35(3), 219-229
Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT
9-2013
NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ
CẢNH BÁO NGUY CƠ TAI BIẾN NỨT SỤT ĐẤT
KHU VỰC TÂY NGUYÊN
PHẠM VĂN HÙNG, NGUYỄN XUÂN HUYÊN
E-mail: phamvanhungvdc@gmail.com
Viện Địa chất, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 4 - 7 - 2013
1. Mở đầu
Lãnh thổ Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh Kon
Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng,
nằm trong vùng có những điều kiện tự nhiên và xã
hội thuận lợi cho sự phát triển kinh tế ở Tây
Nguyên nói riêng, nước ta nói chung. Tuy nhiên,
trong thời gian qua, các tai biến địa chất, đặc biệt là
nứt sụt đất (NSĐ) diễn ra bất thường, khó kiểm
soát đã gây nên những tổn thất khó lường cho cuộc
sống của người dân địa phương. Các tai biến nứt
đất, nứt sụt đất đã xuất hiện ở một số nơi như
doanh trại của Trung đoàn 28 - Quân đoàn 3 thuộc
xã Hoà Bình (thành phố Kon Tum), Tu Mơ Rông,
Diên Bình, Doãn Văn, Hoà Thắng, Ia Ve, Cư
Mgar, Pleiku, Tuy Đức, Đắk Rlấp,... gây tổn thất
lớn không những về tài sản vật chất, mà còn gây
hoang mang lo lắng trong nhân dân.
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công
trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này và đạt được
kết quả bước đầu. Nguyễn Trọng Yêm và các cộng
sự (1991, 2005) khẳng định rằng, tai biến nứt đất
có nguồn gốc nội sinh, do chuyển động từ từ của
vỏ Trái Đất, trong đó phải kể đến yếu tố hoạt động
của các đứt gãy kiến tạo hiện đại. Theo Phan
Thanh Sáng và các cộng sự (2002), tai biến NSĐ
hình thành và phát triển do tác động của nhóm yếu
tố địa chất và kiến tạo, trong đó phải kể đến yếu tố
đứt gãy hoạt động, địa chất thạch học, chuyển động
hiện đại vỏ Trái Đất và địa chất thủy văn. Tai biến
NSĐ ở khu vực Tây Nguyên đã được quan tâm
điều tra hiện trạng và đánh giá nguyên nhân phát
sinh. Cho đến nay, ở Tây Nguyên chưa có công
trình nào nghiên cứu dự báo, khoanh vùng nguy cơ
NSĐ làm cơ sở cho quản lý tai biến và phòng
chống giảm nhẹ thiên tai. Vì vậy, những kết quả
nghiên cứu của công trình này bước đầu đáp ứng
những đòi hỏi của thực tiễn. Đây là những kết quả
nghiên cứu mới nhất của đề tài khoa học cấp Nhà
nước: “Nghiên cứu một số dạng tai biến địa chất
điển hình phục vụ phát triển kinh tế - xã hội khu
vực Tây Nguyên” mang mã số TN3/T04 thuộc
Chương trình TN3/11-15.
2. Phương pháp nghiên cứu
Ở nước ta, việc ứng dụng các phương pháp
nghiên cứu đánh giá tai biến địa chất còn gặp nhiều
khó khăn. Nguyễn Trọng Yêm và các cộng sự
(2006) đã tổng hợp một cách tương đối đầy đủ hệ
phương pháp nghiên cứu đánh giá tai biến môi
trường trên thế giới áp dụng vào nghiên cứu ở Việt
Nam. Công trình này áp dụng tổ hợp các phương
pháp nghiên cứu bao gồm: phân tích ảnh viễn
thám, khảo sát thực địa và phân tích đánh giá tai
biến (phương pháp phân tích so sánh cặp thông
minh và phân tích không gian trong môi trường
GIS.
Phân tích ảnh viễn thám được ứng dụng để giải
đoán vị trí các điểm NSĐ trên địa bàn nghiên cứu.
Phương pháp khảo sát thực địa là chủ đạo được
ứng dụng để nghiên cứu đánh giá hiện trạng và các
yếu tố tác động phát sinh NSĐ. Ở ngoài thực địa,
tiến hành đo vẽ chi tiết, xác định quy mô, các đặc
trưng của điểm nứt sụt đất và những yếu tố tác
động phát sinh NSĐ. Từ đó đánh giá hiện trạng và
diễn biến của quá trình NSĐ trong khu vực nghiên
219
cứu. Phương pháp phân tích so sánh cặp thông
minh [6] được ứng dụng nhằm xác định vai trò của
từng yếu tố trong tổng hợp các yếu tố tác động phát
sinh NSĐ trên cơ sở cho điểm và tính trọng số.
Phương pháp phân tích không gian trong môi
trường GIS được áp dụng để xây dựng bản đồ nguy
cơ NSĐ. Bản đồ nguy cơ NSĐ được xây dựng dựa
trên sự hiểu biết về các chuyển động phức tạp trên
bề mặt Trái Đất và các yếu tố gây ra NSĐ. Việc
khoanh vẽ các khu vực hiện thời chưa bị tác động
của NSĐ được dựa trên giả định rằng, quá trình
NSĐ trong tương lai sẽ diễn ra trong cùng một điều
kiện với các vụ NSĐ quan sát được đã xảy ra trước
đó. Việc vạch ranh giới của các vùng nguy cơ NSĐ
xuất phát từ xác suất xảy ra hiện tượng, từ sự tương
đồng của các yếu tố tác động phát sinh NSĐ như:
đặc tính địa chất thạch học của đất đá, đặc điểm địa
chất thủy văn, hoạt động phá hủy của đứt gãy hoạt
động (mật độ đứt gãy và đới ảnh hưởng động lực
đứt gãy) và chuyển động Tân kiến tạo vỏ Trái Đất.
Mặt khác, việc định lượng cấp độ nguy cơ NSĐ là
kết quả của sự tích lũy các yếu tố tác động phát sinh
NSĐ được tính theo công thức sau [6]:
H=
n
m
j =1
i =1
∑ wj ∑
KT-XH khu vực Tây Nguyên nói riêng, nước ta
nói chung.
3. Hiện trạng phân bố nứt sụt đất khu vực
Tây Nguyên
Trên khu vực Tây Nguyên, tai biến NSĐ thể
hiện rất rõ trên bề mặt thông qua sự bộc lộ của
chúng trên các công trình kinh tế dân sinh và tự
nhiên. Quá trình NSĐ diễn ra để lại những dấu tích
trên nhiều đối tượng khác nhau: nứt đồi, nứt núi,
phá hủy ruộng vườn, hoa màu, đường giao thông,
các công trình kinh tế dân sinh, gây tổn thất không
chỉ tài sản mà cả tính mạng của nhân dân. Trong
những năm gần đây, hiện tượng NSĐ diễn ra rất
phức tạp, khó kiểm soát và làm cho người dân
hoang mang, lo lắng. Hiện tại, trên cơ sở tổng hợp
các tài liệu và kết qủa khảo sát thực địa ở Tây
Nguyên, đã xác lập được 91 điểm NSĐ, trong đó
có 21 điểm NSĐ nguy hiểm (hình 1, bảng 1).
ij
X
Trong đó: H - là nguy cơ NSĐ, Wj - là trọng số
của yếu tố thứ j, Xij - là giá trị của lớp thứ i trong
yếu tố gây NSĐ j.
Việc tích hợp thông tin trong môi trường GIS
với phương pháp phân tích đa biến đã cho
phép xây dựng bản đồ nguy cơ NSĐ khu vực
Tây Nguyên.
Như vậy, phương pháp khảo sát thực địa kết
hợp với phân tích các dữ liệu viễn thám là quan
trọng, bởi lẽ có xác lập chi tiết hiện trạng tai biến
NSĐ một cách đầy đủ, chi tiết thì mới cho kết quả
khoanh vùng nguy cơ NSĐ đạt độ tin cậy và có ý
nghĩa thực tiễn. Ứng dụng phương pháp phân tích
so sánh cặp thông minh và phân tích không gian
trong môi trường GIS để khoanh vùng nguy cơ
NSĐ sẽ đáp ứng được nhu cầu thực tiễn đặt ra, làm
cơ sở khoa học cho quy hoạch phát triển bền vững
220
Hình 1. Bản đồ hiện trạng phân bố nứt sụt đất khu vực
Tây Nguyên
Bảng 1. Thống kê các điểm nứt sụt đất ở khu vực Tây Nguyên
Stt
Vỹ độ
Kinh độ
1
11,805
108,433
Đơn Dương - Lâm Đồng
Địa điểm
Nứt đất kèm theo sụt trượt
Đặc điểm
2
13,503
108,259
Phú Thiện - Gia Lai
Nứt sụt đất
3
12,666
108,300
Lắk - Đắk Lắk
Nứt sụt đất
4
14,023
108,234
Đắk Đoa - Gia Lai
Nứt sụt đất
5
12,153
107,478
Tuy Đức - Đắk Nông
Nứt sụt đất
6
11,993
107,491
Kiến Đức Đắk Nông
Nứt sụt đất
7
12,061
107,475
Đắk Rlấp - Đắk Nông
Nứt sụt đất
8
12,616
108,083
Hoà Thắng - Đắk Lắk
Nứt sụt đất
9
14,022
108,019
Pleiku - Gia Lai
Nứt sụt đất
10
13,905
108,018
Pleiku - Gia Lai
Nứt sụt đất
11
14,279
108,000
Hoà Bình - Kon Tum
Nứt đất
12
11,606
107,940
Đức Trọng - Lâm Đồng
Nứt đất
13
11,755
107,375
Cát Tiên - Lâm Đồng
Nứt sụt đất
14
11,526
107,951
Di Linh - Lâm Đồng
Nứt sụt đất
15
12,051
108,510
Đà Lạt - Lâm Đồng
Nứt đất
16
12,102
108,585
Lạc Duơng - Lâm Đồng
Nứt sụt đất
17
11,580
108,045
Di Linh - Lâm Đồng
Nứt đất kèm theo sụt trượt
18
11,964
107,465
Đắk Rlấp - Đắk Nông
Nứt đất kèm theo sụt trượt
19
11,943
107,426
Đắk Rlấp - Đắk Nông
Nứt sụt đất
20
11,872
107,451
Đắk Rlấp - Đắk Nông
Nứt đất kèm theo sụt trượt
21
11,967
107,737
Đắk Glong - Đắk Nông
Nứt đất kèm theo sụt trượt
22
11,940
107,753
Đắk Glong - Đắk Nông
Nứt sụt đất
23
12,044
107,682
Gia Nghĩa - Đắk Nông
Nứt sụt đất
24
12,246
107,629
Đắk Song - Đắk Nông
Nứt sụt đất
25
11,662
107,926
Bảo Lâm - Lâm Đồng
Nứt sụt đất
26
11,634
107,855
Bảo Lâm - Lâm Đồng
Nứt sụt đất
27
12,495
108,338
Krông Bông - Đắk Lắk
Nứt sụt đất
28
12,524
108,411
Krông Bông - Đắk Lắk
Nứt sụt đất
29
12,271
108,153
Đam Rông - Lâm Đồng
Nứt sụt đất
30
12,301
108,189
Lắk - Đắk Lắk
Nứt sụt đất
31
11,947
107,565
Đắk Rlấp - Đắk Lắk
Nứt sụt đất
32
12,627
108,806
M’Đrắk - Đắk Lắk
Nứt sụt đất
33
12,775
108,922
An Khê - Đắk Lắk
Nứt đất
34
12,759
108,356
Krông Pách - Đắk Lắk
Nứt sụt đất
35
12,819
108,013
Cư Mgar - Đắk Lắk
Nứt đất kèm theo sụt trượt
36
13,912
108,062
Chư Prông - Gia Lai
Nứt sụt đất
37
13,734
107,906
Chư Prông - Gia Lai
Nứt đất kèm theo sụt trượt
38
13,692
107,808
Chư Prông - Gia Lai
Nứt đất kèm phun tro
39
14,472
108,190
Kon Rẫy - Kon Tum
Nứt sụt đất
40
14,517
108,260
Kon Rẫy - Kon Tum
Nứt sụt đất
41
14,320
108,087
Kon Tum - Kon Tum
Nứt sụt đất
42
14,137
108,124
Đắk Đoa - Kon Tum
Nứt sụt đất
43
14,648
107,848
Đắk Tô - Kon Tum
Nứt đất kèm theo sụt trượt
44
14,648
107,815
Đắk Tô - Kon Tum
Nứt sụt đất
45
14,497
107,891
Đắk Hà - Kon Tum
Nứt đất kèm theo sụt trượt
221
46
14,401
107,767
Sa Thầy - Kon Tum
Nứt sụt đất
47
15,202
107,746
Đắk Glei - Kon Tum
Nứt sụt đất
48
14,899
107,991
Tu Mơ Rông - Kon Tum
Nứt đất kèm theo sụt trượt
49
14,813
107,881
Đắk Tô - Kon Tum
Nứt đất
50
14,633
107,926
Đắk Tô - Kon Tum
Nứt sụt đất
51
14,993
107,920
Tu Mơ Rông - Kon Tum
Nứt sụt đất
52
14,665
108,408
Kon Plông - Kon Tum
Nứt sụt đất
53
13,968
108,746
An khê - Đắk Lắk
Nứt đất
54
13,728
108,572
Kông Chrô - Gia Lai
Nứt sụt đất
55
13,752
108,595
Kông Chrô - Gia Lai
Nứt sụt đất
56
13,879
108,131
Chu Prông - Gia Lai
Nứt sụt đất
57
13,640
108,217
Chư Sê - Gia Lai
Nứt sụt đất
58
13,416
108,506
Ayun Pa - Gia Lai
Nứt sụt đất
59
12,920
108,713
M’Đrắk - Đắk Lắk
Nứt sụt đất
60
14,711
107,825
Đắk Tô - Kon Tum
Nứt sụt đất
61
14,716
107,594
Ngọc Hồi - Kon Tum
Nứt sụt đất
62
14,218
107,805
Đắk Hà - Kon Tum
Nứt sụt đất
63
14,223
107,818
Đắk Hà - Kon Tum
Nứt sụt đất
64
14,060
107,954
Ia Grai - Gia Lai
Nứt đất
65
14,126
107,907
Ia Grai - Gia Lai
Nứt đất kèm theo sụt trượt
66
14,203
107,858
Chư Pah - Gia Lai
Nứt đất
67
14,198
107,822
Chư Pah - Gia Lai
Nứt đất
68
14,854
108,035
Tu Mơ rông - Kon Tum
Nứt đất kèm theo sụt trượt
69
14,737
108,477
Kon Plông - Kon Tum
Nứt sụt đất
70
14,139
108,610
Kbang - Gia Lai
Nứt sụt đất
71
15,066
107,750
Đắk Glei - Kon Tum
Nứt sụt đất
72
14,279
108,000
Kon Tum - Kon Tum
Nứt sụt đất
73
14,007
108,232
Măng Giang - Gia Lai
Nứt sụt đất
74
14,005
108,021
Pleiku - Gia Lai
Nứt đất
75
13,955
107,950
Pleiku - Gia Lai
Nứt đất
76
13,905
108,018
Pleiku - Gia Lai
Nứt sụt đất
77
13,866
107,967
Chu Prông - Gia Lai
Nứt sụt đất
78
13,647
107,992
Chu Sê - Gia Lai
Nứt sụt đất
79
12,336
108,265
Lắk - Đắk Lắk
Nứt sụt đất
80
13,216
108,699
Krông Pa - Gia Lai
Nứt đất kèm phun bùn
81
12,666
108,300
Krông Ana - Đắk Lắk
Nứt sụt đất
82
12,616
108,083
Krông Ana - Đắk Lắk
Nứt sụt đất
83
12,061
107,475
Đắk Rlấp - Đắk Nông
Nứt sụt đất
84
12,050
107,701
Gia Nghĩa - Đắk Nông
Nứt sụt đất
85
12,005
107,468
Đắk Rlấp - Đắk Nông
Nứt sụt đất
86
11,993
107,491
Đắk Rlấp - Đắk Nông
Nứt đất
87
11,986
107,478
Đắk Rlấp - Đắk Nông
Nứt đất
88
11,983
107,583
Đắk Rlấp - Đắk Nông
Nứt đất
89
11,916
107,400
Đắk Rlấp - Đắk Nông
Nứt sụt đất
90
11,772
108,233
Đức Trọng - Lâm Đồng
Nứt đất
91
11,805
108,433
Đơn Dương - Lâm Đồng
Nứt đất
222
Các điểm NSĐ thể hiện ở ba dạng chủ yếu: nứt
đất ở Hòa Bình (thành phố Kon Tum), phía bắc sân
bay Pleiku, Trà Bá (tỉnh Gia Lai), Krông Pák, Ea
Trun (tỉnh Đắk Lắk), Doãn Văn, Bum Bre, Hiệp
An, Quảng Tín (tỉnh Đắk Nông); nứt đất kèm theo
sụt đất và trượt đất ở Ia Băng, phía tây Pleiku, Yaly
(tỉnh Gia Lai), Hòa Thắng (thành phố Buôn Ma
Thuột, Gia Nghĩa, Nhân Cơ, Bù Tung, Đăk Rlấp,
Tân Văn, Đắk Tung (tỉnh Đắk Nông) và nứt đất
kèm theo phun tro núi lửa và phun bùn ở Ia Ve Chư Prông và Phú Túc - Krông Pa (tỉnh Gia Lai).
Nứt sụt đất phân bố thành dải có mật độ cao
chạy theo phương ĐB-TN và á kinh tuyến. Các dải
có phương á kinh tuyến là Đắk Glei - Chư Prông,
Tu Mơ Rông - Đắk Tô - Kon Tum, Xã Hiếu Kbang; dải có phương ĐB-TN là M’Đrắk - Cát
Tiên, Ea Ka - Tuy Đức, Đơn Dương - Di Linh và
dải có phương TB-ĐN Yaly - Krông Pa.
Trên địa bàn tỉnh Kon Tum, NSĐ diễn ra ở rải
rác các huyện Tu Mơ Rông, Đắk Tô, Đắk Glei,
Kon Rẫy, thành phố Kon Tum,… Điểm NSĐ ở
Plei Cần - Ngọc Hồi gồm tập hợp các khe nứt tách
sụt có phương á kinh tuyến dài khoảng 120-150 m.
Hệ thống các khe nứt tách sụt cắt qua cả sườn núi
và đoạn đường Xuyên Á, phá hủy đoạn đường dài
100 m. Điểm NSĐ hình thành chuỗi các sụt bậc,
chênh cao 1m, vẫn tiếp tục sụt trượt (ảnh 1a). Trên
địa bàn tỉnh Gia Lai, NSĐ xảy ra phổ biến ở
Pleiku, các huyện Chư Pah, Chư Prông, Đắk
Đoa,…. Vết nứt ở Diên Phú - Pleiku gồm các khe
nứt có phương TB-ĐN, ĐB-TN và á kinh tuyến.
Các khe nứt phương TB-ĐN dài 150-170m, kiểu
sụt bậc, chênh cao mỗi bậc 3-5m. Các khe nứt
phương ĐB-TN dài khoảng 100-120m, sụt bậc,
chênh cao mỗi bậc 0,5-1m. Các khe nứt á kinh
tuyến có kiểu tách mở, dài 70-90 m, rộng 1,2-1,5
m, hình thành dải sụt bậc rộng 150 m. Khối nứt sụt
đã phá hủy hàng chục ha đất canh tác của cư dân
địa phương (ảnh 1b).
b
a
Ảnh 1. Nứt sụt đất đường Xuyên Á ở Pleican - Ngọc Hồi (a), Diên Phú - Pleiku (b) (ảnh Phạm Văn Hùng)
Ở tỉnh Lâm Đồng, NSĐ xảy ra phổ biến ở Bảo
Lâm, Đức Trọng, Di Linh, Lạc Dương và Đà Lạt.
Nhiều điểm NSĐ gây tổn thất cho đời sống của cư
dân địa phương như Lộc Ngãi - Bảo Lâm, thị trấn
Di Linh, Đức Trọng, Lạc Dương. Trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk, NSĐ phân bố ở Cư Mgar, Krông
Pák, Buôn Ma Thuột,… Ở sườn đông núi Chư Bir
thuộc xã Hoà Thắng - Buôn Ma Thuột điểm NSĐ
hình thành từ tập hợp các khe nứt tách mở có
phương á kinh tuyến, dài 200-250m, rộng 1,01,5m, sụt bậc và chênh cao mỗi bậc 2-3m. Vết nứt
nằm trên một sườn đồi thoải, độ dốc 10-15o. NSĐ
diễn ra trong cả vỏ phong hoá đá basalt ầm tích
lục nguyên cát kết, bột kết. Vết nứt phá hủy hàng
chục ha hoa màu và gây tâm lý hoang mang cho
cư dân địa phương (ảnh 2a). Địa bàn tỉnh Đắk
Nông là nơi phân bố với mật độ lớn các điểm
NSĐ nguy hiểm ở khu vực Tây Nguyên. Các
điểm NSĐ phân bố tập trung ở các huyện Tuy
Đức, Đắk Rlấp, Đắk Glong và Đắk Song. Tại
thôn 5 xã Quảng Tín, NSĐ làm cho 2 người dân
đang làm nương ở đây bị vùi chết, 1 người bị
thương, phá hủy các rẫy cà phê và hoa màu của 7
hộ dân. Vết nứt có phương á kinh tuyến dài 150200m, cắt ngang qua đường nhựa, chênh cao 0,51m (ảnh 2b).
223
a
b
Ảnh 2. Nứt sụt đất ở Hoà Thắng - Buôn Ma Thuột (a), Quảng Tín - Đắk Rlấp (b) (ảnh Phạm Văn Hùng)
4. Đánh giá nguy cơ nứt sụt đất khu vực
Tây Nguyên
4.1. Yếu tố tác động phát sinh nứt sụt đất
Khu vực Tây Nguyên nằm trong khối cấu trúc
Nam Trung Bộ bị phân dị thành các khối cấu trúc
bậc cao hơn, có ranh giới là các đới đứt gãy.
Chuyển động của các khối cấu trúc dọc theo các
đứt gãy hoạt động đã thúc đẩy tai biến địa chất
phát triển, trong đó có tai biến NSĐ [4, 5]. NSĐ
được hiểu là nứt tách vỏ Trái Đất kèm theo chuyển
động hạ lún bề mặt Trái Đất. Trên cơ sở phân tích
hiện trạng phân bố, cho phép đánh giá vai trò của
các yếu tố phát sinh NSĐ ở khu vực Tây Nguyên,
bao gồm nhóm các yếu tố địa chất và kiến tạo.
phân bố chủ yếu ở phía nam Tây Nguyên. Chúng
phân cắt khối Lâm Đồng thành các cấu trúc bậc
cao có phương ĐB-TN. Trên khối Đắk Lắk phát
triển các cấu trúc bậc cao có phương ĐB-TN và á
kinh tuyến.
4.1.1. Nhóm yếu tố kiến tạo
Nhóm các yếu tố kiến tạo phải kể đến là chuyển
động tân kiến tạo và hoạt động phá hủy đứt gãy
kiến tạo, đặc biệt là đứt gãy hoạt động. Bình đồ cấu
trúc Tân kiến tạo khu vực Tây Nguyên bao gồm
các khối cấu trúc bậc1: Kon Tum, Đắk Lắk và Lâm
Đồng. Ranh giới của các khối là các đứt gãy Sông
Pô Cô, Ia Sir-Sông Ba và M’Đrắc-Cát Tiên.
Chuyển động của các khối cũng như hoạt động của
các đới đứt gãy trong Tân kiến tạo và hiện đại diễn
ra mạnh mẽ, phân dị phức tạp (hình 2) [1, 2, 4].
Các đứt gãy hoạt động ở khu vực Tây Nguyên
phổ biến có phương á kinh tuyến và ĐB-TN.
Trong đó nổi lên các đứt gãy Sông Pô Cô, Ia SirSông Ba, M’Đrắc-Cát Tiên, Đơn Dương-Di Linh,
Krông Năng-Tuy Đức, Kon Plông-Măng Yang, Tu
Mơ Rông-Đắk Hà, Kon Tum-Đắk Đoa, Pleiku-Cư
Mgar, Cư Yut-Đắk Rlấp, Kon Plông-Kon Rẫy,…
Các đứt gãy phương á kinh tuyến phân bố chủ yếu
ở phía bắc Tây Nguyên. Chúng phân cắt khối cấu
trúc Kon Tum, hình thành các cấu trúc bậc cao có
phương á kinh tuyến. Các đứt gãy phương ĐB-TN
224
Hình 2: Bản đồ đứt gãy tân kiến tạo khu vực Tây Nguyên
Chú thích: Các đới đứt gãy Sông Pô Cô (I), Ia Sir-Sông Ba (II),
M’Đrắk-Cát Tiên (III), Xã Hiếu-Kbang (IV), Đơn Dương-Di Linh
(V), Ea Ka-Tuy Đức (VI), Pleiku-Ia H’leo (VII), Kon Plông-Kon Rẫy
(VIII); khối Kon Tum (KKT), Đắk Lắk (KĐL), Lâm Đồng (KLĐ)
Đứt gãy hoạt động đã phá hủy đất đá, làm cho
độ dính kết của chúng yếu đi, tạo điều kiện thuận
lợi thúc đẩy quá trình nứt sụt đất phát triển. Mỗi
đứt gãy hoạt động đều có phạm vi ảnh hưởng của
chúng (chiều rộng đới ảnh hưởng động lực đứt
gãy). Càng xa trục đứt gãy, cường độ hoạt động
của đứt gãy giảm dần. Phạm vi ảnh hưởng động
lực của đứt gãy của mỗi bậc đứt gãy là khác nhau.
Đứt gãy có bậc càng cao, phạm vi ảnh hưởng của
chúng càng hẹp lại. Sự ảnh hưởng của chúng thể
hiện các đặc trưng chủ yếu sau đây: (1) mức độ phá
hủy gây biến dạng các loại đất đá tạo các đới cá
nát, xiết ép vỡ vụn, (2) mức độ phá hủy địa hình
thể hiện ở các quá trình địa mạo- tân kiến tạo, (3)mức độ hình thành khe nứt hiện đại thể hiện ở mật
độ khe nứt, đứt gãy, (4) biên độ và tốc độ dịch
chuyển của đứt gãy, (5) vai trò phân định các bậc
kiến trúc, (6) mức độ phá hủy các đối tượng trên bề
mặt đất (công trình giao thông, xây dựng dân dụng,
đê đập, núi, đồi, ruộng vườn). Do vậy, vai trò của
yếu tố kiến tạo đưa vào đánh giá nguy cơ nứt sụt
đất thể hiện ở mật độ đứt gãy, phạm vi ảnh hưởng
động lực của đứt gãy hoạt động và đặc điểm
chuyển động Tân kiến tạo.
Đới động lực đứt gãy hoạt động: đới ảnh hưởng
động lực đứt gãy bậc 1 ở khu vực nghiên cứu là
các đứt gãy Sông Pô Cô, Ia Sir - Sông Ba và
M’Đrắk-Cát Tiên. Đới đứt gãy này đóng vai trò
phân chia khối cấu trúc Kon Tum, Đắk Lắk và
Lâm Đồng. Các đới động lực đứt gãy bậc 1 có quy
mô: rộng 10-15km, dài >100km. Đới ảnh hưởng
động lực đứt gãy bậc 2 đóng vai trò phân chia khối
cấu trúc bậc 2 ở khu vực Tây Nguyên, rộng 710km, dài 70-100km. Đới ảnh hưởng động lực đứt
gãy bậc 3 rộng 5-7km, dài 50-70km. Đới ảnh
hưởng động lực đứt gãy bậc 4 rộng 3-5km, dài 3050km. Đới ảnh hưởng động lực đứt gãy bậc cao
(hoặc vùng ngoại vi) chiếm phần lớn diện tích khu
vực nghiên cứu [3]. Vai trò của đới ảnh hưởng
động lực đứt gãy hoạt động với quá trình NSĐ là
khá rõ ràng và cho yếu tố này 9 điểm. Mức độ
NSĐ lớn nhất tập trung ở các đới động lực đứt gãy
hoạt động bậc 1, tiếp theo là bậc 2, bậc 3, bậc 4 và
cao hơn và điểm tương ứng là 9, 7, 5, 3 và 1
(bảng 2).
Bảng 2. Thống kê nứt sụt đất và điểm số theo
đới động lực đứt gãy khu vực Tây Nguyên
Đới động lực
đứt gãy (bậc)
1
Số điểm
NSĐ
33
Diện tích
2
(km )
12870
Mật độ
NSĐ
0,0026
2
19
8101
0,0023
7
3
7
3996
0,0021
5
Điểm số
9
4
14
8600
0,0016
3
Cao
18
21280
0,0008
1
Mật độ đứt gãy: trên khu vực nghiên cứu, mạng
lưới đứt gãy kiến tạo từ cổ đến trẻ phát triển dầy
đặc; mật độ đứt gãy trung bình là 0,504 km/km2.
Mật độ đứt gãy lớn >0,673km/km2 phân bố dọc
theo các đới đứt gãy Sông Pô Cô, Ia Sir-Sông Ba
và M’Đrăk-Cát Tiên. Vùng có mật độ đứt gãy
0,504-0,673km/km2 phân bố bao quanh dải có mật
độ đứt gãy >0,673km/km2. Vùng có mật độ đứt
gãy 0,336-0,504km/km2, 0,168-0,336km/km2 và
<0,168km/km2 phân bố rộng rãi ở khu vực Tây
Nguyên. Vai trò của mật độ đứt gãy với quá trình
NSĐ là không rõ ràng và cho yếu tố này 5 điểm.
Vùng có mật độ đứt gãy >0,673km/km2 có mức độ
NSĐ lớn nhất, tiếp theo là vùng có mật độ 0,1680,366km/km2, 0,366-0,504km/km2,... Vùng có mật
độ đứt gãy <0,168km/km2 có mức độ NSĐ thấp
nhất. Điểm của các bậc mật độ đứt gãy tương ứng
là 9, 7, 5, 3 và 1 (bảng 3).
Bảng 3. Thống kê nứt sụt đất và điểm số theo mật độ đứt gãy khu vực Tây Nguyên
Mật độ đứt gãy (km/km2)
<0,168
Số điểm nứt sụt đất
1
Diện tích (km2)
2681
Mật độ nứt sụt đất
0,0004
Điểm số
1
0,168-0,336
0,336-0,504
28
9450
0,0030
7
32
30760
0,0010
3
0,504-0,673
7
3388
0,0020
5
>0,673
23
6532
0,0035
9
Chuyển động Tân kiến tạo: đặc điểm chuyển
động Tân kiến tạo khu vực nghiên cứu phân dị theo
không gian; biên độ nâng lên lớn nhất (>1500m) ở
khối Kon Tum thuộc huyện Tu Mơ Rông và Đắk
Glei và trên khối Lâm Đồng thuộc huyện Lạc
Dương. Chuyển động nâng mạnh, hình thành cấu
trúc nâng uốn nếp vòm khối tảng với biên độ 1500-
2000m, phát triển trên móng Proterozoi-Paleozoi
và Mesozoi. Tại đây, phân bố địa hình núi cao
>2000m. Chuyển động nâng lên với biên độ 10001500m đã hình thành các cấu trúc nâng tạo núi
khối tảng dạng “bậc thang” trên cấu trúc móng
Mesozoi muộn phân bố ở phía nam tỉnh Kon Tum,
tỉnh Gia Lai và đông nam tỉnh Lâm Đồng. Địa hình
225
trên các cấu trúc này là các dẫy núi phương á kinh
tuyến và ĐB-TN, cao khoảng 1500m. Chuyển
động nâng với biên độ 500-1000m đã hình thành
các cấu trúc nâng tạo núi khối tảng phát triển trên
móng Paleozoi, Mesozoi. Nó là nền tảng tạo nên
các dẫy núi, đồi phương ĐB-TN và á kinh tuyến
cao 500-1000m. Chuyển động nâng, hạ lún tương
đối với biên độ 200-500 m đã hình thành các cấu
trúc nâng tạo núi khối tảng phát triển trên móng
Paleozoi, Mesozoi và sụt lún tạo trũng giữa núi. Nó
là nền tảng tạo nên các dẫy núi, đồi và đồng bằng
có phương ĐB-TN, TB-ĐN và á kinh tuyến cao
khoảng 200-500m. Chuyển động nâng, hạ lún
tương đối với biên độ <200m đã hình thành các cấu
trúc nâng tạo núi khối tảng phát triển trên móng
Paleozoi, Mesozoi. Địa hình là dải đồi đồng bằng
bóc mòn-tích tụ cao khoảng 100-200m [1, 2, 4].
Vai trò của biên độ chuyển động Tân kiến tạo với
quá trình NSĐ là không rõ ràng và cho yếu tố này
3 điểm. Mức độ NSĐ lớn nhất tập trung ở vùng có
biên độ nâng 200-500m, tiếp theo là 500-1000m,
>1500m, 1000-1500m và <200m. Điểm của các
bậc biên độ nâng tương ứng là 9, 7, 5, 3 và 1
(bảng 4).
Bảng 4. Thống kê nứt sụt đất và điểm số theo biên độ
chuyển động Tân kiến tạo ở Tây Nguyên
Biên độ
chuyển động (m)
<200
Số điểm
NSĐ
1
Diện tích
2
(km )
7008
Mật độ
Điểm số
NSĐ
0,0001
1
200-500
55
25900
0,0021
9
500-1000
22
11900
0,0018
7
1000-1500
3
3109
0,0010
3
>1500
10
6870
0,0014
5
4.1.2. Nhóm yếu tố địa chất
Đặc điểm địa chất thạch học: trên địa bàn Tây
Nguyên, yếu tố địa chất thạch học có vai trò quan
trọng trong phát sinh NSĐ. Theo Phan Thanh Sang
và các cộng sự (2002), ở Tây Nguyên có 5 nhóm
đá khác nhau. Nhóm thạch học đá phun trào basalt
phân bố rộng rãi ở Tây Nguyên. Thành phần thạch
học bao gồm các basalt hai pyroxen, plagiobasalt,
basalt olivin - augit - plagioclas và basalt olivin.
Nhóm thạch học này thuộc loại cứng. Tuy nhiên,
khi bị tác động của các quá trình động lực nộingoại sinh trở nên mềm yếu, dễ bị phá hủy. Nhóm
thạch học trầm tích bở rời Đệ tứ và Neogen gắn kết
yếu phân bố dọc các thung lũng sông Xê San,
Xrepốc, Ba, Đồng Nai và trũng giữa núi. Thành
phần thạch học bao gồm cuội, sỏi, sạn, cát, sét.
Nhóm thạch học đá magma xâm nhập phân bố khá
rộng ở Tây Nguyên. Thành phần thạch học bao
gồm các đá granitogneis biotit, granitogneis hai
mica, granit hai mica, gabro, gabro norit đến gabro
amphibol, gabro điorit. Nhóm thạch học này thuộc
loại cứng. Tuy nhiên, khi bị tác động của các quá
trình động lực nội-ngoại sinh trở nên rất yếu và dễ
bị phá hủy. Nhóm thạch học đá biến chất phân bố
rộng rãi ở khu vực Tây Nguyên, gồm các hệ tầng
Xa Lam Cô, Đắk Lô, Sông Re, Tắc Pỏ, Khâm Đức,
Đắk Long. Thành phần thạch học bao gồm các đá
gneis biotit, gneis biotit-granat-silimanit, phiến
thạch anh-biotit-silimanit. Đất đá có độ cứng trung
bình-nửa cứng, dễ bị phá hủy bởi các quá trình
động lực nội-ngoại sinh. Nhóm thạch học đá trầm
tích phân bố rộng rãi ở khu vực Tây Nguyên.
Thành phần thạch học bao gồm các đá phiến, cát
kết, bột kết. Nhóm thạch học này thuộc loại cứng.
Đặc điểm địa chất thạch học công trình thể hiện ở
độ cứng, độ bền chắc của các nhóm đất đá trong
đánh giá NSĐ. Quá trình phong hoá phát triển
trong điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa, đặc biệt
là trong điều kiện hoạt động kiến tạo phân dị mạnh
mẽ như ở khu vực Tây Nguyên. Vai trò của yếu tố
này trong phát sinh NSĐ là khá rõ ràng và cho 7
điểm. Trên các đá phun trào basalt bị phong hoá
mạnh mẽ, NSĐ cũng xảy ra mạnh nhất. NSĐ xảy
ra yếu hơn trên các thành tạo bở rời, đá magma
xâm nhập, rồi đến đá biến chất và cuối cùng là đá
trầm tích. Điểm của các nhóm đá này tương ứng là
9, 7, 5, 3 và 1 (bảng 5).
Bảng 5. Thống kê nứt sụt đất và điểm số theo yếu tố địa chất thạch học ở Tây Nguyên
Số điểm NSĐ
Diện tích (km )
Mật độ NSĐ
Điểm số
Basalt trẻ: cứng, dễ bị phong hóa
45
17610
0,0026
9
Trầm tích bở rời Đệ tứ và Neogen gắn kết yếu, dễ bị phong hóa
7
13042
0,0023
7
Xâm nhập - nửa cứng, dễ bị phong hóa
24
14590
0,0016
5
Biến chất - nửa cứng, bị phong hóa
6
6452
0,0009
3
13040
0,0007
1
Nhóm thạch học
Trầm tích: cứng, bị phong hóa yếu
Đặc điểm địa chất thủy văn: theo Phan Thanh
Sang và các cộng sự (2002), ở Tây Nguyên, tầng
226
9
2
giàu nước là các tầng chứa nước lỗ hổng, tồn tại
trong các trầm tích bở rời Đệ tứ (apd) và các trầm
tích Neogen gắn kết yếu. Tầng chứa nước này phân
bố dọc các thung lũng sông và trũng giữa núi. Các
tầng chứa nước lỗ hổng-khe nứt-vỉa phân bố rộng
rãi ở Tây Nguyên. Mức độ chứa nước cũng như
các thông số địa chất thủy văn của chúng thường
thay đổi mạnh theo không gian. Tầng rất nghèo
nước phân bố rải rác trên Tây Nguyên. Mức độ
chứa nước cũng như các thông số địa chất thủy văn
của chúng thường thay đổi mạnh theo không gian.
Tầng không chứa nước phân bố rộng rãi ở khu vực
Tây Nguyên. Tầng chứa nước khe nứt-vỉa phân bố
ở một số khu vực lộ các đá trầm tích bột kết, sét
kết; biến chất đá phiến và các đá magma xâm nhập.
Vai trò của yếu tố địa chất thủy văn với quá trình
NSĐ là không rõ ràng và cho 1 điểm. Mức độ NSĐ
lớn nhất nằm trong đới giàu nước; tiếp theo là tầng
chứa nước lỗ hổng-khe nứt-vỉa, tầng rất nghèo
nước, tầng không chứa nước, tầng chứa nước khe
nứt-vỉa. Điểm của các cấp độ chứa nước ngầm
tương ứng là 9, 7, 5, 3 và 1 (bảng 6).
Bảng 6. Thống kê nứt sụt đất và điểm số theo
yếu tố địa chất thủy văn ở khu vực Tây Nguyên
Độ chứa nước
Nước khe nứt
- vỉa (nghèo
nước)
Nước lỗ hổng
(giàu nước qp)
Nước lỗ hổng vỉa (trung bình)
Rất nghèo
nước (bc)
Không chứa
nước (xn)
Số điểm
NSĐ
Diện
tích
2
(km )
Mật độ
NSĐ
Điểm số
7
10010
0,0007
1
8
3752
0,0021
7
49
15580
0,0031
9
10
6211
0,0016
5
17
19170
0,0009
3
Tóm lại, ở Tây Nguyên, NSĐ hình thành và
phát triển do tác động của 5 yếu tố. Trên cơ sở
điểm của 5 yếu tố, áp dụng phương pháp phân tích
so sánh cặp thông minh, xây dựng ma trận so sánh
cặp các yếu tố tác động phát sinh NSĐ ở khu vực
Tây Nguyên (bảng 7).
Bảng 7. Ma trận so sánh cặp các yếu tố phát sinh nứt
sụt đất ở khu vực Tây Nguyên
Đđl (9)
Đđl
(9)
1
Đcth (7)
0,778
1
1,400
2,333
7,000
0,280
Mđđg(5)
0,556
0,714
1
1,667
5,000
0,200
Yếu tố
Đcth
(7)
1,286
Mđđg
(5)
1,800
Cđtkt
(3)
3,000
Đctv
(1)
9,000
Trọng
số
0,360
Cđtkt(3)
0,333
0,429
0,600
1
3,000
0,120
Đctv (1)
0,111
0,143
0,200
0,333
1
0,040
Chú thích: Đđl- Đới động lực đứt gãy, Đcth- Địa chất thạch học,
Mđđg- Mật độ đứt gãy, Cđtkt- Chuyển động Tân kiến tạo và ĐctvĐịa chất thủy văn.
Từ ma trận này, theo vector nguyên lý eigen
tính được một “tập hợp các trọng số phù hợp nhất”.
Kết quả tính toán cho thấy, trọng số của yếu tố đới
động lực đứt gãy hoạt động là 0,360, địa chất thạch
học là 0,280; mật độ đứt gãy là 0,200; chuyển động
Tân kiến tạo là 0,120 và địa chất thủy văn là 0,040.
4.2. Đánh giá nguy cơ nứt sụt đất ở khu vực
Tây Nguyên
Bản đồ phân vùng nguy cơ NSĐ khu vực Tây
Nguyên được xây dựng bằng phương pháp phân
tích không gian trong môi trường GIS. Đó là sự
tích hợp 5 bản đồ thành phần theo công thức sau:
H = 0,360 × Bđ_Đđl + 0,280 × Bđ_Đcth +
0,200 × Bđ_Mđđg + 0,120 × Bđ_Cđtkt + 0,040
Bđ_Đctv.
Trong đó: H: bản đồ nguy cơ NSĐ, Bđ_Đdl:
bản đồ nguy cơ NSĐ theo yếu tố đới động lực đứt
gãy, Bđ_Đcth: bản đồ nguy cơ NSĐ theo yếu tố địa
chất thạch học, Bđ_ Mđđg: bản đồ nguy cơ NSĐ
theo yếu tố mật độ đứt gãy, Bđ_Cđtkt: bản đồ nguy
cơ NSĐ theo yếu tố chuyển động Tân kiến tạo và
Bđ_Đctv: bản đồ nguy cơ NSĐ theo yếu tố địa chất
thủy văn.
Bản đồ nguy cơ NSĐ được tích hợp từ 5 bản đồ
thành phần thể hiện bằng giá trị số với mỗi pixel có
một giá trị nguy cơ NSĐ tương ứng. Do đó, để xây
dựng bản đồ phân vùng nguy cơ NSĐ, cần phân
chia các giá trị nguy cơ NSĐ trên bản đồ giá trị số
thành các cấp nguy cơ phù hợp. Nguyên tắc và
phương pháp phân chia các cấp nguy cơ từ các giá
trị nguy cơ NSĐ như sau: ngưỡng để phân cấp bản
đồ nguy cơ NSĐ giá trị số được lựa chọn sau khi
thực hiện phân tích xử lý thống kê, xây dựng
đường cong tích lũy xác suất (biểu đồ thống kê tích
luỹ nguy cơ NSĐ giá trị số). Cấp nguy cơ NSĐ rất
thấp thể hiện ở vùng đó rất ít xảy ra NSĐ, hoặc có
xảy ra với khối lượng rất nhỏ. Cấp nguy cơ NSĐ
thấp phản ánh ở vùng đó NSĐ có thể xảy ra ít,
hoặc xảy ra với khối lượng, quy mô nhỏ. Cấp nguy
cơ NSĐ trung bình là vùng có thể xảy ra NSĐ với
quy mô và khối lượng vừa. Cấp nguy cơ NSĐ cao
là vùng có thể xảy ra NSĐ nhiều, quy mô và khối
lượng lớn. Cấp nguy cơ NSĐ rất cao là vùng có thể
xảy ra NSĐ rất nhiều, quy mô rất lớn.
Bản đồ nguy cơ NSĐ khu vực Tây Nguyên tỷ
lệ 1:250.000 thể hiện ở 5 cấp nguy cơ khác nhau:
rất cao, cao, trung bình, thấp và rất thấp và được
thể hiện trên hình 3. Kết quả thống kê diện tích
227
theo cấp nguy cơ NSĐ và phần trăm ở khu vực Tây
Nguyên thể hiện trên bảng 8. Như vậy, khu vực
Tây Nguyên có nguy cơ NSĐ ở mức độ trung bình.
Tuy nhiên, một số vùng có nguy cơ NSĐ rất cao
như: các huyện Đắk Glei, Ngọc Hồi, Đắk Tô, Kon
Rẫy và thành phố Kon Tum (tỉnh Kon Tum); Chư
Pah, Ayun Pa, Krông Pa, Kbang, An Khê, Chư
Prông và thành phố Pleiku (tỉnh Gia Lai); Cư
Mgar, Krông Pák và thành phố Buôn Ma Thuột
(tỉnh Đắk Lắk); Đắk Song, Đắk Rlấp và thị xã Gia
Nghĩa (tỉnh Đắk Nông); Lạc Dương, Đơn Dương,
Đức Trọng, Bảo Lâm, Di Linh và thành phố Đà Lạt
(tỉnh Lâm Đồng) cần được chú trọng phòng chống,
đảm bảo an sinh xã hội.
quanh các dải có nguy cơ NSĐ rất cao và một số
dải mới trên địa phận các huyện Đắk Glei, Ngọc
Hồi, Đắk Tô, Kon Plông (tỉnh Kon Tum); Chư Pảh,
Pleiku, Chư Sê, Ayun, Krông Pa (tỉnh Gia Lai);
Đắk Glong, Gia Nghĩa, Đắk Rlấp (tỉnh Đắk Nông),
Lạc Dương, Đức Trọng, Bảo Lâm, Di Linh (tỉnh
Lâm Đồng). Vùng có nguy cơ NSĐ trung bình
phân bố khá rộng rãi trên hầu khắp diện tích các
tỉnh Tây Nguyên. Vùng có nguy cơ NSĐ thấp phân
bố ở phía đông tỉnh Đắk Lắk, rải rác ở một số nơi
thuộc tỉnh Đắk Nông và Lâm Đồng. Vùng có nguy
cơ NSĐ rất thấp chủ yếu phân bố ở phía tây tỉnh
Đắk Lắk, trên địa bàn các huyện Buôn Đôn, Ea
Súp (bảng 8).
Bảng 8. Thống kê diện tích theo cấp nguy cơ
nứt sụt đất khu vực Tây Nguyên
Cấp nguy cơ
Rất
cao
Cao
Trung
bình
Thấp
Rất
thấp
Diện tích (ha)
641700 1404000 2315000 865100 244200
Phần trăm (%)
11,73%
25,67%
42,32% 15,82%
4,46%
5. Kết luận
Trên lãnh thổ Tây Nguyên phân bố 91 điểm
NSĐ, trong đó có 21 điểm NSĐ nguy hiểm gây tổn
thất lớn đến đời sống của cư dân địa phương. NSĐ
tồn tại dưới dạng nứt tách vỏ Trái Đất kèm sụt lún,
nứt đất kèm sụt trượt và nứt tách vỏ Trái Đất kèm
phun tro bùn. Các điểm NSĐ chủ yếu bị khống chế
bởi các khe nứt tách có phương á kinh tuyến, khe
nứt cắt có phương ĐB-TN và TB-ĐN. Tai biến
NSĐ phân bố thành dải có phương á kinh tuyến,
ĐB-TN và TB-ĐN. Trong đó, nổi lên các dải
phương á kinh tuyến: Đắk Glei-Ngọc Hồi-Đức Cơ,
Xã Hiếu-Kbang-An Khê, Đắk Song-Đắk Rlấp;
phương TB-ĐN: Ia Sir Sông Ba; phương ĐB-TN:
M’Đrắk-Cát Tiên, Đơn Dương- Di Linh, Ea KaTuy Đức.
Hình 3. Bản đồ nguy cơ nứt sụt đất khu vực Tây Nguyên
Vùng có nguy cơ NSĐ rất cao phân bố thành
những dải kéo dài theo phương á kinh tuyến: Đắk
Glei-Ngọc Hồi-Đức Cơ, Tu Mơ Rông-Đắk Tô-Kon
Tum, Xã Hiếu-Kbang-An Khê-Kông Chrô-Krông
Pa và Đắk Song-Đắk Rlấp; phương TB-ĐN: YalyPleiku-Ayun Pa-Krông Pa và phương ĐB-TN:
M’Đrắk-Cát Tiên, Đơn Dương-Đức Trọng-Di
Linh. Vùng có nguy cơ NSĐ cao phân bố bao
228
Tai biến NSĐ ở Tây Nguyên phát sinh dưới tác
động của nhóm các yếu tố địa chất và kiến tạo.
Trong đó nổi lên các yếu tố đới động lực đứt gãy,
đặc điểm địa chất thạch học, mật độ đứt gãy,
chuyển động Tân kiến tạo và địa chất thủy văn. Áp
dụng phương pháp phân tích so sánh cặp thông
minh và phân tích không gian trong môi trường
GIS cho phép xây dựng bản đồ nguy cơ NSĐ khu
vực Tây Nguyên. Bản đồ nguy cơ NSĐ khu vực
Tây Nguyên được tích hợp từ 5 bản đồ thành phần
và thể hiện ở 5 cấp: nguy cơ rất cao, cao, trung
bình, thấp và rất thấp.
Vùng có nguy cơ NSĐ trung bình phân bố rộng
rãi, chiếm 42,32% diện tích khu vực Tây Nguyên:
Tu Mơ Rông-Đắk Tô-Kon Tum, Krông Pak-Tuy
Đức và Kon Plông-Kon Rẫy-Kon Tum. Vùng nguy
cơ NSĐ thấp và rất thấp phân bố rộng rãi trên địa
bàn các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk và phía nam tỉnh
Lâm Đồng. Vùng có nguy cơ NSĐ cao, rất cao cần
có giải pháp phòng tránh, phân bố ở Đắk GleiNgọc Hồi-Đức Cơ, Xã Hiếu-Kbang-An Khê, Chư
Pah-Ayun Pa-Krông Pa, M’Đrăk-Krông Bông-Đắk
Glong-Cát Tiên, Đơn Dương-Đức Trọng-Di Linh.
[2] Lê Duy Bách, 1982: Tân kiến tạo Việt Nam.
Atlas Quốc gia, Hà Nội.
[3] Phạm Văn Hùng, Nguyễn Trọng Yêm, 1998:
Xác định vùng ảnh hưởng động lực đứt gãy Tân kiến
tạo Nam Trung Bộ. Tc. Các Khoa học về Trái đất,
số 2, tr. 140-144.
[4] Phạm Văn Hùng, 2002: Một số đặc điểm đứt
gãy Tân kiến tạo khu vực Nam Trung Bộ. Luận án
Tiến sĩ, Viện Địa chất.
TÀI LIỆU DẪN
[5] Nguyễn Trọng Yêm, 1991: Về việc dự báo sự
xuất hiện khe nứt hiện đại. Tc. Địa chất, số 203204.
[1] Lê Đức An, 1990: Vài đặc điểm Tân kiến tạo
bán đảo Đông Dương (trên cơ sở nghiên cứu địa
hình). Tc. Các Khoa học về Trái Đất (các công
trình nghiên cứu 1986-1990), tr.74-78.
[6] Saaty, Thomas L., 1994: Fundamentals of
decision making and priority theory with analytic
hierarchy process. Pittsburgh: RWS publications,
527p.
SUMMARY
Research status and warming of the risk of earth subsidence-cracking in the Tay Nguyen area
On the basis of assessment of the status and cause analysis has allowed assessment of the risk of earth
subsidence-cracking in the Tay Nguyen area.
In the Tay Nguyen area occur 91 points of earth subsidence-cracking, including 21 points large losses danger to the
lives of local residents. The distribution of earth subsidence-cracking in the sub-bands have the meridian in the north and
south of NE-SW in the Tay Nguyen area. The bands have the meridian, such as: Dak Glei-Ngoc Hoi-Duc Co, Tu Mo
Rong-Dak To-Kon Tum, Xa Hieu-Kbang-An Khe. The range is the NE-SW: Ea Ka-Dak Mil-Tuy Duc, M’Drak-Lak-Cat
Tien, Don Duong-Di Linh. Also in the Tay Nguyen area distributed earth subsidence -cracking in NW-SE: Yaly-PleikuAyun Pa-Krong Pa.
Earth subsidence-cracking hazard in the Tay Nguyen area is arising under the action of the elements of tectonic and
geology. To this emerging are new elements of neotectonic movement, fault density, fault zone dynamics activities,
geological characteristics of the lithology and hydrogeology.
On the Tay Nguyen area is the risk of moderate earth subsidence-cracking. Areas with very high and high risk of
earth subsidence-cracking are distributed a wide range of 7-10km: Dak Glei-Duc Co, Xa Hieu -Kbang-An Khe, Chu PahAyun Pa-Krong Pa, M’Drak-Krong Bong-Dak Glong-Cat Tien, Dak Song-Dak Rlap, Don Duong-Duc Trong-Di Linh. Areas
at risk of average earth subsidence-cracking are widely distributed east of Kon Tum, Gia Lai province to the west and
north of Dak Lak. Areas at risk of low and very low earth subsidence-cracking are widely distributed in the western of
Dak Lak province, south of Lam Dong province.
229