process of red
anchovy population.
Ngày nhận bài: 30 - 8 - 2011
Người nhận xét: PGS.TS. Nguyễn Hữu Phụng
61