Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 13, Số 1; 2013: 66-73
ISSN: 1859-3097
http://www.vjs.ac.vn/index.php/jmst
PHÂN BỐ VÀ TÍCH TỤ CHẤT Ô NHIỄM HỮU CƠ BỀN
OCPs VÀ PCBs TRONG VÙNG BIỂN VEN BỜ
PHÍA BẮC VIỆT NAM
Dương Thanh Nghị1, Trần Đức Thạnh1, Trần Văn Quy2
1
Viện Tài nguyên và Môi trường Biển-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
2
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên-Đại học Quốc gia Hà Nội
Địa chỉ: Dương Thanh Nghị, Viện Tài nguyên và Môi trường Biển,
246 Đà Nẵng, Ngô Quyền, Hải Phòng, Việt Nam. E-mail: nghidt@imer.ac.vn
Ngày nhận bài: 3-4-2012
TÓM TẮT
Chất ô nhiễm hữu cơ bền OCPs (Lindan, Aldrin, Endrin, Dieldrin, 4,4-DDE, 4,4-DDD, 4,4-DDT) và PCBs (28, 52,
101, 138, 153, 180) được khảo sát đồng bộ trong ba hợp phần môi trường nước, trầm tích và sinh vật trong vùng biển
ven bờ phía Bắc Việt Nam hai đợt vào tháng 3 năm 2011 và tháng 8 năm 2011. Kết quả cho thấy, trong môi trường nước
nồng độ ∑OCPs là 8,79-18,35ng/l và nồng độ ∑PCBs là 8,80-254,75µg/l; trong môi trường trầm tích nồng độ ∑OCPs là
0,36-6,81ng/g khô và nồng độ ∑PCBs là 0,35-2,20µg/kg khô; trong mô thịt ngao (Meretrix lyrata) nồng độ ∑OCPs là
2,46-7,48ng/g khô và ∑PCBs là 2,31-52,98µg/kg khô. Phân bố chất ô nhiễm OCPs và PCBs trong các hợp phần môi
trường vùng biển ven bờ phía Bắc Việt Nam có tính chất mùa. Hệ số tích tụ của OCPs từ 32,78 đến 75,69 và của PCBs
từ 16,28 đến 168,37 cho thấy có nguy cơ tích tụ sinh học trong mô thịt ngao.
Từ khóa: Ô nhiễm hữu cơ bền, OCPs, PCBs, tích tụ sinh học(BAF), Biển ven bờ Bắc Việt Nam.
MỞ ĐẦU
TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Các chất ô nhiễm hữu cơ bền OCPs và PCBs là
những chất hóa học tồn lưu lâu dài trong môi
trường, có khả năng tích lũy sinh học thông qua
chuỗi thức ăn và tác động xấu đến sức khỏe con
người như ngộ độc, ung thư và đột biến gen. Tuy
nhiên, nghiên cứu về chúng một cách đồng bộ
trong môi trường, đặc biệt là trong môi trường
biển, còn hạn chế. Vấn đề phân bố, tích tụ chất ô
nhiễm hữu cơ bền (OCPs, PCBs) trong sinh vật ở
vùng biển ven bờ phía Bắc Việt Nam còn ít được
nghiên cứu và đánh giá do số liệu thiếu đồng bộ.
Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu bước đầu
về chất ô nhiễm hữu cơ bền OCPs và PCBs trong
môi trường nước, trầm tích và sinh vật (loài ngao
Meretrix lyrata) trong vùng biển ven bờ phía Bắc
Việt Nam năm 2011.
Tài liệu
66
Bảng 1. Tọa độ các vị trí thu mẫu khảo sát
STT
Số hiệu mẫu
1
2
3
4
5
6
S-1
S-2
S-3
S-4
S-5
S-6
Tọa độ
o
21 25’50’’N
o
20 57’00’’N
o
20 43’00’’N
o
20 15’00’’N
o
19 43’42’’N
o
18 49’36’’N
o
108 01’58’’E
o
107 03’30’’E
o
106 50’00’’E
o
106 36’00’’E
o
103 53’57’’E
o
105 43’00’’E
Tài liệu nghiên cứu là kết quả hai đợt khảo sát
đồng bộ vào tháng 3 (mùa khô) và tháng 8 (mùa
mưa) năm 2011 cho ba hợp phần môi trường nước,
trầm tích và mô thịt ngao trong khu vực biển ven bờ
từ Móng Cái (S-1) đến Nghệ An (S-6). Tham khảo
các kết quả nghiên cứu về chất lượng môi trường, đa
dạng sinh học, nguồn ô nhiễm từ lục địa và báo cáo
hiện trạng môi trường quốc gia 2010, sáu điểm khảo
sát thu mẫu đã được lựa chọn đại diện cho các khu
vực biển ven bờ (bảng 1 và hình 1).
phần trầm tích mịn với thành phần sét cao và
không pha cát.
Trong hai đợt thu mẫu đều không gặp mưa hay
giông bão. Nhiệt độ không khí dao động trong mùa
khô từ 19,70C đến 22,50C và trong mùa mưa từ
32,50C đến 38,40C và có xu hướng tăng từ điểm S-1
đến S-6.
Các thông số môi trường thủy hóa như nhiệt độ
nước, độ muối, Ô-xy hoà tan và pH ghi nhận được
tại các điểm khảo sát trong thời gian nước ròng
(triều xuống) được trình bày trên bảng 2 và có thể
thấy giá trị nhiệt độ cực đại đã bắt đầu vượt quy
chuẩn Việt Nam về chất lượng nước biển ven bờ.
Môi trường trầm tích tầng mặt tại các điểm
khảo sát thuộc loại kiềm và kiềm yếu với thông
số pH từ 7,2 đến 8,0 và điều kiện khử yếu với giá
trị Eh trong khoảng từ -26 đến -76mV. Thành
Hình 1. Sơ đồ khu vực nghiên cứu
Bảng 2. Điều kiện môi trường tự nhiên tại vị trí thu mẫu
Vị trí
S-1
S-2
S-3
S-4
S-5
S-6
QCVN10:2008
Nhiệt độ nước ( C)
0
19,80 – 28,93
20,95 - 30,60
19,80 - 30,20
20,90 - 30,63
19,15 - 30,50
20,05 - 30,63
30
Độ muối (S%o)
Ô-xy hòa tan (mg/l)
31,8 - 27,0
31,5 - 24,3
24,1 - 18,0
22,5 - 10,8
26,0 - 20,3
26,3 - 26,8
Không có
5,81 - 6,34
6,25 - 6,48
6,09 - 7,03
5,63 - 6,36
5,81 - 6,42
5,82 - 6,49
>5
pH
8,01 - 8,16
8,12 - 7,77
7,76 - 8,13
8,03 - 7,77
8,07 - 8,11
8,17 - 7,98
6,5 - 8,5
Ghi chú: QCVN10: 2008 là Quy chuẩn Việt Nam cho chất lượng nước biển ven bờ.
Mẫu động vật thân mềm là loài ngao trắng
(Meretrix lyrata) được thu cùng vị trí với mẫu môi
trường nước và trầm tích. Các cá thể ngao có đặc
điểm hình thái với chiều dài, chiều rộng và độ cao
trung bình tương ứng là: 2,5-5,7cm; 1-4,9cm và 0,53,2cm. Trọng lượng và độ béo tương ứng của các
cá thể là 12,7-51,76g và 0,24-0,56g (hình 2).
Các mẫu được thu trong hai đợt khảo sát đại diện
cho mùa khô vào tháng 3 năm 2011 và đại diện cho
mùa mưa vào tháng 8 năm 2011, được bảo quản
trong điều kiện nhiệt độ 0 - 40C [2, 4]. Mẫu nước
được thu bằng Bathomet ở độ sâu 0,5-0,7m và được
bảo quản trong bình thủy tinh tối mầu. Mẫu trầm
tích mặt đáy được thu bằng cuốc Ponar làm bằng
thép không rỉ; lấy lớp bề mặt khoảng 0-5cm và trộn
đều và bảo quản trong chai thuỷ tinh tối. Mẫu ngao
được thu bằng cào và lưới đáy tại khu vực khảo sát,
được bọc trong giấy nhôm đã làm sạch.
Phương pháp nghiên cứu
Xử lý mẫu
Hình 2. Mẫu ngao(Meretrix lyrata)
thu tại điểm khảo sát
Mẫu nước: Chiết lỏng - lỏng một lít mẫu nước ba
lần với n-hexan. Dịch chiết được cô quay chân
67
không về khoảng 5ml, sau đó qua cột silicagel 2g
nhồi ướt để làm sạch. OCPs và PCBs được rửa giải
bằng 45ml n-hexan, cô quay dung dịch rửa giải đến
khoảng 1ml, thêm chất nội chuẩn và định mức đến
1ml bằng n-hexan [2].
Mẫu trầm tích: Chiết siêu âm, lắc và ly tâm 20g
mẫu trầm tích khô ba lần bằng hỗn hợp dung môi nhexan/axeton(1:1) để chiết hoàn toàn các hợp chất
OCPs và PCBs ra khỏi nền mẫu. Cô quay chân
không dịch chiết đến khoảng 5ml và làm sạch bằng
cột silicagel 2g. Rửa giải OCPs và PCBs bằng nhexan(3x15ml), cô quay dịch rửa giải về dưới 1ml
và thêm chất nội chuẩn và định mức đến 1ml bằng
n-hexan [4].
Mẫu thịt sinh vật: Mẫu thịt ngao được xay nhuyễn
bằng máy chuyên dụng và làm khô bằng Na2SO4
khan. Chiết siêu âm và ly tâm 20g mẫu sinh học khô
ba lần bằng dung môi n-hexan/acetone (1:1). Dịch
chiết được quay cất chân không về khoảng 5ml và
cho qua cột sắc ký thẩm thấu gel để loại bỏ các chất
béo, amin ... có trong mẫu chiết. Sau đó, tiếp tục
làm sạch bằng cột silicagel 2g. Rửa giải OCPs và
PCBs bằng n-hexan (3x15ml), dịch rửa giải được cô
về dưới 1ml, thêm chất nội chuẩn và định mức đến
1ml [4]. Mẫu sinh học trước khi chiết đã được đồng
hóa bằng Na2SO4 khan. Dịch chiết được quay cất
chân không về khoảng 5ml, cho qua cột sắc ký thẩm
thấu gel để loại bỏ các chất béo, amin ... có trong
mẫu chiết. Sau đó, tiếp tục làm sạch bằng cột florisil
2g tương tự các bước như cho mẫu trầm tích và
nước [4, 11, 12, 13].
DDD, 4,4-DDE và 4,4-DDT theo thang nồng độ:
10ng/ml; 50ng/ml; 100ng/ml; 200ng/ml và thu được
đường chuẩn tương đương thứ tự: y = 4,05x - 60,33
(R2 = 0,97); y = 5,98x – 46,74 (R2=0,98); y = 3,60x
– 51,05 (R2=0,98); y = 5,25x – 92,30 (R2 = 0,98); y
= 2,36x -57,33 (R2 = 0,97); y = 3,71x - 56,72 (R2 =
0,98); y = 3,16x - 42,60 (R2 = 0,98). Tương quan
đường chuẩn (R) đạt từ 99,9% đến 100% đảm bảo
mức độ tuyến tính của tỷ lệ lượng chất/chất nội
chuẩn và tỷ lệ số đếm độ cao píc/chất nội chuẩn.
Tính tổng lượng PCBs trong mẫu. Tính theo hỗn
hợp kĩ thuật Aroclor tương ứng trong các mẫu theo
công thức :
∑PCB = A × (PCB28 + PCB52 + PCB101 +
PCB138 + PCB153 + PCB180).
Trong đó : A là hệ số của hỗn hợp kỹ thuật
Aroclor. Hệ số này có giá trị từ 3-8,5 tuỳ thuộc
vào tỷ lệ thành phần của 6 cấu tử trong mẫu môi
trường [8, 9, 13].
Tổng lượng OCPs trong mẫu tính theo công thức :
∑OCPs = (Lindan + Aldrin + Endrin + Dieldrin +
4,4-DDD + 4,4-DDE + 4,4-DDT).
Tính hệ số tích tụ sinh học
Theo tài liệu hướng dẫn áp dụng phương pháp
nghiên cứu tích tụ của Cục Bảo vệ Môi trường Mỹ
(US EPA), các hệ số tích lũy chất ô nhiễm hữu cơ
bền trong cơ thể sinh vật thủy sinh và khuếch đại ô
nhiễm trong các chuỗi thức ăn được xác định như
sau [2, 5, 9]:
Xác định OCPs và PCBs bằng GC-ECD 6890
BCF = (BC)/(EClab).
Điều kiện phân tích. Dịch chiết được bơm lên
GC/ECD 6890 với chương trình chạy máy: 800C
trong 1 phút, gia nhiệt 200C/phút đến 2500C, tiếp tục
gia nhiệt 50C/phút đến 2900C và duy trì 2900C trong
5 phút. Tổng thời gian là 22,5 phút. Tốc độ dòng khí
mang N2 là 0,9ml/s với cột sắc ký mao quản HP1
(30m; 0,32mm; 0,25mm) và tỷ lệ chia dòng 1:28.
Trong đó :
Xây dựng đường chuẩn. Sử dụng chất chuẩn của
Đức (Dr.Ehrenstorfer): PCBs 28, PCB 52, PCB 101,
PCB 153, PCB 138 và PCB 180 để xây dựng đường
chuẩn hỗn hợp theo thang nồng độ: 15ng/ml;
30ng/ml; 60ng/ml; 90ng/ml. Đường chuẩn của PCB
theo thứ tự lần lượt y = 0,98x – 1,51; y = 1,02x –
7,03; y = 1,47x – 8,71; y = 1,71x – 7,59; y = 1,94x –
8,65; y = 2,84x – 10,54. Hệ số tương quan các
đường chuẩn R = 0,99. Xây dựng đường chuẩn
tương tự với Lindan, Aldrin, Endrin, Dieldrin, 4,4-
EC: Nồng độ chất ô nhiễm trong môi trường
sống của chúng.
68
BCF là hệ số hàm lượng sinh học (Bioconcentration factor - BCF) thể hiện nồng độ sinh học,
thường được xác định từ các phép thử của phòng thí
nghiệm tiêu chuẩn.
BC: Chất ô nhiễm trong cơ thể sinh vật.
BAF = (BA)/(ECfield).
Trong đó :
BAF: Hệ số tích tụ sinh học
(Bioaccumulation Factor - BAF) thể hiện tích tụ
sinh học.
BA: Nồng độ chất ô nhiễm tồn tại trong cơ thể
sinh vật.
EC : Nồng độ chất ô nhiễm trong môi trường
sinh sống của chúng.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chất ô nhiễm OCPs
OCPs trong môi trường nước. Nhóm chất ô nhiễm
OCPs xuất hiện trong cả mùa mưa và mùa khô năm
2011. Nồng độ OCPs trong khoảng 8,79 - 18,35ng/l,
trung bình cho toàn vùng là 12,15ng/l. Nồng độ
từng đơn chất nhỏ hơn giới hạn trong quy định của
Việt Nam cho chất lượng nước biển ven bờ
(QCVN10: 2008).
Nồng độ trung bình OCPs tập trung cao ở các điểm
tại Cửa Lục và Cửa Lò, tiếp đến là tại Trà Cổ và Ba
Lạt. Nguyên nhân có thể do khối nước biển ở đây
tiếp nhận nhiều nguồn thải chứa OCPs từ các vùng
nông nghiệp và lâm nghiệp chảy vào từ các cửa
sông như Ka Long ở Trà Cổ, sông Man, Trới và
Diễm Vọng ở Cửa Lục, sông Cấm và sông Lam ở
Cửa Lò.
OCPs trong môi trường trầm tích. Trầm tích bề mặt
đều chứa OCPs trong cả hai đợt khảo sát vào mùa
khô và mùa mưa năm 2011 với nồng độ trong
khoảng 0,36 - 6,81ng/g khô, trung bình toàn vùng là
1,41ng/g khô. Việt Nam chưa quy định OCPs trong
trầm tích, nhưng hầu hết các đơn chất đều trong giới
hạn cho phép theo tiêu chuẩn Canada 2003. Tuy
nhiên, hàm lượng 4,4-DDT có dấu hiệu vượt
ngưỡng ở Cửa Lục vào mùa mưa và ở Đồ Sơn vào
mùa khô.
OCPs trong mô thịt ngao. Nồng độ OCPs phát hiện
được trong mô thịt ngao ở các điểm khảo sát trong
cả hai đợt khảo sát năm 2011. Nồng độ OCPs trong
khoảng từ 2,46-7,48ng/g khô, giá trị trung bình cho
toàn vùng là 4,41ng/g khô. Nồng độ OCPs trong mô
thịt ngao mùa khô cao hơn mùa mưa. Trong mùa
mưa chủ yếu phát hiện thấy Endrin; 4,4-DDD; 4,4DDE và trong mùa khô chủ yếu phát hiện thấy
Lindan; Aldrin; Endrin và 4,4-DDE trong mô thịt
ngao. Tuy nhiên, nồng độ của chúng đều nằm trong
giới hạn của Cục An toàn Thực phẩm của Mỹ
(FDA) [3, 10].
Chất ô nhiễm PCBs
PCBs trong môi trường nước. PCBs xuất hiện trong
cả hai mùa với nồng độ mùa khô cao hơn mùa mưa.
Nồng độ PCBs trong nước dao động trong khoảng
8,80 – 254ng/l, trung bình toàn vùng là 46,18ng/l.
So sánh với nồng độ tổng PCBs năm 2007 ở Hạ
Long trong khoảng 3ng/l - 7ng/l [7], thì nồng độ
tổng PCBs trong nước tăng khoảng 15 lần, trong đó
cao nhất ở Cửa Lò và thấp nhất ở Ba Lạt.
PCBs trong môi trường trầm tích. Nồng độ PCBs
trong trầm tích dao động trong khoảng 0,35 2,23ng/g khô, trung bình toàn vùng là 0,58ng/g khô.
So sánh với năm 2007 với hàm lượng tổng PCBs
trong khoảng 0,87ng/g khô - 5,54ng/g khô [8], thì
tổng PCBs trong trầm tích giảm 5,51 lần. Tuy
nhiên, nồng độ tổng PCBs trong trầm tích thấp hơn
tiêu chuẩn chất lượng môi trường Canada (21,5ng/g
khô) khoảng 5 lần [1].
PCBs trong mô thịt ngao. Nồng độ tổng PCBs trong
thịt ngao (Meretrix lyrata) trong khoảng 2,35ng/g 5,98ng/g khô, trung bình cho toàn vùng 13,40ng/g
khô. So sánh với năm 2007 [7], nồng độ tổng PCBs
trung bình 23,13ng/kg khô, nồng độ tổng PCBs
trong mô thịt ngao giảm 1,72 lần. Xu hướng giảm
nồng độ tổng PCBs trong mô thịt ngao phù hợp với
điều kiện môi trường trầm tích mặt và đều nằm
trong giới hạn của Cục An toàn Thực phẩm của Mỹ
(FDA) [3, 10].
THẢO LUẬN
Phân bố và tích tụ OCPs, PCBs trong môi trường
nước
Kết quả khảo sát cho thấy nồng độ OCPs và
PCBs phân bố và tích tụ trong môi trường nước
biến động khác nhau theo mùa theo khu vực. Nồng
độ OCPs trong tháng 3 (mùa khô) cao hơn tháng 8
(mùa mưa), trong khi nồng độ PCBs trong tháng 3
thấp hơn tháng 8 năm 2011. Sự phân bố khác biệt
theo mùa của OCPs và PCBs trong môi trường nước
là do nguồn phát thải và sự quản lý sử dụng chúng.
Chất ô nhiễm OCPs bị cấm sử dụng trước PCBs từ
rất lâu nên lượng bổ sung vào môi trường nước
không đủ để biến đổi theo mùa, do đó vào mùa khô
cạn nồng độ cao hơn mùa mưa. Ngược lại, chất
PCBs đang trong quá trình thay thế dần và cấm sử
dụng nên lượng bổ sung vào môi trường nước còn
rất nhiều đã làm gia tăng nồng độ do các dòng chảy
từ lục địa đổ vào vùng biển ven bờ (hình 3).
Nồng độ OCPs tập trung cao ở khu vực Trà Cổ,
Cửa Lục và Cửa Lò. Trong khi đó, nồng độ PCBs
tập trung cao ở khu vực Cửa Lục và Đồ Sơn, nơi tập
trung nhiều khu công nghiệp ven biển, khu chế xuất,
cảng biển và dịch vụ hậu cần. Vì vậy, nồng độ PCBs
tập trung cao là do sự tập trung của nhiều nguồn thải
vào vùng nước khu vực (hình 3).
69
150.00
Trà Cổ
Cửa Lục
100.00
Đồ Sơn
Ba Lạt
50.00
Sầm Sơn
0.00
Tháng 3 Tháng 8 TB năm Tháng 3 Tháng 8 TB năm
OCPs(ng/l)
PCBs(ng/l)
Cửa Lò
Trung bình
Hình 3. Phân bố và tích tụ OCP, PCBs trong môi trường nước
Phân bố và tích tụ OCPs, PCBs trong môi trường
trầm tích
Kết quả khảo sát cùng thời điểm cho thấy biến
động theo mùa nồng độ OCPs và PCBs trong môi
trường trầm tích. Tuy nhiên, sự phân bố và tích tụ
của chúng khác nhau theo mùa và theo khu vực,
nhưng không giống với môi trường nước. Nồng độ
chất ô nhiễm trong trầm tích là một quá trình lắng
đọng tích tụ, nên có xu hướng tăng theo thời gian.
Trong điều kiện không bị tác động mạnh từ nguồn là
khối nước, nồng độ OCPs trong trầm tích tháng 8
cao hơn tháng 3 là do thời gian lắng đọng lâu hơn.
Nhưng do điều kiện bị tác động mạnh từ nguồn là
khối nước chứa đựng PCBs của mùa mưa trước, và
thêm thời gian lắng đọng đến mùa khô, thì nồng độ
PCBs trong trầm tích mặt tháng 3 đã cao hơn tháng
8 là đặc điểm khác biệt về tích tụ PCBs trong trầm
tích so với OCPs. Đặc điểm gia tăng nồng độ theo
thời gian trong môi trường trầm tích của chất ô
nhiễm hữu cơ bền còn thể hiện ở nồng độ OCPs
tổng số trong năm cao hơn PCBs. Như vậy, môi
trường trầm tích tích tụ chất ô nhiễm hữu cơ bền OCPs
và PCBs chậm pha hơn môi trường nước (hình 4).
Nồng độ OCPs trong trầm tích tập trung cao ở
khu vực Cửa Lục và Đồ Sơn, trong khi nồng độ
PCBs tập trung cao ở khu vực Trà Cổ và Sầm Sơn.
Khu vực Cửa Lục và Đồ Sơn đã từng được xác định
là những điểm nóng tích tụ các chất ô nhiễm và chất
ô nhiễm OCPs có mặt trong môi trường trước PCBs.
Do đó, chất ô nhiễm OCPs đã tích tụ tồn lưu từ
trước khi có sự tích tụ tồn lưu của PCBs trong môi
trường trầm tích nên nồng độ của chúng cao hơn.
Nồng độ trung bình năm của OCPs trong trầm tích
cao hơn của PCBs (hình 4).
5.00
Trà Cổ
4.00
Cửa Lục
3.00
Đồ Sơn
2.00
Ba Lạt
1.00
Sầm Sơn
0.00
Tháng 3 Tháng 8 TB năm Tháng 3 Tháng 8 TB năm
OCPs(ng/g khô)
PCBs(ng/g khô)
Hình 4. Phân bố và tích tụ OCPs, PCBs trong môi trường trầm tích
70
Cửa Lò
Trung bình
Phân bố và tích tụ OCPs, PCBs trong sinh vật
Môi trường sinh vật được khảo sát là ngao
(Meretrix lyrata), sinh vật hai mảnh vỏ sống bám
đáy cát pha bùn. Ngao là sinh vật chỉ thị môi trường
bởi đặc điểm ăn lọc và di chuyển không đáng kể.
Nồng độ chất ô nhiễm trong thịt ngao biến động
theo mùa. Nồng độ OCPs trong thịt ngao tháng 3
mùa khô, thấp hơn tháng 8 mùa mưa do môi trường
trầm tích tháng 3 chứa ít chất ô nhiễm OCPs hơn và
tác động của nguồn ô nhiễm khối nước không lớn.
Tuy nhiên, nồng độ PCBs trong thịt ngao tháng 3
thấp hơn tháng 8 là do nguồn ô nhiễm từ môi trường
nước tác động qua đường ăn lọc mạnh hơn nguồn ô
nhiễm từ môi trường trầm tích tác động qua thẩm
thấu vào thịt ngao. Như vậy, với một nguồn ô nhiễm
thường xuyên phát thải như PCBs thì tác động của
môi trường nước đến tích tụ trong sinh vật là rất lớn.
Ngược lại, nguồn ô nhiễm đã bị ngăn chặn, kiểm
soát như OCPs thì tác động của môi trường đến sinh
vật là trầm tích (hình 5).
50.00
Trà Cổ
40.00
Cửa Lục
30.00
Đồ Sơn
20.00
Ba Lạt
10.00
Sầm Sơn
0.00
Tháng 3 Tháng 8 TB năm Tháng 3 Tháng 8 TB năm
OCPs(ng/g khô)
PCBs(ng/g khô)
Cửa Lò
Trung bình
Hình 5. Phân bố và tích tụ OCPs, PCBs trong môi trường sinh vật
Hệ số tích tụ sinh học (BAF) của ngao
Ngao là sinh vật chỉ thị cho sự biến đổi của môi
trường xung quanh. Hệ số tích tụ sinh học (BAF)
của ngao cho thấy khả năng tích tụ chất ô nhiễm
trong sinh vật sống trong vùng. Hệ số BAF của ngao
trung bình năm với chất ô nhiễm PCBs (59,57) cao
hơn OCPs (52,92) khoảng 1,1 lần. BAF của khu vực
từ Ba Lạt đến Cửa Lò cao hơn khu vực từ Trà Cổ
đến Đồ Sơn (hình 6).
200
BAF(OCPs)
150
100
50
0
BAF(PCBs)
Trà Cổ Cửa Lục Đồ Sơn
Ba Lạt Sầm Sơn Cửa Lò
Trung
bình
Hình 6. Hệ số tích tụ BAF của ngao với OCPs và PCBs
Hệ số tích tụ BAF của ngao với PCBs tăng cao
hơn so với năm 2009 và 2010, BAF (PCBs) ngao
khu Đồ Sơn là 3,56 - 25,90 và khu Cửa Lục là 2,67 5,12 [6, 7, 9]. Như vậy, xu hướng gia tăng nồng độ
71
chất ô nhiễm bền trong môi trường sinh cư đã tác
động mạnh đến khả năng tích tụ sinh học với các
sinh vật sống tại chỗ. Mặt khác, so sánh với các
nghiên cứu trước đây về tích tụ sinh học cho thấy
các chất ô nhiễm này có có xu hướng gia tăng theo
bậc dinh dưỡng của chuỗi thức ăn, lan truyền đến
các vùng rất xa nơi phát thải và tác động lâu dài đến
con người qua đường ăn uống [10].
Hệ số tích tụ sinh học (BAF) trung bình của
chất ô nhiễm hữu cơ bền OCPs và PCBs đang gia
tăng do tăng PCBs trong môi trường tự nhiên (nước
và trầm tích). Theo các báo cáo môi trường quốc gia
trình chính phủ hàng năm cho thấy vấn đề ô nhiễm
môi trường biển Việt Nam vẫn tiếp tục diễn ra. Ô
nhiễm chất hữu cơ bền OCPs và PCBs đang được
quan tâm nghiên cứu theo các mục tiêu của mà Việt
Nam tham gia với công ước quốc tế Stochoml.
KẾT LUẬN
Trong vùng biển ven bờ phía Bắc Việt Nam,
chất ô nhiễm hữu cơ bền OCPs và PCBs tồn tại
đồng thời trong ba hợp phần môi trường nước, trầm
tích và ngao trắng (Meretrix lyrata) cả mùa khô và
mùa mưa năm 2011.
Phân bố chất ô nhiễm hữu cơ bền OCPs và
PCBs đều có tính chất mùa, nhưng có xu hướng
khác nhau trong từng hợp phần môi trường cũng
như ở từng khu vực. Xu thế tích luỹ OCPs và PCBs
trong mô thịt ngao luôn cao hơn trong hợp phần tự
nhiên (nước và trầm tích) ở các mùa. Mặt khác, sự
phân bố và tích tụ của chúng trong cả ba hợp phần
phụ thuộc vào yếu tố nhân sinh (quản lý và sử dụng)
nhiều hơn yếu tố tự nhiên (dòng chảy, thủy triều ...).
Do đó, khả năng tích tụ sinh học của OCPs và PCBs
sẽ giảm khi có sự kiểm soát, ngăn chặn chủ động.
Vì vậy, việc tăng cường nghiên cứu đồng bộ và toàn
diện về chất ô nhiễm hữu cơ bền POPs (OCPs,
PCBs) phục vụ công tác bảo sức khỏe các hệ sinh
thái và sức khỏe con người là hết sức cần thiết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Canada Environment Agency, 2003. Canadian
Environmental Quality Guidelines. “Summary
of Existing Canadian Environmental Quality
Guidlines”.
2. Gobas, F.A.P.C., 1993. A model for predicting
the bioaccumulation of hydrophobic organic
chemicals in aquatic food-webs: Application to
Lake Ontario. Ecological Modeling 69: pp.1-17.
3.
72
http://www.fda.gov/Food/GuidanceCompliance
RegulatoryInformation/GuidanceDocuments/Ch
emicalContaminantsandPesticides/ucm077969.h
tm.
4. Đỗ Quang Huy, Dương Thanh Nghị, 2001.
“Xác định dư lượng hoá chất bảo vệ thực vật
trong mẫu môi trường bằng phương pháp sắc ký
khí”. Tạp chí Môi trường số 6, Đại học Khoa
học Tự nhiên, ĐHQGHN. Tr. 20-25.
5. Dương Thanh Nghị, Cao Thị Thu Trang, Vũ Thị
Lựu, Phạm Thị Kha, Đinh Ngọc Huy, Đặng
Hoài Nhơn và nnk, 2009. Nghiên cứu sự tích tụ
PAHs, PCBs trong môi trường nước, trầm tích,
sinh vật vùng biển ven bờ, đề xuất giải pháp
quản lý, ngăn ngừa nguy cơ tích tụ trong môi
trường biển (3vùng trọng điểm Bắc, Trung,
Nam)”. Báo cáo khoa học đề tài cấp Viện Khoa
học và Công nghệ Việt Nam. Lưu trữ tại Viện
Tài nguyên và Môi trường biển.
6. Dương Thanh Nghị, Phạm Thị Kha, Cao Thị
Thu Trang, Lê Văn Nam, 2010. Nguy cơ tích tụ
Polychlorbiphenyl trong một số sinh vật biển
ven bờ Việt Nam. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học
35 năm Viện Khoa học và Công nghệ Việt
Nam. Nxb. Khoa học Tự nhiên và Công nghệ.
Hà Nội. Tr.199-204.
7. Dương Thanh Nghị, Cao Thị Thu Trang, Vũ Thị
Lựu, Phạm Thị Kha, Lê Xuân Sinh, Đặng Hoài
Nhơn và nnk, 2010. Đánh giá khả năng tích tụ
chất ô nhiễm hữu cơ bền và kim loại nặng trong
môi trường nước, trầm tích và sinh vật ven biển
Hải Phòng. Báo cáo khoa học đề tài cấp thành
phố Hải Phòng. Lưu trữ tại Viện Tài nguyên và
Môi trường biển.
8. Dương Thanh Nghị, Trần Đức Thạnh, Trần Văn
Quy, Đỗ Quang Huy, 2011. Đánh giá khả năng
tích tụ sinh học PCBs và PAHs vùng Hạ Long.
Tuyển tập báo cáo Hội nghị Khoa học và Công
nghệ biển Toàn quốc lần thứ V. Nxb. Khoa học
Tự nhiên và Công nghệ. Hà Nội. Tr. 77-84.
9. Dương Thanh Nghị, Trần Đức Thạnh, Trần Văn
Quy, 2011. Đánh giá khả năng tích tụ PCBs
trong vùng biển ven bờ Hải Phòng. Tạp chí
Phân tích Hóa, Lý và Sinh học. Tập 16, Số
4/2011. Tr. 27-31.
10. Cao Thị Thu Trang, Vũ Thị Lựu, Dương Thanh
Nghị và nnk, 2007. Đánh giá khả năng tích tụ và
phân tán các chất ô nhiễm vùng cửa sông ven
biển Việt Nam”. Báo cáo tổng kết đề tài cấp
Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Lưu
tại Viện Tài nguyên và Môi trường biển.
11. Cao Thị Thu Trang, Dương Thanh Nghị, 2001.
“Xây dựng phương pháp phân tích dư lượng
hoá chất bảo vệ thực vật trong mẫu sinh vật
biển”. Báo cáo khoa học lưu trữ tại Viện Tài
nguyên Môi trường Biển.
12. US. EPA., 1995. Great Lakes Water Quality
Initiative technical support document for the
procedure to determine bioaccumulation factors.
EPA-820-8-005, NTIS PB95187290. 185pp.
13. Phạm Hùng Việt, Phạm Mạnh Hoài, Dương
Hồng Anh và nnk, 2007. Nghiên cứu sự tồn lưu
và vận chuyển của các hóa chát gây rối loạn nội
tiết tố (EDCs) tại một số vùng ven biển Việt
nam. Báo cáo khoa học nhiệm vụ hợp tác theo
nghị đinh thư Việt Nam - Hàn Quốc. Lưu trữ tại
Đại học Quốc Gia Hà Nội.
ABSTRACT
Distribution and accumulation of the persistent
organic pollutants OCPs và PCBs in the coastal
waters of north Vietnam
The persistent organic pollutants OCPs (Lindan,
Aldrin, Endrin, Dieldrin, 4,4-DDE, 4,4-DDD, 4,4-
DDT) and PCBs (28, 52, 101, 138, 153, 180) were
determined in three components of water, sediment
and clam tissues in the coastal waters of North
Vietnam in March and August 2011. The results
show that the concentrations of ∑OCPs are from
8.79 - 18.35ng/l and ∑PCBs from 8.80 - 254.75µg/l
in water; ∑OCPs from 0.36 - 6.81ng/g dry and
∑PCBs from 0.35 - 2.20µg/kg dry in bottom surface
sedim-ents; and ∑OCPs from 2.46 - 7.48ng/g dry
and ∑PCBs from 2.31 - 52.98µg/kg dry in clam
tissues (Meretrix lyrata). The pollutant distribution
of ∑OCPs and ∑PCBs at the envoronment
components in the coastal waters of North Vietnam
is varied by the seasons. By the bio-accumulation
factor (BAF) of OCPs from 32.78 - 75.69; and
PCBs from 16.28 to 168.37, the bio-accumulation
risk of them is ava-ilable in the clam.
Keywords: Persistent of organic pollutants,
OCPs, PCBs, bio-accumulation, Vietnam coastal
waters.
Người nhận xét: TS. Nguyễn Đức Cự
73