Tài liệu hướng dẫn về Di Sản Thế Giới
QUẢN LÝ DU LỊCH
TẠI CÁC KHU DI SẢN THẾ GIỚI
Tài liệu hướng dẫn thực tiễn cho
các nhà quản lý khu Di sản thế giới
Tác giả: Arthur Pedersen
QUẢN LÝ DU LỊCH
TẠI CÁC KHU DI SẢN THẾ GIỚI
Tài liệu hướng dẫn thực tiễn cho
các nhà quản lý khu Di sản thế giới
Tác giả: Arthur Pedersen
1
Tác giả chịu trách nhiệm lựa chọn và trình bày các nội dung trong ấn phẩm này và
những ý kiến trong này không nhất thiết là của Tổ chức UNESCO và cũng không thể
hiện cam kết của tổ chức này.
Việc thiết kế và trình bày các tư liệu trong ấn phẩm này không có nghĩa là quan điểm
của UNESCO về địa vị pháp lý của bất kỳ một nước, vùng lãnh thổ, thành phố hoặc khu
vực nào hoặc thẩm quyền của nó hoặc việc phân định các đường ranh giới hoặc biên
giới của nó.
Trung tâm Di sản Thế giới của UNESCO xuất bản năm 2002
7, place de Fontenoy
75352 Paris 07 SP (France)
Tel: (33) 01 45 68 18 76
Fax: (33) 01 45 68 55 70
Email: wh-info@unesco.org
http://whc.unesco.org
2
Lời tựa
Số phận thật đã an bài: những lý do đích thực tại sao một khu vực được chọn đưa vào danh
sách Di Sản Thế giới lại cũng chính là lý do tại sao lại có hàng triệu du khách năm này qua
năm khác đua nhau tới thăm những khu vực này. Trên thực tế, niềm tin các khu Di sản thế
giới thuộc sở hữu của mọi người và cần được bảo tồn cho các thế hệ tương lai chính là
nguyên tắc đích thực của Công ước Di sản thế giới. Vậy làm thế nào để chúng ta kết hợp được
niềm tin và quan tâm của chúng ta về tác động của du lịch đối với các khu Di sản thế giới? Du
lịch bền vững chính là câu trả lời. Hướng dẫn cho các chính phủ, các nhà quản lý khu di tích
và du khách về những việc cần làm trong du lịch bền vững là cách duy nhất bảo đảm giữ gìn
di sản văn hóa và thiên nhiên của thế giới.
Trong năm 2002, mối lưu tâm trọn vẹn của cộng đồng quốc tế đã tập trung vào du lịch và hậu
quả của nó đối với di sản văn hóa và thiên nhiên. Bắt đầu bằng việc Liên hợp quốc tuyên bố
2002 là “Năm Di sản Văn hóa”. Sau đó vào tháng 5, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về Du lịch
sinh thái lần đầu tiên được tổ chức tại thành phố Quebec với tuyên bố về phát triển Du lịch
sinh thái trong bối cảnh phát triển bền vững được đưa ra tại hội nghị thượng đỉnh
Johannesburg tổ chức sau đó. Tới tháng 11, “Di sản, Du lịch và Phát triển” là một trong
những chủ đề chính của Hội nghị Quốc tế ở Venice vào dịp kỷ niệm 30 năm Công ước Di sản
thế giới. Với việc phát hành tài liệu hướng dẫn này, chúng tôi nhằm khai thác xu hướng đó
bằng cách biến tất cả các ý kiến, luận thuyết và kế hoạch phát triển du lịch bền vững thành
hành động.
Bằng cách học “đi đứng nhẹ nhàng” trên trái đất, chúng ta không chỉ bảo đảm tương lai của
các khu Di sản thế giới, mà còn bảo đảm cả tương lai của du lịch. Đây là “tình huống lưỡng
lợi” cho tất cả những ai liên quan: khu di sản sẽ được bảo vệ và duy trì tốt hơn, du khách sẽ có
những chuyến viếng thăm dễ chịu hơn, và kết quả là kinh tế địa phương cũng khởi sắc.
Du lịch là một lối thoát về quản lý quan trọng ở các khu Di sản văn hóa và thiên nhiên thế
giới. Nó là ngành công nghiệp với những chi phí mà ai cũng biết, nhưng cũng đầy tiềm năng
hỗ trợ cho những nỗ lực bảo vệ di sản. Chúng tôi công nhận tiềm năng này và tin rằng bằng
cách dấn thân vào và có những hành động thích hợp ở nhiều cấp độ khác nhau của quá trình
du lịch bền vững, du lịch sẽ có thể được quản lý sao để đưa lại được nhiều lợi ích thực cho
khu di sản. Tài liệu hướng dẫn này đưa ra một quá trình nhằm giúp các nhà quản lý khu di sản
hành động theo hướng đó.
Đây là tài liệu đầu trong một loạt tài liệu hướng dẫn “quản lý” Di sản thế giới dành cho những
người đang hàng ngày mang hết tâm trí và sức lực bảo vệ kho báu vô giá của thế giới chúng ta.
Cuối cùng, tôi xin cám ơn TEMA và UNEP đã hỗ trợ cho sáng kiến của Trung tâm để tạo dựng
lên được một tài liệu hướng dẫn dễ vận dụng cho các nhà quản lý các khu Di sản thế giới.
Francesco Bandarin
Giám đốc Trung tâm Di sản thế giới của UNESCO,
Paris, Pháp.
3
4
Lời tựa
Tôi lấy làm tự hào được giới thiệu tài liệu này, một đóng góp nữa có giá trị vào Năm Du lịch
sinh thái 2002. Du lịch là một trong những ngành công nghiệp lớn nhất thế giới mà chỉ riêng
trong năm 2002 đã có tới 700 triệu du khách quốc tế tham gia; nó có thể trở thành một công
cụ chủ yếu trong nỗ lực vượt qua những mất mát về đa dạng sinh học và xóa đói nghèo, đặc
biệt ở những hệ sinh thái nhạy cảm và các khu vực được bảo vệ. Một môi trường tự nhiên và
xã hội lành mạnh là tài sản đầu tiên và quan trọng bậc nhất đối với ngành công nghiệp tầm cỡ
thế giới này, đó là một thực tế cơ bản. Nó tạo ra ý nghĩa nghiệp vụ cho các nhà làm công tác
du lịch nhằm giúp họ trở thành những đồng minh tự nhiên của sự bền vững.
Các khu vực được bảo vệ, đặc biệt là các khu Di sản thế giới, là những nơi thu hút chính của
du lịch và cũng là nơi ngày càng có nhiều du khách tới thăm. Các khu Di sản thế giới là
những cảnh quan văn hóa và tự nhiên nổi tiếng trải rộng trên tất cả các hệ sinh thái đã được
tuyển chọn cẩn thận qua một quá trình diễn ra từ khi có thỏa thuận đa phương của 175 nước
vào năm 1972. Duy tu bảo dưỡng những khu vực này đòi hỏi phải có những việc làm thích
hợp để bảo đảm quản lý tốt công viên về mặt môi trường, đồng thời bảo đảm lợi ích cho các
cộng đồng địa phương từ sự sinh tồn của các công viên đó.
Những lợi ích kinh tế tiềm tàng mà du lịch có thể mang lại sẽ không trở thành hiện thực nếu
không được hoạch định công phu. Thực vậy, phát triển du lịch không có kiểm soát có thể đưa
tới những tác động tiêu cực rất lớn đối với những kho báu trong di sản của nhân loại. Các nhà
quản lý khu Di sản thế giới thường không được chuẩn bị thoả đáng để đương đầu với những
thách thức do du lịch mang lại và để thương thảo với ngành công nghiệp du lịch phức hợp. Họ
thường được đào tạo chủ yếu trong các lĩnh vực lâm nghiệp, quản lý môi trường công cộng,
và sinh học. Vì vậy, những khái niệm như quản lý kinh doanh, tiếp thị và xử lý rủi ro trong
thương trường hãy còn tương đối mới đối với nhiều nhà quản lý khu di sản. Một phương pháp
tiếp cận thực tế, cụ thể theo từng trường hợp được sử dụng trong tài liệu này sẽ lý giải những
chủ đề đó và cả những chủ đề khác để các nhà quản lý công viên có thể hoạch định và phát
triển các cuộc tham quan phù hợp với yêu cẩu và giới hạn của kế hoạch tổng thể của khu di
sản.
Năm 2002, UNEP, IUCN và Tổ chức Du lịch thế giới (WTO) đã phát hành cuốn sách mang
tựa đề “Du lịch bền vững trong những khu vực được bảo vệ” của Tiến sỹ Paul Eagles thuộc
Ủy ban Thế giới về Những khu vực được bảo vệ với sự đóng góp của nhiều chuyên gia quốc
tế. Cuốn sách này nhằm bồi đắp hiểu biết tốt hơn về những vấn đề liên quan đến du lịch trong
các khu vực được bảo vệ, và hướng dẫn giải quyết những vấn đề đó. Tài liệu mới này hỗ trợ
một cách hữu hiệu cho cuốn sách nói trên: nó đề cập đến những yêu cầu cụ thể đối với các
nhà quản lý khu Di sản thế giới và hướng dẫn họ trong quá trình hoạch định và quản lý khách
tham quan. Đây là một mốc mới nữa trong sự hợp tác lâu dài giữa UNEP và UNESCO trong
việc cải thiện các lợi ích đối với các khu vực được bảo vệ qua du lịch bền vững. Tôi tin rằng
nó sẽ càng tăng cường quan hệ hợp tác và đối tác giữa các nhà quản lý Di sản thế giới, công
nghiệp du lịch, cộng đồng địa phương, chính phủ và du khách.
Jacqueline Aloisi LARDEREL
Trợ lý Giám đốc Điều hành
Vụ trưởng Vụ Công nghệ, Công nghiệp và Kinh tế
Chương trình Môi trường của LHQ (UNEP)
_____________________________________________________________
5
6
Lời nói đầu
Người ta rất dễ đặt câu hỏi tại sao tài liệu hướng dẫn du lịch đã có rất nhiều mà lại còn phải
soạn thảo tài liệu này? Đó tất nhiên là câu hỏi chính đáng mà tác giả cần phải phúc đáp.
Câu trả lời hết sức đơn giản: tài liệu này được viết với mong muốn thấy được chính những
việc đang diễn ra trong lĩnh vực này, cố gắng thấu hiểu mọi lẽ, so sánh với kinh nghiệm bản
thân, và diễn đạt những gì đã học hỏi được bằng một văn phong mà tác giả hy vọng mọi
người đều hiểu. Vốn từng nhiều năm làm công tác quản lý du khách và kế hoạch, tôi muốn
biết chúng ta đã phát hiện ra được những gì trong việc dùng du lịch như một công cụ có lợi
cho việc bảo tồn di sản.
Thực tế tài liệu này cũng chỉ là khởi đầu của một loạt tài liệu theo dự án hướng dẫn các nhà
quản lý khu Di sản thế giới về các vấn đề du lịch. Tại sao lại tập trung vào các khu Di sản thế
giới? Có lẽ cách giải thích tốt nhất là sử dụng chính câu hỏi của vị Trưởng ban Di sản thiên
nhiên thuộc Trung tâm Di sản thế giới, ông Natarajan Ishwaran: “Nếu chúng ta không thể cứu
được các khu Di sản thế giới thì chúng ta có thể cứu cái gì?”. Tôi luôn ghi nhớ điều này. Vì
tiếp tục làm việc với các khu Di sản thế giới cho nên tôi đã dần nhận thức được vai trò quan
trọng của Công ước Di sản thế giới.
Tài liệu này dùng làm gì, và lý do tại sao nó lại khác các tài liệu khác là vì nó tổng hợp quá
trình tổng thể hợp lô gích của việc quản lý du lịch và du khách đã được phản ánh trong các tài
liệu về công tác quản lý. Tôi nghiệm ra rằng nếu hiểu được quá trình hình thành vấn đề và có
tầm nhìn toàn cầu về cách thức sự việc gắn kết với nhau, thì sẽ dễ cho ta lướt qua các chi tiết
kỹ thuật đang là những yếu tố chủ yếu của rất nhiều lĩnh vực hiện đại nhất. Nếu không có kiến
thức ấy, những người không thuộc tầm cỡ chuyên gia có thể sẽ bị lạc lối trong một ma trận vô
cùng phức tạp.
Du lịch bền vững thành công đòi hỏi một quá trình can dự chặt chẽ. Nó bao gồm những ý
tưởng rõ ràng về mục đích và mục tiêu, biết nơi khách cần tới, sắp đặt những mục đích và
mục tiêu ấy trong khuôn khổ những quy định pháp lý và xã hội, và sau đó thương thảo với các
nhóm lợi ích liên quan nhằm dung hòa các nhu cầu với nhau. Nó cũng có nghĩa là tiếp tục
theo dõi xem đã đạt được những mục tiêu xác định chưa, và nếu chưa thì quyết định phải làm
gì để điều chỉnh chương trình cho đúng hướng. Toàn bộ quá trình này về lý thuyết có vẻ đơn
giản, nhưng thực ra lại rất khó duy trì và thực hiện trong thực tế.
Một lần có người nói với tôi, “Ý tưởng phải là sự đồng cảm chứ không phải áp đặt”. Vì lẽ đó,
với sự hỗ trợ của Gina Dogget, một biên tập viên cừ khôi, tôi cố gắng lái nội dung tài liệu này
theo hướng đó.
Arthur Pedersen
Tác giả
_____________________________________________________________
7
8
Mục lục
Lời giới thiệu
Trang 11
Công ước Di sản thế giới (1)
1
Trang 13
Ngành công nghiệp Du lịch: những gợi ý đối với các nhà quản lý (2)
2
Trang 23
Du lịch: Tác động và các vấn đề đặt ra (3)
3
Trang 33
4
Trang 45
Xác định Mục đích Chính sách và Mục tiêu quản lý (5)
5
Trang 57
Năng lực thực hiện và các vấn đề hoạch định kế hoạch liên quan (6)
6
Trang 73
Chiến lược và Giải pháp đối với các vấn đề Quản lý Du lịch (7)
7
Trang 85
Quảng bá Khu Di sản (8)
8
Trang 105
Thu hút những người có lợi ích:
Lợi ích và Thách thức từ sự tham gia của công chúng (4)
Phụ lục 1: Khảo sát Du khách: Kỹ thuật và Mẫu Phiếu
Trang 119
Phụ lục 2: Hiến chương Quốc tế về Du lịch Văn hóa
Trang 127
Phụ lục 3: Các NXB sách hướng dẫn, Tạp chí và Báo chí
Trang 133
Lời cám ơn
Trang 139
9
10
Lời giới thiệu
Du lịch là một trong những ngành công nghiệp lớn nhất thế giới. Hội đồng Lữ hành và Du
lịch thế giới (WITC) ước tính du lịch mang lại khoảng 12% GNP toàn thế giới. Theo nhiều
nghiên cứu dự đoán sự tiếp tục tăng trưởng thì du lịch đang là một nhân tố ngày càng quan
trọng trong việc hoạch định và quản lý các khu Di sản thế giới của UNESCO.
Mặc dù chưa có những số liệu chính thức, song việc đưa một khu vực vào danh sách Di sản
thế giới thường trùng hợp với tỷ lệ tăng nhanh về số lượng du khách. Ngay cả với tốc độ hiện
nay, du lịch đang là một vấn đề quan trọng ở các khu Di sản thế giới. Một nghiên cứu vào
năm 1993 của UNESCO và Chương trình Môi trường của Liên Hiệp Quốc (UNEP) cho thấy
phần lớn các nhà quản lý khu di sản thiên nhiên coi du lịch là một vấn đề then chốt. Các cuộc
phỏng vấn, khảo sát do Ủy ban Di sản thế giới tiến hành cũng đã phát lộ ra những mối quan
tâm tương tự.
Du lịch có những lợi thế mà ai cũng thấy: lệ phí du khách vào thăm, tiền miễn giảm thuế và
các khoản đóng góp cung cấp ngân quỹ cho các nỗ lực trùng tu và bảo vệ di sản. Du khách có
thể trở thành những người bạn của khu di sản và có thể góp phần kêu gọi trợ giúp quốc tế.
Các hãng tổ chức tour du lịch và hệ thống khách sạn có thể có vai trò trong việc quản lý di sản
bằng các đóng góp tài chính, trợ giúp những nỗ lực theo dõi hoặc hướng dẫn du khách của họ
có trách nhiệm khi viếng thăm. Du lịch cũng có thể thúc đẩy các giá trị văn hóa bằng cách hỗ
trợ các ngành nghề thủ công địa phương, hoặc tạo ra những hoạt động kinh tế có chọn lọc.
Thế nhưng du lịch cũng đưa lại nhiều vấn đề mà ai cũng biết. Quản lý tốc độ tăng trưởng
nhanh của ngành du lịch là một quá trình tốn kém thời gian, đòi hỏi phải có chính sách rõ
ràng, đối thoại liên tục với bên liên quan và thường xuyên giám sát. Các hoạt động du lịch đòi
hỏi phải có đánh giá về tác động của nó đối với môi trường (EIAs) cùng những thủ tục giảm
thiểu những tác động đó. Ở những khu di sản với nguồn ngân sách và số nhân viên hạn hẹp,
du lịch ngày càng tăng có thể làm căng thẳng nguồn lực hạn hẹp và làm các nhà quản lý xao
nhãng nỗ lực bảo vệ.
Trong khi du lịch có thể đóng góp vào các nỗ lực bảo vệ và trùng tu di sản, thì sự cân bằng
đúng mức giữa lợi ích kinh tế và những tác động ngoài ý muốn lại khó xác định. Các nhà
quản lý biết rằng muốn thu hút du khách thì cần thường xuyên đổi mới để cạnh tranh. Trong
trường hợp các khu Di sản thế giới, họ cũng biết mình phải tuân thủ quy tắc quốc tế trong việc
duy trì hoặc phục hồi giá trị gốc của khu di sản. Trách nhiệm này đặt ra nhiều vấn đề khó như
được phép thay đổi đến mức độ nào để có thể đáp ứng được sức tăng trưởng của ngành du
lịch. Một vấn đề khác là cần bảo đảm một phần thu nhập từ du lịch được dành cho cộng đồng
để có thể hỗ trợ những nỗ lực bảo vệ, bảo tồn và tôn tạo ở địa phương.
Để đáp ứng những thách thức này và những thách thức khác, các nhà quản lý đã yêu cầu được
huấn luyện và có những thông tin về Di sản thế giới cũng như những ví dụ cụ thể về thủ tục
xử lý các vấn đề hoạch định du lịch. Trung tâm Di sản thế giới đã đáp ứng bằng cách tăng
cường hỗ trợ cho việc huấn luyện các kỹ năng quản lý du lịch, kể cả việc phát hành tài liệu
này.
11
Tài liệu này đề ra cách giải quyết những yêu cầu mà các nhà quản lý và các trung tâm đào tạo
đã nêu ra. Nó cung cấp một hệ phương pháp luận nhằm giúp các nhà quản lý giải quyết những
vấn đề liên quan đến du lịch. Nó cũng lập định một hệ thuật ngữ chung nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho việc trao đổi thông tin và liên lạc giữa các nhà quản lý. Các chủ đề được đề cập
bao gồm UNESCO, Công ước Di sản thế giới và Trung tâm Di sản thế giới, ngành công
nghiệp du lịch, huy động tham gia của công chúng, nâng cao năng lực, tác động của du lịch,
chiến lược quản lý du khách, giới thiệu và quảng bá, trong đó nhiều chủ đề được minh họa
bằng những nghiên cứu điểm ngắn gọn.
Tài liệu cũng đưa ra một loạt biện pháp khả dĩ áp dụng cho các cuộc thăm dò khảo sát, theo
dõi chính sách, thực hiện quản lý, quảng bá khu di sản và liên hệ với những người có lợi ích.
Các nhà quản lý có thể lựa chọn những biện pháp thích hợp với các di tích khác nhau và có
thể tuỳ cơ ứng dụng.
Người đọc sẽ thấy tài liệu này đề cập đến vấn đề du lịch ở các khu di sản văn hóa cũng như
thiên nhiên. Trong khi việc quản lý du khách đặt ra nhiều vấn đề khác nhau tùy thuộc vào khu
vực đó là di sản văn hóa hay thiên nhiên thì cả hai loại di sản đều có những quan tâm giống
nhau, như xác định mục đích và mục tiêu, làm việc với những người có lợi ích, xử lý vấn đề
nâng cao năng lực cùng các hoạt động giới thiệu và quảng bá. Hơn nữa, nhiều khu Di sản thế
giới tuy được liệt hoặc vào danh sách di sản văn hóa hoặc thiên nhiên, nhưng đều phải bảo vệ
cả hai loại nguồn lực.
Kinh nghiệm cho thấy quản lý du khách là hoạt động cân bằng trong đó đòi hỏi phải có chính
sách du lịch dựa trên mục tiêu bảo toàn và bảo tồn và những chính sách này sẽ được những
người có lợi ích ủng hộ, đồng thời tôn trọng các quy định luật pháp, khuyến khích các cuộc
tranh luận và theo dõi các hoạt động du lịch. Tài liệu này cố gắng kết hợp nhiều yếu tố nhằm
cung cấp cho các nhà quản lý một khung thực tế làm cơ sở cho những nỗ lực của họ.
__________________________________
12
Công ước Di sản Thế giới
13
Công ước Di sản Thế giới
1
Hiểu rõ những trách nhiệm ghi trong
Công ước Di sản thế giới là điều chủ yếu
trong quá trình hoạch định chính sách
và ra quyết định. Hướng dẫn Đường lối
Thao tác đi kèm Công ước có một ý
nghĩa rộng lớn đối với việc quản lý du
lịch, với những hướng dẫn hữu ích về
việc thực hiện trách nhiệm, như việc
phải có báo cáo thường kỳ. Hệ thống Di
sản thế giới cũng tạo ra những cơ hội
độc đáo, và Trung tâm Di sản thế giới
cũng đưa ra một loạt các phương sách
dành cho các nhà quản lý du lịch, kể cả
các tài liệu cho ngành thông tin đại
chúng.
1.1.
Công ước Di sản thế giới
1.1.1 Công ước Bảo vệ Di sản Văn hóa
và Thiên nhiên thế giới, ký tại Paris ngày
16 tháng 11 năm 1972, là một thỏa ước
quốc tế trong đó các quốc gia cùng bảo
vệ các di sản trường tồn của thế giới. Mỗi
quốc gia, hoặc “Quốc gia thành viên”
tham gia Công ước công nhận trách nhiệm
chính của mình nhằm đảm bảo việc xác
định, bảo vệ, bảo tồn và chuyển giao các
di sản văn hóa và thiên nhiên của đất nước
cho các thế hệ tương lai.
Cho đến nay, đã có trên 170 quốc gia ký
kết Công ước, vì vậy Công ước này trở
thành một trong những công cụ bảo vệ có
uy lực nhất trên thế giới. Đây là văn bản
pháp lý quốc tế duy nhất để bảo vệ di sản
văn hóa và thiên nhiên trong đó khuyến
khích sự hợp tác giữa các quốc gia nhằm
bảo vệ di sản của họ.
1.1.2 Ủy ban Di sản Thế giới Liên
Chính phủ gồm có 21 quốc gia thành
viên được Đại hội đồng các quốc gia
thành viên Công ước bầu chọn với
nhiệm kỳ sáu năm. Ủy ban chịu trách
nhiệm thực hiện Công ước và quyết định
di sản nào sẽ được đưa vào Danh sách Di
sản Thế giới dựa trên các khuyến nghị của
hai cơ quan tư vấn là Hội đồng Quốc tế về
Di tích và Di chỉ (ICOMOS) - chịu trách
nhiệm về di tích văn hóa, và Liên đoàn
Bảo toàn Thiên nhiên Thế giới (IUCN)chịu trách nhiệm về di tích thiên nhiên.
Một cơ quan tư vấn thứ ba là Trung tâm
Quốc tế Nghiên cứu Bảo tồn và Trùng tu
Di sản Văn hóa (ICCROM). Trung tâm
này có trách nhiệm tư vấn về chuyên môn
trong lĩnh vực trùng tu di tích và quản lý
di sản văn hóa, cũng như việc tổ chức đào
tạo chuyên gia.
Sáu thành viên của Văn phòng Ủy ban Di
sản thế giới, với nhiệm vụ hỗ trợ Ủy ban
trong việc diễn giải Công ước, sẽ họp một
năm hai lần để đánh giá các yêu cầu đề cử
vào danh sách Di sản thế giới và hỗ trợ tài
chính. Ủy ban và Văn phòng xem xét các
báo cáo về “tình hình bảo toàn di sản” đối
với các di sản đã được đưa vào Danh sách
Di sản Thế giới. Cả Ủy ban và Văn phòng
đưa ra các khuyến nghị cho các quốc gia
thành viên về bảo toàn và hỗ trợ kỹ thuật
hoặc tài chính ở mức thích đáng và trong
giới hạn ngân sách cho phép để đảm bảo
việc bảo vệ tính toàn vẹn và chân thực của
các di chỉ.
Công ước Bảo vệ Di sản Văn hóa và
Thiên nhiên thế giới (trích)
...Trước tình trạng các di sản ngày càng bị
đe dọa nghiêm trọng trên diện rộng, toàn
thể cộng đồng quốc tế phải có phận sự
tham gia vào việc bảo vệ các di sản văn
hóa và thiên nhiên có giá trị toàn cầu nổi
bật bằng cách hỗ trợ tập thể, và cho dù
không làm thay công việc của quốc gia liên
quan, nhưng việc này sẽ góp phần hỗ trợ
có hiệu quả.
Mỗi quốc gia thành viên Công ước công
nhận rằng trách nhiệm xác định, bảo vệ,
bảo toàn, tôn tạo và chuyển giao cho thế
hệ tương lai các di sản văn hóa và thiên
nhiên... có trên lãnh thổ của mình là nhiệm
vụ hàng đầu của quốc gia.
...Các quốc gia thành viên Công ước công
nhận rằng đối với những di sản được ghi
trong danh sách Di sản thế giới, toàn thể
cộng đồng quốc tế có trách nhiệm hợp tác
bảo vệ.
Một Ủy ban Liên chính phủ Bảo vệ Di sản
Văn hóa và Thiên nhiên có giá trị toàn cầu
nổi bật được gọi là “Ủy ban Di sản thế
giới” sẽ được thành lập trong khuôn khổ
của UNESCO.
14
Công ước Di sản Thế giới
Ủy ban này sẽ xây dựng, cập nhật và khi
điều kiện đòi hỏi sẽ ban hành“Danh sách
những Di sản thế giới đang bị đe dọa” là
một danh mục các tài sản đã được nêu
trong danh sách Di sản thế giới mà việc
bảo toàn cần những hành động lớn và cần
được hỗ trợ theo Công ước.
Bất cứ quốc gia thành viên nào của Công
ước đều có thể yêu cầu quốc tế hỗ trợ đối
với những tài sản là một phần của di sản
văn hóa hay thiên nhiên có giá trị toàn cầu
nổi bật tọa lạc trên lãnh thổ của mình.
Công ước bảo vệ hàng trăm khu di chỉ “có
giá trị toàn cầu nổi bật”, bao gồm các di
chỉ văn hóa, thiên nhiên hoặc di chỉ văn
hóa và thiên nhiên kết hợp. Để được đưa
vào danh sách Di sản thế giới, một tài sản
cần phải đáp ứng một hoặc nhiều tiêu chí
văn hóa hay thiên nhiên cụ thể, và phải
chứng minh được các giá trị nguyên vẹn
và/hoặc nguyên bản của nó. Công ước quy
định bốn tiêu chí cho các khu di chỉ thiên
nhiên và sáu tiêu chuẩn cho các khu di chỉ
văn hóa để quyết định xem với những giá
trị ấy, các tài sản sản này có được đưa vào
danh sách Di sản thế giới hay không.
1.1.3. Việc xin đăng ký vào danh sách Di
sản thế giới phải do quốc gia thành viên
thực hiện. Đơn xin bao gồm một kế hoạch
chi tiết về quản lý và bảo vệ khu di chỉ, ghi
rõ những giá trị Di sản thế giới của khu đó
và chứng minh tại sao nó cần được đưa vào
danh sách Di sản thế giới. Ủy ban Di sản
thế giới sẽ quyết định ghi khu vực này vào
danh sách sau khi xem xét những đánh giá
của ICOMOS và/hoặc IUCN.
1.1.4. Các khu Di sản thế giới được đưa
vào danh sách “Di sản thế giới bị đe dọa”
khi Ủy ban Di sản thế giới cho rằng khu
vực đó đang đứng trước những nguy cơ
hiện có hoặc tiềm ẩn, chẳng hạn như sự
xuống cấp do quá trình đô thị hóa không
được kiểm soát, hoặc khai thác không
mang tính bền vững các tài nguyên thiên
nhiên. Ủy ban có thể được cảnh báo về
những hiểm họa có thể có đối với khu Di
sản thế giới và sau khi tham khảo quốc gia
thành viên liên quan, sẽ quyết định xem có
nên đưa nó vào danh sách Di sản thế giới
bị đe dọa hay không.
Danh sách Di sản thế giới bị đe doạ có thể
đóng vai trò như một công cụ bảo toàn,
cho phép các nước được tiếp cận sự hỗ trợ
quốc tế. Nó cũng là cách huy động sự ủng
hộ của chính giới và công chúng ở cấp
quốc gia nhằm bảo toàn khu vực đang bị
đe dọa.
1.2. Các trách nhiệm theo Công ước
1.2.1. Trách nhiệm của quốc gia thành
viên. Khi một khu di chỉ đã được ghi vào
danh sách Di sản thế giới, trách nhiệm
hàng đầu của quốc gia thành viên là duy trì
các giá trị mà di chỉ này đã được ghi nhận.
Điều 5 của Công ước yêu cầu mỗi quốc gia
thành viên phải bảo vệ, bảo toàn và giới
thiệu di sản văn hóa và thiên nhiên có trên
lãnh thổ của mình bằng những hành động
pháp lý thích đáng. Công ước khuyến nghị
các chính phủ “có chính sách chung nhằm
tạo cho di sản văn hóa và thiên nhiên có
chức năng trong đời sống của cộng đồng,
và đưa việc bảo vệ di sản đó vào các
chương trình hoạch định tổng thể”. Các
khuyến nghị này bao gồm việc xem xét các
kế hoạch cấp địa phương và quốc gia, dự
báo tăng trưởng hay suy giảm dân số, các
yếu tố kinh tế và hướng phát triển giao
thông, cũng như có các biện pháp phòng
ngừa thảm họa.
1.2.2. Trách nhiệm của Trung tâm Di
sản thế giới. Trung tâm di sản Thế giới
được thành lập năm 1992 chính là ban thư
ký của các cơ quan điều hành thuộc Công
ước. Nó giúp các quốc gia thành viên thực
hiện Công ước, phát triển và tăng cường
năng lực cấp địa phương và quốc gia nhằm
bảo vệ và quản lý lâu dài các khu di chỉ.
Trung tâm điều phối việc trao đổi kinh
nghiệm chuyên môn và hỗ trợ quốc tế, thu
thập và phổ biến thông tin về thực trạng
của các khu Di sản thế giới và duy trì ngân
hàng dữ liệu trong đó có hồ sơ đăng ký các
khu Di sản thế giới. Trung tâm phối hợp
chặt chẽ với các quốc gia thành viên, các
cơ quan tư vấn và các ban ngành Văn hóa,
Khoa học, Giáo dục, Khoa học Xã hội và
Nhân văn và Thông tin liên lạc của
15
1
1
Công ước Di sản Thế giới
UNESCO. Ngoài ra, Trung tâm còn chuẩn
bị các tài liệu thông tin cho các phương
tiện truyền thông, các nhà hoạch định
chính sách, chính quyền địa phương, khu
vực tư nhân, các cộng đồng địa phương và
những người quản lý các khu di chỉ.
Những thông tin này được phát hành dưới
dạng ấn phẩm hoặc phổ biến trên Internet.
1.3.
Hướng dẫn của Trung tâm Di sản
thế giới
1.3.1. Các hoạt động liên quan đến du
lịch do Trung tâm Di sản thế giới tiến
hành. Trung tâm Di sản thế giới tham gia
vào một loạt các hoạt động liên quan đến
du lịch như tiến hành các đợt nghiên cứu,
xem xét các dự án phát triển du lịch ảnh
hưởng thế nào tới giá trị của khu di chỉ đã
được ghi nhận. Chẳng hạn, Trung tâm đã
đánh giá tác động của các chuyến bay trực
thăng ở khu Thác Iguacu của Brazil, tác
động của du lịch đối với động thực vật
hoang dã ở quần đảo Galapagos, của các
dự án cáp treo ở Machu Picchu của Peru và
ở Vườn quốc gia Morne Trois Piton của
Dominica, sự giảm thiểu và quản lý các
luồng du khách ở các khu di chỉ Alhamra,
Generalife và Albayzin ở Granada của Tây
Ban Nha.
Công ước Di sản thế giới và các thể chế
liên quan
Theo Công ước, Ủy ban Di sản thế giới
gồm 21 thành viên được Đại hồi đồng các
quốc gia thành viên bầu hai năm một lần
với nhiệm kỳ 6 năm. Ủy ban sẽ được các
ban tư vấn khác nhau tư vấn về kỹ thuật
trong việc lựa chọn các khu để đưa vào
danh sách Di sản thế giới và việc hoạch
định các hoạt động của Uỷ ban.
Đặc biệt, Công ước quy định rõ vai trò của
ba cơ quan tư vấn hỗ trợ cho Ủy ban về
các vấn đề kỹ thuật. Hội đồng Quốc tế về
Các Di tích và Di chỉ (ICOMOS), một tổ
chức phi chính phủ (NGO) thành lập năm
1965 có ban thư ký quốc tế đặt tại Pa-ri
trợ giúp Uỷ ban Di sản thế giới trong việc
lựa chọn các khu di sản văn hóa để đưa
vào danh sách Di sản thế giới. Trung tâm
Quốc tế Nghiên cứu Bảo tồn và Trùng tu
các Di sản văn hóa (ICCROM), một cơ
quan liên chính phủ do UNESCO thành
lập năm 1956 có trụ sở tại Roma tư vấn về
kỹ thuật cho việc bảo toàn các tài sản văn
hóa và các hoạt động đào tạo. Liên đoàn
Thế giới về Bảo toàn Thiên nhiên (IUCN),
một cơ quan liên chính phủ khác do
UNESCO thành lập từ năm 1948 có trụ sử
tại Gland, Thụy Sỹ tư vấn cho Ủy ban về
việc lựa chọn và bảo toàn các khu Di sản
thiên nhiên.
UNESCO đặc biệt được nói đến trong
Công ước với vai trò là Ban thư ký của Ủy
ban Di sản thế giới. Để điều phối các hoạt
động liên quan đến Di sản thế giới, vốn
từng được nhiều bộ phận khác nhau trong
UNESCO đảm nhiệm từ khi hình thành
Công ước, năm 1992, Tổng Giám Đốc
UNESCO đã thành lập Trung tâm Di sản
thế giới đóng vai trò đầu mối trong Tổ
chức. Trung tâm quản lý Quỹ Di sản thế
giới, theo dõi bổ sung danh sách và dữ liệu
các khu Di sản thế giới và tổ chức các
cuộc họp của các cơ quan điều hành của
Công ước như Ủy ban Di sản thế giới. Nó
cũng tổ chức trợ giúp kỹ thuật khi các
nước thành viên yêu cầu, huy động hợp tác
quốc tế, đặc biệt là trong các hoạt động
khẩn cấp khi các khu Di sản thế giới bị đe
dọa, và điều phối việc báo cáo về tình
trạng của các khu di sản. Trung tâm Di
sản thế giới của UNESCO cũng đảm nhận
trách nhiệm tổ chức các hội thảo, các lớp
tập huấn kỹ thuật, xây dựng các tài liệu
giảng dạy để nâng cao hiểu biết của công
chúng về các khái niệm Di sản thế giới và
thông báo cho các phương tiện thông tin
đại chúng những vấn đề liên quan. Trung
tâm phối hợp chặt chẽ với các thiết chế
khác trong Tổ chức và các thể chế chuyên
môn khác.
Công ước Di sản thế giới có ảnh hưởng
liên tục tới các chính sách về du lịch. Ở
Quần đảo Galapagos, các chuyên gia với
sự hỗ trợ của Quỹ Di sản thế giới đã đóng
góp vào các chính sách nhằm huy động tối
đa nguồn du khách, cùng các biện pháp
giảm thiểu tác động đối với khu di sản. Ở
những nơi khác, ví dụ khu Di sản thế giới
El Vizcaino, du lịch bền vững đã được
kiến nghị như một giải pháp thay thế cho
16
Công ước Di sản Thế giới
các hoạt động kinh tế đang đe dọa khu di
chỉ này.
Nhân viên của Trung tâm Di sản thế giới
còn hỗ trợ cho các lớp tập huấn về Di sản
thế giới và việc quản lý các khu vực được
bảo vệ. Du lịch là chủ đề được đề cập
nhiều ở hầu hết các lớp tập huấn. Một số
lớp tập huấn tập trung đặc biệt vào các lối
thoát về du lịch như về Du lịch bền vững ở
Huế, Việt Nam năm 1993, và Du lịch và
Cộng đồng địa phương ở Bhaktapur, Nepal
năm 2000. Năm 1993, Trung tâm cùng với
UNEP tiến hành nghiên cứu “Quản lý Du
lịch ở các Khu Di sản thiên nhiên thế
giới”. Thông tin thu được từ nghiên cứu
này cho thấy các nhà quản lý khu di chỉ coi
du lịch là một vấn đề quản lý then chốt.
Những phát hiện như vậy đã vạch hướng
cho những nỗ lực được ghi trong Tài liệu
này do UNEP và Hãng du lịch Thụy Điển
TEMA phối hợp biên soạn.
Tiêu chí để đưa Tài sản Văn hóa vào
danh sách Di sản thế giới
Tiêu chí để đưa các Tài sản văn hóa vào
danh sách Di sản thế giới được nêu rõ
trong Điều 1 của Công ước mà chúng tôi
ghi lại dưới đây.
Các di tích: Các công trình kiến trúc, tác
phẩm điêu khắc và hội họa hoành tráng,
các yếu tố hay các cấu trúc có tính chất
khảo cổ học, bi ký, hang cư trú và các đặc
trưng kết hợp, có giá trị nổi bật toàn cầu
xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật và
khoa học;
Quần thể các công trình xây dựng: Quần
thể các công trình xây dựng tách biệt hay
liên kết lại với nhau mà, do kiến trúc của
chúng, do tính đồng nhất hoặc vị trí của
chúng trong cảnh quan, có giá trị nổi bật
toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, nghệ
thuật và khoa học;
Các di chỉ: các công trình do con người
tạo nên hoặc có sự kết hợp giữa thiên
nhiên và nhân tạo, và các khu vực trong đó
có các di chỉ khảo cổ có giá trị nổi bật
toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, thẩm
mỹ, dân tộc học hoặc nhân chủng học.
Một di tích, một quần thể các công trình
xây dựng hoặc một di chỉ được định nghĩa
như trên nếu đề nghị được đưa vào danh
sách Di sản thế giới sẽ được coi là có “giá
trị toàn cầu nổi bật” phù hợp với mục tiêu
của Công ước khi Ủy ban thấy rằng chúng
đáp ứng một hoặc nhiều tiêu chí sau đây,
và chứng minh được tính nguyên bản của
chúng. Vì vậy, mỗi di sản đệ trình cần
phải:
(i) là một kiệt tác cho thấy thiên tài sáng
tạo của con người, hoặc
(ii) biểu hiện sự giao lưu các giá trị của
con người, trong một thời gian dài hoặc
trong một khu vực văn hóa của thế giới, về
những bước phát triển trong kiến trúc,
nghệ thuật tượng đài hoặc quy hoạch
thành phố và thiết kế cảnh quan; hoặc
(iii) là minh chứng độc đáo hoặc chí ít
cũng là hiếm có cho truyền thống văn hóa
hoặc cho một nền văn minh còn đang tồn
tại hoặc đã mất; hoặc
(iv) là một mẫu hình nổi bật của một loại
công trình xây dựng hoặc quần thể kiến
trúc hay cảnh quan minh họa cho một
(các) giai đoạn trong lịch sử loài người;
hoặc
(v) là một mẫu hình nổi bật về nơi sinh
sống truyền thống hoặc sử dụng đất đai
của con người đại diện cho một (hoặc
nhiều) nền văn hóa, đặc biệt khi nó trở nên
dễ bị tổn thương do tác động của những
biến đổi không cưỡng lại được; hoặc
(vi) liên quan trực tiếp hoặc đích thực tới
các sự kiện hay truyền thống đang còn tồn
tại, với những ý tưởng hoặc niềm tin, với
các tác phẩm nghệ thuật hoặc văn học có ý
nghĩa toàn cầu nổi bật (tiêu chuẩn này chỉ
được xem xét trong những hoàn cảnh đặc
biệt hoặc liên quan đến các tiêu chí văn
hóa hoặc thiên nhiên khác khi Ủy ban xem
xét có đưa vào danh sách Di sản thế giới
hay không).
Tiêu chí để đưa các tài sản thiên nhiên
vào danh sách Di sản thế giới
Theo Điều 2 của Công ước, những tài sản
sau đây được coi là Di sản Thiên nhiên:
“Các đặc trưng tự nhiên bao gồm thành
tạo hoặc các nhóm thành tạo vật lý hoặc
sinh học có giá trị nổi bật toàn cầu xét
17
1
Công ước Di sản Thế giới
1
theo quan điểm thẩm mỹ hoặc khoa học;
các thành tạo địa chất hoặc địa văn và các
khu vực có ranh giới được xác định chính
xác tạo thành một môi sinh của các loài
động thực vật đang bị đe dọa có giá trị nổi
bật toàn cầu xét theo quan điểm khoa học
hoặc bảo toàn; các di chỉ tự nhiên hoặc
các khu vực tự nhiên có ranh giới được xác
định chính xác có giá trị nổi bật toàn cầu
xét theo quan điểm khoa học, bảo toàn
hoặc vẻ đẹp tự nhiên”
Một tài sản thiên nhiên - như đã định
nghĩa trên - khi được đệ trình để đưa vào
danh sách Di sản thế giới, sẽ được coi là
“có giá trị toàn cầu nổi bật” theo mục tiêu
của Công ước nếu Ủy ban thấy chúng đáp
ứng một hay nhiều tiêu chí sau đây, và đáp
ứng đầy đủ những điều kiện toàn vẹn dưới
đây. Do đó, các khu được đệ trình cần
phải:
(i) là những mẫu hình nổi bật tiêu biểu
cho các giai đoạn lớn của lịch sử trái đất,
bao gồm hồ sơ về sự sống, các tiến trình
địa chất có ý nghĩa đang diễn ra trong sự
phát triển của địa hình hoặc các đặc điểm
địa mạo hay địa văn có ý nghĩa; hoặc
(ii) là những mẫu hình nổi bật tiêu biểu
cho các quá trình sinh thái và sinh học
đang diễn ra trong sự tiến hóa và phát
triển của các hệ sinh thái đất, nước ngọt,
vùng duyên hải ven biển và của các cộng
đồng động thực vật; hoặc
(iii) chứa đựng những hiện tượng tự nhiên
siêu phàm hoặc những khu vực có vẻ đẹp
tự nhiên kiệt xuất có tầm quan trọng về
thẩm mỹ, hoặc
(iv) chứa đựng những khu cư trú tự nhiên
quan trọng và có ý nghĩa nhất đối với việc
bảo toàn tại chỗ tính đa dạng sinh học,
bao gồm cả các loài có giá trị toàn cầu nổi
bật có nguy cơ tuyệt chủng theo quan điểm
khoa học và bảo toàn.
Để tăng tính hiệu quả quản lý, Trung tâm
đang thành lập trang thông tin trên mạng
để cho các nhà quản lý có thể cùng tham
gia vào các cuộc nghiên cứu điểm và chia
sẻ những cách làm hay nhất, từ đó họ có
thể áp dụng những cách tiếp cận nào thích
hợp với khu vực mình phụ trách. Cùng với
các ban ngành khác của UNESCO, Trung
tâm đang hỗ trợ Hiến chương Du lịch Văn
hóa Bền vững của ICOMOS. Những
hướng dẫn trong Hiến chương bao gồm
một phác thảo đầy đủ các chính sách du
lịch văn hóa có khả năng hỗ trợ phát triển
chính sách trong nước và ở cấp độ khu di
sản. Rất nhiều khuyến nghị có thể được áp
dụng đối với các khu di sản thiên nhiên.
1.3.2 Các hướng dẫn tác nghiệp. Các
hướng dẫn tác nghiệp cho việc thực hiện
Công ước Di sản thế giới đề ra các bước
mà quốc gia thành viên phải thực hiện để
hoàn thành trách nhiệm bảo vệ di sản. Các
hướng dẫn này bao gồm thông tin về việc
theo dõi, sử dụng biểu trưng của Di sản thế
giới và các cơ hội hỗ trợ khẩn cấp về kỹ
thuật, công tác huấn luyện và chuẩn bị. Ở
cấp độ khu di sản, Hướng dẫn tác nghiệp
có thể cung cấp cho các nhà quản lý các
thông tin về những hỗ trợ hiện có qua
mạng lưới Di sản thế giới.
1.3.3. Các tài liệu quảng bá và giáo dục
sẵn có thông qua Trung tâm bao gồm một
bộ 30 panô trưng bày giải thích tiến trình
Bảo vệ Di sản thế giới, từ việc xác định
khu vực có tiềm năng đến việc đưa vào
danh sách và quản lý Di sản thế giới.
Những tài liệu này có thể được miễn phí
bản quyền nếu sử dụng vào các mục đích
phi thương mại. Chúng có thể tải về dưới
dạng PDF file trên internet, hoặc trực tiếp
từ Trung tâm Di sản thế giới. Chủ đề và
nội dung có trong danh sách được liệt kê
dưới đây:
• Du lịch và Quản lý khu di sản
• Du lịch bền vững: làm cách nào để
giữ cân bằng giữa du lịch và quản lý di
sản một cách hiệu quả nhất
Các khu Di sản thế giới thu hút du khách,
và du lịch là ngành công nghiệp phát triển
nhanh nhất và lớn nhất thế giới. Cái giá
phải trả cho sự bùng nổ du lịch đối với tính
toàn vẹn của các khu di sản là gi?
• Văn hóa/Thiên nhiên: mối quan hệ
với bảo tồn
Biểu trưng của Di sản thế giới cho thấy rõ
sự phụ thuộc lẫn nhau giữa đa dạng văn
hóa và đa dạng thiên nhiên của thế giới.
Vào năm 1994, Ủy ban Di sản thế giới
thông qua chiến lược toàn cầu nhằm xây
dựng một Danh sách Di sản thế giới có
tính đại diện hơn trong thế kỷ 21. Nó cung
18
Công ước Di sản Thế giới
cấp một khung khái niệm cũng như
phương pháp tác nghiệp thực tế.
• Cảnh quan văn hóa: tác động qua lại
giữa con người và tự nhiên
Là một phần trong nỗ lực xây dựng danh
sách Di sản thế giới mang tính toàn cầu và
có tính đại diện hơn, khái niệm cảnh quan
văn hóa được đưa ra vào năm 1992 nhằm
công nhận mối tương tác có ý nghĩa giữa
con người và môi trường tự nhiên.
• Dự án các thành phố: tầm nhìn thế
kỷ 21
Là trung tâm của phép lịch sự và phong
cách tao nhã là nơi trao đổi và gặp gỡ, qua
thử thách thời gian, các thành phố đã đóng
vai trò quan trọng trong sự phát triển của
các nền văn minh.
• Di sản thế giới trong tay thế hệ trẻ
Chỉ bằng cách gây dựng được ý thức trách
nhiệm sâu sắc trong giới trẻ đối với Di sản
thế giới, chúng ta mới có thể vững tin rằng
sự đa dạng văn hóa và thiên nhiên của
hành tinh này sẽ còn tồn tại cho đến mai
sau.
Một điều cũng đáng quan tâm là bộ tài liệu
giáo dục dành cho giáo viên nhan đề “Di
sản thế giới trong tay thế hệ trẻ”. Bộ tài
liệu này được phát hành bằng tiếng Ả rập,
tiếng Trung Quốc, tiếng Anh, Pháp và Tây
Ban Nha, với khoảng hơn 20 thứ tiếng
khác đang trong quá trình chuẩn bị. Tài
liệu này cũng được đăng trên mạng Trung
tâm Di sản thế giới của UNESCO hoặc có
bán tại các hiệu sách của LHQ và
UNESCO bằng tiếng Anh, Pháp và Tây
Ban Nha.
Một số phim về các khu Di sản thế giới đã
được phát hành (có thể lấy thông tin qua
Trung tâm Di sản thế giới).
1.3.4. Sử dụng biểu tượng Di sản thế giới.
Biểu tượng với khả năng gây quỹ có thể
được sử dụng nhằm làm tăng giá trị thị
trường của các sản phẩm liên quan. Biểu
tượng tượng trưng cho Công ước, thể hiện
sự gắn kết của các nước thành viên đối với
Công ước và dùng để xác định các khu
được ghi trong danh sách Di sản thế giới.
Biểu tượng này phải được dùng để thúc
đẩy các mục tiêu của Công ước và tăng
cường hiểu biết về Công ước trên phạm vi
toàn cầu. Nó không nên được sử dụng cho
các mục đích thương mại nếu không được
phép. Hướng dẫn Tác nghiệp bao gồm các
chỉ dẫn về việc các khu Di sản thế giới và
các bên hợp đồng khác sử dụng biểu
tượng, đặc biệt các bên hoạt động vì những
mục đích chủ yếu là thương mại.
1.4. Theo dõi hoạt động của các nhà quản lý
1.4.1. Theo dõi để xử lý. Có nhiều cách
giúp các nhà quản lý khu Di sản thế giới
theo dõi khu vực mình phụ trách. Khi
một khu di sản có nguy cơ bị đe dọa, Ủy
ban Di sản thế giới hoặc quốc gia thành
viên có thể yêu cầu theo dõi để xử lý. Trên
cơ sở báo cáo kết quả theo dõi, Ủy ban Di
sản thế giới sẽ có những khuyến nghị để
xử lý vấn đề. Những khuyến nghị này
được sử dụng ở nơi nào cần thiết nhằm kêu
gọi trực tiếp sự trợ giúp quốc tế. Việc này
có thể bao gồm hỗ trợ tài chính cho những
nghiên cứu về các hoạt động kinh tế thay
thế ít có tác động tiêu cực đến khu di sản,
chẳng hạn như chương trình du lịch bền
vững. Các đoàn theo dõi được Trung tâm
Di sản thế giới tổ chức với sự tham gia của
các chuyên gia quốc tế.
Mục đích của việc báo cáo định kỳ
Để bảo đảm việc thực hiện có hiệu quả
Công ước Di sản thế giới, điều chủ yếu là
tất cả các đương sự liên quan đều phải
nắm được những thông tin cập nhật về việc
áp dụng Công ước và thực trạng bảo toàn
các Di sản thế giới.
Để có được những thông tin này, tại phiên
họp thứ 22 năm 1998, Ủy ban Di sản thế
giới đã có một số quyết định về các báo
cáo định kỳ . Phù hợp với điều 29 của
Công ước Di sản thế giới, các quốc gia
thành viên của Công ước sẽ đệ trình các
báo cáo định kỳ cung cấp thông tin về
“những quy định pháp lý và hành chính
mà họ đã thông qua và bất cứ hành động
nào mà họ đã tiến hành nhằm áp dụng
Công ước này, cùng với những chi tiết về
kinh nghiệm mà họ đã thu được trong lĩnh
vực này”.
Báo cáo định kỳ nhằm:
19
1
Công ước Di sản Thế giới
1
● đánh giá việc áp dụng Công ước Di sản
thế giới của một quốc gia thành viên;
● đánh giá những giá trị Di sản thế giới của
tài sản đã ghi trong danh sách Di sản thế
giới có luôn được duy trì, bảo vệ hay không;
● cung cấp thông tin cập nhật về những
tình huống biến đổi và thực trạng công tác
bảo toàn tài sản;
● đề xuất một cơ chế hợp tác, trao đổi
thông tin và kinh nghiệm khu vực giữa các
quốc gia thành viên về việc thực hiện Công
ước và bảo toàn Di sản thế giới.
1.4.2. Báo cáo định kỳ. Các quốc gia
thành viên đệ trình 6 năm một lần Báo cáo
định kỳ về thực trạng bảo toàn các khu Di
sản thế giới . Trung tâm Di sản thế giới có
thể hỗ trợ các quốc gia thành viên trong việc
chuẩn bị báo cáo. Các quốc gia thành viên
cũng được yêu cầu đệ trình báo cáo và các
nghiên cứu tác động khi những công trình
quy mô lớn được tiến hành tại khu di sản có
thể ảnh hưởng tới thực trạng bảo toàn. Các
chiến lược chủ động theo dõi các di sản đang
được xây dựng cho mỗi khu vực.
Ủy ban Di sản thế giới đã chọn một cách
tiếp cận mang tính khu vực cho các báo
cáo định kỳ như một cách thúc đẩy hợp tác
và chiến lược khu vực. Mỗi chiến lược khu
vực phải đưa đến kết quả là Báo cáo về
thực trạng Di sản thế giới tại khu vực.
Báo cáo định kỳ gồm hai phần. Phần I nói
về việc áp dụng đầy đủ Công ước Di sản
thế giới của quốc gia thành viên, bao gồm
những nỗ lực nhằm xác định các tài sản có
giá trị văn hóa và/hoặc thiên nhiên, công
tác bảo vệ, bảo toàn và giới thiệu di sản
văn hóa và thiên nhiên, hợp tác quốc tế và
gây quỹ, giáo dục, thông tin, nâng cao hiểu
biết của công chúng.
Phần II báo cáo về thực trạng bảo toàn các
khu di sản. Mục đích chính là chứng minh
những giá trị Di sản thế giới của một tài
sản đã được đưa vào danh sách Di sản thế
giới có luôn được duy trì hay không. Tất cả
các quốc gia thành viên được yêu cầu cung
cấp những thông tin mới nhất về việc quản
lý khu di sản, những yếu tố ảnh hưởng tới
tài sản và công tác theo dõi tình hình.
1.5. Các gợi ý và khuyến nghị
● Chiến lược du lịch phải tôn trọng những
giá trị mà nhờ đó khu di sản đã được đưa
vào danh sách Di sản thế giới. Các hồ sơ
chuẩn bị đưa nó vào danh sách Di sản thế
giới có thể chỉ hướng cho việc hoạch định
chính sách. (Chủ đề này sẽ được bàn chi
tiết trong Chương 4). Hồ sơ đề cử di sản
vào danh sách Di sản thế giới có thể được
cung cấp qua Trung tâm hoặc qua một
quốc gia thành viên.
● Được xếp hạng Di sản thế giới sẽ giúp
thu hút các tổ chức tài trợ. Các đề nghị xếp
hạng di sản phải nói rõ những giá trị
nguyên uỷ của khu di sản như là một điểm
tham chiếu cần thiết.
● Hoạt động theo dõi khu Di sản thế giới
cần có sự tham gia của các nhà quản lý khu
di sản. Việc theo dõi mang tính định lượng
là hết sức cần thiết. Các chính phủ cần biết
lợi ích kinh tế mà du lịch có thể mang lại
cũng như tiềm năng kinh tế của khu Di sản
thế giới. Vì vậy, các số liệu cụ thể chứng
minh lợi ích của du lịch do việc khu di sản
được đưa vào Di sản thế giới có thể thúc
đẩy hợp tác giữa Trung tâm, chính phủ và
khu di sản trong các nỗ lực theo dõi này.
Gợi ý hoạt động
1. Rà soát lại hồ sơ đăng ký của khu di
sản để góp phần hoạch định chính sách
tương lai và các mục tiêu quản lý
● nếu hồ sơ đăng ký không có trong danh
mục tham khảo của thư viện, hãy đề nghị
chính quyền hoặc Trung tâm Di sản thế
giới cung cấp.
● phân tích thế nào để các tiêu chí đăng ký
phải được phản ánh trong chính sách du
lịch toàn diện và các mục tiêu quản lý.
● cùng các nhân viên khu di sản bàn bạc
phát triển ý tưởng trên và đưa ra những nét
khái quát có thể dùng để xây dựng chính
sách trong tương lai.
2. Liệt kê cách thức trong đó các giá trị
của khu Di sản thế giới có thể được phản
ánh và lồng ghép vào các chương trình
thể hiện.
20
Công ước Di sản Thế giới
1
● xem lại các tiêu chí mà qua đó khu di
sản được chọn đưa vào danh sách Di sản
thế giới, cũng như chính sách đã có đối với
khu di sản và các mục tiêu quản lý.
● chọn các loài động thực vật, các di tích,
nghệ thuật, vân vân... gắn bó mật thiết với
các giá trị Di sản thế giới của khu di sản.
● cùng các nhân viên khu di sản tìm ra
cách miêu thuật tốt nhất các sức thu hút
này vào các tài liệu quảng bá.
3. Liệt kê cách thức theo dõi các địa điểm
thu hút du lịch thể hiện các giá trị Di sản
thế giới
● xem lại mẫu đăng ký trong Công ước Di
sản thế giới có tựa đề “khuôn khổ của Báo
cáo định kỳ”.
● rà lại hồ sơ đăng ký ban đầu và liên hệ
với các giới chức chính phủ phụ trách theo
dõi định kỳ để tăng cường phối hợp.
● xác định những nhân tố nào của khu di
sản có thể đại diện tiêu biểu nhất cho các
giá trị của Di sản thế giới, thu hút được du
khách và nói rõ những thay đổi có thể là
thích đáng đối với yêu cầu về các dữ liệu
báo cáo theo dõi định kỳ.
Sách cần tham khảo.
• Công ước về Bảo vệ Di sản văn hóa và
thiên nhiên thế giới, Trung tâm Di sản thế
giới của UNESCO, Pari, Pháp, WHC2001/WS/2.
• Hướng dẫn hoạt động thực hiện Công
ước Di sản thế giới, Trung tâm Di sản thế
giới của UNESCO, Pari, Pháp, WHC-99/2
March 1999.
• Khuôn khổ, bố cục Báo cáo định kỳ về
việc thực hiện Công ước Di sản thế giới,
Trung tâm DSTG của UNESCO, Pari,
Pháp, WHC-99/WS/4
• Bernard M. Fielden và Jukka Jokilehto.
Hướng dẫn quản lý các khu di sản văn hóa
thế giới. ICCROM, Rome 1996.
• Herb Stovel. “Việc theo dõi ở các khu
Di sản thế giới” trong Bản tin ICCROM
Canada, tập 4, số 3, 1995, trang 15-20.
• Jeffrey, Sayer, Ishwaran, Natarajan,
Thorsell, James và Tođ Sagaty. “Đa dạng
sinh học rừng nhiệt đới và Công ước Di
sản thế giới” trong Ambio, tập 29, số 6,
9/2000, http://www.ambio.kva.se.
Xem http://whc.unesco.org
21
22
Ngành công nghiệp du lịch:
Những gợi ý đối với các Nhà quản lý
23
2
Ngành công nghiệp du lịch: Những gợi ý đối với các Nhà quản lý
Hiểu biết cơ bản về ngành công nghiệp
du lịch, về các thị trường và xu hướng
của nó rất bổ ích cho các nhà quản lý
khu di sản theo nhiều cách khác nhau.
Kiến thức về cơ cấu của ngành công
nghiệp này sẽ giúp các nhà quản lý khu
di sản xác định các cơ hội nhằm có được
sự hỗ trợ cho những nỗ lực quản lý và
bảo vệ thông qua du lịch. Kiến thức về
các mảng và loại thị trường có thể có ích
khi xây dựng các đề xuất và báo cáo dự
án. Thông tin về các mảng thị trường
cũng cung cấp đầu vào hữu ích trong
việc phát triển các chương trình tuyên
truyền quảng bá.
2.1. Cơ cấu của ngành công nghiệp du lịch
2.1.1. Công nghiệp du lịch là ngành có
nhiều tầng nấc, từ những đơn vị có trách
nhiệm quảng bá cho tới những người
trực tiếp phục vụ du khách. Ngành công
nghiệp này bao gồm các cơ cấu tổ chức
sau đây:
Trách nhiệm chính đối với việc quảng bá
những điểm hấp dẫn du khách ở một quốc
gia thuộc về các tổ chức du lịch do nhà
nước tài trợ như Văn phòng Du lịch Quốc
gia (NTO). Văn phòng Du lịch Quốc gia
phối hợp với các khách sạn và hãng hàng
không để tạo nguồn tài chính cho các
chương trình quảng bá điểm đến của du
lịch. Họ dành phần lớn những nỗ lực ở
nước ngoài cho việc thiết lập quan hệ với
các hãng tổ chức tour du lịch và văn phòng
lữ hành. Các Văn phòng Du lịch Quốc gia
hỗ trợ các bước phát triển hoặc các tour
mới bằng cách giới thiệu và tác động vào
các kế hoạch phát triển du lịch tới các
điểm đến, cũng như bằng cách tác động tới
các chính sách pháp luật và tài chính. Họ
hỗ trợ các chuyến đi làm quen thực địa, tổ
chức các chiến dịch quảng cáo và cung cấp
dữ liệu nghiên cứu.
Các nhà tổ chức tour du lịch (ra nước
ngoài), các đại lý bán tour và các tổ chức
lữ hành đường bộ (du lịch nội địa) là
những đối tượng luôn ở tuyến đầu của
ngành công nghiệp du lịch. Các nhà tổ
chức tour là các công ty bán tour cho
khách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua
các đại lý. Các công ty này có quy mô
khác nhau. Nhiều công ty nhỏ thường nắm
các thị trường chuyên biệt như du lịch sinh
thái và du lịch mạo hiểm. Họ giới thiệu thị
trường cho các đại lý du lịch, chẳng hạn tổ
chức các chuyến du lịch làm quen thực địa
cho nhân viên các đại lý. Các công ty tổ
chức tour thường đưa khách tới cùng một
loại địa điểm, do đó các tài liệu quảng cáo
thường là giống nhau. Họ cố gắng thay đổi
điểm đến bằng việc phân chia về mức độ
thách thức hoặc bằng giá cả, chẳng hạn
như cũng loại điểm đến là các khu trượt
tuyết, nhưng các điểm khác nhau có thể có
mức độ sang trọng khác nhau hoặc mức độ
phức tạp của địa hình trượt tuyết khác
nhau. Mặc dù các tour chỉ chiếm khoảng
12% lượng du lịch toàn cầu, các công ty
này có thể hỗ trợ du lịch ngoài mùa cao
điểm qua việc cung cấp thị trường ổn định
hơn, phát triển các điểm du lịch mới và có
thể xác định nhu cầu dịch vụ và cơ sở hạ
tầng ở cấp địa phương.
Trái lại, các đại lý du lịch đảm nhận các
tour du lịch trọn gói từ các nhà tổ chức
tour và các hãng hàng không. Ở châu Âu
và Bắc Mỹ, tỷ lệ các tour được bán cho du
khách qua các đại lý rất cao. Ở châu Âu,
các đại lý cung cấp hầu hết các tour du lịch
vào các kỳ nghỉ và cung cấp phần lớn các
thông tin mà đa số du khách cần có để
quyết định việc đi nghỉ của mình. Các nhà
tổ chức tour lớn chọn đại lý du lịch để đại
diện cho họ trên cơ sở hiệu quả. Các cá
nhân ở địa phương, các nhóm liên kết quốc
gia, các doanh nghiệp quốc tế hoặc bất cứ
sự kết hợp nào của cả ba loại trên đều có
thể sở hữu các đại lý du lịch. Mặc dù việc
bán tour trên mạng cho du khách ngày
càng tăng, nhưng nhìn chung các đại lý
vẫn bán rất chạy qua việc phân phát tờ rơi
quảng cáo và hệ thống đặt trước bằng máy
tính cho các nhà tổ chức tour. Vì vậy, tờ
rơi hết sức quan trọng đối với các đại lý.
Nhưng vì có quá nhiều tờ rơi (ví dụ ở Anh,
riêng năm 1993 đã có khoảng 4.000 loại tờ
rơi quảng cáo du lịch), nên đơn giản là các
đại lý không thể bao hết các tour. Những
yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của các
đại lý du lịch là tiền hoa hồng do các hãng
tổ chức tour chi trả, hiệu quả của hệ thống
đặt chỗ và sức mạnh của mối quan hệ làm
24
Ngành công nghiệp du lịch: Những gợi ý đối với các Nhà quản lý
ăn. Nói chung, các đại lý thường không
được chuẩn bị đầy đủ để cung cấp thông
tin ngoài các tour cơ bản mà họ đang rao
bán.
Có quan hệ với các nhà tổ chức tour là các
hãng bán tour đường bộ, hoặc các đại lý du
lịch nội địa. Đây là những bộ phận phụ
trách hậu cần và sắp xếp các hoạt động
đường bộ. Họ chăm sóc du khách ngay từ
lúc xuống sân bay hoặc bến tầu, cho tới
khi du khách rời đi. Họ cũng có thể bán
các tour du lịch ở nước mà họ đang hoạt
động. Các hãng bán tour đường bộ đa phần
có trụ sở tại thủ đô và nhân viên thường là
những người có trình độ học vấn cao,
thông thạo nhiều ngoại ngữ. Ở một số
nước, yếu tố quan trọng để quảng bá cho
một địa danh du lịch là có được những
hãng bán tour đường bộ đáng tin cậy làm
việc với các hãng tổ chức tour ở châu Âu
và Bắc Mỹ. Việc thiếu các hãng tổ chức
tour đường bộ tuy không ảnh hướng nhiều
đến lượng du khách đi du lịch độc lập
nhưng có thể sẽ làm giảm số du khách theo
tour vì họ phụ thuộc rất nhiều vào dịch vụ
của các hãng này.
2.2. Thị trường du lịch quốc tế
Thị trường du lịch thường được phân
thành ba loại:
• thị trường lữ hành độc lập;
• thị trường chuyên biệt;
• thị trường du lịch trọn gói.
Du khách độc lập không thuộc các nhóm
du lịch có tổ chức, mà đi riêng hoặc theo
từng nhóm nhỏ bạn bè. Họ đi du lịch vì
những mối quan tâm thông thường, hoặc
vì muốn hoạt động ở môi trường mới và
khác biệt. Phần lớn du khách độc lập là lớp
trẻ, ưa mạo hiểm, sẵn sàng lưu trú tại
những cơ sở tồi tàn, dùng các món ăn
truyền thống và đi lại bằng phương tiện
giao thông công cộng. Du khách độc lập
có được phần lớn thông tin qua bạn bè
trước đó đã thăm nơi họ sắp đến, qua sách
hướng dẫn du lịch, báo chí và các bài giới
thiệu trên tạp chí, hoặc ngày càng nhiều
trường hợp lấy thông tin trên Internet.
Nhiều người trong ngành công nghiệp du
lịch coi thường loại du khách này vì họ có
khuynh hướng đi du lịch theo kiểu ít tốn
kém, thuộc loại “du lịch ba lô” tính toán
chi li. Thực tế, du khách độc lập lại là
những người “khám phá”, góp phần tuyên
truyền cho nơi họ đã thăm. Số tiền họ chi
tiêu nói chung đủ để các doanh nghiệp địa
phương mở rộng và nâng cấp các cơ sở ăn
ở cũ kỹ nhằm đáp ứng nhu cầu của những
du khách có đòi hỏi cao hơn. Những du
khách trẻ tuổi này sẵn sàng sử dụng hàng
hóa/dịch vụ tại địa phương, và giao tiếp
nhiều hơn với cộng đồng mà không có sự
giám sát của các nhà tổ chức tour, đáng
tiếc là việc này có thể gây ra những tác
động xã hội tiêu cực.
Các hãng Du lịch chuyên biệt tổ chức
những chuyến đi cho khách muốn tham gia
vào một hoạt động đặc biệt như quan sát
các loài chim, muông thú hoặc các tour
chụp ảnh, xem các loài động thực vật
hoang dã, khảo cổ, lịch sử và văn hóa. Các
hãng lữ hành mạo hiểm cung cấp các hoạt
động như du lịch đường bộ xuyên rừng, du
lịch bằng mảng trên sông suối, thuyền
kayak, bơi ca-nô, leo núi và câu cá cũng
thuộc loại này. Các hãng lữ hành chuyên
biệt khác lại tổ chức các chuyến đi nghiên
cứu thực địa cho các nhà khoa học. Họ bỏ
tiền thuê những người tình nguyện tham
gia với tư cách giúp việc trên thực địa của
các dự án như khai quật khảo cổ, và các
chương trình theo dõi động thực vật hoang
dã. Ngoài ra, thị trường này còn bao gồm
các tổ chức và các trường đại học có quan
tâm đến các chương trình du lịch. Ví dụ,
Quỹ Thiên nhiên toàn cầu (WFN) và nhiều
viện bảo tàng tổ chức các tour du lịch cho
nhân viên của họ. Nói chung, những tour
này nhằm gây quỹ cho một dự án hay một
lý do đặc biệt nào đó. Những đơn vị này
thường ký hợp đồng phụ với các nhà tổ
chức tour khác để sắp xếp chương trình du
lịch. Các nhà tổ chức tour chuyên biệt
thường thuê các đại lý du lịch đường bộ tại
nước sở tại cung cấp các dịch vụ hậu cần
tại chỗ. Các hãng du lịch quốc gia có trụ
sở ở nước sắp đến cung cấp toàn bộ dịch
vụ (đi lại, ăn ở khách sạn, hướng dẫn tham
quan, v.v.) từ khi đến cho tới lúc đi. Một
số hãng du lịch chuyên biệt ở Bắc Mỹ và
châu Âu tự lo liệu các hoạt động đường bộ
25
2
Ngành công nghiệp du lịch: Những gợi ý đối với các Nhà quản lý
2
ở nước ngoài, nhưng đó là những ngoại lệ
đối với quy luật trên. Các nhà quản lý cần
biết là nhiều công ty du lịch chuyên ngành
chỉ có quy mô nhỏ. Những công ty này
xuất hiện và biến nhất đều nhanh.
Thị trường du lịch trọn gói thu hút những
nhóm du khách muốn thăm một địa danh
nào đó và nền văn hóa của nó, nhưng
không chú tâm đến một hoạt động hoặc
một chủ đề cụ thể nào. Những du khách
này thường chủ yếu là tham quan giải trí
và mua sắm, hoặc cũng có thể quan tâm
đến các địa điểm văn hóa như viện bảo
tàng, dấu tích thành quách cổ, các khu di
tích lịch sử nổi tiếng hoặc đã được lưu
danh. Loại du khách này thường có xu
hướng muốn được hưởng những dịch vụ
và tiện nghi tiêu chuẩn mà hầu hết các tour
đều có. Họ có thể sẽ không hài lòng với
dịch vụ của cộng đồng tại địa phương. Các
nhóm du lịch theo tour quốc tế thường
muốn tiện nghi đầy đủ, đi lại thuận lợi và
chế độ ăn ở cao cấp.
2.3. Hiểu biết về thị trường du lịch
chuyên biệt
2.3.1. Trong khi phần lớn kinh doanh
du lịch vẫn là các kỳ nghỉ trọn gói cho số
đông thì du lịch chuyên biệt ngày càng
phổ biến. Hơn bao giờ hết, du lịch được
chia thành các mảng thị trường đáp ứng
các nhu cầu khác nhau. Du lịch chuyên
biệt đáp ứng những mối quan tâm đặc biệt
của khách như thuyền buồm, quan sát
chim muông, chụp ảnh hay khảo cổ. Các
thị trường hoặc các mảng thị trường phát
triển với nhiều hình thức hoạt động khác
nhau.
Du lịch chuyên biệt trở nên phổ biến tới
mức làm xuất hiện một loạt loại hình du
lịch mới, bao gồm du lịch sinh thái, du lịch
mạo hiểm, du lịch di sản và du lịch văn
hóa. Một chuyến du lịch xuyên Himalaya
lúc này có thể được coi là du lịch mạo
hiểm, và một tuần lễ thăm các khu di sản
văn hóa ở Ấn Độ được coi là du lịch văn
hóa.
2.3.2. Du lịch sinh thái là một trong
những loại hình du lịch được nhắc đến
nhiều nhất trong các loại hình du lịch
"mới". Hội Du lịch Sinh thái Quốc tế
(IES) định nghĩa nó là “du lịch có trách
nhiệm tới những vùng thiên nhiên bảo toàn
môi trường và duy trì phúc lợi của dân địa
phương”. Một số hoạt động được coi là du
lịch sinh thái như quan sát chim muông và
cá voi, giúp các nhà khoa học tiến hành
nghiên cứu bảo toàn, bơi lặn ở khu vực các
rặng san hô, xem các trò chơi và chụp ảnh
thiên nhiên. Du lịch sinh thái gắn với hoặc
trùng với du lịch di sản và du lịch văn hóa.
Các cuộc điều tra cho thấy khách du lịch
sinh thái thường là những người trẻ tuổi,
có học vấn cao, có nghề nghiệp chuyên
môn và quản lý. Các chuyến du lịch sinh
thái thường dài hơn, số lượng người mỗi
chuyến ít hơn so với các tour du lịch theo
nhóm. Các nhà nghiên cứu báo cáo rằng
khách du lịch sinh thái thường sử dụng các
khách sạn nhỏ, độc lập, trái với du khách
theo tour thường ở trong hệ thống các
khách sạn lớn. Đúng như người ta hình
dung, khách du lịch sinh thái quan tâm
nhiều hơn tới môi trường thiên nhiên, thích
những nơi vắng vẻ cách xa đường xá và
nhiều thách thức hơn.
Ở cấp độ khu di chỉ, yêu cầu của khách du
lịch sinh thái và du lịch theo tour truyền
thống có thể chồng chéo và khó phân biệt.
Ví dụ, một số khách du lịch sinh thái có
thể đòi được ăn nghỉ tại các phòng có tiện
nghi, chứ không phải trong các khu lều
trại. Những người tham gia trên chuyến du
lịch quan sát chim muông ở Patagonia có
thể được coi là khách du lịch sinh thái,
nhưng lại có thể đòi hỏi những tiện nghi
như những khách trên chuyến du lịch bằng
tàu biển đắt tiền tới các đảo vùng Caribê.
Thực tế, du lịch sinh thái chính là một loại
hình du lịch thúc đẩy lối ứng xử mang tính
bảo toàn và các chính sách kinh tế. Chẳng
hạn, nó ưu tiên sử dụng các kỹ thuật quan
sát động vật hoang dã ít tác động và
thường hay sử dụng hướng dẫn viên du
lịch người địa phương.
2.3.3. Du lịch mạo hiểm bao gồm rất
nhiều hoạt động ngoài trời. Khách du lịch
26
Ngành công nghiệp du lịch: Những gợi ý đối với các Nhà quản lý
mạo hiểm tham gia vào các hoạt động có
nhiều thách thức về thể lực và nhiều khi
nguy hiểm, hoặc được coi là nguy hiểm,
chẳng hạn như các môn thể thao như đi bộ
xuyên rừng, leo núi, chèo thuyền dọc sông
suối và lặn có bình dưỡng khí. Du lịch
mạo hiểm không nhất thiết đòi hỏi các hạ
tầng và phương tiện cao cấp, nhưng nó đòi
hỏi phải được tổ chức, hướng dẫn, phục vụ
đi lại tốt và tiện nghi tối thiểu trên thực
địa, cùng nơi ăn nghỉ đầy đủ tiện nghi vào
cuối hành trình. Du lịch mạo hiểm là một
lĩnh vực đang phát triển nhanh của thị
trường du lịch chuyên biệt.
2.3.4. Du lịch văn hóa thường được
dùng để mô tả một số mảng nhất định
của thị trường du lịch. Nó có thể gắn với
các chuyến tham quan thắng tích lịch sử,
nghệ thuật và khoa học, hoặc di sản văn
hóa. Tổ chức du lịch thế giới (WTO) có
hai định nghĩa dành cho du lịch văn hóa.
Hiểu theo nghĩa hẹp, du lịch văn hóa bao
gồm “hoạt động của những người với động
cơ chủ yếu là văn hóa như các tour nghiên
cứu, nghệ thuật biểu diễn, các tour văn
hóa, du lịch tới các lễ hội và các sự kiện
văn hóa khác, thăm các di tích và di chỉ,
du lịch nghiên cứu thiên nhiên, văn hóa
hoặc nghệ thuật dân gian và hành hương”.
Theo nghĩa rộng hơn, nó được định nghĩa
là “toàn bộ những hoạt động của con
người bởi vì chúng thỏa mãn nhu cầu cần
sự đa dạng, có xu hướng nâng tầm văn hóa
của cá nhân và làm đầy lên kiến thức, kinh
nghiệm và dẫn đến những cuộc gặp gỡ
mới”. Vì văn hóa mang tính chủ quan, nên
những định nghĩa về du lịch văn hóa có xu
hướng hoặc quá rộng, hoặc quá hẹp, làm
hạn chế việc sử dụng những định nghĩa
này trên thực tế.
2.3.5. Du lịch di sản là loại hình rộng
bao gồm cả du lịch sinh thái và du lịch
văn hóa, trong đó chú trọng tới bảo toàn
di sản thiên nhiên và văn hóa. Nó là loại
hình hoặc mảng thị trường bao gồm các
chuyến tham quan các khu di tích lịch sử,
viện bảo tàng, phòng trưng bày nghệ thuật,
và khám phá các khu rừng và vườn quốc
gia. Vì số lượng các hoạt động lớn, nên du
lịch di sản rất khó xác định và đánh giá.
Những năm gần đây, các nhà quy hoạch
thành phố quan tâm đến việc phục hồi đô
thị đã dùng thuật ngữ này để mô tả nhiều
chương trình du lịch, một chiến lược được
giới kinh doanh và ngân hàng ủng hộ.
Nhiều thuật ngữ du lịch khác phản ánh thái
độ ứng xử với môi trường và lợi ích của
địa phương. Sự quan tâm tới việc bảo tồn
môi trường thúc đẩy cái gọi là du lịch
xanh, du lịch hỗ trợ bảo tồn, và du lịch
hiểu biết hoặc thân thiện với môi trường.
Nhìn chung, du lịch loại này chủ trương
giảm thiểu tác động tới môi trường và
nhấn mạnh mối quan tâm đến các vấn đề
môi trường. Loại hình du lịch đô thị và
thôn dã cũng đã ra đời. Tuy nhiên, vì ít
quốc gia có sự phân biệt rõ ràng cho nên
việc phân loại cũng gặp khó khăn.
2.4. Du lịch bền vững
2.4.1. Khái niệm bền vững có trong tất cả
các mảng thị trường và các định nghĩa về
ngành du lịch “mới”. Các định nghĩa đều
nói đến việc giữ gìn các nguồn cho các thế
hệ tương lai, sử dụng du lịch để góp phần
bảo vệ môi trường, hạn chế các tác động
kinh tế-xã hội tiêu cực và mang lại lợi ích
kinh tế-xã hội cho dân địa phương. WTO
định nghĩa du lịch bền vững là “phát triển
du lịch đáp ứng nhu cầu của du khách và
các khu du lịch hiện nay đồng thời bảo vệ
và tăng cường cơ hội cho tương lai. Kết
quả mong đợi là các nguồn lực sẽ được
quản lý để đáp ứng đầy đủ các nhu cầu về
kinh tế, xã hội và thẩm mỹ trong khi duy
trì tính toàn vẹn về văn hóa, các quy trình
sinh thái quan trọng, đa dạng sinh học và
các hệ thống có lợi cho cuộc sống”. Thuật
ngữ “du lịch bền vững” thường được dùng
trong các đề xuất dự án tìm kiếm hỗ trợ
quốc tế.
Trên thực tế, các chương trình du lịch bền
vững là cơ hội đồng thời đòi hỏi phải làm
việc cật lực. Chúng đòi hỏi phải có mục
đích và mục tiêu xác định rõ ràng, nêu bật
những đặc điểm của bền vững trong bối
cảnh địa phương, quá trình đáp ứng các
yêu cầu của những người có lợi ích trong
khuôn khổ những mục đích và mục tiêu
đó, và sự giám sát thường xuyên. Cũng
như với các dự án phát triển bền vững
27
2
Ngành công nghiệp du lịch: Những gợi ý đối với các Nhà quản lý
2
khác, quá trình này đòi hỏi tốn nhiều công
sức, thời gian và thường bao gồm nhiều
nhóm lợi ích khác nhau, làm cho chương
trình khó thiết kế, thực hiện và duy trì.
Các chương trình du lịch bền vững đề cao
yêu cầu tập trung vào môi trường và xã
hội, dẫn tới việc tiêu chuẩn hóa một số
hoạt động liên quan đến môi trường cũng
như những ý tưởng mới về việc ngành
công nghiệp du lịch cần phải vận hành như
thế nào. Các cuộc thảo luận đã xác định
các mục tiêu chính sách, đưa ra những
hướng dẫn cho các nhà làm kế hoạch và tạo
đà cho việc tự điều tiết của ngành du lịch.
2.5. Các loại khách du lịch
2.5.1. Nhằm tìm kiếm những định nghĩa
có ích hơn trong thực tế, các nhà nghiên
cứu đã tập trung vào thái độ ứng xử và
sở thích của du khách. Các định nghĩa và
các mảng thị trường liên quan như du lịch
mạo hiểm hoặc du lịch văn hóa có xu
hướng phân loại du khách thành nhiều
nhóm dựa trên các kiểu hoạt động khác
nhau. Những định nghĩa và các hoạt động
này thường hay chồng chéo, nên khó phân
biệt giữa các loại du lịch ở cấp khu di sản.
Chẳng hạn, du lịch sinh thái và du lịch di
sản kết hợp nhiều mặt của cả văn hóa và
thiên nhiên như trong hầu hết các tour du
lịch chuyên biệt. Ví dụ, du lịch xuyên
Himalaya được coi là hoạt động du lịch
mạo hiểm, nhưng hầu hết những người
tham gia cũng đồng thời tới thăm các khu
di sản văn hóa Phật giáo hoặc Ấn Độ giáo.
Những du khách quan sát chim muông
cũng đi thăm các khu khảo cổ và thường
tham gia vào các chuyến đi xuyên rừng.
Định nghĩa về các thị trường quốc tế
thường quá rộng nên không sử dụng trong
quá trình ra quyết định ở tầm khu di sản.
Cách giải quyết hữu hiệu sự chồng chéo
này để phục vụ mục đích nghiên cứu,
hoạch định chính sách và quản lý di sản là
phân loại du khách theo động cơ, lối ứng
xử và những trải nghiệm mà họ mong đợi
trong chuyến đi. Các nhà nghiên cứu đã
liệt kê một số loại cung cách ứng xử và sở
thích của du khách. Ví dụ, khách có thể
được phân loại theo mức độ mạo hiểm
hoặc gian khổ của hoàn cảnh mà họ mong
muốn hoặc chấp nhận, kể cả các phương
tiện ăn ở mà họ chờ đợi. Vì vậy:
Du khách nòng cốt là những người tham
gia các tour hoặc nhóm lữ hành cụ thể vì
những mục đích giáo dục và/hoặc tham gia
vào các dự án môi trường hoặc văn hóa,
như theo dõi động vật hoang dã.
Du khách nhiệt tâm là những người muốn
thăm các khu vực văn hóa hoặc khu vực
được bảo vệ, và hiểu lịch sử tự nhiên và
văn hóa của khu vực đó.
Khách vãng lai coi du lịch thiên nhiên và
văn hóa là một phần tình cờ trong chuyến
đi lớn hơn.
Một hệ thống khác cũng có ích cho việc
phân loại sở thích; nó phân biệt giữa du
lịch “cảm giác mạnh” và “cảm giác nhẹ”.
Cách phân biệt này liên quan đến yếu tố
khó khăn của địa hình, chủ yếu là mức độ
thách thức và tiện nghi ăn ở. Các loại này
gồm:
Du lịch cảm giác mạnh thường tới những
nơi khó đến, với nhiều yếu tố nguy hiểm.
Ví dụ, nó có thể đòi hỏi phải cuốc bộ hàng
dặm đường tới vùng hẻo lánh, trèo những
ngọn núi rất khó leo hoặc ngủ trong những
lều lán thô sơ.
Du lịch cảm giác nhẹ có nghĩa là mức độ
nguy hiểm thấp hơn và chỗ ăn ở cũng sang
hơn. Ví dụ, du lịch cắm trại có thể bao
gồm những điều kiện thách thức về thể
lực, trong khi vẫn bảo đảm được những
tiện nghi như ăn ngon và phương tiện đi lại
thoải mái.
2.6. Các xu hướng du lịch
2.6.1. Du khách ngày càng quan tâm hơn
tới việc bảo vệ môi trường. Họ ngày càng
coi chất lượng môi trường cũng như chất
lượng dịch vụ là những yếu tố lựa chọn
điểm du lịch của mình. Ngày càng có
nhiều du khách muốn thấy một tiêu chuẩn
bảo toàn môi trường cao hơn cùng với dịch
vụ đơn giản, hữu hiệu và dễ chịu. Ngày
nay, nhiều du khách có khuynh hướng
28
Ngành công nghiệp du lịch: Những gợi ý đối với các Nhà quản lý
thích những khu vực chưa bị xáo trộn và
không đông người.
Cũng có xu hướng là trước khi chọn điểm
du lịch, nhiều du khách thông báo cho
nhau về những vấn đề môi trường ở địa
danh mà họ định đến. Họ muốn nơi đó
phải sạch sẽ và có môi trường tốt. Du
khách sẽ tránh những chỗ bị coi là thiếu
những thứ trên. Những thông tin này ngày
càng được phổ biến nhiều trên Internet.
Sự xuống cấp về môi trường có thể không
những dẫn tới tỷ lệ du khách giảm, mà còn
thay đổi các loại du khách tới địa danh đó.
Có thể thấy dẫn chứng về sự thể này ở
vùng Địa Trung Hải, nơi mà môi trường
liên tục xuống cấp và các bãi biển nghỉ
mát bị đô thị hóa.
2.6.2. Quan tâm tới du lịch văn hóa có
vẻ đang tăng, nhưng tỷ lệ tăng trưởng
vẫn chưa rõ. Cần phải có nhiều số liệu
định lượng để xác định xu hướng này. Ví
dụ, lượng khách tới các địa danh văn hóa ở
Anh và Hà Lan trong 5 năm qua cho thấy
du lịch văn hóa đã đuổi kịp thị trường du
lịch nói chung.
Vì thị trường du lịch văn hóa khó định
lượng cho nên các chuyên gia gợi ý nên có
nhiều nghiên cứu hơn để giúp xác định các
nhóm du khách văn hóa theo nghĩa rộng
dựa trên động cơ của họ. Định ra các loại
hình như nghệ thuật, khảo cổ, học ngoại
ngữ, vân vân... có thể là cách thực tế nhất
để xem xét vấn đề này.
2.6.3. Du khách ngày càng muốn những
trải nghiệm “thực” với các nền văn hóa
và lối sống khác. Một nghiên cứu về du
khách của thị trường du lịch đại chúng và
du lịch sinh thái phát hiện cả hai loại du
khách này đều cảm thấy kiến thức về mỹ
thuật và thủ công mỹ nghệ dân gian, cũng
như kiến thức về lịch sử nơi họ sắp đến là
quan trọng.
2.6.4. Du khách thường muốn có những
kỳ nghỉ sôi động, mang tính giáo dục
hơn. Trong thị trường chuyên ngành đang
xuất hiện xu hướng du lịch năng nổ hướng
về môi trường, với những chương trình
lành mạnh và nhiều cơ hội để rèn luyện.
Tuy du khách của thị trường du lịch đại
chúng ít muốn những ngày nghỉ sôi động
và mạo hiểm hơn, và cũng ít tập trung vào
một loại hình hoạt động hơn, song các
ngày nghỉ sôi động với cường độ thấp hơn
cũng đang là xu hướng ngày càng tăng
trong phân đoạn thị trường du lịch này.
2.6.5. Các chuyến tham quan các khu
vực được bảo vệ đang ngày càng tăng. Ở
các nước phát triển, du khách có xu
hướng đi theo nhóm nhỏ hơn với thời
gian ngắn hơn. Ví dụ, các chuyến thăm
vườn quốc gia của Australia tăng đáng kể
trong mười năm qua, nhưng thời lượng
thăm thường ngắn hơn. Cả hai xu hướng đi
theo nhóm nhỏ và ngắn ngày hơn đều tạo
ra nhu cầu cần có không gian riêng rộng
hơn và nhiều phương tiện hơn để thỏa mãn
du khách, kèm thêm các dịch vụ phụ vào
những thời điểm nào đó trong năm.
2.6.6. Người ta mong đợi công nghiệp
du lịch có trách nhiệm lớn hơn đối với
phát triển bền vững. Các nhà chuyên môn
làm việc trong lĩnh vực bảo toàn bắt đầu
yêu cầu ngành du lịch tham gia nhiều hơn
vào các hoạt động quản lý di sản. Việc này
thường bao gồm mức độ trách nhiệm tài
chính để duy trì lâu dài nguồn lợi mà từ đó
họ được hưởng. Hỗ trợ tài chính có thể
bằng hình thức tài trợ trực tiếp hoặc tự
nguyện cho các cơ quan quản lý hoặc các
NGO. Việc tham gia cũng có thể có nghĩa
là chấp nhận những việc làm hạn chế tác
động tiêu cực của du lịch. Chẳng hạn, ở
quần thể sinh thái san hô của Australia, các
hãng lữ hành đang tự điều chỉnh mình và
có trách nhiệm hơn, đặt ra quy tắc ứng xử
và hướng dẫn các việc cần làm nhằm giảm
thiểu tác động đến môi trường. Họ cũng
tham gia vào việc theo dõi khu vực mà họ
quản lý. Việc các hãng lữ hành bị cấm
không được tự mình dịch chuyển các
phương tiện và các hoạt động một khi mà
khu di sản hiện tồn đã bị ảnh hưởng bởi sự
xuống cấp môi trường thiên nhiên hoặc phi
thiên nhiên đã làm cho việc đó có thêm
sức mạnh.
2.7. Gợi ý và Khuyến nghị
29
2
Ngành công nghiệp du lịch: Những gợi ý đối với các Nhà quản lý
2
• Định nghĩa về du lịch có thể vạch
hướng cho các đường lối chính sách lớn
trong sự phát triển các mục đích và mục
tiêu đối với việc quản lý di sản. Ví dụ,
định nghĩa của Hội Du lịch Sinh thái Quốc
tế về du lịch sinh thái nêu rõ du lịch cần
phải duy trì tính nguyên vẹn của hệ sinh
thái và tạo ra các cơ hội kinh tế để việc
bảo toàn có lợi cho dân chúng địa phương.
Loại tuyên bố như vậy có thể đưa vào
tuyên bố chính sách xác định loại hình du
lịch mà một khu vực có thể quảng bá.
● Định nghĩa về du lịch như du lịch sinh
thái vừa nêu có thể được sử dụng trong các
báo cáo hoặc các đề nghị tìm kiếm tài trợ
cho các dự án tương lai. Nó có thể tạo ra
một hình ảnh tích cực và tăng tính hấp dẫn
của các tài liệu. Các khái niệm và định
nghĩa về phát triển toàn diện cần phải phù
hợp với đối tượng mà đề nghị này được
gửi đến. Ví dụ, thuật ngữ “du lịch sinh
thái” có thể dùng thay cho du lịch nói
chung khi thiết lập dự án trình các tổ chức
bảo tồn thiên nhiên, là “du lịch văn hóa”
khi trình các tổ chức liên quan tới trùng tu
di tích, v.v. Rồi còn việc sử dụng định
nghĩa thị trường trong các tài liệu quảng bá
du lịch. Ví dụ, một tờ rơi có thể nói rõ du
lịch sinh thái được khuyến khích ở một khu
di sản thiên nhiên hoặc hỗn hợp nào đó.
● Các tài liệu quảng bá du lịch của các
hãng tổ chức tour là bằng chứng về việc
liệu các sản phẩm của họ có phù hợp với
mục tiêu của khu di sản hay không. Các ấn
phẩm của các hãng tổ chức tour cũng có
thể giúp các nhà quản lý quyết định xem
các hãng này có góp phần vào những nỗ
lực bảo vệ ở địa phương hay không, chẳng
hạn như chỉ dẫn du khách về những việc
cần làm để giảm thiểu tác động. Các tài
liệu quảng cáo cũng sẽ cho thấy các loại
du khách mà hãng đang nhằm vào, loại trải
nghiệm nào du khách coi trọng cùng
những nhu cầu đặc biệt của họ. Ví dụ, một
hãng tổ chức tour có thể chuyên về các
tour du lịch dành cho những nhóm người
nghiêm túc chỉ có một mục đích là quan
sát chim muông, hoặc một nhóm khảo cổ
không chuyên.
● Trong khi hiểu được các định nghĩa du
lịch và thị trường du lịch chuyên biệt có
thể giúp các nhà quản lý hoạch định đường
hướng chính sách và biết rõ mối quan tâm
của du khách, thì các phân đoạn thị trường
này thường có xu hướng chồng chéo nhau.
Vì mục đích quản lý cho nên cần phải
phân loại và phân tích du khách theo sở
thích và cách ứng xử của họ. Các loại hình
“cảm giác mạnh” hoặc “nhẹ” nêu trên có
thể giúp tạo ra bước khởi đầu hữu ích.
Phân biệt các loại hình trong đó chú trọng
tới nhu cầu và mong muốn của khách là
điều quan trọng cho việc lên các kế hoạch
quản lý và xác định các mục tiêu, kể cả
phát triển hạ tầng.
● Kiến thức về các phân đoạn thị trường
khác nhau cùng cách ứng xử và sở thích
chung của khách có thể giúp các nhà quản
lý quyết định phân đoạn thị trường nào cần
thúc đẩy. Các loại du khách khác nhau tạo
ra những cơ hội quản lý và những đòi hỏi
khác nhau. Ví dụ, du khách tìm kiếm cảm
giác mạnh thường dễ thỏa mãn với các
dịch vụ tối thiểu hơn là những người tìm
kiếm ấn tượng “nhẹ nhàng”. Các hãng tổ
chức tour như những hãng làm việc với
những người quan sát chim muông thông
thạo, hoặc loại khách chỉ quan tâm tới
khảo cổ chẳng hạn có thể có nhiều yêu cầu
đặc biệt đối với thị trường du lịch. Các
hãng tổ chức tour chuyên ngành có thể cần
có những quy định chặt chẽ về lượng du
khách và tiếng ồn để họ có thể thực thi các
hoạt động của họ mà không bị các nhóm
khác làm phiền. Do có sự khác biệt về sở
thích của những người có xu hướng ưa
thích thiên nhiên cho nên thị trường cần có
nhiều loại hình ăn nghỉ khác nhau.
● Phân tích cơ cấu của công nghiệp du
lịch bao quanh một khu di sản có thể tìm
ra cơ hội lôi cuốn những người có lợi ích
vào các hoạt động quản lý. Các quan chức
NTO có thể tham gia vào các nỗ lực quảng
bá trong tương lai. Các hãng tổ chức tour
và chủ khách sạn có thể giúp theo dõi các
hoạt động hoặc thiết lập quy tắc ứng xử và
những việc làm giảm thiểu tác động. Họ
cũng có thể có những đóng góp tài chính
trực tiếp cho các dự án thực hiện ở khu di
sản. Việc phỏng vấn các hãng tổ chức tour
30
Ngành công nghiệp du lịch: Những gợi ý đối với các Nhà quản lý
và các giám đốc khách sạn có thể quyết
định cơ chế quản lý và tài chính nào sẽ tạo
thuận lợi cho việc họ đóng góp vào các nỗ
lực bảo toàn và bảo vệ di sản.
● Một cách tiếp cận chủ động sẽ mang lại
lợi ích nếu biết xem xét xu hướng thị
trường. Việc du lịch quốc tế tiếp tục tăng
trưởng đã được tiên liệu, đặc biệt là du lịch
chuyên biệt. Mối quan tâm ngày càng tăng
đối với các vấn đề môi trường và văn hóaxã hội cho thấy sự tồn tại của một nguồn
lực tiềm ẩn lớn hỗ trợ cho các khu di sản.
Qua các biên diện (profiles) về kinh tế-xã
hội có thể thấy ngày càng có nhiều du
khách đủ khả năng đóng góp tài chính vào
việc bảo vệ di sản. Kết quả là, nếu khu di
sản được hoạch định và quản lý tốt, trong
giới hạn xác định, thì lượng khách ngày
càng tăng có thể đem lại những nguồn tài
chính mới.
● Vì du khách ngày càng hiểu và quan tâm
hơn tới bảo vệ môi trường thiên nhiên, lịch
sử, văn hóa và xã hội, nên việc thông báo
cho du khách và các hãng tổ chức tour
bằng cách tuyên truyền về khu di sản và
các hoạt động quảng bá, về những nỗ lực
mà ban quản lý đang làm để duy trì khu di
sản sẽ ngày càng trở nên quan trọng.
● Xu hướng đang tăng trong du lịch là
muốn thăm những khu vực được bảo vệ.
Các nhà quản lý ngày càng phải hiểu rõ về
loại du khách này và các xu hướng cụ thể
đối với mỗi khu di sản.
Gợi ý hoạt động
1. Phân tích cơ cấu du lịch của khu di
sản:
• phỏng vấn các quan chức của Văn
phòng Du lịch Quốc gia để có cái nhìn sâu
sắc về cơ cấu du lịch của đất nước nói
chung.
• phỏng vấn các thành viên của ngành
công nghiệp du lịch ngay tại khu di sản, và
nếu có thể được, ở những thành phố lớn để
quyết định bằng cách nào các đại lý du lịch
và các hãng tổ chức tour hoặc lữ hành
đường bộ thu hút du khách tới khu di sản.
• cần phải phác hoạ ra các nhóm du
khách khác nhau và miêu thuật mối tương
tác giữa họ với nhau thế nào. Bắt đầu bằng
việc xác định các loại hình du lịch tại khu
di sản và triển khai các loại du khách mở
đầu.
• xem xét lại những nỗ lực trước đây để
thu hút ngành công nghiệp du lịch vào việc
hỗ trợ khu di sản, liệt kê các giải phápđể
thu hút họ.
2. Xác định chi tiết các loại du khách tại
khu di sản và những loại du khách mà
mình mong muốn.
• nghiên cứu các phương thức lữ hành,
các hoạt động của du khách và những địa
danh mà họ thích viếng thăm.
• lập hồ sơ các nhóm này. Sử dụng danh
sách trong hồ sơ đó để xác định họ thuộc
loại du khách “cảm giác mạnh” hay “nhẹ”
chẳng hạn; quyết định nên khuyến khích
loại thị trường du lịch nào.
• rà soát lại sự khác nhau giữa các nhóm
du khách.
• nghiên cứu các sổ tay quảng cáo của
các hãng tổ chức tour khác nhau về khu di
sản để nắm được họ đang phục vụ cho loại
thị trường du lịch nào.
• xây dựng danh sách các nhóm du
khách, các thị trường và các hoạt động có
liên quan nào được ưa chuộng có thể thúc
đẩy phát triển du lịch được và chọn các
công ty tổ chức tour đáp ứng tốt nhất cho
những yêu cầu đó.
Sách cần tham khảo.
• Ceballos H. Lascurain. Du lịch, Du lịch
sinh thái và các khu vực cần bảo vệ: Thực
trạng của du lịch thiên nhiên trên thế giới
và hướng dẫn phát triển. IUCN, Gland,
Thụy Sỹ và Cambridge, UK, 1966.
• Crossley, John và Lee, Bong Koo.
“Khách du lịch sinh thái và Thị trường du
lịch nói chung: Sự khác biệt về “Lợi ích
cần tìm” trong Du lịch: Vận may của kinh
tế: Hội nghị thường niên lần thứ 25, trang
22-29. Colorado, USA, Hội Nghiên cứu
Lữ hành và Du lịch, 10/1994.
• Hall C. Michael và Jenkins, John M.
“Tầm vóc chính sách của du lịch và giải trí
thôn dã” trong Richard Butler, C. Michael
31
2
Ngành công nghiệp du lịch: Những gợi ý đối với các Nhà quản lý
2
Hall và John Jenkins: Du lịch và Giải trí ở
các vùng thôn dã, trang 22-41. Chichester,
Anh, NXB John Wiley & Các con, 1998.
• Inskeep, Edward. Hoạch dịnh Du lịch:
Một cách tiếp cận Phát triển Tổng hoà và
Bền vững. NXB Van Nostrand Reinhold,
New York, 1991.
• Prentice R. “Di sản: Lĩnh vực then
chốt của du lịch “mới” trong Tiến bộ về
Quản lý Du lịch, Giải trí và Hiếu khách.
C.P. Cooper và A. Lockwood, tập 5. NXB
John Wiley & Các con, Chichester, Anh.
• Richards G. “Du lịch văn hóa ở châu
Âu” trong “Tiến bộ về Quản lý du lịch,
Giải trí và Hiếu khách. (sách đã dẫn)
1996.
• Silverberg, Kenneth E., Backman,
Sheila J. và Backman, Kenneth F. “Điều
tra sơ bộ về Đồ thị Tâm lý cuả khách du
lịch thiên nhiên tới vùng Đông Nam nước
Mỹ” trong Du lịch: Vận may của kinh tế...,
(sách đã dẫn), trang 36, 40.
• Wood, Megan Epter. Các nguyên tắc,
thủ tục và chính sách Du lịch sinh thái vì
Phát triển bền vững. Tài liệu của UNEP
92-807-2064-3, 2002.
32
Du lịch:
Tác động và các vấn đề đặt ra
33
3
Du lịch: Tác động và các vấn đề đặt ra
Tất cả các hoạt động giải trí và du lịch
đều gây ra những thay đổi về môi
trường và xã hội. Hiểu biết về nguyên
nhân của các tác động và những vấn đề
của du lịch sẽ hỗ trợ quá trình ra quyết
định và thúc đẩy những hoạt động quản
lý hiệu quả hơn. Hiểu biết cơ bản về các
loại tác động cũng có thể giúp quá trình
lên kế hoạch và lập danh mục hữu ích
cho việc xây dựng các chỉ số giám sát du
lịch. Điều này rất cần thiết trong việc
xác định xem các mục tiêu quản lý có
đạt được hay không.
3.1. Tác động thông thường của du lịch:
các vấn đề và khái niệm
Tác động của du lịch chủ yếu là do sự phát
triển và du khách của ngành này. Tác động
của phát triển thường liên quan tới hạ tầng
cơ sở; tác động này có thể dễ dàng nhận
biết và thường là nghiêm trọng, chẳng hạn
khi xây dựng và khi các khách sạn gây ô
nhiễm. Tác động do du khách gây ra tại
khu di sản thường rất nhạy cảm, nhưng có
thể tránh được. Ví dụ, có thể yêu cầu du
khách không cho muông thú ăn, hoặc
không được sờ vào các hiện vật trưng bày.
Quan hệ nhân-quả của tác động du lịch có
thể khó xác định. Rác có thể do người địa
phương chứ không phải do du khách thải
ra. Rác thải có thể là do người dân địa
phương chứ không phải do khách du lịch;
ô nhiễm nước có thể từ nguồn chứ không
phải tại các khách sạn; hệ sinh thái san hô
có thể bị tổn hại bởi giông bão, sóng to gió
lớn chứ không phải tại du lịch; săn bắn
trộm làm quần thể động vật hoang dã giảm
đi có thể là do lỗi của dân địa phương.
Số lượng du khách không nhất thiết là yếu
tố đầu tiên ảnh hưởng tới khối lượng tác
động. Các giải pháp đưa ra nhằm hạn chế
số lượng du khách tới một khu vực nào đó
có thể không có hiệu quả. Hiện nay, các
nhà nghiên cứu biết rằng các tác động có
liên quan tới một hệ phức hợp các yếu tố
xã hội-môi trường và các mô hình phát
triển. Theo quan điểm hiện nay, điều quan
trọng là hiểu được các mối quan hệ qua lại
là nguyên nhân của các tác động du lịch,
là lý do làm cho một cộng đồng địa
phương hoan nghênh chào đón các du
khách, trong khi một cộng đồng khác lại
chống đối mạnh mẽ sự hiện diện của họ.
Quan hệ giữa tần suất sử dụng và tác động
môi trường thường không theo đường
thẳng, mà theo đường vòng cung. Tức là,
việc sử dụng lúc đầu có thể gây nhiều tổn
hại nhất, trong khi những lần sau lại dần
tác động ít hơn. Đối với các nguồn tài
nguyên như đất đai và cây cỏ, mức độ tổn
hại mạnh nhất lại có xu lướng diễn ra khi
tần suất sử dụng thấp. Ví dụ, quan hệ giữa
tần suất giẫm đạp và độ cứng của đất.
Những người đầu tiên bước lên khu đất sẽ
làm phần lớn đất bị nén chắc lại; việc sử
dụng sau đó lại tương đối ít tác động hơn
đối với khu vực. Cũng tương tự đối với cây
cỏ: việc giẫm đạp nhẹ lúc đầu có thể dẫn
tới mức độ tổn hại cao, nhưng những lần
tiếp theo lại chỉ gây những tác động nhỏ.
Hai yếu tố tác động chính là sức đề kháng
và độ đàn hồi. Sức đề kháng là khả năng
hứng chịu sử dụng mà không bị xáo trộn,
còn độ đàn hồi là khả năng trở lại tình
trạng không bị xáo trộn ban đầu sau khi bị
tác động. Theo nghĩa thực tế, sức đề kháng
là thước đo khả năng của các môi trường
khác nhau và các nền văn hóa khác nhau
chống lại thay đổi. Người Sherpa ở Nepal
có thể chấp nhận sự hiện diện của du khách
mà vẫn duy trì được nền văn hóa của họ
qua nhiều thế hệ, trong khi những bộ lạc
miền núi ở vùng bắc Thái Lan lại chứng
kiến những thay đổi văn hóa lớn hơn dần
dần tác động đến cơ cấu gia đình của họ. Ở
những khu di sản tự nhiên, đất đai phì
nhiêu có nhiều khả năng chống chọi với
tần suất sử dụng mà vẫn duy trì được các
loại thực vật ở đó; đất mỏng ít có cơ may
chịu được tần suất sử dụng lớn. Người ta
thấy loài địa y có khả năng chống đỡ tốt
việc bị giẫm đạp. Các cộng đồng san hô ở
các khu vực rìa vỉa san hô lộng gió luôn
phải đương đầu với những đợt sóng mạnh
của đại dương lại thường chịu được những
tổn hại do thợ lặn gây ra hơn là các cộng
đồng san hô trong những khu vực bằng
phẳng được bảo vệ.
Độ đàn hồi cũng có thể khác nhau. Tỷ lệ
hồi phục của cây cỏ bị phá hoại tùy thuộc
34
Du lịch: Tác động và các vấn đề đặt ra
vào mức độ dễ tổn thương của hệ sinh thái
nào đó. Các chủng loại san hô khác nhau
cần thời gian khác nhau để phục hồi sau
khi bị tổn hại. Các cộng đồng và người
sống trong cộng đồng đó tự điều chỉnh lối
sống của họ theo những nhịp độ khác nhau
để chấp nhận du khách. Họ cũng có thể
điều chỉnh lại cách thức sử dụng tài
nguyên thiên nhiên nếu những nguồn này
trở nên khan hiếm khi một khu vực được
đặt dưới sự bảo vệ.
3.2. Tác động môi trường: Các kiểu thông
thường và các yếu tố
3.2.1. Tác động đến thực vật khác nhau
tùy theo kiểu cách sử dụng và sự khác
nhau về cơ cấu thực vật. Các loại thực vật
có khả năng chống đỡ tốt gồm các loại cỏ
và lau sậy. Các loại dễ bị tổn thương khi bị
giẫm đạp là những loại có tỉ lệ phát triển
chậm, các cây gai và lá nhọn, thân thảo và
các loại lá dầy nhỏ dễ bị gẫy khi bị đè
nặng. Các loại thực vật trên thảm cỏ rộng
thường có thể phục hồi tốt khi bị giẫm đạp,
song cây trên nền rừng rậm rạp lại ít có
khả năng này hơn.
3.2.2. Tác động đối với đất đai thường là
hiện tượng nén cứng và xói mòn. Du
khách thường làm đất đai bị nén cứng, một
khía cạnh không tránh được trong các hoạt
động giải trí. Các phân tử đất bị nén khít
lại với nhau, triệt tiêu các khoảng cách
giữa chúng, dẫn tới việc giảm khả năng
thẩm thấu không khí và nước. Việc này
làm tăng lượng nước mưa hoặc tuyết tan
chảy trên bề mặt, giảm khả năng hấp thụ
nước và làm xói mòn đất màu, tác hại đến
thực vật bao phủ khu đó. Không thể tránh
được việc đất bị nén cứng, nhưng ở một số
khu vực nhất định thì việc này có thể hạn
chế được. Mặt khác, xói mòn lại nghiêm
trọng hơn và có xu hướng lan rộng.
Loại đất dễ bị lèn chặt là đất thịt và phù sa
thuần nhất. Đất ướt thường dễ bị nén và xáo
trộn hơn. Đất đồng cỏ và cây cỏ dễ xáo trộn
khi bị giẫm đạp trong thời kỳ mưa, làm tăng
độ xói mòn và giảm khả năng trữ nước.
3.2.3. Tác động đối với nước thường là các
mầm bệnh, chất thải hữu cơ và bùn lầy.
Nước đục do xói mòn đất là kết quả
thường xuyên của các hoạt động du lịch và
giải trí. Ở những nơi đất dễ xói mòn, các
hoạt động và phát triển du khách nhiều khả
năng làm thay đổi chất lượng nước, có hại
cho động thực vật sống dưới nước.
Trong số những thứ gây ô nhiễm nguồn
nước, nguy hiểm nhất là mầm bệnh. Cái
thường gặp là trực khuẩn trong phân người
(faecal coliform) và khuẩn chuỗi trong
phân động vật (faecal streptococci). Phân
thải tràn ra thường do không có, hoặc có
nhưng hoạt động kém, hệ thống thoát nước
thải và nhà vệ sinh trong khách sạn, và từ
những khu du khách lưu lại. Chất thải hữu
cơ như chất thải chưa xử lý hoặc xử lý
không kỹ cũng ảnh hưởng chất lượng nước
vì nó là môi trường tốt cho các loại rong
tảo. Những loại này có thể bị nước đưa vào
bờ, rồi thối mục và tạo thành môi trường
cho các loại côn trùng sinh sôi nảy nở.
Nói chung, ô nhiễm hóa chất là nguy hại
nhất đối với vùng nước nông kín gió, đặc
biệt ở các bến tàu thuyền. Hồ và suối ở chỗ
thấp hơn có xu hướng ít bị tác hại trước
các thay đổi hơn là những hồ trên núi cao.
3.2.4. Những náo động do du khách
quan sát động vật hoang dã gây ra ảnh
hưởng tới một số loài nhiều hơn là
những loài khác. Một số loài thích nghi
nhanh, nghĩa là cho dù sau tác động ban
đầu có thể là nghiêm trọng nhưng chúng
vẫn phát triển một cơ chế chịu đựng xáo
trộn. Người ta thường sai lầm khi cho rằng
sự thích nghi của động vật có ý nghĩa tích
cực vì nó đưa du khách tới gần động vật
hoang dã hơn. Các hãng tổ chức tour đôi
khi đặt thức ăn để nhử động vật tới những
nơi du khách có thể ngắm chúng. Tuy
nhiên, việc này có thể gây ra phản ứng tiêu
cực: các loài thú ở đó có thể hung hãn hơn
khi đòi ăn, và có thể làm bị thương hoặc
thậm chí giết chết những du khách bất cẩn.
Phản ứng của động vật hoang dã, thậm chí
ngay trong cùng một loài hoặc một cộng
đồng cũng rất khác nhau. Chẳng hạn, một
số loài có thể chấp nhận thỉnh thoảng bị
trêu chọc chứ không chịu đựng được sự
quấy nhiễu thường xuyên. Chim đang làm
35
3
Du lịch: Tác động và các vấn đề đặt ra
3
tổ có thể làm ngơ vài lần khi người đến
gần, nhưng một khi quá mức, chúng sẽ bỏ
tổ đi nơi khác. Một số loài thú tự điều
chỉnh để thích nghi với những náo động có
thể thấy trước, như tiếng ồn xe cộ qua lại
chẳng hạn, nhưng không thể chịu đựng
những xáo trộn đột ngột, không thành quy
luật. Những loài thú lớn hơn có xu hướng
bị ảnh hưởng nhiều hơn khi tiếp xúc trực
tiếp với con người, trong khi những loài
nhỏ hơn lại nhạy cảm với những tác động
gián tiếp vào nơi cư trú của chúng. Những
loài thú nhút nhát có thể bỏ đi khỏi các khu
vực giải trí của con người, trong khi các
loài khác như hươu nai vẫn có thể thỉnh
thoảng qua lại.
Một số loài thú dễ bị đe doạ hơn các loài
khác; đây là một yếu tố ảnh hưởng tới tập
quán kiếm ăn và sinh sản của chúng. Loài
rùa biển ở Maine và một số loài chim khác
ở Vườn quốc gia Galapagos bỏ nơi cư trú
mà du khách hay qua lại và di chuyển tới
những nơi ít thích hợp với cuộc sống và
sinh sản của chúng hơn. Hươu nai, cũng
giống như loài động vật móng guốc khác
tương đối quen với sự có mặt của con
người, và thường gặm cỏ dọc theo đường ô
tô. Chó sói rất nhạy cảm với du khách vì
sự thâm nhập của họ hạn chế cơ hội săn
mồi của chúng. Môi trường sống là một
yếu tố quan trọng. Cuộc sống của các loài
động vật hoang dã trong các khu rừng rậm
ít bị các tuyến du lịch làm xáo trộn vì
chúng có nhiều nơi ẩn nấp hơn. Giống như
người, loài vật cũng dần “đúc kết” được
kinh nghiệm giúp điều chỉnh hành vi của
chúng; và kết quả là không có một khoảng
cách lý tưởng nào từ một địa điểm nhạy
cảm của động vật hoang dã như các lùm
cây hay khu vực cho thú ăn tới cơ sở hạ
tầng hoặc đường đi. Nhiều chuyên gia nói
một cách đơn giản là nếu du khách nhận
thấy có phản ứng tiêu cực từ thú hoang thì
tức là họ đã đến gần chúng quá.
Trường hợp cụ thể: Tê giác ở Nepal
Ở Công viên Hoàng gia Chitwan của
Nepal, du khách ngồi trên lưng voi xem tê
giác đã gây ức chế và những thay đổi
trong lối sống của chúng, làm chúng lúc
nào cũng phải cảnh giác nên có ít thời
gian gặm cỏ. Ở những nơi du khách đến
gần quá mức cho phép, khoảng một nửa số
tê giác đã bỏ đồng cỏ có chất lượng tốt
nhất và chui vào những vùng cây cỏ rậm
rạp ít chất dinh dưỡng hơn. Các nhà
nghiên cứu cho rằng tình hình này có thể
ảnh hưởng tới cơ cấu di truyền của loài tê
giác, đưa đến việc sản sinh ra thế hệ thú
thuần dưỡng hơn là những con nhát người.
3.3. Những tác động thông thường liên
quan đến việc du khách sử dụng khu di
sản
3.3.1. Du khách thường có thói quen có
thể dự tính đựơc. Du khách có xu hướng
đi theo những tuyến du lịch đã có sẵn và
thường bị cuốn hút bởi một số địa điểm
nhất định. Kết quả là tác động thường chỉ
giới hạn trong những nơi này. Tuy nhiên,
các điểm du lịch có xu hướng mở rộng
theo thời gian. Một hiện tượng liên quan là
khi một khu vực được mở cho du lịch và
giải trí thì tác động sẽ diễn ra nhanh chóng.
Nhìn tổng thể, tác động môi trường có xu
hướng theo đường vòng cung. (xem
Chương 6).
3.3.2. Tác động tùy thuộc số lượng du
khách trong từng nhóm. Những nhóm
đông người có xu hướng mở rộng khu vực
tham quan. Việc này đòi hỏi phải có những
bộ phận quản lý chuyên ngành, chẳng hạn
du lịch leo núi là nơi các nhóm lớn có thể
tụ hội và tạo ra những thành phố nhỏ trong
thời gian họ lưu lại. Các nhóm này cũng sử
dụng rất nhiều một khu vực nào đó trong
một thời gian ngắn. Kết quả là cần đặc biệt
lưu tâm tới các nhóm lớn tại những khu
thiên nhiên nổi tiếng và các khu di sản văn
hóa nhạy cảm. Ở các khu di sản văn hóa,
các nhóm lớn có thể gây ách tắc trong khu
trưng bày hiện vật. Ở các khu đền đài miếu
mạo, họ vây quanh các cổ vật, che khuất
tầm nhìn của những nhóm nhỏ hơn hoặc
những người khác; chẳng hạn, họ có thể
làm tắc nghẽn luồng du khách trong nhà
thờ.
Tuy nhiên cũng có những ngoại lệ. Ví dụ
dọc theo đường mòn hoặc hành lang nhà
thờ, những nhóm lớn có lẽ không gây
nhiều tác động hơn các nhóm nhỏ chừng
36
Du lịch: Tác động và các vấn đề đặt ra
nào họ vẫn di chuyển dọc theo lối đó. Với
động vật hoang dã, các nhóm lớn có thể
gây tác động ít hơn một số nhóm nhỏ nếu
tần suất xáo trộn thưa hơn, chẳng hạn như
trong trình huống với nhiều loài chim.
3.3.3. Các hoạt động khác nhau gây ra
những tác động khác nhau. Chẳng hạn,
leo núi và chụp ảnh thiên nhiên có thể làm
kinh động chim đang làm tổ. Lặn có bình
dưỡng khí và du thuyền có thể làm tổn hại
các vỉa san hô. Cưỡi ngựa, đi bộ đường dài
và cắm trại làm xáo trộn cây cỏ và đất. Du
khách đến các khu đền đài miếu mạo có
thể làm mòn hiện vật bằng việc chạm tay
vào chúng.
Các hoạt động của xe cộ có động cơ có tác
động tiêu cực đến nhiều môi trường dễ bị
tổn thương. Xuồng máy và và canô máy
gây nhiều tiếng ồn có thể đảo lộn thói quen
săn bắt và sinh sản của chim muông hoặc
làm thương tổn các loài sống dưới nước.
Chân vịt xuồng có thể làm loài lợn nước
ngọt hiền lành bị thương hoặc chết. Xuồng
máy cũng gây ô nhiễm cao; chỉ một chiếc
cũng sinh ra lượng hydrocarbon gấp 70 lần
một chiếc ô tô bình thường. Các xe chạy
trên bãi biển làm xáo trộn rong biển tích tụ
vốn tạo ra lớp mùn mỏng cho các loài thực
vật sống trên cát. Đất bị xe cộ lèn cứng ở
Sa mạc Mojave của Mỹ sẽ cần khoảng một
thế kỷ để phục hồi. Vì những tác động này
cho nên các nhà quản lý thường đề nghị
cấm ô tô, xe máy ra vào các khu vực dễ bị
tổn hại như cồn cát và sa mạc.
Các tác động khác nhau tùy thuộc vào cách
thức hoạt động của du khách. Người lăn
biển giỏi có khả năng kiểm soát độ nổi ít
hủy hoại san hô hơn những người thiếu
kinh nghiệm. Những nhà leo núi đã qua
lớp huấn luyện giảm thiểu tác động sẽ ít
gây hại hơn những người không được đào
tạo. Một số hãng tổ chức tour có ý thức đề
ra quy định tổ chức các tour quan sát động
vật hoang dã sao cho hạn chế thấp nhất tác
động đến chúng: các hãng tổ chức tour
quan sát cá voi yêu cầu người lái tàu giữ
khoảng cách nhất định với cá voi, tránh
đuổi theo chúng và tắt máy tàu khi tới gần
chúng để tránh gây ức chế không cần thiết.
Đối với khu di sản văn hóa, ví dụ ở khu có
các hình tạc đá linh thiêng đá hoặc trong
nhà thờ, du khách được yêu cầu biểu thị sự
tôn kính bằng cách che đầu hoặc giữ trật
tự. Tác động do du khách gây ra thường là
không có chủ ý và có thể giảm thiểu bằng
cách có những chỉ dẫn cần thiết.
3.3.4. Đông người là một tác động tiêu
cực khi nó trái với mong muốn của du
khách. Những nghiên cứu ban đầu cho
thấy lượng khách tăng làm giảm mức độ
hài lòng của họ. Kết quả là các nhà quản lý
tìm cách xác định lượng khách thăm đông
tới mức độ nào thì có thể gây cảm giác quá
tải. Tuy nhiên, quan hệ giữa lượng người
và độ hài lòng của du khách hóa ra lại
phức tạp hơn. Trong khi lượng người quá
lớn ở một khu di sản chắc chắn sẽ làm
giảm mức độ thụ hưởng thẩm mỹ và cơ hội
được thư thả một mình, nhưng lượng
khách không nhất thiết giảm mức hài lòng
của du khách. Ngược lại, phản ứng tiêu
cực có xu hướng xuất hiện khi du khách
cảm thấy những du khách khác cản trở việc
thưởng thức của họ. Một điểm phức tạp
khác là tác động tiêu cực của đám đông
thay đổi tùy theo đặc điểm của các loại du
khách, trải nghiệm trước đó của họ tại khu
vực, lối ứng xử của các du khách khác, đặc
điểm và đặc tính của cảnh quan. Chẳng
hạn, du khách quan sát động vật hoang dã
ở khu bảo tồn thiên nhiên Maasai Mara có
thể bực mình vì sự hiện diện của một vài
xe hơi, trong khi ở các vườn bách thú thì
xe cộ ra vào không có vấn đề gì. Du khách
cũng có thể thay đổi ý định trong hoạt
động nào đó để thích nghi với điều kiện
đông người.
Chu kỳ Du lịch cộng đồng theo nghĩa cổ
điển
• Giai đoạn 1: Các cộng đồng xây dựng
những loại nhà nhỏ một tầng dành cho du
lịch tại địa phương. Nhà dân được cải tạo
và biến thành những khách sạn nhỏ và nhà
nghỉ, việc làm này mang lại nguồn thu cho
dân địa phương.
• Giai đoạn 2: Giá trị đất tăng. Bắt đầu
phát triển đường giao thông và các cơ sở
hạ tầng khác. Người ngoài địa phương bắt
đầu mua đất và tiến hành hoạt động với
quy mô lớn hơn dân địa phương. Người
37
3
3
Du lịch: Tác động và các vấn đề đặt ra
địa phương vẫn có lợi về kinh tế mặc dù
phần lớn thu nhập tập trung vào một số ít
người.
• Giai đoạn 3: Bắt đầu xây dựng khách
sạn với tốc độ nhanh hơn, không quan tâm
đến các quy định về quy hoạch; xây dựng
tiếp diễn một cách vô tội vạ, làm môi
trường xuống cấp. Người địa phương
hưởng lợi với tư cách nhân viên phục vụ
trong các khách sạn và nhà nghỉ tại địa
phương và trong lĩnh vực chuyên chở du
khách.
• Giai đoạn 4: Hầu hết chủ nhân của các
khách sạn, nhà nghỉ nhỏ và tiệm ăn là
người ngoài địa phương. Tiền bắt đầu
chảy ra ngoài. Những công trình lớn được
xây dựng bất chấp các quy định. Các
khách sạn và tổ chức lớn quảng bá du lịch
quốc tế, lợi nhuận vẫn nằm trong nước sở
tại. Du khách đóng góp khoản tài chính
nhỏ bằng việc mua đồ lưu niệm. Cung cấp
nước và môi trường bị đe doạ và những
người kinh doanh bất động sản bắt đầu lo
ngại về tương lai. Cư dân địa phương có
thể bắt đầu ngại du khách.
• Giai đoạn 5: Môi trường xuống cấp dấy
lên nỗi lo sợ về việc lượng du khách giảm,
đưa tới việc đòi hỏi cần có hành động.
Việc khắc phục chậm có hiệu quả, sự
xuống cấp tiếp diễn. Cộng đồng địa
phương vẫn được hưởng lợi, nhưng kiểm
soát thì do những người bên ngoài nắm
giữ; những người này có thể quyết định bỏ
khu vực để chuyển tới nơi khác.
3.4.
Tác động của du lịch đối với cộng
đồng và văn hóa
3.4.1 .Các mô hình không thể hiện hết sự
phức tạp của chu kỳ du lịch vì cho rằng
cộng đồng dân cư là đồng nhất, trong khi
đó đây là một điều rất hiếm khi xảy ra
trong thực tế. Chẳng hạn, trong những giai
đoạn sau của chu kỳ du lịch, các mô hình
không cho thấy liệu toàn bộ cộng đồng
phản cảm với du lịch, hay chỉ một bộ phận
dân cư bị tác động phàn nàn về những tác
động xã hội của du lịch? Thực tế việc các
thành viên của cộng đồng địa phương tự
điều chỉnh để thích nghi với du lịch bằng
nhiều cách làm vấn đề càng phức tạp thêm.
Một yếu tố khác là tăng trưởng du lịch có
thể diễn ra cùng với những thay đổi khác,
và lối ứng xử của dân địa phương có thể là
phản ứng đối với những thay đổi khác này
chứ không phải đối với những thay đổi do
tác động của du lịch.
Tương tự như vậy, trong khi có nhiều
nghiên cứu khảo sát thái độ chung đối với
du lịch ở những cộng đồng dân cư đặc biệt
thì ít có nghiên cứu nào xem xét thái độ
đối với các sản phẩm và dịch vụ của du
lịch cộng đồng cụ thể. Một vấn đề quan
trọng nữa là rất ít nghiên cứu được chuẩn
bị dựa trên tư vấn của những người bị ảnh
hưởng. Chỉ có một số ít các nhà nghiên
cứu đề nghị du khách đánh giá hoặc xếp
loại tầm quan trọng của những tác động mà
người địa phương nêu lên.
Cộng đồng địa phương có thể mất nguồn
lợi du lịch như thế nào?
• Du lịch có thể không thu hút được
nhanh và đủ lượng du khách để tạo ra
lượng thu đủ đáp ứng mong đợi kinh tế của
cộng đồng. Điều này là kết quả của tính
chất cạnh tranh trong du lịch, hoặc là chất
lượng của các nguồn lực ở địa phương.
Việc không đáp ứng được mong đợi của
cộng đồng có thể dẫn tới chỗ họ không
mặn mà với chương trình du lịch và tin
rằng di sản chẳng có ích gì cho cộng đồng.
Kết quả là ít có khả năng họ tham gia vào
các hoạt động bảo vệ di sản.
• Du lịch có thể làm tăng gánh nặng cho
cư dân địa phương mà không mang lại lợi
ích nào để giảm bớt đi gánh nặng đó.
Nguồn thu từ du lịch thường chỉ đến tay
một bộ phận dân cư khác, chứ không phải
những người đang chịu đựng gánh nặng
tài nguyên ngày càng cạn kiệt.
• Phần lớn chi phí của ngành du lịch như
vé máy bay, khách sạn và lệ phí của hãng
tổ chức tour rơi vào tay các công ty nước
ngoài.
• Dân địa phương thường sống tản mát
theo nhóm hoặc trong những làng mạc
nhỏ, liên hệ có thể khó khăn, nên hạn chế
việc phân chia công bằng các nguồn lợi
kinh tế.
38
Du lịch: Tác động và các vấn đề đặt ra
• Những người kinh doanh bất động sản
có thể khiến người dân địa phương mất đi
các nguồn lợi kinh tế đã được dự trù, hoặc
quan hệ quyền lực ở địa phương có thể
quyết định ai sẽ là người hưởng lợi từ các
cơ hội du lịch. Chẳng hạn, những người có
nhiều mối quan hệ tốt có thể độc quyền cơ
hội đứng ra làm hướng dẫn viên hoặc cung
cấp phương tiện đi lại cho du khách.
• Vốn đầu tư ban đầu thường khó kiếm.
Một nghiên cứu ở Belize cho thấy trong khi
những nhà đầu tư ở địa phương rất khó
vay được vốn của các ngân hàng để bắt
đầu kinh doanh du lịch thì các ngân hàng
đó lại đồng ý cho vay nếu các nhà đầu tư
này liên danh với các công ty nước ngoài.
• Không phải tất cả các hoạt động du lịch
đều có tiềm năng như nhau trong việc huy
động sự tham gia của cộng đồng. Để huy
động được cộng đồng tham gia vào một số
hoạt động phức tạp hơn, cần tổ chức huấn
luyện trước. Chẳng hạn, các dự án khách
sạn nhỏ do cộng đồng quản lý có thể bị trì
trệ do các vấn đề quản lý và tổ chức, kết
quả của việc thiếu những kỹ năng kinh
doanh cần thiết. Ở Mexico, một dự án hợp
tác đầu tư khai thác khách sạn đã thất bại
vì các thành viên không được huấn luyện
những kỹ năng điều hành cần thiết để có
thể quản lý hiệu quả công việc. Trong
nhiều trường hợp, tạo cơ hội hướng dẫn
các hoạt động chuyên ngành như quan sát
chim muông hoặc du lịch sông suối tỏ ra
không khả thi. Các hãng tổ chức tour
đường bộ thích thuê hướng dẫn viên từ thủ
đô có tay nghề tốt và được đào tạo bài
bản,biết nói tiếng Anh hoặc các ngôn ngữ
châu Âu khác.
• Các công ty tour và khách sạn nói
chung không sử dụng hướng dẫn viên
người địa phương. Nhằm khắc phục tình
hình này, ở một số nước, chính phủ ban
hành văn bản hoặc chính sách đối với khu
vực cần bảo vệ buộc các hãng tổ chức tour
và khách sạn được yêu cầu thuê hướng dẫn
viên người địa phuơng tay nghề thấp. Vì
những nước này thường ít hướng dẫn viên
có năng lực nên các hãng tổ chức tour
không hài lòng với yêu cầu phải sử dụng
họ vì các hãng này thường coi đây là một
lý do làm tăng chi phí của hãng.
• Vì du lịch nông thôn thường theo mùa,
nên nó không có khuynh hướng tạo việc
làm thường xuyên liên tục. Nhưng những
việc tạm thời của du lịch vẫn có thể cạnh
tranh với các việc theo mùa khác như các
công việc nhà nông nên thực chất không
mang lại lợi nhuận ròng cho cộng đồng.
3.4.2. Rất khó tiên đoán tác động qua lại
giữa phát triển du lịch và cộng đồng vì ít
có các mối và kiểu quan hệ nhất quán.
Dưới đây là khái quát về những số liệu về
vấn đề phức tạp này. Du lịch với tần suất
cao có thể được một số cộng đồng coi là
tích cực, nhưng với một vài cộng đồng
khác lại là tiêu cực. Trong khi thái độ tiêu
cực thường gặp ở những cộng đồng có
mức phát triển cao, một số cộng đồng ủng
hộ du lịch mặc dù tỷ lệ du khách so với cư
dân địa phương là cao. Các chuyến du lịch
tới Vịnh Cá mập ở miền tây Australia tăng
từ 10.000 năm 1984 lên 150.000 năm
1990, làm tỷ lệ cư dân/du khách tăng từ
1/10 lên 1/150 chỉ trong vòng 6 năm. Mặc
dù tỷ lệ du khách tăng nhanh và xuất hiện
những vấn đề môi trường nghiêm trọng,
dân địa phương vẫn có thái độ đánh giá
tích cực và ủng hộ du lịch tiếp tục tăng
trưởng. Ở Nadi của Fiji cũng vậy: phát
triển du lịch và tiếp xúc với du khách cũng
cao, nhưng phản ứng và thái độ của cư dân
vẫn là tích cực.
Một số nghiên cứu phát hiện cư dân
thường ủng hộ du lịch nếu họ cũng được
hưởng lợi, như có việc làm cho bản thân và
gia đình họ. Hoặc họ tin rằng lợi ích mà du
lịch mang lại nhiều hơn những tác động
tiêu cực. Nhưng một số nghiên cứu khác
lại cho thấy những người không được thụ
hưởng từ du lịch cũng vẫn ủng hộ nó.
Một số nghiên cứu báo cáo về nỗi lo ngại
của người địa phương trước tác động của
phát triển du lịch tới giá bất động sản, khả
năng tiếp cận các hoạt động giải trí, tắc
nghẽn giao thông, chất lượng cuộc sống,
lương bổng và giá cả. Một nghiên cứu
khác cho thấy ít có mối quan hệ giữa phát
triển du lịch và các chỉ số như chất lượng
cuộc sống. Cư dân vùng núi Alps ở Áo cho
rằng trong khi du lịch làm giá cả các loại
hàng hóa cơ bản tăng hơn, thì thuế và mức
độ cạnh tranh trong phân phối nguồn lợi
cũng cao hơn, cũng như sự tham gia vào
39
3
3
Du lịch: Tác động và các vấn đề đặt ra
các dự án cộng đồng giảm đi, nhưng ảnh
hưởng tổng thể của du lịch đối với cộng
đồng vẫn là tích cực.
3.4.3. Một số nền văn hóa có thể tự điều
chỉnh một cách tích cực trước những ảnh
hưởng từ bên ngoài, trong khi các nền
văn hóa khác lại không làm được. Các
nền văn hóa và các cộng đồng có lịch sử
giao lưu với các nền văn hóa khác và tiếp
xúc thường xuyên với các nhóm người bên
ngoài đã tìm được cách tiếp nhận những
điều mới mẻ vào cuộc sống của họ trong
khi vẫn bảo vệ văn hóa riêng của mình, và
ít gặp khó khăn đối với du lịch. Những
nhóm ít tiếp xúc với bên ngoài gặp nhiều
khó khăn hơn. Một ví dụ điển hình là năm
1770, thổ dân Australia chẳng hề quan tâm
tới thuyền buồm Endeavor của thuyền
trưởng Cook, vì không biết nó là cái gì và
quá lạ lẫm để tiếp cận no.
Các ảnh hưởng từ bên ngoài có thể làm
thay đổi một số nền văn hóa trong một
hoặc hai thế hệ. Những mô hình mới trong
cơ cấu xã hội của một nền văn hóa, ví dụ
phụ nữ làm việc ngoài hệ thống gia đình
truyền thống, có thể làm giảm sự quan tâm
tới các truyền thống văn hóa như ngồi kể
chuyện. Với nhiều cơ hội việc làm mới,
thanh niên có thể không còn muốn hoặc
thấy cần học các kỹ năng truyền thống.
Trong khi ở một vài trường hợp, mối quan
tâm của du khách đối với nghệ thuật, âm
nhạc và ngôn ngữ địa phương có thể kích
thích sự phục hưng văn hóa, các nhà
nghiên cứu thường thông báo về việc các
nền văn hóa “xoay chiều” theo xu thế thị
trường hàng hóa.
3.4.4. Thị trường hóa văn hóa là sự bào
mòn các tập quán văn hóa tới mức làm
chúng mất hết ý nghĩa. Trong bối cảnh du
lịch, xu hướng này phát triển khi cư dân và
những biểu tượng văn hóa của họ được coi
như hàng hóa có thể mua bán hoặc thay
đổi. Khi tình huống này xuất hiện, người ta
bắt đầu biểu diễn chỉ để phục vụ du khách,
vì thế các sự kiện có thể mất dần giá trị
vốn được coi là biểu đạt về văn hoá và tinh
thần. Để tự vệ, một số cộng đồng đã cố
gắng hạn chế sự xâm nhập của du khách
bằng cách không cho du khách tiếp cận với
các biểu đạt văn hoá riêng biệt và tổ chức
các chương trình biểu diễn có tính chất
“sân khấu chính thống” dành riêng cho du
khách, kèm theo các giải thích phù hợp.
3.4.5. Sự chấp nhận của cộng đồng đối
với du lịch phụ thuộc nhiều vào mức độ
đáp ứng các nhu cầu và ước vọng của cư
dân địa phương của điểm du lịch và sự
hòa nhập của họ vào ngành công nghiệp
du lịch. Thay đổi văn hóa mang tính tiêu
cực có thể được giảm thiểu nếu cư dân địa
phương có thể tham gia vào những hoạt
động kinh doanh gắn với du lịch, và có vai
trò trong việc ra quyết định về số lượng,
loại và tần suất khách du lịch được tới
cộng đồng. Tác động văn hóa và kinh tế
giảm khi các nhóm cư dân địa phương có
quyền tự quản đối với đất đai của họ và
được lôi cuốn tham gia vào ngành công
nghiệp du lịch.
Khả năng tiếp cận của cư dân địa phương
với một địa điểm thu hút du lịch và việc họ
nhận thấy nơi này mang lại những lợi ích
kinh tế như tạo công ăn việc làm, hoặc thu
nhập thêm cho kinh tế cộng đồng là những
yếu tố khác góp phần thuyết phục sự chấp
nhận của công đồng với phát triển du lịch.
Tự do tiếp cận của cư dân địa phương
thường được coi là một bước tích cực. Cư
dân sẽ có xu hướng chống đối du lịch nếu
họ nhận thấy các nhà quản lý khu du lịch
dành khu vực riêng cho du khách nước
ngoài hoặc khách từ nơi khác hơn là cho
cộng đồng địa phương.
3.4.6. Xung đột nảy sinh khi các lợi ích
kinh tế từ du lịch được phân chia không
đều, nhất là khi nó đưa tới sự khác biệt
lớn về mức độ giàu có. Ở trung tâm dân cư
và hành chính khu Vườn Quốc gia Taman
của Malaysia, khoảng 60% người dân có
việc làm trong lĩnh vực du lịch, thu nhập
bằng lương cao hơn rất nhiều so với những
người còn lại. Trong các làng lân cận,
khoảng 70% cư dân sống bằng canh tác đất
đai, và thu nhập của họ chỉ bằng khoảng
1/3 thu nhập của cư dân khu trung tâm. Du
lịch tạo nên căng thẳng xã hội khi người
địa phương không hài lòng với tiền tàu phà
cao hơn và giá các mặt hàng sinh hoạt
tăng; xung đột diễn ra khi việc sử dụng các
40
Du lịch: Tác động và các vấn đề đặt ra
nguồn lợi trong vườn quốc gia như cá, hoa
trái và mây song; việc săn bắn và bắt cá bất
hợp pháp cũng tăng lên.
3.4.7. Phân chia lợi ích kinh tế để hỗ trợ
dân địa phương gặp khó khăn vì nhiều lý
do. Một nghiên cứu về các khu vực được
bảo vệ có các chương trình du lịch cho
thấy ít chương trình mang lại lợi ích đáng
kể cho dân địa phương. Ngay cả ở những
khu vực gặt hái nhiều thành công, cộng
đồng sở tại cũng ít được hưởng lợi trực
tiếp. Chẳng hạn, trong khi du khách tới
Vườn Quốc gia Khao Yai ở Thái Lan hàng
năm mang lại nguồn thu tới 5 triệu đô la,
thì các cộng đồng xung quanh ít được
hưởng số tiền này. Phát triển du lịch ở
vùng Everest của Nepal có xu hướng tập
trung dọc theo những dải đất hẹp nên khả
năng phân bổ rộng rãi lợi ích kinh tế rất
thấp. Nhiều nghiên cứu ở một số khu của
Nepal cho thấy chỉ những người có chức
quyền trong làng xã là được lợi từ du lịch.
3.4.8. Phát triển kinh tế từ du lịch không
đương nhiên dẫn tới sự tham gia của
cộng đồng trong các hoạt động bảo toàn
và bảo vệ. Lý do là:
• Lợi ích kinh tế mà du lịch mang lại
thường không đủ để kích thích cộng đồng
địa phương hỗ trợ bảo toàn và bảo vệ di
sản.
• Khó xây dựng các chiến lược tạo tinh
thần làm chủ cho các chương trình bảo
toàn phát triển kinh tế. Thường không có
các cơ chế kích thích các hoạt động bảo
toàn. Những nhà tài trợ thường cung cấp
cơ sở hạ tầng, trường học, trạm xá, giếng
nước, v.v. ở những nơi ngoài khu vực được
bảo vệ mà không tham khảo hoặc lôi cuốn
cộng đồng địa phương tham gia. Vì những
sáng kiến này chỉ được coi là cho không,
nên dân chúng ít cảm thấy phải có trách
nhiệm bảo dưỡng chúng trong tương lai.
Rõ ràng những việc làm trên không có tính
bền vững.
• Mối liên hệ giữa lợi ích do du lịch mang
lại và các hoạt động bảo toàn nhiều khi
không rõ ràng hoặc không tồn tại. Để du
lịch có thể thúc đẩy bảo toàn, cư dân địa
phương phải được hưởng lợi về kinh tế và
thấy rõ mối quan hệ giữa lợi ích và nhu cầu
bảo vệ nguồn lợi. Nếu lợi ích không nằm
tại địa phương hoặc chỉ được phân bổ rất
ít, thì sẽ khó có cơ hội cho mối liên hệ
quan trọng này tồn tại. Một nghiên cứu về
các hướng dẫn viên du lịch thiên nhiên ở
Costa Rica và Mexico cho thấy mặc dù
được đào tạo cơ bản về môi trường sống,
nhưng người ta vẫn không thấy rõ mối liên
hệ giữa việc đào tạo họ với sự tham gia của
họ vào các nỗ lực bảo toàn của cộng đồng.
Nghiên cứu này đi đến kết luận: cần phát
hiện và tuyển dụng các hướng dẫn viên du
lịch đã sẵn có mối quan tâm và kinh
nghiệm trong các hoạt động bảo toàn tại
cộng đồng.
Trường hợp cụ thể: Vườn Quốc gia
Komodo ở Indonesia
Tại Vườn Quốc gia Komodo ở Indonesia,
nguyên tắc chủ đạo là các cộng đồng địa
phương cần được ưu tiên trong thụ hưởng
lợi ích do vườn mang lại. Cộng đồng địa
phương tham gia vào các hoạt động du
lịch, quản lý nguồn lực và các nỗ lực bảo
vệ. Ở mức độ nào đó, cư dân cũng tham
gia vào việc chuyên chở du khách, dịch vụ
hướng dẫn và cung cấp nơi ăn nghỉ, trong
khi nhiều người làm đồ thủ công mỹ nghệ
và đồ lưu niệm, hoặc làm trong các nhà
hàng.
3.5. Gợi ý và Khuyến nghị
• Cần đánh giá tác động trong từng
trường hợp cụ thể. Quan hệ tương tác trên
nhiều vấn đề trong du lịch rất khó dự đoán
vì có ít cách thức hoặc các mối quan hệ
nhất quán nảy sinh. Chẳng hạn, tác động
đối với động vật hoang dã và phản ứng của
cộng đồng với du khách khác nhau tùy
theo tình huống.
• Thực tế là các tác động có thể theo
đường vòng cung và thay đổi theo từng
nguồn lực càng khẳng định sự cần thiết
phải có các chương trình giám sát để theo
dõi các xu hướng thay đổi. Tìm ra nguyên
nhân hoặc các nguyên nhân của vấn đề sẽ
giúp cho các nhà quản lý có được các
41
3
Du lịch: Tác động và các vấn đề đặt ra
3
thông tin cần thiết để lựa chọn những chỉ
số theo dõi sự thay đổi trong từng thời kỳ.
• Phân bổ các hoạt động du lịch ở những
khu vực mà nguồn tài nguyên vừa có sức đề
kháng lẫn khả năng đàn hồi giúp hạn chế
thiệt hại. Yếu tố đề kháng và đàn hồi có thể
được miêu tả trong các thông tin thu được
trong quá trình lập kế hoạch, như tính dễ
tổn thương của một số loài vật hoang dã.
• Đánh giá mục tiêu và mục đích của khu
di sản khi quyết định mức độ tác động cần
kiểm soát sẽ ảnh huởng tới các hoạt động
du lịch. Chẳng hạn, những khu cư trú của
động vật hoang dã được quản lý có thể
giúp du khách quan sát chúng dễ hơn,
nhưng lại không lợi cho các nghiên cứu
khoa học. Nếu điều tra khoa học là một
mục tiêu quản lý thì việc duy trì quần thể
động vật hoang dã trong trạng thái tự nhiên
sẽ được ưu tiên hơn là du lịch.
• Những tác động do du khách gây ra cần
được phân tích theo cách thức sử dụng,
loại du khách, lượng người trong mỗi
nhóm, tần suất sử dụng và cách thức du
lịch. Qua phân tích này, có thể làm cho tác
động của du khách và hoạt động của họ
phù hợp với điều kiện ở những khu vực có
vấn đề.
• Sự ổn định và cơ cấu của cộng đồng ảnh
hưởng mạnh tới khả năng đàn hồi của cộng
đồng đó. Các yếu tố chủ yếu cần phân tích
bao gồm khả năng lập kế hoạch và xu
hướng việc làm của cộng đồng, ví dụ thuê
mướn ai, để làm việc gì, lương bổng ra sao
và vào những tháng nào? Cần có đánh giá
ban đầu về việc cộng đồng có thể đóng góp
hoặc tác động tới du lịch như thế nào. Các
cộng đồng địa phương cần có thời gian để
quyết định hướng đi của mình.
• Xác định các hoạt động có sử dụng các
nguồn tài nguyên và kỹ năng hiện có sẽ
góp phần phát huy tối đa lợi ích kinh tế
tiềm tàng của phát triển du lịch đối với
cộng đồng địa phương. Có thể xem xét các
dự án cộng đồng như hợp tác xây dựng
khách sạn nhỏ, nhưng phải có kế hoạch
chu đáo và sự hỗ trợ cần thiết. Cần lưu ý
xem liệu một số hoạt động du lịch có tạo ra
sự khác biệt lớn về lương cho người địa
phương hay không. Nếu có thì không nên
khuyến khích những hoạt động loại này.
• Việc xác định xem thu nhập từ du lịch
được phân chia như thế nào, liệu phần lớn
thu nhập sẽ vào tay một số cá nhân và gia
đình, hay khoản thu này được phân bổ
rộng rãi bằng việc mua các hàng hóa địa
phương hoặc dưới hình thức lương, sẽ cho
thấy tác động kinh tế của các cơ hội du
lịch. Việc đánh giá đối với phân chia thu
nhập cần tính đến việc các dự án du lịch
tương tác thế nào với các cơ hội kinh tế
khác trong gia đình và cộng đồng, vì đối
với một số đối tượng, ngay cả nguồn thu
khiêm tốn nhất từ du lịch cũng có thể là
quan trọng.
• Điều được thừa nhận rộng rãi là cần
hiểu sâu về văn hóa địa phương, chẳng hạn
cách thức tổ chức lễ hội, cách rút khỏi
hoặc tìm kiếm giải pháp riêng trong quá
trình lập kế hoạch và quản lý các chương
trình du lịch. Một số nền văn hóa đặc biệt
dễ bị tổn thương trước những tác động
nghịch của du lịch. Để du lịch góp phần
bảo vệ chứ không đe dọa di sản của địa
phương, các nhà quản lý có thể không
nghiên cứu nhiều việc du khách thích tìm
hiểu cái gì ở cộng đồng mà cần phải tìm
hiểu xem người dân ở đó tự nguyện bộc
bạch những gì về chính họ.
Gợi ý hoạt động.
1. Lập danh mục những tác động và các mối
đe dọa tại khu di sản theo trật tự ưu tiên
• sử dụng những tiêu đề chính của
chương này để dự thảo danh mục các tác
động/các vấn đề.
• xác định xem các tác động có liên quan
đến du lịch hay không; sử dụng ý kiến tư
vấn của các nhân viên làm việc tại khu di
sản, hướng dẫn viên du lịch người địa
phương, những người đứng đầu cộng đồng,
chủ khách sạn và các hãng tổ chức tour
• xác định các nhóm liên quan đến những
tác động này.
42
Du lịch: Tác động và các vấn đề đặt ra
2. Kiểm tra mối quan hệ nhân-quả của
những tác động đã được xác định.
• nghiên cứu chi tiết để xác định những
yếu tố nguyên nhân và mô tả những kết
quả dài hạn.
• xác định xem những tác động khác nhau
có tương tác với nhau hay không và bằng
cách nào?
• xác định xem việc giảm nhẹ một tác
động này có ảnh hưởng tích cực tới các tác
động khác hay không
3. Sắp xếp các tác động theo trật tự và lên
danh mục sơ bộ những việc cần làm để
giảm nhẹ chúng.
• yêu cầu nhân viên tại khu di sản sắp xếp
các tác động ưu tiên theo cảm nhận của họ.
• xây dựng bản đối chiếu so sánh toàn bộ
tác động để thấy tầm quan trọng tương đối
của chúng.
• xây dựng bản mô tả khái quát các tác
động, các hoạt động hiện đang tiến hành và
cùng hội đồng tư vấn rà soát lại bản mô tả
này.
Sách cần tham khảo
• Brandon, Katrin. Du lịch sinh thái và
Bảo toàn: Nghiên cứu tổng quát các vấn
đề quan trọng. Tham luận 33, Vụ Môi
trường toàn cầu, WB, 1996.
• Cole, David N. và G.S. Schreiner. Tác
động của Giải trí ở vùng thôn dã: Quản lý
và Phục hồi khu di sản, Thư mục cần đọc.
Báo cáo tổng hợp về kỹ thuật INT số 121,
Bộ Dịch vụ Lâm Ngư nghiệp và Thí điểm
rừng của Mỹ, Ocden, Utar 8401, 9/1981.
• DeKadt E. Du lịch: Hộ chiếu đi tới
Phát triển? New York, NXB Đại học
Oxford, 1976.
• Marion, Jeffrey L. và Tracy A. Farrell.
“Quản lý du lịch sinh thái trong khu vực
được bảo vệ” trong “Du lịch sinh thái: Tài
liệu hướng dẫn Các nhà kế hoạch và Quản
lý”, tập 2. Hội Du lịch sinh thái, 1999.
• Mieczkowski, Zbigniew. Các vấn đề
môi trường của Du lịch và Giải trí”, trang
3, UPA Inc 4729 Boston Way, Laham,
Maryland 20706, 1995.
• Mill, Robert Christie. “Các yếu tố
thành công chủ yếu trong Du lịch Cộng
đồng” trong “Văn bản Hội nghị thường
niên lần thứ 26”, Hội nghiên cứu Du lịch
Lữ hành, 9/1995.
• Pearce, Moscardo và Ross. Quan hệ
Nhân học-Du lịch, Elsevier Service Ltd,
1996.
• Smith, V.L. (biên soạn). Chủ và Khách:
Nhân loại học Du lịch (tái bản lần 2)
Philadelphia, NXB Đại học Pennylvania,
1989.
• Người đưa tin UNESCO, số 8 tháng
7/8 1999, OPI 99-584, UNESCO, Paris,
Pháp.
• Wells, Michael P. Viễn cảnh Kinh tế
của Du lịch Thiên nhiên, Bảo toàn và Phát
triển, tham luận số 55, Vụ Môi trường,
WB.
• Hammit, William E. và David N. Cole,
Wildland. Giải trí, Môi sinh và Quản lý.
NXB John Wiley & Các con, tái bản có
sửa chữa, 1/1999.
• Knight, Richard L, và Kevin J.
Gutzwiller (biên soạn). Cuộc sống hoang
dã và Các nhà giải trí: Cùng tồn tại thông
qua quản lý và nghiên cứu. NXB Island,
Washington DC, 1995.
43
3
44
Thu hút những người có lợi ích:
Lợi ích và sự thách thức từ sự
thamgia của công chúng
45
4
Thu hút những người có lợi ích: Lợi ích và sự thách thức
từ sự tham gia của công chúng
Bất cứ chương trình du lịch bền vững
nào cũng cần sự tham gia của những
người có lợi ích, hoặc các bên quan tâm
như các cơ quan chính phủ, các tổ chức
bảo toàn, các NGO, các nhà kinh doanh
bất động sản và các cộng đồng địa
phương. Sự tham gia của họ trong quá
trình lên kế hoạch và quản lý có tầm
quan trọng rất lớn. Vấn đề công chúng
tham gia vào các hoạt động liên quan tới
du lịch chính là cơ sở cho việc lên một
danh mục những việc các nhà quản lý
cần làm nếu muốn tránh những xung đột
không cần thiết. Hiểu rõ những vấn đề
này là điều tiên quyết đối với sự tham gia
hữu hiệu của công chúng, đặc biệt là khi
chuẩn bị các cuộc gặp với những người
có lợi ích và thành lập các hội đồng tư
vấn về du lịch.
4.1. Tại sao cần thu hút những người
có lợi ích trong việc lên kế hoạch và
quản lý?
4.1.1. Thu hút sự tham gia của những
người có lợi ích tiết kiệm được thời gian
và tiền của. Xung đột giữa cộng đồng và
những người phụ trách bảo toàn di sản cho
thấy, nếu chỉ dựa vào việc thực thi pháp
luật thì kém thực tế và tốn kém hơn là thu
hút ngay từ đầu các nhóm có lợi ích. Kinh
nghiệm từ lâu trong quản lý du lịch Di sản
thế giới cho thấy các dự án trong đó đầu
vào của địa phương mà hạn chế thì thường
ít hiệu quả và rốt cuộc là tốn kém hơn.
4.1.2. Việc không hiểu quan điểm của
những người có lợi ích có thể làm chậm
hoặc ngưng trệ dự án. Có rất nhiều ví dụ
về việc các dự án bị ngưng trệ vì thiếu sự
liên hệ có hiệu quả với những người có lợi
ích. Việc xây dựng trung tâm văn hóa ở
đảo Truk vùng Nam Thái Bình Dương trì
trệ vì các quan chức dự án không tham
khảo ý kiến vị toàn quyền. Giá như làm
được điều đó, họ sẽ phát hiện được sự xung
đột giữa toàn quyền và một vị lãnh đạo địa
phương, nơi dự án dự kiến được thực hiện.
Những nỗ lực quá nhanh về quản lý các hệ
sinh thái ở Vườn Quốc gia Yellowstone
của Mỹ cũng bị chậm vì ban quản lý bắt
đầu lên kế hoạch khu vực tổng thể trước
khi thống nhất với những người có lợi ích.
Rút kinh nghiệm từ những vấn đề đã gặp,
nhiều khu di sản hiện dành lượng thời gian
đáng kể để họp với các nhóm có lợi ích
quan trọng, yêu cầu họ nói rõ quan điểm và
xác định các vấn đề để cùng xem xét. Qua
trao đổi và phối hợp, ban quản lý khu di
sản biết được nhiều quan điểm khác nhau
của những người có lợi ích về những hoạt
động và những vấn đề du lịch có thể gây
tác động tới khu di sản.
4.1.3. Những người có lợi ích có thể cho
các nhà quản lý biết những khác biệt văn
hóa địa phương dễ bị hiểu lầm. Những giá
trị tôn giáo hoặc văn hóa có tầm quan trọng
rất lớn đối với cộng đồng và thường không
dễ nhận ra nếu người địa phương không
được tham gia vào quá trình lên kế hoạch
và quản lý. Chẳng hạn, trong khi nhân viên
khu di sản có thể có lý khi coi một số thung
lũng, thành tạo đá hoặc các di chỉ khảo cổ
là tài nguyên thiên nhiên hoặc tài nguyên
nhân loại, thì những khu này có thể lại là
thiêng liêng đối với cộng đồng địa phương.
Làm rào chắn, xây đường đi cùng các cấu
trúc khác ở những khu như vậy dễ khiến
người địa phương phật lòng và làm tổn
thương đến giá trị văn hóa của khu di sản.
Nếu không có những dữ liệu về địa
phương, có thể không ai để ý tới những giá
trị như vậy và chính việc đó đã gieo mầm
xung đột trong tương lai.
Ở khu Di sản thế giới Great Zimbabwe của
Zimbabwe, việc xây dựng một bảo tàng
sống để thu hút thêm du khách đã vấp phải
sự thờ ơ và bị chỉ trích. Dân địa phương
cho rằng bảo tàng này trình bày sai khu di
sản, không thích hợp, hạ thấp tầm quan
trọng lịch sử và văn hóa xuống tới mức chỉ
còn là một thú thu hút không liên quan đến
bản sắc thực của cộng đồng. Vì bảo tàng
trưng bày một lối sống rất giống với lối
sống của người Zimbabwe bình thường cho
nên cư dân địa phương chẳng mấy ai quan
tâm tới làng xã đó.
4.1.4. Những người có lợi ích giúp xác
định các khu vực có vấn đề mà các
chuyên gia có thể đã có thể bỏ qua. Khi
xem xét các điều kiện của địa phương,
không phải lúc nào các chuyên gia cũng
đánh giá hết được quan niệm, sở thích hoặc
46
Thu hút những người có lợi ích: Lợi ích và sự thách thức
từ sự tham gia của công chúng
những ưu tiên của cộng đồng. Chẳng hạn,
Đánh giá sự tham gia của công chúng tại
các vùng nông thôn (PRAs) tiến hành ở
Ucchali, một khu di sản của Pakistan trong
danh sách khu đầm lầy cần bảo vệ và được
quản lý như là một khu bảo tồn các loài
chim nước, cho thấy sự khác biệt giữa quan
điểm của địa phương với những nhận định
của chuyên gia. Các chuyên gia cho rằng
đầm hồ trong khu vực này là đặc trưng địa
lý có từ rất lâu. Thế nhưng dân địa phương
lại cho biết đầm hồ của họ mới xuất hiện
khoảng 50 năm trước do lượng mưa tăng,
nước nhấn chìm vùng đất nông nghiệp tốt
nhất của họ từ nhiều thế kỷ nay. Họ tin
rằng người ta đã phớt lờ quyền sở hữu đất
đai của họ khi tiến hành các dự án nhằm
bảo toàn vùng đầm lầy.
Một sai lầm khác cũng xảy ra khi quan
điểm của các chuyên gia thiên về những lợi
ích hạn hẹp. Trong dự án khu đầm lầy ở
Pakistan, các nhà khoa học có xu hướng
tập trung vào các loài chim nước đặc biệt
được quốc tế quan tâm bảo vệ cùng với
vùng cư trú đầm lầy của chúng. Dân làng
thì lại có cách nhìn nhận rộng hơn về hệ
sinh thái tạo ra mối liên kết giữa rừng, lưu
vực hồ, lịch sử sử dụng đất trong khu vực
và phương kế sinh nhai của họ. Rồi cả
những hiện tượng phức tạp khác như
phương thức di cư của các loài chim,
những thay đổi trong chất lượng nước, tỷ lệ
sa bồi và mức nước ngầm mà họ theo dõi
và hiểu rất rõ. Giá như người ta quan tâm
tới bức tranh toàn cảnh, thì chắc chắn đã
thiết lập được sự hợp tác có hiệu quả hơn.
4.1.5.
Những người có lợi ích có
thể cung cấp những dữ liệu hữu ích liên
quan đến những điều kiện được mong
muốn tại khu di sản. Quản lý du khách
một cách hiệu quả bao gồm việc xác lập
những giới hạn cần thương thảo với những
người có lợi ích. Thông qua những ban
hoặc hội đồng tư vấn du lịch, những người
có lợi ích có thể giúp các nhà quản lý xác
lập những điều kiện đối với du khách và
những tiêu chuẩn có thể định lượng cho
việc quản lý vấn đề và hạn chế tác động.
Kinh nghiệm cho thấy dữ liệu mà họ cung
cấp là hết sức quan trọng trong việc xây
dựng các chính sách và mục tiêu quản lý
thực tiễn sẽ được ủng hộ lâu dài. Ví dụ,
cộng đồng cần được khuyến thích tham gia
vào việc quyết định họ muốn tiếp đón loại
du khách nào, số lượng bao nhiêu, và/hoặc
những khu vực nào cần cấm du khách tới.
4.2. Những thách thức trong việc hợp
tác giữa những người có lợi ích và sự
tham gia của công chúng
4.2.1. Xây dựng một ý tưởng rõ ràng về
các nhóm có lợi ích khác nhau có thể là
việc khó khăn. Làm sáng tỏ đặc tính và cơ
cấu của các nhóm này có thể tốn nhiều thời
gian và kết quả không mấy rõ ràng. Ví dụ,
các đại lý khác nhau có thể tham gia vào
việc quản lý khu di sản với những mục tiêu
và mục đích khác nhau. Trong nhiều
trường hợp, một số đại lý nắm quyền kiểm
soát nhiều lĩnh vực khác nhau của một khu
Di sản thế giới được bảo vệ, trong đó mỗi
đại lý lại có một chiến lược quản lý riêng
của mình. Trong khi cùng chia xẻ nguồn tài
nguyên chung là các di sản, chiến lược
quản lý du khách và lối xử lý ở mỗi khu
vực lại khác nhau.
Tham gia quản lý ở Patan, Nepal
Tham gia quản lý có thể thúc đẩy quan hệ
tốt hơn giữa khu di sản với cộng đồng địa
phương. Ngoài ra, các nguồn tài nguyên
cũng được quản lý hiệu quả hơn về mặt chi
phí. Bảo vệ lâu dài di sản có thể đòi hỏi
phải có những thay đổi lớn trong thái độ
của cán bộ khu di sản và tất cả những
người có cùng lợi ích.
Để tìm ra những gì người địa phương thực
sự muốn và cần, các nhà quản lý một dự án
phát triển của Đức ở Patan thuộc vùng
Thung lũng Kathmandu của Nepal bắt đầu
tổ chức thanh niên thành các nhóm tự quản
trong các hoạt động của cộng đồng. Những
người này cho biết họ mong muốn được
học tiếng Anh. Thế là các tổ chức cơ sở
được xây dựng theo hình thức các nhóm
học tiếng Anh. Chẳng bao lâu sau, các
nhóm này trở nên tích cực trong các vấn đề
phát triển cộng đồng và các nỗ lực của họ
đã thúc đẩy những người khác tham gia vào
các hoạt động của cộng đồng, như xây dựng
các phương tiện giữ gìn vệ sinh và nhà vệ
47
4
4
Thu hút những người có lợi ích: Lợi ích và sự thách thức
từ sự tham gia của công chúng
sinh công cộng. Khi sự tham gia của cộng
đồng tăng lên, các nhà doanh nghiệp địa
phương và lãnh đạo chính quyền càng
mong đợi du lịch giúp tạo cơ hội phát triển
kinh tế và trang trải cho các nỗ lực bảo tồn
tôn tạo. Hiểu được điều đó, họ đã thành lập
Tổ chức Phát triển Du lịch Patan để giúp
thu hút du khách tới cộng đồng.
4.2.2. Thảo luận cởi mở có thể bị coi là
mối đe dọa đối với quyền lực và quyền
kiểm soát của ai đó. Một số người có lợi
ích không sẵn sàng ủng hộ sự tham gia
rộng hơn, nhất là khi nó bị coi là đe dọa
quyền lực của họ. Ví dụ, các nhà quản lý
có thể chấp nhận chính sách cởi mở và giữ
cầu liên hệ, nhưng có thể lại chống việc
cung cấp toàn bộ thông tin thích hợp cho
các nhóm khác nhau. Kết cục là việc này
tạo nên bầu không khí thiếu tin cậy, hạn
chế khả năng của các nhà quản lý giải
quyết các vấn đề với công chúng.
4.2.3. Những người phê phán lớn tiếng
nhất có thể chi phối quá trình tham gia.
Nhiều người coi sự tham gia của công
chúng như một phương tiện tác động tới
chính sách và quyết định. Các cuộc điều
trần trước công chúng có thể biến thành
diễn đàn trong đó những người lớn tiếng
nhất có thể chi phối các cuộc thảo luận,
không để người khác có cơ hội tham gia.
Việc này có thể xảy ra nếu một nhóm vận
động hành lang có tổ chức có nhiều đại
diện tham gia. Một số người với những
quan tâm chính đáng có thể bị ngợp trong
một phòng họp rộng và sợ không dám phát
biểu. Những nơi họp khác như các trung
tâm của cộng đồng có thể tạo điều kiện
thuận lợi cho việc trao đổi ý kiến thoải mái
hơn, và khuyến khích sự tương giao cân
bằng giữa những người có cùng lợi ích.
4.2.4. Rất nhiều người có thể bị bỏ rơi vì
họ không lớn tiếng như những người
khác. Bất cứ vấn đề nào thu hút sự quan
tâm của công chúng đều trở thành vấn đề
được tranh cãi nhiều. Trong khi hầu hết
mọi người phát biểu ý kiến, nhiều người lại
cho rằng vấn đề cũng chẳng có gì lớn.
Nhiều khả năng đa số này sẽ bị bỏ rơi.
Người ta có thể nghĩ rằng họ là những
người dễ bị tác động nhất vì họ không mấy
quan tâm và có lẽ cũng không có thông tin
đầy đủ. Tuy nhiên, không được đánh giá
thấp khả năng một sự kiện nào đó thu hút
được sự chú ý của đa số ít quan tâm này.
Nghiên cứu những nhóm người này là điều
quan trọng để bảo đảm sự ủng hộ lâu dài
của công chúng.
4.2.5. Các cơ cấu theo tôn ti trật tự có
thể cản trở việc những người có lợi ích
tham gia vào quá trình ra quyết định.
Trong nhiều xã hội, cơ cấu chính thức của
các thể chế và tổ chức cũng như những
chuẩn mực văn hóa có thể làm cho việc
khêu gợi ý kiến của các nhóm trở nên khó
khăn, làm cho những người có lợi ích
không thể tham gia các cuộc gặp chính
thức. Một số tổ chức có quyền lực có thể
chi phối, lấn át những người có lợi ích khác
và cản trở hợp tác. Ở một số nước, chính
phủ trực tiếp tham gia vào việc kinh doanh
du lịch, vận hành nó như là các hãng tổ
chức tour du lịch cũng như vào việc hoạch
định chính sách, một việc có thể dẫn tới sự
mất cân đối trong các đóng góp của những
người có lợi ích.
4.2.6. Việc để công chúng tham gia
nhiều khi chỉ là hình thức xoa dịu hơn là
thúc đẩy sự tham gia của những người có
lợi ích. Tạo cơ hội cho các cộng đồng địa
phương tham gia sẽ làm công chúng thêm
hy vọng vào việc các gợi ý của họ sẽ được
chấp nhận. Chính phủ có thể tìm cách gợi ý
một lựa chọn nào đó bằng cách chỉ đại diện
cho một ý kiến, hoặc bằng cách đưa ra một
loạt lựa chọn trong đó chỉ có một cái là hợp
lô gích. Các quyết định có thể đã được
quyết trước khi có sự tham gia của công
chúng; bất cứ thay đổi nào cũng có thể chỉ
là nhỏ nhặt với những tác động tương đối
nhỏ. Trước khi bắt đầu việc lên kế hoạch
tham gia, những người đề xướng phải sẵn
sàng thay đổi các kế hoạch ban đầu theo
những ý kiến đóng góp nhận được.
4.2.7. Quá nhấn mạnh vào việc lôi cuốn
sự tham gia của các nhóm có thể đưa tới
việc không thấy được những tác động
nhất định đối với các nguồn tài nguyên.
Các nhà quản lý phải hiểu những người có
lợi ích nhận thức như thế nào về các tác
động và xác định được mức độ chấp nhận
48
Thu hút những người có lợi ích: Lợi ích và sự thách thức
từ sự tham gia của công chúng
đến đâu. Tuy nhiên, nhiều nhóm có lợi ích
lại ít hiểu biết về các tài nguyên văn hóa và
thiên nhiên, và có thể không biết những tác
động tiêu cực tiềm ẩn. Du khách thích ứng
với các điều kiện môi trường ngày càng
xuống cấp, chấp nhận nó như một kết quả
tất yếu của việc lượng du khách ngày càng
tăng. Những du khách không hài lòng với
việc xuống cấp ấy có thể sẽ không trở lại,
nhưng những cuộc thăm dò và các nỗ lực
thu hút sự tham gia của công chúng không
nắm bắt được điều đó. Các nhóm có lợi ích
khác có thể chỉ lo về các khía cạnh kinh tế
và điều này sẽ lấn lướt mong muốn bảo vệ
tài nguyên. Vì vậy, mặc dù sự tham gia của
công chúng là cần thiết, nhưng dựa quá
nhiều vào nó có thể dẫn tới tình trạng
chẳng có hành động gì và sự xuống cấp của
khu di sản theo thời gian. Với việc các
nguồn tài nguyên giảm đi trong khi nhu
cầu giải trí và thu hút du khách tăng lên,
chính các nhà quản lý là người cuối cùng
sẽ phải quyết định thông số về số lượng và
loại hoạt động du lịch có thể chấp nhận
được.
4.3. Các yếu tố thúc đẩy tham gia và trao
đổi có hiệu quả
4.3.1. Sự tin cậy nâng cao lòng mong
muốn tham gia của các nhóm. Lòng tin là
nhân tố cốt yếu bảo đảm sự tham gia có
hiệu quả của công chúng. Xây dựng lòng
tin và lòng mong muốn tham gia phụ thuộc
vào một số yếu tố.
Quan hệ qua lại tích cực ngay từ giai đoạn
đầu sẽ xây đắp sự tin cậy. Chẳng hạn, kinh
nghiệm (làm việc) với một cơ quan chính
quyền ảnh hưởng tới khả năng thúc đẩy
tham gia. Xây dựng lại mối quan hệ giữa
nhà chức trách phụ trách bảo toàn và dân
chúng địa phương sau một thời gian dài
khống chế và loại trừ có thể là công việc
khó khăn. H.S. Panwar, cán bộ giảng dạy
Viện Muông thú rừng Ấn Độ tại Dehra
Dun cho rằng những tiêu chuẩn chính bảo
đảm thành công trong các dự án phát triển
môi sinh là đã xây dựng được lòng tin và
thu hút được sự tham gia đầy đủ của dân
địa phương trong quá trình vạch kế hoạch
và thực hiện.
Tôn trọng cam kết sẽ xây đắp lòng tin.
Vườn quốc gia Amboseli của Kenya, Vườn
quốc gia La Amistad của Costa Rica và
Panama, và Vườn quốc gia Yellowstone
của Mỹ đều đã từng có vấn đề với cộng
đồng địa phương sau khi buộc phải thay
đổi chính sách vì nguồn ngân sách bị cắt
giảm. Ở Amboseli, việc thiếu ngân sách
duy trì hệ thống máy bơm trong các trạm
bơm nước đã gây đổ vỡ lòng tin vào các
quan chức vườn quốc gia và ảnh hưởng tới
nhu cầu của những người chăn nuôi gia súc
ở Maasai. Ở La Amistad và Yellowstone,
việc cắt giảm biên chế và ngân sách đã gây
ra nhiều hậu quả tài chính cho các cộng
đồng địa phương.
Những hành động tỏ sự công bằng, chẳng
hạn chia sẻ thông tin một cách bình đẳng
giữa những người có lợi ích sẽ thúc đẩy
lòng tin. Ngay từ khi thai nghén, Dự án Dải
san hô Lớn (Great Barrier Reef) hoạt động
trên cơ sở thông tin khoa học đã đều đặn
cung cấp bản đồ, dữ liệu và chuẩn bị công
phu thông tin cho công chúng.
Xây dựng lòng tin cần có thời gian. Nhiều
chuyên gia đồng ý rằng cần phải có nhiều
thời gian và phải nỗ lực nhiều hơn để thực
hiện các chương trình nghị sự khác nhau
của các nhóm có lợi ích khác nhau. Một
nhà nghiên cứu đã viết, “Xây dựng lòng tin
cần có thời gian. Lịch sử các sáng kiến
phát triển nông thôn đầy rẫy những ví dụ
cho thấy thời gian để xây dựng lòng tin là
một phương sách được sử dụng tốt để
mang lại các kết quả chính sách tích cực ”.
Một hình ảnh không thiên vị sẽ giúp xây
dựng lòng tin với những người có lợi ích.
Khi xuất hiện một vấn đề đặc biệt tại khu
di sản, nhà quản lý vốn được coi là quan
chức chính phủ cần khôn khéo đề nghị một
người địa phương có uy tín giải thích vấn
đề cho công chúng. Nếu có thời gian và tài
chính, các thông tin khoa học đáng tin cậy
có thể là bằng chứng không thiên vị nhằm
nâng cao hiểu biết của công chúng về một
vấn đề nào đó và thay đổi suy nghĩ của mọi
người. Các quan chức ở Vườn quốc gia
Yellowstone đã cung cấp những thông tin
khoa học phù hợp, được coi là trung lập
hơn, trong tờ báo hàng ngày để tư vấn cho
49
4
4
Thu hút những người có lợi ích: Lợi ích và sự thách thức
từ sự tham gia của công chúng
công chúng về dự án đưa loài sói trở lại
vườn quốc gia.
lập trường khỏi lợi ích, và tránh gây cảm
giác thiên vị nhóm này thay vì nhóm kia.
4.3.2. Một cách tiếp cận tập thể sẽ
khuyến khích công chúng tham gia. Quá
trình kêu gọi tham gia và hợp tác cho thấy
dễ đi tới đồng thuận hơn là phương pháp
truyền thống chỉ do các nhà hoạch định kế
hoạch lão luyện vạch ra. Công việc ở các
dự án mở rộng cộng đồng cho thấy khi các
phương pháp tham gia tập thể được sử
dụng, quan hệ cộng đồng có nhiều tiến bộ
hơn. Các chuyên gia cho biết là trong một
chu kỳ dự án không có thời điểm nào được
xem là quá sớm để khởi đầu việc thu hút sự
tham gia của công chúng.
Hợp tác có tầm quan trọng then chốt trong
xây dựng lòng tin giữa những người có lợi
ích. Các nghiên cứu cho thấy nhiều khả
năng là người nào đã tham gia vào quyết
định của nhóm thì sẽ thực hiện quyết định
đó. Một chuyên gia mô tả đồng thuận như
sau, “Tất cả chúng ta đều có thể sống với X
như một giải pháp cho một vấn đề nào đó,
và tất cả chúng ta đồng ý làm bất cứ điều gì
X yêu cầu chúng ta làm”. Sau đây là một
vài lời khuyên nhằm đạt được đồng thuận:
• thẳng thắn và trung thực khi diễn đạt ý
kiến.
• tránh vội vã đánh giá các ý kiến.
• sẵn sàng thỏa hiệp.
• xem xét các quyết định và các vấn đề
một cách hệ thống.
• thỏa thuận ngay từ đầu vấn đề gì sẽ
được đề cập và nói rõ mục đích của mình.
Phương pháp cùng tham gia có nhiều cái lợi:
• Trong khi những vấn đề như quyền lực
và quyền kiểm soát sẽ không biến mất thì
một số cá nhân sẽ luôn bị người khác lôi
cuốn theo lập trường của họ. Quá trình
tham gia sẽ tăng cường mối liên hệ qua lại,
bộc lộ cả điểm đồng thuận cùng những
khác biệt giữa các nhóm. Việc này sẽ làm
lập trường mang tính bảo thủ đổ vỡ và
thường dẫn đến sự thỏa hiệp.
Xây dựng đồng thuận
Sách báo viết về hòa giải nói rằng xung đột
thường được giải quyết êm thấm nhất khi
những người không thông thạo lắm các vấn
đề kỹ thuật lại chỉ đạo quá trình ra quyết
định. Khi các nhóm tham gia đưa ra những
luận cứ kỹ thuật để hỗ trợ cho lập trường
của họ, thì người hòa giải cần tìm kiếm thỏa
thuận về các vấn đề kỹ thuật trước khi phát
triển các lựa chọn chính sách. Với các
phiên họp hỗn hợp mà người tham gia có
thể thông thạo hoặc không biết kỹ thuật, thì
người điều hành thay mặt tất cả những
người tham gia cần phải hiểu và tìm cách
làm rõ tất cả các ngôn từ kỹ thuật.
Hòa giải là một quá trình trong đó một
người hoặc nhiều người không thuộc phe
nhóm tranh chấp nào đứng ra giúp giải
quyết những bất đồng thông qua thương
lượng. Đó là một quá trình tế nhị rất có
khả năng cho kết quả ngược lại; trong quá
trình đó, người hòa giải cố gắng tách bạch
Một trong những kỹ thuật xây dựng đồng
thuận hữu ích và được nhiều người biết
nhất là nêu ý kiến bàn bạc, sau đó chắt lọc
lại ý kiến đã trao đổi (xem phần dưới).
Kỹ thuật này gồm sáu bước:
• Chuẩn bị cuộc gặp.
• Xác định phương pháp thảo luận tập thể
cần sử dụng
• Khởi động phát biểu.
• Sàng lọc ý kiến.
• Chọn lựa ý kiến sau khi đã được sàng lọc.
• Tóm tắt, kết luận.
Thảo luận tập thể gồm hai phương pháp cơ
bản là tự do phát biểu trên tất cả các vấn
đề và lần lượt theo từng chủ đề. Theo
phương pháp tự do phát biểu, các nhóm sẽ
cứ trình bày không gò bó và trao đổi ý
kiến; những ý kiến này sẽ được ghi âm lại
đầy đủ. Phương pháp lần lượt theo chủ đề
chặt chẽ hơn; người chủ trì đề nghị các
thành viên trong nhóm góp ý cụ thể vào
những vấn đề đang thảo luận. Phương
pháp này thường hay được sử dụng với các
nhóm kiệm lời.
Việc thảo luận tập thể cố gắng khởi động
càng nhiều ý kiến càng tốt và có thể kết
thúc khi:
• Mọi người đều đã có cơ hội tham gia.
50
Thu hút những người có lợi ích: Lợi ích và sự thách thức
từ sự tham gia của công chúng
• Không còn ý kiến nào thêm.
• Chủ tọa gạn hỏi lần cuối.
• Chủ tọa cám ơn các thành viên đã dành
thời gian dự và đóng góp ý kiến.
Sau đó, các ý kiến sẽ được tổng hợp và
sàng lọc theo những tiêu chí mà nhóm đặt
ra, như liên quan đến chi phí và giới hạn
thời gian để chiếu lên màn hình. Những
người được gợi ý để xác định các tiêu chí
sàng lọc như chi phí, các yếu tố thời gian,
mức độ sẵn sàng của các nguồn lực cần
thiết, những cân nhắc về mặt tư duy và
mức độ chấp nhận về mặt quản lý và đối
với những người có lợi ích khác.
Việc sàng lọc cho phép rà lại toàn bộ các ý
kiến, loại bỏ những cái không đúng yêu
cầu.
Bước cuối cùng trong quá trình này là
đánh giá lại những ý kiến đã qua quá trình
sàng lọc, và xem xét từng ý kiến để biết
chắc là toàn bộ thành viên trong nhóm đều
đồng ý. Nhóm cũng cần chọn ra một thành
viên để chuyển các thông tin này tới các
nhóm khác hoặc những người có lợi ích
khác.
• Bằng chứng cho thấy mọi người thường
miễn cưỡng không muốn tiết lộ những khó
khăn trong quá khứ. Những kênh giao tiếp
không chính thức như các chuyến khảo sát
có thể giúp họ bộc lộ mối quan tâm và
quan ngại của mình. Những báo cáo của
chương trình Đối tác Du lịch bắc Pennines
của Anh cho thấy các cuộc giao tiếp không
chính thức như vậy góp phần giải quyết
những vấn đề giữa các nhóm khác nhau.
• Sự tham gia của công chúng có khuynh
hướng tăng theo hướng hợp tác thực hiện.
Như một nhà nghiên cứu đã chỉ rõ, những
hiểu lầm giữa các nhóm chính là nguyên
nhân chính của nhiều khó khăn về mặt xã
hội chứ không phải vì thiếu thông tin.
4.4. Cách thức hợp tác và liên hệ có hiệu
quả
4.4.1 Các kỹ thuật tham gia như kiểu
Đánh giá sự tham gia của công chúng tại
các vùng nông thôn (PRAs) cho phép
người địa phương mô tả môi trường của
họ. PRAs có thể tạo điều kiện dễ dàng
cho việc trao đổi thông tin không chính
thức giữa các quan chức chính quyền địa
phương, nhân viên NGO và dân chúng
địa phương. Các phương pháp này tỏ ra
có khả năng khắc phục những vấn đề về
nghe và lập định một đánh giá chính xác
các mối quan tâm của những người có lợi
ích. Các cách này giúp hoạch định rõ
những tài nguyên của địa phương, cách
họ kiếm sống, xu hướng sử dụng tài
nguyên, chi phí ở địa phương và lợi ích
của việc bảo toàn và bảo vệ di sản. Đây
là những phương pháp thực tế khuyến
khích người địa phương tham gia, tạo ra
mối thông giao và đánh giá chính xác hơn
về những mối quan tâm của địa phương.
Lợi ích của những phương pháp này đã
được chứng minh trong nhiều khu vực
trên thế giới, đặc biệt ở Pakistan và Ấn
Độ. Các cách thu hút mọi người tham gia,
bao gồm cả PRAs, có thể được sử dụng
cho các khu di sản thiên nhiên và văn
hóa.
Kỹ thuật lập bản đồ môi trường sống do
dân chúng tham gia
Cách này là cốt lõi của PRAs. Nó gồm
nhiều việc như yêu cầu người địa phương
lập bản đồ khu vực một cách hiện thực.
Việc này bắt đầu bằng một câu hỏi gợi ý
như, “Ông/bà có thể lập bản đồ làng mình
được không?”. Sử dụng các vật liệu địa
phương như gậy, đá, cỏ, gỗ, vỏ thuốc lá,
hoặc phấn màu do nhân viên dự án cung
cấp, những người tham gia lập bản đồ làng
xã của họ; việc này thường thúc đẩy sự
thảo luận về độ chính xác của bản vẽ. Vì
đây là quá trình lôi cuốn công chúng tham
gia, và mọi thông tin đều luôn hiện hữu
ngay trước mắt mọi người, nên kỹ thuật
này tránh được những cái bẫy của một
cuộc phỏng vấn thông thường, trong đó
một người độc thoại suốt quá trình thảo
luận.
Việc lập bản đồ cần tiến hành trong không
khí nhẹ nhàng, thoải mái. Nhân viên dự án
có thể bắt đầu với một nét vẽ đơn giản, rõ
51
4
4
Thu hút những người có lợi ích: Lợi ích và sự thách thức
từ sự tham gia của công chúng
ràng, chẳng hạn một con đường hoặc con
sông chính của làng, hoặc làng bên cạnh,
sau đó đưa gậy cho người địa phương vẽ
tiếp. Việc này thường được coi là một hành
động mang tính tượng trưng quan trọng.
Sau khi vẽ xong bản đồ, những câu hỏi gợi
mở khác sẽ khuyến khích trao đổi. Ví dụ,
“Toàn bộ vùng này giống nhau hay có sự
khác biệt?”, “Có gì quan trọng cần đưa
thêm vào trong bản đồ nữa không?”, “Tôi
có quên điều gì không?”. Những câu hỏi
loại này cần phải bảo đảm tính trung lập.
Những người tham gia được yêu cầu thêm
các chi tiết vào bản đồ. Nhân viên dự án
xin phép được chép lại bản đồ vào sổ tay,
giải thích tại sao làm như vậy, rồi thảo
luận những việc tiếp theo. Một cách khác
là phân phối các máy ảnh tự động cho các
thành viên của cộng đồng, chỉ dẫn cách sử
dụng và yêu cầu họ chụp ảnh trong vòng
vài ngày tới, những đặc điểm và cảnh quan
mà họ tin là du khách có thể thích thú
(những địa danh có sức thu hút do cộng
đồng chọn ra). Người da đỏ Kayapo ở
Brazil đã sử dụng thành công cách này.
Để cải tiến dữ liệu, nhiều phương pháp
PRA’s khác nhau đã được sử dụng, sau đó
so sánh với nhau và với các thông tin do
dân làng cung cấp thêm. Các chuyên gia về
cộng đồng khuyến nghị rằng những thông
tin như vậy luôn phải được bổ sung bằng
các phương pháp khác, chẳng hạn như
người chuyên gia đi bộ cùng với người địa
phương trên từng quãng đường để thẩm tra
việc lập bản đồ. Họ cũng khuyến nghị cần
đối chiếu với các bản đồ hoặc ảnh khoa
học, lôi cuốn công chúng tham gia vào các
hoạt động hàng ngày và các cuộc gặp gỡ
với từng người nông dân.
Việc lên kế hoạch trong bất cứ tình huống
nào cũng nên được tiến hành một cách từ
từ. Bất cứ việc gì, dù với ngụ ý tốt, nhưng
nếu có vẻ đe dọa cơ cấu quyền lực địa
phương đều sẽ bị thách thức.
4.4.2. Các hình thức đối thoại khác nhau
có thể giúp hạn chế đối đầu với công
chúng. Các cuộc họp với công chúng có
thể không hiệu quả khi các bên có những
mối quan tâm được che đậy kỹ tới dự nhằm
gây sức ép cho lý do riêng của họ. Cơ cấu
họp ít đối đầu hơn có thể làm giảm những
tác động thái quá và hạn chế thái độ gây
sức ép của các nhóm có lợi ích. Trong dự
án tái dựng đàn chó sói gây nhiều tranh cãi
ở Yellowstone, cửa văn phòng luôn rộng
mở để cá nhân mọi người có thể ngồi trong
bầu không khí thoải mái và nói chuyện trực
tiếp với đại diện của các bên liên quan
khác nhau. Các cuộc họp đặc biệt được tổ
chức để các nhóm có thế lực nói rõ chính
kiến của mình, tức là chỉ để lắng nghe ý
kiến. Những cuộc họp này thường do các
nữ nhân viên vườn quốc gia điều khiển, vì
họ tạo hình ảnh ít đe dọa và bè phái hơn
các nhân viên nam. Cảnh sát địa phương
cũng được thuê để giữ gìn trật tự.
Các cuộc họp có hiệu quả
Các cuộc họp thường chiếm nhiều thời
gian của nhà quản lý khu di sản. Đó là việc
làm gần như được tiến hành hàng ngày có
ý nghĩa quan trọng nhằm thiết lập quan hệ
với các nhóm có lợi ích, trong đó có cả
những người quyên góp nước ngoài và các
quan chức du lịch. Phương pháp trao đổi
qua lại trong việc điều hành các cuộc họp
đưa tới thỏa thuận về cách thức giải quyết
các vấn đề tại cuộc họp.
Nhiều vấn đề quản lý bắt nguồn từ việc
người ta thường gặp khó khăn khi nghe và
hiểu được người khác đang thực sự nói gì.
Mặc dù lắng nghe có vẻ là một kỹ năng
đơn giản và rõ ràng nhưng các chuyên gia
lại nói rất ít người biết nghe một cách hiệu
quả. Tuy nhiên, kỹ thuật nghe có thể học
được.
Sau đây là năm yếu tố bảo đảm cuộc họp
có hiệu quả:
• Vai trò và trách nhiệm được xác định rõ
và được thỏa thuận với từng thành viên
tham gia.
• Một tâm điểm chung về nội dung.
• Một tâm điểm chung về tiến trình.
• Cử người chịu trách nhiệm duy trì các
luồng ý kiến cởi mở và cân bằng.
• Cử người chịu trách nhiệm bảo vệ những
người khác không bị công kích cá nhân.
Chương trình làm việc cần gửi trước cho
mọi người để họ chuẩn bị ý kiến đóng góp.
52
Thu hút những người có lợi ích: Lợi ích và sự thách thức
từ sự tham gia của công chúng
Các cuộc họp cần được chuẩn bị kỹ để
tránh hội chứng công kích nhóm trong đó
các thành viên của một nhóm cảm thấy họ
sẽ bị công kích ngay khi vừa mở miệng.
Chìa khóa giải quyết vấn đề quyền hành và
quyền lực ở đây là sử dụng một điều phối
viên với vai trò đưa các nhóm xích lại với
nhau, gợi ý và chờ đợi thỏa thuận trên bất
cứ vấn đề nào. Người này lái nhóm đi đúng
hướng, bảo đảm không ai độc diễn trong
thảo luận. Người điều phối viên phải đứng
trung lập, cố tránh không góp ý hoặc đánh
giá ý kiến của người khác. Người này,
cùng người ghi biên bản và những người
tham gia quan trọng khác cần giải thích rõ
vai trò của họ ngay từ đầu cuộc họp.
Các cuộc họp phải được ghi lại đầy đủ và
biên bản phải chuyển cho các thành viên
trước kỳ họp tiếp theo. Người ghi biên bản
cần khách quan, tránh việc lý giải những
báo cáo không được người tham gia đưa
vào cuộc họp. Việc ghi lại những ý kiếni
không xác định nguồn gốc thường tạo sự
tin tưởng vào hệ thống và giúp nhóm chấp
nhận ý kiến. Trong suốt cuộc họp, nên có
các đoạn tóm tắt ngắn gọn để mọi người
dễ theo dõi những gì đã được trao đổi.
4.4.3.Quá trình triển khai kế hoạch quản
lý có thể khuyến khích sự tham gia của
những người có lợi ích. Quá trình này
cũng có thể được sử dụng để đi tới đồng
thuận. Tuy nhiên, thay vì công bố các dự
thảo kế hoạch quản lý để lấy ý kiến công
chúng, những người vạch kế hoạch cần bắt
đầu bằng việc xác định xem công chúng
cần cái gì, và một di sản có thể đem lại cho
họ cái gì. Kế hoạch và chiến lược cần được
triển khai từ từ, phải năng động, có thể
điều chỉnh được và cũng nên ngắn gọn súc
tích chứ không nên dài dòng. Nhưng trên
hết, chúng phải bao gồm được tất cả những
người có lợi ích.
Có thể kể đến những ví dụ về lập kế hoạch
quản lý theo vấn đề gặt hái được thành
công như Vườn Quốc gia ở vùng núi
Smokey của Mỹ, nơi rất nhiều đường mòn
trong tình trạng rất xấu, cần cấm qua lại để
có thời gian sửa chữa. Các nhà quản lý
Vườn Quốc gia nhận thấy việc này sẽ gây
ra những phản ứng không thuận. Để giúp
công chúng nhận thức được tình hình thực
tế, ban quản lý quyết định đưa mọi người
tham gia vào quá trình vạch kế hoạch. Các
cuộc họp được tổ chức để giúp họ hiểu rõ
sứ mệnh của vườn quốc gia và cho họ cơ
hội tham gia vào việc định ra các vấn đề ưu
tiên.
Tại khu Di sản thế giới Vùng Hồ Willandra
ở Australia, một hội thảo năm ngày được tổ
chức, trong đó các thành viên của cộng
đồng góp phần dự thảo bản kế hoạch quản
lý đầu tiên. Việc này bảo đảm cho kế
hoạch tiếp tục được ủng hộ. Tại khu Di sản
thế giới Vịnh Cá mập cũng ở Australia, các
kế hoạch quản lý có công chúng tham gia
để bảo toàn các vùng thuộc khu di sản cũng
được đưa ra lấy ý kiến công chúng ít nhất
là trong hai tháng, một việc cần làm theo
luật của bang Tây Australia.
4.4.4. Ban tư vấn hoặc tổ chức của
những người có lợi ích có thể đóng vai trò
chính yếu trong việc thực hiện thành
công các mục tiêu quản lý. Tham khảo ý
kiến các nhóm lợi ích khác nhau thông qua
các cuộc gặp gỡ thường xuyên và hội thảo
công khai tạo cơ hội cho những người có
lợi ích đóng góp ý kiến về kế hoạch quản
lý ban đầu. Quan hệ này cho phép các nhà
quản lý khu di sản huy động người dân địa
phương vào quá trình ra quyết định. Những
xung đột hiện có sẽ không nhất thiết mất
đi, nhưng ban tư vấn sẽ tạo ra một cơ chế
cho quá trình giải quyết vấn đề để có thể
xác định các xung đột và các giải pháp một
cách rõ ràng.
Sự tham gia của công chúng có thể có
nhiều hiệu quả và bền vững hơn thông qua
các nhóm có lợi ích hơn là qua sự tham gia
của các cá nhân. Ở khu Di sản thế giới
Vịnh Cá mập, Ủy ban tư vấn đóng vai trò
chính trong việc quyết định các chiến lược
thích hợp và thực tế cho việc quản lý các
khu dự trữ và các tài nguyên của khu vực,
kể cả việc định mốc giới của khu di sản.
Như đã nói ở phần trước, ở Patan, một thị
trấn nhỏ trong thung lũng Kathmandu của
Nepal, ban tư vấn của người địa phương đã
triển khai một chương trình du lịch và bảo
tồn các tòa nhà lịch sử của cộng đồng.
53
4
4
Thu hút những người có lợi ích: Lợi ích và sự thách thức
từ sự tham gia của công chúng
Kỹ thuật của nhóm không chính thức
Cách sử dụng nhóm không chính thức
(NGT) đã chứng tỏ rất có giá trị trong việc
quản lý du khách. Nó bắt đầu bằng việc
thành lập các tổ thảo luận từ 8 đến 10
người thuộc nhiều thành phần khác nhau.
Những người tham gia được yêu cầu lên
danh mục các mối quan tâm chủ yếu về
một dự án mà không cần tham khảo thành
viên các nhóm khác. Thông qua việc sử
dụng cách lần lượt lấy ý kiến theo từng vấn
đề, những người tham gia liệt kê các mối
quan tâm của mình thành từng mục, sau đó
bỏ phiếu về những vấn đề ưu tiên.
Cách làm này có nhiều lợi thế. Thời gian
để chi tiết hóa các mối quan tâm khuyến
khích suy nghĩ về vai trò của các thành
viên. Nó động viên tất cả thành viên của
nhóm tham gia bằng cách không để những
người hay phát biểu chi phối các cuộc họp
như thường thấy trong các nhóm theo chủ
đề trọng tâm.
Phương pháp 3 giai đoạn cho việc lên kế
hoạch du lịch cộng đồng có thể được sử
dụng. Trước hết là phỏng vấn các nhà lãnh
đạo chủ chốt của cộng đồng. Sử dụng
những vấn đề đã được xác định để khảo sát
các thành viên cộng đồng được lựa chọn
một cách ngẫu nhiên. Cuối cùng là sử dụng
một nhóm không chính thức và một nhóm
theo trọng tâm để quyết định những vấn đề
ưu tiên của cộng đồng đối với du lịch.
Cách sử dụng nhóm không chính thức rất
có ích trong việc giải quyết các vấn đề
nhạy cảm, nổi cộm và gây nhiều tranh cãi
khi các ý kiến trái ngược nhau và các chi
tiết rắc rối có thể cản trở đối thoại. Khi sử
dụng cách này, bước đầu tiên là im lặng để
mọi người có cơ hội suy nghĩ mà chưa phải
phát biểu. Biện pháp này cũng tạo cơ hội
bình đẳng cho họ lên tiếng, không phân
biệt đẳng cấp hoặc địa vị xã hội. Cách làm
này đặc biệt hữu ích khi có thể có nhiều
giải pháp lựa chọn cho một vấn đề.
Cách sử dụng nhóm không chính thức gồm
6 bước:
• Xác định các vấn đề cần giải quyết hoặc
những quyết định cần có.
• Lặng lẽ liệt kê các ý kiến.
• Bắt đầu phát biểu và ghi lại các ý kiến.
• Làm rõ từng vấn đề trong danh sách các
đề mục được liệt kê.
• Lặng lẽ xếp thứ tự các ý kiến được liệt
kê.
• Kết thúc phiên họp.
Những người tham gia cần có một thời
gian nhất định để nghiền ngẫm, và đưa ra
tối đa khoảng 10-12 ý kiến. Các thành viên
của nhóm lần lượt phát biểu theo danh
sách mà họ liệt kê; thư ký cuộc họp ghi lại
những ý kiến đó trên một biểu mẫu hoặc
trên bảng. Ở giai đoạn này trong quy trình,
các ý kiến không được thảo luận. Các đề
mục không được chồng chéo và nếu có ý
kiến nào kết hợp được thì người điều phối
và người ghi âm phải nắm chắc là mọi
người trong nhóm đồng ý với cách sắp xếp
của mình. Sau đó sẽ thảo luận từng đề mục
trong danh sách để làm rõ ý nghĩa. Người
điều phối ấn định một chữ cho mỗi ý kiến.
Rồi mỗi thành viên của nhóm sẽ sắp xếp
thứ tự các ý kiến trong danh sách của
mình.
Nhóm có thể quyết định chỉ sắp xếp 5 vấn
đề quan trọng nhất. Những danh sách dài
hơn có thể được rút bớt, sử dụng nguyên
tắc chia đôi cộng 1 (ví dụ 30 đề mục sẽ
giảm xuống còn 16). Để theo dõi được kết
quả, mỗi thành viên sẽ thông báo thứ tự
sắp xếp của mình. Sau đó thư ký phiên họp
liệt kê lại. Những vấn đề xếp đầu được coi
là đại diện cho quyết định của nhóm cho
đến lúc đó, trước khi có các cuộc thảo luận
về mức độ xác đáng của những ý kiến này.
Thảo luận mở sẽ được tổ chức để quyết
định xem quyết định có nhất quán với
hướng suy nghĩ của mọi người hay không,
và để xem xét những đề mục có thể có quá
ít hoặc quá nhiều phiếu. Nếu mọi việc diễn
ra không thật sự nhất quán thìì sẽ tổ chức
bỏ phiếu lại. Sau bước này, mọi người có
nhiệm vụ nghiên cứu những bước tiếp theo
trong kế hoạch thực hiện hoặc hành động.
Tại Vườn Quốc gia Tangariro ở New
Zealand, một khu mộ táng của người Maori
trở thành khu vực leo núi được ưa thích. Vì
việc sử dụng khu vực này làm người Maori
hết sức lo ngại cho nên các cuộc họp đã
được tổ chức giữa những nhà leo núi với
54
Thu hút những người có lợi ích: Lợi ích và sự thách thức
từ sự tham gia của công chúng
các già làng của bộ tộc; kết quả là các nhà
leo núi đồng ý tự kiềm chế không sử dụng
khu vực này.
4.4.5. Các NGO địa phương có thể đóng
vai trò liên lạc để có được sự tham gia
hiệu quả và bền vững hơn. NGO có thể
đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối
những người có lợi ích trong việc phát triển
du lịch. NGO có thể đóng vai trò trung
gian giữa lợi ích của khu vực tư nhân và
địa phương. Ở một số nước, NGO với máy
tính và các trang thiết bị thông tin liên lạc
có thể làm cầu nối giữa những người có lợi
ích nhưng không có phương tiện trên. Có
lý do để tin rằng uy tín của NGO có thể
tăng thêm áp lực trong các cuộc thương
lượng với các hãng du lịch tư nhân.
Tổ chức Du lịch cơ sở ở Patan của Nepal
Các quan chức du lịch địa phương nhận ra
rằng để những nỗ lực trùng tu và bảo vệ
lâu dài có thể thành công, họ cần đến
những người có lợi ích, thông qua sự điều
phối của một tổ chức du lịch địa phương,
để thực hiện chương trình, bảo đảm sự ủng
hộ lâu dài của chính quyền, thúc đẩy nhu
cầu du lịch, thiết lập các cơ chế thu thập
các biến động trong du lịch, những đóng
góp tự nguyện, và thu hút sự tham gia trực
tiếp của người địa phương vào kinh doanh
du lịch.
Vì nhu cầu thực hiện các chương trình thực
tế của mình cho nên chính quyền Patan và
giới doanh nghiệp địa phương đã thành lập
một tổ chức du lịch cơ sở. Hiện nay họ
đang phát triển du lịch để góp phần tài trợ
cho các sáng kiến ở địa phương và giải
quyết các vấn đề của địa phương. Các
hành động cụ thể bao gồm phát hành tài
liệu quảng bá du lịch của địa phương, sử
dụng sách hướng dẫn du lịch, tổ chức các
chuyến tham quan cộng đồng và các dự án
phục chế nhà cửa ở địa phương. Những dự
án phát triển cộng đồng này đều dựa vào
sự hỗ trợ của nhiều nhóm người có lợi ích.
Đáng chú ý là du lịch có thể được dùng để
làm sống động lại các cộng đồng xưa và
đóng góp vào việc phục dựng các ngôi nhà
lịch sử. Tỷ lệ thành công khác nhau tùy
theo từng nước.
4
4.5. Gợi ý và Khuyến nghị
• Xây dựng lòng tin và tin cậy lẫn nhau
đòi hỏi thời gian, sức lực và khả năng tổ
chức. Trong việc lựa chọn hoặc xây dựng
dự án, cần có đủ thời gian để thu hút người
dân vào quá trình ra quyết định của địa
phương.
• Cần đánh giá khả năng có các hành
động tiếp theo như đã hứa trước khi thực
hiện các chiến lược dự án. Nếu chúng
không khả thi và khó giữ đúng lời hứa thì
dự án cần thay đổi hoặc hủy bỏ.
• Những mối quan hệ tương tác trước đó
tạo ra mức độ tin cậy trong nhóm. Vì vậy,
hiểu được chúng sẽ giúp quyết định thời
gian và nỗ lực cần có để phát triển mối
quan hệ làm việc có hiệu quả.
• Các chuyên gia không phải là bộ phận
của nền văn hóa địa phương thì không phải
lúc nào cũng có thể đánh giá đúng những
quan niệm, sở thích hoặc ưu tiên của địa
phương, và không nhất thiết phải trông chờ
họ cung cấp thông tin về những điều trên.
• Hình mẫu lý tưởng về tính đại diện và
khả năng đáp ứng có thể có được bằng
nhiều cách khác nhau, theo từng hoàn cảnh
khác nhau. Việc lên kế hoạch có hiệu quả
thường bị cản trở do thiếu hiểu biết những
thực tế ngặt nghèo của bối cảnh chính trị
và kinh tế. Lên danh sách đầy đủ những
người có lợi ích, các mối quan hệ tương
đồng hay xung đột trong nội bộ các nhóm
lợi ích có thể là bước đầu tiên hữu ích cho
việc phân tích các vấn đề của khu di sản.
Việc đánh giá này cần được tiến hành với
sự tham gia của những người có lợi ích bao
gồm các cấp chính quyền, các nhóm bảo
tồn, những người kinh doanh nhà đất và
cộng đồng địa phương.
Gợi ý các hoạt động
1. Lập danh sách sơ bộ về những người có
lợi ích và các mối quan tâm của họ.
55
4
Thu hút những người có lợi ích: Lợi ích và sự thách thức
từ sự tham gia của công chúng
• phân loại những nhóm người này, chẳng
hạn các hãng tổ chức tour, các doanh
nghiệp địa phương...
• xác định mối quan tâm của các nhóm
khác nhau.
• lên sơ đồ cho thấy những mối quan tâm
trùng lặp.
2. Lên danh sách những ích lợi và trở ngại
liên quan đến kế hoạch du lịch và các mối
quan tâm của những người có lợi ích.
• xem lại quá trình lên kế hoạch du lịch
bền vững; triển khai những mục đích, mục
tiêu và chương trình theo dõi như đã mô tả
trong tài liệu này.
• thảo luận với từng nhóm có lợi ích đã
được xác định về những trở ngại và lợi ích
thấy được trong quá trình này, nói rõ chúng
sẽ ảnh hưởng tới việc lên kế hoạch du lịch
như thế nào.
• P. Keith Kelly. Các kỹ thuật ra quyết
định tập thể. Richard Chang, Inc. Vụ Xuất
bản, Irvine, California, 1994.
• Michael P. Pimbert và Biksham Guijja.
Tiếng nói của dân làng thách thức các
chính sách quản lý vùng đầm lầy: Những
kinh nghiệm trong việc đánh giá sự tham
gia của vùng thôn quê ở Ấn Độ và Pa-kistan. Nature and Resources, tập 33, số 1,
1997, 34-42, UNESCO, 1999.
• Hans D. Thulsstrup (biên soạn). Di sản
thế giới và Cộng đồng địa phương: Nghiên
cứu các trường hợp cụ thể ở châu Á-TBD,
Ô-xtrây-lia và Niu Di-lan. Trung tâm Di
sản thế giới của UNESCO, Pa-ri, Pháp,
1999.
3. Xây dựng chương trình công chúng tham
gia.
• xem xét những nỗ lực thu hút công
chúng tham gia trước đây và những bài học
rút ra từ việc tham gia của họ.
• đánh giá vai trò của từng nhóm trong
quá trình lên kế hoạch.
• tổ chức cuộc họp trao đổi với nhân viên
khu di sản để lên kế hoạch thu hút công
chúng tham gia theo những bài học đã
được đúc rút và những thông tin trong tài
liệu này.
Sách cần tham khảo.
• Bên ngoài các hàng rào: Tìm kiếm bền
vững xã hội trong bảo toàn. Sách chuyên
đề, 2 tập. Gland, Thụy Sỹ; IUCN, 1997.
• Michael Doyle và Davis Strauss. Làm
thế nào để các cuộc họp mang lại kết quả.
New York, 1976.
• Roger Fisher và William Ury, do Bruce
Patton biên soạn. Để đi tới nhất trí: Thỏa
thuận trong thương lượng mà không bị
thua thiệt. NXB Penguin Books, 1983.
• Fred E. Jandt và Paul Gillette. Thương
lượng cả hai đều có lợi biến xung đột
thành thỏa thuận, NXB John Wiley& Các
con, 1985.
56
Xác định mục đích chính sách
và mục tiêu quản lý
57
Xác định mục đích chính sách và mục tiêu quản lý
5
Mục đích và mục tiêu là nhằm định
hướng cho việc quản lý khu di sản và lên
chương trình xác định những trải
nghiệm dành cho du khách, cũng như để
quyết định giới hạn phát triển du lịch.
Xác định mục đích và mục tiêu cũng là
chìa khóa thành công cho các chương
trình khác như tuyên truyền, quảng bá
và đánh giá năng lực. Các mục tiêu quản
lý chi tiết rất quan trọng đối với việc xây
dựng các tiêu chuẩn theo dõi du lịch.
5.1. Mục đích chính sách và mục tiêu
quản lý
Mục đích chính sách là những tuyên bố lớn
vạch ra tầm nhìn về việc một khu vực sẽ
được quản lý thế nào dựa trên những điều
kiện môi trường xã hội của nó. Các chính
sách định hướng cho một loạt hoạt động
khác như xây dựng cơ sở hạ tầng, phát
triển các chương trình xã hội như thúc đẩy
phát triển giáo dục và kinh tế tại địa
phương thông qua du lịch. Ở đâu mà tiến
trình triển khai chính sách là một sự liên
kết thực hiện thì ở đó một tuyên bố về
chính sách có thể tập hợp mọi người với
nhiều quan điểm khác nhau, và định hướng
cho việc quản lý du lịch công cộng và tư
nhân.
làm cho địa phương, thì mục tiêu quản lý
có thể là khuyến khích sử dụng các hướng
dẫn viên sở tại. Nếu mục đích là duy trì
một khu vực thiêng liêng đảm bảo sự tôn
nghiêm tĩnh lặng, thì mục tiêu có thể là hạn
chế du khách và mức độ tiếng ồn cho phép.
Các mục tiêu cần phải được đánh giá. Vì
vậy chúng cần phải có tính đặc trưng, có
thể lượng hóa, có thời hạn và viết bằng thứ
ngôn ngữ rõ ràng để tất cả những người có
trách nhiệm thực hiện đều hiểu được.
Chúng sẽ là cơ sở của tiêu chuẩn đánh giá
việc thực hiện quản lý khu di sản. Chẳng
hạn, tại một khu di tích lịch sử, mục đích
chính sách có thể là hỗ trợ các hoạt động
giáo dục ở địa phương, còn mục tiêu quản
lý lại là tăng số học sinh của địa phương
tham gia chương trình giáo dục tại khu di
tích. Trong trường hợp này, một biện pháp
mang tính định lượng có thể là số lượng
các trường tới tham quan khu di tích trong
năm.
Những ví dụ về các mục đích chính sách
Tính chất chung của các mục đích chính
sách được phản ánh trong một tuyên bố về
chính sách của Ban Quản Lý Rừng Nhiệt
đới ẩm của Australia. Tuyên bố nói rõ mục
đích của Ban Quản Lý là “xác lập cơ sở
pháp lý cho việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế
của Australia trong việc bảo vệ, bảo toàn,
giới thiệu, tôn tạo và chuyển giao khu Di
sản thế giới Rừng nhiệt đới ẩm ở
Queensland cho các thế hệ tương lai theo
đúng tinh thần Công ước Di sản thế giới”.
• Tạo và duy trì việc làm, thu nhập và
phát triển của địa phương.
• Bảo đảm tất cả các hoạt động được
phép tại khu di sản phù hợp với bối cảnh tự
nhiên và lịch sử của khu vực.
• Tạo cơ hội cho công tác nghiên cứu có
lợi cho xã hội.
• Giáo dục du khách và cộng đồng địa
phương nhằm nâng cao lòng tôn trọng giá
trị của khu di sản và khuyến khích quan
tâm tới môi trường tự nhiên và/hoặc văn
hóa.
• Tạo dựng hạ tầng cơ sở bảo đảm an
toàn cho du khách, bảo vệ môi trường tự
nhiên của khu di sản, hoặc khôi phục và
bảo vệ các loài đang bị đe doạ.
Trong khi các mục đích chính sách thường
bao quát chung thì các mục tiêu quản lý lại
vạch ra một cách chi tiết khu di sản sẽ
được quản lý như thế nào. Trong khuôn
khổ mục đích chính sách chung, các mục
tiêu vạch ra những điều kiện mong muốn,
phản ánh ban quản lý muốn duy trì cái gì
và những trải nghiệm nào du khách muốn
có tại khu di sản. Chẳng hạn, nếu mục
đích chính sách là tạo cơ hội công ăn việc
Các mục đích và mục tiêu chính sách được
tuyên bố rõ ràng là định hướng cho quá
trình ra quyết định và đáp ứng những thay
đổi. Xây dựng đường tàu điện qua khu
công viên hoang dã, xây khách sạn cao
tầng hiện đại gần khu khảo cổ nằm ở vị trí
thấp, lắp đặt đèn nhân tạo tại khu di tích và
tăng các chuyến bay trực thăng trên vườn
quốc gia là tất cả các ví dụ về những sáng
kiến du lịch mà các nhà quản lý khu Di sản
58
Xác định mục đích chính sách và mục tiêu quản lý
thế giới buộc phải đối mặt. Những mục
đích và mục tiêu được xác định rõ ràng chỉ
ra đường hướng và cung cấp một bối cảnh
lịch sử để xử lý những sáng kiến này một
cách nhất quán. Bất cứ sáng kiến mới nào
cũng có thể làm khu di sản thay đổi. Xem
xét những sáng kiến trong khuôn khổ chính
sách và mục tiêu có thể giúp các nhà quản
lý quyết định xem chúng có nằm trong
phạm vi được chấp nhận hay không. Nếu
các mục đích và mục tiêu ấy dựa trên yêu
cầu của những người có lợi ích, phù hợp
pháp luật và Công ước Di sản thế giới,
chúng có thể tạo cơ sở vững chắc cho việc
ra các quyết định quản lý. Ngoài ra, những
hoạt động như tuyên truyền, quảng bá,
kiểm soát và theo dõi năng lực đều phụ
thuộc vào hướng đã được xác định trong
những mục đích và mục tiêu của chính
sách.
Dự án tại Vùng núi Cacpat ở Đông Âu
minh hoạ cho sự cần thiết phải có những
mục đích chính sách du lịch được xác định
rõ ràng. Một cơ quan tài trợ quốc tế đã tổ
chức đoàn chuyên gia để lên kế hoạch giúp
các doanh nghiệp nhỏ phát triển du lịch tại
khu vực. Nghiên cứu thị trường cho thấy
lợi thế tương đối là tổ chức các cơ sở thu
xếp chỗ ăn ở quy mô nhỏ, đặc biệt ở những
địa danh văn hóa và thiên nhiên nổi tiếng.
Tuy nhiên, một số thành viên chính phủ và
giới doanh nghiệp lại muốn trở lại cơ cấu
hạ tầng du lịch quy mô lớn từ thời Liên Xô
(cũ). Lúc đó chưa có các chính sách phát
triển du lịch tầm quốc gia và khu vực thống
nhất để hướng dẫn và làm sáng tỏ những
nỗ lực này. Sự khác biệt mục đích này tồn
tại trong suốt thời gian xây dựng dự án. Khi
đến hạn trình báo cáo cuối cùng, đoàn
chuyên gia thấy không thể đưa ra được
những kiến nghị về chiến lược và chi phí có
thể đáp ứng yêu cầu của cả hai nhóm.
Cho tới vài năm trước đây, khu bảo tồn
rừng ở Costa Rica mà ngân sách hoạt động
phần lớn dựa vào lệ phí du khách, vẫn chưa
có chính sách rõ ràng về phát triển du lịch.
Dự án xây dựng một trung tâm lớn hơn
dành cho du khách gặp phải sự chống đối
từ một bộ phận của chính quyền sở tại vì
họ thấy khu này là khu dự trữ thiên nhiên
hơn là một điểm đến của du lịch. Những
người khác lại thích ý tưởng đó và muốn
thu hút thêm nhiều du khách. Trong khi các
thành viên của cộng đồng chống đối thì
người của các cộng đồng lân cận lại ủng hộ
việc thúc đẩy du lịch vì lợi ích kinh tế mà
nó mang lại. Sau nhiều tháng tranh cãi,
cuối cùng vấn đề đã được giải quyết sau
khi có nghiên cứu của một nhà tư vấn và
các cuộc đối thoại giữa các nhóm có lợi ích
khác nhau. Lẽ ra các xung đột này đã được
giảm thiểu và chắc chắn là được giải quyết
mà không cần sự giúp đỡ từ bên ngoài nếu
có một quá trình đã được xây dựng trong
nội bộ ban quản lý nhằm thảo luận chính
sách và xác định các mục đích.
Xác định Chính sách và Mục tiêu Quản
lý: Minh họa cụ thể về việc chính sách
cần được xây dựng chặt chẽ và rõ ràng.
Vào năm 1996, khi khu Di sản thế giới là
Vườn Quốc gia Keoladeo ở Ấn Độ bắt đầu
tuyển dụng thêm hướng dẫn viên du lịch
người địa phương, các hướng dẫn viên cũ
rất lo những người mới đến có thể ảnh
hưởng tới thu nhập của họ và hạ thấp tiêu
chuẩn hướng dẫn viên. Họ kiện ban quản
lý vườn quốc gia ra tòa với tội danh gia
đình trị, và vườn quốc gia đáp lại bằng
cách chỉ rõ mục đích chính sách của mình
là hỗ trợ cho người nghèo ở nông thôn.
Xác định các loại du khách là một công
cụ hoạch định chính sách.
Vườn quốc gia này cũng có chính sách
khuyến khích người Ấn Độ tới tham quan
cũng như tạo ra các nguồn lợi kinh tế cho
địa phương. Vườn quốc gia quyết định
khuyến khích các loại du khách sau đây:
• Người từ New Dehli và các bang khác.
• Du khách địa phương từ các khu lân cận.
• Người từ thị trấn gần nhất, các làng
mạc, thị tứ gần kề.
• Sinh viên trong khu vực và các thị trấn
gần đó.
• Du khách nước ngoài.
• Du khách quan sát chim muông nghiêm
chỉnh lưu lại khoảng trên dưới một tuần.
• Du khách Ấn Độ hoặc từ nước ngoài tới
thăm hàng năm
59
5
Xác định mục đích chính sách và mục tiêu quản lý
5
Đặt mức lệ phí dựa trên mục đích và mục
tiêu.
Các mục đích chính sách có thể giúp xác
định lệ phí vào thăm. Trong trường hợp
này, ban quản lý vườn quốc gia muốn tăng
thu nhập để hỗ trợ cho các dự án phát triển
tại địa phương, nhưng họ tránh tăng phí
đến mức tối đa, vì sợ chính sách như vậy
có thể bị gán cho tội chỉ chăm lo phục vụ
người giầu, trái với mục tiêu giáo dục, và
kết cục là có thể mất sự ủng hộ chính trị tại
địa phương. Cuối cùng, họ chọn một chính
sách nhiều tầng nấc, tức là tăng
đáng kể lệ phí đối với du khách nước
ngoài, trong khi miễn giảm cho du khách
địa phương và bán vé tuần cho các du
khách quan sát chim muông. Để quyết định
mức phí mới, họ đã tổ chức thăm dò “lệ
phí bao nhiêu là vừa?”.
5.2. Các vấn đề về tính nguyên bản văn
hóa và nguyên vẹn tự nhiên
5.2.1. Khi xây dựng mục đích và mục tiêu
của chính sách du lịch, cần xem xét tính
nguyên bản văn hóa và/hoặc nguyên vẹn
tự nhiên của khu di sản. Nếu di sản trở
thành hàng hóa, nhiều sự việc nghiêm
trọng có thể nảy sinh liên quan đến hai vấn
đề này. Một quá trình tiếp thị du lịch có thể
không tập trung vào các truyền thống văn
hóa thực sự, hoặc giải thích lịch sử của khu
di sản, mà ngược lại chỉ gói gọn trong một
đặc điểm tưởng tượng nào đó. Các khu Di
sản văn hóa thế giới, vốn phần nhiều không
có khả năng đáp ứng nơi ăn nghỉ cho lượng
du khách lớn, có thể lại sử dụng các loại
trang thiết bị hiện đại không thích hợp khi
cố sức nâng cao năng lực phục vụ của
mình. Chẳng hạn, Khảo sát khảo cổ học
của Ấn Độ đã gạt bỏ việc chiếu sáng khu
đền-mộ Taj Mahal. Đèn chiếu sáng có thể
giúp du khách dễ quan sát hơn vào buổi tối,
nhưng lại làm mất đi cơ hội ngắm khu đền
dưới ánh trăng.
Một thị trấn lịch sử đã bị bỏ hoang ở Mỹ
đặt ra vấn đề có nên tiếp tục để nó hoang
phế, hay là can thiệp để khôi phục khu vực
này phục vụ du lịch. Không may là không
còn bức ảnh nào ghi lại thời hoàng kim của
nó, và các chuyên gia sợ rằng nếu tiến hành
khôi phục có thể tái hiện sai quá khứ. Hội
lịch sử của bang đề nghị việc quản lý khu
vực cho phép thị trấn xuống cấp tự nhiên.
Các nỗ lực tôn tạo lớn bị bác bỏ; việc neo
chống đơn giản được ưu tiên. Để đáp ứng
nhu cầu của du lịch, người ta đề nghị chỉ
cho phép các hoạt động xây dựng tối thiểu
như làm chỗ đỗ xe, đường đi và biển chỉ
dẫn.
Tuy nhiên, hội lịch sử địa phương kiến
nghị thị trấn này cần được khôi phục hoàn
toàn. Họ ủng hộ việc phát triển mạnh du
lịch và không mấy quan tâm tới những vấn
đề mang tính triết lý hoặc hậu quả do bàn
tay con người can thiệp gây ra. Cuối cùng,
thị trấn được khôi phục nhưng vẫn còn
nhiều nghi ngờ về chất lượng, đặc điểm và
tính xác thực của khu vực liệu có bị tổn
thương hay không.
Trên thực tế, các tính toán về kinh tế
thường ảnh hưởng rất nhiều đến các quyết
định chính sách. Quyết định duy trì giá trị
của những phế tích cổ liên quan đến việc
ổn định và bảo toàn đến mức độ nào là vừa
có thể là chức năng của các quỹ tài trợ và
nguồn nhân lực hiện có. Cho phép du
khách tham quan phế tích này từ xa sẽ thực
tế và dễ được ủng hộ hơn là giải pháp tôn
tạo để cho phép du khách tới gần vốn tốn
kém hơn rất nhiều. Trong một số trường
hợp, điều cần nhất là kiểm soát cây cỏ để
giảm mức độ xuống cấp của di tích.
5.2.2 Ở những khu Di sản thế giới,
chính sách và mục tiêu phải phù hợp với
tính nguyên vẹn hoặc nguyên bản của
chúng. Khi xây dựng chính sách du lịch ở
các khu Di sản thế giới, ưu tiên cao nhất là
duy trì hình thái và kết cấu của chúng. Hồ
sơ đệ trình của một khu Di sản thế giới có
thể giúp chỉ đạo quá trình cân bằng giữa
chính sách và các mục tiêu quản lý trước
những đòi hỏi của du lịch. Các hồ sơ này
thường mô tả chi tiết đặc điểm và những
thay đổi trước đây của khu di sản và có thể
định hướng cho những hành động bảo tồn
cần thiết. Các nước thành viên Công ước
Di sản thế giới đều có hồ sơ này hoặc có
thể lấy qua Trung tâm Di sản thế giới. Nếu
các thông tin không đủ chi tiết, hoặc nếu
60
Xác định mục đích chính sách và mục tiêu quản lý
các vấn đề tiếp tục xuất hiện, các nhà quản
lý có thể tìm kiếm lời khuyên từ Trung tâm
Di sản thế giới và các cơ quan tư vấn như
IUCN, ICOMOS và ICCROM.
5.3.
Các mối quan tâm của những
người có lợi ích và việc xác định mục đích
và mục tiêu chính sách.
5.3.1. Các mối quan tâm của những
người có lợi ích cần được xây dựng thành
danh mục những vấn đề quản lý để làm
cơ sở cho việc xây dựng mục đích và mục
tiêu của chính sách. Sự tham gia của
những người có lợi ích vào việc xác định
các mục đích và mục tiêu gắn chiến lược
du lịch với những người sẽ có ảnh hưởng
đối với khu di sản hiện tại và trong tương
lai. Họ có thể được tham khảo ý kiến về
một số vấn đề cần quan tâm trong quản lý
như phát triển cơ sở hạ tầng và các chương
trình theo dõi thực hiện. Nhóm người này
thường gồm các quan chức chính phủ,
thành viên của các cộng đồng bảo tồn và
bảo vệ môi trường, các nhà khoa học, các
tổ chức bảo toàn di tích lịch sử, các chủ
khách sạn và các đại lý tour du lịch, du
khách, hướng dẫn viên du lịch và cư dân.
Dưới đây là danh sách những người có lợi
ích liên quan và các khuyến nghị về việc
họ có thể đóng góp để xây dựng các mục
đích và mục tiêu du lịch.
• Quan chức các vụ phụ trách vườn quốc
gia, lâm nghiệp hoặc khảo cổ có thể cung
cấp thông tin về việc quản lý trước đây và
các vấn đề liên quan đến du khách.
• Các hướng dẫn viên du lịch có thể cung
cấp thông tin về các điều kiện xã hội và
môi trường của khu di sản, và những thông
tin đó có thể làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý
giải quan trọng.
• Các hướng dẫn viên làm việc cho các
công ty du lịch có thể cho lời khuyên về
những quan tâm của lãnh đạo công ty và
cung cấp thông tin về những điều cần theo
dõi hoạt động tại khu di sản.
Những nguyên tắc trong Hiến chương
Quốc tế về Du lịch Văn hóa của ICOMOS
Những tuyên bố chính sách có thể dựa trên
những nguyên tắc sau đây:
• Vì du lịch nội địa và du lịch quốc tế là
một trong những cách giao lưu văn hóa tốt
nhất cho nên công tác bảo toàn cần phải
tạo cơ hội có trách nhiệm và quản lý tốt
cho các thành viên của cộng đồng sở tại
cùng du khách để họ trải nghiệm và trực
tiếp hiểu được di sản và văn hóa của cộng
đồng.
• Quan hệ giữa các khu di sản và du lịch
thường năng động và có thể gồm cả các
giá trị xung đột nhau. Vì vậy, nó cần được
vận dụng một cách bền vững vì các thế hệ
hiện tại và tương lai.
• Lên kế hoạch bảo toàn và phát triển du
lịch ở khu di sản cần bảo đảm rằng những
trải nghiệm là đáng giá, mang lại sự mãn
nguyện và thích thú cho du khách.
• Các cộng đồng sở tại và người bản địa
cần phải tham gia trong việc lên kế hoạch
bảo toàn và phát triển du lịch.
• Các hoạt động du lịch và bảo toàn phải
mang lại lợi ích cho cộng đồng địa
phương.
• Các chương trình thúc đẩy du lịch cần
phải bảo vệ và nâng cao đặc điểm của di
sản thiên nhiên và văn hóa.
Ghi chú: Toàn bộ nội dung của Hiến
chương được ghi trong Phụ lục 2.
• Lãnh đạo cộng đồng thường có những
quan tâm và ý tưởng về việc du lịch sẽ ảnh
hưởng thế nào tới các giá trị xã hội và sự
phát triển kinh tế của địa phương. Chẳng
hạn, các nhà lãnh đạo địa phương có thể
cho rằng cần tránh những tác động của du
lịch đối với các trung tâm dân cư chính.
• Các chủ khách sạn có thể có ảnh hưởng
trực tiếp đến phát triển du lịch và quan hệ
tương tác trong cộng đồng. Họ có thể quan
tâm đến khả năng có quá nhiều du khách,
hoặc khả năng điều phối lượng du khách
giữa khách sạn và nhân viên quản lý khu di
sản thông qua hệ thống đặt chỗ trước. Các
chủ khách sạn cũng có thể giúp xây dựng
61
5
Xác định mục đích chính sách và mục tiêu quản lý
5
phát triển cách thể hiện và các tài liệu
quảng bá khu di sản.
nằm gần một con đường mới mở dẫn vào
khu di tích Copan.
• Các hãng tổ chức tour du lịch sẽ quan
tâm đến tiện nghi và an ninh của du khách.
Họ theo sát những thay đổi trên thị trường
lữ hành quốc tế và thường có thông tin về
những ưu tiên cùng đòi hỏi của du khách.
Không nên đánh giá thấp giá trị của việc
tiếp xúc với các hãng này để thảo luận về
những quan tâm của họ, những đòi hỏi
tiềm tàng đối với một khu di sản và khả
năng hợp tác trong các hoạt động như tiếp
thị.
5.4. Xác định lợi ích chung với những
người có lợi ích
• Các nhà khoa học có thể bày tỏ mối
quan tâm về các loài động thực vật quan
trọng hoặc các dấu tích lịch sử hoặc khảo
cổ. Họ có thể gợi ý cách bảo vệ các tài
nguyên khỏi bị tác động và cho lời khuyên
về việc thu hút tài trợ cho các công trình
nghiên cứu. Những trợ lý trên thực địa làm
việc trực tiếp với các nhà khoa học có thể
chia sẻ những quan tâm thực tế và những
thông tin bổ trợ thêm.
5.3.2 Những thông tin cơ bản phải bổ
sung cho danh mục những mối quan tâm
của những người có lợi ích. Khi xác định
mục đích và mục tiêu, các thư viện hoặc hồ
sơ lưu trữ tại các cơ quan là những nguồn
hữu ích cung cấp những thông tin bổ sung
có giá trị, chẳng hạn về những loài động
thực vật bị nhiễm bệnh đặc hữu hoặc bị đe
dọa, hoặc về việc sử dụng và tác động của
du khách đối với động vật hoang dã hoặc
các phế tích khảo cổ. Du lịch quốc gia, luật
về các khu được bảo vệ và các chính sách
bao gồm những đòi hỏi mang tính pháp lý
đối với việc cấp phép và đóng thuế có thể
giúp xác định chính sách của chính phủ và
hiểu được thực trạng hiện thời của việc
phát triển du lịch. Các kế hoạch tổng thể cũ
bao gồm cả những kiến nghị cũng rất hữu
ích. Ở Copan, khu khảo cổ thuộc bộ tộc
da đỏ Maya của Honduras, một khách sạn
quốc tế lớn đã được xây dựng ngay cả khi
có nhiều ý kiến cho rằng những khách sạn
nhỏ hơn hiện có trong thành phố gần đó
cũng đủ đáp ứng nhu cầu nếu được nâng
cấp một phần nhỏ. Nhiều phế tích không
được chăm sóc đã bị hủy hoại chỉ vì chúng
5.4.1. Xung đột với cộng đồng địa phương
có thể cản trở hợp tác trong phát triển du
lịch. Vì lý do này cho nên việc tham khảo
ý kiến các thành viên cộng đồng trong quá
trình lên kế hoạch là điều quan trọng. Họ
có thể nêu lo ngại rằng phát triển du lịch
sẽ làm gia tăng ô nhiễm và tội ác; rằng việc
đi lại của du khách có thể đe dọa con cái
họ, hoặc du khách sẽ đưa lại những tác
động tiêu cực đối với điều kiện xã hội, như
việc mặc những bộ đồ không thích hợp khi
đến địa phương. Họ cũng có thể sợ rằng
phát triển du lịch sẽ không mang lại lợi ích
cho dân địa phương; ví dụ, việc làm hướng
dẫn viên sẽ rơi vào tay những người ngoài
cộng đồng.
Tham khảo ý kiến có thể đưa tới một số
hành động như thành lập Ủy ban phát triển
du lịch, hoặc hệ thống đào tạo hướng dẫn
viên người địa phương. Các hãng tổ chức
tour du lịch có thể được yêu cầu hướng dẫn
du khách phải tôn trọng những giá trị của
cộng đồng. Một trung tâm hướng dẫn du
khách có thể được xây cách xa làng mạc để
tránh động chạm tới cuộc sống hàng ngày
của người dân.
5.4.2. Các nhà bảo tồn và bảo vệ môi
trường có những quan tâm quan trọng về
tác động tiêu cực tiềm ẩn trong phát triển
du lịch đối với những khu di sản văn hóa
và thiên nhiên. Các nhà bảo vệ môi trường
liên quan đến việc bảo vệ các loài động
thực vật có thể sợ rằng mở cửa một khu
vực cho du lịch có thể cũng là mời những
người đi săn đến, hoặc họ có thể quan tâm
đến khả năng gây xáo động tới các loài
chim đang làm tổ chẳng hạn. Các nhà khảo
cổ có thể cảnh báo việc phá hoại và các
nguy cơ gây hại khác đối với các phế tích
và đền đài cổ. Cả hai nhóm người này có
thể phàn nàn về tình trạng xả rác đang tăng
lên, nhất là khi ngân sách hiện có không đủ
sức chi cho việc thu gom rác. Họ có thể
gây sức ép đòi một số điều kiện trong đó
bảo đảm cho du khách không bị xô đẩy,
62
Xác định mục đích chính sách và mục tiêu quản lý
mắc kẹt vì quá đông hoặc mất quá nhiều
thời gian mới vào tới khu di sản. Người
thuộc nhóm lợi ích này thường phàn nàn về
việc thiếu thông tin liên lạc với các bộ
phận phụ trách du lịch, kể cả Bộ du lịch và
các hãng tổ chức tour tư nhân. Họ cũng có
thể phàn nàn các quan chức coi trọng phát
triển du lịch hơn là những hoạt động mang
tính giáo dục và nghiên cứu khoa học.
Có thể nhóm người này muốn thuyết phục
các nhà quản lý khu di sản thực hiện chế độ
đặt chỗ trước một cách hiệu quả, hạn chế
du khách vào các khu vực có hệ sinh thái
hoang sơ, dễ bị tác động hoặc các di chỉ
khảo cổ dễ bị xáo trộn và phát động một
chiến dịch giáo dục để giảm thiểu tác động.
Họ có thể đòi phải giám sát chặt chẽ du
khách, đặc biệt là các nhóm sinh viên
nghiên cứu khoa học. Các nhà nghiên cứu
thường ủng hộ việc cử một cố vấn khoa
học có mặt tại khu di sản, người có thể
thúc đẩy và quản lý các công trình nghiên
cứu. Có thể đi tới thỏa thuận về những mục
tiêu cụ thể cho việc quảng bá và phát triển
du lịch.
5.4.3. Các hướng dẫn viên du lịch là
nguồn thông tin và tư vấn có giá trị về
những điều kiện ảnh hưởng tới môi
trường cũng như trải nghiệm của du
khách. Họ sẽ chỉ ra những tuyến đường
không an toàn, giúp bảo đảm các đường
này được duy tu bảo dưỡng tạo thuận lợi
cho du khách đi lại, cũng như đánh động
ban quản lý về việc quá đông du khách và
tiếng ồn. Họ có thể thông báo cho ban quản
lý khi người địa phương săn bắt chim
muông và các động vật hoang dã khác ở
khu di sản.
Cũng như các nhà bảo tồn và bảo vệ môi
trường, hướng dẫn viên du lịch thường lo
lắng về chất lượng trong những trải nghiệm
của du khách, và sẽ đòi giảm thời gian mua
vé tới mức tối thiểu, giải quyết dứt điểm
tắc nghẽn trên đường vào khu di sản, vân
vân... Họ có thể cho ý kiến về việc duy trì
giới hạn lượng du khách vào khu di sản
thông qua một hệ thống đặt vé trước có
hiệu quả và các biện pháp khác như xếp
xen kẻ các chuyến tham quan cho du khách
bằng cách tổ chức thêm các tour buổi
chiều. Hệ thống điện thoại trực tuyến hoặc
không dây giữa nhân viên quản lý khu và
các hướng dẫn viên sẽ bảo đảm liên lạc
thường xuyên, có hiệu quả.
5.4.4. Chủ khách sạn và các nhà quản lý
thường mong muốn khu di sản tạo ra
nhiều cơ hội cho các loại du khách khác
nhau. Họ cũng quan tâm tới vấn đề lượng
khách quá đông, rác thải, lượng xe đỗ ở lối
vào của khu di sản và sự có mặt thường
xuyên của những người hành khất và bán
đồ lưu niệm. Còn với các hướng dẫn viên
độc lập, thì các khách sạn coi trọng sự liên
lạc thường xuyên và đủ độ tin cậy với ban
quản lý khu di sản, có thể bằng cách lắp đặt
riêng đường điện thoại trực tiếp.
Những người thuộc nhóm lợi ích này có
thể yêu cầu bộ phận quản lý nhân viên phát
triển hệ thống đặt chỗ trước cho các tour.
Họ cũng sẽ chủ trương thành lập mô hình
Ban tư vấn du lịch để giải đáp cho cộng
đồng địa phương về những vấn đề phát
triển, về nhu cầu cũng như sở thích của du
khách.
5.4.5. Các hãng tổ chức tour du lịch và
các hãng tổ chức tour đường bộ của nước
ngoài đặc biệt quan tâm đến các vấn đề
hậu cần. Liệu tour của họ có phải xếp
hàng chờ sau các tour khác đến cùng một
lúc hay không? Liệu du khách của họ có
phải đối mặt với các nhóm ồn ào và khinh
suất khác hay không? Có đủ chỗ đỗ xe
không? Và cũng giống như những nhóm có
lợi ích khác, các hãng tổ chức tour lo lắng
về việc liệu khu di tích có được bảo trì tốt
và an toàn cho du khách không, và với các
khu di sản thiên nhiên thì động vật hoang
dã có được bảo vệ đầy đủ hay không?
Những nhóm lợi ích này thường chủ
trương xây dựng hệ thống đặt chỗ trước
hoạt động có hiệu quả, thông tin liên lạc
thông suốt và sự bảo quản thường xuyên.
5.4.6. Một nhóm tư vấn những người có
lợi ích có thể thúc đẩy việc phát triển các
mục đích chính sách và mục tiêu quản lý.
Một nhóm như vậy sẽ tạo ra cơ chế trao đổi
các ý tưởng và thông tin. Nhóm sẽ phải dự
thảo một chính sách hoặc một tuyên bố về
tầm nhìn có thể triển khai được và được
63
5
Xác định mục đích chính sách và mục tiêu quản lý
5
thông qua một cách công khai. Nhóm cũng
có thể giúp xác định các mục tiêu quản lý,
kể cả các tiêu chuẩn về những điều kiện và
hành động mong muốn.
Thực tế, các nhóm có lợi ích có thể tham
gia vào quá trình quản lý, đóng vai trò như
diễn đàn trao đổi quan điểm và đi tới thỏa
thuận về các vấn đề du lịch. Nếu một nhóm
tư vấn như vậy tỏ ra không khả thi, thì cần
có một cơ chế nào đó để trao đổi ý kiến.
Nó có thể ở dạng đơn giản như trao đổi
những điều ghi nhớ giữa nhân viên quản lý
khu di sản với các nhóm lợi ích để thu thập
ý kiến và mô tả các hoạt động hiện hành.
Quá trình xây dựng mục đích và mục tiêu
cũng cần tính đến tính độc đáo của khu di
sản trong mối quan hệ cạnh tranh với các
khu di sản khác. Các hãng tổ chức tour du
lịch và các nhà làm du lịch chuyên nghiệp
mà có thể là thành viên của nhóm tư vấn có
thể là nguồn thông tin giá trị về lợi thế
tương đối của khu di sản so với các khu
khác trong vùng.
5.5. Sở thích và đòi hỏi của du khách
5.5.1. Dữ liệu về sở thích và đòi hỏi của
du khách đối với khu di sản rất quan
trọng trong việc xây dựng các mục tiêu.
Thông tin về lượng du khách, những gì họ
thích cũng như không thích, động cơ và
mong muốn của họ... sẽ giúp các nhà hoạch
định kế hoạch phân loại du khách thành
các nhóm nhỏ với đặc điểm, nhu cầu và
cách chi tiêu tương tự nhau. Thông tin này
rất có ích trong việc xác định các mục tiêu
về cơ sở hạ tầng, nhu cầu về nhân sự, các
chương trình tuyên truyền giáo dục và
quảng bá khác. Kết hợp với dữ liệu về các
thị trường du lịch, thông tin này có thể
được dùng để xây dựng các mục tiêu thu
hút nhiều loại du khách tới khu di sản.
Chẳng hạn, các nhà quản lý với chính sách
thúc đẩy phát triển cộng đồng địa phương
có thể đặt ra một mục đích thu hút những
hãng tổ chức tour nào sử dụng hướng dẫn
viên người địa phương.
5.5.2. Lượng du khách cũng ảnh hưởng
tới các mục tiêu quản lý, cơ sở hạ tầng và
việc sắp xếp phương tiện. Kinh nghiệm ở
khu Thác Liffey của Tasmania minh họa sự
hữu ích của thông tin về sở thích của du
khách khi xây dựng các mục tiêu quản lý.
Uỷ ban Lâm nghiệp phát hiện du khách
thích tham quan thác nước, chứ không mấy
quan tâm đến các phương tiện giải trí sẵn
có khác. Biết được điều này, các quan chức
đã có thể tập trung nỗ lực, tiết kiệm được
khá nhiều tiền của và thời gian của nhân
viên.
Ở Vườn Quốc gia Uluru của Australia, một
khảo sát cho thấy hầu hết du khách đều
muốn thăm và leo lèn đá Ayers. Rất ít
người cho biết lý do đầu tiên đưa họ tới
thăm vùng này là thăm khu vực hoang sơ
và các loài động vật hoang dã. Thông tin
này giúp nhân viên vườn quốc gia tập trung
chú ý vào lèn đá Ayers.
5.5.3. Có thể sử dụng các nguồn lực hiện
có để khởi đầu quá trình đánh giá sở
thích và đòi hỏi của du khách. Thông tin
và số liệu từ Bộ du lịch, từ nhân viên các
khu bảo vệ và các hãng tổ chức tour có thể
giúp gợi mở một ý tưởng về đòi hỏi hiện
nay và trong tương lai, và về sự kết hợp
nhiều phân đoạn thị trường. Các quan chức
phụ trách du lịch quốc gia có thông tin về
sự phát triển du lịch và các nghiên cứu hay
thống kê về thị trường du lịch. Số liệu
thống kê và các báo cáo của nhân viên khu
di sản và các hãng tổ chức tour có thể giúp
hiểu được sở thích và đòi hỏi của du khách.
Những nghiên cứu hiện có trong tay các
quan chức phụ trách du lịch quốc gia có thể
cung cấp thông tin về các loại du khách mà
chính phủ muốn thu hút và loại du khách
được dự kiến sẽ tới thăm khu di sản trong
tương lai. Phỏng vấn các quan chức vườn
quốc gia, lâm nghiệp và thám sát khảo cổ
đã hồi hưu có thể làm sáng rõ những kế
hoạch quản lý trước đây và các số liệu về
du lịch. Chúng có thể gồm số liệu thống kê
về lượng du khách tới vườn quốc gia, đến
từ nước nào và số ngày họ lưu lại khu vực.
Thông qua các cuộc thảo luận, các quan
chức có thể giúp các nhà quản lý xác định
những thay đổi về các mối quan tâm, các
hoạt động và cách thức du lịch của lữ
khách.
64
Xác định mục đích chính sách và mục tiêu quản lý
Quan sát sự phát triển du lịch ở các cộng
đồng xung quanh có thể cho thấy những
đòi hỏi tiềm tàng của du khách đối với
khu di sản và du lịch đã tác động thế nào
tới kinh tế và điều kiện xã hội của cộng
đồng. Các hướng dẫn viên người địa
phương và chủ khách sạn lớn nhỏ có thể
cung cấp thông tin về sở thích và đòi hỏi
của các lượt du khách. Cũng vì thường
xuyên tiếp xúc với những thay đổi trong
các thị trường du lịch quốc tế cho nên họ
có thể giúp xác định và theo dõi sở thích
và đòi hỏi của khách; chẳng hạn khách đi
theo tour hay theo nhóm có tổ chức, hoặc
là đi một mình. Họ còn có thể cung cấp
những thông tin bổ ích về việc phát triển
cơ sở hạ tầng và các tài liệu hướng dẫn
về khu di sản. Các nhà khoa học và khảo
cổ cũng có thể chia sẻ thông tin về sở
thích và cách thức hoạt động của du
khách.
Bước đầu tiên bảo đảm khảo sát thành
công là hiểu rõ mục đích của việc sắp làm
và điều này sẽ liên quan đến việc lựa chọn
cách thức thu thập số liệu, lập bảng khảo
sát và các hoạt động thực địa. Sau đây là
ví dụ về những mục tiêu của khảo sát:
5.5.4. Quan sát, khảo sát và phỏng vấn
cung cấp nhiều dữ liệu chi tiết hơn về du
khách. Những thông tin như vậy về du
khách và các mối quan tâm của họ sẽ rất
cần cho việc điều chỉnh các mục tiêu quản
lý, chẳng hạn về sở thích của đám đông
hoặc cách thức chi tiêu của họ. Việc quan
sát là có tính định lượng, và kém chính xác
hơn khảo sát và phỏng vấn trực tiếp, tuy
nhiên quan sát có ưu điểm là nhanh, ít tốn
kém và giúp chỉ ra các xu hướng, hoặc gợi
ra các mục tiêu cho các khảo sát hoặc
phỏng vấn cuối cùng.
• Những người thực hiện khảo sát cần cởi
mở và thành thật về những thông tin họ
cần thu thập, như số liệu về mức chi tiêu
của du khách chẳng hạn.
• Những người trả lời có quyền từ chối
trả lời một câu hỏi hoặc ngừng trả lời các
câu hỏi bất cứ lúc nào.
• Người thực hiện khảo sát cần bảo đảm
sự cẩn mật, hoặc nếu các số liệu thu thập
sẽ được công bố thì cần được người trả lời
đồng ý bằng văn bản. Thông tin cá nhân ít
khi cần thiết; địa chỉ thư tín của du khách
có thể được xây dựng thành danh mục
riêng không gắn với nội dung khảo sát.
• Các câu hỏi và thủ tục khảo sát cần tính
đến sự nhạy cảm giữa các nền văn hoá, về
tộc người hoặc giới tính.
Việc quan sát cần lưu ý đến các yếu tố như
cách thức tổ chức (du khách theo nhóm lớn
hay nhỏ), phương tiện đi lại, loại và số
lượng trang thiết bị, cách thức sử dụng thời
gian, những nơi du khách đến thăm và
hành vi của du khách, bao gồm cả ngôn
ngữ sử dụng và mức độ gây ra tiếng ồn. Vì
hầu hết mọi người đều có khó khăn trong
việc phân tích lối ứng xử và động cơ của
chính mình, nên quan sát có thể là một kỹ
thuật lanh lẹ và hữu ích để theo dõi những
việc du khách thật sự làm.
Lên kế hoạch và tiến hành khảo sát
Các mục tiêu:
• Đánh giá chương trình giới thiệu hoặc
quảng bá khu di sản.
• Đánh giá số lượng và loại du khách tới
thăm khu di sản để minh định cho việc xin
tài trợ hoặc đánh giá tính hiệu quả của đầu
tư.
• Dự liệu du khách sẵn sàng chấp nhận
trả tới mức nào để đặt mức lệ phí vào cửa
sát thực tế.
• Đánh giá sở thích của du khách đối với
những hoạt động giải trí hiện có hoặc được
dự tính.
Những cân nhắc về mặt đạo đức
Các loại dữ liệu
Dữ liệu định tính có thể cung cấp nhiều
thông tin đặc tả có thể sử dụng độc lập
hoặc giúp xác định mục tiêu của các cuộc
khảo sát có tính chất định lượng . Phương
pháp thu thập dữ liệu định tính bao gồm
các cuộc phỏng vấn, các nhóm trọng điểm
và quan sát. Nhược điểm của nó là những
dữ liệu định tính khó đo đếm và đòi hỏi
những đánh giá chủ quan.
65
5
Xác định mục đích chính sách và mục tiêu quản lý
5
Dữ liệu định lượng có thể được thu thập
qua các cuộc tiếp xúc trực tiếp hoặc phỏng
vấn qua điện thoại, hoặc qua các bảng câu
hỏi thăm dò. Số liệu mang tính định lượng
thường ở dạng số, có thể mã hóa để dùng
cho phân tích dữ liệu. Thái độ và ý kiến
được đo đếm bằng bảng chia theo tỷ lệ.
Trong khi phương pháp định lượng chỉ lấy
số liệu từ một bộ phận dân cư, thì qua
phân tích thống kê có thể cho phép khái
quát với độ tin cậy tương đối về toàn bộ
cộng đồng. Nhược điểm của dữ liệu thu
thập bằng phương pháp này là chúng
không mang tính cá nhân nên không lột tả
được tại sao du khách lại có thái độ hoặc
ứng xử như thế. Một nhược điểm khác là
những sai sót trong thiết kế bảng khảo sát
hoặc kỹ năng phỏng vấn có thể dẫn tới
những nhận định sai lầm. Lỗi trong thiết kế
cũng có thể đưa tới việc thu thập mẫu
thông tin không thực sự đại diện cho toàn
bộ dân cư đang được khảo sát.
khác, và việc người phỏng vấn có thành
kiến là điều khó tránh khỏi.
Nhóm trọng điểm tổ chức các cuộc thảo
luận thoải mái, nhằm làm xuất lộ một số
vấn đề. Người chủ trì điều phối cuộc thảo
luận và ghi lại kết quả. Các cuộc thảo luận
của nhóm trọng điểm tạo điều kiện có được
nhiều câu trả lời và mất ít thời gian hơn
các cuộc phỏng vấn sâu về chủ đề. Cách
làm này cho phép quan sát những người
tham gia, từ đó có cách nhìn rõ về cách
ứng xử và thái độ của họ.
Phương pháp sử dụng phiếu thăm dò ít
tốn kém hơn phỏng vấn và có thể thu thập
được rất nhiều thông tin. Phiếu thăm dò có
thể được đặt ở những nơi đã được tính
toán, phân phát cùng vé vào tham quan
hoặc chuyển cho nhóm người đã được lựa
chọn sẵn. Bất lợi chính là không tiến hành
được các hoạt động tiếp theo với những
người đã tham gia trả lời câu hỏi.
Các kỹ thuật thu thập dữ liệu.
Kỹ thuật quan sát người tham gia nhưng
không cho họ biết có thể được sử dụng để
thu thập những số liệu mang tính định tính
và định lượng. Người thực hiện khảo sát
trở thành một bộ phận của nhóm đang
được quan sát và có thể có những phát
hiện quan trọng về sở thích của du khách.
Những thông tin như vậy có thể giúp cho
việc lên kế hoạch khảo sát chi tiết, bằng
cách góp phần xác định các loại du khách
chẳng hạn.
5.5.5.Phỏng vấn thường mất nhiều công
sức hơn, nhưng lại có thể tạo điều kiện
nghiên cứu toàn diện về một tình huống
nào đó. Phỏng vấn đòi hỏi phải có sự huấn
luyện riêng, và kết quả có thể khác nhau
tuỳ theo sự chủ quan của người thực hiện.
Phỏng vấn trực tiếp sử dụng các câu hỏi
mở thường bổ trợ đắc lực cho các dữ liệu
mang tính định lượng. Phỏng vấn cũng có
giá trị vì chúng cung cấp cho những người
được phỏng vấn thông tin về những vấn đề
của khu di sản.
Phỏng vấn trực tiếp là dịp để hỏi sâu về
một chủ đề đặc biệt nào đó. Người được
phỏng vấn được phép tự do trả lời mà
không bị giới hạn về thời gian. Cũng như
với phương pháp quan sát, cách làm này
có thể là bước khởi đầu để phát triển một
khảo sát mang tính định lượng. Phỏng vấn
ít dẫn đến hiểu lầm và tránh được những
vấn đề xảy ra đối với người không biết chữ
và rào cản ngôn ngữ. Các câu hỏi tiếp theo
có thể dùng để sửa những câu trả lời
không đầy đủ. Phỏng vấn là đặc biệt có ích
khi chủ đề có tính chất phức tạp và khi cần
sự kín đáo để tránh sức ép do chênh lệch
về địa vị. Bất lợi của phỏng vấn là chúng
công phu và tốn kém hơn các phương pháp
Thăm dò khảo sát đỡ tốn kém hơn phỏng
vấn trực tiếp, có thể tiếp xúc với nhiều loại
du khách và cho những dữ liệu định lượng
giá trị vốn có ích cho việc củng cố các
quyết định quản lý. Tuy nhiên, trong khảo
sát thì thông tin chỉ có tính một chiều, và
các khảo sát đòi hỏi phải có kỹ năng soạn
thảo các câu hỏi thăm dò và quản lý dữ
liệu. Chúng cũng ít hiệu quả hơn phỏng
vấn trong việc nâng cao ý thức của du
khách. Lý tưởng nhất là kết hợp được các
phương pháp để xác định sở thích và xây
dựng những dữ liệu chính xác về du khách.
Phân loại du khách theo sở thích và lối ứng
xử có thể góp phần thực hiện những mục
đích và mục tiêu của khu di sản. Chẳng hạn,
66
Xác định mục đích chính sách và mục tiêu quản lý
nếu tạo ra thu nhập là mục đích chính thì
cần tập hợp các thông tin về những biến đổi
trong cách chi tiêu của du khách. Còn nếu
giáo dục học sinh trẻ em là ưu tiên thì cũng
phải được thể hiện trong bảng khảo sát.
5.6. Xác định mục tiêu của khu di sản
tạo ra nhiều hoạt động đa dạng
5.6.1. Ở những khu di sản lớn, dù là khu
di sản văn hoá, thiên nhiên hay hỗn hợp
thì các mục tiêu quản lý có thể khác nhau
đối với mỗi vùng. Người ta thường có
những mong muốn khác nhau khi đi du
lịch. Những người chú tâm quan sát chim
muông có thể đến khu vực để xem các loài
chim có nguy cơ tuyệt chủng trong một
môi trường tĩnh lặng, ít người đến thăm.
Cùng thời gian đó thì những du khách địa
phương có thể tới khu di sản để thăm một
phế tích khảo cổ, đi dã ngoại hoặc làm
quen với các thành viên trong gia đình và
họ có thể lại không thấy khó chịu vì ồn ào.
Hệ thống chuẩn Cơ hội Giải trí (ROS)) đã
chứng tỏ là công cụ hữu ích trong việc xác
định các mục tiêu cho những trải nghiệm
khác nhau của du khách. ROS là một
phương tiện mô tả du lịch và giải trí sẽ
được quản lý như thế nào ở những vùng
khác nhau trong cùng một khu di sản. ROS
hoạt động với giả định là mỗi loại hoạt
động chỉ phù hợp nhất với một vùng tự
nhiên cụ thể, chẳng hạn, nếu du khách
muốn trải nghiệm khung cảnh hoang dã
của thiên nhiên thì những khu rừng còn
tương đối hoang sơ sẽ thích hợp hơn là
những khu canh tác. Nó cũng thừa nhận
rằng các hoạt động của ROS này cần phải
tạo cho du khách có những cơ hội trải
nghiệm, chẳng hạn như một không gian
tĩnh lặng hoặc những chuyến đi đầy chất
phiêu lưu mạo hiểm. Ở vùng núi
Kilimanjaro của Tanzania, các nhà vạch kế
hoạch đã tạo ra một khu vực đi bộ việt dã
với số lượng hạn chế, và vì thế du khách có
thể không phải tiếp xúc thường xuyên với
các du khách khác. Những khu vực hoang
vu còn bị hạn chế hơn nữa, thậm chí chỉ
cho phép sử dụng ở mức tối thiểu. Toàn bộ
lán trại và các phương tiện cố định khác
phải chuyển đi, chỉ cho phép một khu cắm
trại đảm bảo yên tĩnh cao nhất; khu vực
này hoàn toàn không có sự hiện diện
thường xuyên của con người.
Để tách bạch các hoạt động khác nhau, hệ
thống ROS sử dụng các loại hình đã được
xác lập, gọi là các loại cơ hội thích hợp với
nguồn lực tự nhiên của khu di sản, với
những hoạt động thích hợp nhất. Chẳng
hạn ở một khu di sản hỗn hợp, một khu vực
có thể được quản lý dành riêng cho du lịch
khảo cổ, và một khu vực khác cho du
khách quan sát chim muông. Các loại cơ
hội như vậy đưa ra những điều kiện cần có
cho từng vùng khác nhau và những hướng
dẫn về mục tiêu quản lý, bao gồm các
hướng dẫn về những hoạt động du lịch/giải
trí và phát triển cơ sở hạ tầng. Ở Mỹ, các
dịch vụ công viên và rừng sử dụng hệ
thống phân loại các cơ hội đã định trước
bao gồm những khu vực nguyên sinh, bán
nguyên sinh không cho phép xe cộ ra vào;
bán nguyên sinh cho phép xe cộ ra vào;
nông thôn và thành thị hiện đại. Các nước
khác xây dựng hệ thống phân loại riêng của
họ phù hợp với thực tế tự nhiên ở một khu
nào đó. Mỗi loại lại có những tiêu chuẩn
quản lý và điều kiện mong muốn riêng nằm
trong những mục đích chính sách của khu
di sản. Thông tin cần thiết để xác định và
thành lập các khu vực thuộc phân loại cơ
hội nào đều dựa trên những thông tin cơ
bản về mục đích chính sách, luật pháp hiện
hành và các mối quan tâm của những
người có lợi ích.
Mỗi loại cơ hội lại bao gồm một hệ thống
các trải nghiệm và hoạt động dành riêng cho
du khách. Mỗi thứ đều có những hướng dẫn
về các điều kiện quản lý, xã hội và sinh thái.
Chẳng hạn, một khu thuộc loại nguyên sơ
có thể được duy trì như một dải địa hình
hoang vu nơi xe cộ không được phép ra vào,
do đó có nhiều khả năng du khách được trải
nghiệm nhiều thách thức tự nhiên trong
không gian tĩnh lặng. Vì những khu như vậy
thu hút mạnh du khách tìm kiếm trải nghiệm
nơi hoang dã cho nên các môn thể thao như
dã ngoại và bơi thuyền có thể là các hoạt
động thích hợp.
Trong hệ thống chuẩn đó, các vùng thôn dã
bên trong khu di sản, chẳng hạn đất canh
tác, có thể chịu tác động của con người ở
67
5
Xác định mục đích chính sách và mục tiêu quản lý
5
nhiều mức độ khác nhau và tiếp xúc với
người khác là điều có thể xảy ra. Ở đây,
các hoạt động như du lịch ba lô nơi hoang
dã có lẽ là không thích hợp. Mặt khác, việc
quan sát chim muông dọc theo đường làng
có thể là hoạt động du lịch thích hợp hơn.
Phát triển cơ cấu hạ tầng để phục vụ những
hoạt động khác nhau liên quan chặt chẽ tới
loại cơ hội của một vùng. Hệ thống ROS
làm cho những mục tiêu của cơ sở hạ tầng
phù hợp với những trải nghiệm được chào
mời. Chẳng hạn, nếu mục tiêu là cung cấp
cho du khách một trải nghiệm ở một khu
hoang dã, thì chỉ cần hạ tầng cơ sở cơ bản
là đủ. Ở những vùng nông thôn dân cư
đông đúc, cơ sở hạ tầng có thể phức tạp
hơn, với chỗ ăn nghỉ đáp ứng được mong
muốn của du khách.
5.7. Gợi ý và Khuyến nghị
• Khi xác định mục đích và mục tiêu,
bước đầu tiên là quyết định mục đích của
du lịch tại khu di sản. Các câu hỏi sau đây
có thể kích thích suy nghĩ về vấn đề này:
- Có phải mục tiêu duy nhất là thu ngoại tệ,
hay khu di sản cũng có thể được dùng để
thúc đẩy các doanh nghiệp nhỏ của địa
phương, như việc sử dụng hướng dẫn viên
hoặc sản xuất đồ thủ công?
- Liệu thu nhập có được dùng để hỗ trợ khu
di sản, chẳng hạn để trả cho việc tuyển
dụng thêm những người bảo vệ khu di sản
hay không?
- Khu di sản nên thiết kế thế nào và quản lý
ra sao?
- Liệu nó có tạo cơ hội đặc biệt cho việc
làm tại địa phương và cung cấp các cơ hội
giáo dục cho người địa phương hay không?
- Liệu thiết kế hạ tầng cơ sở của khu di sản
có phản ánh truyền thống của khu vực
thông qua việc sử dụng các vật liệu tự
nhiên hay không?
• Thu thập và tổ chức thông tin từ những
nguồn sẵn có, gồm hồ sơ lưu trữ tại thư
viện hoặc bộ phận phụ trách kế hoạch, và
ghi nhớ tới những lĩnh vực còn thiếu thông
tin thì có thể tiết kiệm thời gian và tiền của.
Việc này có thể tạo điều kiện dễ dàng cho
công việc của các chuyên gia bên ngoài và
xác định được những dữ liệu quản lý cần
thiết khác nữa. Bộ du lịch, nhân viên các
khu được bảo vệ và các hãng tổ chức tour
có thể cung cấp thông tin và thống kê về
những khu vực dễ bị ảnh hưởng, những
khu được quan tâm đặc biệt, tác động của
du khách hiện hữu, những đòi hỏi hiện thời
và trong tương lai, và sự kết hợp các phân
đoạn thị trường. Thông tin này có ích trong
việc ra quyết định về việc xác định vị trí,
thiết kế và chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng.
• Nắm được các chính sách du lịch của
chính quyền, điều kiện phát triển du lịch
hiện nay, những nghiên cứu hoặc thống kê
về các phân đoạn thị trường du lịch của đất
nước sẽ giúp cho việc phát triển chính
sách và các mục tiêu quản lý. Các kế hoạch
quản lý cùng hồ sơ về lượng du khách,
cũng như những vấn đề du lịch đặt ra và
giải pháp khắc phục sẽ góp phần làm sáng
tỏ những điều kiện môi trường, văn hóa và
khảo cổ. Hướng dẫn viên địa phương cần
thông thạo về các điều kiện xã hội, môi
trường và sở thích của du khách. Hướng
dẫn viên làm cho các hãng du lịch lớn, chủ
hoặc các nhà quản lý khách sạn và nhà
nghỉ có thể cho lời khuyên về những điều
cần quan tâm trong quản lý và về sở thích
của khách. Các hãng tổ chức tour quen
thuộc với các thị trường du lịch quốc tế
cũng có thể giúp xác định và theo dõi sở
thích và đòi hỏi của du khách.
• Cần phân tích xem các mối quan tâm
của những người có lợi ích sẽ ảnh hưởng
thế nào tới chi phí quản lý. Chẳng hạn, có
thể là quan tâm đến việc bảo vệ và xem xét
một loài động vật hoang dã nào đó hoặc
giảm thiểu tình trạng đông người ở một
khu phế tích cổ. Với những thông tin này,
nhà quản lý có thể xác định xem các quỹ
có đủ để mang lại và duy trì những điều
kiện mong muốn hay không.
• Nhà quản lý cần quyết định mức độ sử
dụng hiện nay bằng cách đặt các câu hỏi
sau đây: Có bao nhiêu người đến thăm khu
di sản? Họ là người địa phương hay người
nước ngoài? Họ biết về khu di sản bằng
cách nào, và làm gì khi tới thăm khu đó?
Những loại dịch vụ nào hiện tồn tại?
Những địa điểm thu hút du lịch hiện thời
68
Xác định mục đích chính sách và mục tiêu quản lý
có cho thấy dấu hiệu của sự hư hại? Các
lưu ý về thực trạng của khu di sản có ảnh
minh họa có thể giúp xác định các mục tiêu
quản lý và theo dõi, giới thiệu khu di sản
trong tương lai.
• Liệt kê các mối quan tâm và các vấn đề
ưu tiên của những người có lợi ích khác
nhau sẽ giúp phân tích họ ảnh hưởng tới
mục đích và mục tiêu như thế nào. Cần xác
định rõ ràng sự khác biệt ý kiến và những
lĩnh vực có được thỏa thuận giữa các
nhóm. Các mối liên hệ chung rất quan
trọng đối với việc xây dựng mục đích và
mục tiêu phát triển và quản lý và cung cấp
cơ sở cho việc xác định các hoạt động theo
dõi cần thiết.
• Các lời bình luận cần được xem xét,
thảo luận và đưa vào văn kiện cuối cùng
được tất cả các bên liên quan thông qua để
có thể tìm ra phương hướng chung trong
phát triển du lịch. Một tuyên bố chúnh sách
sẽ là chìa khóa mở ra các quyết định trong
tương lai. Các định nghĩa hiện có về du
lịch và các tài liệu chính sách như Hiến
chương Du lịch Văn hóa của ICOMOS
(xem Phụ lục 2) có thể định hướng cho việc
hoạch định những chính sách dành cho khu
di sản.
• Một ban tư vấn du lịch dành cho những
người có lợi ích gồm các nhóm lợi ích khác
nhau, các quan chức phụ trách du lịch,
chính quyền địa phương, dân chúng sở tại,
các nhà quản lý khu di sản và những người
khác có thể là cơ chế trao đổi ý kiến quan
trọng. Nhóm này cần gặp gỡ thường xuyên
để thảo luận mục đích của chương trình du
lịch ở khu di sản và nên quản lý nó thế nào.
Qúa trình này cần đi tới đồng thuận về một
chính sách hay tuyên bố tầm nhìn. Những
câu hỏi cần giải đáp là:
- Khu di sản có cung cấp các cơ hội du lịch
mà du khách đòi hỏi hay không?
- Giá thành của việc này có hợp lý không
nếu tính đến yêu cầu của khu di sản và
những người có lợi ích khác?
- Có sự khác biệt nào giữa các nhóm có lợi
ích có thể ngăn cản quá trình thực hiện dự
án hay không?
• Quá trình ROS cần được sử dụng để lên
sơ đồ các khu vực thích hợp nhất cho các
hoạt động ở các khu di sản thiên nhiên lớn,
hoặc khu hỗn hợp thiên nhiên và văn hóa
để thảo luận với ban tư vấn. Bản đồ sử
dụng đất hiện có và các thông tin về bản
kiểm kê lần cuối sẽ cung cấp những điều
cần thiết cho bước đi ban đầu.
• Phân tích những lợi thế tương đối của
khu di sản so với các khu lân cận sẽ giúp
định hướng cho các mục đích và mục tiêu
phát triển du lịch. Chúng cần phản ánh
những phẩm chất làm cho khu di sản có
khả năng cạnh tranh trên thị trường và đáp
ứng các mục tiêu kinh tế xã hội. Phân loại
theo ROS cần phản ánh những lợi thế
tương đối này. Chẳng hạn, khu di sản có
thể có nhiều bãi tắm riêng biệt hơn khu bên
cạnh, tạo cho nó lợi thế tương đối rõ ràng.
Mục tiêu quản lý có thể là chỉ xây dựng
một số cơ sở hạ tầng nhỏ, hạn chế du lịch ở
mức thấp, có thể bằng cách tăng giá vé vào
cửa đối với những người được đặc quyền
sử dụng những khu vực còn tương đối
hoang sơ.
Gợi ý các hoạt động
1. Phân tích chính sách và các mục tiêu
quản lý hiện hành.
• xem xét lại luật lệ và chính sách, kể cả ở
cấp quốc gia liên quan đến quản lý du
khách.
• xem lại kế hoạch quản lý khu di sản và
phân tích các mục tiêu quản lý du khách
trước đây.
• điểm lại kinh nghiệm du lịch của khu
cho tới lúc này, trong đó nêu rõ ai phụ
trách lĩnh vực nào và họ đã làm gì, những
điểm mạnh cũng như điểm yếu trong
những nỗ lực này.
• xác định các lỗ hổng, ví dụ chính sách
và mục tiêu nào cần tăng cường và nêu rõ
những yêu cầu trong tương lai với những
gợi ý sơ bộ về các hành động cần thực hiện
để đáp ứng những yêu cầu này.
2. Thu thập dữ liệu về du khách
• xác định xem du khách tới khu di sản là
người bản địa hay nước ngoài.
69
5
Xác định mục đích chính sách và mục tiêu quản lý
5
• xác định các nhóm khác nhau sử dụng
khu di sản như thế nào. Chẳng hạn, người
bản địa có thể thích tắm suối, trong khi
khách nước ngoài lại cũng đến khu di sản
đó để xem các loài chim nổi tiếng.
• thu thập các số liệu thống kê hiện hữu
về cách sử dụng, xu hướng cũng như cách
thức và các hoạt động du lịch.
• xây dựng và tiến hành thăm dò khảo sát
về du khách bằng cách hỏi xem họ có
những nhận thức gì, sở thích ra sao và so
sánh khu này với các khu gần đó; xác định
những vấn đề của du khách đặt ra hoặc các
khu vực thuộc dạng quan tâm đặc biệt và
đưa thêm chúng vào bản đồ.
• hỏi các hãng tổ chức tour về nhu cầu
cùng sở thích du lịch và để họ so sánh khu
này với các khu lân cận.
3. Gặp các nhóm lợi ích, hoặc thông qua
phỏng vấn hoặc tổ chức lớp tập huấn và dự
thảo tài liệu về các vấn đề cần xử lý. Tham
khảo ý kiến:
• lãnh đạo cộng đồng để lấy ý kiến cho
việc lên kế hoạch, phát triển du lịch trong
các cộng đồng lân cận và các loại kỹ năng
hiện có trong cộng đồng.
• nhân viên quản lý và hành chính để xác
định những mối quan tâm và định hướng
của họ.
• hướng dẫn viên du lịch người địa
phương để biết quan điểm của họ về các
điều kiện xã hội và môi trường ở khu di
sản
• các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu
để hiểu rõ hơn về các điều kiện môi
trường, xã hội của khu di sản liên quan đến
tác động của du khách.
• giới chủ và quản lý khách sạn để biết
quan điểm của họ về các vấn đề quản lý,
chẳng hạn hệ thống đặt chỗ trước và thông
tin liên lạc giữa khu di sản và các khách
sạn, các hãng tổ chức tour du lịch để xác
định nhu cầu và sở thích của du khách.
4. Thành lập một nhóm tư vấn du lịch
• đề nghị mỗi nhóm lợi ích cử đại diện
vào nhóm tư vấn và sắp xếp một hệ thống
trao đổi thông tin thực tế.
• cung cấp cho các thành viên bản dự thảo
về các vấn đề cần xử lý và các mối quan
tâm và tìm kiếm đồng thuận của họ với văn
bản đó.
• phác họa trách nhiệm của các đại diện
trong nhóm tư vấn du lịch.
5. Soạn thảo chính sách du lịch
• phối hợp với nhóm tư vấn để xây dựng
chính sách quản lý du khách; đặt cơ sở các
cuộc thảo luận dựa trên những yêu cầu về
chính sách của khu di sản, những thông số
về quản lý, các mối quan tâm của những
người có lợi ích, lợi thế tương đối của khu
di sản và những luật lệ và công ước quốc tế
hiện hành.
• biểu lộ sự đồng thuận về các loại hình
và lượng du khách mong muốn.
• đưa ra tuyên bố chính sách/tầm nhìn đã
được công khai thông qua.
6. Phát triển các mục tiêu quản lý
• cùng nhóm tư vấn du lịch xem xét tuyên
bố tầm nhìn, các mối quan tâm của những
người có lợi ích và các vấn đề ưu tiên trong
quản lý.
• nếu thích hợp, và nếu thấy khu di sản có
lợi thế tương đối thì sử dụng sơ đồ của các
chương trình trước để xác định và vẽ lại sơ
đồ về các loại cơ hội theo hệ thống ROS.
• nếu ROS được sử dụng thì đi tới đồng
thuận về các mục tiêu quản lý hoặc cho toàn
bộ khu di sản hoặc cho mỗi loại cơ hội; triển
khai kế hoạch phát triển hạ tầng cơ sở phù
hợp với các hoạt động ở khu di sản.
Sách cần tham khảo
• Simon Arthur và Michael C. Hall. “Lên
kế hoạch chiến lược cho Quản lý Du khách
tại khu di sản, hội nhập người dân và các
địa danh thông qua việc tham gia” trong
Quản lý DSTG ở Niu Di-lơn và Ô-xtrâylia, Quản lý Du khách, Giới thiệu và Tiếp
thị do Michael Hall biên soạn; ĐH Oxford
Press, 1993.
• Roger N. Clark và George H. Stankey.
Hệ thống chuỗi cơ hội giải trí: Bộ khung
chung cho việc lên kế hoạch, quản lý và
nghiên cứu. Bộ Dịch vụ Nông lâm của
Mỹ; Trạm thí nghiệm Lâm nghiệp Đông
bắc TBD, Báo cáo kỹ thuật: PNW-98,
10/1979.
70
Xác định mục đích chính sách và mục tiêu quản lý
5
• Donald Garfield (biên soạn). Du lịch tại
các Khu di sản Văn hóa Thế giới: Sách
hướng dẫn các nhà quản lý khu di sản (tái
bản lần thứ 2). UBQT của ICOMOS về Du
lịch Văn hóa; Washington, DC, 1993.
• Tazim B. Jamal và Donald Getz. Viễn
cảnh phát triển du lịch bền vững: Sự hợp
tác dựa trên cộng đồng” trong cuốn Quản
lý chất lượng trong du lịch đô thị do Peter
Murphy biên soạn, NXB John Weley& Các
con, 1997.
• Vạch kế hoạch Dự án định hướng theo
mục tiêu (ZOPP). Deutsche Gesellschaft
fur Techmische Zusammarbeit
(GTZ)
GmbH, Unite 04, Phát triển Chiến lược
quyền tự trị, Đức (bằng tiếng Anh, Pháp,
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha), Eschborn,
Germany 1988.
• Wilson Merrill Ann. “Các vấn đề triết
học của Ổn định các phế tích. “Viễn cảnh
quốc tế về Công viên Văn hóa: Kỷ yếu hội
nghị lần thứ nhất, Vườn Quốc gia Mesa
Verde, Colorado, USA.
71
72
Năng lực thực hiện và các vấn đề
hoạch định kế hoạch liên quan
73
Năng lực thực hiện và các vấn đề hoạch định kế hoạch liên quan
6
Hiểu vấn đề năng lực thực hiện là điều
rất cần thiết đối với việc lập kế hoạch và
ra quyết định. Hiểu được giới hạn của
khái niệm này và có kiến thức về các
phương pháp luận thay thế cho nó cũng
là điều quan trọng không chỉ đối với việc
thực hiện các kế hoạch quản lý thực tế,
mà còn đối với việc đánh giá các dự án
được đề nghị. Các phương pháp luận
này tạo ra các chỉ báo và tiêu chuẩn tác
động gắn với các mục đích chính sách và
mục tiêu quản lý khu di sản. Chúng rất
quan trọng đối với việc xác định khi nào
những thay đổi không mong muốn đang
diễn ra tại một khu di sản.
6.1. Các vấn đề tổng quát về năng lực
thực hiện
6.1.1. Khái niệm năng lực thực hiện đề
cập đến vấn đề là liệu bao nhiêu người
có thể được phép vào khu di sản mà
không đưa tới nguy cơ làm nó xuống cấp
và làm giảm chất lượng những trải
nghiệm của du khách. Thông thường nó
được chia làm ba loại là vật chất, môi
trường và xã hội.
• Năng lực vật chất, mà Tổ chức du lịch
thế giới gọi là “năng lực thực hiện thông
qua các phương tiện” chủ yếu liên quan
đến số giường có thể cung cấp cho khách
nghỉ qua đêm, chỗ đỗ xe có thể chứa được
bao nhiêu xe, bao nhiêu người có thể tá túc
trong khu cắm trại, số ghế trong nhà hát,
….vv. Đi đôi với những quan tâm trên là
vấn đề cung cấp nước sạch và điện.
• Năng lực môi trường là mức độ mà một
hệ sinh thái có thể cho phép sự can thiệp
của con người, trong khi vẫn duy trì hoạt
động một cách bền vững. Như đã lưu ý
trong chương 3, việc dự báo năng lực môi
trường là rất khó vì mối quan hệ theo
đường vòng cung giữa mức độ sử dụng và
các tác động tại một khu di sản, và những
biến động lớn trong khả năng đề kháng và
phục hồi của hệ sinh thái.
• Năng lực xã hội mang tính tâm lý và
văn hóa-xã hội, đề cập tới những giới hạn
mà nếu vượt quá giới hạn đó thì lượng
người trong một khoảng không gian xác
định có thể gây ra sự suy giảm chất lượng
trong việc giải trí và sự thỏa mãn của người
sử dụng. Quá đông người là một ví dụ điển
hình về vấn đề năng lực văn hóa-xã hội.
Yếu tố này cũng rất khó đánh giá vì các
nhóm khác nhau có những mong đợi xã hội
khác nhau, và vì những vấn đề phức tạp
liên quan đến sức đề kháng và phục hồi
văn hóa.
6.1.2. Khái niệm năng lực thực hiện đã
phát triển đầy đủ thông qua sự hiểu biết
tốt hơn về mối quan hệ giữa lượng du
khách và những tác động mà họ gây ra.
Trong những năm 1960 và 1970, người ta
chủ yếu quan tâm đến việc phát triển một
hệ thống giới hạn lượng du khách ra vào
các vườn quốc gia, các di tích và các khu
vực được bảo vệ như là một cách bảo vệ
các nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn
hóa. Việc này nhằm quyết định thời điểm
mà tại đó các tác động nghịch có thể bắt
đầu. Kinh nghiệm cho thấy sự tính toán
đơn giản như vậy là không khả thi. Có
nhiều yếu tố liên quan đến nó như:
Sự bắt đầu xuống cấp mạnh mẽ của môi
trường hay các tác động xã hội tiêu cực
sớm muộn cũng sẽ xuất hiện, tùy thuộc vào
những biến đổi trong lối ứng xử của du
khách, hoặc sức đề kháng và hồi phục của
một hệ sinh thái nào đó. Một du khách
thiếu ý thức có thể gây thiệt hại lớn gấp 50
lần một du khách có ý thức. Một số khu
vực như vùng đồng cỏ chẳng hạn có thể ít
khả năng chịu đựng được tần suất sử dụng
hơn những khu vực có khả năng hồi phục
tốt; chỉ một số du khách trong một cộng
đồng là có thể chịu trách nhiệm về việc xả
phần lớn rác thải; một số cộng đồng có thể
chấp nhận những nhóm du khách lớn hơn
trong khi số khác lại loại bỏ, v.v Với một
số người, chỉ cần một du khách tới thăm
khu khảo cổ đã là quá nhiều; với những
người khác, hàng trăm du khách cũng
chẳng phương hại gì tới chất lượng của
những trải nghiệm trong khu vực.
Đặt chỉ tiêu năng lực thực hiện cụ thể có
thể tạo cảm giác giả tạo rằng khu di sản đã
được bảo vệ, trong khi thực tế lại không
phải như vậy. Lượng du khách tới thăm
một phế tích có thể giới hạn ở mức 100
người một lúc, nhưng ở một góc khuất nào
đó, một vài du khách có thể đang tự tiện
74
Năng lực thực hiện và các vấn đề hoạch định kế hoạch liên quan
lấy những đồ lưu niệm vô giá. Khả năng
tiếp nhận của một tuyến đường tự nhiên có
thể được đặt mức là 100, nhưng điều đó
không ngăn được một vài du khách làm
kinh động các loài chim đang làm tổ khi họ
tới gần chúng để chụp ảnh.
Mọi hoạt động đều gây ra những tác động
đối với môi trường và xã hội. Các nhà quản
lý khu di sản phải đặt ra các mục tiêu được
xác định rõ về những điều kiện mong
muốn dùng làm đường biên giới hạn cho
việc quyết định mức độ tác động có thể
chấp nhận. Chẳng hạn, các nhà quản lý cần
biết lượng rác thải dọc tuyến đường là bao
nhiêu trước khi phát động chiến dịch tuyên
truyền yêu cầu du khách không xả rác, để
có thể tính toán liệu những nỗ lực đó có thể
thành công hay không. Khi du khách tới
thăm một khu di sản thiên nhiên mà không
muốn bị ảnh hưởng bởi các du khách khác,
các nhà quản lý có thể đặt con số giới hạn
về lượng người mà được xem là không
thoả đáng.
Rõ ràng là không hề có con số thần kỳ.
Những mô hình quản lý du khách hiện nay
bao gồm việc đặt ra các mục đích và mục
tiêu, xây dựng các chỉ số và theo dõi kết
quả.
6.1.3. Lên kế hoạch quản lý du khách
cần dựa trên ý tưởng những giới hạn đối
với những thay đổi có thể chấp nhận
được. Các phương pháp luận mới về việc
hoạch định kế hoạch cho rằng mọi hoạt
động đều gây ra những tác động nhất định
và các điều kiện mong muốn cần được coi
là đường biên giới hạn cho việc lên kế
hoạch. Các nhà quản lý không chỉ cần biết
có bao nhiêu du khách trong một khu vực,
mà còn phải biết những người này ảnh
hưởng thế nào tới nguồn tài nguyên thiên
nhiên và văn hóa của khu vực ấy. Các mô
hình mới đặt giới hạn đối với các tác động
thay vì giới hạn lượng du khách. Đây là
vấn đề theo dõi các chỉ báo sinh thái và xã
hội qua các chuyến nghiên cứu thực địa và
khảo sát người sử dụng.
6.1.4. Phương pháp luận “Giới hạn
những thay đổi có thể chấp nhận” (LAC)
đặt ra các tiêu chuẩn và theo dõi các chỉ
báo về quản lý và các mối quan tâm của
những người có lợi ích. Khi các tiêu
chuẩn có thể lượng hoá không được đáp
ứng, các tác động sẽ trở nên tiêu cực đến
mức ban quản lý phải sẵn sàng có những
hành động như giảm bớt lượng người ra
vào khu di sản và hạn chế các hành vi ứng
xử của du khách để tránh việc các nguồn
tài nguyên tiếp tục xuống cấp, cho dù
những hành động đó có thể không được
lòng mọi người. Ý tưởng này cho rằng các
điều kiện môi trường và xã hội, ô nhiễm
nguồn nước và không khí, rác thải, lượng
người quá tải, v.v. đều có những tiêu chuẩn
có thể định lượng dựa trên những điều kiện
mà mọi người mong đợi. Khi các điều kiện
này đã gần tới “giới hạn những thay đổi có
thể chấp nhận”, các nhà quản lý phải có
những hành động cụ thể nhằm giảm bớt
các tác động. Các chương trình LAC có thể
định ra giới hạn lượng du khách, ví dụ 100
người vào một khu di sản văn hóa cùng
một lần, nhưng một tiến trình tổng thể cho
ta hệ thống bảo vệ các nguồn tài nguyên
một cách toàn diện và có hiệu quả hơn.
Song làm thế nào xác định được loại thay
đổi nào và đến mức nào là “có thể chấp
nhận” và định ra được chỉ báo hoặc tiêu
chuẩn giới hạn đối với những thay đổi có
thể làm suy giảm những điều kiện đã được
thỏa thuận vẫn là một thách thức.
Các tiêu chuẩn LAC được thiết lập trên cơ
sở nhu cầu của những người có lợi ích và
ban quản lý và tuân thủ những hướng dẫn
pháp lý và của Công ước. Ví dụ, những
người có lợi ích có thể chỉ tập trung quan
tâm tới việc muốn giới hạn những tác động
nào đó bằng cách duy trì một môi trường
sạch, an toàn, không đông đúc trong một
khu vực nhất định của khu di sản thiên
nhiên. Trong trường hợp này, các chỉ báo
đáng tin cậy có thể bao gồm lượng người
cùng lúc có mặt trên tuyến đường của khu
di sản vào cùng một thời điểm, những khu
vực nguy hiểm trên tuyến đường, hoặc
lượng rác thải.
Mục tiêu quản lý cần đưa tới các tiêu chuẩn
về các tác động có thể đo lường được, phản
ánh những điều kiện mong đợi. Chẳng hạn,
một chỉ báo về khu di sản có thể là số
lượng các khu vực không ổn định trên một
75
6
Năng lực thực hiện và các vấn đề hoạch định kế hoạch liên quan
6
tuyến đường dành cho khách du lịch.
Trong trường hợp này, người quản lý khu
di sản cần xác định thế nào là khu vực
không ổn định và có bao nhiêu khu vực
như thế dọc theo tuyến đường. Với thông
tin này, nhà quản lý sau khi tham khảo ban
tư vấn, có thể đặt tiêu chuẩn bảo đảm cho
khu vực an toàn đối với du khách. Nếu
lượng người quá đông là vấn đề cần quan
tâm, du khách có thể thường xuyên được
yêu cầu thông báo số du khách cùng có mặt
trên tuyến đường, cung cấp những dữ liệu
có thể được dùng làm chỉ báo. Các chỉ báo
khác có thể thuộc lĩnh vực kinh tế hoặc xã
hội, chẳng hạn đối chiếu số tiền thu được
của khu di sản và sự đáp ứng của cộng
động địa phương đối với du khách.
Trong khi LAC là phương pháp luận đầu
tiên trong các phương pháp luận quản lý du
khách mới, toàn bộ các phương pháp luận
vạch kế hoạch khác mới hơn như Quá trình
trải nghiệm của du khách và Bảo vệ nguồn
lợi (VERT) có thể được áp dụng cho cả khu
di sản thiên nhiên và văn hóa theo những
bước cơ bản sau đây:
1. Xác định mục đích và mục tiêu dựa trên
các mối quan tâm của ban quản lý và
những người có lợi ích, và làm thế nào để
thực hiện chúng.
2. Xây dựng một hệ các chỉ báo hoạt động
dựa trên những mục đích và mục tiêu đó.
3. Theo dõi để đánh giá liệu những tiêu
chuẩn này có được đáp ứng hay không.
4. Quyết định các hành động nhằm giảm
nhẹ vấn đề rắc rối nếu các điều kiện trên
không được đáp ứng.
6.1.5. Các chỉ báo về tác động của du
lịch cần phản ánh các mối quan tâm của
những người có lợi ích, tuyên bố về chính
sách hoặc tầm nhìn, các mục tiêu quản lý
và nhu cầu của những người có lợi ích
đang sử dụng những thông tin này.
Những yếu tố này, kết hợp với kinh
nghiệm thực địa, phải được thông báo cho
các cuộc họp của ban tư vấn nhằm lựa
chọn các chỉ báo để theo dõi những thay
đổi trong điều kiện môi sinh, vật chất và xã
hội. Điều thiết yếu là phải thông báo cho
những người ra quyết định về việc những
thông tin này cần được phổ biến như thế
nào. Nhìn chung, không nhất thiết phải
theo dõi tất cả các chỉ báo vì một số chỉ
báo này trùng khớp với các chỉ báo khác,
và một số khác có thể là chỉ vì nếu theo dõi
sẽ quá tốn kém hoặc không thực tế. Đồng
thời, các chỉ báo cũng không nên được coi
là cách đánh giá đầy đủ một tác động hoặc
một vấn đề nào đó, mà chỉ là một cố gắng
nhằm mô tả nó mà thôi. Không phải tất cả
các khu vực có vấn đề và các mối quan tâm
đều chịu sự theo dõi thông qua các chỉ báo.
Thỏa thuận về các chỉ báo là phần quan
trọng nhất trong việc theo dõi và đánh giá.
Kinh nghiệm cho thấy các cuộc bàn luận
sôi nổi và cùng nhau đưa ý kiến thảo luận
là hữu ích đối với việc xác định và thỏa
thuận với nhau về các chỉ báo.
6.1.6. Một danh mục về hoàn cảnh hiện
hữu sẽ cung cấp các dữ liệu cơ bản cần
thiết cho việc xây dựng các chỉ báo. Các
thông tin trong bản tóm tắt này xác định
mức độ mà hoàn cảnh hiện hữu có thể khác
biệt so với mong đợi. Thông tin về hoàn
cảnh hiện tại là cơ sở cho việc thiết lập các
tiêu chuẩn thực tế, một bước cần thiết cho
tất cả các phương pháp luận theo kiểu
LAC. Vì vậy, nếu những hành động phá
hoại trong khu di sản về nghệ thuật đá là
một chỉ báo chẳng hạn, thì việc đếm các
hình vẽ và chữ viết bậy quanh khu di sản sẽ
là cần thiết. Việc liệt kê trên cần được tiến
hành phù hợp với các thủ tục đã được ghi
thành văn bản, bảo đảm những thông lệ
theo dõi nhất quán trong một thời gian dài.
Một bảng tóm tắt như vậy sẽ giúp kiểm tra
các kỹ thuật thu thập dữ liệu cơ bản và
cung cấp những thông tin cần thiết cho tài
liệu hướng dẫn theo dõi thực hiện. Nó bao
gồm việc triển khai các khảo sát theo dõi
và các hình thức đánh giá được tiêu chuẩn
hóa, cùng những hướng dẫn cho việc ra
quyết định về các hành động thực hiện
nhằm khắc phục những hoàn cảnh không
thể chấp nhận.
Kiến nghị các tiêu chí để xây dựng chỉ
báo
• Về định lượng: Các chỉ báo có thể đánh
giá được theo số lượng.
76
Năng lực thực hiện và các vấn đề hoạch định kế hoạch liên quan
• Dễ đánh giá: Nó có thể được đánh giá
thông qua những người làm việc trên thực
địa sử dụng các thiết bị và kỹ thuật thu thập
mẫu đơn giản.
• Thích hợp với các mối quan tâm: Chỉ
báo thực sự phản ánh mối quan tâm đang
được theo dõi.
• Về mức độ quan trọng: Nó có thể phát
hiện một thay đổi nào đó của hoàn cảnh mà
có khả năng làm gián đoạn chức năng hoạt
động của một hệ sinh thái, hoặc làm suy
giảm mức độ mong đợi của du khách trong
tương lai đối với một khu di sản.
• Về tính nhạy cảm: Chỉ báo này cho phép
phát hiện dễ dàng những thay đổi về hoàn
cảnh diễn ra trong một năm.
• Đáng tin cậy lâu dài: Việc theo dõi chỉ
báo này có thể được thực hiện theo cùng
một cách trong suốt mỗi chu kỳ theo dõi.
• Đáp ứng các biện pháp quản lý: Chỉ báo
này có thể phát hiện một thay đổi nào đó
của hoàn cảnh do những biện pháp quản lý
mang lại.
• Đánh giá không tốn kém: Nó không đòi
hỏi những chi phí quá mức về trang thiết bị
hoặc sử dụng quá nhiều thời gian của nhân
viên.
6.1.7. Các tiêu chuẩn đánh giá để xây
dựng chỉ báo cung cấp các chỉ tiêu cho
việc đánh giá tác động của du lịch nhằm
giữ chúng trong giới hạn có thể chấp
nhận. Việc mô tả bằng văn bản các hoàn
cảnh mong đợi trong các mục tiêu quản lý
khu di sản có thể định hướng cho việc đặt
ra các tiêu chuẩn có thể lượng hoá. Chẳng
hạn, một tuyến đường được quản lý nhằm
cung cấp nhiều trải nghiệm mang tính tự
nhiên hơn có thể được duy trì với bề rộng
khoảng hai mét, trong khi một tuyến đường
trong một khu du lịch khác phải chứa đủ
chỗ cho nhóm du khách lớn hơn thì cần bề
rộng đúng tiêu chuẩn khoáng ba mét.
Một số ví dụ về việc theo dõi các chỉ báo
• Sự xuống cấp của các di tích.
• Thực trạng hệ thực vật.
• Số lượng du khách đi theo nhóm trong
một ngày và quy mô của nhóm du khách.
• Các dấu hiệu ô nhiễm do con người gây
ra, rác thải, đồ ăn thừa trên dòng suối.
• Những lời phàn nàn của du khách về
các điều kiện của khu vực.
• Số lượng các vụ xáo trộn tại một khu
khảo cổ.
• Tình trạng xói mòn.
• Tình trạng làm kinh động động vật
hoang dã.
• Chữ viết hoặc vẽ bậy cùng các hành
động phá hoại khác.
• Những phàn nàn của thành viên cộng
đồng về những giá trị của cộng đồng đang
bị xuống cấp.
• Số lượng các báo cáo về tội phạm gia
tăng.
Các tiêu chuẩn thường được đặt ra nhằm
ngăn chặn sự xuống cấp của hoàn cảnh
hiện tại. Tiêu chuẩn về việc duy trì cộng
đồng một loài chim nào đó hoặc chất lượng
nước là một ví dụ. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp, ngay cả khi các nhà quản lý
không mong muốn là chúng xuống cấp, thì
họ vẫn có thể đặt ra các tiêu chuẩn cho
phép sự xuống cấp của hoàn cảnh hiện tại
nếu họ tin rằng việc này còn ít tệ hại hơn là
việc hạn chế ra vào, hoặc áp đặt những quy
định không được đồng ý rộng rãi chẳng
hạn. Các cuộc họp của ban tư vấn và/hoặc
của những người có lợi ích sẽ là cần thiết
nhằm đạt được sự đồng thuận về việc đặt ra
các tiêu chuẩn này.
Ở các khu di sản thiên nhiên và văn hóa
lớn, hệ thống chuỗi cơ hội giải trí (ROS) có
thể được dùng vào việc đặt tiêu chuẩn cho
các khu vực khác nhau trong cùng một khu
di sản tùy thuộc nhu cầu của các nhóm
người sử dụng khác nhau. Kinh nghiệm
thực địa cho thấy người sử dụng có thể có
rất nhiều loại ý kiến, và kết quả là các nhà
quản lý cần xem xét định ra các tiêu chuẩn
trong một giải tần rộng hơn. Trong các khu
thiên nhiên, cần ưu tiên cho người sử dụng
với yêu cầu lớn nhất là một môi trường
không bị thay đổi.
Một khi các tiêu chuẩn đã được xác định,
bảng liệt kê sẽ quyết định mức độ mà hoàn
cảnh hiện tại được phép khác hoàn cảnh
mong đợi. Chẳng hạn, nếu số lượng đáng
kể các tuyến đường của một khu vực được
coi là lớn hơn tiêu chuẩn thỏa thuận, hoặc
nếu sự bào mòn hoặc phá hoại do con
77
6
Năng lực thực hiện và các vấn đề hoạch định kế hoạch liên quan
6
người gây ra cho một di tích vượt quá tiêu
chuẩn cho phép thì cần phải có các hành
động nhằm cải thiện tình hình. Đây là một
quá trình liên tục, trong đó các chỉ báo
được kiểm tra thường xuyên để theo dõi
các xu hướng và những thay đổi đối với
hiện trạng của khu di sản.
6.1.8. Thường có sự hiểu lầm về năng
lực thực hiện giữa các tổ chức quốc tế và
các cơ quan của chính phủ. Người ta tiếp
tục kêu gọi phải có các công trình nghiên
cứu để cung cấp cho các nhà hoạch định
chính sách một ranh giới kỹ thuật, một số
liệu hoặc một loạt số liệu cho thấy những
thay đổi tiêu cực đang diễn ra. Những
nghiên cứu như vậy sẽ tạo cảm giác giả tạo
là năng lực thực hiện có thể bị rút gọn
thành một con số cụ thể chi ra một thời
điểm rõ ràng mà ở đó những tác động tiêu
cực sẽ bắt đầu xuất hiện. Chẳng hạn, ở hồ
Baikal của Nga, các nhà tư vấn được yêu
cầu xác định lượng du khách mà một héc ta
đất xung quanh hồ có thể chịu được. Các
số liệu chủ yếu được rút từ những công
thức bao hàm tác động và độ dốc của địa
hình. Nghiên cứu này cũng đưa ra các dự
báo về các tác động văn hóa dựa trên lượng
khách so với số dân địa phương. Trong khi
phương pháp luận này dễ thực hiện trong
phạm vi thời gian của dự án, nó đã không
tính đến những biến đổi trong ứng xử của
du khách, phương thức du lịch và những
mối quan tâm khác nhau của những người
có lợi ích. Giá như có thêm các cuộc đối
thoại với các nhóm có lợi ích, thì các số
liệu trong báo cáo có lẽ đã thích hợp hơn
với công việc hàng ngày của các nhà quản
lý khu vực. Điều quan trọng hơn là các
cuộc đối thoại như vậy có thể sẽ khởi động
một quá trình nhằm xác định các mục đích
và mục tiêu du lịch giữa những người có
lợi ích trong giới hạn luật pháp về môi
trường và các khu vực được bảo vệ.
trình theo dõi và đi đến một đánh giá tương
đối về việc khi nào là tới giới hạn tối đa
cho phép. Trên thực tế, một số chiến lược
sẽ cho phép các nhà quản lý biện minh cho
các quyết định hạn chế lượng du khách. Số
liệu về lượng khách và các sở thích của họ
tạo cơ sở biện minh cho các hành động hạn
chế số người được phép vào một khu vực.
Điều này đặc biệt đúng nếu một nghiên cứu
của chuyên gia có thể làm cho cho những
người có lợi ích bị ảnh hưởng bởi quyết
định này được tỏ tường. Các khảo sát về du
khách có thể chứng minh những kết quả
tiêu cực của việc lượng người quá đông và
việc họ mong muốn những giây phút riêng
tư tĩnh lặng trong một khu khảo cổ hoặc
khu thờ cúng linh thiêng. Các nhân viên
thực hiện việc tích cực bảo vệ di sản trong
mối liên quan đến số lượng khách du lịch
cũng có thể được sử dụng để biện minh cho
những hạn chế trên. Chẳng hạn, lượng du
khách được phép vào thăm một khu khảo
cổ có thể là chức năng của một số nhân
viên tuần tra bảo vệ khu di sản. Có thể
quản lý được lượng người bằng cách đơn
giản là giảm bớt diện tích bãi đậu xe hoặc
các trung tâm phục vụ du khách. Tuy
nhiên, biện pháp này có thể làm giảm sự
hài lòng của du khách nếu nó làm cho du
khách bị ùn lại.
6.1.9. Các nhà quản lý có thể vẫn thấy
cần phải xác định giới hạn bằng con số
nhằm quản lý lượng người ở các khu do
họ quản lý. Lượng du khách cần được xác
định theo các tiêu chuẩn đã được thỏa
thuận. Trên thực địa, điều này không thuộc
phạm trù khoa học chính xác, mà chỉ là vấn
đề theo dõi tác động thông qua các chương
78
Năng lực thực hiện và các vấn đề hoạch định kế hoạch liên quan
6
Một trường hợp cụ thể
Một công trình nghiên cứu về việc quản lý du khách đã được tiến hành ở di chỉ khảo
cổ Petra của Jordan, sử dụng phương pháp VERP. VERP, do Sở Công viên quốc
gia Mỹ xây dựng, là một hệ thống kiểu LAC nhưng không nhất thiết đặt ra số lượng
du khách cụ thể chừng nào vẫn có thể lượng tính và duy trì được nguồn lực và các
điều kiện xã hội. Nhằm mục đích đó, một chương trình theo dõi sẽ quyết định liệu
các điều kiện mong đợi có được đáp ứng hay không. Bảng sau đây đưa ra một số
chỉ báo, tiêu chuẩn và phương pháp lượng tính do nhóm nghiên cứu trên kiến nghị.
Trong bảng xắp xếp này, một số tiêu chuẩn đã được thay thế bằng những hành động
có thể đã được thực hiện khi xác định được một tác động nào đó.
Chỉ báo
Tiêu chuẩn
Phương pháp lượng tính
Mất các di vật
trên mặt đất
0: Không cho phép
Kiểm tra ở nhiều ô 2X2m
được vạch ra trên những
khu vực được chọn.
Sự bào mòn chủ ý
ở các di chỉ khảo cổ.
0: Không cho phép
Các kỹ thuật giám sát
từ trên không
Trộm cắp tại các
di chỉ khảo cổ
0: Không cho phép
Các kỹ thuật giám sát từ
trên không được sử dụng
để phát hiện các hoạt động
khai quật không được phép
Bị gai mắt do có
thêm những yếu tố
hiện đại hoặc
không thích hợp
với cảnh quan
Đã có hành động đưa
bất kỳ yếu tố
không thích hợp nào
vào cảnh quan
Các kỹ thuật giám sát từ
trên không
Lượng người ra vào
từng tháng, ngày và
từng giờ
Có các biện pháp quản lý Bán vé ra vào khu vực
nếu lượng khách vượt quá
10% tiêu chuẩn
Số lượng các chữ,
hình vẽ bậy
Tổn hại do các hành động
phá hoại gây ra buộc
phải có các hành động
quản lý sớm
Kiểm tra ở những khu vực
nhạy cảm, theo từng ô 2X2
mét trên bề mặt của đền
đài/bia mộ.
Mức độ thỏa mãn
của du khách
Suy giảm trong chỉ số
đã được xác lập
buộc phải có hành động
quản lý
Khảo sát du khách và người
địa phương
79
Năng lực thực hiện và các vấn đề hoạch định kế hoạch liên quan
6
6.2.
Theo dõi các vấn đề
6.2.1. Việc chuyển sang phương pháp
kiểu LAC đã làm sáng tỏ tầm quan trọng
của việc theo dõi. Các nhà quản lý cần biết
khi nào thì các điều kiện mong muốn bị đe
dọa. Ví dụ, khi ô nhiễm nguồn nước sông
suối ngày càng tăng, hoặc dòng người xếp
hàng đợi trước cổng vào quá dài. Một
chương trình theo dõi thường xuyên được
xây dựng tốt có thể cung cấp cho các nhà
quản lý khu di sản các dữ liệu biện minh
cho việc đôi khi phải sử dụng các hành
động gây tranh cãi như hạn chế lượng
người có mặt cùng một lúc ở một khu vực.
Theo dõi những sở thích, những cái không
thích của du khách và cách thức du lịch
của họ cũng như tác động của chúng có thể
giúp xác định và biện minh cho các hành
động cần thiết trong ngành công nghiệp du
lịch đang có nhiều thay đổi.
6.2.2. Cái khó nhất trong việc theo dõi là
bảo đảm thực hiện được thường xuyên.
Các nhà quản lý hàng ngày phải đối mặt
với nhiều vấn đề cấp bách, nên thường có
ít thời gian hoặc ít mong muốn thực hiện
việc theo dõi. Tuy nhiên, theo dõi chỉ có
hiệu quả khi nó được tiến hành thường
xuyên; nếu không được tiến hành liên tục,
tính hữu ích cũng như tác động của nó
trong việc góp phần xác định và biện minh
cho các hành động cần thiết trong ngành
công nghiệp du lịch đang thay đổi sẽ vô
cùng hạn chế.
6.2.3. Có thể có rất nhiều cách thức theo
dõi tùy thuộc vào mức độ chính xác cần
đòi hỏi và nguồn lực sẵn có. Chẳng hạn,
độ xói mòn đất ở một tuyến đường tự
nhiên có thể được xác định bằng nhiều
cách. Một biện pháp là xác định các khu
vực bị xói mòn bằng cách đi trên đường và
đếm những biến đổi về độ rộng hẹp của
con đường mà rất có thể do các du khách
gây ra trong khi tìm cách tránh những chỗ
lầy lội; hoặc thiết lập những điểm kiểm tra
thường xuyên ở khu vực có vấn đề dọc
theo tuyến đường để lượng tính số đất bị
sạt lở. Mỗi phương pháp đều có cái lợi và
cái bất lợi riêng. Kiểm tra điều kiện của
tuyến đường theo cách thông thường
không thể đánh giá được chính xác, nhưng
cho ta một cái nhìn bao quát. Mặt khác, tuy
những điểm theo dõi thường xuyên sẽ cung
cấp được một cách lượng tính chính xác
hơn về độ sạt lở của đất nhưng phương
pháp này tốn kém tiền bạc và thời gian
hơn.
Sự khác nhau trong cách tiếp cận cũng có
thể được minh họa bằng việc đếm số lượng
chim. Đây là phương pháp không mấy tốn
kém ghi lại một cách có hệ thống số lượng
các bầy chim mà các hướng dẫn viên
người địa phương theo dõi được. Một
phương pháp chính xác hơn, nhưng cũng
tốn kém hơn là theo dõi sự biến động của
đàn chim bao gồm việc dùng lưới bắt một
số loài chim đang làm tổ, hoặc tạo ra một
đường cắt ngang hoặc một hành lang cố
định dọc theo đó các loài chim sẽ được
đếm một cách thường xuyên.
Việc theo dõi các điều kiện kinh tế-xã hội,
như lượng người quá đông hoặc thái độ
của cộng đồng, thường có ít cách lựa chọn
hơn. Phần lớn các thông tin được thu thập
qua các phiếu thăm dò hoặc phỏng vấn và
đây là một việc thường tốn sức lực và thời
gian. Chẳng hạn, việc thăm dò thái độ của
cộng đồng đối với du lịch cần rất nhiều
thời gian để xây dựng, thực hiện và phân
tích. Cách theo dõi phải được lựa chọn trên
cơ sở những vấn đề nào cần được trả lời,
cần bao nhiêu thời gian và ngân sách để
thực hiện việc đó. Ở dải san hô lớn của
Australia, khoảng cách xa về đi lại làm cho
việc theo dõi chi tiết từng khu dựng trại
của du khách trở nên vô cùng tốn kém. Các
nhà quản lý đã quyết định sử dụng một
chiến thuật hiệu quả hơn là lấy một nơi
tiêu biểu của khu vực cắm trại làm mẫu.
Cuối cùng, tất cả các chương trình theo dõi
cần được đánh giá để xác định xem chúng
đã lượng tính các chỉ báo tốt đến mức nào.
Việc đánh giá cũng phải xác định được sự
thay đổi đã được tính toán cần được mở
rộng đến mức nào để giới quản lý tin tưởng
rằng đây là do tác động của du khách, chứ
không phải sai sót trong việc thu thập dữ
liệu.
6.2.4. Việc theo dõi các di tích lịch sử
phải tính đến các giá trị của tính nguyên
80
Năng lực thực hiện và các vấn đề hoạch định kế hoạch liên quan
vẹn và nguyên bản của di tích. Các chỉ
báo về điều kiện cấu trúc hoặc thiết kế kỹ
thuật không thể cho ta một cái nhìn bao
quát về toàn bộ thực trạng của di tích, vì
chúng không phản ánh các giá trị của tính
nguyên vẹn và nguyên bản. Trong khi theo
dõi việc sử dụng một tiện nghi nào đó hoặc
mức độ hài lòng của khách là điều quan
trọng thì các chuyên gia cho rằng cần có
nhiều hơn các hoạt động theo dõi nhằm
lượng định tính hiệu quả của việc tuyên
truyền về ý nghĩa lịch sử của khu di tích.
Ban quản lý các di tích lịch sử quốc gia
của Canada đã đề ra một chính sách bảo vệ
“tính nguyên vẹn để tưởng niệm”, đó là
việc bảo tồn khi những gì biểu trưng hoặc
tiêu biểu cho tầm quan trọng của di tích
không bị xâm hại hoặc bị đe dọa; khi mà lý
lẽ về ý nghĩa lịch sử quốc gia của di tích đã
được thông đạt có hiệu quả tới công chúng;
và khi mà giá trị di sản của khu di tích,
trong đó có những giá trị không liên quan
tới ý nghĩa quốc gia, được tôn trọng trong
các quyết định và các hành động có thể
ảnh hưởng tới di tích. Để thực hiện chính
sách này, các nhà hoạch định chính sách
giải thích rõ tại sao khu di tích lại có ý
nghĩa quan trọng trong nước trước khi
quyết định mục tiêu và tiêu chuẩn của mục
đích theo dõi. Đưa ra một tuyên bố về
những kết quả mong đợi và danh sách
những người có trách nhiệm thực hiện
cũng là một phần của quá trình này.
Trích từ một Tài liệu hướng dẫn theo dõi
Những cách theo dõi sau đây trích từ tài
liệu hướng dẫn quản lý tuyến đường tự
nhiên của Ban quản lý các vườn quốc gia
của Mỹ đã chỉ rõ những loại vấn đề có thể
xuất hiện. Các chương trình tương tự cũng
có thể được ứng dụng cho các khu vực
khác. Khi nguồn tài chính dồi dào hơn, có
thể đưa ra những cách theo dõi tiên tiến
hơn sau khi đánh giá những cái thuận và
cái nghịch, kể cả chi phí đào tạo nhân viên
trong các phương pháp mới.
Đối với một tuyến đường mới mở, cần tiến
hành khảo sát thường xuyên để thăm dò ý
kiến của du khách về vấn đề đông người và
các vấn đề khác. Các câu hỏi thăm dò có
thể thay đổi tùy theo từng hoàn cảnh cụ
thể.
Chỉ dẫn chung
Đo khoảng cách từ điểm xuất phát của
đoạn đường tới một điểm cần theo dõi nào
đó. Nếu có thể, kiểm tra toàn bộ tuyến
đường hai tháng một lần. Cố gắng đánh
giá cả trước và sau mùa du lịch cao điểm.
Ghi lại những lần sửa chữa hoặc nâng cấp
cần thiết, sử dụng phần “đóng góp ý kiến”
trong phiếu thăm dò để xác định những vật
liệu cần thiết và nêu chi tiết về các khu vực
có vấn đề.
Hướng dẫn cụ thể về các chỉ báo mẫu
Quan sát thực vật hai bên tuyến đường.
Người có trách nhiệm đánh giá cần lưu ý
xem thực vật có được duy trì theo tiêu
chuẩn đã thỏa thuận không.
Ghi lại mọi tác động đối với cây cách mép
đường khoảng hai mét. Các tác động có
thể bao gồm cành cây gẫy hoặc bị chặt do
hoạt động của con người. Mô tả các tác
động này trong mục “ý kiến đóng góp”.
Các vùng đất lầy lội là những khu vực cố
định có chiều dài khoảng hai mét. Những
vũng lầy này buộc du khách phải đi tránh
sang hai bên, làm tuyến đường rộng ra và
gây sạt lở. Người có trách nhiệm theo dõi
cần đo đạc và ghi lại điểm đầu và điểm
cuối của những vũng lầy.
Ghi lại bất cứ tuyến đường “xã hội” nào,
tức là những tuyến đường phụ không có
trong kế hoạch do việc du khách đi chệch
đường chính hoặc tìm lối đi tắt. Những
tuyến đường này có thể gây xói mòn và
phá hoại thảm thực vật.
Lưu ý tới mọi vấn đề chung không nằm
trong loạt vấn đề thuộc mục “ý kiến đóng
góp”; chẳng hạn, những chỗ cần tu sửa,
các khu vực nguy hiểm và các khu vực
chim làm tổ.
Đánh dấu một điểm theo dõi thường xuyên
để xác định chỗ sạt lở. Chọn những điểm
như trạm gác và những chỗ nhạy cảm khi
81
6
6
Năng lực thực hiện và các vấn đề hoạch định kế hoạch liên quan
du khách sử dụng. Dựng một cột gỗ ở mỗi
bên của tuyến đường để tạo thành một
đường tưởng tượng băng ngang đường. Đo
khoảng cách và ghi lại những đặc điểm nổi
bật, chẳng hạn như thảm thực vật chưa bị
xáo trộn, những vùng đất trơ trụi và những
khu đọng nước. Tốt nhất là những ghi chú
này có ảnh đi kèm.
Thu thập toàn bộ các loại rác thải có thể
nhìn thấy dọc theo tuyến đường.
Ghi lại các hành động phá hoại kết cấu
của tuyến đường, biển báo hoặc các loại
đồ đạc như bàn ghế dọc hai bên đường.
Đếm số lần gặp nhau giữa các nhóm hoặc
cá nhân khác nhau ở trên đường trong
từng chuyến tham quan.
6.2.5. Các hệ thống theo dõi đơn giản
với các động lực được xây dựng bên
trong hệ thống có thể là khả thi nhất và là
cách tiếp cận tốt nhất cho một chương
trình bền vững. Trong bối cảnh có nhiều
khó khăn trong việc duy trì chương trình
theo dõi, việc xem xét những yêu cầu thực
tế của các nhà quản lý khu di sản, các quan
chức du lịch và các hãng tổ chức tour tư
nhân sẽ tăng thêm cơ hội thành công. Theo
dõi có thể được lồng ghép trong các hoạt
động duy tu bảo dưỡng, hoặc các hướng
dẫn viên địa phương có thể thực hiện chức
năng này. Các hãng tổ chức tour quan tâm
đến việc theo dõi sở thích của khách có thể
được vận động để cung cấp tài chính cho
các cuộc thăm dò khảo sát. Các quan chức
chính phủ cũng có thể muốn có các thông
tin này vì chúng có thể trực tiếp ảnh hưởng
tới các sáng kiến du lịch quốc gia.
Kinh nghiệm cho thấy một chương trình
theo dõi đơn giản còn tốt hơn là không có
gì, và có thể hiệu quả hơn những chương
trình có chi phí cao. Ví dụ, với các toà nhà
lịch sử và các khu di tích văn hóa khác,
một báo cáo đơn giản với những ghi chép
có ảnh đi kèm lại có ích hơn rất nhiều so
với những báo cáo chi tiết, theo từng đề
mục về thực trạng của khu di tích. Các báo
cáo ngắn gọn và đơn giản về những vấn đề
chung, và một số khu vực có vấn đề cụ thể
cho phép các nhân viên quyết định di sản
cần được chú ý nhiều nhất và hướng dẫn
cho các đại lý của họ.
Nhân viên khu di tích được giao một danh
sách các vấn đề cần theo dõi. Người chịu
trách nhiệm theo dõi ghi lại bất cứ thay đổi
nào đối với khu di sản từ lần kiểm tra cuối
cùng, những vấn đề liên quan đến việc duy
tu bảo dưỡng thông thường, các vấn đề có
khả năng xuất hiện và những thay đổi và
sửa chữa cần cân nhắc. Có bốn loại vấn đề
cần theo dõi là bề mặt ngoài, kết cấu bên
trong, khu vực xung quanh và những khu
đất còn lại. Cần có ảnh cũng như lưu ý
những khu vực có vấn đề cụ thể.
6.3. Gợi ý và Khuyến nghị
• Việc quyết định năng lực thực hiện
được coi là một quá trình liên tục. Các
phương pháp luận kiểu LAC vượt ra ngoài
mục tiêu hạn hẹp là chỉ giới hạn lượng du
khách tới thăm khu di sản. Phương pháp
luận này cần được sử dụng để quyết định
phạm vi và những điều kiện mà ban quản
lý có thể xem xét như là các giải pháp lựa
chọn khác nhau trong việc đề ra chính sách
dựa trên những thông tin thu được từ các
chương trình theo dõi trên.
• Các mục đích và mục tiêu quản lý nhằm
kiểm soát tác động của du lịch phải được
hỗ trợ bởi các biện pháp có thể lượng hoá
và các phương tiện khác để so sánh thực
trạng hiện thời với hoàn cảnh mong đợi.
Những việc này cần là cơ sở cho chương
trình theo dõi với những chỉ báo được xác
định rõ ràng.
• Để xác định các chỉ báo cần theo dõi,
các nhà vạch kế hoạch phải xem xét các
mối quan tâm của những người có lợi ích,
tuyên bố chính sách/tầm nhìn của khu di
sản và các mục tiêu quản lý, sau đó có các
cuộc họp với ban tư vấn để thỏa thuận về
những điều kiện môi sinh và xã hội mong
muốn. Các mục tiêu quản lý ghi thành văn
bản giúp cho việc định hướng xây dựng
các tiêu chuẩn có thể lượng tính được.
• Trong khi các nhà quản lý là người sẽ
có quyết định cuối cùng thì các tiêu chuẩn
cần được xây dựng trên cơ sở thảo luận với
82
Năng lực thực hiện và các vấn đề hoạch định kế hoạch liên quan
những người có lợi ích chủ chốt. Ở nơi nào
có điều kiện, các tiêu chuẩn này không cho
phép các điều kiện hiện tại bị xuống cấp.
Ví dụ, tiêu chuẩn về việc duy trì cộng đồng
một loài chim đặc biệt không được đặt
dưới mức hiện tại, trừ phi việc này đem lại
những lợi thế áp đảo khác. Khi điều kiện
cho phép, cần đặt ra các tiêu chuẩn phản
ánh các điều kiện lý tưởng.
• Các dữ liệu cơ bản là rất quan trọng cho
việc định ra các tiêu chuẩn thực tiễn. Một
bảng thống kê sẽ cho thấy mức độ khác
biệt giữa thực trạng và các điều kiện mong
muốn. Tiêu chuẩn phải phù hợp với mục
đích và mục tiêu và những điều kiện mà
những người có lợi ích mong muốn. Ví dụ,
nếu giáo dục địa phương là một mục tiêu
quản lý, thì có thể đặt ra một tiêu chuẩn
riêng sau khi nhân viên khu di tích xác
định số lần thăm viếng của các trường học
trong năm trước.
• Các bảng loại này cần được tiến hành
theo đúng những thủ tục đã được quy định
bằng văn bản nhằm bảo đảm việc theo dõi
liên tục trong một thời gian dài. Các thủ
tục này có thể cung cấp một khung cơ bản
cho tài liệu hướng dẫn cách thức theo dõi.
• Để bảo đảm tính bền vững của một
chương trình theo dõi, các chỉ báo cần
được lựa chọn theo các cân nhắc thực tế.
Các hướng dẫn viên du lịch địa phương có
thể có khả năng giúp việc theo dõi, các đại
lý du lịch tư nhân quan tâm đến việc theo
dõi các sở thích của khách có thể tài trợ
cho các cuộc khảo sát thăm dò. Các hãng
tổ chức tour có thể sẵn sàng tài trợ các lớp
tập huấn dành cho các nhà quản lý và đóng
góp vào các hoạt động theo dõi.
• Hiểu được nguyên nhân của những thay
đổi trong các chỉ báo có thể chỉ ra được các
giải pháp quản lý. Phân tích vấn đề bắt đầu
với quá trình theo dõi và trong suốt quá
trình đó, các giải pháp được xác định để
mang lại những điều kiện mong muốn,
hoặc thậm chí cao hơn cả các tiêu chuẩn đã
được cụ thể hóa.
Gợi ý các hoạt động
6
1. Xác định các chỉ báo
• rà soát lại bảng liệt kê các tác động và
nguyên nhân của chúng.
• lên danh sách sơ bộ về các chỉ báo du
lịch cùng lời giải thích lý do chọn những
chỉ số đó và ước tính các chi phí theo dõi
liên quan.
• chuyển các chỉ báo đã lựa chọn cho ban
tư vấn xem xét.
2. Thu thập các dữ liệu cơ bản về các chỉ
báo đã được chọn
• xây dựng chương trình theo dõi và soạn
thảo tài liệu hướng dẫn theo dõi.
• huấn luyện nhân viên khu di sản về các
phương pháp thu thập dữ liệu đã được thỏa
thuận.
• quyết định cách thức các đối tác có lợi
ích có thể tham gia trong các hoạt động
theo dõi.
3. Đặt tiêu chuẩn cho các chỉ báo
• sử dụng các dữ liệu thu thập được trong
bước 2 để xây dựng một hệ thống sơ bộ
các tiêu chuẩn của chỉ báo.
• nếu sử dụng các loại cơ hội kiểu ROS,
thì phải đặt ra các tiêu chuẩn phản ánh
những kinh nghiệm khác nhau muốn có ở
những nơi khác nhau của khu di sản.
• thảo luận với ban tư vấn du lịch về các
tiêu chuẩn đã đưa ra, đi tới đồng thuận và
xây dựng thỏa thuận cuối cùng.
Sách cần tham khảo
• Gordan Bennett, “Tính nguyên vẹn để
tưởng niệm: Theo dõi thực trạng của các
khu di tích lịch sử quốc gia của Canada”
trong Tập san ICOMOS của Canada, tập 4,
số 3, trang 6, 1995.
• H. Coccossis và A. Parpairis, “Đánh giá
tác động qua lại giữa di sản, môi trường
và du lịch” trong Phát triển du lịch vền
vững do Harry Coccossis và Peter Nijkamp
biên soạn, trang 107-125, Hants (Anh),
Avebury, 1995.
• Comer, Douglas và Lawrence Belli,
‘Năng lực thực hiện ở Petra, Gióocđan,
Khu di sản văn hóa thế giới” do Đội quản
lý của Mỹ/ICOMOS soạn thảo, Ban quản
83
6
Năng lực thực hiện và các vấn đề hoạch định kế hoạch liên quan
lý các vườn quốc gia, Vườn quốc gia
Everglades, Hội George Wright, Hancock
MI, 1997.
• Scott Cunliffe, “Theo dõi và đánh giá
như những công cụ quản lý thực tế”, Bản
tin ICOMOS Canada, tập 4, số 3, trang 29,
1995.
• Paul Eagles, Stephen F. McCool và
Christopher D. Haynes, “Du lịch bền vững
trong những khu vực được bảo vệ: Hướng
dẫn vạch kế hoạch và quản lý”. Ủy ban thế
giới về các khu vực được bảo vệ (WCPA),
Hướng dẫn những thông lệ tốt nhất đối với
các khu vực được bảo vệ, số 8, Liên minh
Bảo tồn di sản thế giới của IUCN, 2002.
• Peter Elliott, “Bảo tồn mãi mãi các
công trình kiến trúc phụ: Kinh nghiệm của
Quỹ di sản Ontario về việc theo dõi các di
sản”, Bản tin ICOMOS Canada, tập 4, số
3, trang 32-35, 1995
• A.R. Graefe, F.R. Kuss và J.J. Vaske,
“Quản lý tác động của du khách: Khuôn
khổ hoạch định kế hoạch” (tập 2), Hội Bảo
tồn các vườn quốc gia, Washington DC,
1990.
• George H. Stankey, “ROS và giới hạn
các hệ thống hoạch định thay đổi có thể
chấp nhận: Xem xét lại kinh nghiệm và bài
học” trong Quản lý hệ sinh thái: Các chiến
lược thích nghi cho các tổ chức nguồn lợi
thiên nhiên trong thế kỷ 21” do Jennifer
Aley, William Burch, Beth Conover và
Donald Field (biên soạn), NXB Taylor and
Francis, Philadelphia, 1999.
• George H. Stankey, D.N. Cole, R.C.
Lucas, M.E. Peterson và S.S. Frisell, “Hệ
thống LAC cho việc vạch kế hoạch theo dõi
động thực vật hoang dã”, Báo cáo kỹ thuật
INP-176. Ogden Utah: Ban quản lý rừng
Mỹ, Trạm thí nghiệm rừng, 1985.
• K.H. Twyford, “Đánh giá và Quản lý
các tác động trên bãi biến trong khu di sản
thế giới ở đảo Fraser, Đông Nam
Queensland của Ôxtrâylia”; Các tham
luận và kỷ yếu của Hội thảo Các nhà quản
lý các khu di sản thế giới, trang 24-28,
4/1996.
• Van Hooff Herman, “Báo cáo và theo
dõi thực trạng các tài sản trong danh sách
các khu di sản thế giới”, Tập san ICOMOS
Canada, tập 4, số 3, trang 12-14, 1995.
84
Chiến lược và giải pháp đối với
các vấn đề quản lý du lịch
85
Chiến lược và giải pháp đối với các vấn đề quản lý du lịch
7
Chừng nào khu di sản đáp ứng được
những tiêu chuẩn đã được xác lập thì
trách nhiệm của các nhà quản lý sẽ mở
rộng sang cả khâu bảo quản hàng ngày
và giám sát liên tục. Tuy nhiên, nếu các
điều kiện sinh thái, vật lý và/hoặc xã hội
đã đến mức không thể chấp nhận được
nữa, thì cần phải hành động. Kiến thức
về các chiến lược và giải pháp quản lý sẽ
trang bị cho các nhà quản lý những lựa
chọn để khôi phục các điều kiện mà họ
mong muốn. Nhận thức về những hậu
quả gắn liền với các chiến lược và hành
động này cũng giúp ích cho quá trình ra
quyết định.
7.1. Các vấn đề chung
7.1.1 Bất cứ biện pháp quản lý nào
cũng phải bắt đầu bằng việc xác định
những nguyên nhân đích thực của vấn đề
đã được xác định. Sự xuống cấp hiện
trạng của khu di sản không nhất thiết do du
lịch gây ra. San hô có thể xuống cấp một
cách tự nhiên; rác ở một khu khảo cổ có
thể do người địa phương thải ra, chứ không
phải du khách, v.v. Một khi đã xác định rõ
nguyên nhân thì có thể tiến hành các biện
pháp khắc phục. Các hoạt động tập trung
tốt vào việc xử lý nguyên nhân sẽ tiết kiệm
được thời gian và tiền của. Ví dụ, một
chiến dịch liên tục có thể duy trì được việc
khu vực không bị ảnh hưởng bởi rác thải,
nhưng nó có thể rất tốn kém và không giải
quyết nguyên nhân của vấn đề. Nếu có thể
xác định được nguồn rác thải và kết hợp
chương trình duy tu bảo dưỡng với chiến
dịch giáo dục để tác động đến lối ứng xử
của con người thì sẽ mang lại hiệu quả hơn
về mặt chi phí.
7.1.2. Các biện pháp quản lý có thể là
trực tiếp hoặc gián tiếp. Các biện pháp
quản lý trực tiếp xử lý các vấn đề về lối
ứng xử của con người thông qua những
quy định có thể bắt buộc thực thi, hạn chế
các hoạt động hoặc định mức sử dụng.
Biện pháp gián tiếp tìm cách tác động đến
lối ứng xử thông qua giáo dục, thông tin
tuyên truyền và thuyết phục. Du khách có
thể được thông báo về các tác động liên
quan đến một hoạt động nào đó, hoặc được
cung cấp những thông tin khuyến khích
việc sử dụng một số khu vực nào đó thay
cho những khu vực bị đe dọa xuống cấp.
Các biện pháp gián tiếp khác bao gồm
những thay đổi về mặt vật chất ảnh hưởng
đến hoạt động của du khách, như việc
chuyển hướng một tuyến đường sang một
khu vực khác trong rừng có khả năng hồi
phục cao hơn.
Nhìn chung, các biện pháp gián tiếp
thường thành công hơn ở những khu vực
xa xôi hẻo lánh, nơi mà sự tự do khám phá
cho du khách thường là mục đích đầu tiên.
Những cách tiếp cận trực tiếp thường được
sử dụng để cấm du khách không ra vào các
khu vực dễ bị tác động hoặc nguy hiểm,
như một khu di chỉ khảo cổ chẳng hạn, vì
họ có thể làm hỏng một bức tranh tường vô
giá. Các chuyên gia nói rằng quy định
thường thành công khi được công chúng
ủng hộ mạnh mẽ, được giải thích cặn kẽ và
khi du khách có tiếng nói trong việc nên
thực hiện những quy định này thế nào. Du
khách phải hiểu tại sao lại cần phải thay
đổi cung cách ứng xử. Tất nhiên, một khi
được ban hành, các quy định này phải luôn
được thực thi.
Trên thực tế, hai biện pháp này thường
được kết hợp sử dụng. Ví dụ, các biện
pháp trực tiếp và gián tiếp đều có thể được
dùng để giảm thiểu tác động của du khách
đối với một dải san hô. Nhân viên khu di
sản có thể xây dựng chiến dịch thông tin,
tuyên truyền rộng rãi tới công chúng với
các tài liệu in ấn, quảng bá trực tiếp và các
chương trình giáo dục trong nhà trường.
Có thể quản lý các hãng tổ chức tour bằng
giấy phép hành nghề, các quy định và các
hành động bắt buộc nhằm tập trung các
hoạt động giải trí vào những khu vực san
hô có khả năng đề kháng cao. Việc kết hợp
sử dụng cả hai biện pháp cũng được
khuyến nghị áp dụng nhằm kiểm soát các
hành động phá hoại, bao gồm cả việc sử
dụng hệ thống bảo vệ nguồn tài nguyên
cùng với tuyên truyền giáo dục, không cho
phép xe cộ ra vào khu di sản, tăng giá vé
vào cửa và bảo vệ các khu di sản bằng cách
không quảng bá cho các khu di sản đó.
7.1.3. Những yếu tố cần cân nhắc khi
lựa chọn các biện pháp quản lý bao gồm
86
Chiến lược và giải pháp đối với các vấn đề quản lý du lịch
việc tính toán liệu các biện pháp đó có
đáp ứng các mục tiêu không, khả năng
thành công và những khó khăn trong
việc thực hiện, đặc biệt là chi phí thực
hiện. Các chiến lược quản lý cần phù hợp
với các mục tiêu. Chẳng hạn, nếu mục tiêu
quản lý ở một khu vực thuộc vùng
Himalaya là bảo đảm quyền tự do khám
phá của du khách, thì cách thức quản lý
thích hợp là cần mềm mại hơn. Ở đây, các
nhân viên có thể muốn tập trung vào việc
tuyên truyền giáo dục lữ khách về cách
ứng xử ít gây tác động trong suốt chuyến
đi. Mặt khác, nếu mục tiêu của khu di sản
là bảo vệ một bức tranh khảm vô giá tại
một di tích cổ, thì một cách tiếp cận trực
tiếp hơn có thể là thích hợp, chẳng hạn
tăng cường nhân viên bảo vệ phòng ngừa
các hoạt động trộm cắp hoặc phá hoại, và
điều chỉnh hoạt động du lịch gần khu vực
có tác phẩm đó.
Các biện pháp được tiến hành phải đảm
bảo khả năng đạt kết quả mong muốn cao.
Trước khi tiến hành các biện pháp dễ gây
phản ứng, điều quan trọng là phải bảo đảm
có các quy phạm pháp luật cho phép các
nhà quản lý quyết định áp dụng các biện
pháp này, và có các hệ thống thực thi có
hiệu quả để hỗ trợ cho việc thực hiện quyết
định.
Hiểu biết về đặc điểm của du khách cũng
góp phần bảo đảm thành công. Ví dụ, một
nhóm đông du khách nước ngoài có thể có
ý thức cao về việc bảo vệ các loài động vật
bị đe dọa, nhưng lại không biết rằng họ
đang làm kinh động chúng vào thời điểm
chúng đang được cho ăn. Trong trường
hợp này, các tài liệu hướng dẫn cách quan
sát ít gây tác động có thể là phương pháp
giảm thiểu tác động tốt nhất.
Các biện pháp cũng cần tương đối dễ thực
hiện và ít tốn kém. Nói chung, các biện
pháp trực tiếp được coi là tốn kém thời
gian và tiền bạc hơn, trong khi các biện
pháp gián tiếp về hiệu quả lâu dài được
cho là ít tốn kém hơn.
7.1.4. Các chuyên gia gợi ý nên hạn chế
tới mức tối thiểu các quy định để đạt các
mục tiêu quản lý một cách hiệu quả.
Những biện pháp quản lý ít có tính bắt
buộc nhất nhưng lại hiệu quả nhất cần
được tiến hành trước. Cần theo dõi những
kết quả thu được và có thể áp dụng những
biện pháp có tính bắt buộc cao hơn nếu
cần, cho tới khi cải thiện được tình hình.
Chẳng hạn, để xử lý vấn đề thải rác bừa
bãi, có thể tiến hành một chiến dịch tuyên
truyền giáo dục, trong đó mô tả rõ vấn đề
và khuyến khích mọi người tự nguyện
chấp hành quy định chống xả rác tại khu di
sản. Nếu phương pháp tự nguyện không
đem lại kết quả thì có thể áp dụng biện
pháp phạt. Nếu việc này cũng không hiệu
quả, thì có thể đóng cửa khu vực đó.
Ở một số khu di sản, những hạn chế về
nhân lực và tài chính có thể buộc phải áp
dụng các phương pháp trực tiếp ngắn hạn.
Các chuyên gia của cả nước phát triển và
đang phát triển đều nhấn mạnh sự cần thiết
phải xây dựng chương trình tuyên truyền,
giáo dục du khách cùng các phương pháp
gián tiếp khác. Tuy nhiên, các nhà quản lý
thường chọn phương pháp trực tiếp khi
phải đối mặt với những vấn đề như khu di
sản ở gần các trung tâm dân cư đông đúc
và thiếu nguồn nhân lực và tài chính.
Trong những tình huống đó, chi phí và thời
gian thực hiện các phương pháp gián tiếp
sẽ được cân nhắc so với những vấn đề
trước mắt, như sự cần thiết phải ngăn chặn
sự xuống cấp nhanh chóng của một khu
khảo cổ do việc du khách mua các đồ vật
ăn cắp từ khu đó.
7.2. Giảm bớt lượng người vào khu vực.
Giảm các chuyến tham quan tới những khu
vực có quá nhiều người vào thăm là biện
pháp có thể biện minh được nhằm tránh
những tác động xã hội như lượng người
quá tải, nhưng đó không phải là biện pháp
lâu dài để giảm những tác động đối với
môi trường sinh thái. Việc giảm lượng
người ở một khu vực có thể giảm một cách
có hiệu quả tình trạng quá tải hoặc tắc
đường ở một di tích lịch sử chẳng hạn. Tuy
nhiên, vì tác động đối với môi trường đi
theo đường vòng cung như đã đề cập trong
chương 3, nên ở những khu thiên nhiên,
những biện pháp như vậy lại không thể
giải quyết được những vấn đề môi trường
trừ phi du khách được hướng sang các khu
vực có khả năng đề kháng cao hơn.
87
7
Chiến lược và giải pháp đối với các vấn đề quản lý du lịch
7
Khái quát về các chiến lược quản lý
Các chiến lược quản lý ảnh hưởng tới mức
độ và bản chất của việc khai thác một khu
di sản cùng môi trường vật chất và kinh tế
xã hội của nó thường tìm kiếm cách giảm
thiểu hoặc hạn chế tác động của từng du
khách. Các yếu tố, hoặc các biến số có thể
bị tác động hoặc có thể kiểm soát được
bao gồm lượng du khách, các loại hình
hoạt động, cách ứng xử của du khách và,
sức đề kháng và hồi phục về mặt vật chất
và xã hội của môi trường. Có một số chiến
lược xử lý những biến số này.
Lượng du khách có thể kiểm soát bằng
cách giảm số người được phép vào khu di
sản hoặc được phép vào một hoặc một số
khu vực của khu di sản bằng cách phân tán
họ hoặc tập trung họ vào một khu vực cụ
thể.
Có thể thay đổi hoặc tác động tới các loại
hình hoạt động của du khách bằng cách
uốn nắn cách thức hoạt động của họ, ưu
đãi những người thực hiện hoạt động cụ
thể nào đó, hoặc áp đặt những biện pháp
trực tiếp hạn chế các hoạt động.
Có thể sử dụng các cơ sở hạ tầng để thay
đổi môi trường vật chất của khu di sản
nhằm tăng cường khả năng đề kháng của
nó đối với các tác động.
Có thể tác động vào môi trường xã hội của
khu di sản bằng cách giảm bớt những xung
đột giữa du khách với nhau và giữa du
khách với cộng đồng địa phương.
Các biện pháp giảm lượng du khách đến
một khu di sản có thể bao gồm:
• Hạn chế ra vào hoặc đóng cửa khu vực
• Hạn chế lượng người trong từng nhóm
du khách
• Thực hiện hệ thống hạn ngạch hoặc cấp
phép
• Tăng giá các khoản phí; hoặc
• Không cung cấp các trang thiết bị cho
khu vực
Các biện pháp phân tán hoặc tập trung
du khách nhằm giảm bớt việc sử dụng
một khu vực nào đó có thể bao gồm:
• Hạn chế lượng người được phép vào
khu vực bị đe dọa
• Hạn chế thời gian được phép lưu lại
khu vực bị đe dọa
• Chỉ tăng giá vé vào cửa ở khu vực bị đe
doạ
• Không cung cấp các trang thiết bị cho
khu vực bị đe dọa
• Khoanh vùng cho từng loại hoạt động
và không cho phép hoạt động trong khu
vực bị đe dọa
• Điều chỉnh lượng khách tới các khu vực
có khả năng đề kháng cao hơn bằng cách
khoanh vùng, giáo dục du khách và cung
cấp nhiều hay ít trang thiết bị
• Thay đổi giá vé vào cửa theo một số
ngày nhất định trong tuần; và
• Tiến hành chiến dịch quảng bá rộng rãi
nhằm tác động đến việc sử dụng khu vực
này thay vì khu vực khác
Hành vi của du khách có thể thay đổi
bằng cách:
• Có các chương trình tuyên truyền giáo
dục, chỉ dẫn cách thức tham quan một khu
di tích ít gây tác động, ví dụ các kỹ thuật
quan sát cuộc sống hoang dã mà không
làm kinh động các loài thú;
• Các chương trình quảng bá tạo ra sự
tôn trọng các nguồn của khu di sản và
những vấn đề liên quan tới việc bảo vệ.
Các nhà quản lý khu di sản có thể
khuyến khích du khách thực hiện các
hoạt động nào đó bằng cách:
• Nâng hoặc giảm giá vé cho các loại du
khách khác nhau
• Hạn chế giờ mở cửa, ví dụ mở cửa sớm
cho khách quan sát chim muông, hoặc
đóng cửa sớm, không nhận thêm khách
• Cung cấp hoặc không cung cấp cơ sở
hạ tầng
• Cấm một số hoạt động thông qua các
quy định và biện pháp thực thi
Có thể tăng khả năng đề kháng của môi
trường vật chất của khu di sản đối với tác
động bằng cách:
• Sử dụng cơ sở hạ tầng để “gia cố” khu
di sản, ví dụ gia cố mặt tuyến đường bằng
88
Chiến lược và giải pháp đối với các vấn đề quản lý du lịch
một lối đi lát bằng gỗ hoặc dựng dây neo
cố định;
• Di chuyển cơ sở hạ tầng tới các khu vực
có sức đề kháng cao hơn, ví dụ chuyển nơi
trú chân trên núi tới một khu vực ít có khả
năng bị sạt lở hơn
Các biện pháp giảm bớt xung đột giữa du
khách với nhau gồm:
• Khoanh vùng cho các loại hoạt động
tương thích;
• Tác động tới các loại hình hoạt động du
lịch tại khu di sản bằng cách cung cấp
hoặc không cung cấp các trang thiết bị
Giải pháp giảm bớt xung đột giữa du
khách với cộng đồng địa phương gồm:
• Chuyển lợi ích kinh tế cho dân cư địa
phương;
• Đưa các giá trị văn hóa-xã hội vào việc
lên kế hoạch và phát triển khu di sản bằng
cách tăng cường sự tham gia của cộng
đồng địa phương
Ngoài ra, những điểm ít bị sử dụng mà vẫn
phải chịu thiệt hại đáng kể về mặt môi
trường thì việc giảm lưu lượng giao thông
trong khu vực cũng có thể không đem lại
những tác động tích cực tương ứng. Trong
trường hợp đó, việc hạn chế đi lại của du
khách có thể không mang lại tác dụng thúc
đẩy tốc độ phục hồi của đất và thực vật, và
khu vực này có thể phải đóng cửa để phục
hồi.
Ở những khu vực thực vật đã bị thoái hoá,
việc sử dụng phải thực sự được hạn chế
hoàn toàn thì mới có khả năng hồi phục.
Tác động đối với nguồn nước và tài
nguyên động thực vật hoang dã thường
khác nhau, và trong một số trường hợp có
thể hồi phục nếu hạn chế được mức độ sử
dụng. Ví dụ, gấu trong khu di sản thế giới
Vườn quốc gia Yellowstone là một vấn đề
lớn hơn đối với những khu vực bị sử dụng
nhiều, và việc hạn chế lượng du khách tới
tham quan có thể giảm bớt những sự cố do
gấu gây ra cho du khách cắm trại.
7.2.1. Ở một số khu vực, ngay cả khi áp
đặt các hạn chế, thì vẫn cần phải thực
hiện các biện pháp tập trung và kiểm soát
du khách để giảm bớt tác động đến môi
trường sinh thái. Các du khách thường có
xu hướng đến cùng một số điểm và đi theo
cùng một tuyến đường. Tuy nhiên, một khi
đã đến được một địa điểm đã định trước
như nơi dựng trại chẳng hạn, họ có xu
hướng phân tán trong giới hạn địa điểm đó.
Việc hạn chế sử dụng, ví dụ bằng cách
giảm bớt số lượng các địa điểm có thể
dựng trại quanh hồ, có thể làm giảm bớt
lượng du khách, nhưng không nhất thiết
giảm được tác động đối với sinh thái vì họ
tản rộng khắp khu trại. Cần phải có các
biện pháp để vừa giảm bớt lượng người,
vừa bảo đảm đóng cửa hẳn các khu vực đã
chọn. Mặt khác, ở những khu vực ít được
sử dụng, việc giảm lượng du khách chỉ có
thể giảm thiểu tác động đối với sinh thái
chừng nào việc sử dụng được duy trì ở
mức thấp, du khách được hướng dẫn
những kỹ thuật ít gây tác động và tránh
những điểm nhạy cảm với tác động. Chỉ
cần một nhóm du khách không được
hướng dẫn cụ thể cũng có thể gây ra những
tổn hại nghiêm trọng.
7.2.2. Hạn chế thời gian lưu lại trong
khu di sản có thể giảm lượng du khách và
giảm nhẹ vấn đề quá tải, nhưng không
nhất thiết giảm được tác động đến môi
trường. Có thể hạn chế thời gian lưu lại
trong khu di sảnnói chung hoặc trong từng
khu vực cụ thể nào đó; đây là một biện
pháp góp phần giảm bớt tình trạng quá tải.
Hạn chế thời gian thăm viếng ở những khu
thiên nhiên được sử dụng nhiều không có
khả năng ảnh hưởng đến những tác động
đối với môi trường sinh thái, trừ phi các
biện pháp này được quy định và thực hiện
rất chặt chẽ và chỉ nhằm vào mục đích
giảm các chỉ báo đã được xác định. Các tác
động đối với môi trường sinh thái giảm
nhiều nhất khi áp dụng biện pháp hạn chế
thời gian thăm viếng ở những khu vực ít
được sử dụng; ở những khu vực nhạy cảm
với tác động, cuộc thăm viếng dài tại một
địa điểm có thể gây ra những tác động
không thể chấp nhận.
7.2.3. Đóng cửa một khu vực có thể là
cách hữu hiệu để bảo vệ hoặc phục hồi
chất lượng môi trường. Biện pháp này
thúc đẩy việc phục hồi thảm thực vật và
89
7
Chiến lược và giải pháp đối với các vấn đề quản lý du lịch
7
giảm bớt tác động đến động vật hoang dã.
Ví dụ, du khách không được tới thăm
Vườn quốc gia Big Bend ở bang Texas của
Mỹ trong mùa sinh sản của chim ưng cổ
trắng để bảo vệ khu vực làm tổ của chúng.
Tuy nhiên, việc đóng cửa một khu vực có
thể là hành động trực tiếp gây nhiều tranh
cãi và có những tác động phân hóa về kinh
tế và xã hội. Cần phải giải thích rõ cho
người dân địa phương, chứ không phải chỉ
cho những du khách có thể tới thăm khu di
sản đó về việc đóng cửa tạm thời khu di sản.
7.2.4. Việc giảm lượng du khách bằng
cách hạn chế số lượng du khách trong
một nhóm đến tham quan cũng góp phần
kiềm chế những tác động về sinh thái và
xã hội. Các nhóm du khách lớn có thể gây
quá tải cũng như xung đột giữa họ với
nhau. Ở những khu vực đông người, có thể
cần giới hạn lượng người trong một nhóm
và phát động chiến dịch tuyên truyền nhằm
giảm thiểu tác động và bảo đảm sự riêng tư
cho từng nhóm du khách. Trong những
trường hợp như vậy, các chương trình
tuyên truyền cần nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc sử dụng các khu vực hiện có
và giữ chúng sạch đẹp cho những du khách
tới sau.
làm những người coi mình là khách quen
của khu di sản tức giận. Kết quả là họ có
thể chọn đi du lịch nơi khác, và thế là
những khu di sản ấy có thể lại không đáp
ứng nổi lượng du khách tăng lên. Vì vậy,
để chế độ hạn ngạch thực hiện thành công,
cần hạn chế khả năng du khách tới các khu
vực khác, và làm cho họ hiểu và chấp nhận
biện pháp đang được thực hiện.
7.2.6. Tăng giá vé vào cửa và các loại
phí khác có thể giảm lượng du khách.
Luật cung cầu cho thấy vé vào cửa khu di
sản càng cao thì lượng du khách tới thăm
càng giảm. Một yếu tố cần xem xét khi
tăng giá vé là sự co giãn của “cầu”, tức là
du khách cảm nhận thế nào đối với việc
thay đổi giá vé vào khu vực. Thông tin này
có thể chắt lọc từ các cuộc điều tra. Một
yếu tố khác cần xem xét là du khách muốn
hệ thống giá phải dễ dàng và đơn giản. Họ
có xu hướng thích giá trọn gói hơn là giá
chính thức cộng thêm các chi phí khác như
phí đỗ xe hoặc phí quay phim, chụp ảnh.
Đặt mức giá vé đối với du khách cũng có
thể bao gồm việc quy định giá vé vào cửa
khác nhau giữa người địa phương và người
nước ngoài.
Giảm “cầu” bằng giá vé cao hơn
Các nhóm đông người có thể làm xáo trộn
trên diện rộng hơn là các nhóm ít người, vì
họ có xu hướng tỏa ra trên một khu vực
rộng hơn. Họ cũng có thể gây xáo trộn
nhanh hơn là những nhóm nhỏ. Tuy nhiên,
trong một khu vực đã bị ảnh hưởng nặng,
thì nhóm du khách 10 người hay 50 người
cũng chẳng có gì khác nhau.
7.2.5. Việc sử dụng chế độ hạn ngạch có
thể làm giảm bớt lượng du khách, nhưng
lại làm nảy sinh nhiều vấn đề. Một điểm
cần xem xét là chi phí để thực hiện và
quản lý chế độ hạn ngạch. Nếu không có
đủ nhân viên thì không thể duy trì lâu dài
chế độ hạn ngạch. Ngoài ra, chế độ hạn
ngạch có lợi cho những người có khả năng
đặt chỗ trước, trong khi gạt bỏ mất nhiều
loại du khách tiềm năng.
Bất cứ hạn chế nào cũng có thể làm những
du khách yêu thích sự tự do cảm thấy khó
chịu. Đặc biệt, hệ thống hạn ngạch có thể
Vé vào cửa cao hơn có thể hạ thấp “cầu”,
tức là giảm lượng du khách mà không nhất
thiêt làm giảm tổng thu. Chẳng hạn, việc
tăng giá vế vào cửa ở Vườn quốc gia
Keoladeo của Ấn Độ làm giảm 11% lượng
khách (từ 126.539 năm 1996-97 xuống còn
113.004 năm 1997-98). Nhưng số tiền thu
được cùng thời gian đó tăng gấp đôi, do
lượng khách nước ngoài tăng 4%, từ
40.894 năm 1996-97 lên 42.532 năm 199798.
7.2.7. Không cung cấp các phương tiện
dịch vụ có thể giảm lượng du khách. Hạn
chế cơ sở hạ tầng như điểm dựng trại hoặc
bãi đỗ xe có thể giảm lượng du khách,
cũng giống như thêm cơ sở hạ tầng có thể
làm tăng lượng du khách. Chỉ đơn giản là
làm cho du khách khó tiếp cận khu di sản
hơn, chẳng hạn bằng cách đặt bãi đỗ xe xa
cửa vào cũng có thể hạn chế lượng du
khách. Ở Costa Rica, sức ép cộng đồng đòi
90
Chiến lược và giải pháp đối với các vấn đề quản lý du lịch
hạn chế du lịch tại một khu bảo tồn thiên
nhiên đã làm cho kế hoạch mở đường vào
nơi sinh sống của cộng đồng và khu bảo
tồn thiên nhiên bị đình chỉ. Mặt khác, tăng
cơ sở hạ tầng như đặt thêm các biển báo
hoặc biển thông tin chỉ dẫn có thể nâng cao
danh tiếng của khu di sản cùng các tài
nguyên của nó, như xác tàu đắm chẳng
hạn.
Chiến lược này làm nảy sinh một số vấn
đề, trong đó có vấn đề an toàn của du
khách. Ví dụ, tại một vườn quốc gia có
rừng nhiệt đới, ban quản lý có thể muốn
dựng hệ thống biển báo, lối đi có lát ván và
xây cầu để giúp du khách trở lại điểm xuất
phát an toàn thay vì sẽ phải có những hoạt
động tìm kiếm cứu nạn rất tốn kém.
Độ co dãn của “cầu” liên quan đến việc
phát triển hạ tầng cơ sở có thể khác nhau
theo từng khu vực. Nhiều khu Di sản thế
giới có thể thu hút lượng khách rất lớn vì
sự độc đáo của chúng, ngay cả khi cơ sở hạ
tầng rất hạn chế. Chẳng hạn, Đỉnh Everest
có lẽ sẽ còn tiếp tục thu hút rất nhiều du
khách đi thám hiểm cho dù có hay không
có cơ sở hạ tầng và các phương tiện phục
vụ. Khu di chỉ khảo cổ Inca ở Machu
Pichu sẽ còn tiếp tục thu hút nhiều du
khách mặc dù không có thêm cáp treo.
Chính sách loại này đòi hỏi các nhà quản
lý phải có hồ sơ về đòi hỏi của khách để
theo dõi những thay đổi tương ứng với
mức độ phát triển cơ sở hạ tầng khác nhau.
Điều còn quan trọng hơn là phỏng vấn tại
chỗ các du khách và các hãng tổ chức tour
để giúp nhân viên khu di sản xác định hiệu
quả của chính sách phát triển cơ sở hạ
tầng. Bằng cách duy trì đối thoại thường
xuyên với các nhóm có lợi ích, như các
hãng tổ chức tour là những thành viên của
ban tư vấn du lịch của khu di sản và hiểu
biết sâu sắc sở thích và hoạt động của
khách, các nhà quản lý khu di sản có thể có
được những lời khuyên thực tế về hiệu quả
của những chính sách này.
7.3. Cân nhắc việc nên phân tán hay tập
trung du khách
7.3.1. Tập trung du khách có thể hạn chế
các tác động xã hội và môi trường. Chiến
lược này cho phép có được sự kiểm soát và
bảo vệ ở mức cao đối với các nguồn tài
nguyên nhạy cảm. Bằng cách hạn chế sử
dụng một vài khu vực đã được lựa chọn
trong một khu di sản, đặc biệt là những
khu vực có khả năng đề kháng cao hay chí
ít cũng không quá nhạy cảm đối với tác
động, chính sách này sẽ giới hạn xáo trộn
trong một phạm vi nhỏ. Vì vậy, ở những
khu di sản có các tài nguyên nhạy cảm,
chiến lược tập trung có thể được dùng để
hướng du khách tới những khu vực có khả
năng đề kháng và phục hồi cao hơn. Ví dụ,
một số vùng san hô có sức đề kháng tốt
hơn khu khác, vì thế du khách có thể nên
tập trung vào những khu vực này. Ở
Stonehenge, trừ một số nhóm tôn giáo
được tự do ra vào vào thời gian thích hợp,
còn lại du khách không được phép vượt
qua khu vực ngoại vi của khu di sản.
Ngoài việc hạn chế tác động đối với một số
khu vực nào đó, việc sử dụng tập trung có
thể mở ra những cơ hội mới. Ví dụ, chính
sách này có thể tạo ra cơ hội hiếm có cho
những trải nghiệm ở một khu vực tương
đối biệt lập như khu di chỉ khảo cổ chẳng
hạn. Cơ hội được là thành viên của một
nhóm nhỏ thăm khu di tích hoang phế và
được bảo vệ nghiêm ngặt là một trải
nghiệm độc nhất vô nhị, và du khách cũng
có thể sẵn sàng trả chi phí cao hơn.
Chính sách tập trung du khách góp phần
giải tỏa những tác động có thể có đối với
những khu vực nhạy cảm với tác động do
xu hướng phát triển và mở rộng của các
doanh nghiệp liên quan đến du lịch như hệ
thống khách sạn và vườn quốc gia lớn gây
ra. Ở những khu đã bị ảnh hưởng nặng nề,
có thể không có giải pháp nào khác ngoài
việc khuyến khích hoặc giới hạn du khách
trong các loại hoạt động hiện có. Vì các du
khách có xu hướng đến thăm cùng một khu
vực và đi cùng một tuyến đường, nên việc
áp dụng biện pháp này thường không khó
và có thực hiện thông qua các quy định
hoặc các phương pháp gián tiếp như thuyết
phục du khách sử dụng một khu vực nào
đó, hoặc cung cấp cơ sở hạ tầng ở những
khu vực nhất định.
91
7
Chiến lược và giải pháp đối với các vấn đề quản lý du lịch
7
Tập trung du khách có thể tạo ra những tác
động xã hội tích cực bằng cách cho phép
dân địa phương thoát khỏi các sức ép liên
quan đến du lịch. Ví dụ, ở những khu dựng
trại cho du khách trong vùng thôn quê của
Senegal, nơi ăn nghỉ của khách được đặt
rất xa trung tâm làng mạc. Ở Vườn quốc
gia Ujung Kulon miền tây Java của
Indonesia, các hoạt động du lịch được hạn
chế vào một khu do một công ty tư nhân
quản lý; công ty này cung cấp nơi ăn nghỉ
và các dịch vụ khác cho du khách.
Điểm bất lợi có thể có của việc tập trung
du khách là nó thay đổi môi trường xã hội
đối với họ. Ở nhiều khu di sản, khi du
khách được tập trung trong những khách
sạn nhỏ chẳng hạn, họ mất cảm giác được
có những giây phút tĩnh lặng riêng tư. Điều
này có thể trái với những trải nghiệm như
đã được dự tính và/ hoặc trái với những gì
ban đầu thu hút họ khi tới thăm khu di sản.
7.3.2. Phân tán du khách không đơn
giản và chưa chắc đã giảm nhẹ được các
tác động. Hạn chế các tác động đối với
môi trường trong các khu thiên nhiên bằng
cách phân tán du khách tới những điểm
khác nhau có thể hiệu quả ở những khu
vực mà mức độ sử dụng còn thấp và khi du
khách có ý thức về hành vi ứng xử của họ.
Chính sách phân tán phải được hỗ trợ bằng
các chương trình kiểm soát để biết được du
khách đi đâu và tham gia vào các hoạt
động giải trí nào. Chính sách này có thể
không khả thi ở những khu di sản thiên
nhiên với các nguồn lực phục vụ cho công
tác tuyên truyền hoặc kiểm soát du khách
còn hạn chế. Thêm vào đó, việc theo dõi
cẩn thận chương trình phân tán du khách là
cần thiết, vì nhiều vấn đề có khả năng xuất
hiện trên diện rộng.
Phân tán du khách bằng cách kéo dài mùa
du lịch là một giải pháp có thể gây ra
những hậu quả đối với môi trường sinh
thái. Chẳng hạn, sử dụng hạn ngạch và
giấy phép có thể giảm lượng du khách,
nhưng có thể tập trung sử dụng vào mùa
mà động thực vật dễ bị tổn thương hơn.
Thú hoang dã đặc biệt nhạy cảm trong
những tháng sinh sản và tìm kiếm thức ăn
cho mùa đông. Trong thời kỳ mưa nhiều và
tuyết tan, đất có thể dễ bị nén và sạt lở.
Thực vật cũng dễ bị tác động vào mùa sinh
trưởng của chúng.
Ở những khu di sản văn hóa như những di
tích có cơ sở hạ tầng tiên tiến và bảo vệ tốt
ít có nguy cơ bị tác động môi trường, phân
tán du khách là một biện pháp giảm bớt
lượng người quá đông một cách có hiệu
quả. Phân tán du khách tới các khu vực
khác nhau của khu di sản có thể được thực
hiện thông qua các quy định hoặc thông tin
tuyên truyền và thuyết phục. Biện pháp
này cũng có thể được thực hiện thông qua
việc lựa chọn địa điểm phát triển các cơ sở
hạ tầng. Nếu số lượng nhân viên ít, các
biện pháp trực tiếp như cấp phép cũng có
thể có hiệu quả. Hệ thống cấp phép sẽ tăng
độ giãn cách giữa các đợt du khách vào
thăm và hỗ trợ một mục tiêu quản lý là
cung cấp cho du khách các trải nghiệm ở
những nơi ít gặp người qua lại.
7.3.3. Quyết định tập trung hay phân tán
du khách cần phản ánh các mục tiêu
chính sách và mục đích quản lý. Một mục
tiêu chính sách thường gặp là bảo đảm
rằng các nguồn lợi du lịch đến tay các cộng
đồng sống xung quanh khu di sản. Việc
này có thể dẫn tới sức ép mở cửa cho du
khách vào những khu vực mới của khu di
sản. Du lịch có xu hướng trải rộng, và có
thể dẫn sự mở rộng những tác động xã hội
và sinh thái. Mặt khác, nếu phát triển kinh
tế địa phương là mục tiêu chính, và nếu du
lịch có đủ tiềm năng tạo nguồn thu thay thế
cho nguồn thu từ các hoạt động kinh tế
hiện tại ở một khu vực nào đó, thì mở rộng
du lịch sang khu này có thể là thích hợp.
Nhưng nếu mục tiêu chính sách chủ yếu là
bảo vệ các loài động thực vật bị đe dọa và
khuyến khích các nhà sinh vật học tới
thăm, thì việc mở rộng du lịch trong vườn
quốc gia có thể hạn chế các cơ hội nghiên
cứu vì những tác động ngày càng tăng của
du lịch đối với các khu vực nhạy cảm.
7.4. Thay đổi môi trường vật chất để
ngăn chặn tác động
7.4.1. Tăng khả năng đề kháng của khu di
sản đối với tác động của du khách bằng
92
Chiến lược và giải pháp đối với các vấn đề quản lý du lịch
cách lắp đặt hoặc thay đổi cơ sở hạ tầng
thường được nói đến như là “gia cố” khu
di sản. Xây dựng thêm cơ sở hạ tầng, hoặc
“gia cố” khu di sản sẽ làm tăng độ bền vật
chất của nó. Việc này có thể là trải lại
tuyến đường và lối vào, xây chỗ trú chân
cho du khách xuyên rừng, hoặc đặt rào cản
không cho sờ vào những tranh khảm vô giá
như đã làm ở khu Taj Mahal. Đền Lớn
Abu Simbel ở Ai Cập, nơi mỗi ngày có tới
2.000 du khách viếng thăm làm tắc nghẽn
luồng du khách, là một ví dụ về việc gia cố
trên diện rộng khu di sản văn hóa. Trong
đền, hơi thở của khách làm tăng độ ẩm và
khí đi-ô-xít các-bon trong không khí, làm
tăng lượng muối đọng trên tường. Để giải
quyết vấn đề tắc luồng du khách, ban quản
lý thực hiện chế độ đường một chiều. Hệ
thống thông gió cũng được lắp đặt để giảm
độ ẩm và nhiệt độ trong phòng trưng bày
áo quan đựng xác ướp. Một cách tránh tác
động đơn giản khác là dời cơ sở hạ tầng ra
xa các khu vực nhạy cảm.
Một tác động khác của việc gia cố khu di
sản là những vật liệu thêm vào có thể
không ăn nhập với môi trường xung quanh,
làm giảm giá trị nguyên bản của khu di
sản. Một cách giải quyết là sử dụng các vật
liệu tự nhiên thay vì sử dụng những vật
liệu nhân tạo. Ví dụ, có thể trồng các cây
phát triển nhanh để chặn tuyến đường dẫn
tới khu vực dễ biến động hoặc hạn chế,
hoặc lối vào có thể được lấp bằng các
phiến đá tự nhiên.
7.4.2. Gia cố vừa gây ra những bất lợi,
vừa có thể đem lại nhiều lợi ích vì nó thay
đổi bản chất những trải nghiệm của
khách. Gia cố có thể làm thay đổi loại du
khách. Trong những năm 1980, lượng
khách tới các Đường mòn Milford ở New
Zealand và Overland ở Tasmania, hai khu
vực rất được du khách du lịch ba-lô ưa
chuộng, đã tăng lên. Trước những tác động
do việc này mang lại, Ban quản lý phản
ứng bằng cách hạn chế sử dụng và gia cố
mặt đường. Kết quả là, một số du khách
cho rằng đường trở nên quá dễ đi nên
không đến đó nữa.
Việc gia cố khu di sản nhằm mục đích làm
cho du khách tham quan dễ dàng hơn cũng
có thể làm tăng mức độ quá tải. Ở
Tasmania, một lối đi riêng lát ván được
xây dựng để hạn chế du khách tới một số
khu vực của sông Vàng. Vì lý do kinh
doanh, số lượng du khách trong mỗi nhóm
theo tour du lịch không giảm, có thể trên
50. Vì lượng người dồn cả vào lối đi trên
nên du khách gặp khó khăn trong việc
chụp ảnh một trong những điểm hấp dẫn
nhất của khu di sản là cây thông Huôn nổi
tiếng 2000 năm tuổi.
Du khách có thể được chỉ dẫn các kỹ thuật
ít gây tác động ở cả khu di sản thiên nhiên
và di sản văn hóa. Ở Mỹ, trong“Chiến dịch
cứu loài lợn biển”, các tài liệu hướng dẫn
được phát cho du khách và việc này dẫn
đến kết quả là tỷ lệ lợn biển bị chết hoặc bị
thương giảm hẳn. Ở Khu di sản Luxor của
Ai Cập, ban quản lý cho biết, bằng cách
giải thích cho du khách hiểu rõ các vấn đề
liên quan đến quản lý, họ đã thành công
trong việc giãn đều các hoạt động của du
khách trên toàn khu vực. Các chương trình
quảng bá và tuyên truyền, giáo dục tuy
phải mất nhiều thời gian mới có kết quả,
nhưng đáng ưu tiên hơn là phát triển cơ sở
hạ tầng vì chúng ít có khả năng thay đổi
những trải nghiệm của khách và không làm
mất đi các nhóm khách đã được dự tính.
7.5. Thay đổi thái độ ứng xử của du
khách
7.5.1. Các chương trình quảng bá và
tuyên truyền giáo dục có thể giảm nhẹ
những tác động xã hội và môi trường.
Các chương trình giáo dục hướng dẫn cách
ứng xử tốt nhất trong khu di sản. Các
chương trình quảng bá thông báo và giải
thích cho du khách về các tài nguyên và ý
nghĩa quan trọng của khu di sản.
Có thể loại trừ được một số tác động bằng
cách hướng dẫn du khách các kỹ thuật ít
gây tác động nhất. Ở Tasmania, trên tuyến
Overland trong Vườn quốc gia Cradle
Mountain-Lake St Clair, du khách sau
chuyến đi thường bị đau bụng đi ngoài vì
họ chôn rác thải quá gần trại, làm nguồn
nước và cung cấp thực phẩm bị ô nhiễm.
Đã có lúc có tới một nửa du khách bị ốm.
Để khắc phục tình trạng này, ban quản lý
93
7
7
Chiến lược và giải pháp đối với các vấn đề quản lý du lịch
vườn quốc gia gửi tài liệu tới các câu lạc
bộ đi bộ ngoài trời, các nhóm môi trường
và các cửa hàng bán trang thiết bị cắm trại
nói rõ những vấn đề và giải pháp cần thiết
là du khách phải chôn rác thải cách lều trại,
sông suối ít nhất là 100 mét. Mùa hè năm
sau, chỉ có khoảng 8-10% du khách cho
biết là bị đau bụng đi ngoài. Người ta cũng
đã thu được những kết quả tương tự từ các
chiến dịch tuyên truyền khuyến khích việc
quan sát động vật hoang dã ít gây tác động
nhất, cũng như những việc làm không ảnh
hưởng tới môi trường sinh thái như sử
dụng bếp lò thay vì đốt lửa, gói ghém đồ
thừa và không cho muông thú. Phần lớn
các chuyên gia bảo vệ di tích cũng ủng hộ
việc đưa tuyên truyền giáo dục du khách
thành một phần của chiến lược chống lại
những vấn đề như hành động phá hoại di
tích.
7.5.2. Các chiến dịch quảng bá và tuyên
truyền giáo dục không nhất thiết phải
quá tốn kém. Cần nghiêm túc đánh giá các
mục tiêu để xác định liệu có thể vẫn đạt
được các mục tiêu đó chỉ bằng các phương
tiện rẻ tiền hay không. Thay vì phải phân
bổ lượng tiền lớn cho các dự án xây dựng
cơ sở hạ tầng như các trung tâm phục vụ
du khách phức hợp, các phương pháp it tốn
kém hơn có thể lại hiệu quả hơn, như
chương trình gặp gỡ cá nhân giữa du khách
và nhân viên ban quản lý chẳng hạn. Trong
một số tình huống, cần cử đoàn đi từ khu
này sang khu khác để cập nhật và hoàn
thiện tài liệu và phương tiện quảng bá,
cũng như huấn luyện các nhà quản lý và
bảo vệ rừng ở địa phương. Các chiến dịch
quảng bá và tuyên truyền giáo dục có thể
được tiến hành với chi phí thấp nhất. Ví
dụ, trong một đoạn đường tự nhiên ngắn để
đi bộ, chỉ cần có các bảng nhỏ ghi tên
thông thường và tên khoa học của các loại
thực vật là đủ, trong khi những bảng chỉ
dẫn lớn hơn lại có nội dung là các chủ đề
rộng hơn.
7.5.3. Thay đổi cách ứng xử của du
khách không phải là một quá trình đơn
giản. Các chiến dịch quảng bá và tuyên
truyền giáo dục bắt nguồn từ mong muốn
thay đổi hành vi của du khách, một nguyên
tắc đơn giản về lý thuyết, nhưng lại phức
tạp trên thực tế. Có thể thấy rất nhiều yếu
tố ảnh hưởng tới hành vi của du khách, bao
gồm:
Du khách thường muốn biết tại sao họ lại
phải làm việc đó. Nếu chỉ đơn giản nói
rằng đây là khu vực hạn chế sử dụng, thì
không đủ lượng thông tin cho họ.
Chương trình quảng bá phải phù hợp với
thực tế, nếu không sẽ gây ra nhiều nhầm
lẫn. Ví dụ, các bức ảnh và mô tả trong các
tài liệu quảng bá có thể không đúng như
kinh nghiệm của khách. Một ví dụ cụ thể là
khi Ủy ban Lâm nghiệp Tasmania trong
các tài liệu quảng bá và tuyên truyền giáo
dục của mình đã nhấn mạnh đến những sự
hấp dẫn mang tính giải trí của rừng trên
đảo. Ý kiến phản hồi của khách cho thấy
trước đó họ không trông đợi việc sẽ thấy
những mảng rừng bị cắt trụi dọc theo các
lối mòn và quanh khu vực nghỉ ngơi giải
trí. Một giải pháp là đưa những hình ảnh
về các hoạt động sản xuất lâm nghiệp vào
các tài liệu quảng bá khu di sản.
Thái độ ứng xử của nhân viên, như nhân
viên duy tu bảo dưỡng chẳng hạn, phải góp
phần đề cao những giá trị đã được phản
ánh trong các tài liệu quảng bá và tuyên
truyền giáo dục.
Kinh nghiệm của du khách và những điều
họ biết trước đó có thể ảnh hưởng tới hiệu
quả của các tài liệu tuyên truyền. Nghiên
cứu cho thấy các tài liệu tuyên truyền tỏ ra
hiệu quả hơn đối với du khách ít có kinh
nghiệm hoặc thông tin về một khu di sản
nào đó. Cần đặc biệt quan tâm tới nội dung
cách thức phổ biến của các tài liệu quảng
bá tuyên truyền đối với những khách đã
quen thuộc với khu vực. Các chuyên gia
khuyến nghị nếu không có khả năng phát
hành cả hai loại tài liệu, thì tốt hơn là nên
bỏ qua tài liệu dành cho loại du khách có
kinh nghiệm hơn.
Du khách phải tin rằng một vấn đề nào đó
là có thực và nghiêm túc, rằng một hành
động nào đó là cần thiết, và rằng họ có thể
góp phần làm sự thể khác đi. Các tài liệu
cần đưa ra vấn đề cùng các thông tin về
việc giải quyết nó thế nào, gắn kinh
94
Chiến lược và giải pháp đối với các vấn đề quản lý du lịch
nghiệm của du khách với những hành động
trong tương lai. Các tài liệu có thể gồm
thông tin về các câu lạc bộ của các nhà bảo
vệ môi trường, những nơi khác họ có thể
đến thăm và tìm hiểu về chủ đề đó, hoặc
các thông tin bổ sung khác.
Một người phải tin rằng mình có thể đóng
góp vào giải pháp, như trồng một cây trong
dự án trồng rừng, hoặc giúp sức trong việc
khai quật một di chỉ khảo cổ chẳng hạn.
Phần thưởng cá nhân có thể mang ý nghĩa
vật chất, nhưng “phần thưởng tinh thần”,
tức là sự mãn nguyện khi giúp được người
khác, thường có ý nghĩa hơn.
7.5.4. Một số yếu tố khác cũng góp phần
vào việc thực hiện có hiệu quả các
chương trình tuyên truyền quảng bá. Cần
có mục tiêu và mục đích rõ ràng để quyết
định nên quảng bá cái gì, cho ai và bằng
cách nào và ai chịu trách nhiệm xây dựng
chiến lược ấy. Bước quan trọng trong việc
xác định thông điệp chủ yếu và các đối
tượng tiếp nhận là khâu yếu nhất trong quá
trình phát triển ý tưởng và chủ đề.
Tài liệu cần tập trung vào loại du khách mà
cách ứng xử được coi là cần thay đổi nhất.
Thông điệp cần mô tả rõ những vấn đề
chính yếu và các cách ứng xử cần thiết.
Các chiến dịch tuyên truyền hiệu quả nhất
thường sử dụng kết hợp các phương pháp
dành cho các nhóm du khách khác nhau,
với những thông điệp khác nhau. Những
tài liệu này dựa trên số liệu lưu trữ về du
khách như độ tuổi, lai lịch, sở thích, nguồn
gốc (nước ngoài hay địa phương), mức độ
thông thạo trong các hoạt động mà khu di
sản có khả năng đáp ứng, các nhu cầu đặc
biệt, cách thức tiếp cận khu di sản (đường
bộ, đường thủy, phương tiện công cộng
hay tư nhân). Các số liệu này cũng tính đến
việc du khách đi một mình, đi cả vợ chồng
hoặc gia đình, hay đi theo nhóm có tổ
chức.
Các tiêu chuẩn quảng bá có thể thay đổi
theo những thay đổi xã hội, như sự chuyển
dịch của các nhóm sắc tộc hoặc trình độ
học vấn ở địa phương. Những sự chuyển
dịch này có thể tạo ra nhu cầu cần những
thông điệp mới, có thể bằng các thứ tiếng
khác nhau. Một cuộc triển lãm có thể sẽ
thỏa mãn nguyện vọng của các du khách
không thường xuyên, cũng như mong đợi
của cư dân địa phương và du khách thường
xuyên. Những bảng chỉ dẫn nhiều lớp ghi
các thông tin chi tiết với cỡ chữ in nhỏ hơn
nhằm thu hút sự chú ý của các khách
thường xuyên.
Các nghiên cứu cho thấy cần phải phân
tích kỹ các mối quan tâm của du khách.
Nhiều người thăm các khu di sản thế giới
vì họ có mối quan tâm tới di sản nói chung.
Phần lớn du khách thăm các khu di sản thế
giới không có kiến thức hoặc các lợi ích
chuyên môn: những đặc trưng của một
thành cổ hay các khu di tích lịch sử khác
đối với họ có tầm quan trọng thứ yếu.
Cần đánh giá các chương trình quảng bá có
đáp ứng các mục đích và mục tiêu quản lý
hay không. Nếu không thì quả là lãng phí
nguồn tài chính vốn ít ỏi, ảnh hưởng tới
các chương trình khác và uy tín của ban
quản lý. Các chuyên gia cảnh báo rằng cần
chống xu hướng sản xuất các chương trình
mới thay vì xét lại các chương trình cũ, mà
không có lập luận về việc ủng hộ chương
trình này hay chương trình kia.
Cách làm thông thường nhất và dễ nhất để
đánh giá hiệu quả của chương trình quảng
bá, như triển lãm chẳng hạn, là xem xét
khả năng thu hút và duy trì sự chú ý của du
khách. Trong trường hợp này, triển lãm
được đánh giá trên cơ sở có bao nhiêu
người dừng lại xem và/hay đọc các tài liệu
trưng bày và trong thời gian bao lâu. Trực
giác của các nhân viên trông coi triển lãm
về sự thay đổi trong thái độ của du khách
nói chung là đáng tin cậy và có thể giúp
cho việc đánh giá tình hình.
Có thể tiếp cận với các nhóm mục tiêu
bằng nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào
loại tài liệu sử dụng. Nói chung, du khách
phải sử dụng các phương tiện giao thông
công cộng hoặc dịch vụ mà ban quản lý
khu di sản cung cấp để tới khu di sản là
loại du khách không thể rời khu di sản lúc
nào họ muốn. Các nhân viên cần thông báo
cho khách về những quy định của vườn
95
7
Chiến lược và giải pháp đối với các vấn đề quản lý du lịch
7
quốc gia, cho họ lời khuyên về việc bảo
đảm an ninh và chỉ dẫn hướng đi.
Để khuyến khích du khách trở lại, các hiện
vật cần được thay đổi thường xuyên, hoặc
thỉnh thoảng phải tổ chức các cuộc triển
lãm đặc biệt. Ở Bảo tàng Hoàng gia British
Columbia ở Vancouver, lượng khách hàng
năm giảm hẳn vì các hiện vật trưng bày
không thay đổi do thiếu kinh phí. Kết quả
là tiền thu được cũng giảm và điều này
càng làm vấn đề phức tạp thêm.
Các hướng dẫn viên có thể đóng vai trò vô
giá trong việc chuyển tải thông tin đến du
khách. Ví dụ, ở những khu rừng nhiệt đới
lớn, du khách không có hướng dẫn viên
giỏi đi cùng có thể mất nhiều thời gian mà
chẳng xem được cuộc sống hoang dã. 8095% du khách tới thăm các khu rừng nhiệt
đới ở một vùng thuộc Peru cho biết họ
không thỏa mãn với những gì đã thấy về
cuộc sống hoang dã.
Khi xây dựng các chương trình, việc lôi
cuốn hướng dẫn viên vào ngay từ khâu lên
kế hoạch sẽ góp phần bảo đảm có được các
thông tin thống nhất cho du khách. Các
hướng dẫn viên và nhân viên khu di sản
cần liên hệ chặt chẽ với nhau để các hướng
dẫn viên không đi chệch các mục tiêu của
khu di sản và cung cấp những thông tin
chính xác và thống nhất.
7.5.5 Các phương pháp quảng bá tuyên
truyền khác nhau có thể có khả năng thu
hút du khách và thay đổi hành vi của họ
ở mức độ khác nhau. Các tài liệu sau đây
được cho là có hiệu quả:
Ban quản lý Vườn quốc gia Tasmania thấy
rằng hầu hết các tài liệu quảng bá có hiệu
quả đều dễ đọc và vui nhộn. Cái được
nhiều người thích và có hiệu quả nhất là
băng hình. Vì băng hình cung cấp những
thông tin sống động về cách thức sử dụng
các kỹ năng trong thực tiễn cho nên chúng
thường được chọn sử dụng trong trường
học và cho các nhóm du khách ít kinh
nghiệm.
Các biếm họa, tài liệu nghe nhìn và các
chương trình thông tin đại chúng cũng tỏ
ra có hiệu quả.
Một khi các tài liệu trên đã làm du khách
chú ý thì phương pháp nhằm thay đổi cách
ứng xử của họ có hiệu quả nhất là có thêm
các tiếp xúc cá nhân. Ví dụ, dễ thuyết phục
du khách bộ hành không sử dụng bếp lò
hơn khi các nhân viên kiểm lâm trực tiếp
thông báo cho họ về các quy định liên
quan và đẩy mạnh chiến dịch tuyên truyển.
Nếu chỉ dựng biển “chỉ được sử dụng bếp
ga” thì không hiệu quả bằng.
Trong trường hợp không có nhân viên
kiểm lâm, các hướng dẫn viên du lịch có
thể được huấn luyện trở thành người cung
cấp các thông tin tuyên truyền. Các cuộc
hội thảo dành cho hướng dẫn viên tour du
lịch thương mại có thể tập trung vào các kỹ
thuật ít gây tác động và các vấn đề quản lý
khác. Các hướng dẫn viên người địa
phương ở đảo Nan Madol vùng Nam Thái
Bình Dương, nơi có một di chỉ khảo cổ
quan trọng, đóng vai trò quan trọng trong
việc tuyên truyền cho du khách và kiểm
soát các hành động viết vẽ bậy và các hình
thức phá hoại khác.
Các chương trình đòi hỏi mọi người cùng
tham gia cho thấy nhiều hứa hẹn. Chúng
thường được ưa chuộng hơn triển lãm
trưng bày ở dạng tĩnh và có hiệu quả cao
trong việc thay đổi hành vi của du khách.
Sự tham gia chủ động dường như thúc đẩy
hơn thái độ tích cực, nhất là khi nó mang
lại những trải nghiệm mới cho du khách.
Các chương trình tạo cơ hội có ý kiến phản
hồi có thể bao gồm việc cử các nhân viên
lưu động hoặc “cắm” họ tại một số điểm cố
định để cung cấp thông tin; tổ chức hội
nghị hoặc hội thảo, các buổi trình diễn như
múa rối, kịch hoặc nhạc kịch, hoặc tổ chức
các hoạt động như tự làm và đánh giá đồ
vật, các trò chơi và tái hiện các sự kiện lịch
sử. Các ấn phẩm, bảng hiệu, các hoạt động
tự sáng tạo, các trung tâm thông tin cho du
khách, phương tiện nghe nhìn, triển lãm
trong nhà và hoạt động ngoài trời như đi
bộ, đi xe và bơi lặn trong các khu công
viên biển ít tạo cơ hội giao tiếp hơn, nhưng
96
Chiến lược và giải pháp đối với các vấn đề quản lý du lịch
cũng đỡ tốn thời gian của các nhân viên
hơn.
Các hội thảo mang tính thực hành có thể
kết hợp với các chuyến đi và các tour quan
sát. Một giáo viên dạy khoa học của Puerto
Rico cho rằng cách tốt nhất để hiểu các hệ
sinh thái miền duyên hải là thông qua các
chuyến đi thực địa, trong đó những người
tham gia có thể đặt câu hỏi và trao đổi với
các chuyên gia cùng đi. Bảo tàng Tropen ở
Amsterdam giới thiệu một chương trình
trong đó du khách có thể có được lời
khuyên của các du khách có kinh nghiệm
về những sự kiện đang diễn ra ở một quốc
gia nào đó, và những cái nên hay không
nên làm phù hợp với các tập quán văn hóa
khác nhau.
Các hiện vật nguyên bản dựa trên những
hoạt động kinh tế sử dụng các đồ vật và
chất liệu thật ngày càng được ưa chuộng.
Ví dụ, ở Trung tâm đánh bắt cá Quốc gia
Grimsby của Anh, những ngư dân kỳ cựu
kể lại những kinh nghiệm của họ và
khuyến khích du khách tham gia bằng cách
chỉ cho họ cách buộc dây câu như thế nào.
Các trung tâm di sản ngày càng cung cấp
nhiều kinh nghiệm thực thông qua các buổi
diễn giải giàu hình ảnh về lịch sử địa
phương. Từ những năm 1980, tuy đã được
xây dựng từ lâu đời nhưng nhờ công nghệ
mới, các viện bảo tàng đã giới thiệu các
hoạt động giải trí cũng như tuyên truyền
giáo dục, làm giảm đi sự khác biệt giữa
những trải nghiệm ở các công viên theo
chủ đề và ở viện bảo tàng.
Lịch sử được lưu bằng con đường truyền
khẩu là một tài sản nghiên cứu đặc biệt có
ích và là nguồn tư liệu quan trọng. Vì vậy,
cần lôi cuốn người địa phương cùng tham
gia để họ cảm thấy có vai trò. Việc này đặc
biệt quan trọng nếu cách diễn đạt của
người địa phương khác với các tư liệu của
ban quản lý khu di sản. Mang tiếng nói của
người địa phương vào các chương trình
giới thiệu sẽ đặt họ ở vai trò trung tâm,
khuyến khích họ ủng hộ chương trình.
7.6.
Khuyến khích thực hiện một số
hoạt động
7.6.1. Có thể chuyển hướng du khách
bằng thời khoá biểu. Ví dụ, khu di sản có
thể mở sớm cho du khách quan sát chim
muông hoặc đóng cửa sớm để hạn chế các
loại du khách khác. Khu Bảo tồn rừng
Monteverde ở Costa Rica mở cửa sớm để
các du khách quan sát chim có thể tận
hưởng những giây phút tương đối yên tĩnh.
Kéo dài thời gian mở cửa khu di sản có thể
phụ thuộc vào việc có đủ nguồn tài chính
để trả cho nhân viên làm thêm giờ hay
không. Chi phí phát sinh đó có thể được bù
lại bằng việc nâng giá vé vào cửa hoặc
tăng cường quảng cáo.
7.6.2. Cung cấp hay không cung cấp hạ
tầng cho một số hoạt động có thể ảnh
hưởng đến loại hoạt động được thực
hiện. Địa điểm xây dựng cơ sở hạ tầng có
thể khuyến khích sử dụng khu vực này
thay vì khu vực khác. Các biển chỉ dẫn có
thể cổ súy khu này thay vì khu khác, và
việc loại bỏ biển chỉ dẫn có thể làm giảm
tỷ lệ sử dụng. Ở những khu vực có khả
năng xảy ra xung đột giữa các nhóm du
khách khác nhau, hoặc việc xé lẻ các nhóm
có thể làm tăng trải nghiệm của du khách,
việc xây dựng các cơ sở hạ tầng chi phí
thấp có thể khuyến khích việc phân tán du
khách. Ví dụ, các biển báo có thể chỉ dẫn
du khách cắm trại tránh xa các khu vực mà
ban ngày có nhiều khách khác sử dụng.
7.7.
Thay đổi hoạt động bằng quy định
7.7.1. Các quy định hạn chế loại hoạt
động và/hoặc cách thức hoạt động có thể
ảnh hưởng mạnh đến tác động xã hội và
sinh thái. Một số hoạt động giải trí gây
nhiều tác động hơn các hoạt động khác.
Có thể hạn chế một số loại hoạt động của
du khách. Ví dụ việc như cấm ô tô và xe
máy chạy ngoài tuyến đường được phép
hay sử dụng ngựa làm phương tiện đi lại
nhằm làm giảm độ xói mòn của đất.Để hạn
chế các vấn đề giao thông và ô nhiễm,
Bermuda đã thực hiện chính sách không
công nhận bằng lái xe nước ngoài, khiến
du khách không thể thuê được xe. Cũng
tương tự, ô tô của người không phải dân sở
tại bị cấm trên các đảo Capri, Ischia và
Procida của Italia.
97
7
Chiến lược và giải pháp đối với các vấn đề quản lý du lịch
7
Để giảm thiểu tác động tiêu cực do các
cuộc chạm trán giữa du khách và cá voi ở
Vịnh Glacier, Alaska, các nhà quản lý đã
hạn chế lượng tầu du lịch ra vào Vịnh và
đưa ra những quy định duy trì khoảng cách
tối thiểu giữa tầu và cá voi là 400 mét.
Vịnh Viscano ở Baja, California cũng có
các quy định về việc quan sát cá voi để các
hướng dẫn viên địa phương theo dõi thực
hiện.
đồng địa phương, những ký ức, sự gắn bó
và biểu tượng thời xa xưa thường là hết
sức quan trọng. Ngược lại, du khách dường
như làm giảm những giá trị của địa phương
vì bị thu hút bởi những gì xa lạ, kỳ thú và
sống động. Các chương trình quảng bá và
tuyên truyền, nếu được xây dựng với sự
hợp tác chặt chẽ của cộng đồng, có thể
giúp ngăn chặn tình trạng xem nhẹ những
giá trị truyền thống của địa phương.
Các biện pháp mang tính quy định cũng
đòi hỏi phải có đủ nguồn lực thực hiện.
Các biện pháp gián tiếp có thể bổ trợ cho
các biện pháp trực tiếp. Ví dụ, ở một số
vườn thú của châu Phi, lái xe thường
không chấp hành các quy định duy trì
khoảng cách từ xe đến chỗ đàn thú. Để
khắc phục tình trạng này, có thể đào rãnh
hai bên đường để ngăn không cho họ vượt
khỏi tuyến đường quy định.
7.9.
Phân bổ nguồn lợi tới các cộng
đồng bị ảnh hưởng bởi khu di sản
7.8.
Thay đổi môi trường xã hội của
khu di sản bằng cách giảm bớt xung đột
của du khách
7.8.1. Tách các hoạt động có thể gây
xung đột sẽ làm giảm xung đột. Phân bổ
các hoạt động cụ thể tới các khu vực khác
nhau góp phần làm giảm xung đột giữa các
loại du khách khác nhau. Ví dụ, các nhóm
bơi lặn và câu cá có thể xung đột với nhau
nếu họ sử dụng cùng một khu vực. Ý
tưởng phân tán các nhóm du khách có liên
quan đến các Dải cơ hội giải trí (ROS).
Một vấn đề then chốt khi sử dụng kỹ thuật
này là phải bảo đảm rằng các khu vực khác
nhau sử dụng cho các hoạt động khác nhau
được giữ ở tình trạng môi trường tốt trong
thời gian dài. Du khách và các hãng tổ
chức tour có thể được thông báo nếu khu
vực dành cho họ bị hư hại, sẽ không có
khu vực nào khác tương tự.
7.8.2. Việc xây dựng các chương trình
quảng bá và tuyên truyền giáo dục có sự
hợp tác chặt chẽ với cộng đồng dân cư có
thể giúp tránh làm họ xa lánh vì cảm thấy
bản sắc văn hóa của họ bị thuyết minh
sai lệch. Không dễ dàng chuyển tải tới du
khách ý thức của người dân địa phương về
mảnh đất sinh sống cũng như giá trị tinh
thần và bản sắc văn hóa của họ. Với cộng
7.9.1. Người địa phương sẽ tham gia các
hoạt động bảo toàn khi các hoạt động này
giúp cải thiện mức sống của họ. Các nhà
quản lý Vườn Quốc gia Ujung Kulon ở
Tây Java của Indonesia cho biết, các hoạt
động du lịch, quản lý và bảo vệ mang lại
thu nhập cho người địa phương đã khuyến
khích họ ủng hộ những nỗ lực bảo vệ và
bảo toàn vườn quốc gia. Nếu chỉ có các
chương trình bảo toàn môi trường và tuyên
truyền giáo dục không thôi thì sẽ không có
kết quả. Ở Gambia, một nước vùng Tây
Phi, việc cộng đồng địa phương chấp nhận
Vườn Quốc gia mới thành lập Tây Kiang
hoàn toàn xuất phát từ sự mong đợi của họ
là muốn được nhận một phần lợi ích kinh
tế từ du lịch.
Tuy nhiên, việc tăng lợi ích cho địa
phương, ví dụ bằng cách đào tạo hướng
dẫn viên người địa phương, cũng không
nhất thiết thu hút được dân chúng tham gia
các hoạt động bảo toàn và bảo vệ. Kinh
nghiệm cho thấy bảo toàn và phát triển
kinh tế phải gắn với nhau. Vì vậy cần
tuyển những hướng dẫn viên luôn quan
tâm đến việc bảo toàn hoặc đến sự tham
gia của cộng đồng. Việc đánh giá kết quả
huấn luyện các hướng dẫn viên người địa
phương ở Costa Rica cho thấy cần có quá
trình tuyển chọn toàn diện, tìm kiếm cả
những người có tài và có ý thức môi
trường và cộng đồng.
7.9.2. Kinh nghiệm cho thấy các dự án
du lịch cộng đồng sẽ bền vững khi được
mọi người đóng góp sức lao động và tiền
của. Các dự án thành công khi mọi người
đều có lợi ích trong đó. Khi thấy được lợi
98
Chiến lược và giải pháp đối với các vấn đề quản lý du lịch
ích của dự án, họ sẽ sẵn sàng góp công góp
sức. Ở Dự án Khu Bảo toàn Annapurna
của Nepal, người ta hy vọng mọi người sẽ
đóng góp tiền bạc và sức lao động vào các
dự án phát triển cộng đồng. Chủ nhà nghỉ
nào nâng cấp các phương tiện thì được hỗ
trợ về kỹ thuật và đào tạo, kể cả việc giúp
nâng cao tiêu chuẩn của các nhà nghỉ đó.
7.9.3. Các chương trình du lịch cộng
đồng có thể có hiệu quả hơn nếu được
giới thiệu từng bước và gắn với các
chương trình phát triển kinh tế khác.
Người ta khuyên nên giới thiệu dần dần vì
những tác động tiêu cực tiềm ẩn về kinh tế
xã hội. Các cộng đồng dân cư cần có thời
gian để thích nghi với thực tế của ngành
công nghiệp này, để giải quyết những vấn
đề bắt nguồn từ lượng du khách đổ tới và
để có kế hoạch nắm bắt và duy trì lợi ích
kinh tế từ du lịch một cách có hiệu quả.
Mong đợi các lợi ích kinh tế thường làm
mọi người thất vọng vì những bất cập tại
địa phương. Ví dụ, khách nước ngoài có
thể đòi hỏi các tiêu chuẩn ăn ở vượt quá
khả năng đáp ứng ngay tức thì của địa
phương. Vì vậy, chỉ sau khi những vấn đề
cơ bản đã được giải quyết thì dân địa
phương mới có thể thấy được các lợi ích
kinh tế. Việc thực hiện từng bước có thể
làm tình hình thêm phức tạp, vì dân chúng
sốt ruột chờ đợi các lợi ích kinh tế.
Những vấn đề như vậy có thể sẽ giảm bớt
khi các chương trình tạo thu nhập được
thực hiện đồng thời và cộng đồng không
chỉ trông chờ vào du lịch. Ví dụ, các dự án
ở những khu vực được bảo vệ có thể gồm
các chương trình phát triển nông-lâm
nghiệp và phát triển các nguồn lực khác
mang lại lợi ích kinh tế như các vụ thu
hoạch lương thực và gỗ làm củi. Những
giải pháp này có thể làm dịu đòi hỏi phải
phát triển du lịch nhanh hơn.
7.9.4. Khả năng mang lại lợi ích cho
người dân địa phương của du lịch là một
chức năng của nguồn lực và kỹ năng
hiện có có thể được sử dụng để tạo thu
nhập. Các dự án du lịch cộng đồng cần bắt
đầu bằng việc đánh giá các nguồn lực và
kỹ năng tại địa phương để xem các hoạt
động nào là phù hợp. Ví dụ, trong nhiều
trường hợp, cần có phương tiện vận
chuyển của địa phương hay hiểu biết về địa
hình phức tạp ở địa phương để hỗ trợ cho
các hoạt động du lịch; ví dụ, tại Vườn
Quốc gia Corcovado của Costa Rica, nơi
mà giao thông đường bộ tới vườn rất khó
khăn, nhưng đi máy bay lại quá tốn kém.
Các hoạt động khác cần đến kỹ năng
hướng dẫn và chuyên chở của địa phương
là leo núi, bộ hành xuyên rừng, câu cá, bơi
lặn và cưỡi ngựa. Các hoạt động chuyên
ngành hơn như quan sát chim muông và đi
bè trên sông suối thường đòi hỏi phải được
đào tạo và chỉ dẫn nhiều hơn. Cơ hội cho
các hoạt động này thường phụ thuộc vào
các chương trình đào tạo của chính quyền
hoặc các NGO và các hãng tổ chức tour có
quan tâm đến việc thu hút sự tham gia của
người địa phương.
Phân phối lợi ích cho địa phương thông
qua việc tạo các cơ hội việc làm
Khi Vườn chim Keoladeo của Ấn Độ trở
thành vườn quốc gia, những quy định mới
cấm lấy củi và thả gia súc đã ảnh hưởng
nghiêm trọng đến dân địa phương là
những người mà cuộc sống phụ thuộc vào
các nguồn lợi thiên nhiên nằm trong khu
vực vườn quốc gia. Để giảm nhẹ tác động
của việc này, người ta khuyến khích phát
triển du lịch làm nguồn thu nhập thay thế.
Keoladeo nằm trong tuyến du lịch “Tam
giác vàng” nối New Dehli, Agra và Jaipur
là một trong những khu thiên nhiên được
ưa chuộng nhất ở châu Á, hàng năm thu
hút khoảng 125.000 du khách mà 79% là
từ Ấn Độ.
Với lượng chim di cư và định cư lớn, bao
gồm cả loài sếu Siberia, Keoladeo nằm
trong danh sách những địa danh thu hút du
khách của nhiều hãng tổ chức tour du lịch
chuyên biệt. Để tận dụng các cơ hội du
lịch, phó giám đốc vườn quốc gia đã xây
dựng một chiến lược có tính sáng tạo
nhằm tạo nguồn thu nhập cho địa phương.
Việc chuyên chở và diễn giải do 108 người
đạp xích lô cùng 98 hướng dẫn viên hiểu
biết về thiên nhiên đảm nhận. Các loại
thuyền không lắp động cơ cũng được đưa
vào sử dụng, do các nhân viên được tuyển
99
7
Chiến lược và giải pháp đối với các vấn đề quản lý du lịch
7
dụng dài hạn từ các khu vực lân cận điều
khiển, tạo thêm việc làm cho người địa
phương. Thêm vào đó, 60% nhân viên
vườn quốc gia được tuyển dụng từ các
làng xã gần các khu vực được bảo vệ. Ban
quản lý vườn quốc gia đăng báo địa
phương tìm người đạp xích lô. Những
người này được đào tạo ba tháng về lịch
sử tự nhiên và văn hóa của vườn quốc gia,
cũng như của cộng đồng và của các khu du
lịch. Xe xích lô được gắn biển đăng ký màu
vàng bằng kim loại, được phép hoạt động
cả bên trong và bên ngoài khu vực vườn
quốc gia. Một hệ thống quay vòng được sử
dụng để tránh việc tranh cãi vì tranh giành
khách.
Các hướng dẫn viên du lịch người địa
phương cũng được đào tạo về lịch sử tự
nhiên, các kỹ năng diễn giải, quản lý du
khách và ngôn ngữ. Giấy phép hành nghề
hướng dẫn du lịch được đổi vào tháng 7
hàng năm sau khi họ hoàn thành tốt khóa
bổ túc nghề. Những năm gần đây người ta
có xu hướng tuyển dụng người từ các
nhóm thu nhập thấp không có việc làm,
nhất là thanh niên ở các vùng thôn quê.
Khoảng 1/3 số hướng dẫn viên du lịch
được tuyển từ các cộng đồng dân cư lân
cận. Trước đây, người ta đòi họ phải có
bằng tốt nghiệp trường dạy bằng tiếng
Anh, nhưng các hướng dẫn viên nói tiếng
Hindi cũng được chấp nhận vì 70% du
khách là khách nội địa.
Các vấn đề tài chính theo mùa du lịch
Mặc dù thu nhập hàng ngày của người đạp
xích lô là khá cao trong mùa cao điểm ở
Keoladeo, khi lượng khách giảm đi theo
mùa chim di cư thì chỉ còn một ít người có
thể tiếp tục hành nghề. Trong khi nhiều
người có việc làm trong khu vực trong thời
gian cuối mùa du lịch, một số được thuê
thu dọn cỏ lác trong những khu vực đầm
lầy của vườn quốc gia.
Phụ thu sinh thái
Các hãng tổ chức tour và du khách có thể
đóng góp trực tiếp cho vườn quốc gia
Keoladeo và những dự án phát triển của
vườn. 75% tiền lệ phí và đóng góp tự
nguyện được đưa vào quỹ dự án đặc biệt
do Hội Phát triển Vườn quốc gia Keoladeo
bao gồm ban quản lý vườn, chính quyền
quận, đại diện cộng đồng làng xã, các
NGO địa phương và đại diện của các ban
quản lý nông nghiệp, chăn nuôi, giáo dục,
thủy lợi, du lịch và các cơ quan thủy nông.
Thành công của dự án phụ thuộc vào tính
minh bạch, trong đó vai trò của những
người tham gia được xác định rõ ràng.
7.9.5. Chi phí lao động cần được xem
xét thực tế khi phân tích tiềm năng của
cộng đồng. Chẳng hạn, nếu chỉ cần rất ít
vốn hoặc không cần vốn, ví dụ để xây
dựng một nhà khách nơi trước đây dành
cho trẻ em nay chuyển thành phòng dành
cho du khách, thì dự án có thể sẽ hấp dẫn.
Ngoài ra, nếu thời gian làm du lịch không
thể được sử dụng tốt hơn cho những mục
đích khác, chẳng hạn vì ngoài du lich có
rất ít các cơ hội việc làm khác, thì dự án du
lịch cộng đồng có thể vẫn đáng thực hiện
cho dù mức lương có thể thấp.
7.9.6. Kinh nghiệm cho thấy du lịch
thường không đem lại lợi ích kinh tế
chung cho địa phương nếu ít sử dụng các
hướng dẫn viên người địa phương. Các
công ty du lịch và các khách sạn thường có
khuynh hướng không thích sử dụng hướng
dẫn viên người địa phương. Tại một số
nước và một số khu vực được bảo vệ,
người ta buộc phải sử dụng các hướng dẫn
viên không đủ kỹ năng, một việc bị coi là
lãng phí tài chính.
Có thể giảm nhẹ vấn đề này bằng cách đào
tạo chuyên sâu về ngôn ngữ và kỹ năng
thuyết minh cho các hướng dẫn viên du
lịch người địa phương. Những người có
chuyên môn cao dễ được các hãng du lịch
chấp nhận hơn. Khi các hãng lữ hành và
chính quyền nhận thức được rằng việc bảo
vệ khu di sản và sự thành công của thương
mại du lịch phụ thuộc vào sự ủng hộ của
địa phương, thì họ bắt đầu hiểu rằng chấp
nhận việc tuyển dụng và đào tạo người địa
phương cũng có lợi cho họ.
7.9.7. Tăng thu nhập của khu di sản để
mang lại lợi ích cho địa phương. Chi phí
100
Chiến lược và giải pháp đối với các vấn đề quản lý du lịch
và nguồn lợi từ cơ sở hạ tầng và các giải
pháp công nghệ cao cần được đánh giá
theo mục đích mang lại lợi ích cho địa
phương. Các nhà vạch kế hoạch ở Khu di
tích Copan Maya của Honduras nhận ra
rằng các khách sạn sang trọng có xu hướng
được xây dựng cách xa các trung tâm dân
cư, do đó hạn chế cơ hội việc làm cho
người địa phương. Nhận thấy phần lớn
khách nội địa có nguồn tài chính eo hẹp và
thích chỗ ăn nghỉ ngay tại địa phương, họ
đề nghị nâng cấp cơ sở hạ tầng và các dịch
vụ liên quan hiện có. Họ cũng cho rằng các
phương tiện du lịch tập trung, đơn giản
nhưng chất lượng tốt mang lại nhiều lợi ích
cho cộng đồng địa phương hơn là các
khách sạn hay nhà hàng cao cấp, đắt tiền
và các dịch vụ hướng dẫn khác. Những
dịch vụ này thường sử dụng lao động đưa
từ nơi khác đến, do bên ngoài đầu tư kiểm
soát và cố ý đặt xa các khu dân cư địa
phương.
Không nên thông qua các giải pháp kỹ
thuật cao đối với các vấn đề quản lý nếu
chưa xem xét nghiêm túc giá thành, lợi ích
và khả năng dễ áp dụng trên thực tế. Ở một
số nước có tỷ lệ thất nghiệp vốn đã cao,
những biện pháp này có thể làm nhiều
người mất việc hơn nữa. Ví dụ, sử dụng
lao động địa phương để lợp và duy trì mái
lá cọ nhằm bảo vệ các hiện vật bằng đá
khỏi bị hư hỏng thay vì sử dụng các hóa
chất là việc nên làm và rất hiệu quả. Tương
tự, máy cắt cỏ chạy điện rõ ràng hiệu quả
hơn cắt bằng tay, nhưng máy cần có phụ
tùng thay thế mà rất có thể là phải nhập từ
nước ngoài.
Lệ phí thu của khách có thể mang lại lợi
ích cho cả các khu vực được bảo vệ và các
cộng đồng địa phương. Hầu hết các nghiên
cứu về việc quản lý khu vực được bảo vệ
đều kiến nghị chính phủ nên có chính sách
cho phép lấy thu bù chi. Có thể thu phí vào
thăm vườn quốc gia hoặc khu di tích, lệ
phí cho các hoạt động khác như bơi lặn và
du lịch xuyên rừng, và cho nơi ăn nghỉ và
các dịch vụ cứu hộ.
Thu phí cũng là hợp lý vì người nào sử
dụng khu di sản thì phải trả tiền. Phí vào
cửa các khu vực công cộng như công viên
hoặc viện bảo tàng được duy trì ở mức
thấp, tạo điều kiện cho mọi người thuộc
nhiều tầng lớp xã hội có thể vào thăm. Để
thu được nhiều ngoại tệ hơn và tăng nguồn
thu, một số khu di sản đặt mức thu đối với
người nước ngoài cao hơn người trong
nước (ví dụ, 5.25 đô la đối với người nước
ngoài và 60 xu đối với khách nội địa tại
Khu di tích Copan Maya của Honduras). Ở
những nước mà hệ thống hai giá là bất hợp
pháp, có thể tiến hành quyên góp từ du
khách nước ngoài và các hãng lữ hành.
Cần lưu ý là ở nhiều khu di sản, tiền thu
được phải chuyển vào kho bạc trung ương,
chứ không dành cho các hoạt động ở khu
di sản.
Các chuyên gia cho biết ngành du lịch có
thể phản đối việc thu phí, cho dù du khách
sẵn sàng trả phí vào cửa cao hơn. Du khách
có xu hướng chấp nhận tăng lệ phí nếu biết
số tiền thu sẽ được dùng vào việc bảo vệ
và bảo toàn khu di sản, vì vậy họ muốn
biết tiền được sử dụng thế nào. Có thể thu
thập các số liệu về sở thích của du khách
để hỗ trợ cho việc tăng giá vé vốn gặp sự
chống đối của một số đối tượng có lợi ích
trong ngành du lịch.
Giảm mức thu từ các cá nhân, hoặc nhóm
được phép cung cấp dịch vụ trong khu di
sản cũng có thể tạo nguồn thu cho cả khu
di sản và cộng đồng địa phương. Những
thứ được giảm giá gồm đồ ăn thức uống,
nơi ăn nghỉ, chuyên chở, hướng dẫn viên
và dịch vụ bán lẻ. Phí miễn giảm và tiền
thuê bao có thể tạo thu nhập đáng kể cho
các khu di sản có nhiều khách tới thăm. Vì
vé miễn giảm thường thấp hơn so với mức
tổng thu cho nên các doanh nghiệp có thể
sẵn sàng trả phí cao hơn.
Khách lưu lại dài ngày hơn sẽ làm tăng
nguồn thu mà vẫn giữ được lượng khách ở
mức có thể kiểm soát. Việc có hệ thống
dịch vụ đa dạng cho du khách sẽ tăng thời
lượng trung bình mà khách lưu lại khu di
sản. Ở Copan, việc xây dựng chương trình
quảng bá, làm thêm những tuyến đường
mới, xây thêm trung tâm đón khách, phát
triển các dịch vụ hướng dẫn tư nhân và các
chương trình nghe nhìn vào buổi tối trong
thị trấn gần đó đã góp phần tăng thời lượng
101
7
Chiến lược và giải pháp đối với các vấn đề quản lý du lịch
7
khách lưu lại. Ở những khu di sản văn hóa
với cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, các
chương trình quảng bá có thể nhấn mạnh
đến những thắng tích có sức thu hút lớn.
Các hãng lữ hành có thể sẵn sàng mở rộng
lộ trình sang các danh lam thắng cảnh và
dịch vụ khác, do đó tăng thêm nguồn lợi
cho địa phương. Tại một địa điểm như khu
nghỉ mát chẳng hạn có thể bổ sung lộ trình
tham quan trong ngày cho du khách lựa
chọn. Những nơi này cần mang đến cho du
khách những trải nghiệm mới mẻ.
Việc thuê nhân viên người địa phương có
thể cải thiện công tác quản lý và mang lại
lợi ích cho địa phương. Kinh nghiệm ở
Australia cho thấy tầm quan trọng của việc
tạo công ăn việc làm và đào tạo thổ dân
thành nhân viên bảo vệ, liên lạc và cố vấn
chính sách.
Cho phép người địa phương bán sản phẩm
sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế cộng đồng
nhưng cũng nảy sinh nhiều vấn đề. Du
khách có thể cảm thấy lo ngại trước những
người bán hàng rong quá xông xáo, hoặc
người địa phương không đủ tiền trả cho
những thứ được ưu tiên miễn giảm có thể
sẽ sử dụng các khu vực không được phép
tại khu di sản. Ở Vườn Quốc gia Grand
Canyon của Mỹ, người da đỏ trước đây
bán đồ thủ công gần cửa ra vào và ở nhiều
nơi quan trọng khác, nay được gom vào
một khu chợ dành riêng cho họ.
7.10. Gợi ý và Khuyến nghị
• Trong quá trình giải quyết các vấn đề để
đưa ra các giải pháp quản lý, bước đầu tiên
là phân tích toàn bộ các chỉ báo và xác
định vì sao các tiêu chuẩn không được đáp
ứng. Thu thập thông tin về các nhóm gây
ra vấn đề (ví dụ, người sử dụng ban ngày
so với du khách lưu lại dài hơn, v.v.) sẽ
giúp tập trung được các nỗ lực đúng
hướng.
• Khi đánh giá các biện pháp, việc xem
xét các phương pháp trực tiếp và gián tiếp
khác nhau có thể là việc làm bổ ích. Có
thể có được các thông tin đầu vào có giá trị
bằng cách rà soát lại các mục đích và mục
tiêu qua thảo luận với nhân viên và thành
viên ban tư vấn trong khi nghiên cứu các
kịch bản là hệ quả của các chiến lược và
biện pháp khác nhau. Nên bắt đầu bằng
cách bàn về các chiến lược gián tiếp như
quảng bá, truyên truyền giáo dục; sau đó
chuyển sang các hành động trực tiếp như
cưỡng chế, phạt, hệ thống cấp phép, v.v.
• Các biện pháp gián tiếp có thể đủ để
giải quyết những vấn đề chưa bức thiết
lắm: chẳng hạn một khu vực nguy hiểm
nhưng chưa đến mức phải đóng cửa, hoặc
lượng khách tham quan tăng nhưng không
quá nhanh. Có thể đánh giá tác động của
các biện pháp này trước khi đưa ra các
biện pháp hạn chế chặt hơn. Những khu di
sản với số lượng nhân viên và nguồn tài
chính hạn hẹp có thể không có lựa chọn
nào hơn là các biện pháp gián tiếp.
• Cần kết hợp các biện pháp để có được
kết quả tốt nhất. Ví dụ, chiến dịch thông
tin tuyên truyền có thể kết hợp với kế
hoạch theo kiểu ROS (Dải cơ hội giải trí)
phân tán người sử dụng. Chiến dịch tuyên
truyền giáo dục có thể khuyến khích việc
phân tán các nhóm sử dụng tới các khu vực
tách biệt nhau. Chẳng hạn, những người
đạp xe leo núi được khuyến khích sử dụng
nhiều tuyến đường chất lượng tốt, tránh xa
các khu vực có du khách quan sát chim
muông hoạt động.
• Tính toán chi phí cho các biện pháp
khác nhau trên cơ sở nguồn nhân lực và
các nguồn lực khác cũng sẽ thấy được biện
pháp nào là hiệu quả.
• Không được tiến hành các biện pháp
quản lý nếu chưa phân tích thấu đáo và
hiểu rõ tầm quan trọng về mặt văn hóa-xã
hội của một khu di sản đối với người dân
trong cộng đồng, như xây dựng cơ sở hạ
tầng ở một khu vực linh thiêng đối với họ
chẳng hạn.
• Có thể tạo bầu không khí tích cực để
giới thiệu các biện pháp quản lý bằng cách
lôi cuốn những người có lợi ích vào việc
vạch kế hoạch. Quan hệ đối tác giữa những
nhóm có lợi ích sẽ thúc đẩy đối thoại hoặc
với nhóm làm nảy sinh vấn đề hoặc với các
nhóm bị ảnh hưởng. Có thể giới thiệu cho
các nhóm này về yêu cầu của khu di sản và
102
Chiến lược và giải pháp đối với các vấn đề quản lý du lịch
lý do đằng sau một chính sách nào đó. Hội
đồng tư vấn du lịch là một cơ chế có hiệu
quả trong việc thu hút nhiều đối tác có lợi
ích liên quan vào các vấn đề quản lý du
khách. Ngoài ra, các quy định sẽ đưa ra
cũng cần sự ủng hộ của công chúng nếu
muốn thực hiện thành công.
• Nói chung, ở những khu di sản thiên
nhiên với các nguồn lực hạn chế, cần
khuyến khích các chiến lược tập trung du
khách. Cần tránh chiến lược phân tán trừ
phi có đủ nguồn lực cho các chiến dịch
tuyền truyền giáo dục và kiểm soát việc
thực hiện các quy định. Nếu cần mở cửa
một khu vực cho một nhóm người mới,
chẳng hạn mở tuyến đường mới cho người
đạp xe leo núi, thì chí ít cũng cần đối thoại
thân mật, không mang tính đối đầu với các
du khách mới tới.
• Ở các khu di sản văn hóa, việc phân tán
du khách sẽ hiệu quả nếu có đủ nhân viên
bảo đảm công tác bảo vệ.
• Lôi cuốn những người có lợi ích vào
các hoạt động quản lý có thể hỗ trợ cho
quá trình thực hiện. Các chủ khách sạn có
thể sẵn sàng đóng góp vào việc thực hiện
các chương trình tuyên truyền, phổ biến
thông tin cho người sử dụng về những cách
ít gây tác động nhất. Học sinh các trường
cũng có thể đóng góp công sức của mình.
Các nhân viên khu di sản có thể liên hệ với
báo chí và tiến hành các chiến dịch tuyên
truyền giáo dục với sự hỗ trợ của một đối
tác có lợi ích nào đó, phổ biến tin tức về
các chính sách quản lý và các hoạt động ở
khu di sản.
• Quan hệ liên kết giữa các đối tác cũng
góp phần thúc đẩy các nỗ lực thực hiện
chung. Đối tác trong các cộng đồng địa
phương, những người đồng tình với
chương trình bảo vệ và bảo tồn chính là
lực lượng phòng thủ tốt nhất trước các
hành vi phi pháp. Chi phí cho các nhân
viên thực thi pháp luật như kiểm lâm hoặc
tuần tra an ninh tại những khu di chỉ khảo
cổ thường là cao, vì vậy có thể sử dụng
người địa phương, đồng minh của khu di
sản để thông báo về những hành vi phi
pháp. Tuyên truyền giáo dục người địa
phương về những nỗ lực kiểm soát các
hành vi phi pháp tại khu di sản, tuy chắc
chắn không phải là phương thuốc chữa
bách bệnh, nhưng có thể có thêm sự ủng
hộ và khuyến khích hợp tác trong các nỗ
lực phát hiện kẻ vi phạm.
• Hiểu được khả năng của địa phương sẽ
giúp xác định hoạt động nào là khả thi.
Nên biết rằng không phải ai cũng mưu cầu
lợi trực tiếp, nhưng lợi ích từ dự án sẽ hỗ
trợ cho các hoạt động phát triển cộng đồng.
Cần cho mọi người thấy rõ mối liên hệ
giữa dự án du lịch, những nguồn lợi nó
mang lại và các hoạt động bảo toàn.
Gợi ý hoạt động
1. Nếu các tiêu chuẩn không được đáp
ứng, cần tìm hiểu tại sao
● rà soát lại danh mục các chỉ báo và các
yếu tố nhân-quả liên quan
● nếu tác động là do du khách gây ra, cần
xác định rõ các loại khách liên quan
● tiến hành đối thoại với nhóm đó
rồi quyết định các biện pháp quản lý
● đánh giá hiệu quả của các biện pháp
trực tiếp và gián tiếp đối với một tác động
nào đó, kể cả các yếu tố kinh tế, xã hội và
văn hóa của địa phương; bắt đầu bằng các
biện pháp gián tiếp, sau đó nhanh chóng
chuyển sang các chiến lược trực tiếp
• thảo luận với nhân viên và các thành
viên ban tư vấn về các tình huống mà các
biện pháp khác nhau có thể dẫn đến
• ước tính chi phí cho các biện pháp
khác nhau, có tính đến nhu cầu về nhân
lực, và quyết định có nên kết hợp một số
biện pháp với nhau hay không
2. Thông báo cho những người liên quan
về các biện pháp đang được tiến hành.
• đưa các biện pháp được đề xuất ra thảo
luận tại hội đồng tư vấn du lịch
• đối thoại với những người có thể bị ảnh
hưởng, chứng minh cho họ thấy yêu cầu
của khu di sản và giải thích tại sao cần áp
dụng một số biện pháp nào đó và cách thức
áp dụng
• cố gắng đi tới thỏa thuận giữa các đối
tác và lôi cuốn những người có lợi ích vào
việc thực hiện các biện pháp quản lý
103
7
Chiến lược và giải pháp đối với các vấn đề quản lý du lịch
7
Gợi ý sách tham khảo
• Pauline Chase-Harrell: “Sử dụng các kỹ
thuật phiên dịch để tăng sự hiểu biết của
khách và giảm sức ép đối với các nguồn
lực dễ biến động: Bờ Tây sông Nin ở thung
lũng Lu-xo” trong Các khía cạnh quốc tế
của Các công viên văn hóa: Kỷ yếu Hội
nghị Thế giới lần thứ nhất, Vườn quốc gia
Mesa Merde, Colorado, 1984.
• David N. Cole, Margaret E. Petersen và
Robert C Lucas: “Quản lý việc sử dụng
các khu giải trí nơi hoang dã: Các vấn đề
chung và Giải pháp tiềm năng”, Báo cáo
kỹ thuật chung INT-230, Bộ Nông Lâm
nghiệp Mỹ, Trạm nghiên cứu liên sơn,
Ogden Utah, 1987.
• Bernard M. Felden và Jukka Jolilehto:
“Hướng dẫn quản lý các khu di sản văn
hóa thế giới”, Rome, ICCROM, 1993.
• John Glasson, Kerry Godfrey và Brian
Goodrey cùng Helen Absalom và Han Van
der Borg: “Tiến tới quản lý tác động của
du khách: Các tác động do du khách gây
ra, Năng lực thực hiện và Các giải pháp
quản lý ở Các thị trấn và thành phố lịch sử
của châu Âu”, Avebury, Aldershot, Anh,
1995.
• William E. Hammitt và David N. Cole:
“Các điểm giải trí nơi hoang dã”, Môi sinh
và Quản lý (tái bản có sửa đổi), NXB John
Wiley & con trai, 1/1999.
• Ấn phẩm của Chương trình không để lại
dấu vết, trong Trường quốc gia đào tạo
lãnh đạo các chương trình dã ngoại, Lander
Wyoming, Mỹ.
• Antoine Leclerc: “Phí sử dụng ở các
vườn quốc gia: Các vấn đề và quản lý”
trong Tạp chí Vườn quốc gia, tập 4, số 2,
trang 2-12, 6/1994.
• Peter E. Murphy: “Quản lý chất lượng
trong du lịch đô thị”, NXB John Wiley &
con trai, 1997.
• John Swarbrook: “Phát triển và Quản
lý Danh lam thắng cảnh”, NXB
Butterworth-Hainemann, 1995.
• Michael Wells, Scott Guggenheim,
Asmeen Khan, Wahjudi Wardojo và Paul
Jepson: “Đầu tư vào Đa dạng sinh học:
Xem xét lại các dự án bảo tồn và phát triển
lồng ghép của Indonesia”, Ngân hàng thế
giới khu vực Đông Á, Ngân hàng thế giới,
1999.
104
Quảng bá khu di sản
105
8
Quảng bá khu di sản
Quảng bá có thể đóng vai trò quan trọng
trong việc đáp ứng các mục đích và mục
tiêu về mặt giáo dục và tài chính. Nếu
khu di sản có thể có sức chứa lớn hơn,
và có cơ chế giữ lại nguồn thu từ du lịch,
thì nên quảng bá khu di sản để thu hút
thêm du khách và tạo thêm nguồn thu
bảo đảm cho các hoạt động lâu dài, giải
quyết các vấn đề quản lý và đáp ứng các
mục đích và mục tiêu đã đề ra. Có thể có
nhiều hoạt động quảng bá đơn giản và
chi phí thấp; nhà quản lý có thể lựa
chọn tiến hành những hoạt động thuộc
thẩm quyền của khu di sản. Ngoài ra,
nhiều kỹ năng và tư liệu quảng cáo liên
quan trùng lặp với những cái đã được
sử dụng trong các chương trình tuyên
truyền quảng bá khác.
8.1. Quảng bá khu di sản để góp phần tìm
vốn cho các hoạt động quản lý
8.1.1. Một phần lệ phí thu từ du khách
phải được dành riêng để tài trợ cho các
hoạt động quảng bá. Đây là khởi đầu của
chu kỳ thu hút thêm du khách, do đó tăng
nguồn thu bảo đảm cho các hoạt động
khác. Cần phải có cơ chế giữ lại một phần
số tiền thu được. Nó sẽ tạo động cơ cần
thiết thu hút thêm lượng khách tới thăm.
Ngay cả khi đã có cơ chế như vậy, một số
khu di sản sẽ vẫn cần nguồn tài chính bên
ngoài để bắt đầu phát triển các tài liệu
quảng bá; có thể tiếp cận các tổ chức quốc
tế để tìm thêm nguồn tài trợ.
8.1.2. Trên cơ sở chính sách và các mục
tiêu quản lý của khu di sản, nhà quản lý
cần quyết định loại khách nào là mục tiêu
của chiến dịch quảng bá. Một số loại
hình du lịch phù hợp với mục đích và mục
tiêu của khu di sản hơn các loại khác.
Trong bất cứ hoạt động quản lý nào, các
chiến dịch quảng bá cần phải phản ánh tầm
nhìn, chính sách và các mục tiêu của khu
di sản đã được công bố. Ví dụ, ở những
khu di sản thiên nhiên, nếu phát triển kinh
tế địa phương là một mục tiêu, thì các nhà
quản lý có thể muốn quảng cáo các hoạt
động quan sát chim muông hoặc lữ hành
xuyên rừng ở những nơi có thể thuê được
người địa phương làm hướng dẫn viên
hoặc lái xe. Tại một di chỉ khảo cổ có hiện
tượng ăn cắp cổ vật bán cho thị trường đồ
trộm cắp, có thể xây dựng một chương
trình quảng bá thu hút những khách khá
giả hơn sẵn sàng trả thêm lệ phí để hỗ trợ
cho một hợp tác xã thủ công mỹ nghệ làm
các phiên bản cổ vật chất lượng cao. Sau
đó, những thứ này sẽ được bày bán để thỏa
mãn một phần nhu cầu mà lâu nay giới
buôn bán đồ cổ phi pháp vẫn đáp ứng.
8.1.3. Việc chia du khách thành các
nhóm theo đặc điểm, thường được gọi là
“phân đoạn thị trường”, sẽ cho phép các
nhà quản lý thiết lập mối liên kết quảng
cáo có chỉ đạo giữa khách hàng và các tổ
chức khác nhau. Quá trình phân đoạn đòi
hỏi phải nghiên cứu đặc điểm và sở thích
của du khách muốn đến thăm khu di sản.
Các bộ phận khách hàng nổi bật có thể
gồm những người thuộc các hội bảo tàng
hoặc các tổ chức bảo vệ động thực vật
hoang dã. Việc xác định những người có
động cơ và nhu cầu giống nhau sẽ cho
phép nhà quản lý tính toán cần loại tài liệu
quảng cáo nào. Lấy một ví dụ đơn giản:
đối với du khách lớn tuổi, tài liệu quảng
cáo phải in chữ to hơn và có thể ghi rõ
những dịch vụ đặc biệt dành cho người cao
tuổi.
Để được lựa chọn trong hoạt động quản lý,
một phân đoạn thị trường phải có đủ ba
đặc điểm sau đây:
• có thể đánh giá được.
• dễ tiếp cận thông qua các hệ thống phân
phối quảng bá.
• hứa hẹn thu nhập sẽ tăng lên đủ và cao
hơn các chi phí cho việc phát hành các tài
liệu và các hoạt động quảng cáo.
8.1.4 Hiểu được cách du khách tìm kiếm
thông tin về khu di sản mà họ muốn tới
thăm sẽ giúp xác định cần tập trung các
nỗ lực quảng bá theo hướng nào. Ví dụ,
vì phần lớn “khách du lịch sinh thái” muốn
được xem gấu bắc cực ở Manitoba của
Canađa và thường tìm kiếm thông tin từ
các đại lý du lịch cho nên các nhà quản lý
khu vực này rất khôn ngoan, gửi ngay các
tài liệu quảng bá tới các đại lý du lịch. Tuy
nhiên, vì ít đại lý du lịch có thể hoặc sẵn
106
Quảng bá khu di sản
sàng “ôm” hàng đống tài liệu quảng cáo,
và họ cũng không được chuẩn bị tốt để trả
lời du khách về những vấn đề chuyên môn,
nên tốt hơn là gửi một cuốn sách quảng
cáo mỏng, sau đó tiếp xúc riêng với họ để
thông báo ngắn gọn về những thắng tích
của khu di sản và các vấn đề hậu cần liên
quan để đến khu di sản.
8.1.5 Phát triển một chủ đề, sử dụng
một thông điệp chính để quảng cáo sẽ góp
phần mở rộng tiếp thị và các tài liệu
quảng bá khu di sản. Kết hợp những yếu
tố hấp dẫn nhất của khu di sản để đưa ra
những khẩu hiệu quảng bá dễ nhớ, “nghe
kêu” sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc
thiết kế và soạn thảo các tờ rơi và vật trưng
bày. Ví dụ, một vườn quốc gia có thể được
quảng bá là “một bí mật được giữ gìn cẩn
mật nhất ở vùng biển Caribe”, hoặc là nơi
mà “thiên nhiên hàng tỷ năm gặp lịch sử
hàng ngàn năm”.
8.1.6 Phân tích điểm mạnh, điểm yếu,
các cơ hội và mối đe dọa (SWOT) có thể
được dùng để xác định những khoảng
trống giữa chiến lược quảng bá của khu
di sản với các xu hướng du lịch. Phân tích
kiểu SWOT là một công cụ marketing
được sử dụng để đánh giá năng lực quảng
bá bằng cách xem xét những điểm mạnh và
điểm yếu trong việc tổ chức quảng cáo, các
nguồn tài chính/nhân lực và trong chiến
lược quảng bá hiện tại. Điểm mạnh và
điểm yếu được coi là những yếu tố trong
tầm kiểm soát của khu di sản, còn cơ hội
và nguy cơ là những yếu tố bên ngoài.
Phân tích trên sẽ cho ta một biểu bảng để
so sánh các kết quả với nhau.
• những người đảm nhận tiếp thị và hình
ảnh mà họ quảng bá; ví dụ cách thức các
công ty lữ hành xây dựng hình ảnh về khu
di sản so với chính các tài liệu quảng bá
của khu di sản.
Các cơ hội và mối đe dọa bao gồm:
• các yếu tố chính trị, trong đó có những
quy định pháp lý của chính phủ.
• các yếu tố kinh tế.
• các yếu tố xã hội.
• cạnh tranh, xác định các đối thủ cạnh
tranh và phân tích điểm mạnh, điểm yếu
của họ.
Phương pháp phân tích này có điểm hạn
chế là nó được tiến hành ở một thời điểm
nhất định, nhưng lại định hướng chính sách
trong nhiều năm; trong thời gian đó, nhiều
khả năng có những thay đổi bên trong và
bên ngoài đòi hỏi cần thay đổi chiến lược
quảng bá.
Điểm mạnh và điểm yếu bao gồm:
8.1.7 Các nhà quản lý không có đủ thời
gian hoặc nhân lực để thực hiện các
nhiệm vụ quảng bá có thể xem xét tìm
kiếm sự trợ giúp từ bên ngoài. Những
việc như viết bài cho các nhà xuất bản sách
hướng dẫn du lịch, tạp chí và báo chí để
quảng bá các thắng tích của khu di sản và
thông báo về những vấn đề quản lý hiện tại
đòi hỏi nhiều thời gian và sự đua tranh đối
với nhà quản lý. Cách giải quyết là giao
cho một tổ chức quảng cáo độc lập đại diện
cho các nhóm lợi ích khác nhau. Tổ chức
này có thể phân tích thị trường du lịch và
thực tế quản lý của khu di sản. Một đặc
điểm khác của tổ chức độc lập loại này là
nó có thể làm cầu nối giữa các nhóm lợi
ích đang cạnh tranh nhau.
• cách tiếp thị về khu di sản; ngân sách
dành cho tiếp thị; các biện pháp tiến hành,
mức độ cũng như thực chất việc nhân viên
tham gia vào các nỗ lực tiếp thị.
• các sản phẩm du lịch, bao gồm cả chất
lượng dịch vụ, hình ảnh và danh tiếng của
khu di sản.
• một hồ sơ về loại du khách phổ biến.
• các nguồn cung cấp, chất lượng hàng
hóa và dịch vụ.
Một tổ chức như một NGO có quan hệ với
khu di sản, hiểu biết hoạt động của ngành
du lịch, hay một tổ chức của chính phủ có
quyền điều phối tất cả những người cùng
lợi ích cũng có thể đảm nhận vai trò này.
Một tổ chức độc lập được thành lập để
thúc đẩy quảng bá du lịch và vườn quốc
gia vùng Hồ Baikal của Nga đã cho in
cuốn sách hướng dẫn du lịch, trong đó có
tên các hãng tổ chức tour và hướng dẫn du
107
8
Quảng bá khu di sản
8
lịch địa phương, và phân phối sách này ở
Bắc Mỹ, châu Âu và Nhật Bản.
Nếu huy động tổ chức bên ngoài thì phải
cho họ biết rõ phương hướng hành động,
để kết quả thu được phản ảnh mục tiêu và
mục đích của khu di sản. Ví dụ, nếu mục
tiêu là hỗ trợ các nhà doanh nghiệp địa
phương, như các hãng công ty tổ chưc tour
du lịch đường bộ, thì tổ chức này phải bảo
đảm thúc đẩy cả các hãng tổ chức tour du
lịch lớn nhỏ của địa phương, hoặc các công
ty quốc gia và khu vực.
8.1.8 Phát triển “bản sắc du lịch” của
khu di sản là một yếu tố chủ yếu của
chiến lược quảng bá. Dựa trên các mục
đích, mục tiêu và tiềm năng thị trường của
khu di sản, bản sắc này dễ hội nhập với
khu di sản và in đậm trong tâm trí của các
du khách tiềm năng. Chẳng hạn, có thể tập
trung vào việc sử dụng một tranh tường nổi
tiếng hoặc một loài động vật có nguy cơ
tuyệt chủng để xây dựng biểu trưng cho
các hoạt động quảng cáo trong tương lai.
8.2 Chiến lược quảng bá khu di sản
8.2.1 Sách hướng dẫn du lịch quốc tế có
thể là nguồn quảng bá không mất tiền.
Các sách hướng dẫn là nguồn thông tin
được du khách ưa chuộng khi họ lên kế
hoạch du lịch, và chúng có sẵn ở hầu hết
các nước và các khu vực trên thế giới. Vì
các thông tin thường xuyên thay đổi, cho
nên sách tái bản luôn được cập nhật và các
biên tập viên thường sẵn sàng cung cấp
thông tin miễn phí. Việc này tạo cơ hội
chuyển tải tới người đọc trên diện rộng các
thông tin về khu di sản, những danh lam
thắng cảnh và dịch vụ du lịch ở địa
phương.
Mẫu Phiếu dữ liệu cung cấp cho các biên
tập viên sách hướng dẫn du lịch, tạp chí
và các báo.
Dự án________ là sáng kiến du lịch mới ở
khu di sản thế giới____________(tên di
sản) với sự tham gia của các thành viên
cộng đồng địa phương và các tổ chức phi
chính phủ. Ý tưởng của dự án là phát triển
một tuyến đường lịch sử chạy
qua___________(tên cộng đồng) nhằm thu
hút du khách, tạo việc làm và thu nhập cho
người địa phương. Nguồn lợi kinh tế thu
được từ dự án này sẽ khuyến khích dân địa
phương bảo tồn di sản văn hóa phong phú
của khu vực.
Khu vực này chỉ cách__________(địa
danh)_______km. Tuyến du lịch bắt đầu từ
cửa chính, quanh qua các phố xá và khu
vườn cổ của __________ (tên địa danh),
tạo cho du khách cơ hội thăm thú nhiều
khu nhà lịch sử và các chùa Phật. Các đồ
thủ công mỹ nghệ chất lượng cao được bày
bán trong các chợ địa phương dọc hai bên
đường.
Đi lại
Ra vào________ (tên địa danh) tương đối
dễ. Từ_________(tên thị trấn hoặc thành
phố gần đó) có thể đi ô tô hoặc tắc xi đến
rất thuận tiện, chỉ mất khoảng nửa tiếng.
Ở____(tên thị trấn, thành phố), có thể thuê
tắc
xi
tại
khách
sạn______với
giá_______đô la. Du khách cũng có thể đi
xe buýt số____và số______ liên tục chạy
từ quảng trường chính.
Chỗ ăn ở
Nếu du khách muốn nghỉ qua đêm, sẽ có
hai nhà trọ do địa phương quản lý là
___________ và_________. Nơi ăn nghỉ
đơn giản nhưng sạch sẽ. Giá thuê phòng
đơn là_________đô la và phòng đôi
là_______đô la. Quý khách có thể gọi điện
hoặc fax đặt chỗ theo số dưới đây. Hai
khách sạn tuyệt hảo phục vụ các món ăn
sạch sẽ, bổ khoẻ cũng nằm ngay trong khu
vực cộng đồng và sẵn sàng chào đón
khách doanh nhân.
Các nỗ lực bảo tồn
Vì tâm điểm của dự án là bảo tồn và bảo
vệ di sản, nên các thành viên cộng đồng
quản lý tuyến du lịch luôn quan tâm đến
tác động của du lịch đối với các toà nhà
lịch sử cũng như với văn hóa địa phương.
Du khách được khuyến khích tôn trọng và
có ý thức đối với các giá trị văn hóa địa
phương và tuân thủ những quy tắc đơn
108
Quảng bá khu di sản
giản khi thăm các di tích và đền chùa. Nếu
du khách đi theo nhóm nhỏ thì tốt hơn, phù
hợp với mục tiêu của ban quản lý là tạo
điều kiện giúp du khách có được những
trải nghiệm thanh bình và thảnh thơi. Dự
án cũng tích cực theo dõi (tác động đối với
các toà nhà lịch sử, văn hóa địa phương,
vân vân...) để bảo đảm các danh thắng này
được bảo vệ. Phí vào cửa _____(ví dụ 5 đô
la Mỹ) sẽ do nhân viên địa phương thu ở
đầu tuyến du lịch, trong đó du khách sẽ
được cung cấp một tờ rơi về tuyến đường
và các hướng dẫn cần thiết khi tới thăm
cộng đồng. Lệ phí này sẽ được trực tiếp sử
dụng trong các nỗ lực bảo tồn và bảo vệ
khu di sản. Số tiền thu hiện cũng đang
được dùng để đầu tư cho giáo dục văn hóa
tại các trường ở địa phương (nêu ví dụ cụ
thể về những dự án được thực hiện từ phí
du lịch thu được).
Nếu quý khách muốn có hướng dẫn viên
người
địa
phương,
xin
gọi______________(tên)
theo
số
máy________
Để có thêm thông tin, xin vui lòng liên hệ:
Tên____________
Điện thoại_______
Fax_____________
Thư điện tử__________
8.2.2 Cung cấp thông tin cho các tạp,
các báo du lịch, đài phát thanh và
Internet cũng là một cách quảng bá đỡ
tốn kém. Các tạp chí và báo chí du lịch
cung cấp miễn phí các thông tin về các địa
danh du lịch, còn đài phát thành và truyền
hình địa phương phát các thông tin này
như một dịch vụ công cộng. Đây có thể là
những nguồn quảng bá hữu ích cho khu di
sản. Các tạp chí trên chuyến bay của các
hãng hàng không sẽ tới tay nhiều bạn đọc,
và vì chúng được phát hành theo quý hoặc
hai tháng một lần, cho nên các bài viết sẽ
được lưu hành trong thời gian khá dài.
Phần lớn các ấn phẩm này với lượng thông
tin cần chuyển tải đều có trên Internet.
8
Mẫu đăng báo
Dự án__________ (tên dự án, địa chỉ khu
Di sản thế giới, thuộc thành phố, bang, mã
vùng, nước)
ĐỂ ĐĂNG NGAY
Địa chỉ liên hệ_____________________
Điện thoại_________________________
Fax_______________________________
(Tít lớn)
(Thành phố, Nước, Ngày tháng)
Cộng đồng_______________(thành phố,
bang, mã vùng, nước), một bộ phận thuộc
Di sản thế giới----------------- đón mời du
khách tới thăm tận mắt những thắng tích
văn hóa của trung tâm tôn giáo cổ kính
này. Theo một sáng kiến bảo tồn mới, dự
án____________(nêu tên đầy đủ) là tuyến
du lịch có hướng dẫn đi qua cộng đồng đã
được xây dựng nhằm gây quỹ và thúc đẩy
kinh tế để bảo tồn và bảo vệ những di sản
văn hóa phong phú của khu vực.
Con đường lịch sử chạy xuyên qua trung
tâm cộng đồng văn hóa phong phú này. Ở
nhiều nơi, nó len qua các di tích Phật giáo
cổ kính được làm từ gỗ tứ thiết sơn son
thếp vàng và chạm trổ tinh tế, qua một số
ngôi nhà được trùng tu đặc biệt nằm ngay
cạnh khu đền đài miếu mạo đẹp nhất.
Lệ phí__________ (ví dụ 5 đô la Mỹ) được
thu ở đầu tuyến đường ngay cổng vào thị
trấn. Phí này sẽ được sử dụng trực tiếp vào
các nỗ lực bảo tồn và bảo vệ di sản. Hiện
thời, số tiền thu được đang góp phần tài
trợ cho các nỗ lực trùng tu đang được tiến
hành và giáo dục văn hóa ở các trường
của địa phương. Để bổ trợ cho dự án,
nhiều cư dân đã mở mang những nơi ăn
nghỉ giản dị nhưng sạch sẽ trong những
ngôi nhà truyền thống được trùng tu.
Tuyến du lịch này được vạch rõ trong tờ
rơi bằng tiếng Anh, Pháp, Đức và Nhật.
Cùng đi với du khách sẽ có các hướng dẫn
viên du lịch thông thạo tiếng Anh, Pháp,
Đức và Nhật.
Cộng đồng__________(tên đầy đủ) chỉ
cách khu du lịch chính_________(tên địa
109
8
Quảng bá khu di sản
danh) khoảng nửa giờ; có thể thuê xe ca
hoặc tắc xi. Quý khách có thể sắp xếp
chương
trình
trước
qua
văn
phòng____________ở____. Xin liên hệ
với____________(tên người), theo số điện
thoại__________fax___________thư điện
tử_______. Quý khách có thể biết thêm
thông tin và tờ rơi qua Hội đồng du
lịch_____________(ví dụ New York,
Paris—cho địa chỉ, số điện thoại, vân vân...).
“những di tích còn lại của nghệ thuật
trang trí khảm Mông Cổ được bảo tồn tốt
nhất”, hoặc “12 cây số đường rừng đẹp
nhất, mở mang tốt nhất và dễ đi nhất”.
3. Tờ rơi cần miêu tả ngắn gọn những
danh thắng và những nơi kỳ thú của khu di
sản. Nếu những thắng tích gần đó có thể
thu hút thêm du khách tới khu vực thì cũng
nên đưa vào.
8.2.3 Có thể sử dụng tờ rơi để chuyển
tải thông tin về khu di sản tới nhiều
người đọc. Tờ rơi có thể gửi qua bưu điện
tới các văn phòng du lịch quốc gia, gồm
những thông tin như đã gửi cho các hãng
tổ chức tour du lịch, báo chí, tạp chí, đài
phát thanh truyền hình và các khách sạn.
Tuy nhiên, không giống như các tài liệu
quảng bá khác, tờ rơi thường tốn kém và
cần soạn thảo sao cho có thể sử dụng trong
một thời gian dài. Phần lớn mọi người đều
đọc khi nhận được tờ rơi. Tuy nhiên,
nghiên cứu cho thấy tờ rơi có tác động
nhiều hơn đối với người chưa tới thăm khu
vực lần nào nhưng ít khả năng thu hút
những người đã tới thăm.
4. Nếu tờ rơi để bày trên giá thì tít lớn cần
đặt ngay đầu trang bìa. Nếu trang bìa
không có ảnh, thì cần có những tít nhỏ để
thu hút mọi người đọc tiếp các trang sau.
Ví dụ, một tờ rơi có thể chạy tít lớn “Vườn
Thượng uyển Chitwan” với tít nhỏ “Thiên
đường Hoang dã”. Tất cả các tít lớn nhỏ,
phụ đề và nội dung phải được viết cẩn thận
thì tờ rơi mới có hiệu quả. Sắp xếp các
khoảng trống, ảnh và hình vẽ trong tờ rơi
là rất quan trọng. Tham khảo ý kiến trước
khi quyết định khuôn khổ của tờ rơi sẽ rất
có ích. Bìa sau của tờ rơi nên có các thông
tin chi tiết như tên và địa chỉ các khách
sạn tại địa phương cũng như các dịch vụ
du lịch khác.
Soạn thảo tờ rơi ( sổ tay du lịch)
1. Kích cỡ và cách sắp xếp trình bày phụ
thuộc vào mục đích của nó. Ví dụ, nếu tờ
rơi, sổ tay du lịch là để phân phát quốc tế,
nó cần được trình bày ở khổ 21x10cm theo
tiêu chuẩn quốc tế và trên giấy mỏng để
tiết kiệm bưu phí. Nếu nó được bày trên
giá tại các đại lý du lịch ở Mỹ, kích thước
tiêu chuẩn của tờ rơi là 4”x9” (10x20cmND). Nếu có bản đồ hoặc các thông tin
thực tế khác cho du khách tới thăm khu
vực, nó cần khổ nhỏ để có thể bỏ túi áo
hoặc túi xách. Những khổ lớn hơn có thể
được sử dụng nếu không phải gửi qua bưu
điện, mà phân phát ngay tại khu di sản
chẳng hạn. Hình thức thông dụng nhất là
gập ba hoặc gập bốn.
5. Trang trước của tờ rơi cần phải thu hút
sự chú ý của đối tương người đọc, tạo
được hình ảnh đẹp thuận lợi về điểm đến
của du lịch và kích thích họ đọc lại lần
nữa. Những tờ rơi chỉ liệt kê các danh lam
thắng cảnh thường không thành công.
Thay vì làm như vậy, cần ghi rõ những địa
chỉ bán tour nơi đến độc đáo, chú ý tới các
phân đoạn thị trường đặc biệt. Các nhà
nhiếp ảnh, thiết kế và soạn thảo nội dung
cũng như các nhà quản lý cần phối hợp nỗ
lực để nội dung bài viết bổ trợ và làm nổi
bật ảnh đi kèm. Tờ rơi cần trung thực về
điều kiện và thay đổi của các mùa vì du
khách khi xem những ảnh minh họa thấy
khu di sản trong những điều kiện thuận lợi
nhất có thể sẽ hẫng hụt nếu tới thăm vào
ngoài mùa du lịch.
2. Các minh họa, ảnh và tít nhỏ cần được
sắp xếp sao cho có thể thu hút sự chú ý của
người đọc. Cần sử dụng ngôn ngữ ngắn
gọn, sinh động và chân thực để miêu tả
cộng đồng và các danh lam thắng cảnh.
Nhấn mạnh những điểm chính, chẳng hạn,
6. Tờ rơi không cần có quá nhiều thông
tin; chỉ có một vài ảnh nhỏ thường cũng sẽ
chẳng giúp người đọc nắm bắt được những
đặc điểm chủ yếu của khu di sản. Cũng nên
tránh ngôn ngữ quá trang trọng hay có vẻ
cửa quyền. Người ta thường không đọc các
110
Quảng bá khu di sản
quảng cáo về các điểm du lịch từ đầu đến
cuối như đọc tiểu thuyết. Họ thường đọc
lướt tít lớn, nhìn qua các ảnh minh họa và
xem những chú giải trước khi quyết định
có đọc tiếp bài viết hay không.
7. Những chỉ dẫn quan trọng:
• Luôn dùng khổ tờ rơi đúng theo tiêu
chuẩn quốc tế.
• Nếu không có những lý do xác đáng để
theo phương pháp in nhiều ảnh, thì tốt hơn
chỉ cần một ảnh đẹp ở trang bìa.
• Tờ rơi cần có bản đồ ghi rõ các địa
danh, thành phố và điểm đến khác gần khu
di sản.
• Các địa chỉ liên hệ và số điện thoại cần
có mã gọi quốc tế và các văn phòng ở
nước ngoài nếu được.
8.2.4 Liên hệ trực tiếp với các hãng tổ
chức tour là một biện pháp hữu ích làm
họ quan tâm tới khu di sản. Các hãng tổ
chức tour bao giờ cũng tìm kiếm những
danh lam thắng cảnh mới để bán tour cho
khách hàng. Các hãng tổ chức tour, đặc
biệt là những hãng chuyên về du lịch
chuyên biệt rất thích nhận được tờ rơi và
thông tin về cộng đồng địa phương. Liên
hệ trực tiếp với các tổ chức tour sẽ tránh
phải thông qua các đại lý du lịch và do đó
tăng cường cơ hội họ có phản hồi tích cực.
Mẫu chỉ dẫn du khách
Một cuốn sách bỏ túi hướng dẫn du khách
tới các khu người da đỏ ở Alberta và khu
Columbia thuộc Anh ở Canada đã mô tả
các hãng kinh doanh do cộng đồng và nhà
thầu địa phương điều hành, cũng như quan
hệ đối tác giữa thổ dân và người không
phải dân bản xứ. Sách cũng chứa đựng
thông tin về những nơi hấp dẫn liên quan
mà không nhất thiết do người da đỏ quản
lý, như bảo tàng chẳng hạn. Nó có những
lời khuyên thực tế về việc du khách có thể
có những cuộc gặp gỡ lý thú với nền văn
hóa bản xứ của Canada ở đâu và bằng
cách nào.
8.2.5 Việc xây dựng một bộ thông tin
đầy đủ về những danh thắng và dịch vụ
của khu vực có thể góp phần hướng
nguồn lợi tới tay dân cư địa phương. Nếu
một trong những mục tiêu của chương
trình du lịch ở khu di sản là mang lại lợi
ích cho các cộng đồng địa phương, thì một
cuốn sách hướng dẫn bằng nhiều thứ tiếng
trong cộng đồng có thể là một công cụ
quảng bá có giá trị. Nó có thể hướng du
khách đến những địa điểm và danh thắng ở
khu vực xung quanh, cung cấp một bức
tranh chi tiết về những gì khu vực có thể
đáp ứng, như ăn tối, mua sắm và nghỉ ngơi
ở đâu. Thông tin này đặc biệt có ích trong
việc thu hút những du khách đi lẻ. Một tập
tài liệu như vậy cần được phân phát tại
những điểm then chốt như khách sạn trong
các thành phố lớn, các văn phòng du lịch
quốc gia, hoặc các cơ quan đại diện ở nước
ngoài. Nếu khu di sản có hệ thống internet,
những thông tin trên có thể được phổ biến
qua mạng. Bằng cách bàn về những quy
định, những điều cấm kỵ và những việc
làm có ích cho việc bảo tồn, sách hướng
dẫn cũng có thể được sử dụng như một
công cụ quản lý nhằm đem lại cho du
khách một cách ứng xử như mong đợi.
Cộng đồng địa phương cũng có thể soạn
thảo một cuốn sách như vậy với sự giúp đỡ
của ban quản lý khu di sản. Một tổ chức
phi chính phủ địa phương có thể cung cấp
thời lượng sử dụng máy tính và các dịch vụ
dịch thuật miễn phí. Bán sách này cho dù
nó rất đơn giản có thể giúp trang trải các
chi phí sao chụp trong tương lai.
Các chương trình tài trợ từ bên ngoài
Ngành công nghiệp du lịch cho thấy càng
ngày người ta càng quan tâm đến việc tài
trợ các hoạt động quản lý khu di sản thông
qua các chương trình như “Sáng kiến mới
của các hãng tổ chức tour” của UNEP,
WTO và UNESCO. Cơ hội tăng cường
đang có khả năng dâng lên để thu hút các
hãng tổ chức tour tham gia vào việc tài trợ
các nỗ lực quản lý khu Di sản thế giới.
Kết quả là các nhà quản lý khu di sản
được khuyến khích gợi ý cho Trung tâm Di
sản thế giới những sáng kiến quản lý du
khách và du lịch; hồ sơ ghi lại những sáng
kiến này có thể trao cho các hãng tổ chức
tour để tìm kiếm các cơ hội tài trợ cho các
dự án Di sản thế giới.
111
8
Quảng bá khu di sản
8
Lúc đầu, chỉ cần có một cuốn sách du
lịch 10 trang có thể sao chụp dễ dàng và
ít tồn kém là đủ. Bản sao cần lưu trên
máy tính để có thể dễ dàng cập nhật khi
cần thiết. Nếu và khi đã có thể thu hút
được nhiều du khách hơn thì có thể soạn
thảo ra một cuốn hướng dẫn du lịch tinh
tế hơn và bày bán để trang trải chi phí
phát hành.
Những nét khái quát khi soạn thảo sách
hướng dẫn du lịch
Phần giới thiệu
Nói rõ mục đích của cuốn sách, nêu những
quan tâm về việc bảo toàn và bảo tồn lịch
sử các khu Di sản thế giới, và tầm quan
trọng của du lịch đối với việc phát triển
cộng đồng địa phương.
Những thông tin nền:
• giới thiệu ngắn gọn lịch sử văn hóa và
tự nhiên của khu di sản, sử dụng các sự
kiện dễ thu hút sự chú ý.
• danh mục các hoạt động có thể có như
xe leo núi, bơi thuyền, đi mảng trên sông
suối, quan sát chim muông, chụp ảnh động
thực vật hoang dã, thăm các lâu đài lịch sử
và các di chỉ khảo cổ...
• các thông tin về thời gian đi thăm thích
hợp nhất, miêu tả các mùa, lượng mưa và
nhiệt độ ở cả hai hệ thống dùng độ C và độ F.
Việc đi lại:
• các tuyến đường, phương thức đi lại và
tần số chuyên chở đến khu di sản và các
cộng đồng dân cư địa phương, trong đó
đánh giá trung thực về độ an toàn và tin cậy.
• có thể lấy bản đồ khu vực ở đâu trong
thành phố thủ đô.
Các chi tiết về khu di sản:
• những thắng tích văn hóa/lịch sử, động
thực vật hoang dã, quan sát chim muông,
chụp ảnh, khảo cổ, vân vân...
• lệ phí và tại sao phải thu lệ phí.
• hành vi ứng xử cần thiết khi đến thăm
khu di sản.
• an toàn của du khách.
• các hướng dẫn viên địa phương,
phương tiện chuyên chở.
• bản đồ sơ lược các tuyến đường.
• gợi ý trang phục và trang bị dùng cho
các hoạt động khác nhau.
• các loài động thực vật nổi tiếng.
• các quy tắc khi quan sát muông thú, khi
tới thăm các phế tích và lâu đài lịch sử, kể
cả các gợi ý về những kỹ thuật ít gây tác
động.
Các chi tiết về cộng đồng địa phương:
• tập quán, truyền thống và phép xã giao
thông thường của địa phương.
• các lễ hội khu vực và địa phương.