You are on page 1of 24

Chương 12.

Đột biến gene, tái tổ hợp và các yếu tố di truyền di động

Mục tiêu của chương


Giới thiệu các kiểu đột biến gen, cơ chế phát sinh và hậu quả của chúng. Cơ chế sữa
chữa các đột biến đã làm giảm tỷ lệ đột biến, duy trì tính ổn định của vật liệu di truyền.
Ngoài đột biến gene, yếu tố di truyền vận động cũng là nhân tố làm tăng tần số đột biến

Số tiết: 3

Nội dung
I. Đột biến gene
Đột biến gene là những biến đổi xảy ra bên trong cấu trúc gene. Mỗi đột biến gene
dẫn đến sự thay đổi trình tự nucleotide tạo ra các allele khác nhau. Đột biến gene có thể
xảy ra do biến đổi của trình tự nucleotide trong gene. Đột biến gene không phát hiện
được khi quan sát tế bào học.
Trong tự nhiên, tất cả các gene đều có đột biến được gọi là đột biến tự nhiên hay
ngẫu phát (spontaneous mutation). Các đột biến tự nhiên thường xuất hiện rất ít.

1. Các kiểu đột biến gene


Đột biến gene hay đột biến điểm: là các biến đổi rất nhỏ trên một đoạn DNA, thường
liên quan đến một cặp base đơn của DNA hoặc một số ít cặp base kề nhau. Đột biến điểm
làm thay đổi gene kiểu dại (wild-type gene),. Thực tế đột biến điểm hầu như làm giảm
hoặc làm mất chức năng của gene hơn là làm tăng cường chức năng của gene.
Về nguồn gốc, đột biến điểm được phân ra làm đột biến ngẫu nhiên (spontaneous) và
đột biến cảm ứng (induced).
Đột biến cảm ứng: là dạng đột biến xuất hiện với tần số đột biến tăng lên khi xử lý
có mục đích bằng tác nhân đột biến hoặc tác nhân môi trường đã được biết. Đột biến
ngẫu nhiên là đột biến xuất hiện khi không có sự xử lý của tác nhân đột biến. Đột biến
ngẫu nhiên được tính là tỉ lệ cơ sở của đột biến và được dùng để ước chừng nguồn biến dị
di truyền tự nhiên trong quần thể. Tần số đột biến ngẫu nhiên thấp nằm trong khoảng 10 -5
- 10-8, vì vậy đột biến cảm ứng là nguồn đột biến quan trọng cho phân tích di truyền.
Tác nhân đột biến được sử dụng phổ biến là nguồn chiếu xạ năng lượng cao (high-
energy radiation) hoặc các hóa chất đặc biệt.
Các dạng đột biến điểm: có hai dạng đột biến điểm chính trong phân tử DNA:
+ Đột biến thay thế cặp base (base substitution)
+ Đột biến thêm bớt cặp base (base insertion - base delection)
Các đột biến này có thể phát sinh do ảnh hưởng của môi trường như ảnh hưởng của
các tác nhân gây đột biến.

1.1. Đột biến thay thế cặp base


Kiểu đột biến đơn giản nhất là thay thế một base, trong đó một cặp nucleotide trong
gene được thay thế bằng một cặp nucleotide khác.
Ví dụ: A được thay thế bằng G trong sợi DNA. Sự thay thế này tạo ra sự cặp base G-
T. Ở lần sao chép tiếp theo tạo ra cặp G-C trong một phân tử DNA con và cặp A-T ở
phân tử DNA con kia.
Tương tự, đột biến thay thế A bằng T trên một sợi, tạo ra sự kết cặp tạm thời T-T.
Kết quả sao chép tạo ra T-A trên một phân tử DNA con và A-T trên phân tử DNA con
kia. Trong trường hợp hợp này, cặp base T-A là đột biến và cặp A-T không đột biến. Nếu
sợi gốc DNA không đột biến có trình tự 5'-GAC-3', trên sợi đột biến có trình tự 5'-GTC-
3' và sợi kia không đột biến có trình tự 5'-GAC-3'.
Đột biến thay thế cặp base được chia làm hai loại:
+ Đột biến đồng hoán (transition mutations): Nếu một đột biến mà bazơ pyrimidine
được thay thế bằng một pyrimidine và một purine thay bằng một purine.
Đột biến đồng hoán có thể là:
T → C hoặc C → T
(Pyrimidine → pyrimidine)
A → G hoặc G → A
(purine → purine)
Đột biến đảo hoán (Transversion): Đột biến làm thay một pyrimidine thành một
purine hay một purine được thay thế bằng một pyrimidine. Các đột biến đảo hoán:
T → A, T → G, C → A hoặc C → G
(Pyrimidine → purine)
A → T, A → C. G → T hoặc G → C
(Purine → pyrimidine)
Như vậy có thể có 4 thay thế kiểu đột biến đồng hoán và có đến 8 thay thế kiểu đột
biến đảo hoán. Nếu các thay thế này xảy ra với ngẫu nhiên xác suất như nhau, sẽ có tỷ lệ
đột biến: 1 đồng hoán : 2 đảo hoán. Tuy nhiên trong thực tế, đột biến thay thế base có xu
hướng nghiêng về đột biến đồng hoán, cho nên trong số các đột biến thay thế base tự phát
thì tỷ lệ xảy ra đột biến là: 2 đồng hoán : 1 đảo hoán
1.2. Đột biến thêm hoặc bớt base (base-pair addition/deletion), còn gọi là indel mutation
(insertion-deletion). Trường hợp đơn giản nhất của đột biến này là thêm hoặc mất một
cặp base đơn. Đôi khi đột biến làm thêm hoặc mất đồng thời nhiều cặp base.
Hậu quả của đột biến điểm đến cấu trúc và sự biểu hiện của gene
Đột biến điểm xuất hiện trong vùng mã hóa chuỗi polypeptide của gene (a
polypetide-coding part of a gene), chẳng hạn đột biến thay thế base đơn có thể gây nhiều
hậu quả, nhưng tất cả đều có tác động lên mã di truyền theo 2 hướng: làm thoái hóa mã di
truyền hoặc xuất hiện mã kết thúc quá trình dịch mã. Có các dạng:
Đột biến đồng nghĩa (synonymous mutations): đột biến thay đổi một codon mã hóa
acid amine thành codon mới mã hóa cho cùng acid amin đó. Đột biến đồng nghĩa cũng có
thể xem là đột biến im lặng (silent mutations)
Đột biến nhầm nghĩa (missense mutations), đôi khi còn gọi là đột biến không đồng
nghĩa (nonsynonymous mutations): codon mã hóa cho một acid amin này bị thay đổi
thành codon mã hóa cho một acid amin khác.
Đột biến vô nghĩa (nonsense mutations): codon mã hóa cho một acid amin bị thay
đổi thành codon kết thúc dịch mã (translation termination/stop codon).
Bảng 12.1 Đột biến điểm ở mức độ phân tử
Kiểu đột biến Kết quả và ví dụ
• Ở mức độ DNA Purine được thay thế bằng một purine khác,
Transition pyrimidine được thay thế bằng một pyrimidine
khác: A.T → G.C, G.C → A.T, C.G → T.A,
T.A → C.G
Transversion Purrin được thay thế bằng một pyrimidine hoặc
một pyrimidine được thay thế bằng một purine:
A.T→ C.G, A.T→ T.A, G.C→T.A, G.C→C.G
T.A→G.C, T.A → A.T, C.G→ A.T, C.G→G.C
Insertion-deletion Thêm vào hoặc mất đi một hoặc một số cặp base
của DNA (thêm/mất base được gạch dưới)
AAGACTCCT → AAGAGCTCCT
AAGACTCCT → AAACTCCT
• Ở mức độ protein Codon đặc biệt mã hoá cho cùng một acid amin:
Synonymous AGG → CGG
mutation Arg Arg
Missense mutation Codon tạo thành mã hoá cho amino acid khác
Loại bảo thủ Mã hoá cho acid amin có cùng bản chất hoá học:
AAA → AGA
Lys Arg
(kiềm) (kiềm)
Loại không bảo thủ Mã hoá cho amino acid khác về bản chất hoá
học: UUU → UCU
Phenylalanin Serine
kỵ nước Phân cực
Nonsense mutation Codon kết thúc chuỗi: CAG → UAG
Gln Stop
Frameshift mutation Thêm vào một cặp base:
AAG ACT CCT → AAG AGC TCC T...
Mất một cặp base:
AAG ACT CCT → AAA CTC CT...

Mức độ ảnh hưởng của đột biến nhầm nghĩa và vô nghĩa lên chuỗi polypeptide khác
nhau tùy trường hợp.
Nếu đột biến nhầm nghĩa thay thế một acid amin này bằng một acid amin khác tương
tự về mặt hóa học, được xem là đột biến thay thế bảo thủ (conservative substitution). Sự
thay đổi này hầu như ít ảnh hưởng đến cấu trúc và chức năng protein. Ngược lại, nếu thay
thế bằng một acid amin khác về phương diện hóa học gọi là nonconservative substitution,
hầu hết đều gây ra sự thay đổi lớn ở cấu trúc và chức năng protein.
Đột biến vô nghĩa sẽ dẫn đến sự kết thúc dịch mã sớm. Vì vậy chúng gây ra hậu quả
tương ứng trên chức năng protein. Nếu đột biến vô nghĩa xảy ra càng ở gần đầu 3' của
khung đọc mã, kết quả ít ảnh hưởng đến protein. Tuy nhiên nhiều đột biến vô nghĩa ở
vùng này vẫn tạo ra các sản phẩm hoàn toàn bị mất hoạt tính.
Hình 12.1 Hậu quả của đột biến điểm trong gene. Codon 1-4
nằm trong vùng mã hóa của gene
Giống với đột biến vô nghĩa, đột biến thêm bớt base gây hậu quả trên trình tự
polypetide kể từ điểm bị đột biến (Hình 12.1). Trình tự trên mRNA được đọc theo từng
khung gồm ba base (codon) một lúc. Mất hoặc thêm base sẽ làm thay đổi khung đọc
trong quá trình dịch mã từ điểm bị đột biến cho đến kết thúc theo khung mới. Vì vậy loại
đột biến này được gọi là đột biến dịch khung (frameshift mutations). Đột biến này tạo ra
trình tự acid amin kể từ điểm bị đột biến cho đến kết thúc khác với trình tự acid amin
gốc. Đột biến dịch khung gây ra sự mất hoàn toán cấu trúc và chức năng của protein bình
thường.
Trường hợp đột biến xảy ra ở trình tự điều hòa và các trình tự không mã hóa khác
(Hình 12.1). Những phần đó của gene không trực tiếp mã hóa cho protein mà chứa nhiều
điểm bám DNA chủ yếu cho protein xen vào, đó là những trình tự không nhạy cảm cho
sự biểu hiện của gene hoặc cho hoạt tính của gene.
Ở mức độ DNA, những điểm mất đi (docking) gồm những điểm mà RNA
polymerase và những nhân tố gắn kết của nó bám vào, cũng như những điểm mà protein
điều hòa phiên mã đặc trưng gắn vào. Ở mức độ RNA, những docking quan trọng thêm
vào gồm điểm bám của ribosom (ribosome-binding site) trên mRNA vi khuẩn, những
điểm nối đầu 5' và 3' để gắn các exon ở eukaryote và các điểm có vai trò cho điều hòa
dịch mã và định vị mRNA đến vùng đặc biệt trong tế bào. Nhìn chung hậu quả chức năng
của bất kì đột biến điểm nào ở vùng như thế đều phụ thuộc vào việc làm gián đoạn (hoặc
tạo ra) một điểm bám. Đột biến làm gián đoạn ở những điểm đó có khả năng làm thay đổi
phần biểu hiện của gene dựa vào sự thay đổi số lượng sản phẩm được biểu hiện ở một
thời điểm nhất định hoặc ở một mô nhất định. hay bằng sự thay đổi phản ứng với những
tín hiệu (cue) của môi trường nhất định. Ngược lại, đột biến ở một vài điểm bám có thể
hoàn toàn phá hủy một giai đoạn càn cho sự biểu hiện bình thường của gene, như điểm
bám của mRNA polymerase hoặc là nhân tố splicing. Vì vậy nó làm bất hoạt sản phẩm
của gene hoặc ngăn cản sự hình thành sản phẩm.
Cần phân biệt giữa những thay đổi xảy ra của một đột biến gene đó là sự thay đổi
trình tự DNA của gene với sự thay đổi ở mức độ kiểu hình. Nhiều đột biến điểm trong
triình tự không mã hóa làm ít thay đổi hoặc không thay đổi trên kiểu hình như đột biến
giữa điểm bám DNA cho protein điều hòa hoặc thay đổi những điểm khác trong gene làm
thay đổi chức năng của chúng.
2. Cơ chế gây đột biến điểm
Khi kiểm tra dãy đột biến được gây tạo bới các tác nhân đột biến khác nhau cho thấy
mỗi tác nhân đột biến được đặc trưng bởi một đặc tính đột biến khác nhau hay
"preference" về cả một dạng đột biến nhất định và một điểm đột biến nhất định, được gọi
là điểm dễ xảy ra đột biến (mutational hot spots). Đặc tính đột biến như thế được chú ý
lần đầu tiên ở locus rII của bacteriophage T4.
Tác nhân đột biến hoạt động ít nhất qua ba cơ chế khác nhau: chúng có thể làm thay
thế một base trong DNA; làm biến đổi một base gây kết cặp nhầm với một base khác;
làm sai hỏng một base, dẫn đến không thể kết cặp với bất kỳ base nào trong điều kiện
bình thường.
Đột biến thay thế base: một vài hợp chất hóa học tương tự nitrogen base bình thường
của DNA, đôi khi chúng có thể gắn vào DNA thay cho base bình thường. Những chất
như thế được gọi là các chất tương đương với base (base analogs). Các chất tương đương
này kết cặp không như sự kết cặp của các base bình thường. Vì vậy chúng có thể gây ra
đột biến do gắn vào một nucleotide không đúng trong quá trình sao chép.
Để hiểu hoạt động của các chất tương đương base, trước hết cần phải xem xét
khuynh hướng tự nhiên của các base đối với sự hình thành các dạng khác nhau. Mỗi base
trong phân tử DNA có thể xuất hiện ở một trong số nhiều dạng được gọi là tautomers,
chúng là các đồng phân khác nhau ở vị trí vị trí nguyên tử và những liên kết giữa các
nguyên tử. Dạng keto của mỗi base thường có trong DNA (Hình 12.2), trong khi dạng
imino và enol của base là hiếm. Tautomer imino hoặc enol có thể kết cặp sai với base tạo
một kết cặp nhầm (mispair). Khả năng kết cặp nhầm như thế gây ra đột biến trong quá
trình sao chép được chú ý đầu tiên bởi Watson và Crick khi các tác giả này nghiên cứu
công thức về mô hình cấu trúc DNA.
Sự kết cặp nhầm có thể sinh ra ngẫu nhiên, nhưng cũng có thể sinh ra khi base bị ion
hóa. Tác nhân gây đột biến 5-Bromouracil (5-BrU) là chất tương đương với thymine, có
brome ở vị trí carbon số 5 thay cho nhóm -CH 3 của thymine. Hoạt tính của nó dựa trên
quá tình inolization và ionization. Ở dạng keto, 5-BrU kết cặp với adenin như trường hợp
thymine. Tuy nhiên, sự có mặt của nguyên tử bromine làm thay đổi một cách có ý nghĩa
sự phân bố electron ở vòng base. Vì vậy 5-BrU có thể chuyển sang dạng enol và dạng
ion, và nó có thể kết cặp với guanine như trường hợp cytosine tạo ra cặp 5-BrU-G. Trong
lần nhân đôi tiếp theo G kết cặp với C, tạo cặp G-C thay cho cặp A-T. Kết quả gây ra đột
biến đồng hoán. Tương tự 5-BrU cũng có thể gây ra đột biến đồng hoán A-T thay cho cặp
G-C.

Hình 12.2 Chứng minh một vài kết cặp nhầm có thể xảy ra do kết quả của sự thay đổi
1 tautomer thành 1 tautomer khác

Một hóa chất gây đột biến khác là 2-amino-purine (2-AP), là hóa chất tương đương
adenine, có thể kết cặp với thymine. Khi bị proton hóa, 2-AP có thể kết cặp nhầm với
cytosine, có thể gây ra thế hệ sau đột biến đồng hoán G-C thay cho A-T do kết cặp nhầm
với cytosine trong lần sao chép tiếp theo.
Thay thế base (base alteration)
Hình 12.3 Sự kết cặp nhầm chuyên biệt do đột biến cảm ứng alkyl hoá
Một vài tác nhân đột biến không gắn vào DNA, mà lại làm biến đổi base gây ra sự
kết cặp sai. Tác nhân alkyl được sử dụng phổ biến như là tác nhân đột biến, chẳng hạn
như ethylmethanesulfonate (EMS) và nitrosoguanidine (NG) gây đột biến theo cách này.
Những tác nhân như thế sẽ thêm nhóm alkyl (nhóm ethyl trong trường hợp EMS và
nhóm methyl trong trường hợp NG) ở nhiều vị trí trên cả 4 base. Tuy nhiên, đột biến hầu
như chỉ xảy ra khi nhóm alkyl được thêm vào ở oxy số 6 của guanine tạo ra O-6-
alkylguanine. Sự alkyl hóa này dẫn đến sự kết cặp nhầm với thymine (Hình 12.3). Kết
quả sinh ra đột biến đồng hoán G-C→A-T trong lần sao chép tiếp theo.
Tác nhân xen vào giữa (intercalating agents) là nhóm tác nhân quan trong khác gây
biến đổi DNA. Nhóm của các hợp chất này bao gồm proflavin, acridin cam và một nhóm
các hợp chất hóa học khác. Các tác nhân này là nhóm các phân tử bắt chước các cặp base
và có thể xen vào giữa các nitrogen base ở lõi chuỗi xoắn kép DNA. Ở vị trí xen vào này
chúng gây sự thêm vào hoặc mất đi một cặp nucleotide.
Sai hỏng base: Một số lớn tác nhân đột biến gây sai hỏng một hoặc nhiều base. Vì
vậy không thể kết cặp với base đặc trưng. Kết quả làm cản trở sự sao chép vì DNA
polymerase không thể tiếp tục quá trình tổng hợp DNA qua những base sai hỏng. Ở
E.coli quá trình này xảy ra đòi hỏi hoạt tính của hệ thống SOS. Hệ thống này được kích
thích như là một phản ứng khẩn cấp ngăn cản sự chết tế bào khi DNA bị sai hỏng nặng.
* Cơ chế của đột biến ngẫu nhiên
Đột biến ngẫu nhiên xảy ra do nhiều nguyên nhân: gồm sai hỏng trong quá trình sao
chép DNA, các tổn thương ngẫu nhiên, sự chen vào của yếu tố di động. Đột biến ngẫu
nhiên hiếm nên khó xác định cơ chế cơ bản. Tuy nhiên, một vài hệ thống chọn lọc cho
phép thu được đột biến ngẫu nhiên và phân tích ở mức độ phân tử. Từ bản chất của
những thay đổi trình tự có thể suy ra quá trình dẫn đến đột biến ngẫu nhiên.
Những sai hỏng ngẫu nhiên (spontaneous lesions) đến DNA có thể sinh ra đột biến.
Hai tổn thương ngẫu nhiên thường xuất hiện nhất: depurination và deamination, trong đó
depurination phổ biến hơn.
Depurination do tác dụng của aflatoxin, làm mất một base purine. Ngoài ra, quá trình
mất purine cũng xảy ra một cách tự nhiên. Một tế bào động vật mất ngẫu nhiên khoảng
10.000 purine của DNA trong một thế hệ tế bào khoảng 20 giờ ở 37 oC. Nếu tổn thương
này được giữ lại, dẫn đến sai hỏng di truyền đáng kể vì trong quá trình sao chép, vị trí
mất purine không thể định rõ được loại base nào. Trong những điều kiện nhất định một
base có thể chèn vào tạo ra đột biến.
Deamination của cytosine tạo ra uracil. Uracil sẽ kết cặp với adenin trong quá trình
sao chép, kết quả tạo ra đột biến đồng hoán G-C→ A-T. Deamination 5-methylcytosine
tạo ra thymine (Hình 12.4). Quá trình sao chép tạo ra đột biến đồng hoán chuyển C thành
T.
Ngoài 2 quá trình gây sai hỏng như trên, sự oxy hóa tạo ra các base bị sai hỏng là
dạng tổn thương thứ ba.. Dạng oxygen hoạt động như gốc superoxid (O2.-), hydrogen
peroxide (H2O2) và gốc hydroxyl (.OH) được tạo ra do sản phẩm của quá trình chuyển
hóa (aerobic metabolism). Các dạng này có thể gây tổn thương oxy hóa đến DNA, kết
quả tạo ra đột biến.
Hình 12.4 Deamination của Cytosine (a) và 5-methylcytosine

Các sai hỏng trong sao chép DNA cũng là nguồn đột biến khác.
Thay thế base: sai hỏng trong sao chép DNA có thể xảy ra khi có một cặp nucleotide
ghép không chính xác (như A-C) tạo ra trong quá trình tổng hợp DNA dẫn đến sự thay
thế một base.
Đột biến thêm vào và mất base: Một loại sai hỏng sao chép khác dẫn đến thêm vào
hoặc mất đị một hoặc một số cặp base. Trong trường hợp số base thêm vào hoặc mất đi
không chia hết cho 3, sẽ tạo ra đột biến dịch khung trong vùng mã hóa protein.

II. Sửa chữa và bảo vệ DNA


1. Cơ chế sửa sai sinh học
Tế bào sống có hàng loạt hệ thống sai hỏng DNA theo nhiều cách khác nhau. Tỷ lệ
đột biến tự nhiên thấp do nhờ tính hiệu quả của hệ thống sửa sai này. Sai hỏng của hệ
thống sửa sai này dẫn đến tỷ lệ đột biến cao.

1.1. Quang phục hoạt (photoreactivation) hay sửa sai nhờ ánh sáng (light repair)
Sau khi xử lý tia tử ngoại gây đột biến, nếu đưa ra ánh sáng thì phần lớn sai hỏng
được phục hồi nhờ enzyme photolyase. Enzyme này gắn vào photodimer cắt nó thành các
monomer dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời có bước sóng 320-370 nm. Sau đó phục
hồi các base ban đầu. (Hình 12.5).
Hình 12.5 Sự tạo thành và sự loại bỏ dimer thymine
1.2. Sửa sai bằng làm mất nhóm alkyl (dealkylation)
Enzyme alkyltransferasecos thể sửa trực tiếp các sai hỏng. Chúng cắt nhóm alkyl từ
chất nitrosoguanine và ethylmethnesulfonate và gắn vào vị trí O-6 guanine.
Enzyme methyltransferase của E. coli có khả năng chuyển nhóm methyl từ chất O-6
methylguanine sang gốc cistein trên phân tử protein. Tuy nhiên hệ thống sửa sai này có
thể bảo hòa nếu mức độ alkyl hóa đủ cao.
* Sửa sai bằng cắt bỏ (excision repair pathway)
Phần lớn các cơ chế sửa sai khác thực hiện theo lối cắt bỏ (excistion repair) không
cần ánh sáng nhờ các nuclease, sau đó thay vào các base đúng. Có thể xảy ra theo nhiều
cách:
+ Cắt các base (base excision repair) Sự cắt bỏ các base sai hỏng nhờ các enzyme
DNA glycosylase. Các enzyme này nhận biết các base bị biến đổi và các điểm mất purine
hay mất pyrimidine và thủy giải liên kết N-glycosilic nối base với đường. Rồi enzyme AP
endonuclease cắt liên kết đường và phosphate gần base bị biến đổi. Sau đó enzyme thứ
ba, deoxyribophosphodiesterase loại bỏ từng nucleotide kế tiếp nhau ở đoạn bị hỏng. Sau
đó, DNA polymerase lấp đầy khoảng trống với các nucleotide bổ sung với sợi khuôn còn
lại. Enzyme DNA ligase sẽ gắn các khe hở giữa 2 đầu 3'-5' (Hình 12.6).
Trong tế bào tồn tại một số DNA glycosylase. Chẳng hạn, enzyme uracil-DNA
glycosylase cắt uracil khỏi DNA. Uracil tạo thành do đột biến mất nhóm amin ngẫu nhiên
ở cytosine, dẫn đến đột biến đồng hoán thay C bằng T. Enzyme này phát hiện ra uracil
trên DNA như là một bất thường, chúng sẽ cắt bỏ và sửa sai.
+ Cắt các nucleotide: Sự cắt bỏ vùng có nhiều pyrimidine dimer được thực hiện nhờ
enzyme exinuclease (enzyme rạch mạch hay enzyme tạo khấc trên DNA) như phức hợp 3
enzyme được mã hóa bới gene uvr ABC của E. coli. Phức hợp này cắt đoạn 12 nucleotide
trên một mạch: 8 nucleotide từ một đầu bị sai hỏng và 4 nucleotide của đầu còn lại.
Khoảng trống của 12 nucleotide này sẽ được lấp đầy nhờ enzyme DNA polymerase I dựa
vào mạch đơn bổ sung kia của trình tự DNA gốc. DNA ligase sẽ gắn vào các khe hở.

Hình 12.6 Sửa sai bằng cắt bỏ nucleotide

+ Đọc sửa đối với các base bắt cặp sai


Cơ chế đọc sửa đối với các base bắt cặp sai (proofreading for base-pair matching)
được thực hiện trong sao chép DNA. Trong quá trình sao chép, trước khi thực hiện phản
ứng polymer hóa nối các nucleotide, các nucleotide triphotphate mới phải bắt cặp bổ sung
với mạch khuôn. Nếu sự bắt cặp sai xảy ra, DNA polymerase sẽ loại bỏ nucleotide bắt
cặp sai. Ngay cả trước khi nucleotide mới ráp vào, enzyme dò lại cặp base cuối, nếu
chúng không bắt cặp thì sự polymer hóa tiếp theo bị dừng. Cặp nucleotide ở đầu cuối 3'
bắt cặp sai sẽ bị loại bỏ nhờ hoạt tính exonuclease3'→5' của DNA polymerase. Khi đã bắt
cặp đúng, quá trình polymer hóa mới được tiếp tục.
Hoạt tính đọc sửa đối với các base bắt cặp sai là đặc tính của nhiều DNA polymerase
đảm bảo cho sự kéo dài chính xác của mạch đạng được tổng hợp.
+ Sửa sai dựa vào tính tương đồng (Homology-dependent repair system)
Hình 12.7 Mô hình bẻ gãy sợi đôi nhờ trao đổi chéo

Một hệ thống sửa sai quan trọng đã phát hiện tính chất bổ sung đối song song của 2
mạch đơn DNA để phục hồi đoạn sai hỏng trở lại trạng thái bình thường ban đầu. Trong
hệ thống này, đoạn DNA sai hỏng bị cắt bỏ và thay bằng một đoạn nucleotide mới được
tổng hợp bổ sung với sợi khuôn đối diện. Sự sửa sai xảy ra qua sợi khuôn và nguyên tắc
của sao chép DNA bảo đảm sự sửa sai hoàn thành với độ chính xác cao - đó là sự giải
phóng sai hỏng (error-free). Có 2 hệ thống chủ yếu để loại bỏ sai hỏng: Hệ thống sửa
chữa sai hỏng phát hiện ra trước khi sao chép và hệ thống sửa chửa sai hỏng phát hiện
trong quá trình diễn biến sao chép (sửa sai sau sao chép).
+ Sửa sai đứt mạch kép (repair of double-strand break)
Khi cả 2 sợi của chỗi xoắn kép bị đứt ở cùng một vị trí, được gọi là đột biến đứt
mạch đôi, có thể gây ra sai hình nhiễm sắc thể, làm chết tế bào hoặc tạo ra trạng thái tiến
ung thư. Tế bào sử dụng nhiều protein và con đường sửa sai đứt gãy mạch đôi là thực
hiện tái tổ hợp trong giảm phân. Quá trình sửa chữa do trao đổi chéo trong giảm phân xảy
ra như sau (Hình 12.7):
Trên một nhiễm sắc thể xảy ra sự đứt mạch đôi và kết quả ăn mòn các đầu mút ở
đoạn ngắn của DNA sợi đơn. Đầu 3' của một trong những sợi này "xâm lấn" vào một
chromatid.
Đoạn xâm lấn làm mồi cho tổng hợp các base bị mất của nó nhờ sử dụng sợi đối
song song của chromatid như là sợi khuôn. Sự tổng hợp mới này sẽ tạo ra một vòng sợi
đơn lai với một sợi đơn không xâm lấn. Vì vậy tạo ra một vùng dị hợp tử nhỏ "Aa" và sử
dụng như mạch khuôn để khôi phục các base bị mất trên sợi đó. DNA polymerase sẽ lấp
đầy chỗ trống và enzyme ligase sẽ nối các đầu mút xảy ra trong cấu trúc đặc biệt giống
với trao đổi chéo 2 sợi đơn. Cấu trúc này cũng chứa các đoạn bắt cặp không tương đồng
đơn giản.
Trao đổi chéo sợi đơn được gọi là cấu trúc Holliday (Holliday structure) do Holliday
phát hiện vào những năm 1960.

+ Hệ thống SOS
Ở tế bào vi khuẩn hoặc tế bào eukaryote bị sai hỏng nặng do chiếu tia uv, tia X hoặc
do tác dụng của các hóa chất gây đột biến, hệ thống sửa sai khẩn cấp được khởi động. Ở
E. coli, hệ thống này có liên quan với hai protein được mã hóa bởi gene lexA và recA.
Protein lexA là một chất ức chế, nó gắn vào hộp SOS, chồng lấp các promotor của các
gene SOS, ngăn cản sự phiên mã nhóm các gene của hệ thống SOS. Một vài sản phẩm
của DNA bị tổn thương sẽ làm hoạt hóa enzyme protease recA. Protein recA bị hoạt hóa
sẽ cắt bỏ protein lexA, cho phép các gene của hệ thống SOS phiên mã. Phản ứng của hệ
thống SOS xảy ra trong thời gian ngắn nhưng phức tạp. Nó bao gồm các quá trình làm
tăng hoạt tính tái tổ hợp, thay đổi trong khởi sự sao chép, ức chế nuclease và kích thích
phục hồi sao chép và chuyển sai hỏng thành sửa sai úp sấp (error-prone replication). Tế
bào bây giờ sẽ xảy ra sự sao chép DNA nhanh hơn bình thường. Nếu sửa sai không kịp,
tế bào phải chấp nhận hoặc bị đột biến hoặc bị chết.

III. Các yếu tố di truyền vận động (Transposable genetic elements)


1. Các yếu tố di truyền vận động ở prokaryote
Trình tự đoạn xen (insertion sequence) của vi khuẩn
Trình tự xen đoạn là một đoạn DNA của vi khuẩn di chuyển từ một vị trí trên nhiễm
sắc thể đến vị trí mới trên cùng nhiễm sắc thể hoặc trên nhiễm sắc thể khác. Khi xen vào
giữa gene, yếu tố IS làm gián đoạn trình tự mã hóa và làm bất hoạt sự biểu hiện của gene.
Một số trường hợp, có tín hiệu kết thúc phiên mã và dịch mã, yếu tố IS làm cản trở sự
biểu hiện ở sau promotor trong cùng operon..
Yếu tố IS được tìm thấy đầu tiên ở operon gal của E. coli, chia làm bốn nhóm: IS1,
IS2, IS3 và IS4. Chúng có thể phân bố rãi rác trên nhiễm sắc thể chính của vi khuẩn và
trên các plasmid. Ví dụ yếu tố IS1 có khoảng 5-8 bản sao trên nhiễm sắc thể với chiều
dài 768 bp.
Tất cả các yếu tố IS đều chứa đoạn DNA mã hóa cho protein, được gọi là
transposase, là enzyme cần thiết cho sự di chuyển của yếu tố IS từ một vị trí trên nhiễm
sắc thể đến vị trí khác. Đoạn gene này nằm giữa 2 đoạn lặp lại đảo ngược (inverted repeat
- IR) ngắn. Ví dụ yếu tố IS1 có khoảng 5-8 bản sao trên nhiễm sắc thể với chiều dài 768
bp, đoạn lặp lại đảo ngược có kích thước 18-23 bp, yếu tố IS2 có 5 bản sao và các yếu tố
IS khác. Yếu tố IS là những vùng của các trình tự xác định, chúng là những vị trí xảy ra
trao đổi chéo. Ví dụ: Sự tái tổ hợp của plasmid và nhiễm sắc thể của E. coli tạo ra những
chủng Hfr xảy ra qua trao đổi chéo đơn giữa yếu tố IS trên plasmid và yếu tố IS trên
nhiễm sắc thể.
Bảng 12.2. Một vài trình tự xen vào và kích thước của chúng

Trình tự Số bản sao trong E. coli Chiều Đoạn lặp lại đảo
xen vào dài (bp) ngược (bp)

IS1 5-8 bản sao trên nhiễm sắc thể 768 18-23

IS2 5 bản sao trên nhiễm sắc thể, 1327 32-41


1 bản sao trên plasmid

IS3 5 bản sao trên nhiễm sắc thể, 1400 32-38


2 bản sao trên plasmid

IS4 1-2 bản sao trên nhiễm sắc thể, 1400 16-18
IS5 Chưa biết 1250 Ngắn

1.1. Gene nhảy của prokaryote


Các yếu tố IS riêng lẻ không chỉ có khả năng tự di chuyển mà khi hai yếu tố này nằm
đủ gần nhau thì chúng có thể vận động như một đơn vị hoàn chỉnh và mang theo các gene
nằm giữa chúng. Cấu trúc phức tạp này được gọi là transposon. Có hai kiểu transposon ở
vi khuẩn:

Hình 12.8 Đặc trưng về cấu trúc của transposon hỗn hợp (composite transposon) và
transsposon đơn giản (simple transposon)

Transposon hỗn hợp (composite transposon) chứa nhiều gene nằm giữa 2 trình tự IS
gần nhau, có hướng ngược nhau tạo ra tình tự lặp lại đảo ngược (inverted repeat - IR).
Một trong 2 yếu tố IS mã hóa cho transposase xúc tác cho sự chuyển vị của cả
transposon. Chẳng hạn Tn10 là transposon hỗn hợp mang gene mã hóa cho tính kháng
kháng sinh tetracyline. Gene này nằm giữa hai yếu tố IS10 có hướng ngược nhau.
Transposon đơn giản (simple transposon) ở giữa các trình tự IR, nhưng những trình
tự này ngắn (<50 bp) và không mã hóa cho transposase. Sự chuyển vị của chúng không
phải là kết quả của sự liên kết với yếu tố IS. Các transposon đơn giản mã hóa transposase
riêng thêm vào để mang các gene của vi khuẩn. Tn3 là một transposon đơn giản (Hình
12.8).
Transposon hỗn hợp và transposon đơn giản đều chứa các gene thêm vào liên quan
đến chức năng mới ở tế bào vi khuẩn. Cả hai loại này thường được gọi chung là
transposon. Transposon dài hơn yếu tố IS, thường chứa vài kb), chúng chứa các gene mã
hóa cho protein thêm vào.

1.2. Cơ chế của sự chuyển vị


Đầu tiên, transposase cắt vết hình chữ chi qua 5 cặp base (khác với sự cắt của
enzyme restriction endonuclease) ở vi trí DNA mục tiêu (target site DNA) (Hình 12.9).
Tiếp theo là sự hội nhập của transposon qua trung gian của transposase, transposon xen
vào giữa các đầu mút của chữ chi. Đầu lồi ra của sợi đơn được sử dụng như là khuôn để
tổng hợp sợi bổ sung thứ hai. Sự gắn vào tạo sự sao chép 5 cặp base, được gọi là sự sao
chép điểm mục tiêu (target site duplication).
Hầu hết các yếu tố di động của prokaryote đều sử dụng một trong 2 cơ chế chuyển
vị: là sao chép (replicative) và bảo thủ (conservative) hay không sao chép. Trong con
đường sao chép (như ở Tn3), một bản sao mới của yếu tố di động tạo ra khi chuyển vị,
kết quả là một bản sao ở vị trí mới và bản sao còn lại ở vị trí cũ. Trong con đường bảo thủ
(như ở trường hợp Tn10) không có sự sao chép. Thay vào đó, yếu tố được cắt ra từ nhiễm
sắc thể hoặc plasmid và được gắn vào vị trí mới. Con đường này còn được gọi là con
đường "cắt và dán" (cut and paste)
Hình 12.9. Sự nhân đôi đoạn trình tự DNA ngắn ở điếm xen vào (insertion site)

2. Các yếu tố di truyền vận động ở eukaryote


Các yếu tố di truyền vận động ở eukaryote chia làm 2 nhóm: nhóm là các
retrotransposon và nhóm 2 là các DNA transposon.

2.1. Các retrotransposon


Gery Fink và cs. là những người đầu tiên sử dụng nấm men để nghiên cứu điều hoà
hoạt tính gene ở eukaryote. Các tác giả này đã phân lập được hàng ngàn đột biến gene
HIS4 mã hóa enzyme tham gia tổng hợp histidine. Trong số hơn 1.500 đột biến ngẫu
nhiên HIS4 được tìm thấy có 2 đột biến có kiểu hình không bền vững. Các đột biến
không bền vững này có tần số phục hồi lại dạng kiểu dại cao 1.000 lần hơn các đột biến
HIS4 khác. Những đột biến này cho đoạn DNA lớn xen vào gene HIS4, sự xen vào này
được thực hiện do một trong các yếu tố là Ty của nấm men. Có 35 bản sao của yếu tố xen
đoạn gọi là Ty1 ở genome của nấm men.
Việc tạo dòng những yếu tố này từ các allele đột biến cho thấy xen đoạn này không
giống với yếu tố IS hoặc transposon của vi khuẩn. Thay vào đó chúng có đặc tính của
retrovirus (virus của động vật). Có sự giống nhau trong cấu trúc và thành phần gene của
retrovirus và yếu tố Ty1 được phân lập từ đột biến HIS4. Giống với retrovirus,
transposon của nấm men có lặp đoạn cuối dài (long terminal repeat sequence) LTRs,
chứa hàng trăm cặp base, được gọi là trình tự δ nằm ở 2 phía đoạn mã hóa, cả hai đều
chứa gene gag và gene pol. Retrovirus có ít nhất 3 gene mã hóa cho 3 protein trong quá
trình sao chép: gene gag mã hóa cho một protein có vai trò làm biến tính RNA genome.
Gene pol mã hóa enzyme reverse transcriptase. Gene env mã hóa cho protein vỏ. Yếu tố
Ty chỉ chứa gene gag và gene pol, không chứa gene env. (Hình 12.10)

Hình 12.10 Sự chuyển vị nhờ retrotransposition

Mô hình về sự chuyển vị nhờ retrotransposon. Một bản phiên mã RNA từ


retrotransposon dưới tác dụng của enzyme phiên mã ngược tạo thành DNA nhờ enzyme
reverse transcriptase được mã hóa bởi retrotransposon. Bản sao DNA được chèn vào vị
trí mớI trên bộ gene.
Vào năm 1985, J.Bocke và G. Fink đã chứng minh, yếu tố Ty1, giống với retrovirus,
thực hiện việc di chuyển qua trung gian RNA. Chúng bắt đầu bằng biến đổi yếu tố Ty1
của nấm men được tạo dòng trên plasmid. Trước tiên ở một đầu mút của yếu tố, có sự
xen vào một promotor được hoạt hóa nhờ thêm galactose vào môi trường. Thứ hai, một
intron từ một gene khác của nấm men được đưa vào vùng mã hóa của transposon Ty. Sự
thêm vào galactose làm tăng tần số chuyển vị của yếu tố Ty bi biến đổi. Điều này làm
tăng số lượng RNA, vì galactose kích thích phiên mã RNA Ty bắt đầu từ promotor nhạy
cảm galactose.
Nhiều đột biến ngẫu nhiên được phân lập ở ruồi dấm cho thấy cũng chứa
retrotransposon. Yếu tố copia của ruồi dấm cấu trúc tương tự với yếu tố Ty của nấm men.
Chúng xuất hiện từ 10-100 vị trí trên bộ gene của ruồi dấm. Những đột biến nhất định của
ruồi dấm là kết quả của sự xen vào của yếu tố copia và những yếu tố khác. Chẳng hạn,
đột biến white-apricot (wa) về màu mắt của ruồi dấm tạo ra do sự xen vào yếu tố của họ
copia ở locus white.
Sự xen retrotransposon LTR vào các gene ở thực vật như ở ngô, cũng góp phần tạo
ra các đột biến ngẫu nhiên.

2.2. DNA transposon


Nhiều yếu tố di động được tìm thấy ở eukaryote chuyển vị bằng cơ chế giống với vi
khuẩn. Bản thân yếu tố IS và transposon hoặc là bản sao của chúng có thể xen vào vị trí
mới trên genome. Các yếu tố di chuyển theo cách này được gọi là yếu tố nhóm 2 hoặc
DNA transposon. Yếu tố di động được McClintok phát hiện đầu tiên ở ngô là các DNA
transposon. Tuy nhiên tính đặc trưng phân tử của DNA transposon đầu tiên lại là yếu tố p
ở ruồi dấm.
Yếu tố p được phát hiện khi nghiên cứu thể lai mất khả năng sinh sản (dysgenesis),
hiện tượng xảy ra khi lai ruồi cái thuộc chủng phòng thí nghiệm với ruồi đực ở quần thể
tự nhiên. Trong phép lai như thế, chủng phòng thí nghiệm được xem là có kiểu tế bào M
(M cytotype) và giống gốc tự nhiên được xem là có kiểu tế bào P (P cytotype). Phép lai
của M (cái) x P (đực) cho thế hệ sau kiểu hình ở dòng mầm với gồm dạng bất thụ với tỷ
lệ đột biến, tần số sai hình nhiễm sắc thể và không chia ly nhiễm sắc thể cao. Phép lai
nghịch không xảy ra hiện tượng thoái hóa giống (dysgenics). Đột biến dysgenics không
bền, chúng có thể phục hồi dạng kiểu dại hoặc biến đổi thành allele đột biến khác với tần
số cao.
Sự giống nhau về đột biến không bền vững ở ruồi dấm và ở ngô đưa đến giả thuyết
đột biến dysgenic được gây ra do sự xen yếu tố di động vào những gene đặc biệt, làm
chúng bị bất hoạt. Chẳng hạn hầu hết các đột biến trên ở ruồi dấm do xen yếu tố di động
vào gene white. Những yếu tố như vậy gọi là yếu tố p, có từ 30-50 bản sao trên genome ở
chủng P và hoàn toàn vắng mặt ở chủng M. Yếu tố P có chiều dài từ 0,5-2,9 kb. Kích
thước khác nhau này do do nhiều yếu tố P không đầy đủ mà bị mất đoạn ở giữa. Yếu tố P
với kích thước đầy đủ tương đương với transposon đơn giản ở vi khuẩn, có đầu mút là
đoạn lặp đảo ngược ngắn (31 bp) và nó mã hóa cho transposase. Gene mã hóa cho
transposase ở eukaryote chứa 3 intron và 4 exon.
Ở ngô, yếu tố Ac và Ds có thể di chuyển trên nhiễm sắc thể , tác động lên các gene
kiểm tra màu sắc của các hạt aleuron. Các yếu tố này được phân lập cho thấy có liên quan
với DNA transposon của vi khuẩn và của các eukaryote khác. Giống với yếu tố P của ruồi
dấm, yếu tố Ac có đoạn cuối lặp lại đảo ngược mã hóa cho transposase, yếu tố Ds lại
không mã hóa cho transposase. Khi Ac trên genome, transposase của nó có thể bám vào
đầu mút của cả yếu tố Ac và Ds và khởi động sự chuyển vị của chúng..
Yếu tố Ac và Ds là thành viện của họ transposon đơn giản. Ngoài ra, còn có các họ
yếu tố di động khác ở ngô. Mỗi họ chứa yếu tố tự động mã hóa cho transposase có thể
chuyển được yếu tố trong cùng một họ, nhưng không thể chuyển đến các họ khác vì
transposase chỉ có thể bám vào đầu mút của các thành viên trong họ.
Ở người, yếu tố di động chiếm một nữa genome người. Đa số yếu tố di động thuộc 2
dạng retrotransposon là yếu tố nhân rãi rác kích thước dài (long interspersed nuclear
element) LINEs và yếu tố nhân rãi rác kích thước ngắn (short interspersed nuclear
element) SINEs. LINE di chuyển nhờ retrotransposition đã sử dụng yếu tố mã hóa
reverse transcriptase, nhưng lại thiếu một vài tính chất về cấu trúc của yếu tố giống
retrovirus bao gồm LTR.
SINE được mô tả như là LINE không tự động, vì chúng có tính chất cấu trúc đặc
trưng của LINE nhưng không mã hóa cho reverse transcriptase riêng. Người ta cho rằng
chúng di chuyển được nhờ enzyme reverse transcriptase được mã hóa bởi LINE trong
genome.
SINE ở người được gọi là trình tự Alu vì nó chứa trình tự điểm cắt của enzyme cắt
hạn chế Alu. Genome của người chứa hơn 1 triệu trình tự Alu chỉ một phần hoặc toàn bộ,
chiếm hơn 10% genome của người. Trình tự Alu đầy đủ có kích thước 200 nucleotide.
DNA genome mang yếu tố di động lớn hơn 20 lần DNA mã hóa cho tất cả protein người.
Tần số đột biến ngẫu nhiên do xen vào yếu tố nhóm 2 là thấp chưa đến 0,2% trong
tổng các đột biến ngẫu nhiên. Trong khi đó ở những tế bào động vật khác như chuột do
xen retrotransposon lên đến 10% đột biến ngẫu nhiên, cao hơn 50 lần ở người có lẽ liên
quan với hoạt tính của yếu tố retrotransposon cao hơn ở chuột.

Câu hỏi ôn tập


1. Vì sao phần lớn các đột biến ảnh hưởng đến các gene cấu trúc thường là lặn so
với các allele hoang dại?
2. Sự hình thành đột biến dịch khung diễn ra như thế nào?
3. Các hóa chất gây đột biến có đặc điểm gì?
4. Giải thích cơ sở đột biến của các tác nhân gây đột biến sau: 5-bromuracil, acid
nitrơ và acridin. Xác định xem chúng tạo ra dạng đột biến nào (đồng hoán, đảo hoán hay
dịch khung)?
5. Hãy mô tả một loại sai hỏng ngẫu nhiên dẫn đến đột biến.
6. Phân tích sự giống nhau và khác nhau giữa các kiểu transposition.
7. Các trình tự đảo ngược có vai trò gì trong transposition?
8. Cho một chuỗi trình tự nucleotid trên mRNA như sau:
Dạng hoang dại: ... 5' AAUCCUUACGGA 3' ...
Dạng đột biến: .... 5' AAUCCUACGGA 3' ...
Hãy cho biết sai hỏng trên xảy ra do loại đột biến nào?
9. Đột biến xảy ra trong trình tự nucleotid do kết cặp nhầm như sau:
5' AGCTGCCTT 3'

Hãy cho biết acid amin nào sẽ được tìm thấy ở codon có nucleotid bị thay đổi như
trên?
10. Ở bắp, tần số đột biến của locus R (màu cây) rất câo: 492 đột biến trên 106 giao
tử. Gene tạo màu đỏ của nội nhủ Pr có tần số đột biến là 11 đột biến trên 10 6 giao tử. Hãy
cho biết cần phải phân tích bao nhiêu cây mới tìm được 1 đột biến kép của 2 gen trên?

Tài liệu Tham khảo


Phạm Thành Hổ. 2000. Di truyền học. NXB Giáo Dục.
Lê Đình Lương, Phan Cự Nhân (1998). Cơ sở di truyền học. NXB Giáo dục.
Hoàng Trọng Phán. 1995. Di truyền học phân tử. Trung tâm Đào tạo Từ xa, Đại học
Huế
Anthony J. F. Griffiths, Susan R. Wessler, Richard C. Lewontin, William M.
Gelbart, David T. Suzuki, Jeffrey H. Miller. 2004. An introduction to genetics analysis.
W.H. Freeman Publishers.
Harlt D.L., Jones E.W. 1998. Genetics - Principle and analysis. Jone and Bartlett
Publshers, Toronto, Canada.
Stansfield W.D. 1991. Schaum’s outline of theory and problems of genetics.
McGraw-Hill, Companies, Inc., United States of America.
Watson D.J, Baker T.A., Bell S.P., Gann A., Levine M., Losick R. 2004. Molecular
biology of the gene. Benjamine Cummings, San Francisco, United States of America.

You might also like